• Thông báo

    • Bá Kiến®

      Nội quy Lý Học Plaza

      Nội quy này là bản mở rộng Nội Quy - Quy định của Diễn đàn. Khi tham gia mua bán, các thành viên phải tuân theo những quy định sau: Tiêu đề bài viết: Bao gồm: Chỉ dẫn địa lý, Loại hình Mua/Bán, Thông tin mua bán.
      Chỉ dẫn địa lý: Tỉnh/thành nơi mua bán. Hoặc sử dụng định nghĩa có sẵn:TQ: Toàn quốc
      HCM: TP Hồ Chí Minh
      HN: Hà Nội
      [*]Ví dụ: HCM - Bán Vòng tay Hổ Phách ​Nội dung bài viết: Mô tả chi tiết sản phẩm mua/bán
      Bắt buộc phải có thông tin liên lạc, giá Mua/Bán
      Bài mới đăng chỉ được phép up sau 03 ngày.
      Thời gian up bài cho phép: 01 ngày 01 lần.
      Các hành vi vi phạm nội quy này sẽ bị xóa bài hoặc khóa tài khoản mà không cần báo trước.

Leaderboard


Popular Content

Showing most liked content on 03/08/2011 in all areas

  1. Trường hợp của bạn có 3 điều có thể xảy ra trong năm tới 1-vợ có thai 2- bạn có bồ nhí 3- ăn phở bên ngoài rau có sâu mà tốn tiền thuốc .
    3 likes
  2. Ví dụ để tham khảo. Ví dụ 27 (trong cuốn "Giải Mã Tứ Trụ"): Năm 2007 là năm Đinh Hợi thuộc đại vận Tân Mão, tiểu vận Đinh Dậu và Mậu Tuất. 1 - Mệnh này Thân nhược, quan sát Mộc là kỵ 1 nên dụng thần đầu tiên lấy kiêu ấn nhưng trong tứ trụ không có nên phải lấy dụng thần thứ 2 là tỷ kiếp Mậu ở trụ tháng. 2 – Trong tứ trụ có bán hợp của Dậu với Sửu không hóa nhưng nó bị phá tan bởi trụ năm Ất Mão TKĐX với trụ ngày Kỷ Dậu. Vào đại vận Tân Mão và năm Đinh Hợi có tam hội Hợi Tý Sửu không hóa. 3 - Trụ năm Ất Mão TKĐX với trụ ngày Kỷ Dậu có 0,38đh (vì Ất chỉ vượng ở đại vận). Nếu sử dụng giả thiết 160a/27 thì tiểu vận Đinh Dậu TKĐX với đại vận Tân Mão chỉ có 1đh (vì Đinh vượng ở tiểu vận và tiểu vận TKĐX với đại vận). Có 4 trụ TKĐX với nhau nên có thêm 0,3đh. 4 - Dụng thần Mậu tử tuyệt ở lưu niên có 1đh. 5 - Nhật can Kỷ nhược (thai) ở lưu niên có 0đh. 6 – Đinh tiểu vận vượng tại tiểu vận nên khắc Tân đại vận có 1đh. Tân đại vận vượng ở lưu niên có 0,5đh nhưng bị Đinh khắc mất hết. 2 Ất trong tứ trụ thất lệnh chỉ vượng ở đại vận, vì vậy mỗi Ất có 0,5đh can (Ất động vì nó bị Tân khắc). Mão đại vận khắc Dậu tiểu vận có 0,15đh và Dậu trụ ngày có 0,3đh. Mão trụ năm khắc Dậu trụ ngày có 0,15đh (vì cách 1 ngôi). Dậu tiểu vận có 1 cát thần có -0,13đh và 1 hung thần có 0,13đh. Mão đại vận có 1 Không Vong có 0,25đh. 7 – Sét trụ tháng có Mậu chỉ vượng ở đại vận nên khắc được Đất dịch chuyển trụ ngày và đất mái nhà lưu niên có 0,75đh. Tổng số là 6,28đh. Tam hội cục ngoài tứ trụ có ít nhất 2 chi của nó ở trong tứ trụ khác nhau thì tổng điểm hạn được giảm 1đh còn 5,28. Số điểm này vẫn không thể chấp nhận được bởi vì không có tai họa nào trong tiểu vận Đinh Dậu, ngoại trừ vào tháng 2 năm 2007, chị ta phải mổ trĩ nhưng không phải nằm lại bệnh viện để điều trị. Nếu sử dụng giả thiết 254/27 thì 0,25đh của Không Vong bị mất hết (can cùng trụ của Không Vong bị khắc 1đh), vì vậy tổng số của các điểm hạn còn 5,03đh. Số điểm này cũng không thể chấp nhận được. Tại sao lại như vậy ? Bởi vì người này đã may mắn sống ở phương nam (so với nơi sinh của cô ta – sinh Bắc nhưng sống ở Sài Gòn) là phương của Hỏa mạnh, bạn bè và bà mẹ tuổi Bính, Đinh (sinh các năm có can là Bính hay Đinh) và cách giải cứu mà cô ta tự nghĩ ra là đeo sợi dây truyền có hình mặt trời (hay con ngựa - Ngọ) rực lửa ở giữa ngực. Do vậy điểm hạn có thể từ 5,03 giảm xuống dưới 4,4đh nên cô ta không phải nằm lại bệnh viện để điều trị (?). Đây là người đầu tiên (trên trang web “tuvilyso.com”, vào khoảng cuối tháng 12/2006) đã hỏi tôi qua p.m về cách giải cứu hạn của cô ta năm 2007. Các nguyên nhân chính gây ra hạn này là bởi các điểm hạn của nạp âm, TKĐX, Hỏa khắc Kim và Kim khắc Mộc. Do vậy ta phải dùng Hỏa để giải cứu vì Hỏa có thể xì hơi Mộc để sinh cho Thân (Thổ) và chế ngự Kim. Thân nhược, quan sát là kỵ 1 mà dụng thần đầu tiên là kiêu ấn Hỏa không có trong tứ trụ để hóa Mộc sinh cho Thân (Thổ). Cho nên tai họa đã xẩy ra vào tháng Dần, đó là tháng và mùa mà Mộc vượng nhất, còn Kim ở tử tuyệt không có khả năng để chế ngự Mộc. Nếu như điểm hạn của các giả thiết được áp dụng ở đây là chính xác và các cách để giải cứu ở trên có thể làm giảm được ít nhất 0,6đh là đúng thì đây chính là một niềm hy vọng lớn cho chúng ta trong công cuộc ngăn chặn các tai họa đe dọa tới tính mạng của con người.
