-
Thông báo
-
Nội quy Lý Học Plaza
Nội quy này là bản mở rộng Nội Quy - Quy định của Diễn đàn. Khi tham gia mua bán, các thành viên phải tuân theo những quy định sau: Tiêu đề bài viết: Bao gồm: Chỉ dẫn địa lý, Loại hình Mua/Bán, Thông tin mua bán.
Chỉ dẫn địa lý: Tỉnh/thành nơi mua bán. Hoặc sử dụng định nghĩa có sẵn:TQ: Toàn quốc
HCM: TP Hồ Chí Minh
HN: Hà Nội
[*]Ví dụ: HCM - Bán Vòng tay Hổ Phách Nội dung bài viết: Mô tả chi tiết sản phẩm mua/bán
Bắt buộc phải có thông tin liên lạc, giá Mua/Bán
Bài mới đăng chỉ được phép up sau 03 ngày.
Thời gian up bài cho phép: 01 ngày 01 lần.
Các hành vi vi phạm nội quy này sẽ bị xóa bài hoặc khóa tài khoản mà không cần báo trước.
-
Leaderboard
Popular Content
Showing most liked content on 02/08/2011 in Bài viết
-
Bài Sử Vỡ Lòng Ngoại Khóa
Thiên Luân and 3 others liked a post in a topic by Lãn Miên
Bài sử vỡ lòng ngoại khóa Kỳ thi tuyển vào đại học, điểm sử không đạt yêu cầu, nhiều thí sinh vì không thích sử nên bỏ bài, thà lãnh điểm 0, tin vào điểm các môn khác sẽ vớt. Nếu học sử Việt 5000 năm văn hiến chắc học sinh sẽ không chán môn sử. Dưới đây là bài sử (kể chuyện) ngoại khóa cho học sinh cấp một trường làng: Các dân tộc trên đất nước Việt Nam gọi chung là người Việt, là con từ trăm trứng của Cha Rồng Mẹ Tiên. Hàng vạn năm trước người Việt viết chữ bằng Kẻ những vạch thẳng, như các con chơi bó Que đánh chắt, cũng có lúc lấy que xếp thành hình vuông, hình tam giác, hình chữ nhật, hình ông sao v.v. Đếm thì từ 1 đến 10. Phép tính cộng thì 0+1=1 hay 1+0=1, thành 1 thì là Nhiều hơn 0, hay 1+1=2, có 2 cũng đã là Nhiều. Có từ 2 trở lên là càng nhiều. Có nhiều người cùng nhau thì như một bó đũa, khó mà bẻ gãy được. Như một cái Bè kết bằng nhiều cây nứa, càng nổi hơn, chở được nhiều hơn. Nên mới có câu ca dao : “Một cây làm chẳng nên non. Ba cây chụm lại nên hòn núi cao”. Một cây nứa thì cũng thẳng như một cái Que. Người xưa viết bằng một Kẻ đứng, thêm hai Kẻ đứng hai bên nữa thành ba, giống hình ngọn núi rồi, nhưng chưa vững vì chưa có đế. Thêm một nét kẻ ngang bên dười nữa như mặt đất bằng, thế là có đế rồi, vững rồi, đó là chữ Núi 山 Núi=Non=Son=San=Sơn. Núi có nhiều thứ quí tặng cho con người, gọi là “San sẻ cho Con”=(lướt)=Son. Nhiều thứ quặng quí trong núi như đá đỏ, rồi nhiều thứ đất có màu nâu , đỏ, vàng, tím v.v.người ta lấy về nghiền làm màu ve, màu sơn, gọi là Son, như thỏi son cũng làm thành hình nhọn như trái núi, có thỏi son màu đỏ, có thỏi màu hồng, màu nâu, màu thâm v.v. Vậy là Núi luôn làm ơn cho người, gọi là San tức san sẻ. “Sẻ Ơn”=(lướt)=Sơn. Năm chữ Núi=Non=Son=San=Sơn, xưa chỉ viết bằng một chữ Sơn 山. Có hai cái cộng với nhau mới sinh ra nhiều. Người cũng vậy, có hai là cha và mẹ mới sinh ra được người. Người Việt lấy hai Kẻ thẳng xếp lại thành chữ Người 人, đó là chữ Nhân 人, vì Người=Ngài=Ngôi (cũng như là một ngôi sao)=Nối=Dõi=Dân=Nhân. Có hai thì thành nhiều nên Người Dân là nhiều người, Nhân Dân là nhiều người, Nối Dõi là nhiều người của nhiều đời. Thiên nhiên rất rộng rãi với con người, cho con người nhiều thứ cần thiết, người Việt gọi đó là trời Ban cho (Ban là cho không, nếu có dấu sắc thì thành Bán, và Sắc=Mắc, tức là còn Bán Mắc nữa). Người Việt đi tìm chỗ đất bằng phẳng để trồng lúa. Chỗ đất bằng phẳng thuận lợi cho trồng trọt đó là trời Ban cho. Nên người Việt lấy tên Ban đặt cho loài hoa trắng muốt nở đẹp nhất rừng là hoa Ban. Nơi đất bằng người Việt xúm lại ở để làm ruộng gọi là Xóm Bản. Mọi người trong Bản thân thiết nhau như Bạn, gắn bó nhau như nứa cùng Bè nên gọi là Bạn Bè. Đã là Bạn Bè thì kết nhau thành một Băng, cả làng cả nước gắn bó nhau thành một Bang. Mỗi khi có việc làm ăn hay gặp thiên tai thì dân Bản đem việc ra Bàn. Bàn kỹ cho mọi nhẽ trắng ra, phẳng ra, không còn vướng gợn gì nữa, gọi là Bàn Bạc. Bạc là màu trắng sạch sẽ của vôi, “bạc như vôi”. Kim loại quí nhất có Vàng là màu vàng, Bạc là màu bạc, dùng để làm đồ trang sức và làm đồng tiền. Người Việt hay đeo vòng Bạc từ nhỏ đến già để tránh gió. Bàn Bạc là để cho phẳng mọi việc nên cái để ngồi viết, ngồi uống nước chè và Bàn Bạc gọi là cái Bàn, cái ghế dài để cho cả Bang ngồi hai bên cái bàn gọi là ghế Băng, chữ Bàn thêm “g” của ghế thì thành Băng. Mọi việc Bàn Bạc phăng phăng cho phẳng rồi thì ai cũng gật đầu. Thêm “g”của gật đầu vào chữ Bàn của Bàn Bạc thì được chữ Bằng là Bằng lòng. Ai cũng bằng lòng như mình thì có “Bằng lòng như Mình”=(lướt)=Bình. Ai cũng lòng Đồng bụng Bằng như mình cả rồi thì “Đồng Bằng”=(lướt)=Đẳng. Thế là có từ Bình Đẳng, là ai ai trong Bang cũng có quyền như nhau. Ai ai cũng Bình Đẳng. <Ban=Bản=Bạn=Bè=Bàn=Bình=Bang=Băng=Đẳng > Có đất bằng để dựng Bản, có đất bằng để làm ruộng, đời sống no ấm, Tết đến người Việt vui chơi. Người Việt lấy Đồng làm ra nhạc cụ gõ gọi là Cồng. Gọi là Cồng vì phải “Cặm cụi gò Đồng”=(lướt)=Cồng. Gõ Cồng là để mời Ông trời, Ông trăng về dự lễ hội nên người Việt coi Cồng là vật linh thiêng của chung như Trời, gọi là “Của Ông”=(lướt)=Công, Công thành từ chỉ của chung. Cồng ấy nặng tình nặng nghĩa nên thay dấu nặng thành Cộng, nên có từ Công Cộng cũng là của chung. Còn nếu Cồng để đem biếu thì thay dấu sắc của biếu thành Cống, Cống tức là biếu cho < Ban là cho không, Biếu là “Ban để tỏ lòng Hiếu”=(lướt)=Biếu, người lớn tuổi cho người nhỏ tuổi gọi là Ban, người nhỏ tuổi cho người lớn tuổi gọi là Biếu) >.Hễ gõ Cồng là dân bản đều “Đến coi Cồng”=(lướt)=Đông. Đông người thì chỗ ấy nặng nên có Đông nặng Động, là chỗ ấy rất sôi động. Mọi người đụng tay nhau múa hát, đụng Cồng cho nó vang, “Đụng Cồng”=(lướt)=Đồng, “Cồng Đụng”=(lướt)=Cùng, “Đụng Cồng Rung” = (lướt)=Đùng là tiếng vang to , nên hay nói là to đùng. Về sau người Việt còn giỏi hơn biết gò là biết đúc để làm ra nhạc cụ treo để gõ, cũng là của chung nên gọi là cái Chung, nó treo úp xuống Vuông = xuống Ruộng, tức xuống đất, nên “ Chung úp xuống Vuông”=(lướt)=Chuông. Rồi lại làm cái giống Cồng nhưng có núm nhỏ ở giữa như cái chuông con, nhưng gõ thì treo nghiêng chứ không