-
Thông báo
-
Nội quy Lý Học Plaza
Nội quy này là bản mở rộng Nội Quy - Quy định của Diễn đàn. Khi tham gia mua bán, các thành viên phải tuân theo những quy định sau: Tiêu đề bài viết: Bao gồm: Chỉ dẫn địa lý, Loại hình Mua/Bán, Thông tin mua bán.
Chỉ dẫn địa lý: Tỉnh/thành nơi mua bán. Hoặc sử dụng định nghĩa có sẵn:TQ: Toàn quốc
HCM: TP Hồ Chí Minh
HN: Hà Nội
[*]Ví dụ: HCM - Bán Vòng tay Hổ Phách Nội dung bài viết: Mô tả chi tiết sản phẩm mua/bán
Bắt buộc phải có thông tin liên lạc, giá Mua/Bán
Bài mới đăng chỉ được phép up sau 03 ngày.
Thời gian up bài cho phép: 01 ngày 01 lần.
Các hành vi vi phạm nội quy này sẽ bị xóa bài hoặc khóa tài khoản mà không cần báo trước.
-
Leaderboard
Popular Content
Showing most liked content on 14/08/2011 in all areas
-
16/15/2008 Kính thưa các anh chị em diễn đàn Lyhocdongphuong! Học thuyết Âm dương Ngũ hành là học thuyết thống nhất vũ trụ mà chủ nhân của nó chính là nền văn hoá huyền vĩ Văn Lang – cội nguồn của dân tộc Việt Nam ta - 5000 năm trước đã từng rực rỡ, huy hoàng phía nam sông Dương Tử. Đó là quan điểm nhất quán, sáng tạo, có tính đột phá của anh Thiên Sứ mà tôi rất hâm mộ. Lấy cảm hứng từ quan điểm đó mà tôi vốn trước kia không quan tâm lắm đến học thuyết này, “kính nhi viễn chi” thôi, chú tâm vào những bài nghiên cứu, tranh luận về học thuyết này trên các diễn đàn lịch sử, lý số. Tôi nhận thấy rằng, học thuyết huyền vĩ này của tổ tiên ta đã bị che lấp, thất truyền hành ngàn năm, chỉ còn sót lại một số ít ỏi những mảnh vỡ đã bị biến dạng dưới dạng những ứng dụng cụ thể, không hoàn chỉnh cả về thực hành cũng như lý thuyết bằng văn tự của chính nền văn hoá đã đập vỡ nó. Không nhận thức được điều đó thì thôi, nhưng đã biết được thì bổn phận của mỗi chúng ta trước tổ tiên là phải đóng góp một phần, dù là nhỏ bé của mình theo từng hoàn cảnh, phục hưng, tôn vinh văn hoá Việt. Một phần quan trọng trong những đóng góp đó là phục hồi lại học thuyết Âm dương Ngũ hành nguyên thuỷ. Đó là một công việc vô cùng khó khăn nhưng không phải không làm được nếu tất cả chúng ta cùng nhiệt tâm, kiên trì, sáng tạo, khoa học và đặc biệt phải có với tấm lòng trong sạch, không vụ lợi hướng tới tổ tiên. Theo dõi các bài nghiên cứu tranh luận trên các diễn đàn, tôi cho rằng chúng ta đang thiếu hẳn sự sáng tỏ bản chất hệ thống khái niệm căn bản của học thuyết Âm dương Ngũ hành, một phương pháp luận đúng đắn xuất phát từ bản chất của những đối tượng mà ta nghiên cứu. Chúng ta phải thiên về sự hợp lý hình thức, những “tượng”, “số” mang nặng suy diễn chủ quan của mỗi chúng ta, rất khó thống nhất ý kiến và phản ánh không đầy đủ, trọn vẹn đối tượng đó. Hơn nữa, chúng ta phải lệ thuộc vào những tài liệu chữ Hán còn sót lại, lưu truyền đã hàng ngàn năm, chắc chắn đã có rất nhiều sai lệch dễ làm chệch hướng tư duy đúng đắn. Ngoài ra, sự trì trệ tư duy, sự câu nệ bảo thủ, những toan tính, đố kỵ, tự ái, … cũng cản trở sự sáng tạo, đồng tâm hiệp lưc của chúnh ta. Xưa kia, các cụ của chúng ta chắc chắn cũng quan sát thực tại khách quan, chiêm nghiệm thực tế, dùng trí tuệ của mình phát minh ra học thuyết Âm dương Ngũ hành. Ngày nay, thực tại khách quan đó vẫn còn hiện hữu. Chúng ta – con cháu các cụ - đương nhiên phải được thừa hưởng trí thông minh đó. Chúng ta lại có bao nhiêu lợi thế so với các cụ do thời đại mình mang lại. Hơn nữa, lại được những gợi ý vẫn còn vô cùng giá trị từ những “mảnh vỡ văn minh” của các cụ còn sót lại... Chẳng có lý do gì chúng ta không thể nghĩ ra được cái mà các cụ đã nghĩ ra từ hàng mấy ngàn năm trước, và nhất định phải tốn ít thời gian hơn. Tâm niệm những điều đó, lại được anh Thiên Sứ gợi ý rằng, chúng ta chỉ có thể phục hồi lại được học thuyết Âm dương Ngũ hành từ những giá trị của nền văn minh sản sinh ra nó – nền văn minh tộc Việt, tôi chẳng tự lượng sức mình, cố gắng xây dựng “Cơ sở học thuyết Âm dương Ngũ hành” và trình ra đây để cùng anh chị em trong diễn đàn thảo luận, cũng là để tỏ một phần tấm lòng tôi với tổ tiên tộc Việt. Suy nghĩ còn nhiều chỗ chưa thấu đáo, diễn tả còn nhiều chỗ chưa hết ý, mong anh chị em lượng thứ. VÔ TRƯỚC1 like
-
Trước tiên xin kính chào các quý ông quý bà cùng toàn thể quý cô chiêu và quý cậu ấm. Hiện nay, mục Tử vi luận giải này rất đông khách, đại bộ phận khách khứa là quý cậu ấm và quý cô chiêu, mới 19 đôi mươi nên còn nhiều sự đời chưa hiểu, thiết tưởng mình đỗ đại học đã là nhớn, biết Hun đã là khôn nhưng khi lạc vào thế giới tiên đoán thì đúng là một kiến thức mới. Hiện nay, theo như tôi quan sát, hầu hết các anh chị, cô bác luận giải ở diễn đàn đều dùng từ ngữ tân thời, rất ít từ ngữ cổ hoặc cũ. Nhưng xem ra nhiều người Trẻ không hiểu và nhiều người xấu số (lá số không đẹp như ý) hay hỏi đi hỏi lại, người này trả lời không ưng thì tưng tưng chạy qua hỏi người khác. Giá mà khi đi học mà chăm chỉ chịu khó như thế thì tốt cho nước nhà quá. Vì vậy tôi xin mạn phép mở ra mục này để các cô bác, anh chị luận giải lá số đóng góp các kiến giải vào đây để các quý ông bà, quý cô ấm cậu chiêu đọc hiểu một vài vấn đề cơ bản. Với các quý vị nhờ bình giải lá số thì chỉ nên đọc hiểu chứ đừng View như người Anh. Bởi quý vị viết vài dòng cảm xúc vào đây thì sẽ có nhiều điều không cần thiết. Nếu thấy nhất thiết phải viết thì nên đọc kỹ trước khi đặt tay gõ phím hỏi về vấn đề mình chưa hiểu. Rào trước, Chắn sau như vậy thiết nghĩ cũng đã cạn lẽ. Xin phép quý vị cho tôi vào thẳng vấn đề cần vào như sau: 1/ Không còn là trinh nữ trước khi động phòng hoa trúc: Việc này không nhất thiết cứ phải là quan hệ với người ngoài rồi mới lấy chồng. Hoàn toàn có thể quan hệ với người chồng trước khi cưới và đăng ký kết hôn. 2/ Phải lập gia đình muộn mới tránh được hình khắc chia ly: Muộn là từ tầm 30 tuổi trở đi, Sớm là từ 24 tuổi trở về trước, Trung bình là tự hiểu. 3/ Giải pháp để tránh hình khắc ly dị: muộn lập gia đình, làm lẽ, cưới hỏi dở dang người này rồi lấy người khác, cưới đi và cưới lại 4/ Cưới đi và cưới lại: Là việc hi hữu, ví như vì ở xa nhau nên phải tổ chức cưới ở 2 nơi, bái gia tiên 2 lần, hoặc cưới chui trước khi cưới thật, tức là ra phường làm đăng ký kết hôn hoặc lấy được giấy đăng ký kết hôn rồi về nhà làm lễ bái gia tiên ở 1 trong 2 họ, Hiện nay thiên hạ rất chuộng cái vụ cưới đi rồi