• Thông báo

    • Bá Kiến®

      Nội quy Lý Học Plaza

      Nội quy này là bản mở rộng Nội Quy - Quy định của Diễn đàn. Khi tham gia mua bán, các thành viên phải tuân theo những quy định sau: Tiêu đề bài viết: Bao gồm: Chỉ dẫn địa lý, Loại hình Mua/Bán, Thông tin mua bán.
      Chỉ dẫn địa lý: Tỉnh/thành nơi mua bán. Hoặc sử dụng định nghĩa có sẵn:TQ: Toàn quốc
      HCM: TP Hồ Chí Minh
      HN: Hà Nội
      [*]Ví dụ: HCM - Bán Vòng tay Hổ Phách ​Nội dung bài viết: Mô tả chi tiết sản phẩm mua/bán
      Bắt buộc phải có thông tin liên lạc, giá Mua/Bán
      Bài mới đăng chỉ được phép up sau 03 ngày.
      Thời gian up bài cho phép: 01 ngày 01 lần.
      Các hành vi vi phạm nội quy này sẽ bị xóa bài hoặc khóa tài khoản mà không cần báo trước.

Leaderboard


Popular Content

Showing most liked content on 06/09/2011 in Bài viết

  1. TRUYỆN SỰ TÍCH CHÚ CUỘI VÀ GIẢI MÃ CHUYỂN ĐỐI TỐN KHÔN. Thiên Đồng - Bùi Anh Tuấn Thành viên nghiên cứu Phong thủy Lạc Việt Trung tâm Nghiên cứu Lý học Đông Phương. Trong kho tàng truyện cổ tích Việt, những câu chuyện cổ sinh động giúp cho bao thế hệ trẻ em Việt Nam mở rộng những thế giới tưởng tượng huyền ảo lung linh, mở rộng nhận thức thế giới quan thông qua những hình tượng và nội dung đầy uyên áo. Nhưng đằng sau nội dung của các câu truyện cổ không thiếu sự ẩn tàng những minh triết cổ Đông phương. Và cũng từ cái nhìn minh triết ấy, một ẩn ngữ cho việc di cung hoán vị Tốn – Khôn trên Bát quái Hậu thiên của cổ thư để đi đến một nguyên lý hoàn chỉnh là Hậu thiên Lạc Việt phối Hà đồ là một điều có thể hình dung được. Người viết xin trình bày việc hoán vị Tốn – Khôn dựa trên sự giải mã một ẩn ngữ như một thông điệp thông qua câu truyện “Sự tích Chú Cuội” - một câu chuyện nổi tiếng trong kho tàng cổ tích Việt Nam. Nội dung câu chuyện như sau: Ngày xưa ở một miền nọ có một người tiều phu tên là Cuội. Một hôm, như lệ thường, Cuội vác rìu vào rừng sâu tìm cây mà chặt. Khi đến gần một con suối nhỏ, Cuội bỗng giật mình trông thấy một cái hang cọp. Nhìn trước nhìn sau anh chỉ thấy có bốn con cọp con đang vờn nhau. Cuội liền xông đến vung rìu bổ cho mỗi con một nhát lăn quay trên mặt đất. Nhưng vừa lúc đó, cọp mẹ cũng về tới nơi. Nghe tiếng gầm kinh hồn ở sau lưng, Cuội chỉ kịp quẳng rìu leo thoắt lên ngọn một cây cao. Từ trên nhìn xuống, Cuội thấy cọp mẹ lồng lộn trước đàn con đã chết. Nhưng chỉ một lát, cọp mẹ lẳng lặng đi đến một gốc cây gần chỗ Cuội ẩn, đớp lấy một ít lá rồi trở về nhai và mớm cho con. Chưa đầy ăn giập miếng trầu, bốn con cọp con đã vẫy đuôi sống lại, khiến cho Cuội vô cùng sửng sốt. Chờ cho cọp mẹ tha con đi nơi khác,Cuội mới lần xuống tìm đến cây lạ kia đào gốc vác về. Dọc đường gặp một ông lão ăn mày nằm chết vật trên bãi cỏ, Cuội liền đặt gánh xuống, không ngần ngại, bứt ngay mấy lá nhai và mớm cho ông già! Mầu nhiệm làm sao, mớm vừa xong, ông lão đã mở mắt ngồi dậy. Thấy có cây lạ, ông lão liền hỏi chuyện. Cuội thực tình kể lại đầu đuôi. Nghe xong, ông lão kêu lên: - Trời ơi! Cây này chính là cây có phép "cải tử hoàn sinh" đây. Thật là trời cho con để cứu giúp thiên hạ. Con hãy chăm sóc cho cây nhưng nhớ đừng tưới bằng nước bẩn mà cây bay lên trời đó! Nói rồi ông lão chống gậy đi. Còn Cuội thì gánh cây về nhà trồng ở góc vườn phía đông, luôn luôn nhớ lời ông lão dặn, ngày nào cũng tưới bằng nước giếng trong. Từ ngày có cây thuốc quý, Cuội cứu sống được rất nhiều người. Hễ nghe nói có ai nhắm mắt tắt hơi là Cuội vui lòng mang lá cây đến tận nơi cứu chữa. Tiếng đồn Cuội có phép lạ lan đi khắp nơi. Một hôm, Cuội lội qua sông gặp xác một con chó chết trôi. Cuội vớt lên rồi giở lá trong mình ra cứu chữa cho chó sống lại. Con chó quấn quít theo Cuội, tỏ lòng biết ơn. Từ đấy, Cuội có thêm một con vật tinhkhôn làm bạn. Một lần khác, có lão nhà giàu ở làng bên hớt hải chạy đến tìm Cuội, vật nài xin Cuội cứu cho con gái mình vừa sẩy chân chết đuối. Cuội vui lòng theo về nhà, lấy lá chữa cho. Chỉ một lát sau, mặt cô gái đang tái nhợt bỗng hồng hào hẳn lên, rồi sống lại. Thấy Cuội là người cứu sống mình, cô gái xin làm vợ chàng. Lão nhà giàu cũng vui lòng gả con cho Cuội. Vợ chồng Cuội sống với nhau thuận hòa, êm ấm thì thốt nhiên một hôm, trong khi Cuội đi vắng, có bọn giặc đi qua nhà Cuội. Biết Cuội có phép cải tử hoàn sinh, chúng quyết tâm chơi ác. Chúng bèn giết vợ Cuội,cố ý moi ruột người đàn bà vứt xuống sông, rồi mới kéo nhau đi. Khi Cuội trở về thì vợ đã chết từ bao giờ, mớm bao nhiêu lá vẫn không công hiệu, vì không có ruột thì làm sao mà sống được. Thấy chủ khóc thảm thiết, con chó lại gần xin hiến ruột mình thay vào ruột vợ chủ. Cuội chưa từng làm thế bao giờ, nhưng cũng liều mượn ruột chó thay ruột người xem sao. Quả nhiên người vợ sống lại và vẫn trẻ đẹp như xưa. Thương con chó có nghĩa, Cuội bèn nặn thử một bộ ruột bằng đất,rồi đặt vào bụng chó cũng sống lại. Vợ với chồng, người với vật lại càng quấn quít với nhau hơn xưa. Nhưng cũng từ đấy, tính nết vợ Cuội tự nhiên thay đổi hẳn. Hễ nói đâu là quên đó, làm cho Cuội lắm lúc bực mình. Ðã không biết mấy lần, chồng dặn vợ: "Có đái thì đái bên Đông, Đừng đái bên Tây, cây dông lên trời!". Nhưng vợ Cuội hình như lú ruột, lú gan, vừa nghe dặn xong đã quên biến ngay. Một buổi chiều, chồng còn đi rừng kiếm củi chưa về, vợ ra vườn sau, không còn nhớ lời chồng dặn, cứ nhằm vào phía Tây gốc cây quý mà đái. Không ngờ chị ta vừa đái xong thì mặt đất chuyển động, cây đảo mạnh, gió thổi ào ào. Cây đa tự nhiên bật gốc, lững thững bay lên trời. Vừa lúc đó thì Cuội về đến nhà. Thấy thế, Cuội hốt hoảng vứt gánh củi, nhảy bổ đến, toan níu cây lại. Nhưng cây lúc ấy đã rời khỏi mặt đất lên quá đầu người. Cuội chỉ kịp móc rìu vào rễ cây, định lôi cây xuống,nhưng cây vẫn cứ bốc lên, không một sức nào cản nổi. Cuội cũng nhất định không chịu buông, thành thử cây kéo cả Cuội bay vút lên đến cung trăng. Từ đấy Cuội ở luôn cung trăng với cả cái cây quý của mình. Mỗi năm cây chỉ rụng xuống biển có một lá. Bọn cá heo đã chực sẵn,khi lá xuống đến mặt nước là chúng tranh nhau đớp lấy, coi như món thuốc quý để cứu chữa cho tộc loại chúng. Nhìn lên mặt trăng, người ta thấy một vết đen rõ hình một cây cổ thụ có người ngồi dưới gốc, người ta gọi cái hình ấy là hình chú Cuội ngồi gốc cây đa.... 1.Sự Trùng Hợp Với Cung Sức Khỏe Đồ hình dưới đây được một Phong thủy gia Đài Loan công bố vào khoảng những năm 60 của thế kỷ 20. Trên đồ hình này - căn cứ theo Lạc Thư phối Hậu Thiên Văn Vương - quan niệm rằng: Cung Khảm - chính Bắc = Sự Nghiệp. Cung Cấn - Đông Bắc = Tri Thức. Cung Chấn - Chính Đông = Sức Khỏe. Cung Tốn - Đông Nam = Hôn Nhân. Cung