• Thông báo

    • Bá Kiến®

      Nội quy Lý Học Plaza

      Nội quy này là bản mở rộng Nội Quy - Quy định của Diễn đàn. Khi tham gia mua bán, các thành viên phải tuân theo những quy định sau: Tiêu đề bài viết: Bao gồm: Chỉ dẫn địa lý, Loại hình Mua/Bán, Thông tin mua bán.
      Chỉ dẫn địa lý: Tỉnh/thành nơi mua bán. Hoặc sử dụng định nghĩa có sẵn:TQ: Toàn quốc
      HCM: TP Hồ Chí Minh
      HN: Hà Nội
      [*]Ví dụ: HCM - Bán Vòng tay Hổ Phách ​Nội dung bài viết: Mô tả chi tiết sản phẩm mua/bán
      Bắt buộc phải có thông tin liên lạc, giá Mua/Bán
      Bài mới đăng chỉ được phép up sau 03 ngày.
      Thời gian up bài cho phép: 01 ngày 01 lần.
      Các hành vi vi phạm nội quy này sẽ bị xóa bài hoặc khóa tài khoản mà không cần báo trước.

Leaderboard


Popular Content

Showing most liked content on 27/07/2011 in all areas

  1. Thông thường người ta chọn màu sắc cho hợp với bản mệnh ,thì dùng màu sanh mệnh ,chứ không ai dùng cung mà suy ra cách sinh mệnh .Bạn đã lọt vào cái mê hồn trận của âm dương và ngũ hành ,tự lẩn quẩn bởi cái thuyết vô hư không định dạng ... Bạn nên đưa link lá số của Lyhocdongphuong mà không cần phải đưa link lá số của diễn đàn khác , nếu bạn cần kiễm chứng đúng sai qua cuộc đời ,không cần trình lá số nào là truyền thóng hay không truyền thống . Bởi môn tử vi nầy là 1 bộ môn khoa học cổ đã thất truyền từ nhiều ngàn năm , sách vỡ lưu truyền còn nhiều tam sao thất bản ; 1 môn học không trường không lớp ,không bằng cấp ,không có thời gian tốt nghiệp ... Cho nên ai xem sao cũng được tùy khả năng mà đòi hỏi kinh nghiệm của người xem , có thẻ bạn mỗi lần xem mỗi thầy khác nhau đều ra kết quả khác nhau ,tuy nhiên tin nơi ai là nơi bạn ,có thể dùng câu nói thường nghe ; lấy quá khứ xác định tương lai .nếu thầy nào đoán quá khứ sai nhiều thì tương lai còn nhiều nghi ngờ ,còn gặp phải thầy nào xem quá khứ trớt lớt thì nên phủi đít đi sớm cho lẹ ...
    3 likes
  2. Năm nay hay năm tới xuất ngoại đều được nếu muốn. Năm nay thì đi trong tháng 7 hay cuối tháng 10 âm lịch. Công danh bình thường, chức vụ không cao không được trọng dụng trong công việc làm hay bị kìm kẹp, nên đi về doanh thương thì tốt như kinh doanh ks nhà hàng, massage, karaoke, thời trang, ăn uống... Đại vận xấu còn lâu mới tới, ngoài 46t
    2 likes
  3. Đêm tàn trăng lặn mất rồi . Người về để nhuộm cả trời nhớ thương! Quên? Quên? Quên sao dễ làn quên. Nhớ ! nhớ! Nhớ còn ai để nhớ ? Say quá ...!
    1 like
  4. Cái này thì tôi chỉ hiểu đại khái là Thủy thì lấy tên là Sông, Suối, Nước, Sương (mù), .... mạnh nhất chắc là Biển hay Ðại dương như Thái Bình Dương, Ðại Tây Dương... thì phải. Tốt nhất là hỏi các cụ Ðồ nho ấy. Thân chào.
    1 like
  5. 1 like
  6. Bạn cho tôi hỏi ?hai cô con gái có người lập gia đình chưa ,có người nào đang có thai ,hay có người nào đang dự định kết hôn trong năm nay ? bạn có con dị bào ,con nuôi hay con đở đầu ?