cô dâu lẳng lặng bỏ về nhà đẻ, sau đó chú rể mới lóc cóc đi đón dâu về lần nữa. Để gọi là qua 2 lần đò đểu. Vì là đò đểu nên chẳng có gì đảm bảo cái sự giả dối cố ý được biện hộ là chữa mẹo với chẳng méo này có tác dụng gì cả. Chồng 5 thê 7 thiếp vẫn cứ diễn ra, vợ thì có cả bộ sưu tập người tình thì vẫn chẳng tránh khỏi. Thế thì chọn giờ lành tháng tốt làm gì hay tại thầy bói dốt? 5/ Kim lâu đối với nữ nên không được lấy chồng: 1 lần ân ái cũng nên vợ chồng, nếu nói dại chỉ 1 lần nghịch dại mà có thai, vậy lúc nghịch dại ấy ai xem ngày xem giờ cho? Yêu thì Cưới, đó là nét văn hóa của dân tộc Việt, "Ép dầu ép mỡ ai nỡ ép duyên?", "Ngày xưa ai cấm duyên bà, mà nay bà già bà cấm duyên tôi?", "Hùng Vương kén rể thời nay: Xe bốn bánh, Cánh 2 bên, Lên thang máy (nhà biệt thự cao hơn 5 tầng phải đi thang máy chứ ko phải loại trung cư vớ vỉn) Như vậy Kim lâu hay không, không quan trọng trong việc cưới chồng, bởi nếu quan trọng thế thì sao lúc đẻ con ko tính chuyện kim lâu, chồng thì chỉ sống được vài chục năm cùng mình (lâu hơn cha mẹ mình) nhưng thường thì chồng không sống lâu hơn con mình (Ở nhà theo cha, lấy chồng theo chồng, chồng chết theo con cái). Vậy rõ ràng cái chuyện trăm năm kia là sống với con, con cái lo ma chay - hiếu hỉ cho cha mẹ, quan trọng thế sao không Kiêng? hay sướng quá nên quên mất việc kiêng cữ? 6/ Cải số: Quả có vài trường hợp lá số phán Tử vong, đương số quả nhiên có nhìn thấy Quỷ Môn Quan. Nhưng được cứu giải. Nên không phải xuống mười mấy tầng địa ngục an dưỡng. Đó là những trường hợp hi hữu và không phải tất cả những người có cùng ngày, cùng tháng, cùng năm đó đều được cứu giải như thế. Mình không chết thì người khác chết, số trời đã định ngày hôm đó Tử thần với lưỡi hái Đầu lâu phải gom đủ 3000 đầu lâu vào cái túi đen ngòm, nếu không đủ thì bị phạt, không nhẽ cái lão Sư cọ mốc với lưỡi hái dài ngoằng đó nhận hối lộ của quý vị để giết người khác thế thân cho quý vị hoài? Rõ là không rồi. Như vậy việc cải số cũng giống như việc thi Hoa hậu thế giới vậy, cả năm chỉ có 1 người đăng quang ngôi vị cao nhất mà thôi. Chứ cải được số thì sao không làm cho lá số đẹp cả 12 cung số luôn đi, chỉ cải mỗi cái cung Phu Thê hay Tử tức xấu hoắc để làm gì? vậy cung này tốt lên thì cung nào sẽ xấu đi đây? Tử vi không phải là cái để mọi người xoay chuyển càn khôn mà chỉ để con người nhìn vào đó để chuẩn bị tâm lý cũng như cách ứng xử sao cho tốt nhất trong hoàn cảnh đó mà thôi. Nhưng không có nghĩa là khoanh tay chịu trói, Tức biết được tháng này mình bị mất tiền có thể do bị cướp hoặc bị vay đểu. Thì mình phải tự đưa ra đối xách là cướp thì phải truy hô, vay đểu thì chỉ cho vay ít thôi. 7/ Giầu có đừng vội mừng, nghèo khó đừng vội lo: Biết số mình nghèo, bon chen cũng chẳng lợi gì thì đừng lấy đó làm buồn, mà hãy nghĩ đến việc mình sống có hạnh phúc không, người ta giầu có mà con cái ăn tàn phá hại thì có hạnh phúc không? kiếm tiền nhiều để vợ chồng nem chả mà vẫn chung giường, con cái hút sách mà vẫn đi du học thì khi về già có sướng không? Giầu mà không sang chẳng bằng nghèo khó mà đứng đắn. Sống ở trên đời, cần có 1 cái tâm cùng với cái tầm chứ không phải tiền bạc và địa vị. 8/ Tuổi còn trẻ quá (dưới 25) thì không nên tìm hiểu quá sâu về tương lai xa: Tầm tuổi này chỉ nên biết tương lai gần trong 5 năm tới chứ đừng tham lam mà hỏi thông cả đến lúc vào hòm. Cuộc đời này chỉ có 18% là những điều tuyệt vời, với 2% may mắn, còn lại có đến 80% những điều không may. Vì thế hầu hết xem số nói về điềm gở nhiều và dễ hơn điềm lành. Nhưng với số lượng điềm lành nhỏ bé ấy lại làm lên cả 1 kỳ tích về cuộc sống con người. Vì vậy, hãy nhìn gần để dễ làm, đừng nhìn xa quá mà thêm mệt mỏi. 9/ Tỷ phú tại Thiên, Triệu phú nhờ tích góp, đổi giờ sinh để làm gì?: Giầu không phô, nghèo không xấu hổ. Nếu đã biết số mình nghèo thì cố mà tích góp, để một mai mưa gió đau ốm còn có cái dùng, chứ nợ nần là tự mình bán danh dự của mình đi rồi. Bởi nhỡ một mai chết đi, gánh nợ đó đổ lên đầu ai nếu ko phải là người thân ruột thịt trong nhà? Vì vậy dù giầu hay nghèo thì cũng nên khiếm tốn. Đừng xừng sực đổi giờ sinh, ngày sinh. Nếu đã không biết thì cần làm rõ trước, khi đăng tin lên cần kiểm tra lại kẻo đến lúc người giải đã luận giải cả tràng rất dài rồi mà cuối cùng là sai giờ sinh. Nếu quý vị đi xem mất phí, sẽ có bao nhiêu người nhìn quý vị? người ta đang xếp hàng chờ đến lượt mà lại bị 1 kẻ lãng nhách xếp trước. Như thế là không lịch sự. Đổi giờ sinh, chắc gì đã có lá số tốt hơn 10/ Vợ chồng có ngày xa cách: Xa cách không có nghĩa là ly dị, nhưng lại có ý nghĩa là chia ly tạm thời. vì dận nhau hoặc vì công tác, không thể luận giải chính xác được là vì sao. 11/ Bị làm sao đó: Làm sao là làm sao thì có nhiều trường hợp, nhưng tựu chung là muốn biết nguyên nhân và kết quả, Tử vi không thể chỉ rõ được vấn đề, ví như đụng xe hay đâm xe? đụng thì chỉ là va quệt nhẹ, còn đâm xe thì nặng rồi. Nhưng ai đâm ai và xe đâm là xe gì thì chịu nhé, chỉ có Chúa mới biết nó là cái gì và như thế nào. Khoa học cũng như Tử vi không bao giờ trả lời Tại sao mà chỉ giải thích như thế nào. Đừng hỏi tại sao con người lại sinh ra trên trái đất này mà không phải là ở 1 Ngôi sao cô đơn nào đó trong vũ trụ. Không ai và không bao giờ bạn có câu trả lời. 12/ Sao này và sao kia: Nếu quý vị chưa thông tường hoặc chưa thuộc được ý nghĩa cũng như sự phối kết hợp giữa các sao thì không nên đưa ra những câu hỏi về các vì tinh tú này để tránh chuyện tranh cãi nhiều hơn là trao đổi học thuật. Người luận giải thực sự không có hứng thú đàm đạo với quý vị về vấn đề này (hầu hết là thế) 13/ Học giỏi không đồng nghĩa với giầu có và ngược lại: Cuộc đời là thế đó, quý vị có 1 quá khứ học hành siêu việt, nhưng chẳng có gì đảm bảo là quý vị có 1 tương lai sáng về tiền bạc cả. Tiền và Tài không phải lúc nào cũng song hành với nhau Ngày hôm nay có thu nhập cao thì đừng vội mừng, bao giờ nghỉ hưu ở tuổi 60 thì hãy phán xét việc bói toán là trò nhảm nhí. 14/ Giầu nứt đố đổ vách mà không bền: Ai cũng có 1 thời kỳ 10 năm phát đạt, nhưng không phải cả 10 năm đều phát mà có năm được năm hòa. Nhưng tổng kết là tốt và rất tốt. Cái ngưỡng 10 năm tốt đó nó thể hiện ở con số dưới đáy và ở giữa mỗi cung số. Quý vị có thể xác định được cho mình ở khoảng tuổi nào, ví như Mệnh là số 3 và khoảng thời gian tốt nhất cho mọi vấn đề của cuộc sống có thể là từ 23 đến 32 tuổi bởi cung kế tiếp là cung 33, nếu vận hạn tốt ở cung 43 thì thời kỳ tốt đẹp đó là từ 43 đến 52 tuổi. v.v... Đời người thường chi có 1 thời ký 10 năm này thôi, thường thì chỉ có một vài trường hợp đắc cách mới có 2 vận tốt, có thể là ở cung 33 và cung 53 tuổi, tức cung 43 tuổi ko tốt hoặc hơi xấu so với bình thường. 15/ Mất điện thoại có tìm lại được không? hay các câu hỏi đại loại như thế: Vậy mất người yêu có lấy lại được không? đâu cần bói toán gì cũng đoán được mà. Rất ít trường hợp Tử vi có thể đoán được, nên đi tìm các phương pháp tiên đoán khác thì hơn. Mong các quý vị giải số tiếp phím1 like