Ly - Chính Nam = Danh tiếng - Địa vị. Cung Khôn - Tây Nam = Phú Quý. Cung Đoài - Chính Tây = Con cái. Cung Càn - Tây Bắc = Quí Nhân. Tuy nhiên, trên cơ sở Hậu thiên Lạc Việt Phối Hà Đồ mà nhà nghiện cứu Nguyễn Vũ Tuấn Anh đã chỉnh lý từ việc chuyển đổi Tốn - Khôn thì cung Chấn, phương Đông với ý nghĩa Sức Khỏe vẫn không thay đổi. Ta xem đồ hình sau: Cung Khảm - chính Bắc = Sự Nghiệp. Cung Cấn - Đông Bắc = Tri Thức. Cung Chấn - Chính Đông = Sức Khỏe. Cung Tốn - Tây Nam = Hôn Nhân. Cung Ly - Chính Nam = Danh tiếng - Địa vị. Cung Khôn - Đông Nam = Phú Quý. Cung Đoài - Chính Tây = Con cái. Cung Càn - Tây Bắc = Qúy Nhân. Như vậy, trên đồ hình Bát quái Hậu thiên không kể Lạc Việt hay cổ thư, phương Đông thuộc dương Mộc ứng với quái Chấn, hình tượng của cây to và theo Bát cung thì cung Chấn đông phương ứng với cung Sức Khỏe, theo phong thủy bát trạch không kể cổ thư hay Phong thủy Lạc Việt. Sự trùng hợp khi trong cây chuyện kể chi tiết quan trọng được thể hiện chính là cây đa, cũng là một loại cây to và sống lâu năm,là loại cây thuốc giúp con người "cải tử hoàn sinh". Ta hãy đọc lại đoạn sau: Dọc đường gặp một ông lão ăn mày nằm chết vật trên bãi cỏ, Cuội liền đặt gánh xuống, không ngần ngại,bứt ngay mấy lá nhai và mớm cho ông già! Mầu nhiệm làm sao, mớm vừa xong, ông lão đã mở mắt ngồi dậy. Thấy có cây lạ, ông lão liền hỏi chuyện. Cuội thực tình kể lại đầu đuôi. Nghe xong ông lão kêu lên: - Trời ơi! Cây này chính là cây có phép "cải tử hoàn sinh" đây. Thật là trời cho con để cứu giúp thiên hạ. Con hãy chămsóc cho cây nhưng nhớ đừng tưới bằng nước bẩn mà cây bay lên trời đó! Sự mạnh và yếu, khỏe và bệnh, chết và sống, là trạng thái thể chất tiêu cực và tích cực đều thuộc phạm trù “sức khỏe”. Vì vậy, hình tượng quái Chấn dương mộc thuộc là cung Sức Khỏe trùng khớp với nội dung câu truyện có yếu tố cây đa thần dược chữa bệnh và “cải tử hoàn sinh”. Nói rồi ông lão chống gậy đi. Còn Cuội thì gánh cây về nhà trồng ở góc vườn phía đông, luôn luôn nhớ lời ông lão dặn, ngày nào cũng tưới bằng nước giếng trong Quan trọng ở chi tiết, Cuội trồng cây ở “ góc vườn phía đông”. Như vậy phương vị, tượng quái và ý nghĩa của cung đã được định vị rõ ràng và trùng khớp với hình tượng trọn vẹn quái Chấn, Dương mộc, cung Sức Khỏe và Đông phương. Sách “ Nhập môn Chu Dịch dự đoán học” của tác giả Thiệu Vĩ Hoa, trang 46 có đoạn: “Tượng Chấn Chấn là sấm, là đế vương, là con trai cả,là chủ, là tổ, là tông, là ông, là chư hầu, là bách quan, là kẻ sĩ, là chồng, là hành nhân, là đồ vật chính, là vương thần, là quân tử, là trăm thứ ngũ cốc, là tiền đồ rộng lớn, là đường bằng phẳng, là cỏ dại, là cây thấp, làlăng, là ngựa, là hưu lộc, là cái làn, là gót chân, là ngón cái, là dày, là đâmvào, là trống, là ra, là sống, là ban đầu, là bên trái, là dần dần, là đi, là làm, là khởi đầu, là bôn ba, là sống lại, là phấn chấn, là giơ lên, là kính trọng, là cấm, là đầu, là uy, là nhân nghĩa, là kinh sợ, là nói, là cười, là kêu, là âm thanh,là lời cáo, là vui, là kế giữ, là xuất chinh.” Một sự ngẫu nhiên rõ ràng ngay trong chú giải ý nghĩa quái Chấn của sách“ Nhập môn Chu Dịch dự đoán học” của tác giả Thiệu Vĩ Hoa, cũng thể hiện một ý nghĩa tương đồng với nội dung câu truyện nói về công dụng hiệu lực của cây thần có khả năng cứu chữa “cải tử hoàn sinh”, chết đi có thể cứu sống lại, là “sống, khởi đầu, sống lại”. Theo quan niệm của nhà nghiên cứu Nguyễn Vũ Tuấn Anh, thuyết Âm Dương Ngũ Hành thuộc nền văn hiến Việt huyền vĩ với lịch sử trải gần 5000 năm, bát quái là ký hiệu siêu công thức trong quan hệ tương tác của vạn vật thì sự tương hợp về hình tượng và ý nghĩa giữa những chi tiết cây thần “Cải tử hoàn sinh” của câu truyện dân gian người Việt và sự giải thích tượng Chấn từ Hán thư là một sự không những trùng hợp mà có thể là một thông điệp phải được giải mã, được chuyển tải từ lâu trong lòng dân tộcViệt thuộc nền văn minh Văn Lang, hướng dẫn cho việc mở ra một bí ẩn của nguyên lý học thuật cổ Đông phương. 2.Thông Điệp Giải Mã Chuyển Đổi Tốn – Khôn: Một chi tiết quý báu đẩy cao trào câu truyện “Chú Cuội” lên cao là câu dặn dò cho người vợ không được bình thường hay quên, được nhắc rõ bằng câu lục bát vần điệu: '"Có đái thì đái bên Đông Đừng đái bên Tây, cây dông lên trời” Chính ngay câu nói thơ này của nhân vật Cuội, người viết cho rằng đây là ẩn ngữ, là chìa khóa cho bí ẩn phải chuyển đổi hai quái Tốn và Khôn.Sự chuyển đổi Tốn – Khôn, cũng như việc dùng các câu chuyện dân gian Việt Nam để minh họa cho việc chuyển đổi ấy đã được nhà nghiên cứu Nguyễn Vũ Tuấn Anh là người đầu tiên khởi xướng nhằm minh họa thêm cho việc chuyển đổi Tốn - Khôn tạo nên một nguyên lý căn để và hoàn chỉnh trong nguyên lý học thuật cổ Đôngphương, gọi tắt là “Lý học”, là Hậu thiên Lạc Việt phối với Hà Đồ, đã tạo niềm hứng khởi cho người viết khi vô tình nhận ra những sự tương hợp, dường như là mật mã, trong những câu truyện dân gian Việt Nam. Hình ảnh cây thần “cải tử hoàn sinh” đã được xác định với sự trùng hợp là quái Chấn, cung Sức Khỏe và phương Đông là cái mốc cho việc giải mã tiếp theo. Ta lại thử tìm xem trong Hán thư, cụ thể là cuốn “ Nhập môn Chu Dịch dự đoán học” của tác giả Thiệu Vĩ Hoa, trang 45 có đoạn như sau: Tượng Khôn Khôn là đất, là sau, là thần, là vợ, là dân. Là bầy đàn, là số đông, là tiểu nhân, là thị dân, là bọn trộm cướp, là mẹ, là phụ nữ, là dì, là thành trì, là ruộng, là một bang, là nhà cửa, là gia trạch, là trên bộ, là bùn, là bế quan, là bò, là ngưa con, là xe lớn, là hông,là bình đưng, là đức dày, là ngọt, là béo, là thân thể, là cái cung, là mình,là tự mình, là vương (vua nước chư hầu), là yên, là trinh, là lợi, là giàu, là tích tụ, là đến, là dùng, là quy về, là nội dung, là kinh doanh, là dối lận, là mê, là muốn, là cú, là hại, là chết, là tang, là loạn, là chiều tối, là mười năm, là bạn, là tiền tài, là hàng hóa, là vuông vức, là quang minh chính đại,là thuận theo, là được về sau, là có kết thúc, là vô biên cương, là sự nghiệp. Tượng Tốn Tốn là gió, là sương, là trưởng nữ, là trinh nữ, là phụ nữ, là vợ, làngười trong cung, là người đi buôn, là trường mộc, là cỏ tranh, là thuốc, là gà, là cá, là súc vải, là giường, là cây cuốc, là dây, là liên hệ, là bắp đùi,là cánh tay, là tay, là nhìn xuống, là múa, là hát, là giải thoát, là trắng, là cao, là nhập vào, là phục ẩn, là tiến thoái, là không quyết, là mệnh, là hành sự, là hiệu lệnh, là phong tục, là nhìn thấy, là của cải. Qua hai đoạn trích dẫn giải ý nghĩa của tượng quái thì sự trùng hợp giữa hai quái đều có nghĩa là vợ, tương đồng với chi tiết người phụ nữa của chú Cuội là…vợ của