• Thông báo

    • Bá Kiến®

      Nội quy Lý Học Plaza

      Nội quy này là bản mở rộng Nội Quy - Quy định của Diễn đàn. Khi tham gia mua bán, các thành viên phải tuân theo những quy định sau: Tiêu đề bài viết: Bao gồm: Chỉ dẫn địa lý, Loại hình Mua/Bán, Thông tin mua bán.
      Chỉ dẫn địa lý: Tỉnh/thành nơi mua bán. Hoặc sử dụng định nghĩa có sẵn:TQ: Toàn quốc
      HCM: TP Hồ Chí Minh
      HN: Hà Nội
      [*]Ví dụ: HCM - Bán Vòng tay Hổ Phách ​Nội dung bài viết: Mô tả chi tiết sản phẩm mua/bán
      Bắt buộc phải có thông tin liên lạc, giá Mua/Bán
      Bài mới đăng chỉ được phép up sau 03 ngày.
      Thời gian up bài cho phép: 01 ngày 01 lần.
      Các hành vi vi phạm nội quy này sẽ bị xóa bài hoặc khóa tài khoản mà không cần báo trước.

Leaderboard


Popular Content

Showing most liked content on 13/08/2011 in all areas

  1. Tôi xóa đấy tuyếtminh ah. Người này đã tham gia tranh luận ngay trên diễn đàn này - các bài viết còn nguyên - nhưng tôi không thấy tính hợp lý và một phương pháp tư duy khoa học, nên tiôi đã xóa nick anh ta. Tôi ko có thời gian tham gia vào những chuyện ngớ ngẩn. Anh chị em nào muốn tìm hiểu về nhưng cái gọi là phương pháp lập luận và những luận cứ của anh ta phản biện tôi có thể vào tìm trong mục trao đổi học thuật. Hình như trong topic tubinhgiagia phản biện thì phải.
    2 likes
  2. Bài 18 - Các yếu tố cơ bản và các giả thiết của chúng (Ở đây tôi sắp xếp lại thứ tự một số mục cho dễ hiểu) Tuần Thứ Ba Chương 14 Các yếu tố cơ bản và các giả thiết của chúng I - Các yếu tố cơ bản gây ra điểm hạn Thực chất của “Phương pháp tính điểm hạn” là từ các ví dụ cụ thể trong thực tế, chúng ta phải tìm ra các thông tin (giả thiết) có thể gây ra tai họa, sau đó chúng ta phải tự xác định điểm tai họa cho các thông tin này và điều chỉnh các điểm tai họa này cho phù hợp với càng nhiều ví dụ càng tốt. Để tìm các điểm hạn thì chúng ta phải bắt đầu từ các yếu tố chính gây ra hạn đã được cổ nhân truyền lại tới bây giờ chủ yếu qua các định luật : Hình (1), xung (2), khắc (3), hại (4), hợp (5) ...ngoài ra tôi đã tìm ra một số các yếu tố mới như : Điểm hạn của can, điểm kỵ vượng .... Qua các ví dụ trong thực tế tôi đã xác định được các yếu tố chính này gây ra các điểm hạn (đh) như: +1đh ; +0,75đh, +0,5đh ; +0,25đh ; +0,13đh ; 0đh hay +0,3đh ; +0,15đh …cho các yếu tố xấu có thể gây ra tai họa và -1đh, -0,75đh, -0,5đh ; -0,25đh ; -0,13đh và 0đh cho các yếu tố tốt có thể ngăn chặn tai họa. Theo cách nhìn của các nhà Vật Lý thì các điểm hạn này không tuân theo cơ học cổ điển (các điểm hạn tăng có tính liên tục) mà tuân theo cơ học lượng tử (các điểm hạn tăng theo các bước nhẩy cố định). Do vậy chúng ta liên tưởng tới sự tương tác của ngũ hành là ở dạng khí trong thế giới vi mô (các hạt cơ bản vô cùng nhỏ). Các yếu tố cơ bản này được viết tắt là cácY và các giả thiết của chúng chưa được xem là các quy tắc chính thức bởi vì hầu như đa số các giả thiết này tôi chưa có thêm các ví dụ để kiểm tra chúng có chính xác hay không. II - Ứng dụng điểm hạn của ngũ hành Y2 – Điểm hạn của dụng thần Can làm dụng thần chính được gọi tắt là dụng thần. 31/20 - Nếu dụng thần ở tử, mộ hay tuyệt (các trạng thái ở tử, mộ hay tuyệt) tại lệnh tháng (chi của trụ tháng) có 0,5đh. 32/1 - Dụng thần ở tử, mộ hay tuyệt tại chi của lưu niên có 1đh. 33/5 - Dụng thần nhược (các trạng thái suy, bệnh, thai và dưỡng) tại lưu niên có 0đh. 34/2 - Dụng thần nhập mộ tại chi của đại vận có 1đh (bất kể Thân vượng hay nhược) : 35/126 - Tại năm sinh dụng thần có thêm điểm hạn ở tháng (chi của tháng đó) cần tính các điểm hạn (như tính ở lưu niên). 36/ (88/130) - Tại năm sinh, dụng thần tàng trong chi của Tứ Trụ bị khắc bởi can đại vận (cùng dấu) tại các tháng của lưu niên nếu can của tháng đó giống với dụng thần. 36a/28 - Vị trí của dụng thần chính trong tứ trụ (xem câu 2 phần I trong chương 10). 37/133 - Tại năm sinh, nếu Thân (Hỏa) vượng mà trong tứ trụ có 4 can là Hỏa, lệnh tháng là Tị hay Ngọ, kiêu ấn ít còn Thổ và Thủy quá yếu thì tại năm sinh dụng thần Thủy tàng chi bị khắc bởi các can Hỏa có cùng dấu ở trong tứ trụ hay ở tuế vận có max 1đh chỉ khi ở tuế vận hay ở các tháng của năm sinh xuất hiện can Hỏa có cùng dấu với dụng thần chính (?). 38/(1;25) - Dụng thần là can lộ hay tàng trong địa chi của tứ trụ, nếu can hay chi này hợp với tuế vận thì dụng thần được xem như vô dụng nên có 1đh, trừ trường hợp can hay chi mà dụng thần tàng hợp với tuế vận hóa cục có hành giống với hành của dụng thần (ví dụ 1). Nếu chi chứa dụng thần không hóa cục từ khi sinh mà nó không hợp với tuế vận hóa cục thì dụng thần có 1đh chỉ khi hành của dụng thần không giống hành của hóa cục này (ví dụ 25). 39/56- Nếu chi tàng chứa Dụng thần trong Tứ Trụ hợp với chi ở tuế vận có cùng hành với hành của dụng thần thì Dụng thần có thể không có 1đh khi tổ hợp này chỉ là lục hợp hay bán hợp không hóa (?). 40/15 - Can tàng chính tàng trong chi của tứ trụ vẫn có thể là dụng thần chính khi chi này hóa cục không cùng hành từ khi mới sinh. 41/127 - Nếu dụng thần chính tàng trong chi của tứ trụ ở trạng thái Lộc hay Kình Dương tại lệnh tháng mà bị tuế vận hợp thì dụng thần tàng ở trong các chi khác của tứ trụ có thể thay thế để làm dụng thần chính cho dù nó chỉ là can tàng phụ hay chúng chỉ ở trạng thái Lộc. Y3 - Điểm hạn của Nhật can 61/6 - Nhật can nhập mộ đại vận chỉ khi Thân nhược mới có 1đh. 62/1 - Nhật can ở tử, mộ hay tuyệt ở lưu niên có 1đh. 63/2 - Nhật can nhược (các trạng thái suy, bệnh, thai và dưỡng) ở lưu niên có 0đh. 64/126 - Tại năm sinh Nhật can còn có thêm điểm hạn tại tháng cần tính điểm hạn (như tính ở lưu niên). 64a/ - Nếu nhật Can hợp với can tháng hay can giờ hóa thành hành khác với hành của Nhật Can (Cách hóa khí) thì hành của Nhật Can đã chuyển thành hành hóa khí, vì vậy lúc này Nhật can đã trở thành can giống can tàng trong lệnh tháng dẫn hóa cho hóa cục này. 64b/ - Nếu Nhật Can hợp với tuế vận hóa thành hành khác với hành của Nhật Can thì ta vẫn lấy dấu và hành của Nhật Can cũ để tính điểm hạn của nó ở tuế vận (nghĩa là hành của Thân không thay đổi). Y5 – Can động và điểm hạn của can động 90 – Can động 90a - Can động, nó có nghĩa là can đó phải khắc (hay bị khắc) với (hay bởi) các can khác (xem phần lý thuyết về TKĐX) hay nó khắc các hóa cục. Các can động có điểm hạn riêng của chúng và điểm hạn này chỉ có ở các can lộ khi chúng ở trong trạng thái động, gọi tắt là điểm hạn của can. Nếu các can ở trong cùng tổ hợp không hóa khắc nhau thì chỉ có các can này là động (bởi vì chúng không có liên quan gì tới các can giống với chúng ở bên ngoài tổ hợp này). 90b/ - Tất cả các can ở trong hóa cục không có điểm hạn này. 90c/ - Can tiểu vận không có điểm hạn này. Ví dụ : Bính đại vận hợp với Tân trụ năm không hóa thì Bính và Tân là động (vì Bính khắc Tân), nhưng Bính ở trụ ngày (hay trụ giờ) là tĩnh vì nó không hợp được với Tân trụ năm, nhưng Bính trụ ngày là động nếu khắc được các can khác như Canh ở lưu niên hay nếu nó bị khắc bởi Nhâm hay Quý ở lưu niên cũng như nếu nó khắc được Kim cục. 90d/ - Nếu các can ở tuế vận khắc với nhau hay chúng khắc các can trong tứ trụ thì các can giống với các can này ở trong tứ trụ là động nếu chúng khắc được nhau. 91 – Điểm hạn của các can động (điểm hạn Can) 91a/8 – Với các can ở trong tứ trụ thất lệnh và các can ở tuế vận : Nếu chúng vượng ở lưu niên thì chúng có điểm hạn đúng bằng điểm hạn của hành của chúng. Nếu chúng chỉ vượng ở đại vận thì chúng có điểm hạn chỉ bằng ½ điểm hạn của hành của chúng. Nếu chúng không vượng cả ở đại vận và lưu niên thì chúng có 0đh. Các điểm hạn này giảm tỉ lệ thuận theo các lực khắc tới các can của chúng. 