-
Nếu xét chi tiết từng năm thì mới biết được năm đó tốt hay xấu, còn ở trên tôi chỉ dự đoán tổng quát các vận xấu hay tốt. 1 - Như năm Canh Dần (2010), nó thuộc đại vận Bính Thìn (từ tháng 6/2010 chứ không phải từ tháng 2/2010), tiểu vận Canh Thìn và Tân Tị. Ta chỉ cần xét tiểu vận Tân Tị vì nó chiếm gần hết năm Bính Dần (từ ngày sinh nhật 11/2). Ta thấy Bính đại vận là hỷ thần nhưng bị hợp với Tân tiểu vận không hóa, vì vậy Bính coi như vô dụng (nếu nó hợp với Tân trong Tứ Trụ thì mới tốt cho Thân). Thìn đại vận hợp với Dậu trụ năm hóa Kim và Dần lưu niên hợp được với Hợi trụ tháng và Hợi trụ giờ hóa Mộc. Hai hóa cục này xuất hiện cùng một lúc (do chúng tham hợp quên xung) đã gây ra Đại Chiến (tức 2 hóa cục khắc nhau). Canh lưu niên nhược ở tuế vận có thể không khắc được Giáp trụ tháng vượng ở lưu niên mặc dù có Kim cục phù trợ (nếu Anh2001 cho tôi biết thông tin tốt xấu của cháu trong năm 2010 thì tôi mới xác định được sự khắc này có mạnh hay không). Nói chung Kim cục và Mộc cục khắc nhau thì 2 hành này đều bị tổn thương, mà Mộc là tú khí của Tứ Trụ này nên tú khí đã bị tổn thương. 2 – Còn năm Tân Mão có Bính đại vận hợp Tân lưu niên không hóa, vì vậy Bính chỉ có ích lợi là vô hiệu hóa Tân lưu niên mà thôi. Tương tự như năm Canh Dần, Thìn đại vận hợp với Dậu trụ năm hóa Kim, còn Mão lưu niên hợp được với Hợi trụ tháng và Hơi trụ giờ hóa Mộc: Hai hóa cục này cùng xuất hiện gây ra Đại Chiến (vì lực hợp của Mão thái tuế với 2 Hợi mạnh hơn lực hợp của Dần với 2 Hợi). Do vậy năm Tân Mão cũng như năm Canh Dần đều xấu (vì Mộc là tú khí đều bị tổn thương). Đại khái phải phân tính chi tiết như vậy thì mới có thể biết được chính xác sự tốt hay xấu của một năm. Nếu như đại vận Bính Dần và Đinh Tị được thay bằng đại vận Giáp Dần và Ất Mão cũng như trong Tứ Trụ không có Dậu (tức trong Tứ Trụ không có can chi Kiêu Ấn) thì chắc mới đúng như điều tôi đã dự đoán ở trên (?). Thân chào.1 like
-
Có lẽ là giả thật. Tuy không có gì xấu, nhưng không có "mùi Phật"!!!1 like
-
Thì tôi đã nói trước rồi, ở đây chưa phải là tôi trình bày như một học thuật, chỉ là bàn vui, san sẻ tư duy, thế thôi. Còn trình bày như một học thuật thì phải khác nhiều, có khởi đầu, khai triển thống nhất các khái niệm một cách chặt chẽ, không thể hiểu nước đôi. Tuy nhiên, Dare chắc cũng thấy, tôi có đưa ra một số định nghĩa của mình khi trao đổi phải đề cập tới, như: Vật chất là trường khí âm dương, Năng lượng là thuộc tính vật chất chỉ khả năng biến đổi của vật chất, Ý thức là một hoạt động của vật chất phản ánh hiện thực khách quan chứ bản thân ý thức không phải là vật chất, ... Tôi cũng đã nói rõ với Dare rằng khái niệm vật chất tôi dùng không là phạm trù triết học như mọi người thường nghĩ mà cụ thể là trường khí âm dương. Còn trường khí âm dương là cái gì, từ đâu mà ra, cấu trúc ra sao, tại sao tôi lại gọi là vật chất, ... thì rõ ràng phải trình bày ở một chỗ khác vì dài dòng lắm. Tóm lại, đối với tôi, trong topic này chỉ là trao đổi suy nghĩ một cách vui vẻ, tham khảo lẫn nhau chứ không phải tranh luận học thuật. Học hỏi được nhau cái ý tưởng gì thì tốt, không cũng chẳng sao.Dare viết: Tôi có cách hiểu của tôi về Đạo, bản chất thì như Lão Tử, nhưng tôi khai thác một số ý dùng cho mục đích khai triển tiếp theo và trình bày thực dụng, dễ hiểu, chứ không hoàn toàn như Lão Tử, rất khó hình dung nhất là đối với những người quen tư duy khoa học hiện đại và rất khó khai triển tiếp cho những luận điểm khoa học. Đạo tuy bất khả tư nghị nhưng nó lại là bản thể của tất cả, nên theo tôi, nếu nắm được nó, nó không những có thể "bàn luận để tìm lời giải về thế giới" (trích Dare) mà còn là còn là phương thức tốt nhất. Nếu nắm được Đạo, ta có cơ hội triển khai kiến thức từ đỉnh kim tự tháp xuống, vừa đầy đủ, khó sai lầm mà nếu có sai lầm thì hiệu chỉnh cũng dễ dàng hơn do đã có một cái chuẩn tin cậy là đỉnh Kim tự tháp tri thức (Đạo). Khoa học ngày nay, theo tôi đang đi ngược từ chân kim tự tháp lên đỉnh, vất vả và tốn kém hơn nhiều. Khái niệm Đạo dĩ nhiên là tốt cho vấn đề tu dưỡng Đạo đức con người, nhưng nó cũng tốt cho mọi lĩnh vực khác y như thế, bởi vì nó bao trùm tất cả. Nếu dùng học thuyết ADNH nghiên cứu khoa học, cụ thể là vật lý, ta sẽ có lời giải cho rất nhiều những vấn đề khúc mắc một cách đơn giản và bất ngờ. Nếu dùng học thuyết ADNH cho lý thuyết xã hội, lời giải cho sự phát triển thế giới mới thật trọn vẹn, thịnh vượng và nhân ái...Theo tôi, bất kỳ một lý thuyết khoa học hiện đại nào cũng có "miền xác đinh" của nó. Miền xác định của học thuyết ADNH là toàn bộ thực tại, nói cách khác, học thuyết ADNH không có miền xác định, mà nó là học thuyết của tất cả. Do đó, học thuyết ADNH có thể làm cơ sở cho mọi lý thuyết học thuật, và vì thế là học thuyết thống nhất Vũ trụ. Thân mến! Đọc thấy Hoannt viết, tôi viết thêm. Hoangnt viết: Thực ra muốn chứng Đạo thì tu 10 kiếp cũng chưa chắc toại nguyện. Vậy không lẽ chịu không có cách nào hiểu thế giới hay sao?Không phải vậy. Chúng ta không cần lên tới Mặt trời nhưng vẫn có thể ứng dụng những lợi ích của Mặt trời mà! Đạobất khả tư nghị nhưng vô cùng vô tận, thì ta cũng chỉ cần hiểu vài ba thuộc tính của nó cũng đã dư xài rồi, đâu cần tu ngàn năm làm gì!!! Tôi chỉ cần vài ba đặc tính của Đạo là đã rõ được những gì tôi cần rõ rồi. Còn nếu chứng được Đạo có lẽ đã dời lấp càn khôn !!!1 like
-
1 like
-
Sinh con Tâm Mão thì cha mẹ làm ăn có tiền hơn, nhưng con hay bệnh, phải cố gắng chăm sóc vậy. Về mạng thì cả nhà hợp, không có gì phải lo. Dương mộc (canh Thân) và âm mộc (Tân Mão) thì hợp! Ngày 2 tháng 8 âm lịch là ngày tốt, có thể mổ được! Thân mến.1 like
