• Thông báo

    • Bá Kiến®

      Nội quy Lý Học Plaza

      Nội quy này là bản mở rộng Nội Quy - Quy định của Diễn đàn. Khi tham gia mua bán, các thành viên phải tuân theo những quy định sau: Tiêu đề bài viết: Bao gồm: Chỉ dẫn địa lý, Loại hình Mua/Bán, Thông tin mua bán.
      Chỉ dẫn địa lý: Tỉnh/thành nơi mua bán. Hoặc sử dụng định nghĩa có sẵn:TQ: Toàn quốc
      HCM: TP Hồ Chí Minh
      HN: Hà Nội
      [*]Ví dụ: HCM - Bán Vòng tay Hổ Phách ​Nội dung bài viết: Mô tả chi tiết sản phẩm mua/bán
      Bắt buộc phải có thông tin liên lạc, giá Mua/Bán
      Bài mới đăng chỉ được phép up sau 03 ngày.
      Thời gian up bài cho phép: 01 ngày 01 lần.
      Các hành vi vi phạm nội quy này sẽ bị xóa bài hoặc khóa tài khoản mà không cần báo trước.

Leaderboard


Popular Content

Showing most liked content on 30/08/2011 in all areas

  1. Việt - Trung nhất trí tuyệt đối không dùng vũ lực Cập nhật lúc :8:51 AM, 30/08/2011 (ĐVO) Trong Đối thoại chiến lược quốc phòng-an ninh cấp Thứ trưởng lần thứ hai, Việt Nam và Trung Quốc nhất trí nhiều biện pháp thúc đẩy hợp tác quốc phòng song phương và đạt được nhận thức chung trong nhiều vấn đề, góp phần tăng quan hệ hữu nghị hai nước. Dưới sự đồng chủ trì của Trung tướng Nguyễn Chí Vịnh, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng Việt Nam và Thượng tướng Mã Hiểu Thiên, Phó Tổng tham mưu trưởng Quân giải phóng nhân dân Trung Quốc, Đối thoại chiến lược quốc phòng-an ninh cấp Thứ trưởng lần thứ hai đã diễn ra tốt đẹp hôm 29.8 tại Bắc Kinh (Trung Quốc). . Đẩy mạnh hợp tác quốc phòng Phát biểu tại Đối thoại, Trung tướng Nguyễn Chí Vịnh và Thượng tướng Mã Hiểu Thiên nhất trí đánh giá dưới sự chỉ đạo của phương châm 16 chữ và tinh thần 4 tốt, quan hệ giữa hai Đảng, hai nhà nước tiếp tục phát triển phù hợp với khuôn khổ quan hệ đối tác hợp tác chiến lược toàn diện. Quan hệ kinh tế và thương mại phát triển nhanh. Giao lưu văn hóa, giao lưu nhân dân liên tục được mở rộng. Hàng nghìn sinh viên Việt Nam đang học tập tại Trung Quốc. Với đà phát triển chung của quan hệ hai nước, hợp tác quốc phòng Việt - Trung cũng có những bước tiến mạnh mẽ. Hai bên thường xuyên trao đổi đoàn các cấp nhằm tạo sự tin cậy, hiểu biết nhau, xây dựng quan hệ gắn bó giữa quân đội hai nước. Trong đó nổi bật là chuyến thăm chính thức Trung Quốc của Đại tướng Phùng Quang Thanh, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Việt Nam vào đầu năm 2010, chuyến thăm chính thức Việt Nam của Thượng tướng Lương Quang Liệt và dự Hội nghị Bộ trưởng Quốc phòng các nước ASEAN mở rộng (ADMM+) cuối năm 2010, và chuyến thăm chính thức Việt Nam của Thượng tướng Quách Bá Hùng, Phó chủ tịch quân ủy trung ương Trung Quốc vào đầu năm 2011. Quan hệ giao lưu, hợp tác, phối hợp giữa Hải quân, Biên phòng và quân khu giáp biên hai nước được đẩy mạnh. Các cuộc tuần tra liên hợp trên biển và trên bộ đạt được kết quả tốt. Việc trao đổi học viên quân sự tăng cả số lượng và chuyên ngành… Trên nền tảng tốt đẹp đó, tại Đối thoại chiến lược quốc phòng-an ninh Việt - Trung lần này, hai bên thống nhất tiếp tục đẩy mạnh hợp tác trong nhiều lĩnh vực như tăng cường trao đổi đoàn, sớm hoàn thành đường dây nóng giữa hai Bộ Quốc phòng, mở rộng trao đổi đào tạo học viên quân sự dài hạn và ngắn hạn. Trung Quốc nhất trí chia sẻ kinh nghiệm với Việt Nam trong việc tham gia lực lượng gìn giữ hòa bình của Liên hợp quốc... Hai bên cũng cho rằng cần đẩy mạnh thông tin tuyên truyền để chiến sĩ và nhân dân Việt - Trung hiểu rõ mối quan hệ hữu nghị truyền thống, hợp tác thiết thực và cùng có lợi giữa quân đội và nhân dân hai nước. Tại cuộc Đối thoại, hai bên cũng dành thời gian trao đổi và tình hình Trung Đông - Bắc Phi và đặc biệt là việc đẩy mạnh can dự của các nước lớn vào khu vực Châu Á - Thái Bình Dương: “Chúng ta cần nghiên cứu kỹ hệ lụy của sự can dự này để xây dựng một khu vực hòa bình, ổn định và không bị bất ngờ”, Trung tướng Nguyễn Chí Vịnh nói, tuy nhiên, ông cho rằng: “Nguyên nhân quan trọng nhất dẫn đến sự can dự này là do các nước nội bộ khu vực phát sinh vấn đề với nhau”. Cần xử lý vấn đề biển Đông theo luật pháp quốc tế Với tinh thần xây dựng, Trung tướng Nguyễn Chí Vịnh và Thượng tướng Mã Hiểu Thiên đã thẳng thắn trao đổi những vấn đề còn khác biệt trong quan hệ hai nước. Theo Thượng tướng Mã Hiểu Thiên, hiện nay điểm bất đồng và nhạy cảm nhất trong quan hệ hai nước là tranh chấp chủ quyền ở Biển Đông, hai nước cần xử lý thỏa đáng vấn đề này vì đại cục quan hệ Việt - Trung và ổn định khu vực: “Hòa bình hai bên đều có lợi. Đối đầu hai bên đều thiệt hại”, Thượng tướng Mã Hiểu Thiên nói. Khẳng định Việt Nam luôn coi trọng quan hệ đại cục với Trung Quốc và mong muốn tìm được giải pháp “cùng thắng”, Trung tướng Nguyễn Chí Vịnh đã nêu rõ vấn đề Biển Đông có ba khía cạnh khác nhau nhưng liên quan mật thiết, đó là Tuyên bố chủ quyền của các nước liên quan; Xử lý mối quan hệ giữa Việt Nam - Trung Quốc; Xử lý trên các diễn đàn đa phương. Việt Nam và Trung Quốc có nhiều tuyên bố chủ quyền vào nhiều thời điểm, nội dung và phạm vi khác nhau. Giải quyết vấn đề phải tôn trọng lịch sử nhưng dù thế nào đi chăng nữa cũng phải tuân thủ luật pháp quốc tế. Thứ trưởng Quốc phòng Việt Nam cho rằng, các vấn đề trên Biển Đông cần được xử lý theo luật pháp quốc tế - đó là, những vấn đề mang tính quốc tế theo Luật Biển phải giải quyết trên bình diện quốc tế, những vấn đề liên quan đến nhiều nước cần phải giải quyết giữa những nước liên quan, những vấn đề liên quan đến hai nước cần giải quyết song phương. Những tranh chấp chủ quyền giữa Việt Nam - Trung Quốc, rõ ràng cần giải quyết hai nước với nhau, theo luật pháp quốc tế và công khai minh bạch: “Việt Nam không có ý định quốc tế hóa các vấn đề giữa Việt Nam và Trung Quốc vì chính lợi ích của chúng tôi”, Trung tướng Nguyễn Chí Vịnh nói. Trung tướng Nguyễn Chí Vịnh cũng chia sẻ, để bảo vệ và xây dựng đất nước chỉ có một con đường là giữ gìn độc lập tự chủ, chủ quyền lãnh thổ và quan hệ tốt với cộng đồng thế giới, không thể có những điều đó nếu dựa vào nước này để chống nước kia: “Việt Nam là bạn, là đối tác tin cậy với tất cả các quốc gia trên thế giới. Nhưng nếu Việt Nam cần sự ủng hộ, đồng cảm, hợp tác và phát triển thì còn có ai hơn một nước Trung Quốc Xã hội chủ nghĩa láng giềng, với hơn 1 tỷ 350 triệu dân, đang phát triển, có vị thế và uy tín ngày càng cao trên thế giới, một khi các đồng chí tôn trọng độc lập chủ quyền của Việt Nam và mong muốn Việt Nam cùng phát triển?”. Trung tướng Nguyễn Chí Vịnh cũng nêu bật việc cần phải công khai, minh bạch trên các diễn đàn để nhân dân hai nước và cộng đồng quốc tế hiểu rõ bản chất vấn đề Biển Đông trong mối quan hệ hữu nghị tổng thể giữa hai nước. “Có thông tin đầy đủ và chính xác là nhu cầu của hơn 80 triệu người dân Việt Nam và hơn 1 tỷ 350 triệu người dân Trung Quốc”. "Chúng ta cần làm cho nhân dân hai nước hiểu rõ, giữa Việt Nam và Trung Quốc còn tồn tại vấn đề nhưng hai Đảng, hai Nhà nước đã cam kết xử lý bằng biện pháp hòa bình, theo luật pháp quốc tế, với giải pháp hai bên cùng có thể chấp nhận được” - Trung tướng Nguyễn Chí Vịnh phát biểu, và nhấn mạnh thêm: “Một thực tế hiển nhiên là Trung Quốc cam kết không lấy đất, lấy biển của Việt Nam, và Việt Nam cũng không bao giờ nhượng bộ vô nguyên tắc về chủ quyền. Và Việt Nam cũng không bao giờ dựa vào bất kỳ một nước nào để chống Trung Quốc!”. Việt Nam sẵn sàng hợp tác cùng phát triển với Trung Quốc ở những khu vực thực sự có tranh chấp theo luật pháp quốc tế quy định, và về lâu dài sẽ tìm giải pháp xử lý mà hai bên có thể chấp nhận được, nhưng “trong lúc chưa phân định được, hai bên tuyệt đối không được sử dụng vũ lực và thậm chí cũng không được nghĩ đến việc sử dụng vũ lực”, Trung tướng Nguyễn Chí Vịnh nhấn mạnh. Nhân dịp này, Thượng tướng Lương Quang Liệt, Bộ trưởng Quốc phòng Trung Quốc đã tiếp Đoàn đại biểu quân sự cấp cao Việt Nam. Cùng dự buổi tiếp có Đại sứ Việt Nam tại Trung Quốc Nguyễn Văn Thơ. Trung tướng Nguyễn Chí Vịnh đã chuyển lời thăm hỏi nồng nhiệt của Đại tướng Phùng Quang Thanh tới Thượng tướng Lương Quang Liệt. Bộ trưởng Quốc phòng Trung Quốc khẳng định lại mong muốn giải quyết những vấn đề còn tồn tại giữa hai nước ở Biển Đông bằng biện pháp hòa bình, và cho rằng kết quả tốt đẹp của cuộc Đối thoại sẽ tạo động lực để tiếp tục đẩy mạnh hợp tác quốc phòng Việt - Trung, góp phần tích cực vào việc củng cố và phát triển quan hệ đoàn kết hữu nghị giữa hai nước. Bài và ảnh: Võ Bình ================================== Bởi vậy, tôi đã dự báo trước từ lâu: Không có chiến tranh ở biển Đông.
    4 likes
  2. ========================= Kinh tế thế giới sẽ còn khó khăn trong 7 năm nữaLink: http://cafef.vn/2011...g-7-nam-nua.chn Giá nhà đất tại Anh đã hạ tới 4 tháng liên tiếp. Ông Wolfgang Schaeuble, Bộ trưởng Tài chính Đức, dự báo kinh tế toàn cầu sẽ đương đầu với 7 năm khó khăn bởi kết quả trực tiếp của chính sách thắt chặt tài khóa, quan chức hàng đầu nước Mỹ đặt câu hỏi về tính hiệu quả của các biện pháp thắt chặt ngân sách. Trong buổi họp với sự tham gia của nhiều kinh tế gia đại giải Nobel tại đại học University of St. Gallen tại Thụy Điển, ông khẳng định sẽ mất nhiều năm các biện pháp thắt chặt ngân sách mới phát huy hiệu quả. Ông Schaeuble nói: “Sẽ có thể còn 7 năm khó khăn trước mắt mà kinh tế thế giới phải đương đầu. Cần phải biết cân bằng giữa khó khăn trong ngắn hạn và lợi ích dài hạn.” Bộ trưởng Tài chính Đức nhấn mạnh cần đến sự hợp tác về chính sách kinh tế giữa các nước châu Âu để đảm bảo tăng trưởng trong dài hạn. Ông nói: “Để cân bằng tốt giữa mục tiêu trung và dài hạn, cần đến sự hợp tác về chính sách tài khóa và cải tổ cấu trúc tại Italy, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha và Hy Lạp.” Công ty nghiên cứu về thị trường nhà đất Anh công bố giá nhà tại Anh tháng 8/2011 hạ đến tháng thứ 4 liên tiếp bởi nhu cầu nhà có thể suy yếu hơn trong năm nay. Hometrack công bố giá nhà tại Anh tháng 8/2011 hạ 0,1% so với tháng 7/2011 và hạ 3,7% so với cùng kỳ năm 2010. Tại London, giá nhà tăng 0,1%. Ông Richard Donnell, trưởng bộ phận nghiên cứu tại Hometrack, nhận xét: “Tâm lý người tiêu dùng yếu, áp lực lên thu nhập gia đình và triển vọng kinh tế bất ổn nhiều khả năng sẽ khiến nhu cầu mua nhà giảm mạnh hơn trong suốt khoảng thời gian còn lại của năm. Áp lực giảm giá nhà trong mùa thu sẽ lên cao hơn.” Nhật Vũ Theo TTVN ========================= Thưa Sư phụ, các chuyên gia cũng đã cẩn trọng hơn trong nhận định thay vì mong muốn ổn định tâm lý xã hội với ý chí chủ quan.