91b/2 - Với các can ở trong tứ trụ được lệnh : Nếu chúng vượng ở lưu niên thì chúng không có điểm hạn. Nếu chúng chỉ vượng ở đại vận thì chúng có điểm hạn chỉ bằng ½ đh của hành của chúng nhưng phải đổi dấu. Nếu chúng nhược ở tuế vận thì chúng có điểm hạn đúng bằng điểm hạn của hành của chúng nhưng phải đổi dấu. Các điểm hạn này không bị giảm khi các can của chúng bị khắc (phải thừa nhận). 91c/126 – Các trạng thái của các can tại năm sinh phải được xác định tại chi của tháng cần tính điểm hạn của năm đó. (Trong Y7) - Điểm hạn của hóa cục 113/1- Điểm hạn của các hóa cục bằng chính tổng số các can hay chi có trong hóa cục đó nhân với ½ số điểm hạn của hành của hóa cục đó (trừ các chi trong tứ trụ đã hóa cục từ khi mới sinh có cùng hành). (Trong Y1) - Điểm hạn kỵ vượng 14/6 - Nếu một hành là kỵ 1 có điểm vượng trong vùng tâm (hay sau khi tính lại điểm vượng trong vùng tâm hoặc sau khi tính thêm điểm vượng của tuế vận) lớn hơn hỷ dụng thần từ 10đv (sai số có thể từ -0,05đv tới +0,05đv) trở lên thì hành đó được gọi là hành kỵ vượng và nếu nó lớn hơn hỷ dụng thần từ 10đv đến 19,99đv thì mỗi can hay chi (trừ các chi trong tứ trụ) của hành kỵ vượng có thể có điểm (hạn) kỵ vượng bằng đúng điểm hạn của hành của nó (chú ý điểm kỵ vượng của can hay chi tiểu vận chỉ bằng ½ ), còn nếu nó lớn hơn từ 20đv trở lên thì mỗi can chi của nó có thể có điểm kỵ vượng gấp 2 lần số điểm hạn của hành của nó, trừ các giả thiết 14a/135; 22/17; 23/8; 24/11...). Ví dụ minh họa : Ví dụ 10 : Bé trai Elgin Alexander Fraser (Canada) sinh ngày 10/4/2004 lúc 12,00’. Bị bệnh ung thư từ khi mới 8 tháng tuổi và được sống tới ngày 19/5/2007 lúc 19,45’. Hình chụp với trung phong (Centre) Mike Fisher gần đây, khi còn sống Ngày 19/5/2007 là năm Đinh Hợi thuộc đại vận (tức tiểu vận) Giáp Tuất (vì đã qua ngày sinh là 10/4). Mà mệnh này đến tháng 8/2012 mới bước vào đại vận đầu tiên là Kỷ Tị, vì vậy phải lấy tiểu vận để thay thế đại vận . 1 – Mệnh này Thân quá vượng mà kiêu ấn Hỏa ít (vì Ngọ hóa Thổ nhưng vẫn còn Đinh là tạp khí tàng trong Mùi không bị hóa Thổ) và thực thương đủ, vì vậy dụng thần đầu tiên phải là quan sát Ất tàng trong Thìn trụ tháng. Thổ là kỵ vượng. .................................................................. Qua sơ đồ trên ta thấy: a - Ất tàng trong Thìn trụ tháng là dụng thần nhập Mộ ở đại vận Tuất nên có 1đh (được ghi bên trái của Tuất đại vận, còn bên phải để ghi cho Nhật can) và Tử (hay Mộ hoặc Tuyệt) ở lưu niên Hợi có 1đh (được ghi bên trái của lưu niên Hợi).. b - Nhật can Kỷ nhược ở lưu niên Hợi có 0đh (nếu nó vượng có -1đh còn Tử, Mộ hay Tuyệt có 1đh) (được ghi bên phải của lưu niên Hợi). c - Lục hợp của Giáp đại vận với Kỷ trụ ngày hóa Thổ thành công có 0,5đh (vì tổ hợp này có 2 can mà điểm hạn của hành Thổ là 0,5 nên Thổ cục có 2.0,5.1/2đh = 0,5đh nhưng số điểm này bị Giáp trụ năm khắc mất hết bởi vì Giáp vượng ở lưu niên Hợi. d - Kỵ thần Thổ có 30,28đv lớn hơn hỷ thần Kim 10đh nên Thổ là hành kỵ vượng và có điểm kỵ vượng. Do vậy mỗi can Giáp và Kỷ trong Thổ cục có 0,5đh kỵ vượng (điểm này không bị giảm khi điểm hạn của Thổ cục bị khắc). Tuất đại vận xung Thìn trụ tháng nên Tuất là động cũng có 0,5 đh kỵ vượng. Nếu Thổ có 30,4đv trong vùng tâm tức nó lớn hơn Kim 20đv thì các điểm kỵ vượng này được tăng gấp đôi. e - Đinh lưu niên khắc Canh trụ giờ, vì vậy 2 can này được xem là động. mặc dù lực khắc này có 0đh vì Đinh nhược cả ở đại vận và lưu niên và dĩ nhiên Đinh không có điểm can vượng (nếu nó vượng ở lưu niên Hợi sẽ có 1đh đúng bằng điểm hạn của hành của nó, còn nếu nó chỉ vượng ở đại vận thì có 0,5đh). Canh trụ giờ mặc dù động nhưng nó thất lệnh và nhược cả ở đại vận và lưu niên nên không có điểm hạn can. Giáp khắc Thổ cục nên Giáp thành động có -1đh, vì nó thất lệnh và vượng ở lưu niên Hợi. f - Hợi thái tuế (chi của lưu niên) có 2 hung thần có 2.0,25đh (tất cả các hung thần đều có 0,25đh, còn cát thần đều có -0,25đh (nhưng nếu nó ở can chi tiểu vận thì điểm hạn của nó chỉ bằng 1/2). g - Canh trụ giờ là Thương quan mặc dù gặp Quan là Giáp ở trụ năm nhưng nó không có điểm hạn vì Canh thất lệnh và nhược ở tuế vận. h - Thân trụ năm hại Hợi thái tuế có 1đh (các điểm hạn về khắc, hình, tự hình hay hại của 1 can hay 1 chi với 1 can hay 1 chi khác đều có điểm lớn nhất là bằng 1đh, nạp âm khắc nạp âm cũng vậy). k - Lửa đỉnh núi của đại vận có can của nó là Giáp vượng ở lưu niên nên khắc Đất mái nhà của lưu niên có 1đh.
    2 likes
  3. Hôm nay, ngày Mậu Tuất - tháng Bính Thân - năm Tân Mão. - Hạt gạo làng mở chuyên mục tư vấn phong thủy cho mọi người với mong muốn giúp mọi người có cuộc sống tốt hơn. Hóa giải được những xui xẻo trong công việc cũng như trong đời sống hàng ngày. - Topics này sẽ ưu tiên cho những người có hoàn cảnh khó khăn, có cuộc sống bấp bênh. - Topics này được lập ra với mong muốn trao đổi, giúp đỡ mọi người có cuộc sống tốt đẹp hơn, có ngôi nhà hợp mỹ thuật hiện đại và theo đúng các nguyên tắc về phong thủy. Mọi người có nhu cầu về tư vấn phong thủy có thể tham gia trong mục Tư vấn phong thủy của Hạt gạo làng với điều kiện: - Đưa đầy đủ thông tin về căn nhà cần tư vấn. - Hướng nhà (có thông tin về độ số chính xác của la bàn để việc tư vấn được chính xác) - Sơ đồ nhà - Thông tin về các thành viên trong gia đình. - Những yêu cầu cần tư vấn về ngôi nhà của mình và những câu hỏi về phong thủy cần giải đáp. - Có ảnh chụp quang cảnh bên ngoài ngôi nhà của bạn (cần thiết nhưng không bắt buộc) Do điều kiện thời gian của Hạt gạo làng hạn chế nên để mọi giải đáp được nhanh chóng, cần có đầy đủ thông tin và mỗi người cần hỏi những câu hỏi nhất định. Lưu ý: Việc tư vấn trên diễn đàn không thể chi tiết được do một số nguyên nhân khách quan và chủ quan nên có thể không bao quát hết mọi vấn đề về ngôi nhà. Có những vấn đề vì bí mật nghề nghiệp, Hạt gạo làng sẽ tư vấn qua email hoặc qua PM của diễn đàn. Những câu hỏi của Hạt gạo làng cần được phản hồi đầy đủ và chính xác. Thân mến Hạt gạo làng
    1 like
  4. Rin86 có người bạn thuê nhà cùng (Rin86 ở tầng 2, bạn ấy ở tầng 3 nhưng cùng 1 ngôi nhà kiểu nhà ống). Người bạn đó nói rằng bạn ấy có bạn làm ở khách sạn hiện Stephen Hawking đang cư trú, Stephen đang ở Mỹ và sẽ về Anh trong khoảng 2 tuần nữa. Bạn ấy nói rằng Stephen Hawking tuy nổi tiếng nhưng không phải là tỷ phú hay chính trị gia nên có thể liên lạc được. Nếu gọi điện đến khách sạn Stephen Hawking đang ở có thể người ta sẽ nối máy. Rin86 cũng không biết việc này có thành công hay không nhưng ngày 14/7 âm năm Tân Mão giờ Tuất bấm được quẻ Hưu Tốc Hỷ. Rin86 hy vọng rằng chúng ta có thể nói chuyện được với Stephen, nhưng theo Rin biết thì ông ấy nói thông qua cái máy nên rất chậm, có lẽ trợ lý hoặc y tá sẽ nghe máy, Rin đoán vậy.
    1 like
  5. Nếu suy luận như bạn thì theo bạn người mệnh Hỏa có nên tắm rửa không?
    1 like
  6. - Quan lộc: sau có danh chức cũng cao, có danh tiếng, có thực lộc, ngoài 34 trở đi thì thời vận bắt đầu hanh thông - Phu thê: cuộc sống gia đình đang hạnh phúc ko hiểu chị muốn hỏi j?mà những câu này cũng ko nên hỏi, giả như ko tốt thì tâm lý mình sẽ bị ảnh hưởng rất nhiều
    1 like
  7. 1 like
  8. Longphi cảm 1 tí và thêm hình, h đợi quẻ xem mình được đến đâu. Còn việc luận hơn nữa thì vẫn thua anh kỹ sư 2 bậc. . Bữa nào có dịp em sẽ ra đó chơi. Hồi trước có ra ở KS Khăn Quàng Đỏ ở gần lăng Bác, mà chưa đi thăm lăng được. . Bữa nào ra được đi luôn 1 thể. Have fun!
    1 like
  9. Con đầu không quan trọng bằng con út! Sinh Nhâm Thìn cũng được, không sao cả. SInh con gái trước, trai út là tốt nhất!