treo úp như chuông, gọi là cái “Chuông Nghiêng”= (lướt)=Chiêng. Cồng Chiêng thành một bộ nhạc cụ tuyệt vời của người Việt. Người Việt sống trong Bản Làng, cùng làm, cùng chơi, gọi là Cùng Chung. Điệu múa Quay Chung quanh đống lửa được người Việt dùng các Kẻ thẳng viết thành “Quay Chung”=(lướt)=Cung, nghĩa của chữ Cung là “Xòe Ra”=(lướt)=Xa. Bên trong có một Kẻ ngang bên trên như đường chân trời, ý rằng đó là Trời tức ngọn Lửa; bên dưới có bốn Kẻ thẳng xếp thành hình vuông như cái bành chưng, ý rằng đó là Đất. Điệu múa Xòe ấy mọi người cùng đụng tay nhau vừa quay tròn vừa hát vừa Đụng Cồng cho vang thành “Đụng Cồng”=(lướt)=Đồng 同, “Cồng Đụng”=Cùng, đó là chữ Đồng 同. <Đồng=Cồng=Công=Cống=Cộng=Cùng=Chung=Chuông=Chiêng=Chiềng=Chạ=Chợ > Là con từ bọc trăm trứng của Lạc Long Quân và Âu Cơ, người Việt sống thân thiết với nhau như ruột thịt. Khi còn trong bụng mẹ đó là cái Thai, Thai là Thịt, Thịt ấy lớn dần có hình dáng gọi là Thể, rồi thành hẳn Thân, lớn được trong bụng mẹ nhờ ruột nó nối liền với ruột của mẹ để lấy thức ăn, cái cuống “Ruột nối với Nhau”=(lướt)=Rau=Nhau, nên cái Thân đang trong bụng mẹ gọi là “Thân Ruột”=(lướt)=Thuộc. Ta có từ Thân Thuộc là Cùng Bọc=Đồng Bào. Thịt là Thuộc ấy trong bụng mẹ nó mềm, ấn vào thì nó Thụt, nên gọi là Thục. (Đất đã cày sâu bừa kỹ cho nhuyễn để gieo mạ gọi là đất thục). Cái cuống Rau=Nhau, “Nhau Thục”=(lướt)=Nhục, nó cũng là Thịt, nhưng là Thịt của Thai đang trong bụng mẹ, tức cái cuống Nhau ấy là cuống chung của cả hai mẹ con đang dính nhau, “Cuống Chung”=(lướt)=Cung. Nên người Việt viết chữ Nhục 肉 bằng chữ Cung bên trong có hai chữ Nhân tức là của hai mẹ con cùng chung nhau. Khi đã ra đời thì dù là anh hay chị hay em thì cũng cùng với các trẻ khác là bà con trong Bản Làng đều là Bạn Bè , vì cùng là đồng bào. Người Việt lấy hai chữ Nhục 肉肉ghép lại với nhau thành chữ Bạn Bè, Bạn Bè thì Bằng lòng với nhau nên sau viết đẹp lại thành một chữ Bằng 朋. Những chữ viết bằng các Kẻ thẳng người Việt viết xếp trong một ô vuông cho đẹp, gọi là Vuông Chữ Nho Nhỏ. Người Việt lại hay nói vo, nên dần dần vo rụng Vuông đầu và Nhỏ cuối thành còn Chữ Nho, nên thứ chữ vuông ấy gọi là Chữ Nho. Đây là việc cách nay 5000 năm. Lúc đó người Hán còn du mục lang thang trên đồng cỏ. Họ chưa có chữ viết. Gặp gỡ người Việt, thấy người Việt làm ruộng, làm ra vải vóc và nhiều đồ trang sức đẹp , lại có chữ nho cũng đẹp, nên họ xin kết bạn, họ mượn chữ nho của người Việt để dùng. Sống chụng với người Việt họ hiểu rằng Bạn Bè thì phải hữu nghị với nhau. Nên về sau họ ghép thêm chữ Hữu vào sau chữ Bằng, và họ gọi Bạn Bè là Bằng Hữu. Nếu có người Việt nào nói với các con rằng, những chữ Sơn, Nhân, Dân, Đồng , Công , Cộng , Cống , Chung, Thể , Thân, Thục, Nhục, Bàn, Bằng, Bình, Đẳng v.v. là từ Hán Việt thì đừng có tin. Những người ấy chẳng qua là đã quên mất gốc Việt.4 likes -
Xem Tiểu Hạn Và Nghiệm Lý
Lãng Tử and 3 others liked a post in a topic by haithienha
Tôi chỉ xem lưu đại tiểu hạn cho cháu năm nay thôi ,kèm những lời cháu nói lại thấy khá trùng hợp , năm 2009 lưu mã tại hợi + đà ,năm nay lưu mã +tuyệt + mã cố định ,nhưng sự rắc rối nầy có thể nhẹ nhàng hơn năm trước đó vì tiểu hạn và đạihạn cũng tốt .Trường hợp đại và tiểu hạn hoán đổi cho nhau thì sự việc năm trước đó và năm nầy có thể trùng nhau hay hao hao giống nhau ,cách quyết đoán còn dựa vào cửu phi tinh năm đó nữa ;thí dụ ,cháu muốn xem về sự di chuyển thì chú ý đến con Mã ,nếu muốn biết chuyện buồn tang tóc bệnh đau thì chú ý đến bộ tang- hổ, khốc- hư , tai nạn thì xem bộ kình-đà , tài lộc thì chú ý lộc tồn ,ngoài ra đặc biệt quan tâm đến lưu thái đó của năm đó ,kết hợp với tiểu và lưu đại hạn mới dự đoán chuyện gì sẽ xảy ra .4 likes -
======================================== Động đất 6,8 độ Richter ngoài khơi Papua New Guinea 01/08/2011 9:58 (TNO) Một trận động đất mạnh 6,8 độ Richter vừa xảy ra sáng nay (1.8) tại quốc gia Thái Bình Dương Papua New Guinea. Một cảnh báo sóng thần đã được đưa ra và hiện chưa có báo cáo về thương vong, theo AFP. Theo Cơ quan Khảo sát địa chất Mỹ, tâm chấn trận động đất ở độ sâu 16 km, ngoài khơi cách thành phố Wewak ở miền bắc Papua New Guinea khoảng 131 km về phía đông. Trung tâm Cảnh báo sóng thần Thái Bình Dương cho biết, trận động đất này có thể tạo nên đợt sóng thần quy mô nhỏ, gây thiệt hại cho các khu vực ven biển trong bán kính 100 km từ tâm chấn. Trong khi đó, theo Cơ quan nghiên cứu động đất của Úc thì cường độ của trận động đất ở mức 6,6 độ Richter, xảy ra vào lúc 9 giờ 38 phút sáng 1.8 (giờ Úc, tức 6 giờ 38 phút cùng ngày theo giờ VN), và nó chỉ gây thiệt hại trong bán kính khoảng 67 km từ tâm chấn. Được biết, Papua New Guinea nằm trên vành đai lửa Thái Bình Dương, nơi thường xảy ra động đất và núi lửa phun trào. Hồi năm 1997, một trận động đất mạnh kéo theo cơn sóng thần kinh hoàng cũng đã giết chết hơn 3.500 người tại khu vực tây bắc của nước này. Tiến Dũng ========================================Thiên Đồng đoán chính xác động đất xảy ra ở Alaska và trận này: Xảy ra vào đúng hạn chót của thời gian dự báo: 1. 8. 2011. Như vậy, tôi xác nhận rằng Thiên Đồng và Thanh Phúc đoán khá chuẩn về động đất. Nhược điểm của Thanh phúc là cách diễn đạt. Nhược điểm của Thiên Đồng là còn chưa bao quát hết những vùng có khả năng động đất. Khả năng của anh em cho thấy một thực tế khách quan và cũng là câu trả lời cho những nhà khoa học còn hoài nghi về khả năng dự đoán động đất của Lý học Đông phương khi chúng ta dự đoán khá chính xác. Tôi chỉ là người đầu tiên khởi động, những anh em đều có khả năng dự đoán như vậy. Chung ta có quyền tự tin vào thuyết Âm Dương Ngũ hành chính là lý thuyết thống nhất mà nhân loại đang tìm kiếm, khi nó thể hiện những khả năng mà ngay những nhà khoa học đầu ngành còn phải hoài nghi. Nhưng tôi đề nghị anh chị em sau này khi đoán về thiên tai nên luôn trừ Việt Nam ra. Mặc dù điều này có vẻ rất chủ quan, nhưng nó có lý của nó. Tôi sẽ biện minh sau.3 likes
-
Hậu Quả Của Em Ra Sao ?