    1 like
  7. 1 like
  8. Dù làm công hay tư chức thì cũng không thể nào hiển đạt được, chức vụ nhỏ thấp thăng giáng thất thường phải ngoài 43 mới có chút chức vị. Tiền bạc thì cũng khá nhưng hoạch phát thì hoạch phá, buổi đàu kiếm tiền dễ dàng thì về sau càng lun bại 1 cách bất ngờ, cũng không tránh khỏi đôi lần phá sản khánh kiệt.. Lúc túng thiếu lại hay nghĩ chuyện mờ ám/táo bạo để kinh doanh kiếm tiền.Dễ vì đồng tiền mà sinh họa. Cung thê này thì nên lập gia muộn, do bản tính hoa nguyệt chơi bời lấy phải bà vợ lại ghê gớm hay ghen nên gia đạo thì nay giận mai hờn, hàng xóm thường xuyên được nghe cải lương, dễ dẫn tới hình khắc hay chia ly. Con cái được 1-2 đứa con trai xung khắc, khó nuôi Qua 43 trở đi thì mới bắt đầu khá
    1 like
  9. Vợ chồng khá giả, trong đời có thể có thời gian xa cách nhau, gia đạo nhiều khi cũng xảy ra xung đột nhưng có thể chung sống với nhau tới lúc đầu bạc được. Phá Quân miếu địa ưa nghe nịnh hót, lúc chồng nóng lên thì lựa lời dỗ ngon dỗ ngọt là ok thôi. Chồng chắc chẳng có gái theo đâu, chỉ sợ chị sau này lại có trai theo, chồng lại hay ghen nên liệu liệu mà cẩn thận các mối quan hệ trong côgn việc/đồng nghiệp
    1 like
  10. sang năm cơ mà , chú lo sớm thế :P , năm thủy kích thích các sao thuộc hỏa tính ở đây là thiên không và phá toái ; đại tiểu hạn trùng phùng nên nhiều khả năng sang năm làm ăn và quan hệ với mọi người không được tốt lắm . Đào hoa hoạt động cũng mạnh , 44 tuổi đang sung sức , cũng tốt mà :D ! Cháu chưa phối các sao ở tam hợp vào đâu , bàn cho vui thôi ^^ . Chờ các bác lên giải đáp kỹ cho chú !
    1 like
  11. Đúng vậy vì ngày âm lịch của bạn mới ứng với số của bạn, đây là một trường hợp nữa chứng tỏ lịch của Việt Nam đúng. Bạn lấy thêm lá số ngày dương của bạn theo diễn đàn để kiểm chứng. Lá số này tháng sau sếp sẽ cho qua nhưng còn kìm kẹp săm soi dữ lắm, e rằng bạn không giữ được công việc, cũng khuyên bạn nên chuyển chỗ làm tới năm thìn thì mọi việc mới khá hơn. Công việc có thể sẽ chuyển hay mất vào tháng 8,10 âm lịch, tháng 8 chuyển thì tốt, cố níu kéo thì chắc tháng 10 cũng mất. Coi chừng ở chỗ làm có đồng nghiệp nữ đố kỵ nói xấu sau lưng, tháng 11 trở đi mới bắt đầu hết xì trét!
    1 like
  12. Mình nghĩ lá số này cung phu nguyệt đức không đủ giải, vì các dâm tinh quá mạnh. Chắc xảy ra cả cho 2 vợ chồng luôn, cung quan xấu nên tư doanh thì hơn. Mở nhà hàng, quán ăn, karaoke, massage, phòng trà hay nghệ thuật gì buôn bán cũng tốt. Bạn này được hưởng phúc của bà tổ cô 5 đời chết trẻ bị thất lạc mộ, siêng cúng bái cầu xin thì nạn dễ qua. Vận xấu sắp tới rồi. Nên xa quê lập nghiệp thì tốt hơn.