Cuội. Như vậy, yếu tố thứ hai để xác định cho chìa khóa giải mã là hình tương vợ của Cuội tức là nguyên nhân cho cao trào câu chuyện. Ta đọc lại lời của Cuội dặn vợ: "Có đái thì đái bên Đông Đừng đái bên Tây, cây dông lên trời” Tượng Khôn là đất và là vợ và tượng Tốn là gió. Mối tương tác để gây nên bi kịch là người vợ và cây thần “Cải tử hoàn sinh” nghĩa là một ẩn ngữ cho biết mối tương quan về vị trí Tốn Khôn mà trong đó vị trí này phải lấy Đông mộc, quái Chấn là mốc. Hình tượng người vợ của Cuội là hình tượng của mối tương tác, tương quan của vị trí hai quái Tốn – Khôn. và hành động “đái” của người vợ là biểu hiện cho hiện tượng chuyển đổi hai Quái Khí này. Truyện có đoạn: Một buổi chiều, chồng còn đi rừng kiếm củi chưa về, vợ ra vườn sau, không còn nhớ lời chồng dặn, cứ nhằm vào phía Tây gốc cây quý mà đái. Không ngờ chị ta vừa đái xong thì mặt đất chuyển động, cây đảo mạnh, gió thổi ào ào. Cây đa tự nhiên bật gốc, lững thững bay lên trời. Ta thử nhìn lại đồ hình Bát quái Hậu Thiên được cho là Văn Vương tạo tác, được cổ thư ghi lại. Hậu thiên Văn Vương Rõ ràng với đồ hình Hậu Thiên Văn Vương thì quái Khôn ở Tây Nam về phía phương Tây, quái Tốn và quái Chấn là hình ảnh ứng với gió ở phía dưới mà cây ở bên trên, trùng khớp với chi tiết của chuyện là: Có đái thì đái bên Đông. “Đừng đái bên Tây, cây dông lên trời” và chi tiết: “Không ngờ chị ta vừa đái xong thì mặt đất chuyển động, cây đảo mạnh, gió thổi ào ào.Cây đa tự nhiên bật gốc, lững thững bay lên trời”. Gió dưới cây trên là hình ảnh của “Cây đa tự nhiên bật gốc, lững thững bay lên trời.”. Hình tượng hai quái Chấn - Cây (trên) và Tốn - Gió (dưới) dưới đây, rỏ ràng tương thích với hiện tượng gió thổi "Cây đa tự nhiên bật gốc, lững thững bay lên trời”. Như vậy hậu quả của việc đái không đúng chổ của người vợ làm cây bay lên trời và câu dặn dò như cảnh báo “Đừng đái bên Tây, cây dông lên trời” Bởi Cuội đã biết hậu quả như thế nào khi thực hiện hành động đó. Như vậy, đó là một lời nhắn nhủ cho hậu thế rằng vị trí Tốn nằm phía dưới Chấn là một vị trí hoàn toàn không hợp lý cho một nguyên lý lý thuyết về sự sắp xếp Bát quái trong lý thuyết Âm Dương Ngũ Hành. Hình tượng người vợ do vậy phải chính là tượng Khôn.Và nếu người vợ (của Cuội), “đái” đúng vị trí ở hướng Đông thì sao? Ta thử nhìn đồ hình Bát quái Hậu Thiên Lạc Việt, do nhà nghiên cứu Nguyễn Vũ Tuấn Anh đã chuyển đổi, được minh chứng qua những tác phẩm “Thời Hùng Vương qua truyền thuyết và huyềnthoại”, "Tìm về cội nguồn Kinh Dịch"; "Thời Hùng Vương và bí ẩnLục thập hoa giáp"; Tính minh triết trong tranh dân gian Việt Nam" như sau: HậuThiên Lạc Việt: Hậu thiên Lạc việt phối Hà Đồ Hình tượng Chấn - Cây (trên) và Khôn - Đất (dưới) là hình tượng tương thích cho hiện tượng cây trụ trên mặt đất. Đồ hình rỏ ràng thể hiện quái Chấn tượng mộc, tức là cây, đang đứng trên đất là quái Khôn - đất ở phía dưới. Hình tượng này là một hình tượng hoàn toàn hợp lý cho quy luật tự nhiên là “Cây ở trên đất”. Nghĩa là một kết cục tốt đẹp, trọn vẹn và đúng đắn đem lại hạnh phúc cho thế gian khi cây thần “Cải tử hoàn sinh” không bay lên trời, nếu người vợ “đái đúng chổ”. Từ đây cũng thấy rằng hiển thị một mật ngữ rỏ ràng nhắn gửi, nếu quái Khôn để đúng vị trí về phương Đông, phía dưới quái Chấn, vì hành động đái của nữ là phải ngồi, ám chỉ phía dưới, thì một sự hoàn chỉnh trọn vẹn của nguyên lý học thuật cổ đông phương sẽ được mở ra. Nghĩa “cải tử hoàn sinh” ở đây khi cây thần còn ở lại thế gian, tức là cây trụ trên đất, nhiên hậu làm hiển hiện một ý nghĩa rỏ ràng là một sự hồi sinh cho một lý thuyết hoàn chỉnh,cho một nền văn hiến với một nguyên lý học thuật cổ nhất quán, hoàn chỉnh, thể hiện qua một nguyên lý căn để là Hậu thiên Lạc Việt phối Hà đồ. 3. Lời Kết: Người viết cho rằng truyện “Sự Tích chú Cuội” là một câu truyện dân gian đặc sắc,chứa đựng dấu hiệu hay một ẩn ngữ cho một minh triết Đông phương chứng tỏ chủ nhân đích thực cho Nguyên Lý học thuật cổ Đông phương thuộc nền văn minh Văn Lang rực rỡ 5000 năm ở phía nam sông Dương Tử. Phải chăng thần dược "cải tử hoàn sinh" cũng có thể mang một ẩn nghĩa rằng sẽ có sự phục hồi lý thuyết âm dương ngũ hành một cách có hệ thống và hoàn chỉnh, xứng đáng là một lý thuyết thống nhất, trên cơ sở của những "di tích" văn hóa phi vật thể còn để lại trong văn hóa Việt. Và nếu sự ẩn ngữ đó đúng như vậy thì rỏ ràng đó là một sự hồi sinh cho một lý thuyết cổ xưa đã bị thất truyền, như thế sự trùng lấp so với lời tiên tri của nhà tiên tri Vanga nổi tiếng: "Một lý thuyết cổ xưa sẽ quay trở lại với nhân loại trong tương lai." Sự giải mã không được xem như một bằng chứng khoa học, nhưng là một sự gợi mở cho việc tìm lại cội nguồn, việc tìm lại một nền văn minh đã bị lãng quên trong quá khứ. Ngày mười chín tháng Ngọ năm Tân Mẹo. Thiên Đồng Tham khảo: - Hà Đồ trong văn minh Lạc Việt, tg Nguyễn Vũ Tuấn Anh, NXB Tổng Hợp TpHCM 2007 - Thời Hùng Vương qua truyền thuyết và huyền thoại, tg Nguyễn Vũ Tuấn Anh, NXB Tổng Hợp TpHCM 2003 - Tính minh triết trong tranh dân gian Việt Nam. - Phong thủy Lạc Việt, tg Nguyễn Vũ Tuấn Anh, lưu hành nội bộ. - Dịch học ngũ linh, tg Cao Từ Linh, NXB Văn Hóa Thông Tin, 2006. - Nhập môn chu dịch dư đoán học, tg Thiệu Vỹ Hoa, NXB Văn Hóa Thông Tin, 1996. - www.wikipedia.org
    3 likes
  2. Gửi hoangnt, Thiên Đồng đã giải mã truyện "Trí khôn ta đây", xin trích lại bài đã đăng trong diễn đàn này từ tháng 3/2010. ================================== Truyện cổ tích Việt Nam và sự liên hệ Bát Trạch Lạc Việt Thiên Đồng Bùi Anh TuấnThành viên nghiên cứu Phong thủy Lạc Việt Trung tâm Nghiên cứu Lý học Đông Phương Trong tác phẩm, công trình nghiên cứu như: “Thời Hùng Vương qua truyền thuyết và huyền thoại”, "Tìm về cội nguồn Kinh Dịch"; "Thời Hùng Vương và bí ẩn Lục thập hoa giáp"; Tính minh triết trong tranh dân gian Việt Nam" của nhà nghiên cứu Nguyễn Vũ Tuấn Anh, ông đã lấy những câu truyện cổ tích, truyền thuyết và huyền thoại để làm cảm hứng cho sự giải mã và phân tích những bí ẩn của nguyên lý học thuật cổ Đông Phương (gọi tắt là Lý Học Đông Phương) thuộc nền văn hiến Việt trải gần 5000 năm lịch sử. Sự giải mã phân tích ấy, mặc dù ông không coi là bằng chứng chứng minh cho những sự liên quan, nhưng cũng đặt ra nhiều chiêm nghiệm thú vị. Lấy cảm hứng theo cách tiếp cận và giải mã của nhà nghiên cứu Nguyễn Vũ Tuấn Anh và được sự hướng dẫn gợi ý của ông, người viết xin đưa ra đây thêm một vài trường hợp trong kho tàng truyện cổ tích Việt Nam, để trả lời câu hỏi: “Phải chăng những di sản văn hóa dân gian Việt là những chiếc chìa khóa giải mã những hiện tượng bí