    2 likes
  3. Bài 20 - Điểm hạn và khả năng của địa chi Y6 – Điểm hạn và khả năng của địa chi 92/ - Theo “Phương Pháp Tính Điểm Hạn” thì chi đại vận ở trạng thái động đầu tiên, vì vậy nó có thể tác động (như xung, khắc, hình, hại, hợp) với các chi khác đầu tiên, sau đó mới đến các chi trong tứ trụ và chi tiểu vận, cuối cùng mới là Thái tuế (chi của lưu niên). Nếu các chi này tác động được với nhau thì khi đó các chi giống với chúng ở trong tứ trụ (không bị hợp) mới có khả năng như vậy (trừ chi tiểu vận). 1 - Điểm hạn của địa chi 92a/ - Các chi động trong tứ trụ hay giữa tứ trụ với tuế vận xung hay khắc với nhau gần cũng như chi của đại vận xung hay khắc với chi của lưu niên (thái tuế), mỗi lực có 0,3đh nếu chúng không là Thổ, và 0,15đh nếu chúng là thổ (Thìn, Tuất, Sửu, Mùi). Chi đại vận xung hay khắc với chi tiểu vận cũng như chi của tiểu vận xung hay khắc chi của lưu niên chỉ có 0,15đh nếu chúng không là Thổ và 0,07đh nếu chúng là Thổ. Các chi trong tứ trụ xung hay khắc nhau điểm hạn bị giảm ½ nếu chúng cách 1 ngôi và ¾ nếu chúng cách 2 ngôi. 92b/ – Riêng Thái tuế (chi của lưu niên) bị các chi khác (kể cả chi tiểu vận) khắc, mỗi lực có thêm 1đh, còn Thái tuế bị xung (kể cả các chi là Thổ) mỗi lực có thêm 0,5đh. 92c/ – Riêng lệnh tháng (chi của trụ tháng) bị các chi khác khắc gần có thêm 0,5đh, còn nó bị xung gần có thêm 0,25đh. (Chú ý : Các lực xung hay khắc gây ra các điểm hạn này không liên quan đến điểm vượng của chúng). 2 - Các lực xung, khắc hay hợp của các địa chi 93a/ - Ở đây, các chi không cần phải động và các lực này chỉ để xét khả năng tranh hay phá hợp của các địa chi. Các lực này hoàn toàn phụ thuộc vào độ vượng của chúng ở lưu niên (năm cần dự đoán). 93b/ - Các chi trong tứ trụ và chi tiểu vận với các chi ở tuế vận cũng như chi đại vận với chi lưu niên (thái tuế), chúng đều được xem là gần nhau. 93c - Lực xung, khắc hay hợp của các địa chi trong tứ trụ từ khi mới sinh (khi tuế vận được xem như chưa xuất hiện) được xác định bởi chính điểm vượng của chúng tại lệnh tháng (chi của trụ tháng). 93d/ - Lực xung, khắc hay hợp của các địa chi tại một năm (lưu niên) bất kỳ được xác định bởi điểm vượng của chúng ở lưu niên đó như sau : Điểm vượng của các chi trong tứ trụ chính là điểm vượng trung bình của chúng tại lệnh tháng, đại vận và 2 lần tại chi của lưu niên. Điểm vượng của chi tiểu vận và đại vận chính là điểm vượng trung bình của chúng tại chi đại vận và 2 lần tại chi của lưu niên. Điểm vượng của chi lưu niên là điểm vượng của nó tại chi của lưu niên. (thái tuế) a - Lực hợp của các địa chi bị giảm 94/ - Lực hợp của 1 chi với y chi bị giảm : 94a/21 - (y - 1)/y.đv nếu nó hợp với mỗi chi gần. 94b/ - 1/3.(y - 1)/y.đv nếu nó hợp với chi cách 1 ngôi. 94c/ - 1/2.(y - 1)/y.đv ...................................... 2 ngôi. b - Lực xung hay khắc của các địa chi 95/ Lực của 1 chi xung hay khắc với 1 hay nhiều chi và hợp với y chi bị giảm : 95a/19 - y/(y + 1).đv nếu nó xung hay khắc với mỗi chi gần. 95b/56 - y/(y + 1).đv và thêm 1/3.đv nếu nó xung hay khắc với mỗi chi cách 1 ngôi. 95c/89 - y/(y + 1).đv và thêm 1/2.đv ....................................với mỗi chi cách 2 ngôi. 3 - Các lực trên bị giảm thêm như sau : 96a/(30;70;79;89) - 2/3.đv nếu nó hợp, xung hay khắc với chi cách 1 hay 2 ngôi mà nó phải sinh, khắc (hay bị khắc) với (hay bởi) chi gần với nó (chỉ xét về ngũ hành) ở trong tứ trụ giữa chúng (kể cả chi này bị hợp nhưng không hóa cục). (vd 68; 77). 96b/ - ½.đv nếu nó, hợp, xung hay khắc với chi cách 2 ngôi mà nó phải sinh, khắc (hay bị khắc) với (hay bởi) chi (chỉ xét...) cách 1 ngôi giữa chúng (kể cả chi này ...). 96c/ - 2/3. ½.đv nếu nó hợp, xung hay khắc với chi cách 2 ngôi mà nó phải sinh, khắc (hay bị khắc) với (hay bởi) cả chi gần và cách 1 ngôi (chỉ xét ...) ở trong tứ trụ giữa chúng (kể cả các chi này ...). 4 - Khả năng phá hợp và các tính chất của địa chi 97/ Các quy ước : Một chi xung hay khắc với tam hợp hay tam hội có X chi, nghĩa là tổ hợp này có tổng cộng X chi, còn với lục hợp hay bán hợp có X chi thì có nghĩa là chỉ có nhiều nhất X-1 chi trong tổ hợp hợp với chi này. 98/7 - Nếu các địa chi xung nhau phá được hóa cục thì cũng phá được tổ hợp của nó (còn các TKĐX có thể phá được cả cục và hợp hoặc vẫn còn hợp). 99/77 - Nếu giữa tứ trụ, tiểu vận và tuế vận có 4 chi hợp với 1 chi không hóa thì mỗi chi có 0,4đh, riêng chi tiểu vận có 0,2đh chi thứ 5 trở đi mỗi chi được thêm.... đh ? 100/(19;22;61) - Tý, Ngọ, Mão và Dậu giữa tiểu vận và tuế vận xung với nhau chỉ phá được bán hợp, lục hợp hay tam hợp có 3 chi, trừ chi tiểu vận tử, mộ hay tuyệt ở tuế vận. 101/61 - Nếu Mão hay Dậu ở tiểu vận mà tử, mộ hay tuyệt ở tuế vận thì nó xung tuế vận phá được các bán hợp hay lục hợp chỉ khi có thêm TKĐX với trụ có chi đó. 102/64 - Tý, Ngọ, Mão và Dậu xung gần với nhau luôn luôn phá được bán hợp hay lục hợp (trừ câu 101/61). 103/ - Dần, Thân, Tị và Hợi hay Thìn, Tuất, Sửu và Mùi xung với nhau phá được các bán hợp hay lục hợp chỉ khi lực xung của nó bằng hay lớn hơn lực hợp và khi chúng xung gần nhau có thể phá được tam hợp không hóa có 3 chi nếu lực xung của chúng bằng hay lớn hơn lực hợp của tam hợp đó. 104/20 - Tý, Ngọ, Mão và Dậu trong tứ trụ xung gần với nhau phá được tam hợp trong tứ trụ hay tam hợp ngoài tứ trụ có 4 chi (bởi vì lực liên kết của tam hợp ngoài tứ trụ có 4 chi chỉ tương đương với tam hợp trong tứ trụ có 3 chi), còn nếu chúng xung với nhau giữa tứ trụ với tuế vận hay giữa lưu niên với đại vận thì chúng chỉ phá được tam hợp có 3 chi không hóa. 105/21 - Tý, Ngọ, Mão và Dậu trong tứ trụ xung nhau gần chỉ phá được tam hội ngoài tứ trụ có 3 chi (bởi vì lực hợp của nó chỉ tương đương với lực hợp của tam hợp trong tứ trụ có 3 chi). 106/61 - Tý, Ngọ, Mão và Dậu cách 1 hay 2 ngôi trong tứ trụ xung nhau không phá được tam hợp hay tam hội nhưng phá được bán hợp hay lục hợp khi lực xung của nó không nhỏ hơn lực hợp. Ví dụ minh họa : Ví dụ 67: Nam sinh ngày 29/2/1956 lúc 2,30’sáng. Anh ta bị cấp cứu vì bệnh gan vào mùa hè năm 2004. Mùa hè năm 2004, nó là năm Giáp Thân thuộc đại vận Ất Mùi và tiểu vận Mậu Dần. 1 - Tứ trụ này có Thân vượng mà kiêu ấn nhiều, vì vậy dụng thần đầu tiên phải là tài tinh Tân tàng trong Sửu trụ giờ. Mộc là kỵ vượng. ................................................ Theo lý thuyết ta thấy 2 Dần trong Tứ Trụ và Dần Tiểu vận cùng xung thái tuế Thân, trong đó : Dần trụ ngày xung thái tuế Thân có 0,3đh và thêm 0,5đh (vì thái tuế bị xung) Dần tiểu vận xung từ trong tiểu vận ra ngoài là thái tuế nên có 0,3đh và thêm 0,5đv (chú ý: chi đại vận xung hay khắc chi tiểu vận chỉ có 0,13đh nếu chi không là Thổ, và 0,07đh nếu chi là Thổ). Dần trụ tháng xung thái tuế có 0,3 đh và thêm 0,5 đh, khi đó thái tuế khắc lại Dần lệnh tháng có 0,5đh. Có Dần trong Tứ Trụ xung thái tuế Thân nên nó mới có thể xung được Thân trụ năm, vì vậy Dần trụ ngày xung Thân trụ năm có 0,3.1/2đh = 0,15đh (vì cách 1 ngôi). Dần trụ tháng xung Thân trụ năm có 0,3đh, vì vậy Thân trụ năm khắc lại Dần lệnh tháng có 0,5đh. Canh trụ tháng hợp với Ất đại vận không hóa nên Canh thất lệnh và vượng ở lưu niên (Thân) có -1đh can động và khắc Ất đại vận có 1.1/2đh = 0,5đh (vì trái dấu). Ất đại vận có 0,5.1/2đh kỵ vượng = 0,25đh (đây là trường hợp đặc biệt, vì chỉ có can đại vận (Ất) thuộc hành kỵ vượng mà bị Can trong Tứ Trụ (Canh) hợp và khắc mới có điểm kỵ vượng còn Giáp lưu niên cũng thuộc hành kỵ vượng hợp và khắc Kỷ trong Tứ Trụ nhưng không có điểm kỵ vượng). Dần tiểu vận thuộc hành kỵ vượng nên xung thái tuế thành động mới có 0,5.1/2đh = 0,25đh kỵ vượng (vì nó là chi tiểu vận). Mùi đại vận xung Sửu trụ giờ có 0,15đh. Có 3 Dần xung thái tuế Thân nên có 2,5G (điểm giảm), nó tương đương với tổng điểm hạn được giảm ¼. 3 Dần (Mộc) xung khắc 2 Thân (Kim), vì vậy Kim và Mộc đều bị tổn thương. Mộc đại diện cho gan, và Mộc tử tuyệt vào mùa hè còn Kim thì vượng (tháng Ngọ và Mùi) nên vào mùa hè người này đã bị bệnh về gan. ......................... (Chú ý: Tất cả các chi trong Tứ Trụ không có khả năng hình, tự hình hay hại chi đại vận nhưng chi tiểu vận và thái tuế có thể hình, tự hình và hại chi đại vận. Còn khi chi đại vận bị hợp thì tất cả các chi đều có khả năng hợp, xung hay khắc chi đại vận với mục đích chỉ để tranh phá hợp nên các lực này không gây ra điểm hạn.)
    2 likes
  4. Giải mã lời tiên tri của bà Vanga Một lý thuyết cổ xưa sẽ quay trở lại với nhân loại Vanga I - 1 - 1/ Những điều kiện cần & đủ trong nội dung lời tiên tri. B à Vanga đã nói điều này và tôi biết được trong cuốn sách dịch ra tiếng Việt của Nxb CAND khoảng năm 96. Tựa sách, tôi nhớ không nhầm là: "Van Ga - nhà tiên tri vĩ đại". Sau này, một học trò của tôi là Random gửi cho tôi một bản vi tính viết về nhà tiên tri này, cũng có nội dung tương tự. Trong cuốn sách ấy, bà Vanga đã tiên tri:"Một lý thuyết cổ xưa sẽ quay trở lại với nhân loại". Hiện tượng bà Vanga được coi là một hiện tương tâm linh theo cái nhìn đương đại - còn cái nhìn đó đúng hay sai, chưa bàn - nên có thể nó không được các nhà khoa học chú ý. Nhưng - nếu xét về góc độ khoa học thì rõ ràng đây là một hiện tượng tồn tại trên thực tế khách quan. Mà theo hiểu biết của tôi thì mọi sự tồn tại khách quan đều phải coi là đối tượng nghiên cứu khoa học. Coi hiện tượng bà Vanga là "tâm linh huyền bí" chỉ là một cách giải thích, do sự bất lực của trí tuệ, khí con người không hiểu được, không có phương tiện nào tìm hiểu được cơ chế và những mối liên hệ hình thành hiện tượng đó. Sự chứng nghiệm những lời tiên tri của bà Vanga đã xác minh tính chính xác của nó với những sự việc đã xảy ra sau lời tiên tri - cho dù được giải thích như thế nào. Bởi vậy, chính thực tế khách quan này là cơ sở khoa học để giải mã lời tiên tri của bà Vanga. Lời tiên tri của bà đã xác định: Một lý thuyết cổ xưa sẽ quay trở lại với nhân loại" Có hai khả năng xảy ra cho lời tiên tri này - vì nó chưa chứng nghiệm - là Đúng và Sai Nếu thời gian trôi qua quá nhiều thế hệ trong tương lai mà không hề thấy sự chứng nghiệm thì có thể cho rằng lời tiên tri này sai. Nhưng chuyện đó chưa xảy ra, nên không thể kết luận là sai, là không có cơ sở khoa học...vv....Khả năng thứ hai được đặt ra là lời tiên tri của bà Vanga đúng. Bởi vậy, tôi hoàn toàn có cơ sở để đặt một giả thuyết cho đây là một lời tiên tri đúng và sẽ xảy ra cho tương lai. Trên cơ sở giả thuyết này, tôi đi tìm đáp số cho lời tiên tri của bà. Phân tích lời tiên tri trên, chúng ta thấy có những yếu tố cấu thành nội dung cần xem xét là: * Một lý thuyết* Một lý thuyết cổ xưa. * Lý thuyết đó quay trở lại với tri thức nhân loại trong tương lai. * Khái niệm "nhân loại" cho thấy sự bao trùm của lý thuyết đó trong phạm trù nhân loại. Chúng ta lần lượt xem xét những yếu tố cần cấu thành trong nội dung lời tiên tri trên và đó cũng là những yếu tố cần và đủ để đi tìm hệ thống lý thuyết này. Chúng ta nhận thấy rằng: a/ Điều kiện của nội dung khái niệm "lý thuyết" trong lời tiên tri.Với khái niệm "Lý thuyết" thì nó phải là một hệ thống những nhận thức vũ trụ, thiên nhiên, xã hội cuộc sống và con người , có tính nhất quán, hoàn chỉnh, vừa thỏa mãn những tiêu chí khoa học cho một lý thuyết khoa học và phải tương thích để lý giải được các quan niệm tôn giáo với mọi vấn đề minh triết về xã hội, cuộc sống và con người. b/ Điều kiện nội dung của một lý thuyết để có thể quay trở lại với "nhân loại" trong "tương lai" Tất nhiên không cần phần tích, chúng ta cũng xác định ngay rằng: Với nội dung lời tiên tri thì sự quay trở lại chỉ có trong tương lai. Chính những đoạn tiếp theo trong bản văn của cuốn sách "Vanga - Nhà tiên tri vĩ đại" thì đoạn tiếp theo lời tiên tri trên chứng tỏ điều này, là:Hỏi: - Bao giờ lý thuyết đó quay trở lại? Trả lời: - Còn lâu lắm......