    1 like
  13. 1 like
  14. 1 like
  15. - Cất con dao đi! - Mua quả cầu phong thủy màu xanh nước biển đặt trên đầu giường của bé! Làm 2 việc này thì sức khỏe của bé sẽ cải thiện! - Bạn qua bên mục tư vấn phong thủy xem các trường hợp tư vấn của các sư huynh mà học cách vẽ sơ đồ để các sư huynh tư vấn! Thân mến!
    1 like
  16. vào rạp hát chỉ 1 người 1 vé , bây giờ chỉ xem cho đương số hỏi .Năm nay chưa cưới được ,năm tới mới lên xe hoa /chồng dạng người cao trung bình ,mặt dài da hơi ngâm ,nở nang thân hình rắn chắc ,mắt sáng , thâm trầm ít nói ,ngang và cọc tính ,có học hành khá, vợ chồng bằng tuổi nhau ,lấy nhau không lâu thì ăn nên làm ra ,nhưng tình cảm cho chiều đi ngược với tiền tài , ngày càng tình nghĩa thu vén bớt dần ,
    1 like
  17. Chắc là không, nhưng tính hơi nể vợ. Tình cảm vợ chồng giống như luôn có 1 khoảng cách vô hình mà không sao lấp đầy
    1 like
  18. Bạn cho biết ngày giờ sinh dương lịch của bạn, tại sao lại chắc chắn giờ Dần?
    1 like
  19. Hi vọng sang tháng 7al có người nam lớn tuổi hơn (bậc cha/chú) giúp đỡ. Việc xem hạn cụ thể thế này chị chờ bác Haithienha, anh Quốc Tuấn cho lời khuyên nhé
    1 like
  20. Đối mà bớt sắc thành đôi Trong dân gian, nhất là trong lớp “teen” mạng bây giờ họ rành QT lắm, có lẽ là do từ trong tiềm thức Việt. Ví dụ từ “đi Phượt “ chỉ cả câu: Đi du lịch kiểu “Phớt lờ mà Vượt” mọi trở ngại thiên nhiên và bó buộc của tua truyền thống gọi là đi Phượt, “Phớt lờ mà Vượt”=(lướt)= “Phượt”. Thợ xẻ có từ thợ “Làm lưỡi cưa cũ cho sắc lại như Mới”=(lướt)= “Lỡi”, gọi là thợ Lỡi. Ngày nay dùng máy tự động mài lưỡi cưa, lại không gọi là “máy Lỡi” mà gọi là “máy mài lưỡi cưa tự động”. Dân nuôi tôm ở Cà Mau gọi cái lưới mắt rất nhỏ để quây tôm con ở góc ao là cái “Vzèo” do lấy tiếng Vèo ở từ láy Vòng-Vèo, làm gì có chuyện “Vòng là tiếng đã đem dùng, còn Vèo là tiếng đang chờ chứ chưa sử dụng” như ngôn ngữ học giải thích về từ láy. Vèo là do cái “Võng có mắt nhỏ tí Tẹo”=(lướt)= “Vèo”. Vòng là do cái “Võng có mắt Rộng”=(lướt)=Vòng. Gần đây nông dân ở An Giang nhập ngoại một giống Mít về trồng, trái tròn như trái banh, lại ăn được cả xơ. Họ đã gọi một cách tự nhiên “Mít ăn được cả Xơ”=(lướt)= “Mơ”. Gọi là trái Mơ, vì ở Nam Bộ không có cây mơ ăn trái như Đà Lạt hay ngoài Bắc, chỉ có cây mai để chơi hoa, thành ra trái Mơ này bị đồng âm, dễ lẫn lộn với trái mơ ngoài Bắc. Chính xác thì gọi nó là trái “Mít ăn được cả Xơ mà trái Tròn và Ngon”=(lướt)= “Mơn”, nên gọi nó là trái Mơn, nó họ Mít, cả Xơ ăn cũng Ngon. < Ngôn từ đều xuất xứ từ giới lao động bình dân mà ra, người dân chưa từng bao giờ đợi mượn