    1 like
  10. 1 like
  11. Thiên 41: THÍCH YÊU THỐNG Túc Thái dương mạch, khiến người yêu thống (đau ngang chỗ thắt lưng), đau rút suốt xương sống lên cổ, dưới xuống tới xương khu... Lưng như mang vật gì nặng. Thích Uûy trung thuộc chính kinh Thác dương cho ra huyết. Mùa xuân đừng để thấy huyết [1]. Mạch kinh Thiếu dương khiến người yêu thống, như người lấy kim đâm vào trong da, không thể cúi ngửa, không thể ngảnh đi ngảnh lại... Thích vào đầu thành cốt thuộc kinh Thiếâu dương cho ra huyết. Thành cốt ở tại đầu gối, phía ngoài bên cạnh xương bánh chè, (hình ngoại khâu). Mùa hạ đừng để cho thấy huyết [2]. Mạch kinh Dương minh, khiến người yêu thống không thể ngảnh đi ngảnh lại... Nếu ngảnh lại hoảng hốt như trông thấy gì lạ… Thích ba nóùát tại trước ống chân thuộc Kinh Dương minh, để cho trên dưới đều hòa và ra huyết. Mùa Thu đừng để cho thấy huyết [3]. Mạch kinh Túc Thiếu Aâm khiến người yếu thống, đau suốt xương sống và cổ “nóùäi liêm”. Thích hai nóùát tại phía trong xương thuộc kinh Thiếu Aâm. Mùa Xuân đừng để cho thấy huyết. Nếu ra huyết quá nhiều sẽ khó hồi phục. Phục lưu [4]. Mạch kinh quyết âm khiến người yêu thống, trong “yêu” cứng đờ như giương dây cung nóùû... thích ở mạch quyết âm, lãi câu mạch đó ở sâu trong bọng chân, rờ tay vào thấy chỗ nào xúc xỉu tức là mạch, sẽ thích. Bệnh này khiến người hay nóùi, nhưng lại nóùi dớ dẩn. Nên thích ba nóùát [5]. Bệnh ở giải mạch khiến người yêu thống, đau rút lên vai, mắt trong mập mờ, thỉnh thoải lại di niệu. Thích giải mạch tại chỗ bên ngoài khe khớp xương đầu gối, thích hoàng mạch ở đó cho ra huyết, mủ trung thấy sắc huyết đổi sắc thì thôi. Bệnh ở giải mạch khiến người yêu thống như buộc chắc dây lưng thường như muốn gãy, lại hay sợ. Mạch này tại ủy trung, có kết lạc nóùåi lên như hạt gạo, thích vào đấy sẽ bắn máu ra. Thấy máu biến sắc đen thì khỏi [7]. Bệnh tại mạch Đồng âm, khiến người yêu thống tái yêu nóùåi lên như cái dùi nhỏ. Thích mạch Đồng âm, tại đầu Dương phụ, Tuyệt cốt phía trên mắt cá ngoài [7]. Bệnh ở Dương Duy khiến người yêu thống đau mà nóùåi cồn lên như thũng. Mạch này cùng với mạch Thái dương hợp, cách xương khoai 7 tấc, các đất một thước [8]. Bệnh ở mạch Hành lạc, khiến người yêu thống, không thể cúi ngửa. Nếu ngửa lên thời như muốn ngã. Bệnh này gây nên bởi mang vật nặng làm thương đến yêu, ác huyết tụ lại đó. Thích ở khoảng gần Khích dương hai nóùát cho ra huyết [9]. Bệnh ở mạch Hội âm, khiến cho người yêu thống, lúc đau mồ hôi ra đằm đìa, tới khi mồ hôi ráo đi, khiến người khát muốn uống nước, lúc uống nước rồi lại muốn chạy. Thích mạch trước dương. Thích trên mạch trực dương ba nóùát. Mạch này tại trên Kiểu dưới Khích 5 tấc, nóù nằm ngang. Thấy mạch đó thịnh, phải để cho xuất huyết [10]. Bệnh ở mạch Phi dương khiến người yêu thống, lúc đau tê tái rầu rĩ, quá lắm thời kiêm cả bi và khủng. Thích mạch Phi dương tại phía trong xương khoai 5 tấc, trước mạch Thiếu ấm, cùng hội với mạch Aâm duy [11]. Bệnh ở mạch Xương dương khiến người yêu thống, đau rút sang lồng ngực, quá lắm, lưng như gãy, mắt trong lòe loẹt, lưỡi cong lại không thể nóùi, thích hai nóùát ở Nóùäi Cân, huyệt tại trước Giao tín, Đại cân phía trên xương khoai, và dưới xương khoai sau huyệt Thái âm hai tấc [12]. Bệnh ở Tán mạch khiến người yêu thống mà nhiệt, Nhiệt quá sinh phiền. Trong yêu như có mảnh gỗ chắn ngang, quá lắm thời di niệu. Thích Tán mạch tại khe thịt trước xương gối, tức là Thúc mạch. Thích ba nóùát [13]. Bệnh ở mạch Nhục lý khiến người yêu thống đau không thể ho, ho thời gân rút gấp. Thích hai nóùát ở mạch Nhục lý huyệt tại Dương phụ bên ngoài huyệt Thái dương và phía sau Tuyệt cốt thuộc Thái dương [14]. Yêu thống suốt lên xương sống, đau đến nóùãi cổ chỉ hơi ngọ ngoạy được, mắt trong lòe loẹt, như muốn ngã. Thích ở huyệt Khích trung thuộc Thái dương cho ra huyết. Uûy trung [15]. Yêu thống mà bộ phận trên hàn, thích ở huyệt Thái dương, Dương minh. Bộ phận trên nhiệt, thích ở huyệt Túc quyết âm đau không thể cúi ngửa, thích ở huyệt Thiếâu dương, bên trong nóùng mà suyễn, thích ở huyệt Thiếu âm, và thích ở huyệt ủy trung cho ra huyết [16]. Yêu thống mà bộ phận trên hàn, đến không thể ngảnh đi, Aâm thụ ngảnh lại, thích ở huyệt Túc Dương minh, nếu bộ phận trên nhiệt, thích ở huyệt Túc Thái âm, nếu trung nhiệt mà suyễn, thích ở huyệt Túc thiếu âm [17]. Đại tiện khí, thích ở huyệt Túc quyết âm [18]. Thiếu phúc mãn, thích ở huyệt Túc quyết âm [19]. Đau nhữ gẫy, không thể cúi ngửa, không thể cử động, thích huyệt Túc Thái dương [20]. Đau rít lên trong đường xương sống, thích ở huyệt Túc Thiếu âm [21]. Yêu thống rút xuống Thiếu phúc, không thể ngửa, thích ở huyệt yêu cầu giao hai bên, lấy số ngày “sinh tử” của mặt trăng để định nóùát thích (1), rút châm, khỏi ngay. Đau bên tả, thích bên hữu, đau bên hữu thích bên tả [22] 素问-刺腰痛篇第四十一 足太阳脉令人腰痛,引项脊尻背如重状;刺其郄中太阳正经出血,春无见血。 少阳令人腰痛,如以针刺其皮中,循循然不可以俯仰,不可以顾,刺少阳成骨之端出血,成骨在膝外廉之骨独起者,夏无见血。 阳明令人腰痛,不可以顾,顾如有见者,善悲,刺阳明于(骨行)前三痏,上下和之出血,秋无见血。 足少阴令人腰痛,痛引脊内廉,刺少阴于内踝上二痏,春无见血,出血太多,不可复也。 厥阴之脉,令人腰痛,腰中如张弓弩弦;刺厥阴之脉,在(月耑)踵鱼腹之外,循之累累然,乃刺之,其病令人善言,默默然不慧,刺之三痏。 解脉令人腰痛,痛引肩,目然,时遗溲,刺解脉,在膝筋肉分间郄外廉之横脉出血,血变而止。 解脉令人腰痛如引带,常如折腰状,善恐,刺解脉在郄中结络如黍米,刺之血射以黑,见赤血而已。 同阴之脉,令人腰痛,痛如小锤居其中,怫然肿;刺同阴之脉,在外踝上绝骨之端,为三痏。 阳维之脉,令人腰痛,痛上怫然肿;刺阳维之脉,脉与太阳合(月耑)下间,去地一尺所。 衡络之脉,令人腰痛,不可以俛仰,仰则恐仆,得之举重伤腰,衡络绝,恶血归之,刺之在郄阳筋之间,上郄数寸,衡居为二痏出血。 会阴之脉,令人腰痛,痛上漯漯然汗出,汗干令人欲饮,饮已欲走,刺直阳之脉上三痏,在蹻上郄下五寸横居,视其盛者出血。 飞阳之脉,令人腰痛,痛上怫怫然,甚则悲以恐;刺飞阳之脉,在内踝上五寸,少阴之前,与阴维之会。 昌阳之脉,令人腰痛,痛引膺,目(目巟)(目巟)然,甚则反折,舌卷不能言;刺内筋为二痏,在内踝上大筋前,太阴后,上踝二寸所。 散脉,令人腰痛而热,热甚生烦,腰下如有横木居其中,甚则遗溲;刺散脉,在膝前骨肉分间,络外廉束脉,为三痏。 肉里之脉,令人腰痛,不可以咳,咳则筋缩急;刺肉里之脉为二痏,在太阳之外,少阳绝骨之后。 腰痛侠脊而痛至头,几几然,目(目巟)(目巟)欲僵仆,刺足太阳郄中出血。腰痛上寒,刺足太阳阳明;上热,刺足厥阴;不可以俛仰,刺足少阳;中热而喘,刺足少阴,刺郄中出血。 腰痛上寒,不可顾,刺足阳明;上热,刺足太阴;中热而喘,刺足少阴。大便难,刺足少阴。少腹满,刺足厥阴。如折,不可以俛仰,不可举,刺足太阳,引脊内廉,刺足少阴。 腰痛引少腹控(月少),不可以仰。刺腰尻交者,两髁胂上。以月生死为痏数,发针立已。左取右,右取左。 Thiên 42: PHONG LUẬN Hoàng Đế hỏi: Phong nó làm thương người, hoặc phát chứng hàn nhiệt, hoặc là chứng nhiệt trung, hoặc là chứng hàn trung, hoặc là lệ phong, hoặc là thiên khô, hoặc là phong... Bệnh đã khác nhau, danh cũng không giống, hoặc phạm tới cả năm Tàng sáu Phủ... Không hiểu nguyên nhân ra sao, xin cho biết rõ [1]. Kỳ Bá thưa rằng: Phong khí tàng ở khoảng bì phu, trong không thể thông, ngoài không thể tiết... Nó “dẫn đi rất chóng mà biến đổi luôn” làm tấu lý mở rỗng, thời ghê rợn mà rét, làm tấu lý vít lấp, thời nhiệt mà khó chịu [2]. Nó hàn thời uống ăn kém sút, nó nhiệt thời cơ nhục hao mòn [3]. Nếu làm cho người bợt bạt mà không ăn được thời gọi là Hàn nhiệt [4]. Phong khí với khí của Dương minh dồn vào Vị, đi vòng lên đến phía đầu mắt, nếu là người béo, thời phong khí không tiết ra ngoài được, sẽ gây nên chứng Nhiệt trung mà mắt vàng, nếu là người gầy, thời tiết ra ngoài mà hàn, sẽ gây nên chứng hàn trung và chảy cả nước mắt, nước mũi [5]. Phong khí cùng vào với khí của Thái dương, dẫn đi ở mạch du, giải rắc ra ở khoảng phận nhục, cùng xung đột với Vệ khí, khiến cho mạch đạo không thông lợi, gây nên chứng cơ nhục sùi sưng thành mụn lở. Vệ khí có chỗ không dẫn hành được, sẽ gây nên chứng bất nhân [6]. Về Lệ phong, do vinh khí nhiệt tụ ở cơ nhục, khiến