-
1 like
-
Thế mẹ Mậu Thìn Mộc bỏ xó à? Tôi không giai thích nữa, mệt rồi. Năm sinh tôi đề nghị thì tôi đã cân nhắc rồi. Bạn sinh hay không thì tùy. Tính là 1 việc, còn thực tế vợ chồng bạn là việc khác. Hình như tôi có nói với bạn là ngũ hành tham sinh chứ không tham khắc rồi thì phải? đã là 1 vòng sinh rồi, sẽ không khắc nữa! Nếu bị trượt trưởng phòng mà do con thì từ năm 2009 đến nay chắc trượt nhiều lắm nhỉ? Tuổi chỉ là 1 trong nhiều yếu tố ảnh hưởng. Trong 3 hành liên tiếp nhau thì chắc chắc có 2 hành khắc nhau, nhưng đã là 1 vòng tương sinh liên hoàn thì làm gì còn khắc nữa. Có lẽ tôi sẽ không trả lời thêm thắc mắc nào của Chim Chích Bông nữa. Trân trọng.1 like
-
Bài viết trên đây Wild đã xem qua! Ngẫm lại một con người khi đi qua những thăng trầm của cuộc đời họ mới có dịp nhìn lại ..... cũng như khi ta có đủ kinh nghiệm (giáp sắt) để đối phó với những cạm bẫy thì cơ hội đã không còn, hay sẽ mệt mỏi mà quay về chánh pháp bởi nhận thức được vô thường.1 like
-
- Công việc: năm nay cẩn thận bị kẻ tiểu nhân hại mà mất việc, năm sau đề phòng tranh cãi kiện tụng, năm tiếp theo cẩn thận trắng tay, còn 10-15 năm nữa thì bao g đến thì anh lên đây hỏi- tình duyên: tử vi ko phải là phép chọn tuổi kết hôn, năm nay cẩn thận trong quan hệ nam nữ kẻo laị mang tội....1 like
-
Bài 18 - Các yếu tố cơ bản và các giả thiết của chúng (Ở đây tôi sắp xếp lại thứ tự một số mục cho dễ hiểu) Tuần Thứ Ba Chương 14 Các yếu tố cơ bản và các giả thiết của chúng I - Các yếu tố cơ bản gây ra điểm hạn Thực chất của “Phương pháp tính điểm hạn” là từ các ví dụ cụ thể trong thực tế, chúng ta phải tìm ra các thông tin (giả thiết) có thể gây ra tai họa, sau đó chúng ta phải tự xác định điểm tai họa cho các thông tin này và điều chỉnh các điểm tai họa này cho phù hợp với càng nhiều ví dụ càng tốt. Để tìm các điểm hạn thì chúng ta phải bắt đầu từ các yếu tố chính gây ra hạn đã được cổ nhân truyền lại tới bây giờ chủ yếu qua các định luật : Hình (1), xung (2), khắc (3), hại (4), hợp (5) ...ngoài ra tôi đã tìm ra một số các yếu tố mới như : Điểm hạn của can, điểm kỵ vượng .... Qua các ví dụ trong thực tế tôi đã xác định được các yếu tố chính này gây ra các điểm hạn (đh) như: +1đh ; +0,75đh, +0,5đh ; +0,25đh ; +0,13đh ; 0đh hay +0,3đh ; +0,15đh …cho các yếu tố xấu có thể gây ra tai họa và -1đh, -0,75đh, -0,5đh ; -0,25đh ; -0,13đh và 0đh cho các yếu tố tốt có thể ngăn chặn tai họa. Theo cách nhìn của các nhà Vật Lý thì các điểm hạn này không tuân theo cơ học cổ điển (các điểm hạn tăng có tính liên tục) mà tuân theo cơ học lượng tử (các điểm hạn tăng theo các bước nhẩy cố định). Do vậy chúng ta liên tưởng tới sự tương tác của ngũ hành là ở dạng khí trong thế giới vi mô (các hạt cơ bản vô cùng nhỏ). Các yếu tố cơ bản này được viết tắt là cácY và các giả thiết của chúng chưa được xem là các quy tắc chính thức bởi vì hầu như đa số các giả thiết này tôi chưa có thêm các ví dụ để kiểm tra chúng có chính xác hay không. II - Ứng dụng điểm hạn của ngũ hành Y2 – Điểm hạn của dụng thần Can làm dụng thần chính được gọi tắt là dụng thần. 31/20 - Nếu dụng thần ở tử, mộ hay tuyệt (các trạng thái ở tử, mộ hay tuyệt) tại lệnh tháng (chi của trụ tháng) có 0,5đh. 32/1 - Dụng thần ở tử, mộ hay tuyệt tại chi của lưu niên có 1đh. 33/5 - Dụng thần nhược (các trạng thái suy, bệnh, thai và dưỡng) tại lưu niên có 0đh. 34/2 - Dụng thần nhập mộ tại chi của đại vận có 1đh (bất kể Thân vượng hay nhược) : 35/126 - Tại năm sinh dụng thần có thêm điểm hạn ở tháng (chi của tháng đó) cần tính các điểm hạn (như tính ở lưu niên). 36/ (88/130) - Tại năm sinh, dụng thần tàng trong chi của Tứ Trụ bị khắc bởi can đại vận (cùng dấu) tại các tháng của lưu niên nếu can của tháng đó giống với dụng thần. 36a/28 - Vị trí của dụng thần chính trong tứ trụ (xem câu 2 phần I trong chương 10). 37/133 - Tại năm sinh, nếu Thân (Hỏa) vượng mà trong tứ trụ có 4 can là Hỏa, lệnh tháng là Tị hay Ngọ, kiêu ấn ít còn Thổ và Thủy quá yếu thì tại năm sinh dụng thần Thủy tàng chi bị khắc bởi các can Hỏa có cùng dấu ở trong tứ trụ hay ở tuế vận có max 1đh chỉ khi ở tuế vận hay ở các tháng của năm sinh xuất hiện can Hỏa có cùng dấu với dụng thần chính (?). 38/(1;25) - Dụng thần là can lộ hay tàng trong địa chi của tứ trụ, nếu can hay chi này hợp với tuế vận thì dụng thần được xem như vô dụng nên có 1đh, trừ trường hợp can hay chi mà dụng thần tàng hợp với tuế vận hóa cục có hành giống với hành của dụng thần (ví dụ 1). Nếu chi chứa dụng thần không hóa cục từ khi sinh mà nó không hợp với tuế vận hóa cục thì dụng thần có 1đh chỉ khi hành của dụng thần không giống hành của hóa cục này (ví dụ 25). 39/56- Nếu chi tàng chứa Dụng thần trong Tứ Trụ hợp với chi ở tuế vận có cùng hành với hành của dụng thần thì Dụng thần có thể không có 1đh khi tổ hợp này chỉ là lục hợp hay bán hợp không hóa (?). 40/15 - Can tàng chính tàng trong chi của tứ trụ vẫn có thể là dụng thần chính khi chi này hóa cục không cùng hành từ khi mới sinh. 41/127 - Nếu dụng thần chính tàng trong chi của tứ trụ ở trạng thái Lộc hay Kình Dương tại lệnh tháng mà bị tuế vận hợp thì dụng thần tàng ở trong các chi khác của tứ trụ có thể thay thế để làm dụng thần chính cho dù nó chỉ là can tàng phụ hay chúng chỉ ở trạng thái Lộc. Y3 - Điểm hạn của Nhật can 61/6 - Nhật can nhập mộ đại vận chỉ khi Thân nhược mới có 1đh. 62/1 - Nhật can ở tử, mộ hay tuyệt ở lưu niên có 1đh. 63/2 - Nhật can nhược (các trạng thái suy, bệnh, thai và dưỡng) ở lưu niên có 0đh. 64/126 - Tại năm sinh Nhật can còn có thêm điểm hạn tại tháng cần tính điểm hạn (như tính ở lưu niên). 64a/ - Nếu nhật Can hợp với can tháng hay can giờ hóa thành hành khác với hành của Nhật Can (Cách hóa khí) thì hành của Nhật Can đã chuyển thành hành hóa khí, vì vậy lúc này Nhật can đã trở thành can giống can tàng trong lệnh tháng dẫn hóa cho hóa cục này. 64b/ - Nếu Nhật Can hợp với tuế vận hóa thành hành khác với hành của Nhật Can thì ta vẫn lấy dấu và hành của Nhật Can cũ để tính điểm hạn của nó ở tuế vận (nghĩa là hành của Thân không thay đổi). Y5 – Can động và điểm hạn của can động 90 – Can động 90a - Can động, nó có nghĩa là can đó phải khắc (hay bị khắc) với (hay bởi) các can khác (xem phần lý thuyết về TKĐX) hay nó khắc các hóa cục. Các can động có điểm hạn riêng của chúng và điểm hạn này chỉ có ở các can lộ khi chúng ở trong trạng thái động, gọi tắt là điểm hạn của can. Nếu các can ở trong cùng tổ hợp không hóa khắc nhau thì chỉ có các can này là động (bởi vì chúng không có liên quan gì tới các can giống với chúng ở bên ngoài tổ hợp này). 