ẩn của Lý Học Đông Phương?” Xin tham khảo qua hai câu truyện cổ tích sau đây. Câu truyện thứ nhất: Hổ và Mèo "Ngày xưa, muông thú đều tôn Mèo là Thầy, vì Mèo rất tài giỏi, dạy cho muông thú các môn võ nghệ để phòng thân và tồn tại. Như trâu biết húc, gà biết mổ và đá, ngựa biết chạy và lúc gặp kẻ thù nguy hiểm thì biết đá hậu…Khi ấy Hổ chưa biết ngón nghề võ nào, thấy muông thú đều được học thì cũng muốn lắm, ngặt nỗi không biết làm sao, bèn tìm cách học lén khi những con thú học với Mèo. Mèo một lần bắt gặp, Hổ thấy thế xin: -Xin Thầy thương tình mà truyền cho các ngón nghề võ nghệ phòng thân. Nghe thế Mèo đồng ý nhận Hổ làm học trò mà ngày ngày truyền dạy võ nghệ, truyền tất cả các ngón nghề. Mỗi lần học, Hổ lại nài nỉ: -Thầy còn tuyệt nghệ nào xin truyền hết đi. Thế là Mèo lại truyền môn “ra oai” bằng những chiêu gầm gừ, gầm rống và xù lông làm đối phướng khiếp vía kinh hải. Ngày qua ngày, Hổ đã học được hết tất cả các môn võ nghệ. Muông thú đều sợ hãi và đều thất bại dưới móng vuốt của Hổ mỗi khi tỉ thí. Tính tham lam và cao ngạo lên cao, nhìn lại thấy chỉ còn Mèo là Hổ chưa tỉ thí và nghĩ Mèo quá nhỏ thó so với Hổ, nếu thắng Mèo nữa thì sẽ là Chúa tể muôn loài. Vậy là Hổ thẳng thừng thách đấu với Mèo. Mèo nghe tin ấy không tỏ vẻ sợ hải hay ngạc nhiên. Đến ngày thi đấu, Mèo đến, Hổ đã chờ sẳn. Không nói không rằng, Hổ liền bất ngờ tấn công Mèo. Mèo biết trước, nhanh nhẩu né tránh và trèo thoăn thoắt lên cây cao. Hổ bị bất ngờ nên tức lắm, ở dưới gốc cây gầm rống vang cả núi rừng. Mèo ở trên cây cười và bảo: -Meo mẻo mèo meo, ta còn võ trèo, ta chẳng dạy cho. Hổ càng tức điên, nhưng cố bình tĩnh, nhại lại Mèo, nghiến răng nói: -Meo mẻo mèo meo, ta bắt được Mèo ta ăn cả cứt! Từ ấy, Hổ tuy mạnh mẽ nhưng lại không biết leo trèo, cũng từ ấy dòng dõi nhà Mèo đều phải đào hố và giấu phân của mình." Câu chuyện kết thúc với hình ảnh một con hổ dưới gốc cây đang ấm ức trước con mèo trên cành cây. Dường như nội dung duy nhất chuyển tải của câu truyện, xét trên quan niệm truyền thống ngàn đời của người Việt Nam, là muốn nhắc nhở người đời rằng phải biết “tôn sư trọng đạo”, “uống nước nhớ nguồn”. Điều này dường như đã đủ đối với bao nhãn quan xã hội nhân văn. Nhưng lạ lùng thay, khi bằng nhãn quan của lý thuyết Âm Dương Ngũ Hành thuộc nền Văn Hiến Việt thì sự trùng khớp mang tính ngẫu nhiên thú vị. Trong mười hai cung Địa Chi, người xưa quy định, Dần Mão thuộc mùa Xuân, thuộc Mộc, câu chuyện kết thúc với hình ảnh gồm 3 yếu tố Hổ - Dần, Mèo – Mão và Cây – Mộc, môt sự trùng khớp với quan niệm Dần – Mão – Mộc thuộc Đông phương. Khi quán xét thêm ba yếu tố này trên nguyên lý Hậu thiên Lạc Việt phối Hà Đồ trong 24 sơn hướng Bát trạch Lạc Việt sẽ thấy như sau: Mão trụ tại phương chính Đông thuộc Dương Mộc, độ số là 3 Dương trên Hà Đồ và quái Chấn chủ quản chính Đông phương. Hình ảnh con Mèo trèo lên cây cao trùng khớp với Mão trụ ở Đông phương và cây cao to đã phát triển là Dương Mộc. Vì ý nghĩa Mèo có khả năng trèo lên cây cao to lớn trong câu chuyện nên có thể chứng tỏ sự biểu đạt ý nghĩa của việc gắn kết mật thiết hiễn nhiên Mão – Mộc, chính Đông phương. Còn lại là hình ảnh con Hổ ngồi dưới gốc cây, vì không học được khả năng leo trèo. Hổ là Dần, thuộc phương Đông Bắc âm Mộc thuộc thứ phương, độ số là 8 Âm trên Hà Đồ. Hổ và Mèo tạo thành sự đối lập Âm Dương rỏ rệt trong cùng hành Mộc, Mão – Mèo đại diện cho chính Đông phương dương Mộc, Hổ - Dần đại diện cho thứ phương Âm Mộc. So với sự tương quan Hổ - Dần, Mão – Mèo thì Dần đứng hàng thứ 3 trong 12 địa chi, cũng tương ứng với sơn Dần là sơn Dương và Mão đứng hàng thứ 4 trong 12 địa chi, tương ứng với sơn Mão Âm trong 24 sơn Bát Trạch Lạc Việt. Theo nguyên lý “Âm đi lên, dương đi xuống”, “ Âm cao dương thấp” thì Mão – Mèo là Âm thể hiện trong câu chuyện Mèo có khả năng trèo lên cao, Hổ - Dần thuộc Dương thể hiện trong câu chuyện là không học được khả năng trèo lên cao và phải ngồi ở dưới dốc cây, ở dưới thấp. Câu truyện Hổ và Mèo kể chuyện Hổ đi học võ nghệ để có được khả năng và sức mạnh , đó là muốn nhấn mạnh sức mạnh và tri thức, cũng như sức mạnh của tri thức. Lạ lùng thay sự trùng lấp ý nghĩa này khi xét trong Mệnh Cung Bát Trạch truyền bao đời nay thì 2 cung Tri Thức và Sức Khỏe nằm liền nhau Tri Thức thuộc Cấn âm Mộc, cung có Dần ở, Sức Khỏe (Sức Mạnh) thuộc Chấn dương Mộc, cung có Mão trụ. Có sức khỏe chưa chắc đã mạnh, điều này chắc chắn đúng và được thể hiện ngay trong nội dung câu truyện, Mèo không thể thắng được sức mạnh võ biền của Hổ nên đã nhanh nhảu trèo lên cây. Đây là sự thể hiện của sức mạnh trí tuệ linh hoạt khi tri thức chỉ là phương tiện để nhằm mục đích đạt được cái cao hơn. Vậy cái cao hơn là gì? Câu truyện chắc hẳn không chỉ chuyển tải ý nghĩa đạo lý “tôn sư trọng đạo” mà ở chiều sâu còn gửi gắm hàm ý thâm trầm hơn khi quán xét theo lý Dịch. Sách “ Nhập môn Chu Dịch dự đoán học” của tác giả Thiệu Vĩ Hoa, trang 46 có đoạn: “Tượng Chấn Chấn là sấm, là đế vương, là con trai cả, là chủ, là tổ, là tông, là ông, là chư hầu, là bách quan, là kẻ sĩ, là chồng, là hành nhân, là đồ vật chính, là vương thần, là quân tử, là trăm thứ ngũ cốc, là tiền đồ rộng lớn, là đường bằng phẳng, là cỏ dại, là cây thấp, là lăng, là ngựa, là hưu lộc, là cái làn, là gót chân, là ngón cái, là dày, là đâm vào, là trống, là ra, là sống, là ban đầu, là bên trái, là dần dần, là đi, là làm, là khởi đầu, là bôn ba, là sống lại, là phấn chấn, là dơ lên, là kính trọng, là cấm, là đầu, là uy, là nhân nghĩa, là kinh sợ, là nói, là cười, là kêu, là âm thanh, là lời cáo, là vui, là kế giữ, là xuất chinh.” Cùng trích từ sách “ Nhập môn Chu Dịch dự đoán học” của tác giả Thiệu Vĩ Hoa, trang 47 có viết: “Tượng Cấn Cấn là núi, là đá, là cát, là miếu thờ, là môn đình, là cung thất, là thành trì, là nhà trọ, là ngõ hẻm, là đường tắt, là huyệt, là gò đồi, là thung lũng, là khô, là thiếu nam, là quân tử, là hiền nhân, là người thâm trầm, là đệ tử, là tiểu nhân, là cô đơn, là trẻ thơ ngây, là chúa, là lỗ mũi, là tay, là ngón tay, là lưng, là ngày cuối tháng, là đêm, là đuôi, là da, là hổ, là báo, là chuột, là ngôi sao nhỏ, là ngày kết thúc, là gỗ nhỏ, là quả to, là ngô, là hoa lệ, là ngừng, là thận trọng, là tiết lễ, là chấp chính, là dẫn dắt, là chọn lấy, là cầu tìm, là đưa dắt, là nạp vào, là nắm lấy, là nhiều, là dày, là trung thành thật thà, là tích đức, là biết nhiều, là tin, là nhớ đến, là nhỏ là xấu hổ, là nghỉ, là nhàn, là ở, là thôi, là đề phòng, là ngôi thứ.” Hình ảnh Mèo trên cây và Hổ dưới đất đại diện cho quẻ Chấn bên trên và Cấn bên dưới, xét theo cảm ứng tượng quẻ. Theo