hajiwon and one other liked a post in a topic by Quốc Tuấn
Chào anh hai son thân mến! Tôi cũng giống như anh, vẫn còn thắc mắc và nhiều hồ nghi về những sự thay đổi. Vì cách an trong các sách và diễn đàn có những điểm không trùng khớp với nhau, thấy cũng có trường hợp đúng và không đúng, và còn nhiều vấn đề khác nữa. Tôi đề nghị chúng ta cùng nhau luận giải các lá số tiếp theo trong diễn đàn dựa vào 2 cách an sao khác nhau, để đương số kiểm chứng xác nhận lại xem cách an nào là chính xác như vậy được không anh? Tôi đồng ý với ý kiến của anh, mọi người đều có quyền phản biện và đưa ra ý kiến của mình để tranh luận cùng tìm ra chân lý. Vậy từ nay cứ mỗi một lá số đã xác định đúng giờ sinh chúng ta cùng nhau mổ xẻ vấn đề nhé, được không anh? Rất mong được anh chỉ dạy cùng nghiên cứu trao đổi, kính chúc anh sức khỏe!2 likes -
Chữ Vũ
BabyWolf liked a post in a topic by Lãn Miên
Chữ Vũ 武 Lang thang trên mạng đọc được bài: 发表时间: 2011-07-08 17:11:31 [ 发短信 ] [ 回复 ] [ 树状 ] 据7月2日出版的《环球时报》. Nội dung: Hoàn cầu thời báo 08-07-2011: Bắc Kinh còn đợi đến lúc nào lau sáng gươm, Trung Quốc phải thông qua một cuộc chiến tranh để thu hồi Biển đông. Gần đây Việt Nam , philiplin liên tục khiêu chiến ở Biển Đông, nước Mỹ cũng nhào vào quạt gió châm lửa thừa cơ để cướp, thế cục nóng lên cấp tốc. Trước tình cảnh này Trung Quốc không thể khoanh tay, phải tuốt kiếm ra với Biển Đông, có biện pháp ứng đối hữu hiệu thực tế. Từ lâu nay TQ một mực thi hành chính sách ngoại giao hòa bình, nhưng lại bị hòa bình trói tay, biến thành khất cầu hòa bình hoặc một mình tình nguyện hy vọng các nước thi hành hòa bình, đây quả là hành mà không thông. Ví dụ TQ trường kỳ khất cầu hòa bình từ Nhật, thậm chí bỏ qua cả đòi bồi thường chiến tranh, nhưng Nhật lại không hề cảm ơn mà lại còn tăng cường hành động xâm chiếm đảo Điếu Ngư của TQ. Vấn đề Biển Đông là thế này, TQ hy vọng tất cả các nước “gác lại tranh chấp, cùng chung khai thác”, nhưng lại quên béng nguyên tắc (đầu tiên) là “chủ quyền thuộc tôi”( phương châm của Đặng Tiểu Bình). Đưa mắt mà nhìn Việt Nam. Philiplin và các nước đang rút ruột biết bao nhiêu là dầu và khí đốt từ Biển Đông, thật không thể nhịn được! Mặt khác, một số truyền thông của TQ thì lại mù quáng lạc quan, luôn luôn tuyên truyền “ quốc lực tổng hợp của nước ta không ngừng tăng lên”, trong khi đó những sự kiện tàn khốc như tàu chiến TQ và Mỹ đụng độ nhau,đại sứ quán TQ bị đánh bom… không ngừng xảy ra, đến những nước nhỏ như Việt Nam, Philipin cũng khinh thị hạ nhục TQ, vỗ tay ghẹo kẻ đang khất cầu hòa bình là TQ, thật không thể nhịn được nữa ! Biển Đông vốn là lãnh hải của TQ , căn bản không thể tồn tại cái gì gọi là “cùng chung khai thác”, nếu cho phép các nước khác “cùng chung khai thác” thì trước hết họ phải thừa nhận Biển Đông là lãnh hải của TQ. Gần đây TQ coi trọng phát triển kinh tế, một mực cầu ổn, coi nhẹ việc uy hiếp bằng sức mạnh quân sự, đó chính là một trong những nguyên nhân làm cho vấn đề Biển Đông càng ngày càng nâng cấp. Chúng ta phải nhớ lại bài học thời nhà Tống, thực lực kinh tế nhà Tống khi ấy là nhất thế giới, lực lượng khoa học kỹ thuật khi ấy cũng là không nước nào bì nổi ! Nhưng nhà Tống lại bị đánh đầu tiên, bị nhà Liêu và nhà Kim đánh cho chỉ còn cuốn giá mà về, nguyên nhân chỉ vì chính trị nhu nhược, không trọng thị bồi dưỡng thực lực quân sự vốn đã có. Bởi vậy ngày nay TQ ngoài việc phải ưu tiên quân lực, còn phải dám tuốt kiếm phát động một cuộc chiến tranh tất yếu. Trung Quốc phải biết rõ, đơn phương khất cầu hòa bình, đơn phương tầm cầu hữu nghị chính là bộ mặt bán nước ! Hòa bình không nhất định là cứ phải dùng thủ đoạn đàm phán hòa bình mà giành được, có lúc ngược lại cần phải mượn vũ lực để mà giành lấy hòa bình. Ví dụ: Chữ Hán của TQ có chữ Vũ 武 là do hai chữ Chỉ 止(dừng) và Qua 戈(cái dáo) cấu thành, biểu thị chỉ có dựa vào vũ lực mới có thể cuối cùng đình chỉ được chiến tranh, giành được hòa bình. Đây chính là chỗ kỳ diệu của văn tự TQ, đặc biệt là của văn hóa TQ. Vậy mà ngày nay chúng ta cứ một mực khất cầu hòa bình, quên mất giáo huấn của tổ tiên là vũ lực cuối cùng giành được hòa bình. Cùng với sự phát triển kinh tế của TQ, một bộ phận người TQ sống trong say sưa chết trong mộng mị, đắm chìm trong mê ảo vật dục ! Trung Quốc cũng cần phải có một cuộc chiến tranh để thức tỉnh huyết tính của quốc dân ! Nhân dân TQ là ôn lương cống kiệm mà thiện lương, nhưng thiện lương lại thường bị lợi dụng, cho nên người TQ cũng cần thiết chiến tranh để dụi cho sáng mắt, bỏ cái ảo tưởng thiện lương với các quốc gia khác, bởi vì đã là một quốc gia thì chẳng có mấy ai là thiện lương cả. Trung Quốc cần phải thông qua một cuộc chiến tranh để giành về cái chủ quyền và lợi ích ở Biển Đông, cho dù Mỹ có nhúng tay vào cũng không tiếc, chỉ cần có đại tinh thần không sợ, Trung Quốc mới có thể duy trì và bảo vệ chủ quyền, sau kết thúc chiến tranh TQ còn phải nên đòi Việt Nam, Philipin bồi thường vô điều kiện tổn thất kinh tế cho TQ, vì họ đã khai thác và bán đi lượng lớn đầu và khí thiên nhiên của Biển Đông của TQ, phải theo giá mà chiết toán, bồi thường không thiếu một giọt. Tôi đọc bài này mà mắc cười cho bọn nhóm lợi ích có đầu óc đại Hán hung hăng, bọn diều hâu khát dầu điên cuồng thành ra khát máu. Người viết bài ấy lại không hiểu chữ Vũ đến ngọn nguồn. Giải thích chữ Vũ 武 Chữ nho một chữ Vũ 武 này nhưng trong tiếng Việt thì Vũ và Võ là hai chữ khác nhau. Chữ Vũ 武 theo cuốn “Từ điển yếu tố Hán Việt thông dụng”- Viện ngôn ngũ học-NXB Khoa học xã hội-Hà Nội 1991 giải thích là: 1. Sức mạnh làm cho người khác phải nể sợ (vũ thuật, vũ lực, uy vũ) 2. Thuộc về quân sự (vũ khí, vũ trang) 3. Dũng mạnh (vũ phu) Những nghĩa trên chỉ là những nghĩa mà về sau được Hán ngữ dùng, khi nó đã thành từ hàn lâm rồi. Chữ Vũ 武, người Hán phát âm là “vủ” (wu), người