    2 likes
  3. TƯ LIỆU THAM KHẢO Trái Sung chữa tan sỏi mật, diều mà ít ai biết Lương y Phan Văn Sang Sung là loài cây sống trải rộng khắp nơi trên trái đất. Sung gần gũi với dân quê hiền hòa chất phác, từ đó có những câu hát, câu ca dao truyền từ đời này qua đời khác… Đói lòng ăn nửa trái sung Chồng một thì lấy chồng chung thì đừng. Theo Y học cổ truyền, quả sung có vị ngọt, tính bình, có công dụng kiện tỳ, ích vị, nhuận phế lợi hầu, nhuận tràng thông tiện... Quả sung dân dã, quê mùa, nhưng ít ai biết sung có công dụng trị nhiều thứ bệnh. Khi quý vị vào trang google nhập từ TRÁI SUNG sẽ được nhiều thông tin phong phú nói về trái sung. Trái sung tên khoa học là Ficus carica, họ dâu tằm Moraceae L Trái sung giàu Phenol, axit béo, omega3 và omega6, tốt cho tim mạch. Chất xơ trái sung có thể giảm nguy cơ mắc một số bệnh ung thư, đặc biệt ung thư gan mật, ruột kết và ung thư vú. Vi chất ổn định đường huyết, ổn định huyết áp… Đó là những thông tin trong sách báo, trên mạng Internet, nhưng ở vùng miền Trung vùng sâu, vùng xa hẻo lánh của quê hương tôi người ta dùng để chữa hiệu quả một chứng bệnh, đó là bệnh SỎI MẬT Nghe qua khó tin nhưng là việc thật. Bỡi thế người Trung Hoa thường bảo “ người Việt Nam chết trên cây thuốc” là vậy. Vào thời điểm những năm sau 1975, đời sống kinh tế và thuốc men rất là khó khăn. đối với mọi người dân, nhất là vùng sâu vùng xa, cho nên mọi người rất sợ đau ốm. Câu chuyện xảy ra vào khoảng năm1976 tại huyện Phù Cát thuộc Tỉnh Bình Định quê hương tôi. Hôm đó vào khoảng xế chiều trên bến xe lam, chưa đủ khách nên xe chưa chạy, trên chiếc xe lam chỉ có 3 ngườimột bà già ngồi nhai trầu bỏm bẻm miệng đỏ hoe, nhìn cô gái ( khoảng 20 tuổi ) ốm yếu, da mặt vàng sạm, với hơi thở yếu ớt nằm ngoặc nghẽo trong vòng tay người mẹ. Bà già trầu cất tiếng hỏi: - Chị ơi, con bé bị bệnh gì mà trông tội nghiệp quá vậy? - Dạ, cháu nó bị sỏi mật, nằm bệnh viện Đa khoa Quy Nhơn cả tháng nay, bác sĩ định mổ nhưng xét nghiệm rồi nói cháu nó máu loãng không đông nên không thể mổ, nếu mổ sẽ không cầm được máu sẽ chết, thôi thì đưa cháu về cho ăn được gì ăn rồi cháu sẽ chết ! Nói xong 2 hàng nước mắt lăn dài trên đôi má gầy còm của người mẹ. Nghe xong, bà già tay cầm miếng trầu đang nhai trong miệng vứt xuống đất nghe cái “bộp”,nói một giọng chắc mẩm : - Wééé...ét……Chết chóc cái gì mà chết, bịnh này mà mổ xẻ cái gì chứ ! Chị nghe lời tôi, về nhà hái một rổ trái sung xanh, xắt mỏng phơi khô sao vàng cho vào nồi, đổ ngập nước nấu cạn còn nửa nồi cho cháu uống dần sẽ hết bịnh. Nghe bà già trầu nói thế người mẹ mừng quá quên cả cám ơn , về đến nhà trời cũng đã tối, bà con lối xóm nghe con bé về ai nấy đến thăm, nhìn thân hình tiều tụy, mê man mà lắc đầu thương xót. Khi đưa cô con gái vào nằm trên giường, mặc ai thăm thì cứ đến thăm, riêng bà đốt đèn ra bờ sông soi tìm hái đầy một rổ trái sung. Về đến nhà mọi người đến thăm ai nấy đã về hết, chỉ còn con gái bà còn nằm bất động trên giường. Mặc kệ mày ! Bà cặm cụi xắt mỏng từng trái sung, đêm không nắng không phơi được, hơn nữa thời giờ cấp bách bà chất lửa đốt, bắt chảo lên rang vàng đến khô giòn từng lát sung, sau đó cho vào nồi nấu đến khi còn lại 1 bát lớn thì trời cũng đã khuya lắm rồi. - Dậy uống thuốc nè con - Ôi ! Con mệt quá… - Ráng uống để sống với người ta đi con ơi, không thì con sẽ chết! Nửa tỉnh nửa mê nghe nói chết, cô con gái cũng sợ ráng ngồi dậy uống hết bát thuốc. Thấy con uống xong, là lúc bà cũng mệt mỏi lắm, nằm ngủ thiếp lúc nào không hay. ……….. -Má ơi con đói bụng quá ! Đang nằm ngủ ngon giấc, bà mẹ giật mình ngồi dậy; - Hã? Con nói gì ? - Con đói bụng quá, có gì ăn không ? Trời đất, con nhỏ nó hồi dương rồi sao? Nằm bệnh viện cả tháng trời nó có chịu ăn uống gì đâu, nó chỉ sống bằng thuốc, bằng dịch chuyền thôi mà, sao nay về nhà nó lại đói bụng đòi ăn ? Vậy là nó hồi dương và sắp chết thật rồi. Bà thầm nghĩ vậy. - Có ăn cũng để má nấu cơm nóng đã chứ. Còn cơm nguội ăn gì được . - Kệ má ơi, cho con ăn đi, con đói lắm rồi. Trời ! Bà còn sợ dữ nữa, nhất định con nhỏ hồi dương rồi, chắc rồi nó cũng chết, thôi cứ cho nó ăn đại cơm nguội, nếu nó có chết cũng là chết no. Nghĩ vậy bà bèn lấy cơm nguội với mắm cho nó ăn. Nhìn nó ăn ngon lành mà bà thấy buồn thương cho đứa con gái tội nghiệp, rồi đây nó sẽ không còn trên cõi đời này, không còn trong căn nhà này nữa… Sau hơn tháng trời xa nhà nằm bệnh viện, sáng nay nó đi khắp xóm khắp làng gặp nhà ai nó cũng ghé vào nói cười vui vẻ làm ai cũng lo cũng sợ. Cứ nghĩ cô gái này chết rồi mà hồi dương lại đi thăm mọi người rồi về cũng sẽ chết luôn…( dân quê hay quan niệm vậy mà ! ) Đến chiều nhìn đứa con gái xem ra vẫn khỏe hơn, bà nghĩ bụng vậy là trái sung đã cứu sống con mình rồi. Bà vui mừng đi tìm hái thêm mấy rổ nữa về làm cho nó uống… Thưa quý vị, trải qua 34, 35 năm nay cô con gái đó, nay đã trở thành bà nội bà ngoại rồi. Đây là câu chuyện thật 100% ở cùng làng quê tôi. Thằng em út tôi ( sinh năm 1977) vào năm 1995 làm ăn ở Sài gòn cũng bị chứng sỏi mật nằm bệnh viện Bình dân (đã lên lịch mổ), tối hôm đó tôi có lên thăm thấy mắt, mặt và toàn thân là một màu vàng sạm ( nói xin lỗi, còn xấu hơn da người mới chết ) nhưng sáng hôm sau đã thấy nó vác mặt vềnhà. -Trời ơi, sao mày không nằm để bác sĩ người ta mổ ? Thì thằng em tôi nó nó nói: “Thôi, em về uống trái sung, sợ mổ lắm”. Và thưa quý vị quả thật cho đến hôm nay ( tháng 2-2011) trải qua 16 năm nó vẫn lao động bình thường, sỏi cũng tiêu đâu mất. Trải qua 12 năm tôi có tham gia chữa bệnh từ thiện ở các phòng khám của các chùa. Vào năm 2003 tôi đang châm cứu cho một bà bệnh nhân, bà ấy bảo: -Thầy ơi châm giùm tôi chỗ cạnh sườn này. Vừa nói bà vừa lấy ngón tay chỉ vào.Tôi hỏi - Sao lại phải châm chỗ này ? - Tôi bị sỏi mật, còn 1 tháng nữa là tôi phải đi mổ đó. Giờ châm cho đỡ đau thôi. Bà còn nói –“bác sĩ cho biết giá mổ xong hoàn tấc là 30 triệu đó”. Tôi hỏi : -Vậy ai lo cho bà ? - Tôi có thằng con làm giám đốc sẽ lo cho tôi về tiền bạc. Nghe vậy tôi nói nữa đùa nửa thật: - Vậy nếu tôi chữa cho bà, đến khi tan hết sỏi, khỏi mổ bà cho tôi bao nhiêu ? Thật tình những lương y chúng tôi phần đông ai cũng nghèo, nhưng vì yêu thích nghề nên ăn cơm nhà đi làm từ thiện miễn phí, giúp cho những bệnh, thỉnh thoảng cũng gặp được những người gia đình khá giả họ cũng có bồi dưỡng cho chúng tôi ít nhiều có tiền uống café với anh em , nay gặp bà bệnh nhân này nói có con làm giám đốc vậy cũng mừng. Bà ấy nói : Nếu thầy chữa tôi hết bệnh khỏi mổ tôi tạ thầy 10 triệu, nhưng mà…thầy chữa hết không ? - Tôi là người lớn, là một lương y không thể nói đùa. Nghe vậy bà ấy vui mừng 2 bên thỏa thuận bằng miệng với nhau và hứa ngày mai đến gặp tôi lấy thuốc. Tôi mướn người đi tìm hái trái sung về sao tẩm chế biến,thỉnh thoảng hết thuốc bà thường đến gặp tôi để lấy về uống, liên tục như thế thời gian khoảng 1 tháng, rồi sau đó bà bặt tăm luôn không thấy đến nữa, mà tôi thì quên hỏi số điện thoại nhà bà. Đến chừng 6 tháng sau bà đến chùa, gặp lại bà tôi rất vui và hỏi : - Lâu quá không gặp bà, bà khỏe không ? - Khỏe ! - Vậy sỏi mật bà hết chưa ? Có đi bác sĩ mổ không ? Bà đáp : - À hết rồi, hết rồi thôi đâu có đi bác sĩ chi nữa. Tôi hỏi : - Vậy chứ còn bà hứa sau khi hết bệnh cho tôi 10 triệu bà tính sao ? Bà cười giả lả : Các thầy có cái tâm đến đây làm từ thiện mà nhắc đến tiền bạc sao ? - Trời đất ! Bà nói vậy thôi tôi chịu thua bà luôn. Từ đó về sau, gặp bà tôi cũng không nhắc đến chuyện đó nữa. “Làm người thầy thuốc rất vinh hạnh, nhưng cũng lắm phũ phàng” là vậy. Đây là chuyện có thật trong đời làm thuốc của tôi, bạn bè đồng nghiệp làm chung với tôi, biết chuyện ai cũng phì cười. Là một người Phật tử tin sâu vào Phật Pháp, một lương y tuy có đủ bằng cấp chứng chỉ hành nghề, nhưng xưa nay phần nhiều làm ở các chùa, tiếp xúc đủ loại bịnh, tuy ít ai biết đến tôi, nhưng tôi cũng có vài bí quyết kinh nghiệm nhỏ, người ta bảo “ Thầy dở cũng đỡ xóm làng” ấy mà.Nay tuổi cũng đã xế chiều, trường chay đạm bạc, niệm Phật phát nguyện vãng sanh, không vì danh lợi, muốn được phổ biến, chia sẻ cùng Chư Đạo hữu một vài kinh nghiệm nhỏ. Nói thế chứ cũng tùy theo cơ địa của từng mỗi người, nhưng những phương tôi chia sẻ từ “cây nhà lá vườn”, bằng trái, hoa, củ quả… uống vào nếu vô thưởng thì cũng vô phạt. . Khi quý vị gặp bệnh này hãy làm bằng cái tâm ( miễn phí ) sau khi thấy hiệu quả cũng xin được chia sẻ lại niềm vui đó đến với tôi, tôi sẽ tiếp tục phổ biến những phương khác nữa bằng những câu chuyện như trên. Thuốc không phân là thuốc mắc hay thuốc rẻ, Thuốc nào trị lành bệnh là thuốc hay ! Pháp Phật không phân biệt Pháp cao hay Pháp thấp, Pháp nào hạp căn cơ, cứu cánh là Pháp đó hay !