nội dung và hoàn cảnh câu chuyện thì trong nhiều nghĩa của tượng Chấn thì nghĩa là tổ, là quân tử, là nhân nghĩa là phù hợp với nội dung và hoàn cảnh câu chuyện, vì mèo là người dạy cho muôn loài võ nghệ, đem cái tri thức, kiến thức, sở học của mình mà giúp cho muôn loài tồn tại và tiến triển và chỉ có người có cái tâm bao dung rộng lớn đầy nhân nghĩa mới làm được đều đó luôn cả đối với học trò, dù biết trước sẽ là phản đồ. Điều này rỏ ràng hơn khi nghĩa của quẻ Cấn là hổ, là đệ tử,là tiểu nhân, là cầu tìm, là tích đức. Hổ đã tìm điến để cầu học với Mèo và được Mèo truyền thụ võ nghệ, là truyền thụ tri thức, nhưng Hổ lại không chịu tích đức, không hiểu ra được điều nhân nghĩa mà luôn dùng võ lực, oai danh, những điều đã học được để đe dọa trấn áp thiên hạ, muôn loài, một khi tham vọng lợi ích, quyền lực che mờ cả lý trí thì sẳn sàng quay trở ngược lại đánh người thầy, phản thầy một cách thẳng thừng. Tham vọng của kẻ nghịch đồ càng cao, càng mờ mắt vì danh, vì lợi, vì quyền hạn thì tất yếu dẫn đến những hành động bỉ ổi xuất phát từ tư tưởng hèn kém mà mọi việc hạ cấp hay ti tiện nào cũng có thể làm, đó là: “-Meo mẻo mèo meo, ta bắt được Mèo ta ăn cả cứt!” Rõ ràng và đích thật, đây là hạn tiểu nhân. Quẻ Cấn bao gồm hai nghĩa song song là “tiểu nhân” và “quân tử”, nhưng cũng hàm chứa nghĩa “tích đức”, do vậy tiểu nhân hay quân tử chỉ khác nhau một chữ “Đức” mà thôi. Khi lấy hai tượng Chấn chồng lên Cấn thì được quẻ Lôi Sơn Tiểu Quá, một sự trùng lấp lại hiện ra so với nội câu truyện, khi xét nghĩa quẻ sau đây: Trích từ sách “ Chu Dịch dự đoán học” của tác giả Thiệu Vĩ Hoa, trang 52: “Tiểu quá, Quá tức là vượt qua. Có thể vượt qua điều thường tình mới đủ sức làm việc lớn.” Hổ muốn thị oai, muốn làm chúa tể muôn loài, nghĩa là muốn mưu cầu việc lớn, nhưng Hổ không thể vượt qua được điều rất bình thường là thu phục lòng muôn loài, không chịu tích đức, không hiểu ra được cái tuyệt chiêu tối thượng cần phải cầu học là Nhân Nghĩa, do vậy mà Hổ phải chịu thất bại trước Mèo, trước sức mạnh linh hoạt của tri thức, của lòng Nhân Nghĩa. Và Mèo được muôn loài tôn và trọng không phải vì tài nghệ hay sức mạnh võ biền mà là vì cái tâm Nhân Nghĩa truyền thụ đạo học. Trích từ sách “Dịch học ngũ linh”, tác giả Cao Từ Linh, NXB Văn Hóa Thông Tin, trang 678 có đoạn: Lời quẻ “Tiểu Quá, hanh lợi, trinh, khả tiểu sự bất khả đại sự, phi điểu di chi âm, bất nghi thượng, nghi hạ, đại cát” (Quá nhưng việc nhỏ, hanh thông hợp đạo chính thì lợi, có thể làm việc nhỏ, không thể làm việc lớn. Con chim bay để tiếng kêu lại, không nên lên cao mà nên xuống thấp, được vậy thì đại cát.) Hổ không thể đánh bại được Mèo đã thể hiện cái “không thể làm việc lớn”. Vì Tiểu Quá là vượt qua những việc nhỏ, những chuyện thường tình thế sự thì mới có thể nghĩ đến việc lớn hơn. “bất nghi thượng, nghi hạ đại cát” ý chỉ người nào việc náy mà tùy theo khả năng của mình vậy. Phải chăng câu chuyện ngoài việc muốn chuyển tải ý nghĩa nhắn nhủ rằng tri thức của nền văn minh phương Đông chỉ truyền lại cho những ai học được điều Nhân Nghĩa và nền tảng của tri thức phương Đông này lấy Nhân Nghĩa làm chủ đạo, mà còn chuyển tải hàm ý xác định tính chất hai cung Cấn và Chấn là hai cung Tri Thức và Sức Khỏe (sức mạnh) trong Mệnh cung Bát Trạch, muốn nhấn mạnh núi tri thức phương đông là phương tiện hướng đến một sức mạnh lý trí linh hoạt của Đông phương dựa trên nền tảng Nhân Nghĩa sâu sắc. Truyện thứ 2, tựa: Trí khôn ta đây!(hay là sự tích bộ lông vằn của hổ, hàm răng trên bị khuyết của trâu) "Một con cọp từ trong rừng đi ra, thấy một anh nông dân cùng một con trâu đang cày dưới ruộng. Trâu cặm cụi đi từng bước, lâu lâu lại bị quất một roi vào mông. Cọp lấy làm ngạc nhiên. Ðến trưa, mở cày, Cọp liền đi lại gần Trâu hỏi: - Này, trông anh khỏe thế, sao anh lại để cho người đánh đập khổ sở như vậy? Trâu trả lời khẽ vào tai Cọp: - Người tuy nhỏ, nhưng người có trí khôn, anh ạ! Cọp không hiểu, tò mò hỏi: - Trí khôn là cái gì? Nó như thế nào? Trâu không biết giải thích ra sao, đành trả lời qua quýt: - Trí khôn là trí khôn, chứ còn là cái gì nữa? Muốn biết rõ thì hỏi người ấy! Cọp thong thả bước lại chỗ anh nông dân và hỏi: - Trí khôn của anh đâu, cho tôi xem một tí có được không? Anh nông dân suy nghĩ một lát rồi nói: - Trí khôn tôi để ở nhà. Ðể tôi về lấy cho anh xem. Anh có cần, tôi sẽ cho anh một ít. Cọp nghe nói, mừng lắm. Anh nông dân toan đi, lại làm như sực nhớ ra điều gì bèn nói: - Nhưng mà tôi đi khỏi, lỡ anh ăn mất trâu của tôi thì sao? Cọp đang băn khoăn chưa biết trả lời thế nào thì anh nông dân đã nói tiếp: - Hay là anh chịu khó để tôi buộc tạm vào gốc cây này cho tôi được yên tâm. Cọp ưng thuận, anh nông dân bèn lấy dây thừng trói cọp thật chặt vào một gốc cây. Xong anh lấy rơm chất chung quanh Cọp,rồi châm lửa vừa đốt vừa cầm gậy nện Cọp tới tấp và quát: - Trí khôn của ta đây! Trí khôn của ta đây! Trâu thấy vậy thích quá, bò lăn ra mà cười, không may hàm trên va vào đá, răng gãy không còn chiếc nào. Mãi sau dây thừng cháy đứt, Cọp mới vùng dậy ba chân bốn cẳng chạy thẳng vào rừng không dám ngoái nhìn lại. Từ đó, cọp sinh ra con nào trên mình cũng có những vằn đen dài, vốn là dấu tích những vết cháy, còn trâu thì chẳng con nào có răng ở hàm trên cả." Câu truyện cổ tích này được truyền khẩu từ bao đời nay, đã làm cho biết bao tâm hồn trẻ thơ, luôn cả những người lớn lấy làm thú vị vì cách giải thích một nguyên do lông cọp bị vằn và hàm răng trâu không có hàm trên, qua đó cũng diễn đạt ý nghĩa sâu hơn của câu truyện là trí khôn chỉ có ở con người và trí khôn không phải là điều gì lớn lao lắm mà chỉ đơn giản là việc ứng xử với thiên nhiên với môi trường xung quanh một cách linh hoạt. Đây là điều thật lý thú và thú vị đem đến từ câu chuyện. Điều này chỉ dừng lại ở đây thôi thì sẽ không còn gì đáng nói, nhưng bất ngờ thay đằng sau nó dường như chuyển tải một bí ẩn khác, khi nhìn dưới nhãn quan Lý học đông phương. Câu truyện vỏn vẹn chỉ có 3 nhận vật: Cọp, Trâu và Người, trong đó Người và Cọp là hai nhân vật chính, còn Trâu là nhân vật phụ, nhân vật trung gian. Điều trùng hợp ở đây là Cọp và Trâu là hai hình tượng trùng lấp với Sửu và Dần khi liên hệ trên 24 sơn Bát Trạch Lạc Việt, cung Cấn, thuộc phương Đông Bắc, Âm Mộc trên Hà Đồ phối Hậu Thiên Lạc Việt. Bát quái mệnh cung từ cổ thư chữ Hán Bát quái mệnh cung Lạc Việt Nội dung chính của câu truyện kể về việc Hổ thắc mắc muốn hiểu biết trí khôn là gì. Lạ lùng thay, ngay trên Bát quái mệnh cung được lưu truyền bao đời nay, cũng như đồ hình Bát Quái mệnh cung được một một Phong thủy gia người Đài Loan công bố