Việt phát âm là “ Vũ”. Nghĩa nguyên thủy của nó là trong biểu ý của nó, vì nó là chữ cấu thành kiểu “hội ý”. Cấu tạo của nó gồm chữ Chỉ 止( dừng) và chữ Qua 戈 (dáo), phát âm tương ứng của người Hán là “trử”(zhi) và “cưa” (ge), phát âm tương ứng của người Việt là “Chỉ” và “Qua”, không hề có một chữ biểu âm nào (để có cách phát âm) thêm vào trong cấu tạo của nó, thế mà nó lại được đọc là Vũ. “Trử” với “Cưa” thì lấy đâu ra âm “Vủ”? Nhưng “Chỉ” và “Qua” thì có cho thấy ý. Âm “Chỉ” là do Giao Chỉ, âm “Qua” là cái Dáo bằng đồng là cái dáo kim loại đầu tiên trong lịch sử. Âm “Vũ” là do “Việt Cũ”=(lướt)= “Vũ”. Nguyên thủy chữ Vũ 武 này nghĩa là Giao Chỉ. Vì theo QT: Đứng=Đình=Đừng=Dừng=Giao=Giữa=Chứa=Chợ=Chỗ=Chỉ Dáo=Trao=Giao=Chào=Choa=Qua < “chúng ta”=(lướt)=” “choa” > Hai chữ ấy ghép lại với nhau là cảnh sinh hoạt ở chợ của người Giao Chỉ trao đổi khí cụ bằng đồng với kẻ thập phương đến đất Giữa. Nghĩa nguyên thủy của nó theo phát âm tiếng Kinh là “ Chợ bán dáo” (thời đồ đồng), các nhà nho gọi nó là chợ “Việt Cũ”=(lướt)= “Vũ”, về sau mới có từ Vũ Khí là chỉ cái khí cụ của người Việt cũ, rồi sau mới thành từ hàn lâm là “vũ khí”, “vũ trang”. Cái dáo bằng đồng ấy không phải là dùng để đâm nhau, nó chỉ là đồ trang sức cho trai tráng, người ta biểu diễn, chào nhau, trao nhau, đều coi nhau là chúng ta. Chợ là chỗ đứng, chỗ dừng, chỗ chứa của mọi người, là chỗ người ta đừng nghĩ gì khác ngoài trao đổi và vui chơi với nhau. Chợ là Chơi nên có Hội, trai tráng thi thố kỹ năng thể lực, gọi là “Việt Đọ”= "Vật Đọ”=(lướt)=Võ, trai ra Đọ gọi là Đô. Những chữ nho kiểu “hội ý” đều như vậy cả, không có biểu âm mà lại đọc được thành một âm chẳng liên quan gì đến âm của các chữ cấu thành nó, âm ấy lại chỉ đúng là âm tiếng Kinh. Ví dụ: Chữ Việt 越 mà tôi gọi là chữ Việt 越 đi (khi người Việt 越 đò qua Trường Giang khai phá vùng Hoàng Hà). Chữ Việt 越 gồm Tẩu 走, Cổn 丨và Qua 戈, Hán ngữ phát âm tương ứng “Yue 越”, “Zou 走”, “ Gun 丨”, “Ge 戈”. “Zou” và “Gun” với “Ge” làm sao lại đọc là “Yue” hay là “Việt” được?. Nhưng trong tiếng Việt thì chữ nho ấy có nghĩa là Nhảy Qua, Nhảy Qua tức là Vượt, mà Vượt=Việt. Nó là do QT: Ù=Vù=Việt=Vượt. Cổn=Cuồn-Cuộn (sóng nước). “Vù qua sông bằng cách dùng thuyền mà Lướt”=(lướt)= “Vượt”. Chạy=Nhảy=Nhanh=Nhẩu=Tẩu 走. Chữ Việt 粤 mà tôi gọi là chữ Việt 粤 ở (dân bản địa). Chữ Việt 粤 gồm bộ Thái 采, Hán ngữ phát âm là “xai” (Lửa=Lả=Tá=Thá=Thái=Chái=Cháy=Chói: là dân mặt trời), bộ Vi 囗 , Hán ngữ phát âm là “wei”, (“Vuông Li”= “Vi”), hình cái cày thêm dưới. Không có âm nào để nó thành “yue” như Hán ngữ đọc chữ Việt粤 ở. Nhưng vì là của tiếng Việt nên có QT: U=Ư 于=Ở=Vợ=Vu 于=Việt 粤 (người của dòng Mẹ = dòng Lửa = dòng Chim = dòng Tiên). Tiếp, U = Ư 于 = Ổ = Đỗ = Đậu 逗 = Đứng =Đình 停 = Đừng = Dừng = Giao 交 = =Giữ = Chứa = Chợ = Chỗ = Chỉ 止. Người Việt 粤 ở này cũng là người Giao Chỉ mà thôi. Vũ 武 cũng là Giao Chỉ. Việt 粤 cũng là Giao Chỉ. Vậy ông Hạ Vũ là ai ? Chữ Phong 封. Từ điển giải thích: 1. Ban cấp đất đai, bổng lộc 2. Tặng danh hiệu 3. Bịt kín, gói kín Nghĩa nguyên thủy của nó theo “hội ý” là gồm hai bộ Thổ 土 tức nhiều đất (vì theo QT: hai thành phần thì như 0+1=1=nhiều, hay 1+0=1 nhiều), bộ Thốn 寸(tấc) tức có đo đạc, Hán ngữ phát âm tương ứng “thủ 土”, “xun 寸” làm sao thành “phâng 封” được?. Vậy âm “Phong 封” là do tiếng Kinh, có nghĩa là Vùng, tiếng Choang thì Phong 封 cũng có nghĩa là Vùng (xem mạng zhuangzu zai xian 壮 族 在 线). Vì theo QT: “Phát cho nhiều đất trong cái Vòng”=(lướt)= “Phong” (giải thích xong 1 và 2 của Từ điển), vòng đây là cái vòng biên giới, và phải có đo đạc từng tấc đất (bộ Thốn 寸). “Phải ở bên Trong”=(lướt)= “Phong”, nghĩa là bịt kín, như phong bánh khảo (giải thích xong 3 của Từ điển). Tuy nhiên Từ điển thì cho rằng cứ chữ nào có viết băng chữ nho thì đó là “từ Hán Việt”. Từ chữ Phong 封 này thử hỏi Vua Chu từng phong đất để mở mang mãi ra phía bắc thành Bách Việt, ông Vua Chu ấy là người ở đâu ?1 like -
1 like
-
1 like
-
Đau đầu với nick huongngo và nick chungpham này quá!!! Huongngo ở nhà anh bạn người yêu cũ để làm gì vậy??? Sử dụng chung computer sao! <_<1 like
-
1 like
-
Chào NDK, với những câu đố dạng tổng quát như thế này thì mình cũng xin trả lời 1 cách tổng quát (mà cũng không trả lời chuyên sâu được, mới học LVĐT được 4 ngày, mỗi ngày 1 - 2 h giờ thôi). Giờ Thìn, ngày Kỉ Sửu, tháng Bính Thân Quẻ Khai Xích Khẩu, nội sinh ngoại, là người hay nói nhiều thích cãi lại người khác - miệng làm thân chịu, ưa nhiệt náo . Thường hay tự dùng lời nói để lăng xê bản thân, nhưng đôi lúc lăng xê hơi thái quá. (Kiểu đại khái như là có bằng xe máy nhưng lại khoe là bằng ô tô) Thuộc dạng người thấp, đầy đặn khoảng 1.64 - 1.68, cảm ở 1.65m Phổ tuổi từ 19 -24, cảm ở 24 tuổi. Đang làm gì: Làm gì có việc gì mà làm, nếu không muốn nói là đang ở nhà ăn bám bố mẹ (thất nghiệp). Huynh đệ thì kiểu xa nhau thì thương nhớ, sống gần nhau 1 thời gian là cãi nhau như mổ bò. Là người có tài nhưng sau này đi làm chỉ được giữ chức vụ nhỏ bé (nhân viên), nếu làm công ty người quen thì được lên chức phó là cùng. Phụ mẫu thì hơi khắc nhau, không được hạnh phúc cho lắm, kiểu ông nói 1 bà cãi 2 - không có lòng bao dung nhau. Đại ý là vậy, lính mới nên chắc sai nhiều, thực sự mà nói thì không có cảm hứng để luận. Lúc trước có học về lĩnh vực cơ khí hay sửa chữa máy móc? Nếu không có gì bí mật thì cho mọi người biết đáp án, mà NDK là advance member cơ mà Bài viết chỉ mang tính học hỏi kinh nghiệm. Cheer !1 like
-
chào bạn ! giờ- ngày -tháng - nãm sinh của bạn , như vậy là chính xác rồi ! tôi cũng đã tra lịch vạn niên, để kiểm chứng . chào bạn !1 like
-
Hai son than mến, ở trên mục chú ý của diễn đàn TM có trích và dẫn đường link vài cuốn sách của thầy nếu hai son có thời gian TM mong bạn đọc qua, để có đúng sai gì mong hai son góp ý, nếu có sai mong hai son chỉ rõ cho mọi người cùng hiểu, vì lý thuyết đang trong thời gian kiểm nghiệm. Chào mừng bạn đến với diễn đàn. Thân mến.@ hajiwon: Bạn sang mục tư vấn Phong Thủy nhé, để tránh làm loãng mục tử vi1 like