    1 like
  4. Nếu tháng 05 al cháu chưa đi được thì hy vọng ở 2 tháng 10-11 al
    1 like
  5. Năm 2012 chắc được có đường xuất ngoại ,nhưng không phải xuôi chèo mát mái ,cũng phải có gì khó khăn trở ngại ,cuối cùng vẫn được ,năm 2013 thì chắc là không được ,nếu 2012 không đi được thì năm 2013 đừng hy vọng .
    1 like
  6. Công danh đến muộn phải sau 34 tuổi mới có thể tốt được. Năm này bắt đầu đại vận 10 năm lận đận, ráng mà cẩn thận. Về công việc không làm đúng ngành đã học, có thể làm về các ngành liên quan đến làm đẹp hoặc bất động sản. Vợ dáng người hơi gầy thấp nhỏ, chậm chạp, tóc thưa, nói chuyện ít ai hiểu được, vợ chồng khắc khẩu, cứ 3-4 bữa lại gây nhau cho náo nhiệt nhà cửa.
    1 like
  7. Bộ tranh thờ cổ trong Phủ Mẫu 01/08/2011 13:58:45 Bộ tranh thờ cổ thuộc sưu tập của Nguyễn Anh Ngọc là một phác hoạ tiêu biểu chuyển tải tín ngưỡng thờ Mẫu của người Việt ở đồng bằng Bắc Bộ từ xa xưa. Tín ngưỡng thờ Mẫu tam toà, tứ phủ ở vùng đồng bằng Bắc bộ có từ thuở sơ khai, khởi nguồn từ tín ngưỡng nông nghiệp nguyên thuỷ cổ đại của người Việt. Quá trình hình thành, tồn tại của tín ngưỡng thờ Mẫu là một chuỗi dung hợp hài hoà giữa ý thức tín ngưỡng bản địa với hệ tôn giáo, đạo giáo mang yếu tố ngoại lai để trở thành một phức hệ Phật-Đạo-Mẫu cùng phát triển trong xã hội. Bộ tranh thờ cổ dưới đây là một phác hoạ tiêu biểu chuyển tải tín ngưỡng thờ Mẫu của người Việt ở đồng bằng Bắc Bộ từ xa xưa. Tam giáo (Phật-Đạo-Mẫu): Tam giáo (Phật - Đạo - Mẫu) chất liệu gỗ, sơn khoảng cuối Thế kỷ XIX đầu XX Là bức vẽ dung hợp Phật-Đạo-Mẫu theo quan niệm tín ngưỡng-tôn giáo của người Việt xưa; được các hoạ công vẽ tranh thờ dân gian hình tượng hoá khái niệm và ước lệ thu gọn vũ trụ, Phật-Đạo-Mẫu trong bức tranh này. Qua khái quát tầng không gian ước lệ, giữa thực và ảo: Khi trời đất khai sinh, vũ trụ bao la được phân định thành những cõi khác nhau: Cõi Phật ( Tam thế: Quá khứ-Hiện tại-Tương lai), cõi Trời (Ngọc Hoàng), (Mẫu Thượng thiên) cõi Rừng (Chúa Thượng ngàn), cõi Nước (Mẫu Thuỷ), cõi Đất (Mẫu Địa),...ngự trị vũ trụ. Theo quan niệm: người Việt xưa luôn coi đây là các vị chân tiên, thần phật trị vì các cõi, miền nên họ thấu hiểu mọi việc trong vũ trụ; và họ luôn gia ân, giang tay cưu mang, giúp đỡ mọi người dưới cõi đời. Chúa Thượng ngàn: Chúa Thượng ngàn (gỗ, sơn) khoảng cuối Thế kỷ XIX đầu XX Với quan niệm vũ trụ bao la được phân chia thành nhiều miền, cõi khác nhau; nhưng quan niệm sơ khai rõ nét nhất là bốn cõi:Trời-Rừng-Nước-Đất.Mẫu Thượng Ngàn là vị thánh mẫu toàn năng, trông coi miền rừng, núi (Nhạc phủ); được vẽ thành bức Động Sơn Trang độc lập, thờ bên trái trong phủ Mẫu của người Việt ở đồng bằng Bắc Bộ. Hình tượng Mẫu được vẽ với khuôn mặt trái xoan, nhân hậu, bao dung, đầu đội vương miện, có tia hào quang toả sáng; thân mặc trang phục màu xanh, thường ngồi võng đào, tay trái cầm quạt, tay phải bắt quyết; hai bên có các tỳ nữ đứng hầu, dâng hương hoa, đăng, trà,.... Theo quan niệm “rừng vàng, biển bạc” người Việt xưa luôn đặt niềm tin ở miền giàu có tự nhiên – nơi rừng núi sản sinh ra hoa, trái, chim, muông,...nuôi sống con người từ thời hồng hoang, nguyên thuỷ. Trần Triều Đại vương: Trần Triều Đại Vương (gỗ, sơn) khoảng cuối thế kỷ XIX đầu XX Là bức vẽ Quan Phủ Trần triều, tức là Hưng Đạo Vương-Trần Quốc Tuấn (Vị tướng văn, võ song toàn TK XIII-XIV) được dân gian tôn vinh là Cha (Tháng tám giỗ Cha/Tháng ba giỗ Mẹ) phối thờ bên phải trong phủ Mẫu .Trong tranh Hưng Đạo Vương ngồi oai phong dưới trướng thêu lưỡng long trầu nguyệt; mặt ngài hồng hào, râu dài, đầu đội mũ cánh chuồn, mặc triều phục màu đỏ, đeo cân đai bối tử; tay phải cầm kiếm, tay trái cầm lệnh bài. Bên tả, hữu có hai bộ tướng đứng hầu, vị đứng bên phải (hữu) mặt mày dữ tợn, mặc áp giáp, tay cầm đoản kiếm là quan võ; vị đứng bên trái (tả) là quan văn khuôn mặt hiền từ, tay cầm ống văn-giấy tờ. Phía trước có hai người hầu, giúp việc. Trong thực tế, Trần Hưng Đạo đã hiển linh trở thành vị Thánh (Đức Thánh Trần) với quyền pháp, uy lực thực thi hành pháp nơi cửa Mẫu,...trừ tà, diệt ma, chữa bệnh bằng phép thuật giúp đỡ dân làng. Thần Ngũ Hổ: Thần Ngũ Hồ (gỗ, sơn) khoảng cuối Thế kỷ XIX đầu XX Theo quan niệm của người xưa, thần hổ là vị chúa tể sơn lâm (vùng rừng, núi) vị thần linh (đệ tử) gần gũi với Mẫu Thượng Ngàn; nên trong phủ thờ Mẫu thường bài trí ban thờ ngũ hổ - ngũ dinh. Hình vẽ trong bức tranh thờ là năm vị thần: Hoàng hổ tướng quân: ngồi ở vị trí trung tâm, trước mặt có lệnh bài, trấn giữ Trung ương-ứng với hành Thổ (vàng). Thanh hổ tướng quân: trấn giữ phương Đông - ứng với hành mộc (xanh). Bạch hổ tướng quân: trấn giữ phương Tây - ứng với hành Kim (trắng). Xích hổ tướng quân: trấn giữ phương Nam - ứng với hành hoả (đỏ). Hắc hổ tướng quân: trấn giữ phương Bắc - ứng với hành thuỷ (đen). Xung quanh năm vị thần hổ còn có cờ thần, kiếm lệnh; các quan, quân giúp việc trấn áp tà khí năm phương, bảo vệ nơi linh thiêng cửa Mẫu. Nguyễn Anh Ngọc (Theo Cổ vật tinh hoa)
    1 like
  8. Năm tới là năm đầu cho 1 đại vận 10 năm , thập niên tới nói chung tài lộc bạn kém , hao hụt nhiều ,kiếm tiền khó khăn ,năm tới nên xiết hầu bao , kiểm soát lại mọi chi tiêu , không nen đầu tư hay kinh doanh gì có tính cách mạo hiểm ,nhất là không nên hùng hạp hay cho ai vay mượn .