thì cung Tri Thức lại ở ngay cung Đông Bắc, gồm 3 sơn Sửu – Cấn – Dần. Và theo sự phục hồi trên cơ sở Hậu Thiên Lạc Việt phối Hà Đồ thì Sửu – Cấn – Dần thuộc phương Cấn âm Mộc, vẫn là phương Đông Bắc.Tri Thức là Trí Khôn là khả năng cao cấp nhất chỉ có con người mới có được, và yếu tố con người xuất hiện trong câu truyện không phải là dư thừa hay không hợp lý khi trong cố thư có câu: “Thiên sinh ư tý, địa tịch ư sửu, nhân sinh ư dần” Tạm dịch là trời sinh ra ở hội tý, đất sinh ra ở hội sửu và người sinh ra ở hội dần. Vì vậy vấn đề “trí khôn là cái gì? ở đâu?” được giải quyết trong phần cuối câu truyện xảy ra giữa Cọp và Người, hình ảnh của Dần và Nhân. Sự trùng lấp Trâu - Cọp với Sửu – Dần và nội dung câu truyện giải thích trí khôn là gì với tương đương nghĩa của tính chất cung Đông Bắc là Tri Thức là một sự trùng họp tuyệt vời, có thể là một bí ẩn chuyển tải trong kho tàng truyện cổ tích của người Việt, trong văn hóa của người Việt lưu truyền một cách vô thức qua bao thế hệ, có thể đây là một thông điệp ngàn đời muốn nhắn nhủ rằng chủ nhân đích thực của nền văn minh phương Đông là con Rồng cháu Tiên với nền văn hiến 5000 năm huyền vĩ. Hai câu truyện “Hổ và Mèo” và “Trí khôn của ta đây” trùng lặp với sự giải mã theo cơ sở Lý học Đông phương, xác nhận hai phương Chấn và Cấn là hai cung Sức Khỏe và Tri Thức mà qua đó chủ nhân đích thực của nền văn minh phương Đông muốn nhắn gửi một điều sâu thẩm rằng tri thức Đông phương là sức mạnh linh hoạt và biến chuyển (qua hình ảnh Mèo và Người) không dể bị áp chế bởi sức mạnh võ biền (hình ảnh Hổ) và nền tảng của nền văn minh ấy là đạo lý Nhân Nghĩa sâu sắc. Có thể đây không phải là một chứng minh, nhưng ít ra cũng là một cách nhìn đầy thú vị của riêng người viết, khi liên hệ những yếu tố của kho tàng văn hóa Việt với tri thức Lý học Đông phương nhằm tạo một sự hứng khởi trên con đường nguyên cứu khám phá trong biến bờ Lý học Đông phương huyền vĩ. Không dám cho rằng là đúng khi tính bao hàm của cơ sở Lý học Đông phương quá rộng lớn so với sự nhận thức hạn hữu của con người. Tp HCM, tháng 3-2010 Thiên Đồng ----------------------------------------------------- Tham khảo: - Hà Đồ trong văn minh Lạc Việt, tg Nguyễn Vũ Tuấn Anh, NXB Tổng Hợp TpHCM 2007 - Thời Hùng Vương qua truyền thuyết và huyền thoại, tg Nguyễn Vũ Tuấn Anh, NXB Tổng Hợp TpHCM 2003 - Tính minh triết trong tranh dân gian Việt Nam. - Phong thủy Lạc Việt, tg Nguyễn Vũ Tuấn Anh, lưu hành nội bộ. - Dịch học ngũ linh, tg Cao Từ Linh, NXB Văn Hóa Thông Tin, 2006. - Nhập môn chu dịch dư đoán học, tg Thiệu Vỹ Hoa, NXB Văn Hóa Thông Tin, 1996. - www.wikipedia.org trích lại từ: http://diendan.lyhoc...trach-lac-viet/
    2 likes
  3. LẠI XE MÁY Sở hữu xe máy vào hàng cao nhất thế giới không phải lý do và nguyên nhân để cấm sở hữu xe máy. Nếu thế thì tỷ lệ xe hơi trên đầu người ở Hoa Kỳ cũng vào hàng cao nhất thế giới, sao chính phủ Hoa Kỳ không cấm đi xe hơi cho đỡ kẹt xe. Trong khi đó tại Hoa Kỳ tình trạng kẹt xe vẫn có. Theo Lý học Đông phương thì về lý thuyết không có kẹt xe. Nạn kẹt xe chỉ xảy ra khi: Tốc độ tương đối giữa các phương tiện không ổn định; không tuân thủ luật đi đường, tương quan hình thức giữa các phương tiện không đồng đều...vv....Chứ không phải tại xe máy. Lý học qua cổ thư quan niệm rằng: "Âm thịnh, Dương suy tắc loạn. Dương thịnh Âm suy tắc bế". Lý học được phục hồi nhân danh nền văn hiến Việt xác định rằng: "Dương tịnh, Âm động" - Ứng dụng trong trường hợp này, phân loại đối tượng: Con đường có trước là Dương trước và là Dương tịnh - thì sự biến đổi không theo kịp đà phát triển của xã hội khiến các phương tiện vận động trên con đường có sẵn là Âm sau và Âm Động - phát triển so với con đường ở nội đô cũ các thành phố lớn vốn không đổi (Dương tịnh) thành ra "Âm thịnh Dương suy tắc loạn". Tức là nạn kẹt xe xảy ra. Việc phát triển xe hơi và đưa thêm xe buyt, xe điện vào, trong điều kiện tương quan con đường trong nội độ các thành phố cũ làm cho Âm cực thịnh khiến nạn kẹt xe càng nhiều hơn.Tiếp tục so sánh giữa cả con đường với phương tiện giao thông được coi là Âm so với quy định quy chế là Dương. "Dương thịnh, Âm suy tắc bế". Do đó quy định, quy chế phải bảo đảm cân bằng Âm Dương - tức là phù hợp với điều kiện của Âm đang tồn tại trên thực tế: Gồm con đường cũ trong nội đô các T/P lớn và xe gắn máy là phương tiện chính và chủ yếu - thì sẽ cẽ có sự cân bằng Âm Dương tức giải quyết được nạn kẹt xe. Còn nếu giải pháp không cân bằng thì sẽ ảnh hưởng đến sinh hoạt xã hội và không tạo điều kiện cho sự phát triển xã hội (Dương thịnh Âm suy tắc bế). Bởi vậy theo tôi, biện pháp chính là phân lại tuyến giao thông, hạn chế bớt đèn tín hiệu ở các ngã tư (gây chia cắt các con đường trở nên ngắn hơn), phân khu vực lưu thông của ba loại xe: Xe buýt: vòng ngoài cùng các thành phố lớn là chủ yếu, xe hơi vòng giữa là chủ yếu và cuối cùng là xe gắn máy được chay trong phạm vi toàn thành phố, hoặc bị giới hạn ở những đương cao tốc. Ngoài ra còn cần giải quyết hàng loạt những vấn đề "ăn theo", như quảng bá luật pháp, qui định quy chế cụ thể cho từng laoị xe...vv....
    2 likes
  4. 10 nốt ruồi may mắn trên cơ thể 21:03 | 27/08/2011 Khám phá xem bạn có những nốt ruồi may mắn dưới đây hay không? 1. Nốt ruồi giữa đỉnh đầu: Bạn may mắn nếu sở hữu nốt ruồi này. Tuy nhiên, đây là nốt ruồi rất khó phát hiện, trừ khi bạn bị… hói! 2. Nốt ruồi giữa trán: Đây là người gặp nhiều may mắn trong cuộc sống; trưởng thành sớm. 3. Nốt ruồi giữa cằm: Người này thời trẻ đã có suy nghĩ thấu đáo, làm việc cẩn trọng, dễ chiếm được lòng tin của người khác. 4. Nốt ruồi vuông góc dưới môi: Là người có năng lực, quyết đoán. 5. Phần giữa 2 bên cằm có nốt ruồi: Là người tài giỏi, có tư tưởng cầu tiến, dễ thành công. Tuy nhiên, đôi khi lại nói ra những lời làm tổn thương người khác. 6. Nốt ruồi ở nách: Người này có thể không giỏi kiếm tiền nhưng khi cơ hội đến, họ biết tận dụng để làm giàu, đồng thời có khả năng quản lý tài chính tốt. 7. Nốt ruồi ở đầu gối: Là cao thủ trong việc nắm giữ tiền bạc. 8. Nốt ruồi ở mông: Là người có năng khiếu nghệ thuật. 9. Phần giữa 2 bên trán có nốt ruồi: Đây là đối tượng kết hôn lý tưởng. 10. Dưới rốn có nốt ruồi: Là người đáng yêu mặc dù năng lực sáng tạo không cao. (Theo Rayli.com
    1 like
  5. Dạo này thơ chị lại nhiễm lão ăn mày rồi say liên tục Cứ say đi chị nha! "Nâng chén tiêu sầu càng sầu thêm " Chẳng biết mai đây rồi chị lại thành Túy Bà Bà cũng nên
    1 like
  6. 1. KVV=> phải nói sao nhỉ, bạn sẽ nhận được hàng, nhưng món hàng không như mình mong muốn. 2. Khoảng 5-6 tuần nữa sẽ nhận được.