(Có dị bản chép thêm là:"Khi dân tộc Arxyri bị tiêu diệt"). Nhưng chúng ta đều biết rằng: Tương lai nhân loại còn tiếp tục phát triển với sự tồn tại, phát sinh của các tôn giáo, tín ngưỡng và cả những tri thức khoa học được công nhận tính chân lý trong hiện tai cộng với tất cả những tri thức khoa học phát triển trong tương lai. Hay nói rõ hơn: Nền văn minh nhân loại còn tiếp tục phát triển trong tương lai, nhưng vẫn phải thừa nhận tính vượt trội với sự tương thích của Lý thuyết này trong văn minh tương lai của nhân loại. Có nghĩa là lý thuyết này phải thỏa mãn và giải thích được cả niềm tin tôn giáo và những tri thức khoa học đã khám phá được trong hiện tại và cả những bí ẩn của vũ trụ, thiên nhiên, cuộc sống, xã hội và con người trong tương lai - theo tiêu chí khoa học. Tôi nhắc lại để nhấn mạnh là: Trong văn minh tương lai của nhân loại. Hay nói một cách khác: Nó phải là một lý thuyết mà riêng trí thức khoa học trong tương lai phải thừa nhận tính vượt trội của nó - chưa nói đến sự chấp nhận của cả các tôn giáo và tín ngưỡng. Để thỏa mãn điều kiện này thì Lý thuyết đó phải chính là "Lý thuyết thống nhất vũ trụ". Vì chỉ có một lý thuyết thống nhất mới đủ khả năng tương thích mang tính bao trùm khái niệm "nhân loại" c/ Điều kiện khái niệm "Lý thuyết cổ xưa". Trong lịch sử phát triển của nền văn minh nhân loại nhận thức được hiện nay - trên cơ sở các văn bản cổ xưa trên mọi chất liệu tìm thấy được - Từ viết trên giấy Papyrus của Ai Cập cổ đại, trên đất sét của nền văn minh Ba Tư, các bộ kinh tôn giáo của Ấn Độ, Do Thái giáo...vv....cho đến cuốn sách mới xuất bản ngày hôm nay - khi tôi đang gõ hàng chữ này - thì chưa có một hệ thống lý thuyết cổ xưa nào - Cho dù hiểu nghĩa cổ xưa là ngày hôm qua - đủ tư cách để quay trở lại với nhân loại trong tương lai - theo đúng nghĩa của nó với tư cách là một lý thuyết có hệ thống và thỏa mãn điều kiện "a/" và "b/" đã phân tích ở trên. Nếu chúng ta coi hệ thống kinh điển trong cả các tôn giáo là những lý thuyết cổ xưa thì chính nó đang hiện hữu và không cần thiết phải "quay lại với nhân loại" - và - nó không thỏa mãn cho sự tương thích với tri thức khoa học ngay bây giờ, chứ không nói đến tương lai. Tức là mâu thuẫn với yếu tố trên (a/) và "b/" đã phân tích. Như vậy, chúng ta có đủ cơ sở để loại tất cả hệ thống lý thuyết tôn giáo ra khỏi danh sách ứng cử viên "Lý thuyết cổ xưa" có khả năng quay trở lại với nhân loại. Bây giờ chúng ta xét đến những hệ thống lý thuyết phi tôn giáo khác - thì - nếu một hệ thống Lý thuyết thỏa mãn tính minh triết liên quan đến chính trị, kinh tế, xã hội học thì không thỏa mãn tri thức khoa học liên quan đến một số các phạm trù nghiên cứu của khoa học tự nhiên (Tôi bao gồm luôn cả những hệ thống lý thuyết mới xuất hiện ngày hôm qua vào khái niệm cổ xưa cho nó mang tính rộng rãi). Nhưng chính khái niệm "cổ xưa" , nên nó phải đã từng tồn tại trong lịch sử nhận thức được của quá trình lịch sử phát triển văn minh nhân loại.Hay nói cách khác: Về phương diện lịch sử - vì là một lý thuyết cổ xưa - nên nó phải đang tồn tại trên thực tế hiện đại dưới dạng nào đó từ một quá khứ xa xăm - mà tri thức nhân loại chưa phát hiện được, nhưng thừa nhận những giá trị của nó đã tồn tại trong quá khứ. d/ Phạm trù nhân loại. Khái nhiện nhân loại chó thấy lý thuyết này phải được công nhận rộng rãi ở mọi sinh hoạt xã hội của loài người và tri thức liên quan. Hay nói rõ hơn: Nó phải là một lý thuyết thống nhất để phù hợp với các yếu tố đã phân tích: a/ b/ c/. Lý thuyết đó là lý thuyết nào trong suốt lịch sử văn minh nhân loại thỏa mãn những điều kiện trên? I - 1 - 2/ Thuyết Âm Dương Ngũ hành và sự tương thích với nội dung lời tiên tri. Nhưng văn minh phương Đông tồn tại một hệ phương pháp luận rời rạc, mâu thuẫn cục bộ giữa các mảng kiến thức liên quan đến một lý thuyết gọi là Thuyết Âm Dương Ngũ hành, vốn được coi là có cội nguồn xuất xứ từ văn minh Hán. Hệ thống phương pháp luận liên quan đến thuyết Âm Dương Ngũ hành này đã bị chính các nhà khoa học của đất nước - vốn được coi là cội nguồn của nó - phản bác và đòi xóa bỏ (*1). Ngay cả các tri thức khoa học hiện đại đã cất công tìm hiểu cũng không giải thích được và đành phải coi là một sự huyền bí vĩ đại(*2). Tôi luôn quan niệm cho rằng: "Người ta không thể tìm một cái đúng từ một cái sai. Mà chỉ có thể phát hiện ra cái sai từ một cái đúng" Các bạn đang xem bài viết này, có thể bỏ qua câu này hoặc công nhận, tôi không quan tâm tranh luận về quan niệm này của tôi. Bởi vậy, mặc dù những cố gắng của tri thức khoa học hiện đại - cho đến lúc này và còn có thể trong tương lai dài hơn, như lời tiên tri đã nói - chưa khám phá được những bí ẩn của nền văn minh Đông phương huyền bí; nhưng họ vẫn phải ngạc nhiên và thừa nhận tính hiệu quả của các phương pháp ứng dụng trên cơ sở phương pháp luận của một hệ thống lý thuyết có vẻ rất mơ hồ liên quan đến nó . Đó chính là thuyết Âm Dương Ngũ hành. Tôi có thể dẫn chứng ra đây những phương pháp ứng dụng mang tính phổ biến đã tồn tại khách quan trong lịch sử văn minh Đông phương - được đông đảo người đủ mọi tầng lớp trong xã hội Đông phương biết đến (Dù nhìn nhận nó với quan điểm nào) - mang dấu ấn phương pháp luận của hệ thống lý thuyết rất mơ hồ này, là: a/ Khoa chiêm tinh Tử Vi. Phương pháp này dựa trên cơ sở ngày tháng năm sinh của một con người để dự đoán một cách chính xác có hiệu quả những hành vi của người đó trong tương lai. Phương pháp coi Tử Vi hoàn toàn phù hợp với tiêu chí khoa học cho một phương pháp được coi là khoa học. Trong phương pháp luận của khoa Tử Vi hoàn toàn sử dụng những khái niệm và cơ sở lý luận của thuyết Âm Dương Ngũ hành. Mà trong đó tất cả các đại lượng của môn này - gọi là các sao - đều được phân loại theo thuyết Âm Dương Ngũ hành. b/ Phong thủy Đông phương c/ Đông y. Đây là phương pháp chẩn trị bệnh chủ yếu bằng các loại y dược được lấy trực tiếp từ thiên nhiên. Sự bào chế thuộc từ các dược liệu này thành các loại thuốc viên rất hạn chế và cũng chỉ là sự chế tác đôn giản. * Bí ẩn trong phương pháp chẩn bệnh:Nhưng để chẩn trị bệnh và khám bệnh bệnh thì rất đáng chú ý vì phương pháp tiếp cận bệnh vô cùng bí ẩn - ít nhất với phương pháp phổ biến của y học hiện đại. Nếu y học hiện đại dùng các phương tiện tối tân như máy soi Xquang thì để chẩn trị bệnh trong Đông y, thày thuốc dùng phương pháp gọi là "bắt mạch". Trong phương pháp này thày thuốc trong Đông Y dùng ngón tay cái đặt lên động mạch ở cổ tay, dưới ngón trỏ của bệnh nhân. Căn cứ vào mạch đập của bệnh nhân, thày thuốc Đông y xác định chính xác bệnh tật và căn cứ vào bệnh được xác định theo phương pháp nói trên để bốc thuốc. Cha tôi là Nguyễn Văn Thành - tức Trần Quang Hy - một trong những tứ trụ Đông y dược Việt; Thông gia với dưỡng phụ của tôi là Trung Y sĩ Quan Bồi Thiên, nổi tiếng một thời ở Hanoi. Anh rể tôi là bác sĩ Quan Đông Hoa - Chủ nhiệm khoa Đông y ở Đại học Y khoa Cần Thơ. Bác ruột tôi là Nguyễn Văn Nghị phó Chủ tịch Hội Đông Y Quốc tế. Cho nên - mặc dù không theo nghề - nhưng từ nhỏ, tôi đã chứng kiến những tri thức kỳ lạ của phương pháp chẩn bệnh mà một thời sự phổ biến của nó khiến nó trở thành bình thường trong con mắt thế nhân. Vấn đề được đặt ra là: Cơ chế nào để các Đông Y sĩ căn cứ vào mạch đập ở cổ tay liên quan đến tình trạng bệnh tật của các bộ phận trong cơ thể? Mặc dù đó là một phương pháp ứng dụng có hiệu quả và lưu truyền từ hàng ngàn năm nay trong xã hội Đông phương còn đầy huyền bí trong tri thức khoa học hiện đại? * Bí ẩn của các huyệt vị và Kinh LạcVào năm 1967, các nhà khoa học Pháp đã làm thí nghiệm cho các chất đồng vị phóng xạ vào các huyệt theo phương pháp Đông y. Sau đó dùng tia phóng xạ chiếu vào cơ thể người thí nghiệm để kiểm tra. Họ đã xác định một hệ thống vận động hoàn toàn trùng khớp với các đường Kinh Lạc miêu tả của Đông Y trong cơ thể người. Những máy tìm huyệt - theo Đông y - được sáng chế vào giữa những năm 1970 đã chứng tỏ sự tồn tại của những huyệt vị trên cơ thể người. Tuy nhiên, tri thức khoa học hiện đại chưa tìm hiểu được bản chất của "Khí" là một khái niệm miêu tả sự tồn tại của một dạng vật chất tương tác cả bên trong lẫn bên ngoài cơ thể thông qua các đường Kinh Lạc đã được thừa nhận. Có thể nói rằng: Chính những kết luận về khí sau khi tổng hợp tất cả các ứng dụng về tính tương tác và bản chất hiện tượng , là điều kiện đầu tiên (tất nhiên còn kết hợp với nhiều phát hiện khác) để tôi xác định rằng: "Không thể có Hạt của Chúa" - Tuy nhiên, tôi không có thời gian và điều kiện để diễn giải.Ít nhất là lúc này.) Như vậy, tôi đã trình bày về những bí ẩn của Đông y, mà đôi khi vì tính phổ biến trong ứng dụng làm người ta thấy bình thường những hiện tượng đó với cái nhìn của người Đông phương. Và khi nền văn minh Đông Tây giao lưu thì lại cho rằng đó là những sự huyền bí và cực đoan hơn, không ít các nhà khoa học - ngay cả Trung Quốc - phủ nhận Đông y và cho là "Không có cơ sở khoa học". Nhưng mọi việc chưa dừng ở đây: Đông y nói riêng và tất cả các phương pháp ứng dụng các bộ môn khác baon trùm mọi lĩnh vực trong cuộc sống, sinh hoạt và xã hội đều có một hệ thống phương pháp luận của nó. * Phương pháp luận Đông y Một cuốn sách nổi tiếng, đứng đầu trong tất cả những cuốn sách mang tính lý luận của Đông y chính là cuốn Hoàng Đế Nội kinh tố vấn. Nền văn minh Hán coi đó là một trong Tứ đại kỳ thư của họ (*/3).Trong cuốn sách này, cơ sở phương pháp luận của Đông y chính là thuyết Âm Dương Ngũ hành.Kết luận: Qua những sự phân tích ở trên, chúng ta thấy rằng: Với giả thuyết lời tiên tri của bà Vanga đúng thì duy nhất có thuyết Âm Dương Ngũ hành phù hợp với lời tiên tri của bà và đó chính là Lý thuyết thống nhất mà những nhà khoa học hàng đầu đang mơ ước. Nhưng tất nhiên nó thuộc về Việt sử 5000 năm văn hiến - bắt đầu từ thời Hùng Vương dựng nước: Nước Văn Lang, Bắc giáp Động Đình hồ, Nam giáp Hồ Tôn, Tây giáp Ba Thục, Đông giáp Đông Hải - một thời huy hoàng ở miến nam sông Dương tử. Không thể có một lý thuyết nào dù xuất phát từ cái đầu tự kỷ ám thị , hay từ một bộ óc vĩ đại lại không có lịch sử của nó.
    2 likes
  5. Khai Trương Quán Tư Vấn Phong Thủy Lạc Việt Từ Thiện Thiên Đồng mở quán tư vấn Phong Thủy Lạc Việt Từ Thiện nhằm giúp những gia đình thật sự có khó khăn trong cuộc sống nhằm góp phần thêm cho đồng bào có được cuộc sống bình an ổn định. Đối tượng: -Những gia đình có người bệnh hoạn nặng, cần sửa phong thủy cải thiện sức khỏe. -Những gia đình thật sự khó khăn nghèo khó, cần sửa phong thủy cải thiện cuộc sống. Đối tượng không được tư vấn: - Học viên các lớp Phong thủy Lạc Việt. - Những thành viên có mục đích lợi dụng. Điều kiện tư vấn: - Nêu rỏ hoàn cảnh gia đình. - Hình ảnh hay sơ đồ nhà đất. - Tên tuổi gia chủ. Quy trình tư vấn: - Ghi nhận các thông tin liên quan - Suy xét hoàn cảnh, quan sát thực địa. - Quyết định tư vấn. Các thông tin liên quan đến chuyên môn tư vấn sẽ không được giải đáp và không công bố đa phần hay toàn phần trong mục này. Việc đồng ý tư vấn của Thiên Đồng là tùy duyên, tùy hỷ. (Rảnh thì tư vấn, không rảnh thì thôi) Thiên Đồng ngày mồng 2 tháng 8 năm tân mẹo Việt lịch, giờ thìn.
    1 like
  6. Chào anh TheTrung,Ở đây mình xác định có hai cái cần dịch là: 1/ Trung tâm Nghiên cứu 2/ Lý học Đông phương Trong đó Lý học Đông phương là cụm từ cần quan tâm hơn Trung tâm Nghiên cứu nên mình bàn trước. Oriental Ancient Theories dịch sát nghĩa Tiếng Việt là "Các lý thuyết cổ Phương Đông". Mình dùng từ này vì Lý học Đông phương bao gồm Tử vi, Tử bình, Phong thủy, Kinh Dịch, Thái Ất - Độn Giáp,... Là một hệ thống lý thuyết (hay học thuyết) nên tại sao phải dùng Theories mà không phải là Theory như anh lukhach góp ý. Nếu dùng như của anh Oriental Civilization's Natural Law (Luật, quy tắc của văn minh Phương Đông) thì nó dễ gây nhầm lẫn vì từ "Law" nghĩa phổ biến nhất là "Luật" (ĐH Luật, Luật Dân sự, Luật hình sự,..). Nó cũng có nghĩa quy tắc, quy luật tuy nhiên đây là nghĩa phụ và có thể gây hiểu lầm với từ phổ biến nhất là "Luật". Oriental Ancient Theories mà không phải Ancient Oriental Theories vì tên này dùng cho người nước ngoài, cho giao dịch với nước ngoài nên đặt Oriental trước sẽ nhấn mạnh yếu tố Phương Đông trước nhất và dễ gây chú ý cho người tiếp xúc với nó hơn là đặt Ancient lên trước. Mặc dù về hai yếu tố này việc đặt cụm từ nào trước cũng đều có thể. Đặt trước hay đặt sau chỉ là nhấn mạnh tùy vào mục đích sử dụng của mình. Về "Trung tâm Nghiên cứu" thì Reseach Centre hay Research Center là tùy do mình dùng Tiếng Anh Anh hay Tiếng Anh Mỹ. Mình đặt trước Research centre for Oriental Ancient Theories (Trung tâm nghiên cứu các học thuyết (lý thuyết) cổ Đông Phương) vì đây là cách dùng của người Anh, Mỹ. Cách dùng cùa người Anh phổ biến là từ, cụm từ chính đặt cuối cùng, từ ý nghĩa bổ sung mình đặt trước trong cách cấu tạo từ. Tuy vậy riêng với các trường, trung tâm nghiên cứu, viện thì người Anh, Mỹ lại hay đặt Centre lên trên đầu rồi + for + ... đằng sau. Có thể coi nó như ngoại lệ. Dùng "for" với Trung tâm, viện nghiên cứu, còn khi nghiên cứu một lĩnh vực cụ thể là lại là "On" (research on). Chả nói đâu xa ở Việt nam mình Học viện Ngoại giao tiếng Anh của nó cũng là "Institute for International Relations" chứ người ta không dùng "International Relation Institute". For ở đây rất cần thiết chứ không phải thừa, không thể thiếu. Em dịch thế này là đặt trên nền Lý học rồi. Tiếng Anh chỉ là công cụ. Vâng, em cũng chỉ dám bình loạn cho rõ hơn vậy thôi.