khí không trong mát, gây nên chứng dọc mũi loét nát mà sắc bại, bì phù lở nát. Phong hàn ký tục ở mạch mà không dẫn đi ngược, gọi là Lệ phong, hoặc lại gọi là “hàn, nhiệt” [7]. Tiết lập xuân, ngày Giáp, Aát, bị thương vì Phong, gọi là Can phong, mùa Hạ, Bính, Đinh bị thương vì phong, gọi là Tâm phong, mùa qúi hạ, Mậu, Kỷ bị thương vì phong, gọi là Tỳ phong, mùa Thu, Canh Tân bị trúng về tà, gọi là Thận phong [8]. Phong trúng Du huyệt của năm Tàng sáu Phủ, cũng gọi là phong của Tàng, Phủ [9]. Nếu trúng vào cửa ngõ của khí huyết, thời gọi là Thiên phong [10]. Phong khí theo phong phủ mà dẫn lên, gọi là Não phong [11]. Phong khí phạm vào đầu hệ, thời gây nên chứng mục phong, nhãn hàn [12]. Uống rượu mà trúng phong, thời là Lậu phong [13]. Nhập phòng, hãn ra mà trúng phong, thời là Nóäi phong [14]. Mới gội đầu mà trúng phong, thời là Thủ phong [15]. Phong phạm vào bộ phận trong đã lâu ngày, thời tà chứng Trường phong, Xôn tiết [16]. Phong lưu ở ngoài Tấu lý, thời là Tiết phong... [17] Cho nên “phong là trưởng của trăm bệnh”. Đến khi nó biến hóa để gây nên chứng bệnh khác thời không có phương hướng nhất định... Nhưng tóm lại thời lúc nào cũng do “phong khí” mà gây nên [18]. Hoàng Đế hỏi: Năm Tàng bị phong, chứng trạng khác nhau thế nào, và xin cho biết phép chẩn với bệnh nặng (sự biến chuyển của bệnh...) [19] Kỳ Bá thưa rằng: Chứng trạng của Phế phong, nhiều hãn mà ố phong, thỉnh thoảng ho, hơi thở ngắn, ban ngày nhẹ, về đêm nặng. Chẩn ở phía trên lông mày, sắc trắng bợt [20]. Chứng trạng của Tâm phong nhiều hãn mà ố phong môi khô rộp, hay giận giữ. Bệnh nặng thời nói ra khó khăn. Chẩn ở miệng, sắc đỏ [21]. Chứng trạng của Can phong nhiều hãn mà ố phong, hay bị (buồn, thương), họng khô, hay giận, có ý như ghét đàn bà. Chẩn ở dưới mắt, sắc mặt tái xanh [22]. Chứng trạng của Tỳ phong, nhiều hãn mà ố phong, thân thể mỏi mệt, tứ chi không muốn cử động, không muốn ăn, chẩn ở trên mũi, sắc vàng [23]. Chứng trạng của Thận phong, nhiều hãn mà ố phong, mặt phù thũng, xương sống đau không đứng thẳng được, trong lòng có sự như không được toại ý. Chẩn ở ngoài da, sắc sạm đen [24]. Chứng trạng của Vị phong, cổ nhiều hãn mà ố phong, uống ăn khó khăn, như có vướng mắc nuốt không trôi, phúc bộ hay đầy, nếu không đắp bụng thời hay trướng, ăn thức hàn thời sinh tiết tả. Chẩn thấy thân thể gầy mà bụng to [25]. Chứng trạng của Thủ phong, đầu và mặt nhiều hãn mà ố phong. Trước chứng phong phát sinh một ngày thời bệnh nặng, đầu nhức đến nóãi không thể bước ra ngoài, đến ngày phong phát, thời bệnh lại hơi bớt [26]. Chứng trạng của Lậu phong, có nhiều hãn, thường không dám mặc áo đơn, đến bữa ăn thời hãn ra, có khí hãn nhiều mà thở suyễn, ghê gió, áo thường ẩm ướt vì hãn, miệng khô và khát, không làm được công việc nhọc mệt [27]. Chứng trạng của tiết phong, nhiều hãn, hãn ra ướt cả áo, trong miệng khô, không làm được việc nặng nhọc, toàn thân đều đau và rét...(Rét vì ra hãn nhiều, thành vong dương) [28].  素问-风论篇第四十二 黄帝问曰:风之伤人也,或为寒热,或为热中,或为寒中,或为疠风,或为偏枯,或为风也,其病各异,其名不同,或内至五藏六府,不知其解,愿闻其说。 岐伯对曰:风气藏于皮肤之间,内不得通,外不得泄;风者,善行而数变,腠理开则洒然寒,闭则热而闷,其寒也则衰食饮,其热也则消肌肉,故使人怢慄而不能食,名曰寒热。 风气与阳明入胃,循脉而上至目内眥,其人肥则风气不得外泄,则为热中而目黄;人瘦则外泄而寒,则为寒中而泣出。 风气与太阳俱入,行诸脉俞,散于分肉之间,与卫气相干,其道不利,故使肌肉愤(月真)而有疡,卫气有所凝而不行,故其肉有不仁也。疠者,有荣气热府,其气不清,故使其鼻柱坏而色败,皮肤疡溃,风寒客于脉而不去,名曰疠风,或名曰寒热。 以春甲乙伤于风者为肝风,以夏丙丁伤于风者为心风,以季夏戊己伤于邪者为脾风,以秋庚辛中于邪者为肺风,以冬壬癸中于邪者为肾风。 风 中五藏六府之俞,亦为藏府之风,各入其门户所中,则为偏风。风气循风府而上,则为脑风;风入系头,则为目风,眼寒;饮酒中风,则为漏风;入房汗出中风,则 为内风;新沐中风,则为首风;久风入中,则为肠风飧泄;外在腠理,则为泄风。故风者百病之长也,至其变化,乃为他病也,无常方,然致有风气也。 帝曰:五藏风之形状不同者何?愿闻其诊及其病能。 岐伯曰:肺风之状,多汗恶风,色(白并)然白,时咳短气,昼日则差,暮则甚,诊在眉上,其色白。 心风之状,多汗恶风,焦绝,善怒吓,赤色,病甚则言不可快,诊在口,其色赤。 肝风之状,多汗恶风,善悲,色微苍,嗌干善怒,时憎女子,诊在目下,其色青。 脾风之状,多汗恶风,身体怠惰,四支不欲动,色薄微黄,不嗜食,诊在鼻上,其色黄。 肾风之状,多汗恶风,面(疒龍)然浮肿,脊痛不能正立,其色(火台),隐曲不利,诊在肌上,其色黑。 胃风之状,颈多汗恶风,食饮不下,鬲塞不通,腹善满,失衣则(月真)胀,食寒则泄,诊形瘦而腹大。 首风之状,头面多汗,恶风,当先风一日则病甚,头痛不可以出内,至其风日,则病少愈。 漏风之状,或多汗,常不可单衣,食则汗出,甚则身汗,喘息恶风,衣常濡,口干善渴,不能劳事。 泄风之状,多汗,汗出泄衣上,口中干,上渍其风,不能劳事,身体尽痛则寒。帝曰:善。 Thiên 43: TÝ LUẬN Hoàng Đế hỏi: Bệnh Tý (tê, đau) vì đâu sinh ra? [1] Kỳ Bá thưa rằng: Ba khí “phong, hàn, thấp” lẫn lộn dồn đến, hợp lại thành chứng Tý. Trong ba khí đó, nếu phong khí thắng thời là Hàn Tý, hàn khí thắng thời là Thống tý, Thấp khí thắng thời là Chước tý [2]. Hoàng Đế hỏi: Tôi nghe lại có năm chứng Tý, là vì sao? [3] Kỳ Bá thưa rằng: Mắc bệnh về mùa Đông, là Cốt tý, mắc bệnh về mùa Xuân gọi là Cân tý, mắc bệnh về mùa hạ gọi là Mạch tý, mắc bệnh vào thời điểm Chí âm gọi là Cơ tý, mắc bệnh về mùa Thu gọi là Bò tý [4]. Hoàng Đế hỏi: Có khí ở bên trong, ký túc vào năm Tàng, vậy khí nào làm nên thế? [5] Kỳ Bá thưa rằng: Năm Tàng đều có “Hợp” bệnh mắc lâu không giải đi được, sẽ ký túc vào nơi “hợp” đó. Cho nên, nếu Cốt tý không dứt, lại cảm với tà, nó sẽ ký túc tại Thận, Cân tý không dứt, lại cảm với tà, nó sẽ ký túc tại Can, Mạch tý không dứt, lại cảm với tà, nó sẽ ký túc tại Tâm, Cơ tý không dứt, lại cảm với tà, nó sẽ ký túc tại Tỳ, Bì tý không dứt, lại cảm với tà, nó sẽ ký túc tại Phế... [6] Vậy, phàm chứng Tý, đều theo về từng mùa, rồi lại cảm thêm với khi phong, hàn, thấp... mà gây nên [7]. Phàm chứng Tý ký túc ở năm tàng, sinh ra các chứng trạng sau này: [8] Phế tý thời phiền mãn, suyễn mà ẩu (ọe) [9]. Tâm tý thời huyết mạch không thông, vì tà bách dưới Tâm, dồn mạnh phạm lên Tâm tàng, nên phiền, lại thêm chứng thượng khi mà suyễn, cuống họng khô, hay ợ, quyết khí ngược lên nên hay khủng [10]. Can Tý, đêm nằm hay giật mình, uống nước nhiều, tiểu tiện luôn, trong bụng anh ách, như đàn bà có thai [11]. Thận tý hay trướng, xương khu dồ lên, xương sống gù xuống [12]. Tỳ tý thời tứ chi mỏi mệt rã rời, hay lo, nóân ra nước dãi, trên Hung bị nghẽn [13]. Trường tý, uống nước luôn mà không tiểu tiện ra được, trung khí suyễn cấp, thỉnh thoảng lại thành chứng xôn tiết [14]. Bào tý thời thuộc bộ phận Thiếu phúc và Bàng quang, án mạnh tay, thấy đau ở bên trong như dội nước nóng vào, tiểu tiện lại ít, và hay chảy nước mũi trong [15]. Phàm âm khí (tức tàng khí) tĩnh thời tàng thần, táo thời tiêu vong, nếu uống ăn quá độ. Trường Vị sẽ bị thương (nếu bị thương, tà khí sẽ thừa cơ phạm vào mà gây nên chứng tý) [16]. Nếu thấy suyễn tức quá độ, thời biết chứng Tý tụ ở Phế, thấy ưu tư quá độ, thời biết chứng Tý tụ ở Tâm, thấy sự di niệu luôn luôn, thời biết chứng Tý tụ ở Thận, thấy sự mỏi mệt quá độ, thời biết chứng Tý tụ ở Can, thấy da dẻ khô khan xãm xĩnh, thời biết Tý tụ ở Tỳ [17]. Phàm chứng Tý không khỏi, sẽ càng ngày càng nặng thêm. Duy có chứng thuộc về “phong khí thắng” thời dễ khỏi hơn [18]. Hoàng Đế hỏi: Về chứng Tý, có người bị chết, cũng có người lâu ngày mới khỏi, là vì cớ sao? Xin cho biết rõ [19]. Kỳ Bá thưa rằng: Chứng Tý, phạm thẳng vào Tàng, sẽ chết, nếu lưu niên ở khoảng gân xương, thời lâu khỏi, nếu chỉ ở khoảng bì phu, thời chóng khỏi [20-]. Hoàng Đế hỏi: Nếu lý túc ở sáu phủ thì sao? [21] Kỳ Bá thưa rằng: Đó cũng chỉ là do sự uống ăn, cư xử mà gây nên. Sáu phủ cũng đều có Du, các khí “phong, hàn, thấp, trúng vào Du, nhân có sự uống ăn tiếp theo, do Du mà vào, rồi đến ký túc vào Phủ [22]. Hoàng Đế hỏi: Dùng châm để điều trị, thế nào? [23] Kỳ Bá thưa