90b/ - Tất cả các can ở trong hóa cục không có điểm hạn này. 90c/ - Can tiểu vận không có điểm hạn này. Ví dụ : Bính đại vận hợp với Tân trụ năm không hóa thì Bính và Tân là động (vì Bính khắc Tân), nhưng Bính ở trụ ngày (hay trụ giờ) là tĩnh vì nó không hợp được với Tân trụ năm, nhưng Bính trụ ngày là động nếu khắc được các can khác như Canh ở lưu niên hay nếu nó bị khắc bởi Nhâm hay Quý ở lưu niên cũng như nếu nó khắc được Kim cục. 90d/ - Nếu các can ở tuế vận khắc với nhau hay chúng khắc các can trong tứ trụ thì các can giống với các can này ở trong tứ trụ là động nếu chúng khắc được nhau. 91 – Điểm hạn của các can động (điểm hạn Can) 91a/8 – Với các can ở trong tứ trụ thất lệnh và các can ở tuế vận : Nếu chúng vượng ở lưu niên thì chúng có điểm hạn đúng bằng điểm hạn của hành của chúng. Nếu chúng chỉ vượng ở đại vận thì chúng có điểm hạn chỉ bằng ½ điểm hạn của hành của chúng. Nếu chúng không vượng cả ở đại vận và lưu niên thì chúng có 0đh. Các điểm hạn này giảm tỉ lệ thuận theo các lực khắc tới các can của chúng. 91b/2 - Với các can ở trong tứ trụ được lệnh : Nếu chúng vượng ở lưu niên thì chúng không có điểm hạn. Nếu chúng chỉ vượng ở đại vận thì chúng có điểm hạn chỉ bằng ½ đh của hành của chúng nhưng phải đổi dấu. Nếu chúng nhược ở tuế vận thì chúng có điểm hạn đúng bằng điểm hạn của hành của chúng nhưng phải đổi dấu. Các điểm hạn này không bị giảm khi các can của chúng bị khắc (phải thừa nhận). 91c/126 – Các trạng thái của các can tại năm sinh phải được xác định tại chi của tháng cần tính điểm hạn của năm đó. (Trong Y7) - Điểm hạn của hóa cục 113/1- Điểm hạn của các hóa cục bằng chính tổng số các can hay chi có trong hóa cục đó nhân với ½ số điểm hạn của hành của hóa cục đó (trừ các chi trong tứ trụ đã hóa cục từ khi mới sinh có cùng hành). (Trong Y1) - Điểm hạn kỵ vượng 14/6 - Nếu một hành là kỵ 1 có điểm vượng trong vùng tâm (hay sau khi tính lại điểm vượng trong vùng tâm hoặc sau khi tính thêm điểm vượng của tuế vận) lớn hơn hỷ dụng thần từ 10đv (sai số có thể từ -0,05đv tới +0,05đv) trở lên thì hành đó được gọi là hành kỵ vượng và nếu nó lớn hơn hỷ dụng thần từ 10đv đến 19,99đv thì mỗi can hay chi (trừ các chi trong tứ trụ) của hành kỵ vượng có thể có điểm (hạn) kỵ vượng bằng đúng điểm hạn của hành của nó (chú ý điểm kỵ vượng của can hay chi tiểu vận chỉ bằng ½ ), còn nếu nó lớn hơn từ 20đv trở lên thì mỗi can chi của nó có thể có điểm kỵ vượng gấp 2 lần số điểm hạn của hành của nó, trừ các giả thiết 14a/135; 22/17; 23/8; 24/11...). Ví dụ minh họa : Ví dụ 10 : Bé trai Elgin Alexander Fraser (Canada) sinh ngày 10/4/2004 lúc 12,00’. Bị bệnh ung thư từ khi mới 8 tháng tuổi và được sống tới ngày 19/5/2007 lúc 19,45’. Hình chụp với trung phong (Centre) Mike Fisher gần đây, khi còn sống Ngày 19/5/2007 là năm Đinh Hợi thuộc đại vận (tức tiểu vận) Giáp Tuất (vì đã qua ngày sinh là 10/4). Mà mệnh này đến tháng 8/2012 mới bước vào đại vận đầu tiên là Kỷ Tị, vì vậy phải lấy tiểu vận để thay thế đại vận . 1 – Mệnh này Thân quá vượng mà kiêu ấn Hỏa ít (vì Ngọ hóa Thổ nhưng vẫn còn Đinh là tạp khí tàng trong Mùi không bị hóa Thổ) và thực thương đủ, vì vậy dụng thần đầu tiên phải là quan sát Ất tàng trong Thìn trụ tháng. Thổ là kỵ vượng. .................................................................. Qua sơ đồ trên ta thấy: a - Ất tàng trong Thìn trụ tháng là dụng thần nhập Mộ ở đại vận Tuất nên có 1đh (được ghi bên trái của Tuất đại vận, còn bên phải để ghi cho Nhật can) và Tử (hay Mộ hoặc Tuyệt) ở lưu niên Hợi có 1đh (được ghi bên trái của lưu niên Hợi).. b - Nhật can Kỷ nhược ở lưu niên Hợi có 0đh (nếu nó vượng có -1đh còn Tử, Mộ hay Tuyệt có 1đh) (được ghi bên phải của lưu niên Hợi). c - Lục hợp của Giáp đại vận với Kỷ trụ ngày hóa Thổ thành công có 0,5đh (vì tổ hợp này có 2 can mà điểm hạn của hành Thổ là 0,5 nên Thổ cục có 2.0,5.1/2đh = 0,5đh nhưng số điểm này bị Giáp trụ năm khắc mất hết bởi vì Giáp vượng ở lưu niên Hợi. d - Kỵ thần Thổ có 30,28đv lớn hơn hỷ thần Kim 10đh nên Thổ là hành kỵ vượng và có điểm kỵ vượng. Do vậy mỗi can Giáp và Kỷ trong Thổ cục có 0,5đh kỵ vượng (điểm này không bị giảm khi điểm hạn của Thổ cục bị khắc). Tuất đại vận xung Thìn trụ tháng nên Tuất là động cũng có 0,5 đh kỵ vượng. Nếu Thổ có 30,4đv trong vùng tâm tức nó lớn hơn Kim 20đv thì các điểm kỵ vượng này được tăng gấp đôi. e - Đinh lưu niên khắc Canh trụ giờ, vì vậy 2 can này được xem là động. mặc dù lực khắc này có 0đh vì Đinh nhược cả ở đại vận và lưu niên và dĩ nhiên Đinh không có điểm can vượng (nếu nó vượng ở lưu niên Hợi sẽ có 1đh đúng bằng điểm hạn của hành của nó, còn nếu nó chỉ vượng ở đại vận thì có 0,5đh). Canh trụ giờ mặc dù động nhưng nó thất lệnh và nhược cả ở đại vận và lưu niên nên không có điểm hạn can. Giáp khắc Thổ cục nên Giáp thành động có -1đh, vì nó thất lệnh và vượng ở lưu niên Hợi. f - Hợi thái tuế (chi của lưu niên) có 2 hung thần có 2.0,25đh (tất cả các hung thần đều có 0,25đh, còn cát thần đều có -0,25đh (nhưng nếu nó ở can chi tiểu vận thì điểm hạn của nó chỉ bằng 1/2). g - Canh trụ giờ là Thương quan mặc dù gặp Quan là Giáp ở trụ năm nhưng nó không có điểm hạn vì Canh thất lệnh và nhược ở tuế vận. h - Thân trụ năm hại Hợi thái tuế có 1đh (các điểm hạn về khắc, hình, tự hình hay hại của 1 can hay 1 chi với 1 can hay 1 chi khác đều có điểm lớn nhất là bằng 1đh, nạp âm khắc nạp âm cũng vậy). k - Lửa đỉnh núi của đại vận có can của nó là Giáp vượng ở lưu niên nên khắc Đất mái nhà của lưu niên có 1đh.1 like
-
Quý anh biết trân trọng đồng tiền và biết cha mẹ tạo nền móng và cho mình nhiều là tốt. Thật đáng quý. Sống đến bạc đầu rồi, đôi khi nghe gương doanh nhân Việt khởi nghiệp từ tay trắng với 300 triệu hay chỉ 5 triệu mà dựng cả cơ đồ ngàn đô gì đó mà tôi thấy khinh bỉ chúng nó quá. Họa phúc do mình, vì vậy xem số là để biết trước phía trước có là bầu trời hay không để mà có cánh ứng xử, sao cho tốt với mình nhất có thể, chứ đoàn tầu đi trên đường ray thì làm sao tránh được hòn đá tảng trước mặt? chẳng nhẽ nhẩy khỏi đường ray hay sao?1 like