    1 like
  7. Ừa, yêu hay không hỏi mình chứ hỏi chi thầy bói? Lấy thêm lá số trước 11h và miêu tả thêm về bản thân xem sao
    1 like
  8. CHÀO BẠN ! sinh giờ dương , mệnh đóng cung dương . mệnh mà như thế , thuận lẽ thường ! số này , di -mã , không ngừng nghỉ ! có gì ? xin đợi , buổi mai suy ..! chào thân ái !
    1 like
  9. 1 like
  10. Sinh Quý Tỵ cũng được nhưng TỴ với Tý anh trai Tuyệt nhau, anh em không gắn bó đâu. Thân mến. ps: Tôi là Thiên Luân, thêm dấu nặng làm gì cho xấu tên tôi vậy
    1 like
  11. 1 like
  12. Chào DaiThuc và Engineer. Mình có đáp án cho quẻ luận của 2 bạn đây: 1. Trang phục của mình: Quần jeans xanh áo sơ mi trắng sơ vin. Áo sơ mi có thêu họa tiết màu vàng đất (đại an) chạy dọc 2 bên hàng cúc 2. Trước khi đi mình đã tự lấy được quẻ. Khai_Xích Khẩu: mình suy luận là việc sẽ có sự liên quan đến giao tiếp hay tiền bạc. Để chắc ăn mình đã làm thêm cái phong bì (theo kinh ngiệm - cái này chắc k khách quan rùi, hic). Lúc lấy quẻ mình cũng không thể kết được là việc thành hay không thành, hay phải chờ. Nhưng công việc thì chắc chắn phải đi, quẻ thì ra rồi. Cứ đi cho hoàn thành cv và để còn nghiệm lại quẻ Kết quả ngoài sự băn khoăn của mình – mọi việc diễn ra suôn sẻ, nhanh chóng và rất vui vẻ và việc xong ngay trong buổi sáng. Như vậy, với câu hỏi 2, cùng một việc mình và DaiThuc lấy quẻ vào 2 giờ khác nhau Đỗ_Lưu Niên và Khai_Xích khẩu: thì tựu chung mình thấy 2 quẻ đều phản ánh đúng bản chất sự việc diễn ra. Chỉ có chưa thực sự chuẩn về cách luận. Có lẽ tại vì Lưu (Lưu niên) nên DaiThuc nghĩ ngay bị trì hoãn nhưng Lưu Niên cũng như DaiThuc luận nó còn có điều j đó hơi .. "loằng ngoằng" (fong bì) và thể hiện sự lo lắng băn khoăn của ng hỏi, hay Xích Khẩu thuộc Kim (tiền) phải mất tiền, hay còn thể hiện việc giao thiệp mềm mỏng và sau đó có thu lợi về…. Qua 2 quẻ Đỗ_Lưu niên và Khai _XK trong trường hợp này, mình lại có thêm kinh nghiệm khi gặp LN và XK trong luận quẻ, đúng là như chú Thiên Sứ nói "cần kiến thức và tư duy rộng" Engineer luận đúng về màu áo. Không biết là quẻ của bạn Engineer là gì nhỉ? Lần sau bạn đưa lên cho mình học hỏi với nhé! Đang luyện mà À quên, không phải nhà đất DaiThuc ạ. Cảm ơn 2 bạn. Lại muốn luyện nữa nè <br style="mso-special-character:line-break"> <br style="mso-special-character:line-break">
    1 like
  13. http://www.lyhocdongphuong.org.vn/apps/LaSoTuVi.php?name=&date=1987,7,18,20,0&year=0&gender=f&view=screen&size=2 Chị sinh trước 21h, năm nay sẽ tìm được việc. Có thể vào tháng 8, 10, 12 âl. Có gì nhờ chị feedback để TM lấy thêm kinh nghiệm nhé. Chị chờ các bác luận thêm cho chính xác.
    1 like
  14. Năm 2012 mạng mẹ Thủy khắc con Hỏa (tính theo sách Việt) nên không ổn lắm, con sinh ra dễ đau bệnh. Nếu sinh thì chỉ nên sinh con gái. Con út nên sinh năm Bính Thân 2016 hoặc Mậu Tuất 2018! Thân mến.
    1 like
  15. Năm nay khó có thể lấy tiền lại. Năm nay đừng đầu tư cho bất cứ chuyện gì, yên ổn làm việc, đừng vì phút bốc đồng mà xin nghỉ việc. Năm sau sẽ thay đổi công việc. Năm sau có thể lấy lại được 1 phần tiền.
    1 like
  16. Số của bạn cũng không đến nỗi quá tệ, nên xa quê lập nghiệp thì tốt. Sau khi lấy vợ thì được nhờ vợ cũng nhiều. Nên làm các công việc có tính chất nghiên cứu thì hợp. Ngoài ra đi sông nước thì đề phòng thế thôi
    1 like
  17. Được chứ sao lại không? Bạn có ước mơ và sự quyết tâm thì sẽ được học bổng 2 năm tới đều có cơ hội đi nhưng chẳng dễ dàng chút nào mà phải dốc hết sức vượt qua những cản trở sắp tới, còn tình duyên thì lận đận đấy, nhiều lắm chông gai và bạn còn trẻ để nghĩ tới chuyện đó. Nên tập trung cho ước mơ
    1 like
  18. Cám ơn TM Lão say vẫn khỏe! lâu nay bận nhiều vẫn ghé DĐ nhưng time ko nhiều @: Đương số: Bố mẹ thương yêu nhau nhưng cũng ghen nhau phải không?
    1 like
  19. Lâu không thấy chú ghé qua luận giải, chú vẫn khỏe chứ ạ? Cháu cũng đang nghi ngờ giờ sinh này ạ Chị cho TM hỏi tình hình bố mẹ chị thế nào? Giầu có khá giả hay vất vả và li cách? Chị có phải sớm xa cách cha mẹ?
    1 like
  20. Theo Lão say giờ sinh của cháu trước 21 giờ nên mặt kém thận hư cẩn thận cả đau lưng hoặc cột sống . Học hành thi cử khó khăn hay phải đi đường vòng Điển hình là 2 năm 2009-2010 gặp rất nhiều trắc trở.
    1 like
  21. Bị thiên đầu thống, tức là tăng áp nhãn cầu, phải mổ mắt là đúng. Tật ở gan bàn chân mà đi khám bác sĩ có nói là "u gan lành tính" Bác sĩ này giỏi thật! (Hì! Chắc là bạn viết là u gan bàn chân lành tính) Có thể tháng 10, 11 năm nay, bạn sẽ xin được việc. Về cưới hỏi: cũng có nhiều ý kiến khác nhau, tôi hay nghe dân gian nói: cưới hỏi xem tuổi đàn bà, xây nhà xem tuổi đàn ông. Do vậy ít quan tâm với tuổi của chú rể. Hơi lạm bàn chút về vấn đề tuổi: bạn năm nay sao chiếu là Thái Dương về cơ bản mọi chuyện thông hanh, tốt đẹp. Nên muốn cưới xin cũng là điều dễ hiểu, sang năm 2012, sao chiếu Thái Bạch, đương nhiên là ko được tuổi (chỉ là một yếu tố căn cứ). Về luận tuổi chắc phải sang mục luận tuổi, các bác bên đó nhiều kinh nghiệm hơn. Sang năm tới, vận của bạn sẽ tốt hơn, tôi nghĩ chắc năm sau cưới (tháng 7?). (Các bác có nhiều kinh nghiệm không biết có nghĩ vậy ko?)
    1 like
  22. Đường đến trường chông gai của cô sinh viên giỏi "Sử nhà" Thứ Hai, 29/08/2011 - 00:03 (Dân trí) - 12 năm liền là học sinh giỏi, đạt giải ba môn Lịch sử cấp quốc gia, đậu Đại học với 23,5 điểm nhưng em Lê Thị Bảo Trân (SN 1993, ngụ xã Hòa Thạnh, Tam Bình) có nguy cơ không thể bước tiếp vào giảng đường đại học. Chúng tôi tìm đến nhà của em Lê Thị Bảo Trân để tìm hiểu thêm về hoàn cảnh này. Lời đầu tiên mà chúng tôi nhận được từ những người hàng xóm là “tội nghiệp con Trân lắm, học giỏi mà lỡ nghỉ nửa chừng thì uổng phí quá”. Thành tích đáng nể môn Lịch sử Theo tìm hiểu của chúng tôi, dù hoàn cảnh gia đình rất khó khăn nhưng lúc nào em Lê Thị Bảo Trân cũng cố gắng học thật tốt. Trân cho biết, cha mẹ em luôn động viên, ủng hộ em đến trường. Hồi còn học cấp 1, cấp 2, nhà cách xa trường từ 3-4km nhưng vì không có tiền mua xe đạp nên Trân phải đi bộ suốt mấy năm học này. Lên cấp 3, Trân vào học trường THPT chuyên Nguyễn Bỉnh Khiêm- một ngôi trường nổi tiếng nhất ở tỉnh Vĩnh Long. Bảo Trân cùng mẹ lột hạt điều với hi vọng có thêm chút tiền để nhập học Trong suốt 12 năm học, thành tích của Trân rất đáng nể. 12 năm đều đạt học lực giỏi. Ở cấp 2, Trân đạt giải ba môn Lịch sử và giải khuyến khích môn Toán cấp huyện. 3 năm THPT, Trân cũng giành rất nhiều giải thưởng về môn Lịch sử cho mình: 3 giải khuyến khích cấp tỉnh, 1 giải nhất cấp tỉnh, Huy chương đồng (lớp 10) và Huy chương bạc cuộc thi Olympic 30/4 (lớp 11), đặc biệt là Trân cũng giành được giải ba môn Lịch sử cấp quốc gia. Trân cho biết, em rất thích học môn Lịch sử vì em muốn được tìm hiểu lịch sử nước nhà, muốn biết được những chiến công của các anh hùng trong công cuộc bảo vệ đất nước. “Học lịch sử cho em nhiều bài học quý báu về tình yêu quê hương đất nước”- Trân nói. Giấy chứng nhận đạt giải ba môn Lịch sử cấp quốc gia của Bảo Trân Chính vì yêu thích môn học này nên Trân giành được nhiều giải thưởng và hơn hết là trong kỳ thi tuyển sinh ĐH vừa qua, Trân thi khối C và môn Lịch sử đạt đến 9,25 điểm. Chông chênh đường đến trường của “nhà báo” tương lai Gia đình của ông Lê Văn Ngai (cha của Trân) không một miếng đất cắm dùi, cả 3 nhân khẩu phải ở nhờ nhà của cậu Bảo Trân. Mảnh vườn nhỏ của ông cậu cũng không sinh hoa lợi gì vì kinh tế lúc nào cũng gặp khó khăn, luôn thiếu trước hụt sau. Ông Ngai làm ở Tổ y tế với lương tháng chỉ hơn 200.000 đồng. Còn bà Lê Thị Trang (mẹ cuả Trân) thì đi nhận hạt điều về bóc vỏ, mỗi ngày chỉ kiếm được 8.000 đồng. Tất cả “cơm áo gạo tiền” của gia đình đều phụ thuộc vào 2 khoản thu này. Liệu ước mơ đến trường của Bảo Trân có thành dang dở vì hoàn cảnh gia đình khó khăn ? Hôm chúng tôi đến nhà, Trân và mẹ đang ngồi bóc vỏ hạt điều để chuẩn bị giao cho người ta. Trên gương mặt của cô nữ sinh nghèo hiện lên một tâm trạng buồn thiu vì đến ngày làm hồ sơ nhập học mà trong nhà không có tiền. Trân nói với chúng tôi, thật sự em không muốn bở dở việc học nhưng nếu không có đủ tiền thì chắc là em phải ở nhà mà thôi. Trân vừa nói vừa bóc vỏ cho xong mấy hạt điều, chúng tôi thấy tay em thoáng run lên, có lẽ em đang có cảm giác tiếc nối vì con đường học vấn của mình rất có thể phải dừng lại. Ông Lê Văn Ngai cho biết, khi hay tin con gái đậu Đại học với số điểm cao cả nhà ai cũng mừng rơi nước mắt vì sau bao năm vất vả lo cho con ăn học cuối cùng cũng có một kết quả tốt đẹp. Thế nhưng, niềm vui chưa trọn thì vợ chồng ông Ngai bắt đầu có những cảm giác nặng nề, lo lắng hơn. Nhìn trước ngó sau, căn nhà còn xây lở dở, miếng ăn từng ngày còn phải chạy lo thì lấy đâu ra tiền để lo tiếp cho đứa con gái út đi học. Bố Trân cùng các bác hàng xóm xem giấy báo nhập học với tâm trạng vừa thương vừa lo lắng Nhận giấy báo nhập học, vợ chồng ông Ngai lòng lại nặng trĩu. “Đọc những thông tin trong giấy báo nhập học của trường gửi mà tay chân tôi cứ run lên. Nhà trường có yêu cầu đóng học phí đến 1,8 triệu đồng và một số khoản khác nữa, thật sự vợ chồng tôi chỉ biết thở ngắn thở dài. Vợ chồng tôi gom lại hết toàn bộ số tiền có trong nhà chỉ còn chừng 600.000 đồng, số tiền quá ít nên không thể lo cho Bảo Trân lên TPHCM nhập học”- mẹ của Bảo Trân bùi ngùi nói. Mấy ngày qua, Trân phải phụ mẹ lấy thêm hạt điều về bóc vỏ với mong muốn sẽ kiếm thêm tiền để có thể đi làm thủ tục nhập học như bao bạn bè khác. “Mỗi kg hạt điều sau khi bóc vỏ chỉ có 4.000 đồng, mỗi ngày làm nhiều lắm là 2 kg, với mức giá này thì không biết khi nào em làm đủ tiền để đi nữa”- Trân buồn bả nói. Ông Nguyễn Văn Đua- phó trưởng ấp 5, cho biết gia đình của ông Ngai là một trong những gia đình khó khăn nhất ở ấp 5. Song, dù khó khăn nhưng ông cũng lo đựợc cho con ăn học là điều đáng quý. “Việc cháu Bảo Trân vào ĐH với một khoản chi phí lớn thì gia đình ông không thể lo nỗi, lỡ như cháu Bảo Trân bở giữa chừng thì khổ cho cháu lắm”- ông Đua chia sẻ. Ông Đua cho biết thêm, Bảo Trân có một người chị trước đây cũng học rất giỏi. Sau khi thi rớt ĐH, chị của Bảo Trân định sẽ tiếp tục ôn thi để năm sau thi tiếp nhưng vì hoản cảnh gia đình quá nghèo nên người chị này phải bỏ dở con đường học vấn và sau đó đi lấy chồng. “Bảo Trân thì đã đậu ĐH rồi, tương lai của cháu ở phía trước còn rộng mở, chúng tôi mong ai đó giúp cháu qua khỏi khó khăn này để tiếp tục được đến trường”- ông Đua bày tỏ. Trân cho biết, em thi vào ngành Báo chí & Truyền thông vì em có ước mơ làm nhà báo. “Em nghe nói nghề báo rất cực nhưng để nói lên tiếng nói của người dân, để đi sâu và hiểu cuộc sống của họ, để có thể kêu gọi giúp đỡ những người khó khăn thì em thấy rất vui”- Trân cho biết. Ước mơ của cô nữ sinh nghèo không biết có trở thành hiện thực hay không khi mà thời gian đăng ký nhập học đã đến và gia đình em không còn đủ khả năng để lo nữa. Không lo được, chắc là em Bảo Trân không thể bước tiếp vào giảng đường ĐH. Một “nhà báo” tương lai đang rất cần sự hỗ trợ kịp thời của các tấm lòng hảo tâm. ============================================= Nghe tin một học sinh giỏi sử quốc gia, các bậc phụ huynh ai cũng mừng. Em học sinh này chứng tỏ tư chất thông minh và xứng đáng được cộng đồng giúp đỡ để tiếp tục học. Nhưng tôi chạnh buồn khi nghĩ tới khái niệm "giỏi sử nước nhà". Ngoài tiêu chí nhớ vanh vách những sự kiện lịch sử quốc gia thì quan niệm thế nào là giỏi sử nước nhà? Tôi nhớ cuộc thi "Đường lên đỉnh Olimpia", một học sinh đọc vanh vách: "Hai Bà Trưng là vị vua nữ đầu tiên của dân tộc Việt". Sai! Một vị giáo sư khả kính và tên tuổi kết luận như vậy. Hai bà Trưng là Vương chứ đâu phải là vua" - Ấy là vị giáo sư ấy bảo thế. Khốn nạn, thằng bé bị đánh trượt. Thằng bé có giỏi sử không? Thế giới này có ai làm vua đâu nhỉ? Toàn là Hoàng Đế, Tổng thống, Quốc trưởng...vv...Có ai là vua đâu? Thảo nào cái thế giới này nó loạn cả lên. Vậy thế nào là giỏi sử nước nhà. Thời Hùng Vương chỉ là liên minh 15 bộ lạc với những người dân ở trần đóng khố là quan điểm đúng và ai công nhận mới là giỏi sử nước nhà chăng? Người ta đang đi tìm một triết lý giáo dục. Nay có một học sinh được coi là giỏi sử nước nhà. Vậy hãy tìm cái triết lý giáo dục ấy ngay trong khái niệm "giỏi sử nước nhà". Không phải ngẫu nhiên tôi luôn xác định rằng: Nền giáo dục Việt Nam sẽ không thể phát triển, nếu người ta còn dạy cho học sinh "Thời Hùng Vương là liên minh 15 bộ lạc" với những người dân "ở trần đóng khố".