rằng: Năm Tàng có Du, sáu Phủ có Hợp. Theo bộ phận của mạch, để tìm nơi mắc bệnh mà thích, sẽ khỏi [24]. Hoàng Đế hỏi: Khí của doanh, Vệ, có gây nên bệnh Tý chăng? [25] Kỳ Bá thưa rằng: Vinh, là tinh khí của thủy cốc. Nó hòa điều ở năm Tàng, thấm nhuần ở sáu Phủ, rồi sau mới dẫn vào mạch. Mạch đó vòng khắp trên dưới, suốt qua năm Tàng và chằng vào sáu Phủ [26]. Vệ, là một thứ hãn khí (mạnh, dữ) của thủy cốc. Cái tính của nó lật tật, hoạt lợi, không thể vào trong mạch, cho nên dẫn đi ở trong bì phu, khoảng phận nhục, hun lên “hoang mạc”, tan ra “hung phúc” [27]. Trái khí đó thời sinh bệnh, thuận khí đó thời sẽ khỏi [28]. Nó không hợp với các khí phong, hàn, thấp. Nên không gây nên bệnh Tý [29]. Hoàng Đế hỏi: Bệnh Tý có khí đau, có khí không đau, có khí bất nhân, có khí hàn, có khí nhiệt, có khí táo, có khi thấp... là vì sao? [30] Kỳ Bá thưa rằng: [31] Đau là do hàn khí nhiều. Còn như không đau và bất nhân, là vì bệnh lâu vào sâu, Doanh Vệ dẫn đi bị rít, kinh lạc có lúc xơ rỗng, nên bất thông, bì phu không có huyết thấm nhuần, nên bất nhân [32]. Đến như chứng hàn, do Dương khí ít, Aâm khí nhiều, giúp thêm cho bệnh, nên mới hàn [33]. Đến như nhiệt, do Dương khí nhiều, Aâm khí ít, bệnh khí thắng, dương gặp âm, nên mới thành Nhiệt tý [34]. Như nhiều hãn đằm đìa, đó là vì gặp thấp nhiều [35]. Dương khí ít, âm khí thịnh, hai khí cùng cảm nhau, nên hãn mới ra đằm đìa [36]. Lại có chứng Tý, không đau là vì sao? [37] Tý mắc ở xương thời nặng, mắc vào mạch thời huyết đọng mà không chảy, mắc ở cân thời co vào mà không duỗi ra được mắc ở thịt thời bất nhân, bì thời hàn... Gặp năm chứng đó nên không đau [38]. Phàm bệnh Tý, gặp hàn, thời như kiến bò trong da, gặp nhiệt thời gân rã rời, không cử động được [39]. 素问-痹论篇第四十三 黄帝问曰:痹之安生?岐伯对曰:风寒湿三气杂至,合而为痹也。其风气胜者为行痹,寒气胜者为痛痹,湿气胜者为著痹也。 帝曰:其有五者何也?岐伯曰:以冬遇此者为骨痹,以春遇此者为筋痹,以夏遇此者为脉痹,以至阴遇此者为肌痹,以秋遇此者为皮痹。 帝 曰:内舍五藏六府,何气使然?岐伯曰:五藏皆有合,病久而不去者,内舍于其合也。故骨痹不已,复感于邪,内舍于肾;筋痹不已,复感于邪,内舍于肝;脉痹不 已,复感于邪,内舍于心;肌痹不已,复感于邪,内舍于脾;皮痹不已,复感于邪,内舍于肺。所谓痹者,各以其时,重感于风寒湿之气也。 凡痹之客五藏 者,肺痹者,烦满喘而呕;心痹者,脉不通,烦则心下鼓,暴上气而喘,嗌干善噫,厥气上则恐;肝痹者,夜卧则惊,多饮数小便,上为引如怀;肾痹者,善胀,尻 以代踵,脊以代头;脾痹者,四支懈惰,发咳呕汁,上为大塞;肠痹者,数饮而出不得,中气喘争,时发飧泄;胞痹者,少腹膀胱,按之内痛,若沃以汤,涩于小 便,上为清涕。 阴气者,静则神藏,躁则消亡,饮食自倍,肠胃乃伤。淫气喘息,痹聚在肺;淫气忧思,痹聚在心;淫气遗溺,痹聚在肾;淫气乏竭,痹聚在肝;淫气肌绝,痹聚在脾。 诸痹不巳,亦益内也,其风气胜者,其人易已也。 帝曰:痹,其时有死者,或疼久者,或易已者,其故何也?岐伯曰:其入藏者死,其留连筋骨间者疼久,其留皮肤间者易已。 帝曰:其客于六府者何也?岐伯曰:此亦其食饮居处,为其病本也。六府亦各有俞,风寒湿气中其俞,而食饮应之,循俞而入,各舍其府也。 帝曰:以针治之奈何?岐伯曰:五藏有俞,六府有合,循脉之分,各有所发,各随其过,则病瘳也。 帝 曰:荣卫之气,亦令人痹乎?岐伯曰:荣者,水谷之精气也,和调于五藏,洒陈于六府,乃能入于脉也。故循脉上下,贯五藏,络六府也。卫者,水谷之悍气也,其 气慓疾滑利,不能入于脉也,故循皮肤之中,分肉之间,熏于肓膜,散于胸腹,逆其气则病,从其气则愈,不与风寒湿气合,故不为痹。 帝曰:善。痹或 痛,或不痛,或不仁,或寒,或热,或燥,或湿,其故何也?岐伯曰:痛者,寒气多也,有寒故痛也。其不痛不仁者,病久入深,荣卫之行涩,经络时疏,故不通, 皮肤不营,故为不仁。其寒者,阳气少,阴气多,与病相益,故寒也。其热者,阳气多,阴气少,病气胜,阳遭阴,故为痹热。其多汗而濡者,此其逢湿甚也,阳气 少,阴气盛,两气相感,故汗出而濡也。 帝曰:夫痹之为病,不痛何也?岐伯曰:痹在于骨则重,在于脉则血凝而不流,在于筋则屈不伸,在于肉则不仁,在于皮则寒,故具此五者则不痛也。凡痹之类,逢寒则虫,逢热则纵。帝曰:善。 Thiên 44: NUY LUẬN Hoàng Đế hỏi: Năm Tàng, gây nên chứng Nuy, thế nào? [1] Kỳ Bá thưa rằng: Phế chủ về bì mao, Tâm chủ về huyết, Can chủ về cân mạc, Tỳ chủ về cơ nhục, Thận chủ về cốt tủy [2]. Phế nhiệt, lá phổi khô, bì mao do đó hư nhược cấp bách, gây nên chứng Nuy bịch [3]. Tâm khí nhiệt, thời mạch ở dưới, quyết mà nghịch lên trên, do đó mạch ở dưới hư, vì hư sinh ra mạch nuy, ống chân rã rời không bước đi được [4]. Can khí nhiệt thời đởm rà ra mà miệng đắng, cân mạc khô, vì khô nên cân cấp mà co rút, thành chứng Cân nuy [5]. Tỳ khí nhiệt, thời Vy khô mà khát, cơ nhục bất nhân, thành chứng nhục nuy [6]. Thận khí nhiệt nên “yêu, tích” không cất lên được, xương khô mà tủy vơi, thành chứng cốt nuy [7]. Hoàng Đế hỏi: Xin cho biết rõ nguyên nhân... [8] Kỳ Bá thưa rằng: Phế là một quan “trưởng” của các Tàng, nó như cái “lọng” che cho Tâm, Có sự gì bỏ mất, cầu không thể được, thời gây nên chứng. Phế minh (kêu). Kêu thời Phế nhiệt mà Phế diệp khô đét đi... Nên mới nói: “Năm Tàng do “Phế nhiệt, diệp tiêu”, gây nên chứng Nuy bịch (chân lỏng gân, không lê đi được) [9]. Bi ai quá độ thời bào mạch tuyệt. Bào mạch tuyệt khiến cho Dương khí phát động ở bên trong, do đó Tâm hạ huyết băng, thành chứng tiểu ra huyết. Cho nên ở bản kinh nói: “Đại kinh không hư, gây nên chứng cơ tý, truyền làm chứng Mạch Nuy” [10]. Nghĩ ngợi quá độ, không được toại nguyện, ý dâm ở bên ngoài, lại nhập phòng vô hạn, tông cân rã rời, thành chứng cân nuy, và Bạch dâm (tinh khí tự tiết ra). Cho nên kinh nói: “chứng Cân nuy sinh ra bởi Can mà nguyên nhân là sự nhập phòng” [11]. Vì yêm lưu ở nơi ẩm thấp, khiến cho thấp khí thấm thía ở trong Cơ nhục, thành “tý” mà bất nhân, do đó gây nên chứng Nhục nuy. Cho nên Kinh nói: “Nhục nuy gây nên bởi thấp” [12]. Vì sự đi xa nhọc mệt, gặp đại nhiệt mà khát, vì khát nên Dương khí bị suy sút ở bên trong, do đó nhiệt sẽ thừa cơ ký túc ở Thận. Thận là Thủy tàng. Giờ Thủy không thắng được Hỏa, thời xương khô mà tủy vơi, nên chân không thể đi xuống đất, gây nên chứng Cốt nuy. Cho nên ở Kinh nói: “chứng Cốt nuy gây nên bởi đại nhiệt” [13]. Hoàng Đế hỏi: Lấy gì để phân biệt? [14] Kỳ Bá thưa rằng: Phế nhiệt thời sắc mặt trắng bợt mà lông rụng [15]. Tâm nhiệt thời sắc mặt đỏ mà Lạc mạch ràn [16]. Cam nhiệt thời sắc mặt tái xanh mà móng tay khô [17]. Tỳ nhiệt thời sắc mặt vàng mà thịt trường rung động [18]. Thận nhiệt thời sắc mặt đen xạm mà răng se [19]. Hoàng Đế hỏi: Vậy sao nói đến phương pháp trị chứng. Nay lại chuyên trách về Dương minh, là thế nào? [20] Kỳ Bá thưa rằng: Dương minh là cái biểu của năm Tàng, sáu Phủ, chủ về làm nhuận cho tông cân, tông cân chủ về bó ràng ngoài xương, để cho các khớp được hoạt lợi [21]. Xung mạch là biểu của Kinh mạch. Chủ thấm nhuần cho các Khê, Cốc (các bắp thịt lớn, nhỏ), cùng với Dương minh hợp vào tông cân. Aâm, Dương bao trùm tất cả chỗ hội họp của tông cân [22]. Aâm dương bao trùm tất cả chỗ hội họp của Tông cân, để hội ở Khí khái, mà Dương minh sẽ là Trưởng, đều thuộc về Đái mạch, mà “lại’ sang Đốc mạch. Cho nên hễ Dương minh bị hư thời Tông cân bị lỏng ra, Đái mạch không dẫn tới nữa, cho nên chân “nuy” không dùng được [23]. Điều trị thế nào? [24] Trước phải bổ Vinh, rồi thông đến Du, làm cho những hư thực được quân bình, những nghịch thuận được điều hòa, cân mạch, cốt, nhục đều theo đúng vào mùa và tháng... Thời bệnh khỏi (1) [25]. Hoàng Đế khen là đúng. 素问-痿论篇第四十四 黄帝问曰:五藏使人痿何也?岐伯对曰:肺主身之皮毛,心主身之血脉,肝主身之筋膜,脾主身之肌肉,肾主身之骨髓。故肺热叶焦,则皮毛虚弱急薄,著则生痿躄 也;心气热,则下脉厥而上,上则下脉虚,虚则生脉痿,枢折挈,胫纵而不任地也;肝气热,则胆泄口苦筋膜干,筋膜干则筋急而挛,发为筋痿;脾气热,则胃干而 渴,肌肉不仁,发为肉痿;肾气热,则腰脊不举,骨枯而髓减,发为骨痿。 帝曰:何以得之?岐伯曰:肺者,藏之长也,为心之盖也;有所失亡,所求不 得,则发肺鸣,鸣则肺热叶焦,故曰,五藏因肺热叶焦发为痿躄,此之谓也。悲哀太甚,则胞络绝,胞络绝,则阳气内动,发则心下崩,数溲血也。故《本病》曰: 大经空虚,发为肌痹,传为脉痿。思想无穷,所愿不得,意淫于外,入房太甚,宗筋弛纵,发为筋痿,及为白淫,故《下经》曰:筋痿者,生于肝使内也。有渐于 湿,以水为事,若有所留,居处相湿,肌肉濡渍,痹而不仁,发为肉痿。故《下经》曰:肉痿者,得之湿地也。有所远行劳倦,逢大热而渴,渴则阳气内伐,内伐则 热舍于肾,肾者水藏也,今水不胜火,则骨枯而髓虚,故足不任身,发为骨痿。故《下经》曰:骨痿者,生于大热也。 帝曰:何以别之?岐伯曰:肺热者色白而毛败,心热者色赤而络脉溢,肝热者色苍而爪枯,脾热者色黄而肉蠕动;肾热者色黑而齿槁。 帝 曰:如夫子言可矣,论言治痿者独取阳明,何也?岐伯曰:阳明者,五藏六府之海,主润宗筋,宗筋主骨而利机关也。冲脉者,经脉之海也,主渗灌谿谷,与阳明合 于宗筋,阴阳揔宗筋之会,会于气街,而阳明为之长,皆属于带脉,而络于督脉。故阳明虚则宗筋纵,带脉不引,故足痿不用也。 帝曰:治之奈何?岐伯曰:各补其荥而通其俞,调其虚实,和其逆顺,筋、脉、骨、肉各以其时受月,则病已矣。帝曰:善。 