    1 like
  7. 1. CTH => được tuyển vào làm giảng viên. 2. TXK => Hao tốn tiền bạc, chắc có lót lót kha khá. 3. KTC => khoảng 46 chai.
    1 like
  8. Tôi biết ngày mai anh có hẹn Cuộc tình đang đến đỉnh thần tiên Anh đùa một chút tim tôi nát Say nữa lưng trời Tôi muốn quên Anh cứ hẹn đi, Tôi trốn đời Một mình tim khóc thấy chơi vơi Nâng ly rượu đắng tâm hồn vỡ Anh cứ cười đi với cuộc dời Tôi nghỉ tình yêu không dối gian Tình là nguyên thủy chốn nhân gian Bây giờ tôi cắn nhầm trái đắng Lỡ khóc, lỡ cười chuyện thế nhân 06/09/11 Hc
    1 like
  9. Chủ đích là nước cờ cao mang tính nghiệp vụ thôi! Chứ 1 mình hung thủ không thực hiện được trọng án này đâu! Nguyên tắc của C.A là đánh lừa hoặc rung chà cá nhảy.
    1 like
  10. Lão ăn mày ta nghi ngờ về thông tin của cô bé cỏ xanh . Không biết bạn lấy đâu ra thông tin về cô bé này 1- Năm 2002 tuổi này mới tốt nghiệp PTTH. Như vậy cô bé này ko học TH PT mà đi học may sau khi tốt nghiệp trung học cơ sở ( hết lớp 9) từ năm 1999 . ( Năm 2002 tốt nghiệp trung cấp May & thiết kế thời trang) hay vừa đi học PTTH vừa học trung cấp may và TKTTr 2- Trong khi làm nghề may học đại học tại chức ngành kinh tế ( như vậy chưa có học chương trình PTTH ( tốt nghiệp THPT) liệu có thể học được trình độ ĐH không nhỉ ?) . Lá số hy hữu này nếu được cả 2 người để kiểm chứng thì hay biết mấy Bạn có cách nào giúp lão ăn mày này có thông tin chính xác cả 2 người để Lão ăn mày kiểm chứng nhỉ? Vì nếu lá số này ko có cách thợ may. Lá số thợ may lại thấy có ở Cỏ xanh sinh vào giờ Hợi kia!
    1 like
  11. bạn là con trưởng trong gia đình phai không ?
    1 like
  12. Vàng đang "rẻ" hơn sau tháng "điên loạn"?Thứ Ba, 06/09/2011 - 09:12 (Dân trí) - Sau một thời gian dài đứng cao hơn so với giá vàng thế giới đến hàng triệu đồng mỗi lượng, giá vàng trong nước mở cửa sáng nay có vẻ như đã rẻ hơn đến 100.000 đồng/lượng so với giá vàng thế giới. >> Thị trường vàng đã tìm lại sự thăng bằng? Thị trường vàng trong nước đã lấy lại được thăng bằng? Lúc 9h05, giá vàng SJC niêm yết ở mức 47,77 – 47,97 triệu đồng/lượng, không thay đổi nhiều so với giá chốt chiều qua. Chênh lệch giữa giá mua bán cũng chỉ còn 200 nghìn đồng/lượng. Vàng SBJ của Sacombank-SBJ cũng niêm yết ở mức 47,81 - 47,99 triệu đồng/lượng. Thậm chí, vàng SJC tại Phú Quý bán ra chỉ có 47,95 triệu đồng/lượng. Trong khi đó, giá vàng giao ngay trên thị trường thế giới ở mức 1.900 USD/ounce. Nếu lấy tỷ giá bình quân 21.000 đồng/USD thì hiện giá vàng thế giới quy đổi phải trên 48 triệu đồng/lượng. Như vậy, nếu tính cả thuế và các chi phí khác thì hiện giá vàng trong nước đang rẻ hơn giá vàng thế giới. Trên thị trường thế giới, dự đoán tăng trưởng kinh tế chậm lại và mối lo ngại vấn đề nợ công tại châu Âu càng tồi tệ hơn đã đẩy giá vàng giao dịch phiên đầu tuần vọt qua ngưỡng 1.900 USD/ounce. Chốt phiên giao dịch tại thị trường London, giá vàng giao ngay tăng 17,82 USD, tương đương 0,9% lên mức 1.900,7 USD/ounce. Trước đó, có thời điểm, giá vàng đã vọt lên mức 1.903,52 USD/ounce, gần với mức kỷ lục 1.913,5 USD/ounce lập được hôm 23/8. Giá vàng giao kỳ hạn tháng 12 trên sàn Comex cũng tăng 26 USD, tương đương 1,4% lên mức 1.902,9 USD sau khi leo lên mức 1.908,4 USD/ounce. Hôm qua, thị trường Mỹ nghỉ lễ Lao động. Chứng khoán châu Âu phiên hôm qua đã sụt mạnh khi đảng của đương kim Thủ tướng Angela Merkel đã bị mất điểm trong cuộc bầu cử bởi cách thức xử lý cuộc khủng hoảng nợ công của bà Merkel. Giá vàng tăng mạnh còn do ảnh hưởng từ những dữ liệu về việc làm của Mỹ công bố hôm 2/9 khiến giới đầu tư lo ngại nền kinh tế đang đứng trước một cuộc suy thoái mới. Edel Tully, chuyên gia phân tích của UBS AG cho rằng, tác động từ báo cáo hôm thứ 6 vừa qua của Mỹ cùng với những căng thẳng trong vấn đề giải quyết nợ công tại châu Âu sẽ hỗ trợ giá vàng tăng mạnh. Đồng quan điểm này, James Moore, một nhà phân tích tại TheBullionDesk.com ở London cũng cho rằng, vàng sẽ được hỗ trợ như một nơi trú ẩn an toàn của giới đầu tư. Tuy nhiên, đà tăng của giá vàng bị hạn chế phần nào sau khi có thông tin sàn Thượng Hải sẽ tăng hạn mức giao dịch và tỷ lệ ký quỹ đối với vàng và bạc từ ngày 9/9. Nhật Linh