    1 like
  23. Lấy thêm lá số giờ Tuất. Chồng có phải dáng người cao vừa, hơi nở nang, chân mày đậm đẹp. Người có vẻ chỉnh chu đạo mạo. Đang làm kinh doanh hoặc ngành liên quan đến tài chính?
    1 like
  24. Ví dụ số 173 trong cuốn Trích Thiên Tủy: “173 - Quý hợi - ất mão - nhâm thân - ất tị Giáp dần/ quý sửu/ nhâm tý/ tân hợi/ canh tuất/ kỷ dậu/ mậu thân Trụ này thủy mộc thương quan, nhật chủ tọa trường sanh, chi năm hợi thủy lộc vượng, nhật chủ không nhược, đủ sức dụng tị hỏa chi tài. Hiềm trung vận kim thủy, nửa đời lục đục phong sương, sự nghiệp thất bại nhiều lần. Đến tuất vận, liền chế hợi thủy kiếp tài, tuất hợp mão mộc hóa hỏa tài cục, chợt phát tài mấy vạn; đến dậu vận xung phá thương quan, sanh trợ tỉ kiếp, không lộc”. Điểm hạn và điểm vượng của ngũ hành trong vùng tâm của Tứ Trụ trên: -0,5...............0,5................1..............-0,5.................-1 Hỏa..............Thổ.............Kim.............Thủy...............Mộc #4,8...............#7..............#4,1............14,58.............28,43 (Chú ý: Thủy được cộng thêm 1 đv vì Thân nhược mà Thủy có 4 can chi là Tỷ Kiếp – theo giả thiết mới được đưa ra: “a - Nếu Thân nhược mà trong Tứ Trụ có 4 can chi Tỷ Kiếp hay Kiêu Ấn thì điểm vượng trong vùng tâm của hành đó được thêm 1đv, và 2đv nếu nó có ít nhất từ 5 can chi trở lên. b - Nếu Thân vượng mà trong Tứ Trụ có 4 can chi là Thực Thương, Tài hay Quan Sát thì điểm vượng trong vùng tâm của hành đó được thêm 1đv, và 2đv nếu nó có ít nhất từ 5 can chi trở lên”.) Theo như bài luận này thì mặc dù Thân nhược nhưng nó chỉ nhược so với Thực Thương còn nó quá vượng so với Tài Quan. Do vậy tác giả đã chọn Tài là dụng thần (tức tác giả đã coi như Tứ Trụ này có Thân vượng để xác định hỷ kỵ của các hành). Vào đại vận Canh Tuất có Canh hợp với 2 Ất trong Tứ Trụ. Chắc vào năm tài Đinh Tị (?) Thiên khắc địa xung với trụ năm Quý Hợi phá tan bán hợp Mộc (cả cục và hợp). Do vậy Mão trụ tháng đã hợp với Tuất đại vận hóa Hỏa (Tài) nên mới có chuyện “chợt phát Tài mấy vạn”. Từ ví dụ này và kết hợp với tứ Trụ của Anh2001 cung cấp ở trên thì chúng ta có thể coi 2 trường hợp này vẫn thuộc cách Tòng nhi khi bỏ qua điều kiện “trong Tứ Trụ phải có Tài”. Để phù hợp với thực tế của 2 ví dụ này (và hàng chục ví trụ tương tự trong cuốn Trích Thiên Tủy) chúng ta phải bổ xung thêm cho cách Tòng nhi như sau: “Nếu một Tứ Trụ có Thân nhược mà nó có ít nhất 4 can chi Tỷ Kiếp (kể cả can ngày) còn Thực Thương có ít nhất 3 can chi và nắm lệnh, khi trong Tứ Trụ không có can chi Tài, Quan Sát và không có quá 1 can hay 1 chi là Kiêu Ấn thì nó vẫn có thể thuộc cách Tòng nhi nếu điểm vượng trong vùng tâm của Thân không nhỏ hơn 50% điểm vượng của Thực Thương”.
    1 like
  25. haizzzzzzzzzz, phòng còn hơn chống, tốt nhứt năm nay hem ăn bánh trung thu, tránh tìm góc wc thỏa nỗi buồn như câu thơ của chú Thiên Sứ
    1 like
  26. THIÊN 11: KINH BIỆT Hoàng Đế hỏi Kỳ Bá: “Ta nghe con người hợp với Thiên Đạo, bên trong có ngũ tạng để hợp với ngũ âm, ngũ sắc, ngũ thời, ngũ vị[1]. Ngũ vị: bên ngoài có lục phủ để ứng với lục luật, lục luật để “kiến” nên các kinh thuộc Âm Dương nhằm hợp với thập nhị huyệt, thập nhị thần, thập nhị tiết, thập nhị kinh thủy, thập nhị thời, thập nhị kinh mạch[2]. Đây là sự “ứng” của ngũ tạng lục phủ với Thiên Đạo[3]. Ôi ! Thập nhị kinh mạch là nơi con người dựa vào để sống, nơi mà bệnh dựa vào để thành, nơi mà con người dựa vào để trị, nơi mà bệnh dựa vào để khởi lên; cái học (về y) bắt đầu từ đây, sự khéo léo (của người thầy thuốc) phải đạt đến (sự hiểu biết về nó)[4]. Người thầy vụng về thường hay đổi sự hiểu biết của mình về nó, người thầy thuốc khéo léo xem nó là vấn đề khó khăn (cần đạt đến)[5]. Ta xin hỏi thầy về sự “xuất nhập ly hợp của nó” như thế nào ?”[6]. Kỳ Bá cúi rập đầu xuống lạy 2 lạy, nói: “Sáng suốt thay câu hỏi của bệ hạ ! Đây chính là vấn đề mà người thầy thuốc vụng về thường lơ là và người thầy thuốc khéo léo rất chú trọng, lưu tâm đến. Nay thần xin nói rõ ngay như sau”[7]. Kinh ‘Túc Thái dương chi chính’, tách biệt nhập vào trong kheo chân, một đường đi của nó đi xuống dưới xương cùng cụt 5 thốn, tách biệt nhập vào giang môn, thuộc vào Bàng quang, tán ra ở Thận, dọc theo thịt “lữ”, đến ngay Tâm, nhập vào (Tâm) và tán ra[8]. Đường đi thẳng của nó, đi từ đường thịt “lữ” lên trên, xuất ra ở cổ gáy, rồi lại thuộc vào kinh Thái dương, đây là (đường đi) của 1 kinh[9]. Kinh “Túc Thiếu âm chi chính”, khi đến giữa kheo chân thì tách biệt ra để đi theo kinh Thái dương và hợp với kinh này, khi nó lên đến Thận thì ngay ở đốt cột sống thứ 14, nó xuất ra để thuộc vào huyệt Đới mạch[10]. Đường đi thẳng của nó đi lên để ràng buộc vào cuống lưỡi, rồi lại xuất ra ở cổ gáy để hợp với kinh Thái dương, ta gọi đây là ‘Nhất hợp’[11]. (Sự tương hợp này) tạo thành (mối quan hệ), đó là các đường kinh “chính” của Dương đều thành các đường kinh “biệt” của Âm[12]. Kinh “Túc Thiếu âm chi chính”, quay quanh vùng mấu chuyền lớn, nhập vào ven chòm lông mu, hợp với đường đi của kinh Quyết âm[13]. Đường ‘biệt’ của nó nhập vào trong khoảng bờ sườn cụt, tuần hành theo trong ngực, thuộc vào Đởm rồi tán ra ở đây, nó lại lên trên đến Can, xuyên qua Tâm để lên trên, áp vào yết (thực quản), xuất ra ở hàm dưới mép, tán ra ở mặt, ràng buộc vào mục hệ, hợp với kinh Thiếu dương, rồi cùng đường “biệt” của Thiếu dương cùng đi lên, đây là “Nhị hợp”[14]. Kinh “Túc Dương minh chi chính”, lên đến mấu chuyền lớn nhập vào trong bụng, thuộc vào Vị rồi tán ra ở Tỳ, lên trên thông với Tâm, lên trên nữa dọc theo yết (thực quản), xuất ra ở miệng, lên đến chỗ lõm của sống mũi giữa mắt, ràng buộc với mục hệ rồi hợp với Dương minh[15]. Kinh “Túc Thái âm chi chính”, lên trên đến vùng mấu chuyền lớn, hợp với kinh Dương minh, rồi cùng đường “biệt” của Dương minh cùng đi lên, lên trên để kết với yết (thanh quản), xuyên qua lưỡi, đây là ‘Tam hợp’[16]. Kinh “Thái dương chi chính”, chỉ xuống Địa, tách biệt ra từ 2 vùng khớp vai, nhập vào nách, chạy lên Tâm ràng buộc với Tiểu trường[17]. Kinh “Thủ Thiếu âm chi chính”, tách biệt nhập vào ở huyệt Uyên Dịch, giữa 2 đường gân, thuộc vào Tâm, lên trên chạy vào yết hầu, xuất ra ở mặt, hợp với khoé mắt trong, đây là ‘Tứ hợp’[18]. Kinh “Thủ Thiếu dương chi chính”, chỉ lên Thiên, tách biệt ra ở đỉnh đầu nhập vào Khuyết bồn, đi xuống chạy vào Tam tiêu rồi tán ra ở giữa ngực[19]. Kinh “Thủ Tâm chủ chi chính”, tách biệt đi xuống dưới huyệt Uyên Dịch 3 thốn, nhập vào giữa ngực, tách biệt thuộc về Tam tiêu, xuất ra đi dọc theo hầu lung (thanh quản), xuất ra sau tai, hợp với phía dưới huyệt Hoàn Cốt thuộc kinh Thiếu dương, đây là Ngũ hợp[20]. Kinh “Thủ Dương minh chi chính”, đi từ tay, dọc theo 2 bên ngực và vú, tách biệt ra từ huyệt Kiên Ngung, nhập vào dưới trụ cốt (Đại Chùy), xuống dưới chạy vào Đại trường, thuộc vào Phế, lên trên, dọc theo hầu lung (thanh quản), xuất ra ở Khuyết bồn, hợp với kinh Dương minh[21]. Kinh “Thủ Thái âm chi chính”, tách biệt nhập vào Uyên Dịch trước kinh Thiếu âm, nhập vào đi đến Phế rồi tán ra ở Thái Dương, lên trên xuất ra ở Khuyết bồn, đi dọc theo hầu lung (thanh quản) rồi lại hợp với kinh Dương minh, đây là Lục hợp[22]. 经别第十一 黄帝问于岐伯曰:余闻人之合于天道也。内有五藏,以应五音五色五时五味五位也;外有六府,以应六律,六律建阴阳诸经而合之十二月、十二辰、十二节、十二经 水、十二时、十二经脉者,此五藏六府之所以应天道。夫十二经脉者,人之所以生,病之所以成,人之所以治,病之所以起,学之所始,工之所止也,粗之所易,上 之所难也。请问其离合出人奈何?妨伯稽首再拜日:明乎哉问也!此粗之所过,上之所息也,请卒言之。足太阳之正,别人于胭中,其一道下届五寸,别入于肛,属 于膀眈,散之肾,循管当心人散;直者,从管上出于项,复属于太阳,此为一经也足少阳之正,至胭中,别走太阳而合,上至肾,当十四椎,出属带脉;直者,系舌 本,复出于项,合于太阳。此为一合。成以诸阴之别,皆为正也。足少阳之正,绕骼入毛际,合于厥明;别者,入季胁之间,循胸里属胆,散之上肝贯心,以上挟 咽,出颐颔中,散于面,系目系,合少阳于外毗也足厥阴之正,别跑上,上至毛际,合于少阳,与别俱行。此为二合也。足阳明之正,上至牌,人于腹里,属胃,散 之脾,上通于心,上循咽出于口,上颤136颁,还系目系,合于阳明也。足太阳之正,上至滚,合于阳明,与别仅行,上结于咽,贯舌中。此为三合也手太阳之 正;指地,别于肩解,入腋走心,系小肠也。手少阴之正,别人于渊腋两筋之间,属于心,上走喉咙,出于面,合自内附。此为四合也。手少阳之正,指天,别于 巅,入缺盆,下走王焦,散于胸中也。手心主之正,别下渊腋三寸;人胸中,别属三焦,出循喉咙,出耳后,合少阳完骨之下。此为五合也。手阳明之正,从手循膺 乳,别于肩肌入柱骨下,走大肠,属于肺,上循喉咙,出缺盆,合于阳明也。手太阴之正,别人渊腋少阻之前,人走肺,散之太阳,上出缺盆,循喉咙,复合阳明。 此六合也。 THIÊN 12: KINH THỦY Hoàng Đế hỏi Kỳ Bá: “Kinh mạch gồm có 12 đường, bên ngoài nó hợp với 12 kinh thủy, bên trong nó thuộc vào ngũ tạng, lục phủ [1]. Ôi ! 12 kinh thủy, trong số đó có lớn nhỏ, có sâu cạn, có rộng hẹp, có xa gần, tất cả đều không đồng nhau[2]. Ngũ tạng lục phủ có những cao thấp, nhỏ lớn, thọ nhận cốc khí nhiều ít cũng không bằng nhau. vậy sự tương ứng giữa chúng với nhau như thế nào?[3] Ôi ! kinh Thủy nhờ thọ được thủy để vận hành, ngũ tạng nhờ hợp được với thần khí hồn phách để tàng giữ, lục phủ nhờ thọ được ‘cốc khí’ để vận hành, thọ được ‘khí’ để mà mở rộng ra, kinh mạch nhờ thọ được ‘huyết’ để mà ‘doanh’ ra[4]. Nay muốn hợp lại nhau để ‘trị bệnh’ phải làm sao?[5] Ta có thể nghe trình bày về sự châm sâu hay cạn, cứu bằng tráng số nhiều hay ít không?”[6]. Kỳ Bá đáp rằng: “Câu hỏi khéo thay ! Thiên rất cao không thể đo, Địa rất rộng không lường, đó là ý nghĩa của vấn đề được đặt ra[7]. Vả lại, con người sinh ra trong khoảng Thiên Địa, bên trong lục hợp[8]. Đây là Trời cao, Đất rộng, không phải là cái mà con người có thể đo lường mà đạt được vậy[9]. Đến như những kẻ mình cao 8 thước, da thịt hiện rõ nơi đây, bên ngoài, ta có thể đo lường, rờ mó để biết được, khi chết, ta có thể ‘giải phẫu’ để nhìn xem sự cứng mềm của tạng, sự lớn nhỏ của phủ, sự nhiều ít của cốc khí, sự dài ngắn của mạch, sự thanh trọc của huyết, sự nhiều ít của khí[10]. Trong 12 kinh, kinh nào huyết nhiều khí ít, kinh nào huyết ít,khí nhiều , kinh nào cả huyết khí đều nhiều, kinh nào cả huyết lẫn khí đều thiếu, tất cả đều có ‘số lớn’ của nó[11]. Khi trị, dùng châm cứu nhằm điều hòa khí của đường kinh, mỗi trường hợp đều có chỗ thích hợp của nó”[12]. Hoàng Đế nói: “Ta nghe Thầy nói, tai ta rất thích, nhưng Tâm ta chưa được thỏa mãn. Ta mong được nghe cho hết”.