Thiên 45: QUYẾT LUẬN Hoàng Đế hỏi: Bệnh quyết (tay chân giá lạnh) chia ra hàn nhiệt, là vì sao ? [1] Kỳ Bá thưa rằng: Dương khí suy ở dưới thời thành chứng Hàn quyết, âm khí suy ở dưới, thời thành chứng Nhiệt quyết (1) [2]. Hoàng Đế hỏi: Về chứng Nhiệt quyết, tức là dương quyết, vậy sao lại khởi tứ túc tâm (lòng bàn chân, thuộc âm).? [3] Kỳ Bá thưa rằng: Dương khí phát ra khởi rừ ngoài năm đầu ngón chân. Phàm âm mạch hợp ở dưới chân mà tụ ở Túc tâm. Vì dương khí thắng, nên túc tâm nhiệt [4]. Vế chứng Hàn quyết, tức là âm quyết, vậy sao lại khởi tử năm đầu ngón tay, rồi lan đến gối.? [5] Aâm khí phát ra khởi từ phía trong năm ngón tay, hợp ở dưới gối, mà tụ ở trên gối. Vì âm khí thắng, nên từ năm ngón tay đến trên gối hàn. Chứng hàn đó, không pháp sinh từ bên ngoài mà là từ bên trong [6]. Hoàng Đế hỏi: Về chứng Hàn quyết, do Tàng nào bị khiếm khuyết mà gây nên? [7] Kỳ Bá thưa rằng: Tiền âm là nơi tụ họp của Tông cân, và là chỗ “hợp” của Thái âm, Dương minh [8]. Về hai mùa Xuân, Hạ thời dương nhiều mà âm khí ít, về hai mùa Thu Đông thời Aâm khí thịnh mà Dương khí suy [9]. Giờ người mắc bệnh đó, vì sức khỏe, về hai mùa Thu Đông làm lụng quá độ, khí ở dưới cố dẫn lên, không thể lại quay trở xuống... Do đó, tinh khí cũng bị ràn ra ở dưới. Cái tà âm hàn liền thừa cơ mà sấn lên [10]. Phàm khí, đều phải nhờ ở trung tiêu. Giờ Dương khí suy, không thể thấm nhuần ra Kinh, Lạc, dương khí càng ngày sút dần, âm khí càng ngày thịnh lên... vì vậy nên tay chân hàn [11]. Hoàng Đế hỏi: Về chứng nhiệt quyết, do Tàng nào khiếm khuyết mà gây nên? [12] Kỳ Bá thưa rằng: Rượu uống vào Vị, thời Lạc mạch “mãn” mà Kinh mạch ‘hư”. Tỳ là một cơ quan du chuyển tân dịch cho Vị. Aâm khí đã hư, thời Dương khí sẽ lấn vào, do đó Vị thành ra không hòa. Vì Vị không hòa, nên tinh khí bị kiệt, không thể thấm nuôi ra Tứ chi...Vậy người mắc bệnh đó, tất do sự uống say, ăn nó mà nhập phòng, khí tụ ở Tỳ, không tán đi được. Tửu khí với cốc khí cùng xung đột nhau, nhiệt thịnh ở bên trong, cho nên khắp mình đều nhiệt, mà nước tiểu cũng đỏ [13]. Ngâm như rượu, khí của nó thịnh mà tật hãn, nó làm cho Thận khí hằng ngày suy sút, Dương khi hàng ngày tăng lên, vì vậy nên thủ túc mới nhiệt [14]. Hoàng Đế hỏi: Về chứng quyết, có khi khiến người phúc mãn, có khi khiến người đột nhiên bất tri nhân (không biết người, tức bất tỉnh...), có người đến nửa ngày, hoặc suốt ngày, rồi mới tri nhân, là vì sao? [16] Kỳ Bá thưa rằng: Aâm khí thịnh ở trên thời dưới hư: vì dưới hư nên thành chứng phúc trướng mãn... Dương khí thịnh ở trên, thời khí ở dưới cũng theo lên, do đó tà khí cũng ngược lên, tà khí đã ngược lên thời Dương khí loạn. Dương khí loạn nên bất tri nhân [16]. Hoàng Đế hỏi: Xin cho biết chứng Quyết của sáu Kinh mạch như thế nào ? [17] Kỳ Bá thưa rằng: Chứng Quyết thuộc kinh Cự dương thời đầu nhức và nặng, chân đi khó khăn, có khi chóng mặt mà ngã [18]. Chứng quyết của kinh Dương minh thời phát điên, chỉ muốn chạy ra kêu to, phúc mãn không thể nằm, mặt đỏ mà nóng, thấy bậy nói càn [19]. Chứng quyết của kinh Thiếu dương, bỗng dưng tai điếc, quai hàm sưng mà nhiệt, sườn đau, xương đầu gối không cử động được [20] . Chứng quyết của kinh Thái âm, thời phúc mãn mà trướng vượt lên, đại tiện khi, không muốn ăn, ăn vào thời nóân, không nằm được [21]. Chứng quyết của kinh Thiếu âm thời miệng khô, nước tiểu đỏ, phúc mãn và tâm thống [22]. Chứng quyết của kinh quyết âm thời Thiếu phúc sưng và đau, phục trướng, tiểu tiện không lợi, hay nằm co đầu gối, âm hành rụt lại hoặc sưng, trong bọng chân nóng. Thịnh thời nên tả, hư thời nên bổ. Không thịnh không hư, nên thích ở bản kinh [23]. Chứng quyết nghịch ở Thái âm, ống chân đau rút. Tâm thống dẫn xuống phúc. Nên trị nơi chủ bệnh (tức Tỳ, vị Tỳ chủ về khí ở kinh này). (1) [24]. Chứng quyết nghịch của thiếu âm, hư mãn và ẩu nghịch, đi tả ra nước trong, nên trị nơi chủ bệnh của nó [25]. Chứng quyết nghịch của quyết âm, vòng ngang lưng đau, hư mãn và tiểu tiện bị vít, nói mê lảm nhảm... nên trị nơi chủ bệnh [26]. Ba kinh âm đều nghịch, đại tiểu đầu bị vít, khiến bệnh nhân tay chân giá lạnh, trong vòng ba ngày sẽ chết (1) [27]. Chứng quyết nghịch của Thái dương, ngã lăn, ẩu huyệt, hay Nục (đổ máu đằng mũi). Nên trị ở nơi chủ bệnh [28]. Chứng quyết nghịch của Thiếu dương, các cơ quan không dễ dàng, khiến cho yêu đau không đi được, cổ đau không ngoảnh được. Rồi phát ra chứng Trường ung, hoặc phát sinh, sẽ chết [29]. Chứng quyết nghịch của Dương Minh, suyễn và ho, mình nóng, hay kinh, nục ẩu huyết [30]. Chứng quyết nghịch của Thủ Thái âm, hư, đầy mà ho, hay nóân ra nước dãi... Trị ở nơi chủ bệnh [31]. Chứng quyết nghịch của Thủ Thái âm, Tâm thống rút lên cuống họng, mình nóng, không thể chữa [32]. Chứng Quyết nghịch của Thủ Thái dương, tai điếc, nước mắt chảy ra, cổ không thể ngoảnh được, yêu không thể cú ngửa được. Trị ở nơi chủ bệnh [33]. Chứng quyết nghịch của Thủ Dương minh, phát chứng Hầu tý, sưng trong cuống họng, hoặc thành chứng “Kinh”. Trị ở nơi chủ bệnh (1) [34].  素问-厥论篇第四十五 黄帝问曰:厥之寒热者何也?岐伯对曰:阳气衰于下,则为寒厥;阴气衰于下,则为热厥。 帝曰:热厥之为热也,必起于足下者何也?岐伯曰:阳气起于足五指之表,阴脉者集于足下,而聚于足心,故阳气盛则足下热也。 帝曰:寒厥之为寒也,必从五指而上于膝者何也?岐伯曰:阴气起于五指之里,集于膝下而聚于膝上,故阴气盛,则从五指至膝上寒,其寒也,不从外,皆从内也。 帝曰:寒厥何失而然也?岐伯曰:前阴者,宗筋之所聚,太阴阳明之所合也。春夏则阳气多而阴气少,秋冬则阴气盛而阳气衰。此人者质壮,以秋冬夺于所用,下气上争不能复,精气溢下,邪气因从之而上也;气因于中,阳气衰,不能渗营其经络,阳气日损,阴气独在,故手足为之寒也。 帝 曰:热厥何如而然也?岐伯曰;洒入于胃,则络脉满而经脉虚;脾主为胃行其津液者也,阴气虚则阳气入,阳气入则胃不和,胃不和则精气竭,精气竭则不营其四支 也。此人必数醉若饱以入房,气聚于脾中不得散,酒气与谷气相薄,热盛于中,故热偏于身内热而溺赤也。夫酒气盛而慓悍,肾气有衰,阳气独盛,故手足为之热 也。 帝曰:厥或令人腹满,或令人暴不知人,或至半日远至一日乃知人者何也?岐伯曰:阴气盛于上则下虚,下虚则腹胀满;阳气盛于上,则下气重上,而邪气逆,逆则阳气乱,阳气乱则不知人也。 帝 曰:善。愿闻六经脉之厥状病能也。岐伯曰:巨阳之厥,则肿首头重,足不能行,发为(目旬)仆;阳明之厥,则癫疾欲走呼,腹满不得卧,面赤而热,妄见而妄 言;少阳之厥,则暴聋颊肿而热,胁痛,(骨行)不可以运;太阴之厥,则腹满(月真)胀,后不利,不欲食,食则呕,不得卧;少阴之厥,则口干溺赤,腹满心 痛;厥阴之厥,则少腹肿痛,腹胀,泾溲不利,好卧屈膝,阴缩肿,(骨行)内热。盛则写之,虚则补之,不盛不虚,以经取之。 太阴厥逆,(骨行)急 挛,心痛引腹,治主病者;少阴厥逆,虚满呕变,下泄清,治主病者;厥阴厥逆,挛、腰痛,虚满前闭,谵言,治主病者;三阴俱逆,不得前后,使人手足寒,三日 死。太阳厥逆,僵仆,呕血善衄,治主病者;少阳厥逆,机关不利,机关不利者,腰不可以行,项不可以顾,发肠痈不可治,惊者死;阳明厥逆,喘咳身热,善惊, 衄,呕血。 手太阴厥逆,虚满而咳,善呕沫,治主病者;手心主、少阴厥逆,心痛引喉,身热死,不可治。手太阳厥逆,耳聋泣出,项不可以顾,腰不可以俛仰,治主病者;手阳明、少阳厥逆,发喉痹、嗌肿,治主病者。
    1 like
  12. Mương thoát nước trước nhà thì ở đâu chẳng bị, tình trạng chung mà :unsure:
    1 like
  13. Thấy cháu đăng câu hỏi nầy nhiều lần trước ,bác thật không muốn trả lời vì lý do bác theo lý tự nhiên cái gì đến sẽ đến ,nó không đén sẽ không bao giờ đến , nếu có thể tránh được thì trên đời nầy không ai bị khổ ,vì lúc trước vợ chồng cháu thì mong có con trai đầu lòng bác có nói nếu sanh được trong năm 2013 thì chắc có con trai ,còn cách cháu muốn tránh việc sanh khó hay có điều bất trắc khi mang thai ,thì bác đã có nói khi trước ,nhưng muốn biết tháng nào để thụ thai mà tránh được thì bác không thể cho ý kiến .
    1 like
  14. Làm gì mà "loạn xà ngầu"? Cụ thể chỉ có mấy dạng cơ bản như Thân vượng mà: 1 - Kiêu Ấn không có. 2 - Kiêu ấn ít. 3 - Kiêu Ấn đủ 4 - Kiêu Ấn nhiều. 5 - Quan Sát quá mạnh. 6 - Thực Thương nhiều. Khi đi sâu vào từng dạng thì mới có thêm một số quy tắC để xác định chính xác dụng thần cho từng trường hợp trong dạng đó mà thôi. Còn nếu xác định dụng thần theo phương pháp truyền thống thì cả đời người nghiên cứu cũng chả đâu vào đâu như Đại Cao thủ Tử Bình Hoàng Đại Lục đã khẳng định.