    1 like
  13. Lão Ăn mày này nghĩ bé phải chờ đến tháng 10AL thì cùng nhau ca khúc yêu thương.
    1 like
  14. hí... thế là em đoán sai rùi . Chúc mừng gđ anh Thích Đủ Thứ đã có đủ nếp đủ tẻ - đúng như mong muốn longphibacai càng ngày càng lên tay, giỏi thía , mình về luyện tiếp thôi
    1 like
  15. Ví dụ minh họa về khả năng tranh phá hợp của các địa chi. Sau đây là ví dụ trong chủ đề "Khả năng tranh phá hợp của các địa chi" tại mục "Tử Bình-Bát Tự" này. "Đây là ví dụ thứ 3 trong "Kỳ 4. Lấy lộc là tài" cuốn "Bát Tự Trân Bảo" của Đoàn Kiến Nghiệp được dịch bởi Phiêu Diêu trong mục Tử Bình bên trang web: "Huyền Không Lý Số". "Ví dụ. Khôn tạo Đinh Mùi - Kỷ Dậu - ngày Tân Sửu - Tân Mão Mệnh này rất nhiều người lấy tài làm dụng thần, mão mộc cực suy, không có nguyên thần sanh trợ, về lý không thể làm dụng thần. Lấy lộc làm dụng thần, tài sát là kỵ thần. Vận quý sửu, năm canh thìn, cùng với người khác hợp tác đầu tư sản xuất dụng cụ chữa bệnh, kiếm rất nhiều tiền. Sửu thổ sanh kim, thìn thổ sanh kim, canh kim cũng không phải là kỵ thần lắm, là hợp tác với nhiều người đa phần về tiền bạc mà thôi." Qua đoạn dịch này tôi không hiểu khi ông Đoàn Kiến Nghiệp đã "Lấy lộc làm dụng thần, tài sát là kỵ thân" thì dĩ nhiên ta phải hiểu Kiêu Ấn (Thổ) và Tỷ Kiếp (Kim) phải là hỷ dụng nhưng câu sau ông ta lại viết "canh kim cũng không phải là kỵ thần lắm" . Vậy thì ở đây phải hiểu như thế nào khi ông ta lấy Dậu (Kim) là Lộc làm dụng thần thì Canh không phải là Kim thuộc hành của dụng thần hay sao ? Sau đây tôi sẽ chứng minh điều ông ta luận "Sửu thổ sanh kim, Thìn thổ sanh kim" nên phát Tài xem có đúng hay không ? Sơ đồ minh họa "Vận quý sửu, năm canh thìn" như sau: Trong tứ trụ có bán hợp của Sửu trụ ngày với Dậu trụ tháng hóa Kim nhưng trụ ngày bị trụ năm thiên khắc địa xung nên Kim cục bị phá chỉ còn tổ hợp. Do vậy điểm hạn và điểm vượng của ngũ hành trong vùng tâm như trên. Năm Canh Thìn thuộc đại vận Quý Sửu, tiểu vận Giáp Tý và Ất Sửu. Ta xét tiểu vận Giáp Tý. 1 - Tứ trụ này có Thân quá vượng mà Kiêu Ấn lại nhiều nhưng không thể là cách Kim độc vượng bởi vì có Đinh trụ năm được lệnh là Quan Sát của Thân Kim, vì vậy dụng thần đầu tiên phải là Tài tinh/ Ất tàng trong Mão trụ giờ. 2 - Theo sơ đồ trên ta thấy lực hợp của Sửu đại vận với Tý tiểu vận là (3 (của Sửu đại vận tại Sửu đại vận) + 2.5,1 (2 lần tại Thìn lưu niên)).1/3 (lấy điểm trung bình).1/2 đv (vì Sửu phải hợp với Dậu trụ tháng) = 2,2 đv là nhỏ hơn lực hợp của Thìn thái tuế với Tý tiểu vận là 8 (của Thìn tại Thìn thái tuế).1/2 đv (vì Thìn cũng phải hợp với Dậu trụ tháng) = 4 đv. Ta xét tiếp lực hợp của Tý tiểu vận với Thìn lưu niên là (5,1 (của Tý tại Sửu đại vận) + 2.3 (2 lần tại Thìn thái tuế)).1/3 (lấy điểm trung bình).1/2 đv (vì Tý phải hợp với Sửu đại vận) = 1,85 đv là lớn hơn lực hợp của Dậu trụ tháng với Thìn thái tuế là (9 (của Dậu tại lệnh tháng) + 4,2 (tại Sửu đại vận) + 2.3 (2 lần tại Thìn thái tuế).1/4 (lấy điểm trung bình). 1/3 (vì Dậu hợp với 2 Sửu và Thìn thái tuế) đv = 1,6 đv. Xin sửa lại đoạn này như sau: Lực xung của Mùi trụ năm với Sửu đại vận là (6 (tại lệnh tháng) + 3 (tại Sửu đại vận) + 2.5,1 (tại lưu niên)).1/4 đv (tính điểm vượng trung bình).1/2 đv (vì Mùi phải hợp với Mão trụ giờ)= 2,4 đv là lớn hơn lực hợp của Dậu với Sửu đại vận. Lực xung của Mùi với Sửu trụ ngày bị giảm thêm 1/3 (vì cách 1 ngôi) và giảm 2/3 (vì Mùi phải sinh cho Dậu gần), vì vậy nó chỉ còn 2,4.2/3.1/3 đv = 0,53 đv là nhỏ hơn lực hợp của Dậu với Sửu trụ ngày. Lực xung của Mão trụ giờ với Dậu trụ tháng là (3,1 + 5,1 + 2.8).1/4 (điểm trung bình).1/2 (vì Mão hợp với Mùi trụ năm).1/3 (vì Mão phải khắc Sửu gần).2/3 (vì Mão xung Dậu cách 1 ngôi) đv = 0,67 đv là nhỏ hơn lực hợp của 2 Sửu với Dậu. Do vậy Thìn thái tuế hợp được với Tý tiểu vận hóa Thủy còn Dậu trụ tháng chỉ hợp được với Sửu trụ ngày không hóa được Kim vì trụ năm Đinh Mùi thiên khắc địa xung với trụ ngày Tân Sửu và đại vận Quý Sửu nhưng nó vẫn còn bán hợp (vì 2 Sửu trong 2 trụ của bán hợp bị thiên khắc địa xung giống nhau). Từ đây ta thấy chính Thủy cục này có tác dụng xì hợi Thân vượng để sinh cho Tài mộc, vì vậy mà người này đã phát tài (Kỷ trụ tháng mặc dù được lệnh nhưng suy nhược ở tuế vận nên lực khắc của nó với Quý đại vận và Thủy cục không mạnh (lực khắc này bị giảm 3/4), vì vậy Quý vẫn khắc được Đinh trụ tháng và cùng Thủy cục có thể sinh cho Tài mộc). Qua ví dụ này chứng tỏ ông Đoàn Kiến Nghiệp không hề biết đến cách tính các lực tranh phá hợp của các địa chi nên mới ngộ nhận lấy Lộc (Kim) làm dụng thần cho Tứ Trụ này mà Thân kim đã quá vượng còn thêm "Sửu thổ sinh Kim, Thìn thổ Sinh Kim", Kim cực vượng thì phát tài kiểu gì khi Tứ Trụ không phải cách Kim Độc Vượng?". Chú ý: Một chi khắc với một chi hay với nhiều chi thì các lực khắc này không bị giảm và chúng bằng nhau (trừ khi khắc chi cách ngôi hay phải sinh hay khắc với chi....như lý thuyết đã đề cập), còn một chi hợp với nhiều chi thì lực hợp của chi này với mỗi chi chỉ bằng phần thương của lực khắc của nó chia cho số chi mà nó phải hợp và riêng mỗi lực hợp này bị giảm thêm nếu .....(như lý thuyết đã đề cập).
    1 like
  16. Ghi nhầm chữ Cát thành chữ Mộc.. Thanks bác. Có dịp em sẽ ra thăm cháu nó, ngồi lai rai.
    1 like
  17. Xin đính chính lại phần định nghĩa về ít, đủ và nhiều của Kiêu Ấn trong chương trình trung cấp ở đoạn sau: "4 – Xác định dụng thần khi Thân vượng Mẫu 1 : Kiêu ấn không có trong tứ trụ Dụng thần đầu tiên phải là... (xem giả thiết 44/ ở chương 14). (44/ - Nếu Thân vượng mà trong tứ trụ không có kiêu ấn (tức là không có cả các can tàng tạp khí của nó) thì dụng thần đầu tiên phải lấy tài tinh, sau mới lấy đến thực thương (nếu không có tài), cuối cùng mới phải lấy đến quan sát (nếu không có tài và thực thương).) Mẫu 2 : Kiêu ấn nhiều trong tứ trụ Kiêu ấn nhiều chỉ khi: a – Trong tứ trụ có ít nhất 3 can chi là kiêu ấn. b – Trong tứ trụ chỉ có 2 can chi là kiêu ấn nhưng có ít nhất 1 trong 2 can chi này có điểm vượng vùng tâm từ 6đv trở lên. Câu b này xin sửa lại là : b – Trong tứ trụ chỉ có 2 can chi là kiêu ấn nhưng phải có ít nhất 1 trong chúng được lệnh. c – Chi tháng là kiêu ấn mà nó ở trạng thái Lộc hay Kình dương tại lệnh tháng có trên 6đv trong vùng tâm. Dụng thần đầu tiên là .... (xem giả thiết 45/ ở chương 14). ((45/ - Nếu Thân vượng mà kiêu ấn nhiều thì dụng thần đầu tiên phải là tài tinh (kiêu ấn nhiều có khả năng xì hơi hết quan sát để sinh cho Thân, vì vậy quan sát đã trở thành kỵ thần, còn tài tinh có khả năng chế ngự kiêu ấn và làm hao tổn Thân), sau mới là thực thương (vì nó có khả năng xì hơi Thân vượng và làm hao tổn kiêu ấn), cuối cùng mới là quan sát.) Mẫu 3 : Kiêu ấn đủ trong tứ trụ Kiêu ấn đủ chỉ khi : a – Trong tứ trụ chỉ có 2 can chi kiêu ấn và điểm vượng ở vùng tâm của chúng nhỏ hơn 6đv. Câu a này xin sửa lại là: a – Trong tứ trụ chỉ có 2 can chi kiêu ấn đều thất lệnh. b – Trong tứ trụ chỉ có chi tháng là kiêu ấn và nó ở trạng thái Lộc hay Kình dương của lệnh tháng có 6đv ở vùng tâm. Dụng thần đầu tiên phải là… (xem giả thiết 46/ và 47/ ở chương 14). (46/ - Nếu Thân vượng mà kiêu ấn đủ và thực thương không nhiều thì dụng thần đầu tiên phải là thực thương (vì khả năng để chế ngự Thân vượng của quan sát là tốt nhưng nó chỉ bằng khả năng mà kiêu ấn xì hơi quan sát để sinh cho Thân là xấu), sau mới là tài tinh, cuối cùng mới là quan sát. 47/ - Nếu Thân vượng mà kiêu ấn đủ, thực thương không nhiều mà quan sát hợp với Nhật nguyên thì dụng thần đầu tiên vẫn có thể là quan sát.)" Định nghĩa về ít, đủ hay nhiều của Thực Thương hay các thần khác cũng tương tự. Thành thật xin lỗi mọi người.
    1 like
  18. Năm nay đào mồ chôn tình năm tới nhờ người nữ mà "lừa" được một anh 28 tuổi lên xe hoa là đẹp. Số chịu khó làm công chức. Vợ chồng bảo nhau mà sống lấy chồng muộn cho may, lấy sớm chia tay sớm .
    1 like