-
Sự tích rằm tháng bảy và xuất xứ của hai tiếng Vu Lan Rằm tháng 7 Âm lịch hàng năm là ngày xá tội vong nhân, dân gian gọi một cách nôm na là ngày cúng cô hồn. Nhưng đây cũng còn là ngày báo hiếu mà giới tăng ni Phật tử gọi là ngày lễ Vu Lan. Vậy lễ này và lễ cúng cô hồn có phải là một hay không ? Và đâu là xuất xứ của hai tiếng " Vu Lan " ? Lễ Vu Lan bắt nguồn từ sự tích về lòng hiếu thảo của Ông Ma Ha Một Ðặc Già La, thường gọi là Ðại Mục Kiền Liên, gọi tắt là Mục Liên. Vốn là một tu sĩ khác đạo, về sau Mục Liên đã quy y và trở thành một đệ tử lớn của Phật, đạt được sáu phép thần thông rồi được liệt vào hạng thần thông đệ nhất trong hàng đệ tử của Phật. Sau khi đã chứng quả A La Hán, Mục Liên ngậm ngùi nhớ đến mẫu thân, bèn dùng huệ nhãn nhìn xuống các cõi khổ mà tìm thì thấy mẹ đã đọa vào kiếp ngạ quỷ (quỷ đói) nơi địa ngục A Tì. Thân hình tiều tụy, da bọc xương, bụng ỏng đầu to, cổ như cọng cỏ. Mẹ Mục Liên đói không được ăn, khát không được uống. Quá thương cảm xót xa, Mục Liên vận dụng phép thần thông, tức tốc đến chỗ mẹ. Tay bưng bát cơm dâng mẹ mà nước mắt lưng tròng. Mẹ Mục Liên vì đói khát lâu ngày nên giật vội bát cơm mà ăn. Tay trái bưng bát, tay phải bốc cơm nhưng chưa vào đến miệng thì cơm đã hóa thành lửa. Mục Liên đau đớn vô cùng, khóc than thảm thiết rồi trở về bạch chuyện với Ðức Phật để xin được chỉ dạy cách cứu mẹ. Phật cho Mục Liên biết vì nghiệp chướng của các kiếp trước mà mẹ ông mới phải sanh vào nơi ác đạo làm loài ngạ quỷ. Một mình Mục Liên thì vô phương cứu được mẹ dù ông có thần thông đến đâu và dù lòng hiếu thảo của ông có thấu đến đất trời, động đến thần thánh. Phải nhờ đến uy đức của chúng tăng khắp các nẻo đồng tâm hiệp ý cầu xin cứu rỗi cho mới được. Bởi vậy, Phật dạy Mục Liên phải thành kính đi rước chư tăng khắp mười phương về, đặc biệt là các vị đã chứng được bốn quả thánh hoặc đã đạt được sáu phép thần thông. Nhờ công đức cầu nguyện của các vị này, vong linh mẹ Mục Liên mới thoát khỏi khổ đạo. Phật lại dạy Mục Liên sắm đủ các món để dâng cúng các vị ấy, nào là thức thức thời trân, hương dâu đèn nến, giường chõng chiếu gối, chăn màn quần áo, thau rửa mặt, khăn lau tay cùng các món nhật dụng khác. Ðúng vào ngày rằm tháng 7 thì lập trai đàn để cầu nguyện, thiết trai diên để mời chư tăng thọ thực. Trước khi thọ thực, các vị này sẽ tuân theo lời dạy của Ðức Phật mà chú tâm cầu nguyện cho cha mẹ và ông bà bảy đời của thí chủ được siêu thoát. Mục Liên làm đúng như lời Phật dạy. Quả nhiên vong mẫu của ông được thoát khỏi kiếp ngạ quỷ mà sanh về cảnh giới lành. Cách thức cúng dường để cầu siêu đó gọi là Vu Lan bồn pháp, lễ cúng đó gọi là Vu Lan bồn hội, còn bộ kinh ghi chép sự tích trên đây thì gọi là Vu Lan bồn kinh. Ngày rằm tháng 7 do đó được gọi là ngày lễ Vu Lan. Vậy lễ này có phải cũng là lễ cúng cô hồn hay không ? Không ! Ðây là hai lễ cúng khác nhau được cử hành trong cùng một ngày. Sự tích lễ cúng cô hồn đại khái như sau : Cứ theo "Phật Thuyết Cứu Bạt Diệm Khẩu Ngạ Quỷ Ðà La Ni Kinh" mà suy thì việc cúng cô hồn có liên quan đến câu chuyện giữa ông A Nan Ðà, thường gọi tắt là A Nan, với một con quỷ miệng lửa (diệm khẩu) cũng gọi là quỷ mặt cháy (diệm nhiên). Có một buổi tối, A Nan đang ngồi trong tịnh thất thì thấy một con ngạ quỷ thân thể khô gầy, cổ nhỏ mà dài, miệng nhả ra lửa bước vào. Quỷ cho biết rằng ba ngày sau A Nan sẽ chết và sẽ luân hồi vào cõi ngạ quỷ miệng lửa mặt cháy như nó. A Nan sợ quá, bèn nhờ quỷ bày cho phương cách tránh khỏi khổ đồ. Quỷ đói nói : " Ngày mai ông phải thí cho bọn ngạ quỷ chúng tôi mỗi đứa một hộc thức ăn, lại vì tôi mà cúng dường Tam Bảo thì ông sẽ được tăng thọ mà tôi đây cũng sẽ được sanh về cõi trên ". A Nan đem chuyện bạch với Ðức Phật. Phật bèn đặt cho bài chú gọi Là "Cứu Bạt Diệm Khẩu Ngạ Quỷ Ðà La Ni", đem tụng trong lễ cúng để được thêm phước. Phật tử Trung Hoa gọi lễ cúng này là Phóng diệm khẩu, tức là cúng để bố thí và cầu nguyện cho loài quỷ đói miệng lửa, nhưng dân gian thì hiểu rộng ra và trại đi thành cúng cô hồn, tức là cúng thí cho những vong hồn vật vờ không nơi nương tựa vì không có ai là thân nhân trên trần gian cúng bái. Vì tục cúng cô hồn bắt nguồn từ sự tích này, cho nên ngày nay người ta vẫn còn nói cúng cô hồn là Phóng diệm khẩu. Có khi còn nói tắt thành Diệm khẩu nữa. Diệm khẩu, từ cái nghĩa gốc là (quỷ) miệng lửa, nay lại có nghĩa là cúng cô hồn. Ðiều này góp phần xác nhận nguồn gốc của lễ cúng cô hồn mà chúng tôi đã trình bày trên đây. Phóng diệm khẩu mà nghĩa gốc là " thả quỷ miệng lửa ", về sau lại được hiểu rộng thêm một lần nữa thành " tha tội cho tất cả những người chết ". Vì vậy, ngày nay mới có câu : " Tháng bảy ngày rằm xá tội vong nhân ". Vậy lễ Vu Lan và lễ cúng cô hồn là hai lễ cúng khác nhau. Một đằng thì liên quan đến chuyện ông Mục Liên, một đằng lại liên quan đến chuyện ông A Nan. Một đằng là để cầu siêu cho cha mẹ và ông bà bảy đời, một đằng là để bố thí cho những vong hồn không ai thờ cúng. Một đằng là báo hiếu, một đằng là làm phước. Sự khác nhau giữa hai bên là hiển nhiên, nhưng nhiều người vẫn cứ lẫn lộn. Chẳng hạn trước đây, ông Thái văn Kiểm cho rằng lễ Vu Lan và lễ (xá tội) vong nhân (fête des Trépassés) là một. Còn lễ cúng cô hồn (fête des âmes errantes) và lễ xá tội vong nhân (Pardon des Trépassés) chính là một thì ông lại xem là hai (X. Les fêtes traditionnelles Vietnamiennes, B.S.E.I., t. XXXVI, no1, 1961, pp. 64-65). Mới đây, hai tác giả Thích Minh Châu và Minh Chi cho rằng lễ Vu Lan là để cầu nguyện cho vong hồn những người đã chết (Chúng tôi nhấn mạnh - HT) không còn phải đọa cảnh khổ nữa (Từ điển Phật học Việt Nam, Hà