ngôn từ từ Viện ngôn ngữ. Chỉ có ngữ pháp thì mới được rèn giũa từ giới bác học, nhưng không nhất thiết là từ giới nghiên cứu ngôn ngữ. Ngữ pháp tiếng Nga sỡ dĩ được chặt chẽ như ngày nay, có tới sáu cách, chia động từ, tính từ v.v. lại là do đóng góp công lao lớn của nhà hóa học Men-đê-lê-ép, biến hóa chặt chẽ cứ như là cấu trúc phân tử vậy. Bởi do giới hàn lâm xây dựng ngữ pháp, nên lại dễ bị áp đặt do giới thống trị là ngoại tộc. Hàng ngàn năm, ngữ pháp Hán đã thay dần ngữ pháp Việt trong ngôn ngữ của giới quan lại (ngôn ngữ quan thoại thay dần ngôn ngữ bạch thoại) hình thành Hán ngữ hiện đại hoàn chỉnh và phong phú ngày nay. Điểm khó khăn nhất đối với Hán ngữ hiện đại là dùng Hán tự để phiên âm tiếng nước ngoài, vì mỗi chữ Hán đều có biểu ý của riêng nó, mượn chữ Hán có âm na ná để mà chú âm của một từ nước ngoài (theo cách giả tá) phải công phu chọn chữ nào nó cùng logic mới đạt, nếu biểu ý của nó khác xa nghĩa của từ nước ngoài ấy thì thật phiền. Ví dụ từ mới ngày nay như “hacker” thì chọn mượn từ “Hắc Khách 黑客” để thay, phát âm na ná là “hây khưa”, viết chữ phiên âm là “heike”, nghĩa của Hắc Khách黑客 là “bọn thích khách của xã hội đen”, kể cũng logic. Nếu như ngày xưa thì các nhà ngôn ngữ Việt Nam lại đã ăn sẵn luôn từ Hắc Khách để bưng nguyên xi về dùng rồi. Nay ta dùng luôn là “hac-cơ”, hoặc cũng có thể nhìn vào chữ “hacker” xem cái gen Việt của nó lặn chỗ nào mà gọi luôn “hacker” là bọn “Hay Quấy Cắp”=(lướt)= “Hắp”. Hắp/Hấp là một cặp từ đối, bọn Hắp là bọn “Hùng hổ mà ngăn Nắp” chứ không hâm hâm như bọn Hấp là bọn “Hèn mà hấp Tấp”. Từ mới “fans” nghĩa là người hâm mộ, Hán ngữ hiện đại phiên âm là fensi, phát âm là “phẩn xư”, mượn chữ là Phấn Tơ 粉丝, chữ ấy lại có biểu ý là “sợi bún”, không logic lắm, nên dân mạng lại dùng theo cách giả tá riêng của họ là mượn chữ Phạn 饭viết phiên âm là “fan” phát âm là “phan” biếu ý của chữ Phạn 饭là “cơm”, tôi là cơm của anh, tức tôi sẵn sàng vì anh, nghe hợp lý hơn.Tiếng Việt du nhập nguyên xi “fans”, phát âm là “phan”, lại thường nói là “các phan hâm mộ” thành ra nói thừa, tiếng “phan” nghe chưa logic lắm. Thực ra từ “fans” đã có gen của ngôn từ Việt rồi, ở từ Phạn là một tiếng trong cặp từ đối Phạn/Phản . Phạn là từ lướt của “Phe Bạn”, Phản là từ lướt của “Phe Cản”. “Phe Bạn”= (lướt)= “Phạn” chính là những người ủng hộ đội nhà, ngược với bọn “Phe Cản”= (lướt)= “Phản”. Mọi ngôn ngữ đều nằm trong ngôn từ Việt, để ý thì sẽ nhận ra ngay thôi. Không đến nỗi như Hán ngữ hiện đại phải loay hoay để dịch từ “fans”, lúc đầu dịch là “La la đội” tức là đội hò la, đội cổ vũ, sau thì chính thống đặt là