[13] Kỳ Bá đáp : “Đây chính là những gì con người ‘tham’ được với Thiên Địa, ứng được với Âm Dương, không thể không xét cho rõ”[14]. Kinh túc Thái dương, bên ngoài nó hợp với sông Thanh thủy, bên trong nó thuộc vào Bàng quang có nhiệm vụ làm thông thủy đạo[15]. Kinh túc Thiếu dương, bên ngoài nó hợp với sông Vị thủy, bên trong nó thuộc vào Đởm[16]. Kinh túc Dương minh , bên ngoài nó hợp với Hải thủy, bên trong nó thuộc vàoVị[17]. Kinh túc Thái âm, bên ngoài nó hợp với sông Nhữ thủy, bên trong nó thuộc vào Thận[18]. Kinh túc Quyết âm, bên ngoài nó hợp với sông Thằng thủy, bên trong nó thuộc vào Can[19]. Kinh thủ Thái dương, bên ngoài nó hợp với sông Hoài thủy, bên trong nó thuộc vào Tiểu trường, thủy đạo xuất ra từ đây[20]. Kinh thủ Thiếu dương, bên ngoài nó hợp với sông Tháp thủy, bên trong nó thuộc vào Tam tiêu[21]. Kinh thủ Dương minh, bên ngoài nó hợp với sông Giang thủy, bên trong nó thuộc vào Đại trường[22]. Kinh thủ Thái âm, bên ngoài nó hợp với sông Hà thủy, bên trong nó thuộc vào Phế [23]. Kinh thủ Thiếu âm, bên ngoài nó hợp với sông Tế thủy, bên trong nó thuộc vào Tâm[24]. Kinh thủ Tâm chủ, bên ngoài nó hợp với sông Chương thủy, bên trong nó thuộc vào Tâm bào[25]. Phàm tất cả ngũ tạng, lục phủ, thập nhị kinh thủy, bên ngoài nó có nguồn, bên trong nó có chỗ bẩm thu, tất cả xuyên suốt nhau như chiếc vòng ngọc không đầu mối[26]. ‘Kinh’ của con người giống như vậy[27]. Cho nên, Thiên thuộc Dương, Địa thuộc Âm, từ thắt lưng trở lên thuộc Thiên, từ thắt lưng trở xuống thuộc Địa[28]. Cho nên, từ “hải” về phía bắc thuộc Âm, từ “hồ” về phía bắc thuộc Âm trong Âm, từ sông Chương về phía nam thuộc Dương, từ sông Hà thủy về phía bắc không đến sông Chương thuộc Âm trong Dương, từ sông Tháp thủy về nam đến sông Giang thủy thuộc Thái dương trong Dương[29]. Đây chỉ là 1 vùng đất (tượng trưng) sự tương hợp của Âm Dương mà thôi, nhằm chứng minh con người cùng ‘tham’ với Thiên Địa[30]. Hoàng Đế hỏi: Ôi ! Sự tương hợp giữa kinh thủy và kinh mạch có những chỗ xa gần, cạn sâu, thủy và huyết có sựnhiều ít, đều có những bất đồng nhưng hợp nhau, dùng nó vào việc châm như thế nào ?”[31]. Kỳ Bá đáp : “Kinh túc Dương minh là ‘biển’ của ngũ tạng, lục phủ, mạch của nó đại, huyết của nó nhiều, khí của nó thịnh, nhiệt của nó tráng; Châm đường kinh này, nếu không sâu thì không làm tán được khí, không lưu kim thì không tả được khí[32]. Châm kinh túc Dương minh sâu 6 phân, lưu 10 hô[33]. Châm kinh túc Thái dương sâu 5 phân, lưu 7 hô [34]. Châm kinh túc Thiếu dương sâu 4 phân, lưu 5 hô [35]. Châm kinh túc Thái âm sâu 3 phân, lưu 4 hô [36]. Châm kinh túc Thiếu âm sâu 2 phân, lưu 3 hô[37]. Châm kinh túc Quyết âm sâu 1 phân, lưu 2 hô[38]. Âm dương của Thủ có con đường thọ khí gần, khí đến lại nhanh, độ châm sâu không thể quá 2 phân, lưu kim đều không quá 1 hô[39]. Đối với những người còn trẻ hoặc lớn tuổi, đối với người có vóc to hay bé nhỏ, đối với người mập hay gầy, tất cả những trường hợp đó phải được người thầy thuốc dùng Tâm để thẩm định, đây là ta đã phỏng theocái lẽ thường của Thiên[40]. Việc dùng phép “cứu” cũng thế, nếu cứu mà quá mức thì người bệnh sẽ bị ‘ác hỏa’, xương bị khô, mạch bị sắc, nếu châm mà quá mức thì sẽ làm cho thoát khí[41]. Hoàng Đế hỏi: “Ôi ! vấn đề nhỏ lớn của kinh mạch, nhiều ít của huyết, dày mỏng của làn da, cứng mềm của bắp thịt cho đến vấn đề lớn nhỏ của “khuẩn: kết tụ giữa cân và nhục”, tất cả có thể đo lường được hay không ?”[42]. Kỳ Bá đáp : “Nhắm vào những trường hợp của những người có thể ‘đo lường’ được rồi chọn người ‘trung đạt’, đó là những người chưa ‘thoát nhục’ thái quá mà huyết khí cũng chưa suy[43]. Nếu gặp những người không đo lường được, tức là những người gầy yếu, hình nhục đều thoát, như vậy làm sao có thể chỉ dựa vào sự đo lường để mà châm được! Vậy nên thẩm xét lại phương pháp ‘thiết tuần môn án’, nên nhìn vào sự hàn ôn, thịnh suy (của khí huyết) để mà điều hòa (khí huyết), đó mới gọi là nhân theo chỗ thích ứng đáng gọi là con đường đúng đắn nhất vậy[44]. 经水第十二 黄帝问于岐伯曰:经脉十二者,外合于十二经水,而内属于五藏六府。夫十二经水者,其有大小、深浅、广狭、远近各不同,五藏六府之高下、大小、受谷之多少亦 不等,相应奈何?夫经水者,受水而行之;五藏者,合神气魂魄而藏之;六府者,受谷而行之,受气而扬之;经脉者,受血而营之。合而以治奈何?刺之深浅,灸之 壮数,可得闻乎?岐伯答曰:善哉问也天至高,不可度,地至广,不可量,此之谓也。且夫人生于天地之间,六合之内,此天之高、地之广也,非人力之所能度量而 至也。若夫八尺之士,皮肉在此,外可度量切循而得之,其死可解剖而视之,其藏之坚脆,府之大小,谷之多少,脉之长短,血之清浊,气之多劣,十二经之多血少 气,与其少血多气,与其皆多血气,与其皆少血气,皆有大数。其治以针艾,各调其经气,固其常有合乎?黄帝曰:余闻之,快于耳,不解于心,愿卒闻之。岐伯答 曰:此人之所以参天地而应阴阳也,不可不察。足太阳外合清水,内属膀眯,而通水道焉。足少阳外合于渭水,内属于胆。足阳明外合于海水,内属于胃。足太阳外 合于湖水,内属于脾。足少阴外合于汝水,内属于肾。足厥阴外合于漏水,内属于肝。手太阳外合推水,内属小肠,而水道出焉。手少阳外合于溪水,内属于三焦。 手阳明外合于江水,内属于大肠。手太阳外合于河水,内属于肺。手少阴外合于济水,内属于心。手心主外合于漳水,内属于心包。凡此五藏六府十二经水者,外有 源泉而内有所禀,此皆内外相贯,如环无端,人经亦然。故天为阳,地为阴,腰以上为天,腰以下为地。故海以北者为阴,湖以北者为阴中之阴,漳以南者为阳,河 以北至漳者为阳中之阴,漂以南至江者为阳中之太阳,此一隅之阴阳也,所以人与天地相参也。137黄帝曰:夫经水之应经脉也,其远近浅深,水血之多少各不 同,合而以刺之奈何?妨伯答日:足阳明,五藏六府之海也,其脉大血多,气盛热壮,刺此者不深弗散,不留不泻也。足阳明刺深六分,留十呼。足太阳深五分,留 七呼。足少阳深四分,留五呼。足大阴深三分,留四呼。足少阴深二分,留三呼。足厥阴深一分,留二呼。手之阴阳,其受气之道近,其气之来疾,其刺深者皆无过 二分,其留皆无过一呼。其少长大小肥瘦,以心①撩之,命日法天之常。灸之亦然。灸而过此者很恶火,则骨枯脉涩;刺而过此者,则脱气。黄帝日:夫经脉之小 大,血之多少,肤之厚薄,肉之坚脆,及帼之大小,可为量度乎?岐伯答日:其可为度量者,取其中度也,不甚脱肉而血气不衰也。若失②度之人,癌瘦而形肉脱 者,恶可以度量制乎?审切循们按,视其寒温盛衰而调之,是谓因适而为之真也。 THIÊN 13: KINH CÂN Cân của kinh túc Thiếu dương khởi lên ở đầu ngón chân út, lên trên kết ở mắt cá ngoài, đi chếch lên để kết ở gối, đi xuống dọc theo mặt ngoài chân, kết ở gót chân, lên để kết ở gót chân phía sau, rồi kết ở kheo chân[1]. Chi biệt của nó kết ở phía ngoài bắp chuối, lên đến mép trong giữa kheo chân rồi cùng đoạn giữa kheo chân lên trên kết ở mông, lên trên, đi cạnh cột sống lên đến cổ gáy[2]. Một nhánh biệt nhập vào và kết ở cuống lưỡi[3]. Đường đi thẳng của nó kết ở xương chẩm cốt rồi lên đầu, xuống mặt (trán) rồi kết ở mũi[4]. Một nhánh tạo thành màng lưới trên mắt, xuống dưới kết ở gò má dưới mắt[5]. Một nhánh từ sau mép sau nách kết ở huyệt Kiên Ngung[6]. Một nhánh nhập vào dưới nách, lên trên xuất ra ở Khuyết bồn, lên trên kết ở huyệt Hoàn Cốt[7]. Một nhánh xuất ra từ Khuyết bồn đi chếch lên xuất ra ở gò má dưới mắt[8]. Bệnh của nó sẽ làm cho ngón chân út và ngón chân sưng thủng và đau, kheo chân bị chuột rút, lưng bị ưỡn như muốn gãy, gân gáy bị co rút, vai không đưa cao lên được, đau từ nách lên đến Khuyết bồn như bó vặn lại, không lắc lư được từ phải hay trái gì cả[9]. Phép trị nên châm bằng phép ‘phần châm’ để đuổi hàn tà cho nhanh, không kể số lần châm, châm cho đến khi hết thì thôi; khi châm nên tìm chỗ nào đau (thống điểm) thì xem đó là du huyệt để châm, ta gọi là chứng ‘tý của tháng trọng xuân’ vậy[10]. • Cân của túc Thiếu dương khởi lên ở ngón chân áp út, phía ngón út, lên trên kết ở mắt cá ngoài, lên trên dọc theo mép ngoài của xương chầy, kết ở mép ngoài gối[11]. Một nhánh tách biệt khởi lên ở bên ngoài xương phụ cốt lên cho đến mấu chuyền lớn, phía trước nó kết ở huyệt Phục Thố, phía sau nó kết ở vùng xương cùng[12]. Đường đi thẳng của nó lên trên cưỡi lên vùng mềm của bờ sườn cụt, lên trên đi theo mép trước của sườn, ràng buộc vào vùng ngực, vú, kết ở Khuyết bồn[13]. Đường đi thẳng của nó lên trên xuất ra từ nách xuyên qua Khuyết bồn xuất ra ở trước kinh Thái dương, đi theo sau tai, lên trên đến góc trán, giao hội ở đỉnh đầu, đi xuống hàm, rồi lên kết ở xương má dưới mắt[14]. Một chi nhánh kết ở đuôi mắt đóng vai trò gìn giữ (duy trì) bên ngoài[15]. Khi bệnh, nó sẽ làm chuyển cân ở ngón áp út phía ngón út, dẫn lên đến gối và chuyển cân ở mép ngoài gối, làm cho gối không co duỗi được, kheo chân bị co rút, mặt trước co giật lên đến háng (mấu chuyền lớn), phía sau làm cho giật đến vùng xương cùng, nó làm đau lan tràn đến bờ dưới sườn cụt, lên trên nó dẫn đến vùng ngực, vú và Khuyết bồn cũng đau, gân cổ bị co rút từ trái sang phải, mắt phải không mở ra được, lên trên quá góc mặt để cùng vận hành với Kiểu mạch, bên trái lạc với bên phải, cho nên nếu bị thương ở góc trái thì chân phải không cử động được, ta gọi tên là ‘duy cân tương giao’[16]. Phép trị là phải châm bằng phép ‘phần châm’ để đuổi hàn tà cho nhanh, không kể số lần châm, châm cho đến khi hết bệnh thì thôi; khi châm nên tìm chỗ nào đau (thống điểm) xem đó là du huyệt để châm; ta gọi là chứng ‘tý của tháng mạnh xuân’ vậy[17]. • Cân của túc Dương minh khởi lên ở giữa 3 ngón chân, kết ở trên mu bàn chân, đi chếch ra ngoài, lên trên gia thêm cho phụ cốt, lên để kết ở mép ngoài gối[18]. Đường lên thẳng của nó kết ở mấu chuyền lớn, lên dọc theo hông sườn rồi thuộc vào cột sống[19]. Đường đi thẳng của nó lên trên dọc theo xương chầy rồi kết ở gối[20]. Một nhánh kết ở ngoài phụ cốt, hợp với kinh Thiếu dương[21]. Đường đi thẳng của nó lên trên đi dọc theo huyệt Phục Thố, lên trên kết ở háng, tụ lại ở âm khí (bộ sinh dục), lên đến bụng, bổ tán ra đến Khuyết bồn rồi kết lại, lên cổ, lên áp vào miệng, hợp với xương gò má, xuống dưới kết ở mũi, lại lên trên hợp với kinh Thái dương, (kinh Thái dương tạo thành màng lưới ở trên mắt), kinh Dương minh tạo thành màng lưới ở dưới mắt[22]. Một nhánh đi từ má lên kết ở trước tai[23]. Khi gây bệnh, nó sẽ làm cho chuyển cân từ ngón chân giữa lên đếnxf ống chân, bàn chân bị giật nhảy lên và cứng, vùng huyệt Phục Thố bị chuyển cân, vùng háng bị sưng thủng, bị chứng đồi sán, cân ở bụng bị co giật, dẫn lên đến Khuyết bồn và má, miệng bị méo sệch, nếu bệnh cấp thì mắt không nhắm lại được, nếu nhiệt thì cân bị mềm lỏng mắt không mở được, nếu cân ở má bị nhiệt thì nó sẽ làm cho cân bị buông lỏng không co lại được, miệng bị sệ xuống[24]. Phép trị là phải dùng “mỡ ngựa”, thoa lên chỗ đang bị co giật, dùng rượu ngâm Quế để bôi vào chỗ bị mềm lỏng, dùng cành Dâu có móc để móc cho miệng được ngay lại (không còn méo nữa), tức là dùng tro lửa của cành dâu sống đặt vào chỗ lõm sâu dưới đất, làm thế nào để cho người bệnh ngồi 1 cách thoải mái, đủ ấm, sau đó dùng mỡ ngựa bôivào nơi má bị co giật, đồng thời cho bệnh nhân uống ít rượu ngon, ăn thịt nướng thơm ngon; người nào không biết uống rượu cũng phải tự mình cố gắng uống cho kỳ được, thoa bóp chỗ đau khoảng 3 lần thì hết bệnh[25]. Phép trị nên châm bằng phép ‘phần châm’ để đuổi hàn tà cho nhanh, không kể số lần châm, châm cho đến khi hết thì thôi, Ta gọi là chứng ‘tý của tháng qúy xuân’[26]. • Cân của túc Thái âm khởi lên ở bên cạnh trong của đầu ngón chân cái, lên trên kết ở mắt cá trong[27]. Đường thẳng của nó lạc với xương phụ cốt trong gối, lên trên đi dọc theo mặt trong đùi, kết ở háng, tụ ở bộ sinh dục, lên trên bụng, kết ở rốn, đi bên trong bụng, kết ở cạnh sườn, tán ra ở giữa ngực[28]. Nhánh ở trong bám vào cột sống, khi gây bệnh, nó sẽ làm cho từ đầu ngón chân cái đến mắt cá trong đều đau, đau như chuột rút, xương phụ cốt bên trong gối bị đau, từ mặt trong vế lên đến háng bị đau, vùng bộ sinh dục bị đau xoắn, xuống dưới dẫn đến (lên trên dẫn đến) rốn và hai bên hông sườn đau, dẫn đến ngực và trong cột sống đau[29]. Phép trị nên châm bằng phép ‘phần châm’, không kể số lần châm, châm cho đến khi hết bệnh thì thôi, khi châm nên tìm chỗ nào đau thì xem đó là du huyệt để châm, ta gọi là ‘tý bệnh của mạnh thu’ vậy[30]. • Cân của Túc Thiếu âm khởi lên từ mặt dưới ngón chân út, cùng với cân của Túc Thái âm đi chếch về phía dưới của mắt cá trong, kết ở gót chân, hợp với cân của Thái dương, đi lên kết ở dưới và phía trong xương phụ cốt, cùng với cân của Thái âm lên trên đi dọc theo cột sống trong rồi dọc theo 2 bên thịt lữ để lên đến cổ gáy, kết ở xương chẩm cốt, hợp với cân của kinh túc Thái dương[31]. Khi bệnh, nó sẽ làm cho gan bàn chân bị chuyển cân, cho nên các nơi mà đường kinh kết vào đều đau và đều chuyển cân, vì bệnh được biểu hiện ở các nơi này, cho nên sẽ gây thành động kinh, co quắp, và cứng mình; nếu bệnh ở ngoài thì sẽ không cúi xuống được, nếu bệnh ở trong thì không ngửa lên được, cho nên nếu bệnh ở Dương thì thắt lưng bị gãy ngược ra sau không cúi xuống được, nếu bệnh ở Âm thì không ngửa lên được[32]. Phép trị nên châm bằng phép ‘phần châm’ để đuổi hàn tà cho nhanh, không kể số lần châm, châm cho đến khi hết thì thôi, khi châm nên tìm chỗ nào đau thì xem đó là du huyệt để châm, ta gọi đó là chứng ‘tý của trọng thu’ vậy[33]. • Cân của túc Quyết âm khởi lên ở mặt trên ngón chân cái, lên trên kết ở trước mắt cá trong, lên trên đi dọc theo xươngchầy, lên trên kết ở phía dưới của bên trong xương phụ cốt, lên trên đi dọc theo mặt trong của vế, kết ở bộ sinh dục, lạc với các cân khác[34]. Khi gây bệnh, nó sẽ làm cho từ ngón chân cái đến trước mắt cá trong đau, trong xương phụ cốt đau, phía trong vế đau, chuyển cân, bộ sinh dục bất dụng, liệt không dùng được nữa; nếu bị thương bên trong nó sẽ không cứng lên được, nếu bị thương bởi hàn tà thì nó bị teo thụt vào trong, nếu bị thương bởi nhiệt thì nó cứng lên không nhỏ lại được[35]. Phép trị là dùng phép ‘hành thủy’ để thanh Âm khí, còn nếu bệnh bị chuyển cân nên dùng phép ‘phần châm’, ‘kiếp thích’, không kể số lần châm, dò thấy nơi nào có điểm đau thì xem đó là du huyệt để châm, ta gọi đây là chứng ‘tý của qúy thu’ vậy[36]. • Cân của Thủ Thái dương khởi lên ở trên ngón út, kết ở cổ tay trên, tuần hành dọc theo mép trong cẳng tay, kết ở phía sau chỗ xương lồi nhọn phía trong khuỷu tay, ấn mạnh vào đó thấy cảm giác đến trên ngón tay út, nhập vào để kết ở dưới nách[37]. Một nhánh đi ra phía sau nách, lên trên vòng theo bả vai, dọc theo cổ, xuất ra đi theo phía trước kinh Thái dương, kết ở huyệt Hoàn Cốt sau tai[38]. Một nhánh nhập vào trong tai[39]. Đường đi thẳng của nó xuất ra ở trên và dưới tai, kết ở hàm, lên trên thuộc vào khoé mắt ngoài[40]. Khi gây bệnh, nó sẽ làm cho ngón tay út lan ra đến mép sau xương lồi nhọn phía trong khuỷu tay đều bị đau, đau dẫn lên phía trong cẳng tay nhập vào dưới nách, dưới nách cũng đau, mép sau nách đau, vòng theo sau bả vai dẫn lên đến cổ đau, ứng theo đó là trong tai bị kêu và đau, đau dẫn đến hàm, mắt có khi bị mờ hồi lâu rồi mới thấy trở lại; khi gân cổ bị co rút thì sẽ làm cho gân bị yếu và cổ bị sưng, đó là hàn nhiệt đang ở tại cổ [41]. Phép trị nên dùng phép ‘phần châm’, ‘kiếp thích’, không kể số lần châm, dò thấy nơi nào bị đau thì đó là du huyệt để châm, hi nào nó vẫn còn sưng thủng, thì tiếp tục dùng kim nhọn (sàm châm) để châm[42]. Đường đi của nhánh gốc lên đến vùng răng, dọc theo trước tai, thuộc vào khoé mắt ngoài, lên đến hàm (trán), kết ở góc trán[43]. Bệnh này làm chuyển cân ở các đường nó đi qua[44]. Phép trị nên dùng phép ‘phần châm’, ‘kiếp thích’, không kể số lần châm, dò thấy nơi nào đau thì đó là du huyệt để châm, gọi là chứng ‘tý của trọng hạ’ vậy[45]. • Cân của Thủ Thiếu dương khởi lên ở đầu ngón tay thứ tư phía ngón út, kết ở cổ tay, lên trên đi dọc theo cẳng tay kết ở khuỷu tay, lên trên vòng quanh theo mép ngoài cánh tay, lên trên vai, đi lên cổ, hợp với kinh Thủ Thái dương[46] Một nhánh từ dưới góc hàm nhập vào ràng buộc với cuống lưỡi[47]. Một nhánh lên khỏi răng đi dọc ra trước tai, thuộc vào khoé mắt ngoài, lên đến trán kết ở góc trán[48]. Khi gây bệnh thì suốt con đường mà kinh đi qua đều chuyển cân, lưỡi bị cuốn lại[49]. Phép trị là dùng phép ‘phần châm’, ‘kiếp thích’, không kể số lần châm cho đến khi hết bệnh thì thôi, chỗ nào có điểm đau chỗ đó là du huyệt để châm, gọi là chứng ‘tý của qúy hạ’[50]. • Cân của thủ Dương minh khởi lên ở đầu ngón tay trỏ về phía ngón cái, kết ở cổ tay, lên trên đi dọc theo cẳng tay lên trên kết ở ngoài khuỷu tay và lên trên đến cánh tay, kết ở huyệt Kiên Ngung[51]. Một nhánh vòng theo bả vai áp vào 2 bên cột sống[52]. Đường đi thẳng của nó đi từ huyệt Kiên Ngung lên đến cổ [53]. Một nhánh lên má, kết ở trong xương gò má[54]. Đường đi thẳng của nó lên trên xuất ra ở trước kinh thủ Thái dương, lên trên đến góc trái của trán để lạc với đầu, đi xuống hàm bên phải[55]. Khi bệnh, nó sẽ gây cho suốt trên đường mà nó đi qua đều bị đau và vị chuyển cân, vai không đưa lên cao được, cổ không ngó qua bên trái và phải được[56]. Phép trị nên dùng phép ‘phần châm’, ‘kiếp thích’, không kể số lần châm, châm cho hết bệnh thì thôi, nơi nào có điểm đau thì nơi đó có huyệt để châm, gọi là chứng ‘tý của mạnh hạ’[57]. • Cân của thủ Thái âm khởi lên ở phía trên đầu ngón tay cái, đi dọc theo ngón tay cái lên trên kết ở sau huyệt Ngư Tế vận hành theo phía ngoài Thốn khẩu, lên trên dọc theo cẳng tay kết ở giữa khuỷu tay, lên trên đến mép trong cánh tay, nhập vào nách, xuống dưới xuất ra ở Khuyết bồn, kết ở trước huyệt Kiên Ngung, lên trên kết ở Khuyết bồn, xuống dưới kết ở trong ngực, tán ra xuyên qua vùng thượng Vị, rồi hợp ở vùng cuối hông sườn[58]. Khi bệnh, nó sẽ làm cho suốt con đường mà nó đi qua đều bị chuyển cân, đau, nếu nặng hơn sẽ thành chứng ‘tức bôn’, hông sườn bị vặn, thổ huyết [59]. Phép trị nên dùng phép ‘phần châm’, ‘kiếp thích’, không kể số lần châm, cho đến khi hết bệnh thì thôi, dò thấy chỗ nào có điểm đau thì đó là du huyệt để châm, gọi là chứng ‘tý của trọng đông’[60]. • Cân của thủ Tâm chủ khởi lên ở đầu ngón tay giữa, cùng đi với cân của Thái âm, kết ở mép trong khuỷu tay, đi lên theo phía trong cánh tay, kết ở dưới nách, đi xuống tán ra phía trước để sau, áp vào hông sườn[61]. Một nhánh nhập vào nách, tán ra ở giữa ngực, kết ở cánh tay hoặc vùng thượng Vị[62]. Bệnh của nó xẩy ra sẽ làm cho suốt con đường mà nó đi qua đều bị chuyển cân cho đến vùng ngực bị đau, chứng ‘tức bôn’[63]. Phép trị nên dùng phép ‘phần châm’, ‘kiếp thích’, không kể số lần châm, cho đến khi nào hết bệnh thì thôi, chọn chỗ nào có điểm đau thì chỗ đó là du huyệt để châm, gọi là chứng ‘tý của mạnh đông’[63]. • Cân của thủ Thiếu âm khởi lên ở mặt trong ngón út, kết ở xương nhọn (cổ tay), lên trên kết ở mép trong khuỷu tay, lên trên nhập vào nách, giao với kinh Thái âm, đi sát vào trong vú, kết ở giữa ngực, tuần hành theo cánh tay (vùng bôn, ngực), xuống dưới ràng buộc vào rốn[64]. Nếu gây bệnh nó sẽ làm cân bên trong co rút, chứng ‘Phục lương’, xuống dưới làm cho khuỷu tay như bị một màn lưới co kéo[65]. Nếu gây bệnh thì nó sẽ làm suốt con đường mà nó đi qua sẽ bị chuyển gân, gân bị đau[66]. Phép trị nên dùng phép ‘phần châm’, ‘kiếp thích’, không kể số lần châm, khi nào hết bệnh thì thôi[67]. Khi nó đã thành Phục lương thì bệnh nhân sẽ ói ra máu và mủ, sẽ chết, không trị được[68]. Bệnh thuộc kinh cân, nếu hàn thì làm cho bệnh nhân bị gãy gấp ra sau, gân bị co rút, nếu nhiệt thì gân bị buông lỏng không co lại được, bị chứng Âm nuy không còn dùng đến (tông cân) được nữa[69]. Khi Dương bị cấp thì bị gãy gấp ra sau, Âm bị cấp thì bị cúi xuống không duỗi người ra được[70]. Khi chúng ta áp dụng phương pháp ‘thối thích’ tức là châm đối với hàn chứng, hàn cấp[71]. Trong trường hợp nếu là nhiệt chứng thì gân bị buông lỏng không co lại được, không nên áp dụng phương pháp ‘phần châm’, gọi là chứng ‘tý của qúy đông’ vậy[72]. Kinh Dương minh ở Túc, kinh Thái dương ở Thủ, khi cân bị co rút thì miệng và mắt bị méo lệch, và đều bị co rút không thể nhìn thấy thẳng, phép trị như phương pháp đã nói[73]. 