Nội, 1991, tr. 795, mục Vu Lan bồn). Nhưng đây không phải là " những người đã chết " nói chung vì như đã biết, đó chỉ là cha mẹ cùng với ông bà bảy đời mà thôi. Trở lên là nói về sự khác nhau giữa lễ cúng cô hồn với lễ báo hiếu, thường gọi là lễ Vu Lan. Vu Lan là dạng tắt của Vu Lan bồn. Nhưng Vu Lan bồn là gì ? Sau đây là lời giảng của Thích Minh Châu và Minh Chi : " Bồn là cái chậu đựng thức ăn. Cái chậu đựng thức ăn đem cúng dường chư tăng vào ngày rằm tháng 7 để cầu nguyện cho vong hồn những người đã chết không còn phải đọa cảnh khổ nữa. Vu Lan dịch âm từ chữ Sanscrit Ullabana, là cứu nạn treo ngược. Những người làm nhiều điều ác đức, sau khi chết, phải thác sinh xuống những cõi sống rất khổ gọi là địa ngục. Ở đây có một khổ hình là bị treo ngược (Sđd, tr. 795). Chúng tôi sẽ dựa vào lời giảng này mà tìm hiểu về xuất xứ của mấy tiếng " Vu Lan " và " Vu Lan bồn ". Lời giảng này có bốn điểm sai mà điểm sai thứ nhất thì chúng tôi vừa mới chỉ ra ở những dòng cuối của đoạn trên. Sau đây là điểm sai thứ hai : Nói bồn là cái chậu đựng thức ăn thì không đúng vì bồn chỉ là một yếu tố phiên âm (sẽ phân tích rõ ở phần sau) mà thôi. Nói rằng đó là " cái chậu đựng thức ăn đem cúng dường chư tăng vào ngày rằm tháng 7 " thì lại sai theo một kiểu khác nữa. Chậu là " đồ dùng thường làm bằng sành sứ hoặc kim loại, miệng rộng, lòng nông, dùng để đựng nước rửa ráy, tắm giặt hoặc để trồng cây v.v..." (Từ điển tiếng Việt 1992). Vậy đựng thức ăn trong loại đồ dùng đó mà dâng lên cho chư tăng thọ thực là một hành động hoàn toàn thất nghi và thất lễ. Thật ra, Phật đã dạy Mục Liên như sau : Phải toan sắm sửa chớ chầy Ðồ ăn trăm món trái cây năm màu Lại phải sắm giường nằm nệm lót Cùng thau, bồn, đèn đuốc, nhang dầu Món ăn tinh sạch báu mầu Ðựng trong bình bát vọng cầu kính dâng (Diễn ca kinh Vu Lan bồn) Thau, bồn (chậu) chỉ là những thứ phải dâng cho chư tăng trong dịp Vu Lan để dùng trong việc rửa ráy, tắm giặt ... mà thôi. Còn thức ăn thì phải " tinh sạch báu mầu, đựng trong bình bát " đàng hoàng lịch sự, chứ có đâu lại đựng trong chậu. Thật ra, trước Thích Minh Châu và Minh Chi, cũng có những học giả đã giảng như trên, chẳng hạn Ðoàn Trung Còn trong bộ từ điển lớn về Phật học hoặc Toan Ánh trong bộ sách dày về nếp cũ. Ðây là một cách giảng lệ thuộc vào cái sai của sách vở Trung Hoa. Từ Nguyên chẳng hạn, đã giảng về mấy tiếng Vu Lan bồn như sau : " Nói lấy chậu đựng trăm thức để cúng dường chư Phật " (Vị dĩ bồn trữ bách vị cung dưỡng chư Phật). Ðiểm sai thứ ba là đã theo cái sai của những người đi trước mà giảng Vu Lan thành " cứu nạn treo ngược", vì thấy từ điển Trung Hoa giảng Vu Lan bồn là " cứu đảo huyền ". Thật ra, khi Từ Nguyên chẳng hạn, giảng Vu Lan bồn thành " cứu đảo huyền " là đã mượn hai tiếng "đảo huyền " trong sách Mạnh Tử. Trong sách này, có cú đoạn " Dân chi duyệt chi do Giải đảo huyền dã" nghĩa là "như giải thoát khỏi sự khốn khổ tột cùng vậy ". Chính Từ Nguyên cũng đã giảng " đảo huyền " là sự khốn khổ tột cùng (khốn khổ chi thậm). Vậy " cứu đảo huyền " không phải là " cứu nạn treo ngược " mà lại là " giải thoát khỏi sự khốn khổ tột cùng ". Hai tiếng " đảo huyền " ở đây không còn được hiểu theo nghĩa đen nữa. Nghĩa của chúng ở đây cũng giống như nghĩa của chúng trong thành ngữ " đảo huyền chi tế " là tình cảnh khốn khó, chứ không phải là " cảnh bị treo ngược ". Ðiểm sai thứ tư là ở chỗ nói rằng danh từ Sanscrit "Ullabana " có nghĩa là " cứu nạn treo ngược ". Trước nhất, cần nói rằng từ Sanscrit này đã bị viết sai. Vậy không biết ở đây hai tác giả muốn nói đến danh từ Sanscrit nào, nhưng cứ theo dạng sai chính tả đã thấy thì có thể luận ra rằng đó là một trong hai từ sau đây : Ullambana hoặc Ullambhana. Ở đây, xin phân tích từ thứ nhất: Ullambana gồm có ba hình vị : ud (trở thành ul do quy tắc biến âm samdhi khi d đứng trước l) là một tiền tố, thường gọi là tiền động từ (préverbe) chỉ sự vận động từ dưới lên, lamb là căn tố động từ có nghĩa là treo và ana là hậu tố chỉ hành động. Vậy Ullambana có nghĩa là sự treo lên. Nhưng tất cả chỉ có như thế mà thôi ! Từ Sanscrit này không hề diễn đạt cái ý treo ngược hoặc treo xuôi gì cả. Nó lại càng không thể có nghĩa là "cứu nạn treo ngược" được.. Trở lên, chúng tôi đã nêu ra những điểm sai trong lời giảng của Thích Minh Châu và Minh Chi về hai tiếng "Vu Lan". Vậy đâu là xuất xứ và ý nghĩa đích thực của hai tiếng này ? Trước nhất, Vu Lan là dạng nói tắt của "Vu Lan bồn". Ðây là ba tiếng đã được dùng để phiên âm danh từ Sanscrit Ullambhana. Từ này thoạt đầu đã được phiên âm bằng bốn tiếng Hán đọc theo âm Hán Việt là Ôlambàna. Dạng phiên âm cổ xưa này đã được Từ Hải khẳng định. Về sau, Ôlambàna được thay thế bằng dạng phiên âm mới là "Vu Lan bồn", trong đó Vu thay thế cho Ô, lan cho lam và bồn cho bà + n (a). Vì "Vu Lan bồn" chỉ là ba tiếng dùng để phiên âm, cho nên từng tiếng một (Vu, Lan, bồn) hoàn toàn không có nghĩa gì trong Hán ngữ cả. Do đó, tách bồn ra mà giảng thành "cái chậu đựng thức ăn" như hai tác giả Thích Minh Châu và Minh Chi đã làm là hoàn toàn không đúng. Ullambhana có nghĩa là sự giải thoát. Danh từ Sanscrit này có ba hình vị: Tiền tố ud (trở thành ul vì lý do đã nói), căn tố động từ lambh và hậu tố ana. Xin nói rõ về từng hình vị : Không giống như trong Ullambana, ở đó nó chỉ sự vận động từ dưới lên. Trong Ullambhana, tiền tố ud chỉ ý phủ định hoặc đối lập, thí dụ : chad (che, bọc, phủ), dv (đối với), uc-chad (cởi quần áo), khan (chôn), đv ut-khan (moi lên), gam (đi), đv ud-gam (đi ra), nah (trói, buộc), đv un-nah (cởi trói) v.v... Trong những thí dụ trên, ud trở thành uc, ut, un do quy tắc biến âm samdhi. Còn các căn tố động từ thì được ghi bằng chữ in hoa theo truyền thống khi chúng được tách riêng. Căn tố động từ lambh là hình thái luân phiên với labh, có nghĩa là lấy, chiếm lấy, nắm bắt ... Vậy Ul-lambh có nghĩa là giải thoát. Hậu tố ana chỉ hành động có liên quan đến ý nghĩa mà tiền tố và căn tố động từ diễn đạt. Vậy Ullambhana có nghĩa là sự giải thoát. Ullambhana được phiên âm sang Hán ngữ bằng ba tiếng dọc theo âm Hán Việt là " Vu Lan bồn ". Vu Lan bồn được nói tắt thành Vu Lan. Vậy Vu Lan là sự giải thoát. Xuất xứ của nó là danh từ Sanscrit Ullambhana. Ðây là từ thứ hai trong hai từ mà chúng tôi đã suy đoán ở trên. Trong cấu tạo của từ này, tuyệt nhiên cũng không có một thành tố nào mà về ngữ nghĩa lại có liên quan đến hiện tượng " treo ngược " cả. Trở lên, dù sao cũng chỉ là ý kiến thô thiển của một cá nhân. Ðúng hay sai, xin được sự thẩm xét của các nhà chuyên môn, trước nhất là các nhà Phật học và các nhà Phạn học. An Chi (Huệ Thiên) (daitangkinhvietnam.org)1 like