    1 like
  9. Nếu bạn có đủ nhân phẩm, vật chất để bảo ban, chăm lo cho cả 2 vợ hạnh phúc thì hạnh phúc nhân 3, càng tốt chứ có sao đâu. Còn theo quan điểm của tôi và nhiều vị khác, thì tình yêu chân chính là chỉ có 2 người, 1vs1 mà thôi. Chúc bạn vững tâm và vững chí.
    1 like
  10. Về việc cha mẹ thế nào, TM ko có ý kiến, thấy sao thì nói vậy. Năm nay tổng luận là đen, bản thân sức khỏe kém hay đau yếu nhức đầu, đi đứng cẩn thận tai nạn xe cộ phải đụng đến giao kéo, đề phòng điện giật,.Tiền bạc túng thiếu, rắc rối thưa kiện. Sức khỏe cha kém.
    1 like
  11. 13 h 00 ngày 03/8/2011 Đoàn CLB PTLV Bao gồm: 1. Mr Linh Trang (Trưởng đoàn) 2. Mr Dương mickey 3. Mr Quân (Môc mien) 3. Mr Phamhung 4. Mr Cóc Vàng (Gửi phúng viếng) Đã đến phúng viếng và thành kính phân ưu, chia buồn với gia đình anh Hoàng Triều Hải tại 125 Phùng Hưng - Hà nội. Cầu cho linh hồn cụ sớm siêu thoát!
    1 like
  12. 1 like
  13. Năm nay chưa cưới được , Năm nay giữ ko chia tay nhau đã là kỳ tài nói chi chuyện cưới xin, Sang năm Thìn chắc có cưới hỏi nhưng cưới nhau rồi ....sống với nhau dài lâu hay ko lại còn chờ ý trời! Con người bạn sống trong tình yêu, vì tình yêu còn có được yêu hay không lại do số mất rồi ,....theo lão say này chớ nên lấy chồng sớm .Cứ say sưa mà vui cho đỡ sầu Nhỉ?..
    1 like
  14. Có rất nhiều thứ không cần phải bói, mà chỉ cần khả năng phân tích trên mức tư duy thuộc loại phổ biến là "ở trần đóng khố" thì vẫn có thể biết được cái gì sẽ xảy ra. Lạm phát là một hiện tượng tất yếu của một nền kinh tế phát triển. Tuy nhiên lạm phát ở mức độ nào và cân đối các mối quan hệ kinh tế xã hội ở các khu vực kinh tế ra sao mới là vấn đề. Nếu như người ta biết được nguyên nhân vì sao xảy ra cuộc đại khủng hoảng kinh tế lần này - bắt đầu từ 2008 - thì cũng chưa thể khắc phục được vì tầm tư duy thời đại (Dương tịnh) không theo kịp sự vận động của các mối quan hệ xã hội (Âm động). Ấy là chưa nói đến sự vị kỷ của con người. Bởi vậy, đã bao nhiêu lần G20 + X họp với các chuyên gia hàng đầu về kinh tế, tôi chỉ coi là họp cho vui và thêm phần tốn kém bia với thức nhắm, cuối cùng chẳng giải quyết được cái gì. Bởi vây, đến lúc này thì chúng ta có "giở quẻ" cũng muộn rồi. Chỉ còn cách khoanh tay đứng nhìn và ngậm ngùi nhìn thế giới đang tiến dần đến "ở trần đóng khố" và "liên minh bộ lạc". Quốc gia nào khôn thì thoát.
    1 like
  15. 1 like
  16. Có thể là nangxuan sẽ gặp đề tủ trong lần thi này, nhưng chắc vì thế mà chủ quan, làm bài có phần sơ ý. Nên khi biết điểm thì thấy ngạc nhiên, sau đó chắc là có làm đơn đến hội đồng ban giám khảo đây (kiểu như là phúc tra, phúc khảo).
    1 like
  17. 1 like
  18. Sự tích rằm tháng bảy và xuất xứ của hai tiếng Vu Lan Rằm tháng 7 Âm lịch hàng năm là ngày xá tội vong nhân, dân gian gọi một cách nôm na là ngày cúng cô hồn. Nhưng đây cũng còn là ngày báo hiếu mà giới tăng ni Phật tử gọi là ngày lễ Vu Lan. Vậy lễ này và lễ cúng cô hồn có phải là một hay không ? Và đâu là xuất xứ của hai tiếng " Vu Lan " ? Lễ Vu Lan bắt nguồn từ sự tích về lòng hiếu thảo của Ông Ma Ha Một Ðặc Già La, thường gọi là Ðại Mục Kiền Liên, gọi tắt là Mục Liên. Vốn là một tu sĩ khác đạo, về sau Mục Liên đã quy y và trở thành một đệ tử lớn của Phật, đạt được sáu phép thần thông rồi được liệt vào hạng thần thông đệ nhất trong hàng đệ tử của Phật. Sau khi đã chứng quả A La Hán, Mục Liên ngậm ngùi nhớ đến mẫu thân, bèn dùng huệ nhãn nhìn xuống các cõi khổ mà tìm thì thấy mẹ đã đọa vào kiếp ngạ quỷ (quỷ đói) nơi địa ngục A Tì. Thân hình tiều tụy, da bọc xương, bụng ỏng đầu to, cổ như cọng cỏ. Mẹ Mục Liên đói không được ăn, khát không được uống. Quá thương cảm xót xa, Mục Liên vận dụng phép thần thông, tức tốc đến chỗ mẹ. Tay bưng bát cơm dâng mẹ mà nước mắt lưng tròng. Mẹ Mục Liên vì đói khát lâu ngày nên giật vội bát cơm mà ăn. Tay trái bưng bát, tay phải bốc cơm nhưng chưa vào đến miệng thì cơm đã hóa thành lửa. Mục Liên đau đớn vô cùng, khóc than thảm thiết rồi trở về bạch chuyện với Ðức Phật để xin được chỉ dạy cách cứu mẹ. Phật cho Mục Liên biết vì nghiệp chướng của các kiếp trước mà mẹ ông mới phải sanh vào nơi ác đạo làm loài ngạ quỷ. Một mình Mục Liên thì vô phương cứu được mẹ dù ông có thần thông đến đâu và dù lòng hiếu thảo của ông có thấu đến đất trời, động đến thần thánh. Phải nhờ đến uy đức của chúng tăng khắp các nẻo đồng tâm hiệp ý cầu xin cứu rỗi cho mới được. Bởi vậy, Phật dạy Mục Liên phải thành kính đi rước chư tăng khắp mười phương về, đặc biệt là các vị đã chứng được bốn quả thánh hoặc đã đạt được sáu phép thần thông. Nhờ công đức cầu nguyện của các vị này, vong linh mẹ Mục Liên mới thoát khỏi khổ đạo. Phật lại dạy Mục Liên sắm đủ các món để dâng cúng các vị ấy, nào là thức thức thời trân, hương dâu đèn nến, giường chõng chiếu gối, chăn màn quần áo, thau rửa mặt, khăn lau tay cùng các món nhật dụng khác. Ðúng vào ngày rằm tháng 7 thì lập trai đàn để cầu nguyện, thiết trai diên để mời chư tăng thọ thực. Trước khi thọ thực, các vị này sẽ tuân theo lời dạy của Ðức Phật mà chú tâm cầu nguyện cho cha mẹ và ông bà bảy đời của thí chủ được siêu thoát. Mục Liên làm đúng như lời Phật dạy. Quả nhiên vong mẫu của ông được thoát khỏi kiếp ngạ quỷ mà sanh về cảnh giới lành. Cách thức cúng dường để cầu siêu đó gọi là Vu Lan bồn pháp, lễ cúng đó gọi là Vu Lan bồn hội, còn bộ kinh ghi chép sự tích trên đây thì gọi là Vu Lan bồn kinh. Ngày rằm tháng 7 do đó được gọi là ngày lễ Vu Lan. Vậy lễ này có phải cũng là lễ cúng cô hồn hay không ? Không ! Ðây là hai lễ cúng khác nhau được cử hành trong cùng một ngày. Sự tích lễ cúng cô hồn đại khái như sau : Cứ theo "Phật Thuyết Cứu Bạt Diệm Khẩu Ngạ Quỷ Ðà La Ni Kinh" mà suy thì việc cúng cô hồn có liên quan đến câu chuyện giữa ông A Nan Ðà, thường gọi tắt là A Nan, với một con quỷ miệng lửa (diệm khẩu) cũng gọi là quỷ mặt cháy (diệm nhiên). Có một buổi tối, A Nan đang ngồi trong tịnh thất thì thấy một con ngạ quỷ thân thể khô gầy, cổ nhỏ mà dài, miệng nhả ra lửa bước vào. Quỷ cho biết rằng ba ngày sau A Nan sẽ chết và sẽ luân hồi vào cõi ngạ quỷ miệng lửa mặt cháy như nó. A Nan sợ quá, bèn nhờ quỷ bày cho phương cách tránh khỏi khổ đồ. Quỷ đói nói : " Ngày mai ông phải thí cho bọn ngạ quỷ chúng tôi mỗi đứa một hộc thức ăn, lại vì tôi mà cúng dường Tam Bảo thì ông sẽ được tăng thọ mà tôi đây cũng sẽ được sanh về cõi trên ". A Nan đem chuyện bạch với Ðức Phật. Phật bèn đặt cho bài chú gọi Là "Cứu Bạt Diệm Khẩu Ngạ Quỷ Ðà La Ni", đem tụng trong lễ cúng để được thêm phước. Phật tử Trung Hoa gọi lễ cúng này là Phóng diệm khẩu, tức là cúng để bố thí và cầu nguyện cho loài quỷ đói miệng lửa, nhưng dân gian thì hiểu rộng ra và trại đi thành cúng cô hồn, tức là cúng thí cho những vong hồn vật vờ không nơi nương tựa vì không có ai là thân nhân trên trần gian cúng bái. Vì tục cúng cô hồn bắt nguồn từ sự tích này, cho nên ngày nay người ta vẫn còn nói cúng cô hồn là Phóng diệm khẩu. Có khi còn nói tắt thành Diệm khẩu nữa. Diệm khẩu, từ cái nghĩa gốc là (quỷ) miệng lửa, nay lại có nghĩa là cúng cô hồn. Ðiều này góp phần xác nhận nguồn gốc của lễ cúng cô hồn mà chúng tôi đã trình bày trên đây. Phóng diệm khẩu mà nghĩa gốc là " thả quỷ miệng lửa ", về sau lại được hiểu rộng thêm một lần nữa thành " tha tội cho tất cả những người chết ". Vì vậy, ngày nay mới có câu : " Tháng bảy ngày rằm xá tội vong nhân ". Vậy lễ Vu Lan và lễ cúng cô hồn là hai lễ cúng khác nhau. Một đằng thì liên quan đến chuyện ông Mục Liên, một đằng lại liên quan đến chuyện ông A Nan. Một đằng là để cầu siêu cho cha mẹ và ông bà bảy đời, một đằng là để bố thí cho những vong hồn không ai thờ cúng. Một đằng là báo hiếu, một đằng là làm phước. Sự khác nhau giữa hai bên là hiển nhiên, nhưng nhiều người vẫn cứ lẫn lộn. Chẳng hạn trước đây, ông Thái văn Kiểm cho rằng lễ Vu Lan và lễ (xá tội) vong nhân (fête des Trépassés) là một. Còn lễ cúng cô hồn (fête des âmes errantes) và lễ xá tội vong nhân (Pardon des Trépassés) chính là một thì ông lại xem là hai (X. Les fêtes traditionnelles Vietnamiennes, B.S.E.I., t. XXXVI, no1, 1961, pp. 64-65). Mới đây, hai tác giả Thích Minh Châu và Minh Chi cho rằng lễ Vu Lan là để cầu nguyện cho vong hồn những người đã chết (Chúng tôi nhấn mạnh - HT) không còn phải đọa cảnh khổ nữa (Từ điển Phật học Việt Nam, Hà Nội, 1991, tr. 795, mục Vu Lan bồn). Nhưng đây không phải là " những người đã chết " nói chung vì như đã biết, đó chỉ là cha mẹ cùng với ông bà bảy đời mà thôi. Trở lên là nói về sự khác nhau giữa lễ cúng cô hồn với lễ báo hiếu, thường gọi là lễ Vu Lan. Vu Lan là dạng tắt của Vu Lan bồn. Nhưng Vu Lan bồn là gì ? Sau đây là lời giảng của Thích Minh Châu và Minh Chi : " Bồn là cái chậu đựng thức ăn. Cái chậu đựng thức ăn đem cúng dường chư tăng vào ngày rằm tháng 7 để cầu nguyện cho vong hồn những người đã chết không còn phải đọa cảnh khổ nữa. Vu Lan dịch âm từ chữ Sanscrit Ullabana, là cứu nạn treo ngược. Những người làm nhiều điều ác đức, sau khi chết, phải thác sinh xuống những cõi sống rất khổ gọi là địa ngục. Ở đây có một khổ hình là bị treo ngược (Sđd, tr. 795). Chúng tôi sẽ dựa vào lời giảng này mà tìm hiểu về xuất xứ của mấy tiếng " Vu Lan " và " Vu Lan bồn ". Lời giảng này có bốn điểm sai mà điểm sai thứ nhất thì chúng tôi vừa mới chỉ ra ở những dòng cuối của đoạn trên. Sau đây là điểm sai thứ hai : Nói bồn là cái chậu đựng thức ăn thì không đúng vì bồn chỉ là một yếu tố phiên âm (sẽ phân tích rõ ở phần sau) mà thôi. Nói rằng đó là " cái chậu đựng thức ăn đem cúng dường chư tăng vào ngày rằm tháng 7 " thì lại sai theo một kiểu khác nữa. Chậu là " đồ dùng thường làm bằng sành sứ hoặc kim loại, miệng rộng, lòng nông, dùng để đựng nước rửa ráy, tắm giặt hoặc để trồng cây v.v..." (Từ điển tiếng Việt 1992). Vậy đựng thức ăn trong loại đồ dùng đó mà dâng lên cho chư tăng thọ thực là một hành động hoàn toàn thất nghi và thất lễ. Thật ra, Phật đã dạy Mục Liên như sau : Phải toan sắm sửa chớ chầy Ðồ ăn trăm món trái cây năm màu Lại phải sắm giường nằm nệm lót Cùng thau, bồn, đèn đuốc, nhang dầu Món ăn tinh sạch báu mầu Ðựng trong bình bát vọng cầu kính dâng (Diễn ca kinh Vu Lan bồn) Thau, bồn (chậu) chỉ là những thứ phải dâng cho chư tăng trong dịp Vu Lan để dùng trong việc rửa ráy, tắm giặt ... mà thôi. Còn thức ăn thì phải " tinh sạch báu mầu, đựng trong bình bát " đàng hoàng lịch sự, chứ có đâu lại đựng trong chậu. Thật ra, trước Thích Minh Châu và Minh Chi, cũng có những học giả đã giảng như trên, chẳng hạn Ðoàn Trung Còn trong bộ từ điển lớn về Phật học hoặc Toan Ánh trong bộ sách dày về nếp cũ. Ðây là một cách giảng lệ thuộc