-
Em mới tìm được cuốn Ebook "Tích hợp đa văn hóa Đông Tây cho một chiến lược giáo dục tương lai" của GS Nguyễn Hoàng Phương. Trong các tài liệu của chú Thiên Sứ, dienbatn hay nhắc tới tác phẩm này. Nay có điều kiện xin giới thiệu cùng các bạn yêu thích tìm hiểu. Sách ở dạng PDF được scan từ bản gốc lần xuất bản đầu tiên năm 1995. Dung lượng 44.61M Nội dung cơ bản: - In lần thứ 1 - NXB Giáo dục Hà Nội, 1995 - 898 tr, 27 cm - In lần thứ 2 có bổ sung, sửa chữa - NXB Giáo dục Hà Nội, 1996 - 1183tr, 27cm Tóm tắt nội dung: Quyển sách này trình bày: Đại cương Đông và Tây, Kinh Dịch, Triết học cổ Đông phương là một hệ thống cấu trúc mập mờ, cơ sở cấu trúc nhân thể theo Đông y học và Thời châm học, cơ sở về phương pháp luận bán thực nghiệm trong chuẩn đoán Đông y, cơ sở Độn Giáp - học thuyết dự báo chung về môi trường cho cá nhân, cơ sở Thái Ất học thuyết dự báo chung cho cộng đồng, tương lai học Đông và Tây, cơ sở Kinh Dịch – lý thuyết hệ thống Phổ Quát tối ưu Đông phương, Kinh Dịch - định hướng về mẫu nhân thể - các cận khoa học Đông và Tây. Download tại http://www.mediafire.com/?wydunkkt4ad1 like
-
III./ THỜI KỲ TIÊN THIÊN VÀ HẬU THIÊN Như trên đã thấy, sự tương tác của Âm và Dương sinh ra giá trị mới là nguồn gốc phát triển của Vạn tượng. Vạn tượng được mô hình hoá bằng Tam tài, bao gồm ba thành phần là Âm, Dương và Chung. Thực ra những đại lượng này đều là những khái niệm hết sức định tính, xác định chính xác là điều không thể, nhưng để dễ hình dung ta cứ thử mô hình hoá nó bằng những số liệu như phần trình bày dưới đây nhằm tìm ra những quan hệ cơ bản nhất của chúng. Giả sử rằng, trong Vạn tượng, lực lượng âm tương tác với lực lượng dương tạo ra giá trị mới là M. Giá trị mới M này bị các lực lượng Tam tài chiếm đoạt để phát triển. Giả sử Chung chiếm M.c, khi ấy Âm và Dương chiếm M.(1- c), trong đó Âm chiếm M.a.(1- c), còn Dương chiếm M.(1- a)(1- c). Ở đó: a, c là những hệ số dương ≤ 1. + Nếu a = 0, tức là Âm không thụ hưởng một chút nào giá trị mới M. Như vậy, hoặc là không có Âm, lúc đó giá trị mới không thể được tạo ra do không có tương tác âm dương, M = 0, hoặc là có Âm nhưng Âm không được thụ hưởng sẽ suy yếu còn Dương thụ hưởng hết giá trị mới sẽ quá thịnh. Sự mất quân bình, thái quá sẽ sảy ra, kết quả Vạn tượng bị phá huỷ và cũng không có giá trị mới nào được tạo ra: M = 0. + Nếu a = 1, lý luận tương tự như trên đối với Dương ta cũng thu được kết quả tương tự là M = 0. + Nếu 0 < a < 1, một giá trị mới M > 0 sẽ được tạo ra trong quá trình tương tác âm dương. Biểu diễn giá trị mà các yếu tố của Tam tài chiếm đoạt trong giá trị mới M được tạo ra trong quá trình tương tác âm dương trên đồ thị ta thu được kết quả sau: Trên đồ thị: Đường qua V chỉ những giá trị mới được sinh ra do tương tác âm dương của các lực lượng trong Vạn tượng. Nó cực đại ở điểm V khi a = a* Đường qua A biểu diễn những giá trị mới mà Âm chiếm đoạt đươc. Nó cực đại ở điểm A2 khi a = a2. Đường qua D biểu diễn nhựng giá trị mới mà Dương chiếm đoạt đươc. Nó cực đại ở điểm A1 khi a = a1. Đường qua C biểu diễn nhựng giá trị mới mà Chung chiếm đoạt đươc. Nó cực đại ở điểm C khi a = a*. Qua đồ thị, ta nhận thấy: - Trong giai đoạn a = 0 --- > a1: Khi âm mới sinh và phát triển (a nhỏ) giá trị mới mà các lực lượng Chung, Âm, Dương chiếm đoạt được và cả trong Vạn tượng đều đồng biến theo a, hay lợi ích của mọi lực lượng trong Vạn tượng là thống nhất, không mâu thuẫn với nhau. Mọi lực lượng trong Vạn tượng đều hỗ trợ thuận lợi cho Âm tăng trưởng và chúng cũng nhanh chóng phát triển theo do được thụ hưởng những giá trị mới được tạo ra trong sự tương tác âm dương. Tương tác âm dương thuận lợi, giá trị mới được tạo ra với tốc độ cao thể hiện qua độ nghiêng đi lên lớn của đoạn 0V1. Âm mới sinh ra có tốc độ phát triển còn chậm nhưng tăng lên rất nhanh thể hiện qua độ lõm của đồ thị a ở giai đoạn này. Vai trò của các lực lượng Dương trong Vạn tượng lớn hơn so với các lực lượng Chung và Âm, thể hiện ở độ cao đồ thị 0D1 so với 0A1, 0C1. Quan hệ của các lực lượng trong vạn tượng là tương sinh. Giai đoạn này gọi là TIÊN THIÊN. - Trong giai đoạn a = a1 --- > a*: ta nhận thấy, đồ thị A, C và V còn đồng biến, trong khi đồ thị C nghịch biến theo a. Các lực lượng trong Vạn tượng không còn thống nhất nhau như giai đoạn Tiên thiên nữa, mâu thuẫn đã bắt đầu xuất hiện và phát triển. Mâu thuẫn ở đây trước hết là nâu thuẫn giữa Âm và Dương là hai lực lượng chính, cơ bản nhất của Vạn tượng thể hiên ở hai chiều đồng biến của A và nghịch biến của D, đó là mâu thuẫn trong lợi ích, hay sự chiếm đoạt giá trị mới được tạo ra trong sự tương tác giữa chúng. Do đó, trong giai đạn này quan hệ Âm Dương là tương khắc. Bản chất của mâu thuẫn chính là ở chỗ: khi Âm tăng quá mạnh làm tăng nhanh giá trị mới M đồng thời khả năng chiếm đoạt M cũng tăng lên nhanh hơn dẫn đến phương hại đến sự thụ hưởng giá trị mới của Dương (đồ thị D nghịch biền). Điều này làm xuất hiện hiệu ứng kìm hãm sự tăng lên của Âm từ D. Nói cách khác là Dương khắc Âm. Quan hệ giữa Âm và Chung vẫn là tương sinh thể hiện qua sự cùng đồng biến của đồ thị A và C. Ở đây, giá trị mới được tạo ra do sự tương tác âm dương và Âm có tính động, có xu hướng biến đổi, sáng tạo ra những giá trị mới đó, còn C thì thụ hưởng. Do đó, quan hệ tương sinh giữa Chung và Âm là: Âm sinh Chung. Đồ thị C và D có chiều biến thiên ngược nhau nên quan hệ Chung, Dương phải là quan hệ tương khắc. Do quan hệ của Chung với Âm là tương sinh: Âm sinh Chung, mà quan hệ của Dương là khắc Âm nên để bảo vệ lợi ích của mình, đảm bảo sự cân bằng trong Vạn tượng mà quan hệ tương khắc giữa Chung và Dương phải là: Chung khắc Dương. Như vậy, quan hệ giữa các lực lượng trong Vạn tượng ở giai đoạn này là: Dương khắc Âm, Âm sinh Chung, Chung khắc Dương gọi là quan hệ Tam tài. Giai đoạn này gọi là giai đoạn HẬU THIÊN. Trong giai đoạn Hậu thiên, Vạn tượng vẫn phát triển tốt thể hiện ở chiều tăng của đồ thị V1V. - Trong giai đoạn a = a* --- > a2: Giai đoạn này đặc trưng bằng sự đi