-
VU LAN MÙA BÁO HIẾU Hỏi: Lễ Vu Lan xuất xứ thừ kinh nào? Đáp: Lễ Vu Lan xuất xứ từ kinh Pháp Thuyết Vu Lan Bồn. Theo kinh này Phật có dạy Mục Kiền Liên rằng: “Là đệ tử của Phật tu hành đạo hiếu thảo, các con thường nhớ nghĩ cúng dường cha mẹ mình. Hàng năm nhằm ngày rằm tháng bảy các con phải sinh lòng hiếu thảo đối với cha mẹ đời này cũng như cha mẹ trong bảy đời quá khứ mà cử hành pháp hội Vu-Lan, cúng dường chư Phật và chư Tăng để báo đáp ân đức mà cha mẹ mình đã nuôi dưỡng mình”. Ngày Mục Kiền Liên vâng theo lời Phật, thiết trai cúng dường mười phương tăng chúng, hồi hướng công đức về cho mẹ mình ở dưới địa ngục, khiến bà được thoát thân ngạ quỷ, vãng sinh tịnh độ. Hỏi: Ý nghĩa của chữ Vu Lan Bồn là gì? Đáp: Vu Lan Bồn là dịch âm từ chữ Phạn Ullambana. Ý dịch là cứu đảo huyền. Theo ngài Tông Mật, Vu Lan nghĩa là đảo huyền, ám chỉ cực mình bị treo (huyền) ngược (đảo) của chúng sinh trong địa ngục. Bồn tức là cái chậu, cái thau, tượng trưng cho vật cứu hộ những chúng sinh ấy. Do đó cách dịch thông thường của lễ Vu Lan là lễ “cứu đảo huyền, giải thống khổ” (Vu Lan Bồn Kinh Sớ quyển hạ). Hỏi: Làm sao cứu độ chúng sinh, cửu huyền thất tổ trong hạ giới? Đáp: Kinh kể lại rằng ngài Mục Kiền Liên dùng sức mạnh thần thông của cá nhân mình để thử cứu mẹ mình ở địa ngục mà thất bại. Do đó, muốn cứu độ chúng sinh trong cõi địa ngục, ngạ quỷ, mình cần phải nhờ tới đạo lực của tập thể chư Tăng, những vị chân thực tu hành. Xưa kia, vào rằm tháng tư, đức Phật và chư Tăng kiết hạ, (nghĩa là an trụ một chỗ để tu hành, không ra ngoài khất thực để tránh phải dẫm lên côn trùng sâu bọ sinh sản đầy dẫy vào mùa mưa). Rằm tháng bảy, là ngày cuối cùng của mùa hạ, Phật và chư Tăng tề tựu để tụng giới, thuyết pháp. Bấy giờ chư Tăng sẽ dùng đạo lực thanh tịnh của mình để hồi hướng về chúng sinh đang chịu thống khổ trong cõi dưới. Hỏi: Trong lễ Vu Lan phải cúng dường ra sao? Đáp: Theo như Phật dạy, những ai muốn báo hiếu cho cha mẹ bảy đời thì phải đem thượng vị ẩm thực an trí nơi một cái chậu (hay đồ đựng) để cúng dường chư Tăng trong mười phương. Sở dĩ dùng chậu hay đồ đựng có dung tích lớn là muốn ám chỉ rằng tất cả đồ cúng dường là dành cho tập thể Tăng đoàn chớ không dành riêng cho vị Tăng đặc biệt nào. Tất cả đồ vật cúng dường ấy sẽ được phân phối đồng đều cho tất cả Tăng Ni. Hỏi: Lễ Vu Lan mỗi quốc gia, mỗi địa phương đều tổ chức khác nhau, như vậy tổ chức thế nào thì tương đối phù hợp với tinh thần chánh pháp Phật dạy? Đáp: Vua Võ Đế vào năm Đại Đồng thứ tư (538 AD) đã từng tới chùa Đồng Thái để làm lễ trai Tăng, cúng dường. Sau rồi mỗi năm, trở thành thông lệ, các vua Hoàng Đế đều coi trọng lễ Vu Lan. Đời Đường, vua Đại Tông còn tổ chức cực kỳ long trọng, bằng cách cho thỉnh Tăng Ni, thiết bồn cúng dường ở trong hoàn cung. Về sau truyền thống phổ cập khắp nhân gian, nhiều màu mè sắc thái thế tục (như đốt vàng bạc, tiền giấy, cúng kiếng…), cũng như những phong tục nhân gian (đàn ca múa hát) được thêm vào, hoàn toàn không phải chân lý Phật dạy. Sau này vào đời nhà Thanh, có nhiều Tăng chủ trương làm lễ cung phụng Vu Lan Bồn, cúng dường Tam Bảo vào ban ngày, còn ban tối thì cúng cô hồn, siêu độ quỷ đói. Đối với người tại gia, tinh thần căn bản nhất mà lễ Vu Lan nhằm biểu hiện, nằm ở trong ba phương diện: 1. Trên phương diện căn bản làm người, thì lễ Vu Lan là cơ hội làm ta phản tỉnh: khiến mình biết hiếu thảo với cha mẹ còn sống và biết bổn phận phải giải cứu cha mẹ bảy đời xưa kia cũng như giải cứu tất cả ngạ quỷ, địa ngục chúng sinh. 2. Trên phương diện tu phước tu huệ, thì lễ Vu Lan là cơ hội để ta tu tâm chân thành: mình phải biết cung kính cúng dường chư Tăng, phụng sự Tam Bảo. 3. Trên phương diện giải thoát, thì lễ Vu lan là cơ hội để ta tu tâm đại bi: mình phải thấy sự thống khổ của mọi chúng sinh như là của chính mình. Bởi vì nội dung siêu độ vong linh là một công việc rất trang trọng, nghiêm túc. Do đó mọi sắc thái tiêu khiển, hướng ngoại đều không đem đến lợi ích chân thật và chắc hẳn sẽ không đem lại công đức, nếu không muốn nói là sẽ gieo trồng nhân khổ cho mai sau. Trích Báo Bồ Đề Hải, tháng 8/1997 HT Tuyên Hóa1 like
-
Để longphi đoán thử sư huynh NDK nha: người vừa, hơi nóng tính, không mập, không ốm lắm, cao khoảng 1.69m. nặng khoảng 55kg -57kg. Làm nghề liên quan đến kim khí về máy móc có liên quan đến thủy lợi: cấp thoát nước (có thể là kangaru - máy lọc nước hàng đầu việt nam)... => kỹ sư cơ khí? sư huynh phản hồi e biết đúng bao nhiêu % nha. Thanks sh.1 like
-
Thích hợp với công việc nhà nước nghề y hay nghề giáo, làm giao dịch viên ngân hàng cũng được, nhưng chức vụ nhỏ thấp. Lúc đứng tuổi mới có danh chức, công việc hay được nâng đỡ, nên đi về kinh doanh buôn bán thì tốt hơn. Hy vọng tháng 8 có ông chú bác nào xin giúp cho được. cũng còn lận đận đến ngoài 30t, đã có lúc nào trong đời bạn thích xa lánh đời đi tu chưa?1 like
-