vào cái sai của sách vở Trung Hoa. Từ Nguyên chẳng hạn, đã giảng về mấy tiếng Vu Lan bồn như sau : " Nói lấy chậu đựng trăm thức để cúng dường chư Phật " (Vị dĩ bồn trữ bách vị cung dưỡng chư Phật). Ðiểm sai thứ ba là đã theo cái sai của những người đi trước mà giảng Vu Lan thành " cứu nạn treo ngược", vì thấy từ điển Trung Hoa giảng Vu Lan bồn là " cứu đảo huyền ". Thật ra, khi Từ Nguyên chẳng hạn, giảng Vu Lan bồn thành " cứu đảo huyền " là đã mượn hai tiếng "đảo huyền " trong sách Mạnh Tử. Trong sách này, có cú đoạn " Dân chi duyệt chi do Giải đảo huyền dã" nghĩa là "như giải thoát khỏi sự khốn khổ tột cùng vậy ". Chính Từ Nguyên cũng đã giảng " đảo huyền " là sự khốn khổ tột cùng (khốn khổ chi thậm). Vậy " cứu đảo huyền " không phải là " cứu nạn treo ngược " mà lại là " giải thoát khỏi sự khốn khổ tột cùng ". Hai tiếng " đảo huyền " ở đây không còn được hiểu theo nghĩa đen nữa. Nghĩa của chúng ở đây cũng giống như nghĩa của chúng trong thành ngữ " đảo huyền chi tế " là tình cảnh khốn khó, chứ không phải là " cảnh bị treo ngược ". Ðiểm sai thứ tư là ở chỗ nói rằng danh từ Sanscrit "Ullabana " có nghĩa là " cứu nạn treo ngược ". Trước nhất, cần nói rằng từ Sanscrit này đã bị viết sai. Vậy không biết ở đây hai tác giả muốn nói đến danh từ Sanscrit nào, nhưng cứ theo dạng sai chính tả đã thấy thì có thể luận ra rằng đó là một trong hai từ sau đây : Ullambana hoặc Ullambhana. Ở đây, xin phân tích từ thứ nhất: Ullambana gồm có ba hình vị : ud (trở thành ul do quy tắc biến âm samdhi khi d đứng trước l) là một tiền tố, thường gọi là tiền động từ (préverbe) chỉ sự vận động từ dưới lên, lamb là căn tố động từ có nghĩa là treo và ana là hậu tố chỉ hành động. Vậy Ullambana có nghĩa là sự treo lên. Nhưng tất cả chỉ có như thế mà thôi ! Từ Sanscrit này không hề diễn đạt cái ý treo ngược hoặc treo xuôi gì cả. Nó lại càng không thể có nghĩa là "cứu nạn treo ngược" được.. Trở lên, chúng tôi đã nêu ra những điểm sai trong lời giảng của Thích Minh Châu và Minh Chi về hai tiếng "Vu Lan". Vậy đâu là xuất xứ và ý nghĩa đích thực của hai tiếng này ? Trước nhất, Vu Lan là dạng nói tắt của "Vu Lan bồn". Ðây là ba tiếng đã được dùng để phiên âm danh từ Sanscrit Ullambhana. Từ này thoạt đầu đã được phiên âm bằng bốn tiếng Hán đọc theo âm Hán Việt là Ôlambàna. Dạng phiên âm cổ xưa này đã được Từ Hải khẳng định. Về sau, Ôlambàna được thay thế bằng dạng phiên âm mới là "Vu Lan bồn", trong đó Vu thay thế cho Ô, lan cho lam và bồn cho bà + n (a). Vì "Vu Lan bồn" chỉ là ba tiếng dùng để phiên âm, cho nên từng tiếng một (Vu, Lan, bồn) hoàn toàn không có nghĩa gì trong Hán ngữ cả. Do đó, tách bồn ra mà giảng thành "cái chậu đựng thức ăn" như hai tác giả Thích Minh Châu và Minh Chi đã làm là hoàn toàn không đúng. Ullambhana có nghĩa là sự giải thoát. Danh từ Sanscrit này có ba hình vị: Tiền tố ud (trở thành ul vì lý do đã nói), căn tố động từ lambh và hậu tố ana. Xin nói rõ về từng hình vị : Không giống như trong Ullambana, ở đó nó chỉ sự vận động từ dưới lên. Trong Ullambhana, tiền tố ud chỉ ý phủ định hoặc đối lập, thí dụ : chad (che, bọc, phủ), dv (đối với), uc-chad (cởi quần áo), khan (chôn), đv ut-khan (moi lên), gam (đi), đv ud-gam (đi ra), nah (trói, buộc), đv un-nah (cởi trói) v.v... Trong những thí dụ trên, ud trở thành uc, ut, un do quy tắc biến âm samdhi. Còn các căn tố động từ thì được ghi bằng chữ in hoa theo truyền thống khi chúng được tách riêng. Căn tố động từ lambh là hình thái luân phiên với labh, có nghĩa là lấy, chiếm lấy, nắm bắt ... Vậy Ul-lambh có nghĩa là giải thoát. Hậu tố ana chỉ hành động có liên quan đến ý nghĩa mà tiền tố và căn tố động từ diễn đạt. Vậy Ullambhana có nghĩa là sự giải thoát. Ullambhana được phiên âm sang Hán ngữ bằng ba tiếng dọc theo âm Hán Việt là " Vu Lan bồn ". Vu Lan bồn được nói tắt thành Vu Lan. Vậy Vu Lan là sự giải thoát. Xuất xứ của nó là danh từ Sanscrit Ullambhana. Ðây là từ thứ hai trong hai từ mà chúng tôi đã suy đoán ở trên. Trong cấu tạo của từ này, tuyệt nhiên cũng không có một thành tố nào mà về ngữ nghĩa lại có liên quan đến hiện tượng " treo ngược " cả. Trở lên, dù sao cũng chỉ là ý kiến thô thiển của một cá nhân. Ðúng hay sai, xin được sự thẩm xét của các nhà chuyên môn, trước nhất là các nhà Phật học và các nhà Phạn học. An Chi (Huệ Thiên) (daitangkinhvietnam.org)
    1 like
  19. Là Hỏa chứ là sao! Vào diễn đàn LHĐP thì nên ghé ra ngoài mục Luận Tuổi xem bài tra mạng chứ nhỉ. Ở dây không xem theo sách Tàu!
    1 like
  20. Từ giờ tới năm 2016 ko có năm nào vừa hợp cha vừa hợp mẹ đâu. Tương quan với cha thhì thiên can quan trọng hơn, Nhâm hay quý gì cũng tương sinh với Giáp. Mạng hợp mẹ, thiên can hợp cha là ok rồi. Ngũ hành có sinh có khắc, lúc nào cũng vậy, sinh không phải lúc nào cũng tốt, khắc không hẳn là xấu. Nên nhớ như vậy. Đừng nên bám vào sinh sinh khắc khắc, chúng tôi tư vấn tức là đã cân nhắc cho bạn rồi. Sinh 2 con là đủ rồi, dân số VN tăng lên không ngừng, đừng đi ngược chủ trương nhà nước. Năm 2016 là năm rất tốt trong vòng 10 năm tới nên mới chọn sinh con út để gia đình có thể tốt về lâu về dài.
    1 like
  21. Chủ yếu là con út sinh năm Bính Thân 2016 thì càng về sau càng tốt! Năm Nhâm Thìn cũng là năm Hợp tuổi để sinh! Năm Tỵ cũng là mạng Hỏa. Mộc sinh Hỏa thì có gì xấu?