    1 like
  15. Nhờ thầy và các bạn xem mình tính điểm có đúng chưa? Canh Ngọ - tháng Tân Tị - ngày Đinh Sửu - giờ Tân Sửu. Canh (6).........Tân (3)............Đinh(10)..........Tân (3) Ngọ (9)...........Tị (10)............Sửu (10)............Sửu (10) + Có Tị tháng bán hợp với Sửu ngày thành Kim, có Tân tháng dẫn nên hóa thành công. + Can ngày Đinh đế vượng tại Tị cho nên Tị tháng được công thêm 4,3 đv. (1) Canh năm có 6 đv, Ngọ khắc trực tiếp giảm 1/2, Đinh khắc 1 ngôi giảm 1/5, vào tt giảm 2/5 . Kim = 6 x 1/2 x 4/5 x 3/5 = 1,44 đv (2) Ngọ năm có 9 đv, vào tt giảm 1/2 . Hỏa = 9 x 1/2 = 4,5 đv (3) Tị hóa Kim có 10 đv, Kình Dương tại Tị được + 4,3 thánh 14,3, vào tt giảm 2/5. Kim = 14,3 x 3/5 = 8,58 đv. (4) Sửu ngày hóa Kim, có 10 đv, có Đinh khắc tt giảm 1/2, còn 5 đv. (5) Sửu giờ có 10 dv, vào tt giảm 2/5 . Thổ = 10 x 3/5 = 6 đv (6) Tân Kim giờ có 3 đv, Có Đinh khắc gần 1/5, Ngọ khắc 3 ngôi 1/20 . Kim = 3 x 4/5 x 19/20 = 2,28 đv (7) Đinh ngày có 10 đv (8) Tân tháng có 3 đv, Đinh khắc gần 1/3, Ngọ khắc 1 ngôi giảm 1/5. Kim = 3 x 2/3 x 4/5 = 1,6 Tổng hợp: Tài.............Quan/sát............Kiêu/Ấn...............Nhật chủ..............Thực thương Kim.............Thủy......................Mộc......................Hỏa......................Thổ...... 18,9..............#.........................#....................14,5..........................6
    1 like
  16. Đúng như anhphongkim nói. Trường hợp này là Thân nhược, theo bài học của thầy VULONG, Khi thân nhược mà quan sát hay thực thương là kỵ thần 1 thì dụng thần đầu tiên phải là Kiêu Ấn, sau đó mới tỷ kiếp. Nhưng cũng có thắc mắc cũng muốn hỏi Thầy, trụ này thực thương Thủy nhiều quá và với lại sinh tháng Tý là vào mùa Đông nữa...Có phải bị Thủy lạnh Kim Hàn khg ạ. Có nên chăng chọn dụng thần Hỏa để điều hòa khg? Em kính chào thầy ạ.
    1 like
  17. Như ví trên : do thân nhược. Thực Thương là kỵ thần số 1. dụng thần đầu tiên là ấn kiếp, thứ 2 là chọn tỷ kiếp. Vậy có 2 lựa chọn là Mậu tàng trong Tị và Tân ở trụ ngày. Em Chọn Tân kim làm dụng thần. Tứ trụ này gặp vận Ấn Kiêu,Tỷ Kiếp là tốt. Có gì sai, mong thầy chỉ bảo. Em cám ơn thầy
    1 like
  18. 1 like
  19. http://www.lyhocdongphuong.org.vn/apps/LaSoTuVi.php?name=&date=1987,5,5,5,0&year=0&gender=f&view=screen&size=2 TM nghĩ chị sinh giờ Mão, cho TM hỏi cái này để rút kinh nghiệm chị có mang bệnh gì khó chữa trong người như gan? Năm ngoái sức khỏe của mẹ kém?
    1 like
  20. TM nghĩ giờ Mão có vẻ hợp vs chị hơn, nhưng mà cũng ko chắc lắm vì thấy nh cóiều điểm nghi ngờ. Giờ Dần thường thấp, chứ nữ cao 1m6 thì cũng cao rồi Chồng chị mắt ko cận thì mắt có nhỏ? có từng bị vật gì đâm vào mắt? Tóc thẳng thì có bạc sớm hay hoe vàng? Vai chị có hơi so?
    1 like
  21. Cô bé này học chuyên ngành gì : Tài chính hay ngân hàng? - có thể mắc bệnh phụ nữ (bệnh về tử cung) Chồng - rất đào hoa mắt thế nào cũng bị tật , tính tình ưa hình thức , Tính tình hay thay đổi hay nóng nảy
    1 like
  22. Trước đây tôi chỉ có ý định giới thiệu một ít về "Phương Pháp Tính Điểm Hạn" trong chương trình Tứ Trụ trung cấp này nhưng nay tôi quyết định mở lớp Tứ Trụ cao cấp để giúp những ai yêu thích và muốn nghiên cứu môn Tử Bình này. Do vậy chương trình Tứ Trụ trung cấp đến đây là kết thúc xin mọi người quan tâm vào đọc tiếp chủ đề: "Lớp học Tứ Trụ cao cấp tự do cho tất cả mọi người" Thân chào.
    1 like
  23. Chồng cao vừa tầm, má hóp,nước da ko được tươi nhuận hơi xám, mắt kém, gần cằm hay mắt trái có vết sẹo, hay bị đau đầu tress hay cao huyết áp, mày thưa tóc xoăn hay hoe vàng, tính tình khá thông minh nhân hậu, ko bền chí, bình thường tính trầm tư nghĩ ngợi nhiều, nhưng bên trong thì nóng tính thỉnh thoảng cũng ương gàn, ăn nói ko đc hay. Chị xem cái nào đúng tô đậm dùm
    1 like
  24. TM vẫn còn nghi ngờ giờ sinh của chị quá, lúc nhỏ chị có lần nào bị thủy nạn chưa? tầm 14-18 tuổi? Lúc nhỏ có sớm phải xa cách cha mẹ?
    1 like
  25. Bài sử vỡ lòng ngoại khóa Kỳ thi tuyển vào đại học, điểm sử không đạt yêu cầu, nhiều thí sinh vì không thích sử nên bỏ bài, thà lãnh điểm 0, tin vào điểm các môn khác sẽ vớt. Nếu học sử Việt 5000 năm văn hiến chắc học sinh sẽ không chán môn sử. Dưới đây là bài sử (kể chuyện) ngoại khóa cho học sinh cấp một trường làng: Các dân tộc trên đất nước Việt Nam gọi chung là người Việt, là con từ trăm trứng của Cha Rồng Mẹ Tiên. Hàng vạn năm trước người Việt viết chữ bằng Kẻ những vạch thẳng, như các con chơi bó Que đánh chắt, cũng có lúc lấy que xếp thành hình vuông, hình tam giác, hình chữ nhật, hình ông sao v.v. Đếm thì từ 1 đến 10. Phép tính cộng thì 0+1=1 hay 1+0=1, thành 1 thì là Nhiều hơn 0, hay 1+1=2, có 2 cũng đã là Nhiều. Có từ 2 trở lên là càng nhiều. Có nhiều người cùng nhau thì như một bó đũa, khó mà bẻ gãy được. Như một cái Bè kết bằng nhiều cây nứa, càng nổi hơn, chở được nhiều hơn. Nên mới có câu ca dao : “Một cây làm chẳng nên non. Ba cây chụm lại nên hòn núi cao”. Một cây nứa thì cũng thẳng như một cái Que. Người xưa viết bằng một Kẻ đứng, thêm hai Kẻ đứng hai bên nữa thành ba, giống hình ngọn núi rồi, nhưng chưa vững vì chưa có đế. Thêm một nét kẻ ngang bên dười nữa như mặt đất bằng, thế là có đế rồi, vững rồi, đó là chữ Núi 山 Núi=Non=Son=San=Sơn. Núi có nhiều thứ quí tặng cho con người, gọi là “San sẻ cho Con”=(lướt)=Son. Nhiều thứ quặng quí trong núi như đá đỏ, rồi nhiều thứ đất có màu nâu , đỏ, vàng, tím v.v.người ta lấy về nghiền làm màu ve, màu sơn, gọi là Son, như thỏi son cũng làm thành hình nhọn như trái núi, có thỏi son màu đỏ, có thỏi màu hồng, màu nâu, màu thâm v.v. Vậy là Núi luôn làm ơn cho người, gọi là San tức san sẻ. “Sẻ Ơn”=(lướt)=Sơn. Năm chữ Núi=Non=Son=San=Sơn, xưa chỉ viết bằng một chữ Sơn 山. Có hai cái cộng với nhau mới sinh ra nhiều. Người cũng vậy, có hai là cha và mẹ mới sinh ra được người. Người Việt lấy hai Kẻ thẳng xếp lại thành chữ Người 人, đó là chữ Nhân 人, vì Người=Ngài=Ngôi (cũng như là một ngôi sao)=Nối=Dõi=Dân=Nhân. Có hai thì thành nhiều nên Người Dân là nhiều người, Nhân Dân là nhiều người, Nối Dõi là nhiều người của nhiều đời. Thiên nhiên rất rộng rãi với con người, cho con người nhiều thứ cần thiết, người Việt gọi đó là trời Ban cho (Ban là cho không, nếu có dấu sắc thì thành Bán, và Sắc=Mắc, tức là còn Bán Mắc nữa). Người Việt đi tìm chỗ đất bằng phẳng để trồng lúa. Chỗ đất bằng phẳng thuận lợi cho trồng trọt đó là trời Ban cho. Nên người Việt lấy tên Ban đặt cho loài hoa trắng muốt nở đẹp nhất rừng là hoa Ban. Nơi đất bằng người Việt xúm lại ở để làm ruộng gọi là Xóm Bản. Mọi người trong Bản thân thiết nhau như Bạn, gắn bó nhau như nứa cùng Bè nên gọi là Bạn Bè. Đã là Bạn Bè thì kết nhau thành một Băng, cả làng cả nước gắn bó nhau thành một Bang. Mỗi khi có việc làm ăn hay gặp thiên tai thì dân Bản đem việc ra Bàn. Bàn kỹ cho mọi nhẽ trắng ra, phẳng ra, không còn vướng gợn gì nữa, gọi là Bàn Bạc. Bạc là màu trắng sạch sẽ của vôi, “bạc như vôi”. Kim loại quí nhất có Vàng là màu vàng, Bạc là màu bạc, dùng để làm đồ trang sức và làm đồng tiền. Người Việt hay đeo vòng Bạc từ nhỏ đến già để tránh gió. Bàn Bạc là để cho phẳng mọi việc nên cái để ngồi viết, ngồi uống nước chè và Bàn Bạc gọi là cái Bàn, cái ghế dài để cho cả Bang ngồi hai bên cái bàn gọi là ghế Băng, chữ Bàn thêm “g” của ghế thì thành Băng. Mọi việc Bàn Bạc phăng phăng cho phẳng rồi thì ai cũng gật đầu. Thêm “g”của gật đầu vào chữ Bàn của Bàn Bạc thì được chữ Bằng là Bằng lòng. Ai cũng bằng lòng như mình thì có “Bằng lòng như Mình”=(lướt)=Bình. Ai cũng lòng Đồng bụng Bằng như mình cả rồi thì “Đồng Bằng”=(lướt)=Đẳng. Thế là có từ Bình Đẳng, là ai ai trong Bang cũng có quyền như nhau. Ai ai cũng Bình Đẳng. <Ban=Bản=Bạn=Bè=Bàn=Bình=Bang=Băng=Đẳng > Có đất bằng để dựng Bản, có đất bằng để làm ruộng, đời sống no ấm, Tết đến người Việt vui chơi. Người Việt lấy Đồng làm ra nhạc cụ gõ gọi là Cồng. Gọi là Cồng vì phải “Cặm cụi gò Đồng”=(lướt)=Cồng. Gõ Cồng là để mời Ông trời, Ông trăng về dự lễ hội nên người Việt coi Cồng là vật linh thiêng của chung như Trời, gọi là “Của Ông”=(lướt)=Công, Công thành từ chỉ của chung. Cồng ấy nặng tình nặng nghĩa nên thay dấu nặng thành Cộng, nên có từ Công Cộng cũng là của chung. Còn nếu Cồng để đem biếu thì thay dấu sắc của biếu thành Cống, Cống tức là biếu cho < Ban