====================================Trong Lý học thì không thể có cả hai ý kiến mâu thuẫn nhau ở cùng một hệ thống lý thuyết mà cả hai đếu đúng. Tôi đã xác định qua sự thách đố của viện nghiên cứu liên quan đến động đất (Tạm thời tôi quên tên) khi họ thách tôi dự báo động đất ở Việt Năm là: Sẽ không có động đất lớn hơn 4 độ richte từ nay đến cuối năm. Tính từ ngày tôi đoán cho đến hết 30. 12 Tân Mão Việt lịch - Mà cũng chỉ là ảnh hưởng của những trận động đất của các vùng lãnh thổ liên quan. Bởi vậy nếu tôi đúng thì Thiên Đồng sai và ngược lại cho những trận động đất trên 4 độ richter ở Việt Nạm. Nhưng với vòng tròn xác định của Thiên Đồng thì động đất ở Tứ Xuyên, Đài Loan, Phi luật Tân , Indo thì vẫn khả thi.1 like
-
không phải hợp hay không hợp với cha mẹ mà ại vì mệnh vô chính diệu khong có cát tinh phù trợ thêm sao dưỡng ,nên cho người khác nhận làm con nuôi hay nhờ người khác đặt cho cái tên rồi dùng tên đó mà gọi .1 like
-
1 like
-
Tại không biết thì thấy nó lạ. Chứ biết rồi thì thấy nó chẳng là cái gì cả. Cũng như longphibaccai khi chưa học xong phong thủy thì thấy không hiểu tại sao đặt cái bể cá chỗ này mà nhà đó tài lộc lại vương lên. Khi học rồi thì lại thấy chuyện nhỏ như con thỏ. Để xem Thiên Đồng đoán vài vụ nữa xem thế nào. Nếu hay thì mới gọi là dự đoán chiên ngập - chuyên nghiệp. Anh em chịu khó ngâm cứu các bài viết liên quan đến LVDT từ trước đến nay từ từ sẽ hiểu.1 like
-
Để trả lời câu hỏi của bạn phải cần cả cuốn sách dầy đấy! Bé thứ 2 sinh năm 2016 hoặc 2017 là tốt rồi! Xem tuổi chỉ là 1 trong những yếu tố thôi, bạn nên xem thêm phong thủy nữa! Thân mến1 like
-
Ví dụ để tham khảo. Ví dụ 27 (trong cuốn "Giải Mã Tứ Trụ"): Năm 2007 là năm Đinh Hợi thuộc đại vận Tân Mão, tiểu vận Đinh Dậu và Mậu Tuất. 1 - Mệnh này Thân nhược, quan sát Mộc là kỵ 1 nên dụng thần đầu tiên lấy kiêu ấn nhưng trong tứ trụ không có nên phải lấy dụng thần thứ 2 là tỷ kiếp Mậu ở trụ tháng. 2 – Trong tứ trụ có bán hợp của Dậu với Sửu không hóa nhưng nó bị phá tan bởi trụ năm Ất Mão TKĐX với trụ ngày Kỷ Dậu. Vào đại vận Tân Mão và năm Đinh Hợi có tam hội Hợi Tý Sửu không hóa. 3 - Trụ năm Ất Mão TKĐX với trụ ngày Kỷ Dậu có 0,38đh (vì Ất chỉ vượng ở đại vận). Nếu sử dụng giả thiết 160a/27 thì tiểu vận Đinh Dậu TKĐX với đại vận Tân Mão chỉ có 1đh (vì Đinh vượng ở tiểu vận và tiểu vận TKĐX với đại vận). Có 4 trụ TKĐX với nhau nên có thêm 0,3đh. 4 - Dụng thần Mậu tử tuyệt ở lưu niên có 1đh. 5 - Nhật can Kỷ nhược (thai) ở lưu niên có 0đh. 6 – Đinh tiểu vận vượng tại tiểu vận nên khắc Tân đại vận có 1đh. Tân đại vận vượng ở lưu niên có 0,5đh nhưng bị Đinh khắc mất hết. 2 Ất trong tứ trụ thất lệnh chỉ vượng ở đại vận, vì vậy mỗi Ất có 0,5đh can (Ất động vì nó bị Tân khắc). Mão đại vận khắc Dậu tiểu vận có 0,15đh và Dậu trụ ngày có 0,3đh. Mão trụ năm khắc Dậu trụ ngày có 0,15đh (vì cách 1 ngôi). Dậu tiểu vận có 1 cát thần có -0,13đh và 1 hung thần có 0,13đh. Mão đại vận có 1 Không Vong có 0,25đh. 7 – Sét trụ tháng có Mậu chỉ vượng ở đại vận nên khắc được Đất dịch chuyển trụ ngày và đất mái nhà lưu niên có 0,75đh. Tổng số là 6,28đh. Tam hội cục ngoài tứ trụ có ít nhất 2 chi của nó ở trong tứ trụ khác nhau thì tổng điểm hạn được giảm 1đh còn 5,28. Số điểm này vẫn không thể chấp nhận được bởi vì không có tai họa nào trong tiểu vận Đinh Dậu, ngoại trừ vào tháng 2 năm 2007, chị ta phải mổ trĩ nhưng không phải nằm lại bệnh viện để điều trị. Nếu sử dụng giả thiết 254/27 thì 0,25đh của Không Vong bị mất hết (can cùng trụ của Không Vong bị khắc 1đh), vì vậy tổng số của các điểm hạn còn 5,03đh. Số điểm này cũng không thể chấp nhận được. Tại sao lại như vậy ? Bởi vì người này đã may mắn sống ở phương nam (so với nơi sinh của cô ta – sinh Bắc nhưng sống ở Sài Gòn) là phương của Hỏa mạnh, bạn bè và bà mẹ tuổi Bính, Đinh (sinh các năm có can là Bính hay Đinh) và cách giải cứu mà cô ta tự nghĩ ra là đeo sợi dây truyền có hình mặt trời (hay con ngựa - Ngọ) rực lửa ở giữa ngực. Do vậy điểm hạn có thể từ 5,03 giảm xuống dưới 4,4đh nên cô ta không phải nằm lại bệnh viện để điều trị (?). Đây là người đầu tiên (trên trang web “tuvilyso.com”, vào khoảng cuối tháng 12/2006) đã hỏi tôi qua p.m về cách giải cứu hạn của cô ta năm 2007. Các nguyên nhân chính gây ra hạn này là bởi các điểm hạn của nạp âm, TKĐX, Hỏa khắc Kim và Kim khắc Mộc. Do vậy ta phải dùng Hỏa để giải cứu vì Hỏa có thể xì hơi Mộc để sinh cho Thân (Thổ) và chế ngự Kim. Thân nhược, quan sát là kỵ 1 mà dụng thần đầu tiên là kiêu ấn Hỏa không có trong tứ trụ để hóa Mộc sinh cho Thân (Thổ). Cho nên tai họa đã xẩy ra vào tháng Dần, đó là tháng và mùa mà Mộc vượng nhất, còn Kim ở tử tuyệt không có khả năng để chế ngự Mộc. Nếu như điểm hạn của các giả thiết được áp dụng ở đây là chính xác và các cách để giải cứu ở trên có thể làm giảm được ít nhất 0,6đh là đúng thì đây chính là một niềm hy vọng lớn cho chúng ta trong công cuộc ngăn chặn các tai họa đe dọa tới tính mạng của con người.1 like
-
học về luật kinh tế thì OK .1 like
-
Giờ Dậu, ngày Bính Tuất, tháng Ất Mùi, năm Tân Mão. Được quẻ Kinh Tiểu Cát. Quẻ ngoại khắc nội. Bạn sẽ có tin vui (Tiểu Cát) nếu học hành thật chăm chỉ, học miệt mài (Kinh). Độn Khai Vô Vong, nội khắc ngoại. Tháng 9, Khai - Thủy được trợ lực, Vô Vong - Mộc yếu đi. Bạn sẽ khai thông được thế bế tắc hiện nay do sự "cần cù bù thông minh" của bạn và quẻ cho thấy bạn phải tự mình là chính, không có yếu tố may mắn hay quí nhân giúp. Theo cảm của mình, thì lần này bạn có cơ hội đỗ - nhưng điểm số không cao lắm. Chúc thành công . Try on !1 like
-
ko phải VCD thì cứ lấy chính diệu tọa thủ chứ sao1 like
-
Chú (bác, anh) cho cháu hỏi thêm với ạ. Vì người yêu cháu muốn sang năm cưới nên nếu cưới sang năm thì bọn cháu phải làm thế nào ạ. Và bọn cháu cũng xác định là cưới vào tháng 4 năm sau rồi. Nếu cưới vào tháng 4 thì ăn hỏi và cưới vào ngày nào thì được a. Mong chú (bác, anh) giúp đỡ cháu. Cháu cảm ơn nhiều ạ.1 like