xuống cũa đồ thị VV2, thể hiện sự suy thoái của Vạn tượng, chỉ có Âm tăng còn Chung và Dương đều đi xuống hay Âm quá thịnh còn Dương quá suy. Mâu thuẫn giữa các lực lượng trong Vạn tượng ngày càng rất gay gắt, thể hiện ở sự hỗn loạn, thiếu kiểm soát. Cả Dương lẫn Chung đều tương khắc với Âm. - Trong giai đoạn a = a2 --- > 1: Đây là giai đoạn huỷ diệt của Vạn tượng. Tất cả các yếu tố Âm, Dương, Chung đều đi xuống. Như vậy, Tiên thiên và Hậu thiên là khái niệm chỉ những giai đoạn khác nhau trong quá trình phát triển của Vạn tượng: Thời kỳ Tiên thiên là thời kỳ ban đầu, Vạn tượng mới hình thành và phát triển. Trong thời kỳ này, các lực lượng của Vạn tượng thống nhất với nhau, tuy khác nhau mà không mâu thuẫn, tương tác vời nhau tạo ra và thụ hưởng nhiều giá trị mới. Sự vật phát triển rất thuận lợi. Quan hệ các lực lượng trong vạn tượng là tương sinh. Tuy nhiên, sự khác nhau đó tiềm ẩn mầm mống của mâu thuẫn để có thể bộc lộ rõ trong thời kỳ sau. Thời kỳ Hậu thiên là thời kỳ mà Vạn tượng đã phát triển đến một mức độ cao hơn. Những mầm mống của mâu thuẫn Âm, Dương đã phát triển đến giai đoạn bộc lộ và ngày càng gay gắt. Mâu thuẫn ở đây là mâu thuẫn Âm, Dương trong tranh giành giá trị mới được tạo ra trong sự tương tác giữa chúng. Quan hệ của các lực lượng trong Vạn tượng là quan hệ: Dương khắc Âm. Âm sinh Chung. Chung khắc Dương. Quan hệ này chi phối toàn bộ sự phát triển của Vạn tương. Trong cuộc đấu tranh giành giật về phần mình giá trị mới, do Dương là cái có trước, mang bản chất của cái ban đầu nên lực lượng của nó mạnh hơn Âm – là cái có sau, đang phát triển - chi phối Vạn tượng nhiều hơn nên Vạn tượng có xu hướng bị kéo về ổn định tại điểm a1 để lợi ích cho Dương là lớn nhất. Tuy nhiên, bản chất của Âm là vận động và phát và phát triển không ngừng có xu hướng kéo sự vật ổn định ở a2. Lợi ích của Vạn tượng là tiến đến điểm V - điểm có tổng lợi ích là lớn nhất - do đó mâu thuẫn ngày càng gay gắt nhất là khi điểm a* ngày càng lớn hơn a1. Như vậy, quan hệ mâu thuẫn, đấu tranh giữa 3 lực lượng Dương, Âm, Chung trong sự vật là mâu thuẫn nảy sinh khi một bên (Dương) có xu hướng kéo sự vật ổn định ở a1, một bên có xu hướng kéo sự vật ổn định ở a2 (Âm), còn bên thứ ba (Chung) lại có xu hướng tới a*. Kết quả, sự vật sẽ tồn tại và vận động tại một giá trị a nào đó tùy thuộc vào tương quan Âm, Dương, Chung của sự vật. Trong 3 lực lượng của Tam tài, Âm luôn có xu hướng tăng a lên, Dương luôn có xu hướng cố định a lại. Kế quả, a ngày càng tăng là xu hướng tất yếu của sự vật. Mâu thuẫn giũa 2 xu hướng này của Âm, Dương chính là mâu thuẫn của sự vật. Nếu mâu thuẫn không được giải quyết, đến một lúc nào đó khi qui mô đủ lớn, Vạn tượng sẽ tiến đến giai đoạn suy đồi và hủy diệt, một Vạn tượng khác sẽ được hình thành và tiếp tục như quá trình đó … Cơ chế của quá trình phát triển đó của sự vật như sau: Do Đạo hàm chứa và bao trùm tất cả nên trong sự vật luôn tồn tại sẵn tất cả những mầm mống cho mọi xu hướng phát triển của sự vật. Chỉ những mầm mống nào phù hợp với tương quan Âm, Dương của sự vật mới nhận được sự hỗ trợ tốt từ các thành phần tương ứng, tạo ra được nhiều hơn những giá trị mới cho sự vật. Những mầm mống phù hợp nhất thì có khả năng tạo ra nhiều giá trị mới nhất với sự hỗ trợ ít nhất. Chỉ những mầm mống đó mới có đủ khả năng, ưu thế để phát triển thành những lực lượng hiện thực của sự vật, còn những mầm mống khác sẽ không được “ nuôi dưỡng” tốt và bị thui chột đi. Như vậy, sự vật sẽ luôn được chọn lọc, bổ xung những lực lượng có khả năng tạo ra nhiều giá trị mới hơn nên nó luôn luôn phát triển. Vì vậy, qui luật phát triển không ngừng là qui luật phổ biến của mọi sự vật. Sự chọn lọc này sảy ra thường xuyên, khách quan ở mọi qui mô yếu tố, mọi phương án khả dĩ phát triển của sự vật nên nó rất kỹ lưỡng, chính xác và tối ưu. Đó chính là nguồn gốc của nguyên lý tối ưu hay “tiết kiệm” của vũ trụ. Nguyên lý này phát biểu rằng, mọi vận động của sự vật luôn tuân theo qui tắc tối ưu về năng lượng. Tự nhiên luôn hành động sao cho kết quả đạt được cao nhất với chi phí nhỏ nhất. Những giá trị mới được tạo ra trong quá trình tương tác âm dương, thực ra, cũng chỉ là những thành phần vốn có, hàm chứa trong Đạo vì như ta đã biết, Đạo hàm chứa và bao trùm tất cả. Những thành phần này vốn tiềm ẩn trong Đạo, khi có điều kiện thuận lợi của tương tác âm dương, chúng mới được bộc lộ ra và tham gia vào các lực lượng đã có của sự vật. Sự tạo ra và chiếm đoạt những giá trị mới của các yếu tố trong sự vật thực chất là sự kích thích những mầm mống chưa bộc lộ của Đạo được bộc lộ ra trong thành phần của yếu tố chiếm đoạt mà thôi. Do đó, có thể nói, ở đây hoàn toàn không có sự “sáng tạo” ra cái gì mới hết mà chỉ là làm bộc lộ những khả năng vốn có tiềm ẩn trong Đạo, được thể hiện ra ở những hoàn cảnh, điều kiện khác nhau, tham gia vào các lực lượng tương ứng, phù hợp của sự vật. Đó chính là nguồn gốc của nguyên lý “ đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu” và định luật bảo toàn năng lượng của vật lý học. Ngược lại, có những yếu tố của Đạo đã được bộc lộ trong thành phần của sự vật, nếu không phù hợp với tương tác âm dương nên không bổ xung được cho mình những thành phần mới theo cơ chế trên, mà thậm chí còn bị mất đi những thành phần cũ thì dần dần sẽ bị suy yếu đi thậm chí biến mất, tức là lại trở về dạng tiềm năng chưa bộc lộ của Đạo. Quan hệ tương sinh, tương khắc là các quan hệ cơ bản của sự vật. Thực chất quan hệ A sinh B là: Trong quan hệ giữa A và B tạo tra các điều kiện thuận lợi cho những mầm mống thuộc B vốn tiềm ẩn trong Đạo có thể phát triển lên, bổ xung vào lực lượng của B, tạo ra nhiều giá trị mới cho B. Khi các thành phần của A tạo điều kiện cho các mầm mống đó phát triển, nó cũng bị tổn hại nhất định. Do đó, khi B quá vượng, A sẽ bị hao tổn nhiều, thậm chí bị thui chột. Lúc đó, người ta nói A tương thừa B. Như vậy, quan hệ tương thừa là quan hệ tương sinh khi yếu tố bị sinh quá vượng làm hao tổn nghiên trọng yếu tố sinh. Ngược lại, thực chất quan hệ A khắc B là: Trong quan hệ giữa A và B tạo tra các điều kiện không thuận lợi cho những mầm mống thuộc B vốn tiềm ẩn trong Đạo có thể phát triển lên bổ xung vào lực lượng của B, tạo ra nhiều giá trị mới cho B, làm cho các yếu tố thuộc B không được bổ xung những giá trị mới và dần dần bị thui chột đi. Khi khắc những thành phần của B, các thành phần tham gia vào quan hệ tương khắc của A cũng hao tổn. Vì vậy, khi B quá vượng, có thể làm cho A bị triệt. Lúc đó ta nói, A tương vũ B. Như vậy, quan hệ tương vũ là quan hệ trương khắc khi yếu tố bị khắc quá vượng làm triệt tiêu yếu tố khắc.1 like