là cho không, Biếu là “Ban để tỏ lòng Hiếu”=(lướt)=Biếu, người lớn tuổi cho người nhỏ tuổi gọi là Ban, người nhỏ tuổi cho người lớn tuổi gọi là Biếu) >.Hễ gõ Cồng là dân bản đều “Đến coi Cồng”=(lướt)=Đông. Đông người thì chỗ ấy nặng nên có Đông nặng Động, là chỗ ấy rất sôi động. Mọi người đụng tay nhau múa hát, đụng Cồng cho nó vang, “Đụng Cồng”=(lướt)=Đồng, “Cồng Đụng”=(lướt)=Cùng, “Đụng Cồng Rung” = (lướt)=Đùng là tiếng vang to , nên hay nói là to đùng. Về sau người Việt còn giỏi hơn biết gò là biết đúc để làm ra nhạc cụ treo để gõ, cũng là của chung nên gọi là cái Chung, nó treo úp xuống Vuông = xuống Ruộng, tức xuống đất, nên “ Chung úp xuống Vuông”=(lướt)=Chuông. Rồi lại làm cái giống Cồng nhưng có núm nhỏ ở giữa như cái chuông con, nhưng gõ thì treo nghiêng chứ không treo úp như chuông, gọi là cái “Chuông Nghiêng”= (lướt)=Chiêng. Cồng Chiêng thành một bộ nhạc cụ tuyệt vời của người Việt. Người Việt sống trong Bản Làng, cùng làm, cùng chơi, gọi là Cùng Chung. Điệu múa Quay Chung quanh đống lửa được người Việt dùng các Kẻ thẳng viết thành “Quay Chung”=(lướt)=Cung, nghĩa của chữ Cung là “Xòe Ra”=(lướt)=Xa. Bên trong có một Kẻ ngang bên trên như đường chân trời, ý rằng đó là Trời tức ngọn Lửa; bên dưới có bốn Kẻ thẳng xếp thành hình vuông như cái bành chưng, ý rằng đó là Đất. Điệu múa Xòe ấy mọi người cùng đụng tay nhau vừa quay tròn vừa hát vừa Đụng Cồng cho vang thành “Đụng Cồng”=(lướt)=Đồng 同, “Cồng Đụng”=Cùng, đó là chữ Đồng 同. <Đồng=Cồng=Công=Cống=Cộng=Cùng=Chung=Chuông=Chiêng=Chiềng=Chạ=Chợ > Là con từ bọc trăm trứng của Lạc Long Quân và Âu Cơ, người Việt sống thân thiết với nhau như ruột thịt. Khi còn trong bụng mẹ đó là cái Thai, Thai là Thịt, Thịt ấy lớn dần có hình dáng gọi là Thể, rồi thành hẳn Thân, lớn được trong bụng mẹ nhờ ruột nó nối liền với ruột của mẹ để lấy thức ăn, cái cuống “Ruột nối với Nhau”=(lướt)=Rau=Nhau, nên cái Thân đang trong bụng mẹ gọi là “Thân Ruột”=(lướt)=Thuộc. Ta có từ Thân Thuộc là Cùng Bọc=Đồng Bào. Thịt là Thuộc ấy trong bụng mẹ nó mềm, ấn vào thì nó Thụt, nên gọi là Thục. (Đất đã cày sâu bừa kỹ cho nhuyễn để gieo mạ gọi là đất thục). Cái cuống Rau=Nhau, “Nhau Thục”=(lướt)=Nhục, nó cũng là Thịt, nhưng là Thịt của Thai đang trong bụng mẹ, tức cái cuống Nhau ấy là cuống chung của cả hai mẹ con đang dính nhau, “Cuống Chung”=(lướt)=Cung. Nên người Việt viết chữ Nhục 肉 bằng chữ Cung bên trong có hai chữ Nhân tức là của hai mẹ con cùng chung nhau. Khi đã ra đời thì dù là anh hay chị hay em thì cũng cùng với các trẻ khác là bà con trong Bản Làng đều là Bạn Bè , vì cùng là đồng bào. Người Việt lấy hai chữ Nhục 肉肉ghép lại với nhau thành chữ Bạn Bè, Bạn Bè thì Bằng lòng với nhau nên sau viết đẹp lại thành một chữ Bằng 朋. Những chữ viết bằng các Kẻ thẳng người Việt viết xếp trong một ô vuông cho đẹp, gọi là Vuông Chữ Nho Nhỏ. Người Việt lại hay nói vo, nên dần dần vo rụng Vuông đầu và Nhỏ cuối thành còn Chữ Nho, nên thứ chữ vuông ấy gọi là Chữ Nho. Đây là việc cách nay 5000 năm. Lúc đó người Hán còn du mục lang thang trên đồng cỏ. Họ chưa có chữ viết. Gặp gỡ người Việt, thấy người Việt làm ruộng, làm ra vải vóc và nhiều đồ trang sức đẹp , lại có chữ nho cũng đẹp, nên họ xin kết bạn, họ mượn chữ nho của người Việt để dùng. Sống chụng với người Việt họ hiểu rằng Bạn Bè thì phải hữu nghị với nhau. Nên về sau họ ghép thêm chữ Hữu vào sau chữ Bằng, và họ gọi Bạn Bè là Bằng Hữu. Nếu có người Việt nào nói với các con rằng, những chữ Sơn, Nhân, Dân, Đồng , Công , Cộng , Cống , Chung, Thể , Thân, Thục, Nhục, Bàn, Bằng, Bình, Đẳng v.v. là từ Hán Việt thì đừng có tin. Những người ấy chẳng qua là đã quên mất gốc Việt.
    1 like
  26. Năm ngoái chị có bị tai nạn xe cộ bị thương chân tay/đầu ,mặt? có tang ai trong họ không?Nếu không có người ốm nặng?
    1 like
  27. Chị có phải dạng người cao trung bình, hơi gầy, nước da hơi ngâm, mắt có quầng thâm, vẻ mặt hơi buồn, tính cách đa sầu, đa cảm, hay bi quan, thích người khác chiều theo ý mình, lúc tức giận lời nói có phần gay gắt dễ sinh mất lòng, lúc nhỏ sinh ra thiếu tháng hay sinh khó,có bệnh về dạ dày/đường ruột Chồng có dạng người cao hơi gầy, nước da không được tươi nhuận, tính tình thâm trầm, ít nói có chuyện gì hay để trong lòng, hơi bừa bộn, bảo thủ ít nghe ai bao giờ, tiêu tiền rộng tay?
    1 like
  28. Sau đây là phương pháp xác định Thân vượng hay nhược TUẦN THỨ HAI Chương 9 : Thân và vùng tâm I – Thân và vùng tâm 1 - Thân Hành và vị trí của can ngày được gọi là Nhật Chủ hay Thân, nó đại diện cho người có tứ trụ này. Can ngày chỉ có 1 điểm vượng ở lệnh tháng của bảng sinh vượng tử tuyệt nhưng Nhật Chủ hay Thân lại có điểm vượng của hành của can ngày ở vùng tâm. 2 - Vùng tâm và vùng ngoài Sơ đồ 1 (chỉ để min họa): Qua sơ đồ này ta thấy can ngày là Kỷ mang hành Thổ nên Nhật Chủ hay Thân của người có tứ trụ này là Thổ. Muốn xem Thân của tứ trụ này là vượng hay nhược (tức là ta phải xem hành Thổ của tứ trụ ở tại vị trí của can ngày là vượng hay nhược so với 4 hành còn lại là Kim, Thủy, Mộc và Hỏa) thì đầu tiên ta phải xem trong tứ trụ này có nhiều can chi mang hành Thổ và chúng có được lệnh hay không cũng như các can chi khác sinh hay khắc với can chi mang hành Thổ này là mạnh hay yếu.... . Sau đó ta phải xét xem độ vượng còn lại của các can chi Thổ này giúp đỡ Nhật Can được nhiều hay ít, dĩ nhiên sự giúp đỡ này phụ thuộc vào khoảng cách xa hay gần của chúng với Nhật Can. Hoàn toàn tương tự khi ta xét độ vượng còn lại của các can chi của các hành khác tác động đến Nhật Can mạnh hay yếu cũng phụ thuộc vào khoảng cách của chúng với Nhật Can như vậy. Cuối cùng ta phải xác định được một vùng mà độ vượng còn lại của các can chi này tác động tới Nhật Can không còn phụ thuộc vào khoảng cách - vùng đó được gọi là Vùng Tâm. Trong vùng tâm ta chỉ việc cộng độ vượng của tất cả các can chi cùng hành với nhau, sau đó ta so sánh Thân (độ vượng của hành của Nhật Can) với các hành khác xem nó là mạnh hay yếu (lớn hơn hay nhỏ hơn). Do vậy nếu ta lấy Nhật Can Kỷ làm tâm điểm thì thấy gần nó nhất có can tháng, can giờ và chi ngày. Ta gọi vùng tâm là vùng hình học phẳng phía trong của chữ V chứa can tháng Canh, can ngày Kỷ, can giờ Đinh và chi ngày Sửu, còn can Nhâm trụ năm và các chi Thân, Tuất và Mão là ở ngoài chữ V (tức ở bên ngoài của vùng tâm). Qua đây chúng ta thấy các can tàng trong các chi của tứ trụ, mặc dù chúng có điểm vượng theo trạng thái của chúng tại lệnh tháng, nhưng các điểm vượng này không được tính trong vùng tâm (mặc dù các thần hay các hành mà các can tàng này đại diện vẫn có trong tứ trụ). 3 - Các quy ước trên sơ đồ : a – Tại các góc của các hình chữ nhật trên là vị trí của các can và chi trong tứ trụ. b - Các can chi trong chữ V được coi là ở trong vùng tâm còn các can chi ở ngoài chữ V được xem là ở vùng ngoài. c – Hai can chi được coi là gần với nhau khi chúng không phải đi qua một can chi nào cả. d – Hai can chi bị coi là cách một ngôi với nhau khi chúng phải đi qua 1 can hay 1 chi. e – Hai can chi bị coi là cách 2 ngôi với nhau khi chúng phải đi qua 2 can chi. f – Hai can chi bị coi là cách 3 ngôi với nhau khi chúng phải đi qua 3 can chi. 4 - Khả năng khắc nhau của các can chi trong tứ trụ a - Can và chi cùng trụ khắc với nhau được gọi là khắc trực tiếp. Can hay chi bị khắc trực tiếp bị giảm ½ đv (điểm vượng) của nó và nó không có khả năng nhận được sự sinh của can hay chi cùng trụ cũng như nó không sinh hay khắc được với các can hay chi khác. b - Can hay chi bị khắc gần (tức không cùng trụ) bị giảm 1/3đv của nó và nó không có khả năng nhận được sự sinh cũng như nó không sinh hay khắc được với các can chi khác. c – Nếu can hay chi bị khắc cách 1 ngôi thì nó bị giảm 1/5v của nó, nhưng nó vẫn có khả năng nhận được sự sinh và sinh hay khắc được với các can hay chi khác. d – Nếu can hay chi bị khắc cách 2 ngôi thì nó bị giảm 1/10đv của nó, nhưng nó vẫn có khả năng nhận được sự sinh và sinh hay khắc được với các can hay chi khác. e – Nếu can chi bị khắc cách 3 ngôi thì nó bị giảm 1/20đv của nó, nhưng nó vẫn có khả năng nhận sự sinh và sinh hay khắc được với các can hay chi khác. (Còn tiếp) __________________
    1 like
  29. tuấn dương vẫn vào được lớp ptcb 3 ace nào chưa kịp copy hết bài thì pm cho tuấn dương :D thân ái :D
    1 like