经筋第十三 足太阳之施,起于足小指,上给予踝,邪上结于膝,其下循足外踝,结于庭,上循跟,结于胭;其别者,结于端外,上胭中内廉,与胭中共上结于臀,上摔脊上项; 其支者,别人结于舌本;其直者,结于枕骨,上头下颜,结于鼻;其支者,为目上网,下结于颀;其支者,从腋后外廉,结于肩规兵支者,人腋下,上出缺盆,上结 于完骨;其支者,出缺盆,邪上出于颀。其病小指支,跟肿瘤,胭挛,脊反折,项筋急,肩不举,腋支,缺盆中纽痛,不可左右摇。治在插针劫制,以知为数,以痛 为输,名曰仲春痹也。足少阳之筋,起于小指次指,上给外踝,上循脏外廉,结于膝外廉;其支者,别起外辅骨,上走群,前者结于伏兔之上,后者结于屁;其直 者,上乘胜季胁,上走腋前廉,系于膺乳,结于缺盆;直者,上出腋,贯缺盆,出太阳之前,循耳后,上额角,交巅上,下走颔,上结于颀;支者,结于目毗为外 维。其病小指次指支转筋,引膝外转筋,膝不可屈伸,因筋急,前引群,后引凤,即上乘妙季胁痛,上引缺盆膺乳颈,维筋急,从左之右,右目不开,上过右角,并 脚脉而行,左络于右,故伤左角,右足不用,命日维筋相交。治在活针劫刺,以知为数,以痛为输,名日孟春痹也。足阳明之筋,起于中三指,结于跄上,邪外上加 于捕骨,上结于膝外廉,在上给干群枢,上循胁,属脊;其直者,上循所,结于膝;其支者,结于外辅骨,合少阳;其直①心:原书篇末注:"一本作意"0②失: 原作"夫",据呷乙经)、什素)九138者,上循伏兔,上结于外聚于阴器,上胶而布,至缺盆而结,上颈,上挟口,合于颀,下结于鼻,上合于太阳,太阳为目 上网,阳明为目下网;其支者,从颊结于耳前。其病足中指支,胜转筋,脚跳坚,伏兔转筋,碑前肿,癌店;腹筋急,引缺盆及颊,卒口僻,急者目不合,热则筋 纵,目不开。颇筋有寒,则急引颊移口;有热则筋弛纵缓,不胜收故僻。治之以马膏,膏其急者,以白酒和桂,以徐其援者,以桑钩钧之,即以生桑灰置之欢中,高 下以坐等,以膏熨急额,且饮美酒,唤美炙肉,不饮酒者,自强也,为之三税而已。治在插针劫刺,以知为数,以痛为输,名曰季春痹也。粹足太阳之筋,起于大指 之端内侧,上结于内踝;其直者,络于豚内辅骨,上循阴股,结于骼,聚于阴器,上腹,结于脐,循腹里,结于肋,散于胸中;其内者,著于脊。其病足大措支,内 踝痛,转筋痛,膝内铺骨痛,阴股引群而痛,阴器纽痛,下引脐两胁痛,引膺中脊内病。治在插针劫别,以知为数,以痛为输,命日益秋痹也。足少阴之筋,起于小 指之下,并足太阴之筋,邪走内踝之下,结于度,与太阳之筋合,而上结于内辅之下,并太阳之筋而上循阴股,结于阴器,循脊内挟香,上至项,结于枕骨,与足太 阳之筋合。其病足下转筋,及所过而结者皆痛及转筋。病在此者,主痛瘤及痉,在外者不能偏,在内者不能仰。故阳病者腰反折不能俯,阴病者不能抑。治在活舒劫 刺,以知为数,以痛为输,在内者熨引饮药。此筋折纽,纽发数甚者,死不治,名日仲秋痹也。足厥阻之筋,起于大指之上,上结于内踝之前,上循脏,上给内辅之 下,上循阴股,结于阴器,络诸筋。其病足大指支,内踝之前痛,内铺痛,阴股痛转筋,阴器不用,伤于内则不起,伤于寒则阴缩入,伤干热则纵挺不收。治在行水 清明气。其病转筋者,治在活针劫刺,以知为数,以痛为输,命曰季秋痹也。手太阳之筋,起于小指之上,结于脱,上循臂内廉,结于时内锐骨之后,弹之应小指之 上,入结于腋下;其支者,后走腋后廉,上绕肩呷,循颈出走太阳之前,结于耳后完骨;其支者,入耳中植者,出耳上,下结于颔,上属目外毗。其病小指支,肘内 锐骨后廉痛,循臂阴人腋下,腋下痛,腋后廉痛,绕肩肿引颈而痛,应耳中鸣痛,引颔目瞑,良久乃得视,颈筋急则为筋疾颈肿。寒热在颈者,治在活针劫刺之,以 知为数,以痛为输,其为肿者,复而锐之。本支者,上曲牙,循耳前,属自外毗,上颔,结于角。其痛当所过老支转筋。治在插针劫刺,以知为数,以痛为输,名曰 仲夏痹也。手少阳之筋,起于小指次指之端,结手腕,上①循臂结于肘,上绕德外廉,上肩走颈,合手太阳淇支者,当曲颊人系舌本;其支者,上曲牙,循耳前,属 目外毗,上乘颔,结于角。其病当所过者即支转筋,舌卷。治在活针劫刺,以知为数,以痛为输,名曰季夏痹也。手阳明之筋,起于大指次指之端,结于腕,上循 臂,上结于肘外,上编绘于铺;其①上:原作"中",据胡本、拥乙经)别太素•经筋)改。139支者,绕肩呷,挟脊;直者,从肩骰上颈;其支者,上颊,结于 顺;直者,上出手太阳之前,上左角,络头,下右颔。其病当所过者支痛及转筋,肩不举,颈不可左右视。治在插针劫刺,以知为数,以痛为输,名曰益夏痹也。手 太阳之筋,起于大指之上,循指上行,结于鱼后,行寸口外恻,上循臂,结肘中,上腺内廉,入腋下,出缺盆,结肩前够,上结缺盆,下结胸里,散贯贲,合资下, 抵季胁。其病当所过者支转筋痛,甚成急贫,胁急吐血。治在播针劫刺,以知为数,以痛为输,名曰仲冬痹也。手心主之筋,起于中指,与太阴之筋并行,结于肘内 廉,上臂阴,结腋下,下散前后挟胁;其支者,入腋,散胸中,结于臂。其病当所过者支转筋,前及胞癌患责。治在活针劫刺,以知为数,以痛为输,名日益冬痹 也。手少明之筋,起于小指之内侧,结于税骨,上结时内廉,上人腋,交太阳,挟乳里,结于胸中,循臂,下系于脐。其病内急,心承伏梁,下为肘网C其病当所过 者支转筋,筋痛。治在活针劫刺,以知为数,以痛为输。其成伏梁唾血脓者,死不治。经筋之病,寒则反折筋急,热则筋弛纵不收,明展不用。阳急则反折,阴急则 饰不伸。烨刺者,刺寒急也,热则筋弛纵不收,无用播针。名曰季冬痹也。足之阳明,手之太阳,筋急则口目为倾,毗急不能卒视,治皆如右方也。 THIÊN 14: CỐT ĐỘ Hoàng Đế hỏi Bá Cao: “Thiên ‘Mạch Độ’ có nói về sự dài và ngắn của kinh mạch, vậy chúng ta dựa vào đâu để lập nên (sự quy định) đó ?”[1]. Bá Cao đáp : “Trước hết, chúng ta nên đo đạc sự dài ngắn, rộng hẹp, lớn nhỏ của cốt tiết, được vậy thì mạch độ sẽ định vậy” [2]. Hoàng Đế hỏi: “Ta mong được nghe về mức độ trung bình của của người trung bình (chúng nhân)[3]. Con người trung bình đo dài được 7 xích 5 thốn, vậy sự dài ngắn, lớn nhỏ của cốt tiết của họ phải tính như thế nào (kỷ hà) ?[4]. Bá Cao nói: “Chu vi của đại cốt của đầu dài 2 xích 6 thốn, chu vi của ngực dài 4 xích 5 thốn, chu vi của thắt lưng dài 4 xích 2 thốn, vùng có tóc che phủ, tức là mí tóc trước trán đến mí tóc cổ gáy sau dài 1 xích 2 thốn, từ mí tóc trước xuống đến cằm dài 1 xích, người quân tử nên dùng phép chiết trung (để tính)”[5]. Từ kết hầu trở xuống đến giữa Khuyết bồn dài 4 thốn[6]. Từ Khuyết bồn trở xuống đến xương Cưu Vĩ dài 9 thốn[7]. Nếu quá (dài hoặc rộng hơn) thì Phế to ra, nếu không đủ (bất mãn) thì Phế nhỏ lại[8]. Từ xương kiếm (chấn thủy) xuống cho đến Thiên Xu dài 8 thốn[9]. Nếu quá thì Vị to ra, nếu bất cập thì Vị nhỏ lại[10]. Từ Thiên Xu xuống đến Hoành Cốt dài 6 thốn rưỡi[11]. Nếu quá thì hồi trường rộng và dài, nếu không đủthì hẹp và ngắn[12]. Xương hoành cốt dài 6 thốn rưỡi[13]. Từ mép trên của Hoành Cốt trở xuống cho đến mép trên của phía trong xương phụ cốt dài 1 xích 8 thốn[14]. Từ mép trên của phía trong xương phụ cốt trở xuống đến mép dưới dài 3 thốn rưỡi[15]. Từ mép dưới của xương phụ cốt trong xuống dưới đến mắt cá trong dài 1 xích 3 thốn[16]. Từ mắt cá xuống dưới mặt đất dài 3 thốn[17]. Từ kheo chân ngay đầu gối xuống dưới đến mu bàn chân dài 1 xích 3 thốn[18]. Từ mu bàn chân xuống tới mặt đất dài 3 thốn[19]. Cho nên, phần chu vi của cốt lớn thì gọi là thái quá, nhỏ thì gọi là bất cập[20]. Từ góc trán đến xương trụ cốt dài 1 xích[21]. Phần vận hành trong nách không hiện rõ ra dài 4 thốn[22]. Từ nách xuống dưới xương sườn cùng (quý hiếp) dài 1 xích 2 thốn[23]. Từ xương sườn cùng xuống đến mấu chuyển lớn (bễ khu) dài 6 thốn[24]. Từ mấu chuyển lớn xuống khe đầu gối dài 1 xích 9 thốn[25]. Từ đầu gối xuống đến mắt cá chân ngoài dài 1 xích 6 thốn[26]. Từ mắt cá ngoài xuống đến huyệt Kinh Cốt dài 3 thốn[27]. Từ huyệt Kinh cốt xuống đến mặt đất dài 1 thốn[28]. Phía sau tai, ngay nơi huyệt Hoàn Cốt đo ngang rộng 9 thốn[29]. Trước tai, ngang nơi cửa tai (Thính Cung) đo ngang rộng 1 xích 3 thốn[30]. Trong khoảng lưỡng quyền (2 má), 2 bên cách nhau 7 thốn[31]. Khoảng cách giữa 2 vú rộng 9 thốn rưỡi[32]. Khoảng cách giữa 2 mấu chuyển lớn rộng 6 thốn rưỡi[33]. Chân dài 1 xích 2 thốn, rộng 4 thốn rưỡi[34]. Từ vai đến khuỷu tay dài 1 xích 7 thốn[35]. Từ khuỷu tay đến cổ tay dài 1 xích 2 thốn rưỡi[36]. Từ cổ tay đến xương bản tiết của ngón giữa dài 4 thốn[37]. Từ xương bản tiết đến cuối (ngón tay) dài 4 thốn rưỡi[38]. Từ mí tóc gáy xuống dưới đến xương sống lưng dài 2 thốn rưỡi[39]. Từ lữ cốt trở xuống đến xương cùng gồm 21 đốt, dài 3 xích[40]. Các đốt nằm trên mỗi đốt đều dài 1 thốn 4 phân 1 ly, phần còn dư lẻ lại đều được tính ở phần các đốt dưới, cho nên, 7 đốt trên cho đến lữ cốt dài 9 thốn 8 phân 7 ly[41]. Đây là những độ của cốt của chúng nhân: đa số người, từ đó (cổ nhân) lập nên sự dài ngắn của kinh mạch[42]. Nhờ đó, ta có thể nhìn kinh mạch được ở thân thể, khi nó hiện ra phù mà kiên, hiện ra rõ ràng mà lớn, đó là huyết nhiều; nhỏ mà trầm, đó khí nhiều[43]. 骨度第十四   黄帝问于伯高曰:脉度言经脉之长短,何以立之?伯高曰:先度其骨节之大小广狭长短,而脉度定矣。黄帝曰:愿闻众人之度,人长七尺五寸者,其骨节之大小长短 各几何?伯高曰:头之大骨围二尺六寸,胸围四尺五寸,腰围四尺二寸。发所复者,颅至项尺二寸;发以下至颐长一尺,君子终折。结喉以下至缺盆中长四寸,缺盆 以下至骼骷长九寸,过则肺大,不满则肺水踢骷以下至天枢长八寸,过则胃大,不及则胃小。天枢以下至横骨长六寸半,过则回肠广长,不满则狭短。横骨长六寸 半,横骨上廉以下至内辅之上廉长一尺八寸,内辅之上廉以下至下廉长三寸半,内辅下廉下至内踝长一尺三寸,内踝以下至地长三寸,膝团以下至附属长一尺六寸, 附属以下至地长三寸,故骨围大则太过,小则不及。角以下至柱骨长一尺,行腋中不见者长四寸,腋以下至季胁长一尺二寸,季胁以下至辟枢长六寸,群枢以下至膝 中长一尺九寸,膝以下至外踝长一尺六寸,外踝以下至京骨长三寸,京骨以下至地长一寸。耳后当完骨者广九寸,耳前当耳门者广一尺三寸,两颧之间相去七寸,两 乳之间广九寸半,两牌之间广六寸半。14O足长一尺二寸,广四寸半。肩至肘长一尺七寸,肘至脱长一尺二寸半,脱至中指本节长四寸,本节至其本长四寸半。项 发以下至背①骨长二寸半,臂骨以下至尾船二十一书长三尺,上节长一寸四分分之一,奇分在下,故上七节至于育骨九寸八分分之七,此众人骨之度也,所以立经脉 之长短也。是故视其经脉之在于身也,其见浮而坚,其见明而大者,多血;细而沉者,多气也。
    1 like
  27. Chào bạn! Đọc câu hỏi của bạn, tôi lập quẻ: Truân >> Bác >> Tùy Luận: linh động thay đổi công việc [Tùy] sẽ gặp gian truân [Truân]. Nguyên nhân vì tốn hao chi phí, công sức nhiều [bác] mà vẫn ko đủ đảm đương với thách thức [Truân] Lời khuyên: cứ an ổn với công việc hiện tại, khai thác tối đa khả năng học hỏi, kinh nghiệm, và quan hệ ở công việc hiện tại này Vài lời tham khảo giúp vui, chúc bạn thành công, vui vẻ
    1 like
  28. Xuất hiện video tuyên bố bin Laden vẫn còn sống - Suaramedia trích tuyên bố của một lãnh đạo Pakistan cho biết, trùm khủng bố Osama bin Laden vẫn còn sống và sống khỏe mạnh. Theo lời tư lệnh Wali Rahman - một chỉ huy của tổ chức Mujahideen ở Pakistan, thì Sheikh Osama bin Laden vẫn còn sống và tình trạng sức khỏe rất tốt. Video Wali Rahman tuyên bố thông tin trên được đăng tải trên một diễn đàn Ansar của người Hồi giáo và được BBC từ Ả Rập trích dẫn lại. Ông nói: "Mặc dù tôi không gặp trực tiếp Sheikh Osama, nhưng tôi có thể xác nhận rằng Sheikh Osama bin Laden vẫn còn sống và trong tình trạng tốt". Video nói tr vẫn chưa được xác minh. Trong video là cảnh một người đàn ông trông giống bin Laden bị thương ở chân và tay và đang được hai người khác giúp đỡ băng bó và không hề có vết thương trên trán. Địa điểm quay giống như trong một khu rừng. Xem Video Trước đó, hôm 2/5, không lâu sau tuyên bố của Tổng thống Obama về cái chết của trùm khủng bố, một đại diện cấp cao của Lực lượng Taliban thuộc nhóm "Tehrik-e-e Taliban Pakistan" ở Pakistan đã xuất hiện trên kênh truyền hình "Geo - TV" tuyên bố rằng bin Laden thực sự vẫn còn sống và cho rằng thông tin mà Mỹ đã đưa ra là tin "giả".Chính quyền của Tổng thống Obama cũng hai lần lên tiếng đính chính các thông tin sai lệch có liên quan tới cái chết của bin Laden. Những thông tin này cho rằng "quá vội vàng" khi tin bin Laden đã chết trong tình trạng không có vũ trang và dùng người vợ trẻ làm lá chắn. Cũng có tin nói rằng người vợ này vẫn còn sống, chỉ bị bắn vào chân. Tổng thống Obama đã từ chối công bố ảnh chụp thi thể của bin Laden sau khi chết vì cho rằng những hình ảnh này quá "khủng khiếp". Nguyễn Hường (Tổng hợp)
    1 like