-
ĐỀ CƯƠNG ĐẠI CƯƠNG CƠ SỞ HỌC THUYẾT ÂM DƯƠNG NGŨ HÀNH *** I./ BẢN THỂ VŨ TRỤ Bản thể của vũ trụ là “Đạo” hay “Chân như” vốn vô thuỷ, vô chung, bất khả tư nghị, hàm chứa và bao trùm tất cả mà không phân biệt. Do hàm chứa và bao trùm tất cả nên Đạo tràn đầy, viên mãn. Do không phân biệt nên Đạo vô cùng thông biến. Do bất khả tư nghị nên không thể dùng lời mà có thể định nghĩa hay diễn tả chính xác, chỉ có thể cảm thấy, nhận thức được, mô tả một cách tương đối, người xưa “gượng” mà diễn đạt Đạo một cách hình tượng là hình tròn. Do Đạo không phân biệt nên nó chí tịnh, đồng thời, do hàm chứa tất cả nên nó hàm chứa tính động – âm. Khi tính âm thể hiện cái dụng của nó là động, dù còn vô cùng nhỏ, nhưng ở trong cái chí tịnh của Đạo, nên vẫn xuất hiện sự phân biệt của phần Đạo còn lại với nó được gọi là tính dương. Tính âm và tính dương chỉ là những thuộc tính nên chúng thể hiện mình ra thông qua những lực lượng tương ứng, xuất hiện cùng với chúng gọi là lực lượng âm, lực lượng dương. Do có sự phân biệt âm dương, nên lực lượng âm, lực lượng dương tương tác nhau hình thành Vạn tượng. Trong quá trình tương tác âm dương đó, Vạn tượng sinh sinh hoá hoá liên miên từ thấp tới cao, từ đơn giản đến phức tạp … tạo nên thế giới, vũ trụ ngày nay. Như vậy, bản thể của vũ trụ là Đạo hay Chân như vốn bất khả tư nghị. Cái Tướng của nó là Vạn tượng cùng cái Dụng của nó là cái lý tương tác âm dương. Quán về vũ trụ ta phải quán trên cái thế chân vạc Thể - Tướng – Dụng của nó như thế. Như vậy, Vạn tượng sinh ra từ Đạo, là kết quả của tương tác âm dương, người xưa diễn đạt nó một cách hình tượng là hình vuông, phân biệt với hình tròn là Đạo. Âm được ký hiệu là một nét đứt, còn dương – một nét liền. II./ TAM TÀI Vạn tượng là cái tướng của Vũ trụ, sinh sinh hoá hoá liên miên bất tận theo cái lý âm dương. Cái lý của âm là động, tức là luôn biến đổi, có xu hướng phá vỡ trạng thái ban đầu, đổi mới và uyển chuyển … Cái lý của dương là tịnh, tức là có xu hướng bảo tồn cái trạng thái ban đầu, bảo thủ, cứng mạnh … Sự tương tác của âm, dương là nguyên nhân, động lực phát triển của Vạn tượng. Vạn tượng sinh hoá, phát triển, có nghĩa là nó biến đổi, hay có những giá trị mới được tạo ra trong quá trình tương tác của các lực lượng âm, dương làm tăng tính phức tạp, cũng như số lượng của Vạn tượng. Những giá trị mới đó chính là kết quả của sự tương tác âm dương, đồng thời cũng bổ xung cho lực lượng âm lực lượng dương, làm cho lực lượng âm, dương cũng không ngừng phát triển cùng vạn tượng. Hệ quả tiếp theo là tăng cường hơn nũa sự tương tác âm dương và những giá trị mới lại được tạo ra nhiều hơn nữa. Trong quá trình tương tác, tạo ra những giá trị mới làm cho Vạn tượng không ngừng biến đổi và phát triển, cả lực lượng âm lẫn lực lượng dương đều có xu hướng giành lấy cho mình giá trị mới đó càng nhiều càng tốt. Nhưng mức độ chiếm đoạt giá trị mới đó tuỳ thuộc vào tương quan giữa khả năng chiếm đoạt của lực lượng âm và lực lượng dương trong Vạn tượng. Như vậy, trong quá trình phát triển của Vạn tượng, lực lượng âm, dương không ngừng tương tác làm nảy sinh những giá trị mới, đồng thời chúng cũng không ngừng tranh giành chiếm đoạt những giá trị mới đó. Đó chính là nội dung của sự thống nhất và đấu tranh giữa hai mặt đối lập là các lực lượng âm, dương trong Vạn tượng. Để tạo ra những giá trị mới, các lực lượng âm, dương phải thống nhất với nhau trong tương tác. Nếu chỉ có một mình lực lượng âm hay một mình lực lượng dương, sẽ không có sự tương tác âm dương và giá trị mới không thể nảy sinh. Cả lực lượng âm và lực lượng dương đều có xu hướng chiếm đoạt giá trị mới này. Để có thể chiếm đoạt, trước tiên giá trị mới phải được tạo ra. Để được tạo ra giá trị mới, lực lượng âm, dương phải thống nhất với nhau trong tương tác. Vì tranh giành những giá trị mới - sản phẩm của quá trình tương tác âm dương – các lực lượng âm, dương đấu tranh với nhau, và vì thế mâu thuẫn với nhau. Giá trị mới được tạo ra tuỳ thuộc vai trò và qui mô của các lực lượng âm, dương trong quá trình tương tác, còn mức độ chiếm đoạt giá trị mới tuỳ thuộc vào sức mạnh và khả năng chiếm đoạt của lực lượng âm và lực lượng dương tương quan như thế nào. Khi có sự tương ứng giữa vai trò tương tác và khả năng chiếm đoạt đó thì Vạn tượng phát triển tốt nhất. Lực lượng âm dương tuy mâu thuẫn nhưng đó là mâu thuẫn tích cực, kích thích Vạn tượng phát triển, ta nói Vạn tượng có trạng thái âm dương hài hoà. Còn nếu sự tương ứng đó không thoả đáng, Vạn tượng phát triển khó khăn hơn, mâu thuẫn lực lượng âm, dương tăng lên, cản trở Vạn tượng phát triển, ta nói Vạn tượng có trạng thái mất quân bình âm dương. Đặc biệt, khi sự mất quân bình này thái quá, mâu thuẫn lực lượng âm dương quá gay gắt có thể dẫn đến phá huỷ thế quân bình âm dương, trạng thái đó bị tiêu huỷ, sinh ra một trạng thái mới có sự quân bình âm dương mới. Ta nói, vật cùng tắc biến, vật cực tắc phản. Do thống nhất với nhau trong tương tác, tạo ra những giá trị mới, mà trong các lực lượng âm, dương có hàm chứa những yếu tố, tuy khác nhau nhưng không mâu thuẫn, đấu tranh với nhau (thống nhất với nhau). Và tương ứng với những yếu tố đó, trong Vạn tượng có những lực lượng đại diện cho chúng, gọi là Chung. Trong Chung có những thành phần mà cả hai lực lượng âm, dương cùng thống nhất và tôn trọng, tuy khác nhau mà không mâu thuẫn, đấu tranh nhau. Phần còn lại của các lực lượng âm, dương thì mâu thuẫn, đấu tranh với nhau và được gọi là Âm, Dương. Như vậy, do thống nhất và đấu tranh với nhau giữa các lực lượng âm, dương, trong vạn tượng hình thành ba lực lượng là Chung, Âm, Dương với bản chất được mô tả ở trên, được gọi là Tam tài. Tam tài thể hiện sự tương tác thống nhất và đấu tranh với nhau của các lực lượng âm, dương trong vạn tượng. Quan hệ tương tác giữa ba lực lượng này làm cho Vạn tượng cân bằng và phát triển.1 like