    1 like
  22. Có thể có vào năm Tỵ hoặc năm Mùi, nếu năm Tỵ có nên cẩn thận đi khám thường xuyên. Anh chờ thêm ý kiến các bác cho chính xác nhé
    1 like
  23. 1 like
  24. Bài 14 (tiếp) : 4 - Kiêu ấn ít M-4/1 : Nam sinh ngày 20/13/1939 lúc 22,13’ Qua sơ đồ ta thấy trong tứ trụ có ngũ hợp của Nhâm với Đinh không hóa. Kỷ bị khắc trực tiếp, Sửu và Hợi bị khắc gần. 1 - Mặc dù Nhâm bị khắc trực tiếp bởi Tuất nhưng nó nó vẫn khắc được Đinh (vì chúng ở cùng trong tổ hợp). 2 - Nhật Chủ (Nhâm) ở trạng thái Lộc tại Hợi trụ giờ có 4,05đv 3 - Các điểm vượng trong vùng tâm của các can chi được mô tả trên sơ đồ. Điểm hạn và điểm vượng trong vùng tâm của các hành : Thân (Thủy) có 1đv nhiều hơn Mộc, Hỏa và Thổ, vì vậy Nhật Chủ là vượng. Thân vượng mà kiêu ấn và thực thương ít, nếu sử dụng giả thiết 55/43 thì dụng thần đầu tiên phải là thưc thương (Mộc) (bởi vì quan sát (Thổ) có tới 3 can chi và nắm lệnh, còn Thân (Thủy) chỉ có 2 can chi và đắc địa Lộc, Thân chỉ hơi vượng, vì vậy nếu có thêm quan sát thì Thân dễ thành nhược). Do vậy dụng thần đầu tiên phải là thực thương (Mộc) và dụng thần chính của nó là Giáp tàng trong Hợi trụ giờ. Mộc là dụng thần có -1đh. Kim khắc dụng thần Mộc nên nó có 1đh. Thủy (Thân) là kỵ thần có 0,5đh. Hỏa và Thổ là hỷ thần đều có -0,5đh. M-4/2 : Nam sinh ngày 3/13/1969 lúc 1,20’ : Qua sơ đồ ta thấy trong tứ trụ không có các tổ hợp, nhưng có 2 Quý bị khắc trực tiếp và Tý bị khắc gần. 1 - Dậu có 6đv được thêm 50% đv của Kỷ cùng trụ sinh cho, vì vậy nó có (6 + 3,1.1/2) đv = 7,55đv, nhưng nó bị giảm 1/5 đv bởi Bính khắc cách 1 ngôi và ½ đv khi nó vào vùng tâm, vì vậy nó chỉ còn 7,55.4/5.1/2đv = 3,02đv. 2 - Các điểm vượng trong vùng tâm của các can chi khác được mô tả trên sơ đồ. Thân (Thủy) có 1đv nhiều hơn Mộc, Hỏa và Thổ, vì vậy Nhật Chủ là vượng. Thân vượng, kiêu ấn và thực thương ít, nếu sử dụng giả thiết 53/ thì dụng thần đầu tiên phải là quan sát (Thổ) và dụng thần chính của nó là Kỷ ở trụ năm (vì Thân có 3 can chi và nắm lệnh còn quan sát chỉ có 3 can chi). Thổ là dụng thần có -1đh. Kim (kiêu ấn) có 1đh. Thủy (Thân) là kỵ thần có 0,5đv. Mộc và Hỏa là hỷ thần có -0,5đh. M-4/3 : Nam sinh ngày 11/11/1958 lúc 8,00’ Qua sơ đồ, ta thấy trong tứ trụ có ngũ hợp của Mậu với Quý là không hóa, Thìn ở trụ giờ và Nhâm bị khắc trực tiếp, Quý và Hợi bị khắc gần. Các điểm vượng trong vùng tâm của các can chi được mô tả trên sơ đồ. Thân (Thủy) có 1đv lớn hơn Mộc, Hỏa và Thổ, vì vậy Nhật Chủ là vượng. Thân vượng mà kiêu ấn và thực thương ít, nếu sử dụng giả thiết 52/17 thì dụng thần đầu tiên phải là quan sát (Thổ) và dụng thần chính của nó là Mậu trụ năm (quan sát chỉ có 4 can chi còn Thân mặc dù chỉ có 3 can chi nhưng nắm lệnh và điểm vượng trong vùng tâm của Thân lớn hơn của quan sát 5đv, vì vậy Thân được xem như có 5 can chi tỷ kiếp). Thổ là dụng thần có -1đh, Kim có 1đh, Thủy có 0,5đh, Mộc và Hỏa có -0,5đh M-4/4 : Nữ sinh ngày 29/9/1962 lúc 19,35’ Qua sơ đồ, ta thấy trong tứ trụ có tam hợp Dần Ngọ Tuất hóa Hỏa, Nhâm và Canh bị khắc gần. Các điểm vượng trong vùng tâm của các can chi được mô tả trên sơ đồ. Thân (Kim) không lớn hơn Thủy, Mộc và Hỏa 1đv, vì vậy Nhật Chủ nhược. Nếu sử dụng giả thiết 194/98 thì kiêu ấn sinh được 50%đv của nó cho Thân (vì Nhật can được lệnh và kiêu ấn lớn hơn thực thương và tài tinh). Thân có (8,19 + 6.1/2)đv = 11,19đv nhiều hơn Thủy, Mộc và Hỏa 1đv, vì vậy Nhật Chủ đã trở thành vượng. Nếu sử dụng giả thiết 54/48 thì Thân vượng mà kiêu ấn và thực thương ít (vì Tuất đã hóa Hỏa chỉ còn Kỷ), vì vậy dụng thần đầu tiên phải là tài tinh (Mộc) và dụng thần chính của nó là Giáp tàng trong Dần của trụ năm (Hỏa quá mạnh vì nó có tới 4 can nên không cần thêm còn thực thương thì trở thành vô dụng). Mộc làm dụng thần có -1đh. Kim có 1đh. Thổ có 0,5đh. Thủy và Hỏa có -0,5đh. M-4/5 : Nam sinh ngày 13/7/1982 lúc 10,12’ Qua sơ đồ, ta thấy trong tứ trụ có ngũ hợp của Nhâm với Đinh và bán hợp của Tị với Dậu không hóa. Nhâm và Dậu bị khắc trực tiếp (nhưng Nhâm ở trong hợp nên nó vẫn khắc được Đinh cùng trong tổ hợp). Các điểm vượng trong vùng tâm của các can chi được mô tả trên sơ đồ Thân (Hỏa) có trên 10đv nhiều hơn Thổ, Kim và Thủy, vì vậy Nhật Chủ là khá vượng. Thân vượng mà kiêu ấn ít và thực thương đủ (vì nó có 2 chi là Tuất và Mùi đều nhược ở vùng tâm) thì thì dụng thần đầu tiên phải là quan sát và dụng thần chính của nó là Nhâm ở trụ năm. Thủy là dụng thần có -1đh. Mộc có 1đh. Hỏa có 0,5đ . Thổ và Kim có -0,5đh. M-4/8 : Nam sinh ngày 2/2/1966 lúc 6,00’ am Qua sơ đồ ta thấy trong tứ trụ có ngũ hợp của Bính với Tân không hóa, Đinh và Mão đều bị khắc gần. Các điểm vượng trong vùng tâm của các can chi đã mô tả trên sơ đồ. Thân (Hỏa) lớn hơn Thổ, Kim và Thủy trên 1đv, vì vậy Nhật Chủ là vượng. Thân vượng mà kiêu ấn và thực thương ít, vì vậy dụng thần đầu tiên thường phải là quan sát và dụng thần chính của nó là Quý ở trụ giờ (vì mặc dù điểm vượng của Thân chỉ lớn hơn quan sát có 1,37đv nhưng thế lực của Thân quá mạnh, nó có tới 3 can chi và đắc địa Lộc tại Ngọ trụ năm, còn quan sát chỉ có Quý ở trụ giờ). Thổ làm dụng thần có -1đh. Mộc khắc dụng thần Thổ có 1đh. Hỏa có 0,5đh. Kim và Thủy là hỷ thần có -0,5đh. III – Thân nhược và ví dụ minh họa
    1 like
  25. sanh nhiều nhưng nuôi không đủ sau còn lại 2-3 ,trai gái đều có ,nhưng con khó nuôi hay đau yếu luôn ,lớn lên trai gái diện mạo dễ nhìn ,sau đều hiển đạt .
    1 like
  26. Năm nay có thể xuất ngoại được nữa ,nhanh thì tháng 7 al chậm thì 2 tháng cuối năm , số giàu có lớn ,sau 45t thì bắt đầu giàu .
    1 like
  27. Ðáp án : Của các bài tập lấy trong cuốn “Giải Mã Tứ Trụ” như sau: 1 - Ví dụ 1 : Nam sinh ngày 26/3/1961 lúc 2,00’am. Chết vì ung thư gan vào tháng 10/2006. 2 - Ví dụ 5 : Nam sinh ngày 23/4/1948 lúc 8,00’am. Năm 1989 anh ta bị tai nạn, đầu va vào cửa kính và chân bị gẫy lòi xương. 3 - Ví dụ 6 : Nam sinh ngày 25/9/1990 lúc 13,00’. Tháng 7/1991 bị mổ u não may thoát chết. 4 - Ví dụ 10 : Bé trai Elgin Alexander Fraser (Canada) sinh ngày 10/4/2004 lúc 12,00’. Bị bệnh ung thư từ khi mới 8 tháng tuổi và được sống tới ngày 19/5/2007 lúc 19,45’. Hình chụp với trung phong (Centre) Mike Fisher gần đây, khi còn sống 5 - Ví dụ 14 : Nữ sinh ngày 29/11/1955 lúc 5,01’am. Chết vì cảm lạnh vào tháng 4/2007. 6 - Ví dụ 151 : Michael Jackson was born 29/9/1958 lúc 12,00’ (?). Anh ta chết vì trụy tim ngày 25/6/2009 lúc 12,44’. 7 - Ví dụ 215: Nhà bác học thiên tài Albert Einstein sinh ngày 14/3/1879 lúc 11,30’. Ông ta mất ngày 18/4/1955. Ðến đây là hết chương trình Tứ Trụ sơ cấp, chắc nhiều bạn đọc sẽ thắc mắc rằng chưa thấy Âm Dương Ngũ Hành Tứ Thời (bốn mùa) Luận đâu cả. Vâng, đúng là như vậy và rồi bạn đọc sẽ thấy trong chương trình Tứ Trụ trung cấp hầu như vẫn chưa thấy cái “Mê Hồn Trận“ này xuất hiện (vì nó đã được toán học hóa), nhưng chúng ta vẫn dự đoán được các tai họa có thể xẩy ra và tìm cách để ngăn chặn chúng. Chỉ đến chương trình Tứ Trụ cao cấp, khi dự đoán về Tài Quan Ấn mới bắt đầu thực sự đụng chạm tới nó và chỉ khi đó bạn đọc mới không sợ lạc vào cái “Mê Hồn Trận” này.
    1 like
  28. Ở đoạn này cũng vậy, tác giả và Nhâm Thiết Tiều cũng chỉ hiểu nông cạn theo nghĩa đen về các trạng thái của “Bảng sinh vượng tử tuyệt“ mà thôi. Các khái niệm Âm Dương và các trạng thái của “Bảng sinh vượng tử tuyệt“ có thể mô tả được hầu như toàn bộ các quy luật đang diễn ra trong tự nhiên của chúng ta, kể cả trong Vũ Trụ. Bởi vì Âm Dương là 2 trạng thái đối lập nhau (hiểu theo nghĩa đơn giản nhất), cho nên Giáp là can Dương ở trạng thái Sinh (tức Trường sinh) ở Hợi thì Ất (cùng hành Mộc) mang dấu (can) Âm phải ở trạng thái đối lập của Sinh tức là nó phải ở trạng thái Tử tại Hợi thì mới đúng theo định nghĩa (học thuyết) về Âm Dương (các can khác cũng suy luận tương tự như vậy). Ví dụ 1 : Một người đang sống trong thế giới của chúng ta được xem là thế giới Dương và nặng + 60 kg chẳng hạn, còn một người Âm (tức ma… hay thần thánh gì đó) trong thế giới Âm thì phải có khối lượng Âm, giả sử nặng là -60 kg. Do vậy không thể theo như Nhâm Thiết Tiều cho rằng người Âm này cũng phải nặng +60 kg. Và nếu người Dương ở trạng thái Tử (chết) thì dĩ nhiên người Âm phải ở trạng thái Sinh mới là hợp lý, có logic...(vì một người chết đi thì "con ma" của chính người đó mới bắt đầu xuất hiện được chứ). Ví dụ 2 : Một Lỗ Ðen với lực hấp dẫn khủng khiếp đã hút mọi vật chất khi chúng không may đi qua “Chân Trời Sự Kiện“ của nó, khi tới một mức độ cùng cực thì ắt nó (Lỗ Ðen) phải trở thành Lỗ Trắng để đẩy (Phun) một phần vật chất “Dư Thừa“ ra khỏi bụng của nó, sau đó nó lại trở về trạng thái Lỗ Ðen bình thường như trước. Ðiều này hoàn toàn phù hợp với học thuyết Âm Dương : “Dương đến cùng cực thì sinh Âm; Âm đến cùng cực thì sinh Dương“. Ðại loại là như vậy. Hy vọng mọi người cung cấp thêm các ví dụ hiểu theo Nghĩa Bóng về các khái niệm này.
    1 like
  29. Ôi, bác TL ơi, về cơ bản người ta có thể kiểm soát được năm sinh, cái này dễ nhất, khó hơn 1 chút nhưng cũng không phải quá khó nếu bố và mẹ khỏe mạnh khi khống chế được cả Tháng sinh. Còn ngày và giờ thì chắc là siêu lắm mới tính được Ngày chứ giờ thì do Trời thật. Chứ có tiêm 3-5 ống kích thích đẻ thì cũng chưa chắc đã tòi ra được ngay. Vì thế nếu kiểm soát được tháng sinh tốt cho con cái cũng là điều tốt đáng làm.
    1 like
  30. Nếu đã dùng Lạc Thư Hoa Giáp thì ko dùng Lục Thập Hoa Giáp. Mọi kiến giải xung quan việc đổi Thủy Hỏa đã có rõ ràng trong các sách của thầy Thiên Sứ rồi. Theo TL thì Lạc Thư hợp lý và logic hơn Lục Thập !!! Riêng việc sinh con được năm tốt hợp cha hợp mẹ thì gia đình đó đã có phúc rồi, đi vào chi tiết hơn thì mới tính đến tháng - ngày - giờ. Cái lớn đã được thì cái tiểu tiết chỉ là phụ mà thôi!!!
    1 like
  31. Theo tôi : Nếu năm Thìn là mạng Thủy thì sinh vào tháng 7 âm lịch là đẹp nhất. Nếu là năm hỏa thì sinh vào tháng 2 âm lịch
    1 like
  32. Vậy thì sinh tháng 2 âm là tốt nhất rồi. Nếu tháng 3 thì nên sinh vào đầu tháng sẽ tốt hơn là cuối tháng (sinh con dạ chắc tính chuẩn hơn con so). Tôi thiết nghĩ tháng 3 ở đầu tháng thì từ tiết khí đến ngũ hành (Năm Hỏa tháng Thổ, Hỏa sinh Thổ) cũng rất tốt, Năm thìn cùng tháng Thìn là song long nhân đôi phúc khí, có khi nào tốt hơn tháng 2 âm không? Tháng 1 là tháng Dần, nếu bảo nó không tốt vì Long Hổ tranh bá cũng có lý mà bảo Ngọa hổ tàng long nghe cũng được mà nói Rồng chầu, Hổ phục cũng vui tai. Xem ra cái này cần kiến giải xâu xa hơn. Các năm Chuột Heo, v.v.... cũng vậy. Cho nên các bác có nghiên cứu lâu năm về lĩnh vực này cho ý kiến nhiều hơn vừa để mọi người học hỏi, vừa giúp các bạn trẻ đỡ hoang mang. Nhất là năm Thìn tới đây lại có sự giao tranh 2 luồng tư tưởng Hỏa và Thủy. Có khi chỉ vì nó mà vợ chồng bất đồng quan điểm, mất vui.
    1 like
  33. Nếu tính sinh năm Nhâm Thìn với hành khí năm là Hỏa thì chỉ nên sinh mùa Xuân (1,2 al) hoặc mùa Hạ (4,5al). Tháng 3 là tháng Thổ, là tháng giao mùa giữa Xuân và hạ nên khí trời lộn xộn. Thường thì vào các tháng giao mùa, trở trời thì ngta lại hay ho hen. Theo Tl thì chọn tháng sinh là sự kết hợp của hành khí và mùa trong năm. hành khí Hỏa thì Tướng vào mùa Xuân và Vượng vào mùa Hạ, Tù vào mùa thu và Tử vào mua đông, nên sinh Thu Đông là bất lợi, ko hợp khí. Các tháng Thổ 3 6 9 12 thì Hỏa Hưu do sinh xuất. Nếu như tính theo cách Rồng như trên thì cách đó cũng phải tính cho 11 Địa chi còn lại thì đó mới là 1 lý thuyết hợp Lý. Theo cách tính như ltrên thì con Chuột? Heo? sinh mùa nào???
    1 like
  34. Chào chị Thanh Trang Đọc các bài viết của chị thật dễ hiểu . Cảm ơn chị nhiều . Tôi đang tìm hiểu về tứ trụ ,mong chị hướng dẫn giúp,về sự hợp hóa của can ngày . Ví dụ : Mậu Tí - Đinh Tị - Quý Sửu - Mậu Ngọ . Theo tứ trụ này thì Quý Mậu hóa Hỏa . Vậy chị làm ơn cho hỏi ,khi can ngày hóa Hỏa ,thì ta sẽ xét mối quan hệ với can Ngày như thế nào , can Ngày có là Thủy nữa không ? hay là Hỏa ? Lúc đó các đại vận có thay đổi gì không ? nếu thay đổi thì sắp xếp như thế nào ? Rất mong hồi âm của chị .
    1 like