Phấn Tơ粉丝 (sợi bún), vẫn thua dân mạng, họ đặt là Phạn 饭 (cơm), logic hơn. Tiếng Việt thì “phạn” không có nghĩa là cơm, mà “phạn” là cùng “Phe Bạn”=(lướt)= “Phạn”, còn hợp logic hơn là dân mạng tiếng Hoa dùng, vì Phe Bạn với Fans còn dễ coi là đồng nghĩa đen, còn Cơm với Fans chỉ là đồng nghĩa bóng mà thôi. Khổ nỗi Hán ngữ không có qui tắc lướt, vì kết cấu của ngôn từ nó là phụ trước chính sau, ngược với của Việt, ví dụ Phe Bạn thì ở Hán ngữ là Bạn Phe, nều lướt thì thành Be, làm sao giống “fans” được. Do họ không có khái niệm lướt nên hai ngàn năm trước, khi Hứa Thận viết “Thuyết văn giải tự”, là cuốn tự điển đầu tiên trong lịch sử Trung Hoa, Hứa Thận phải giảng giải cách “thiết” để mà đọc chữ nho cho đúng âm Việt, và gọi là “Phiên thiết” tức người Phiên người ta lướt như vậy đấy. Người Phiên là người của những nước phi Hán.Hán ngữ hiện đại tức tiếng phổ thông TQ do âm vực không phong phú như tiếng Việt, từ đồng âm quá nhiều nên khó mà Latin hóa ký tự,bắt buộc phải dùng chữ tượng hình biểu ý, không như các phương ngữ dễ chuyển sang dùng ký tự latin hóa. Ví dụ câu Hán ngữ phát âm là: “Jinshi jinshi jinshi jinshi” bằng chữ phiên âm latin thì làm sao hiểu nổi, ngay cả người Hán. Nhưng khi viết bằng chữ nho 近世 进士 尽是 近视 và đọc như Hứa Thận hướng dẫn thì là: “Cận thế Tiến sĩ Tận thị Cận thị” thì sẽ hiểu được là: Tiến sĩ Thời nay Thảy đều Cận thị >. Những cặp từ đối nguyên thủy thường chỉ là hai tiếng cùng Tơi và cùng Rỡi, chỉ khác nhau thanh điệu.Ví dụ: Bọ/Bò là Con nhỏ/Con to (con bọ rất nhỏ, nhưng con bò rất to); Bo/Bọ là Hào phóng/ Kẹt xỉ (từ Bo này đã cho gen sang tiếng Tây); Bỏ/Bó là Thả/Giữ , Bõ/Bỏ là Đã công/Uổng công. Chồng/Chống là Đè xuống/Đỡ lên, cũng như Vồ/Vộ là Đè xuống/Đỡ lên. Lấy từ Chồng để gọi người Chồng, lấy từ Vộ để gọi người Vợ, “Vộ chờ”=(lướt)= “Vợ”, vì người Vợ có thiên chức là “Chờ”, cái trứng phải Chờ con tinh trùng đến tụ rồi mời làm Chỗ được, để thành Chửa, để rồi Chứa trong cái dạ con. Đi nằm cũng nằm trước Chờ. Ăn cơm cũng Chờ v.v., nên mới có chuyện cổ tích “Hòn vọng phu” là vậy. Ò/Ọ là Đưa đi/Đứng lại (cũng giống như Ù/U là Đi/Ở). Ò là “Đưa đi” nên mới có Hò là lời hát đưa đi, “Hát Ò”=(lướt)= “Hò”, vậy nên khi chơi bời thì có Hò đưa duyên, khi chèo thuyền thì có Hò đưa thuyền, khi ru con thì có Hò đưa nôi, khi đưa đám ma thì có Hò đưa linh. Ọ là “Đứng lại” nên mới có Họ là lệnh Đứng lại, đã là lệnh thì phải hét thật to, “Hét Ọ”=(lướt)= “Họ”, nên khi đánh trâu đi đường hay đang cày chỉ cần ra lệnh “Họ ọ ọ ! ” là nó đứng lại ngay. Chưa kịp bước chân lên xe thì xe buýt đã chuyển bánh, khách la : “ Họ ọ ọ đã nào, làm gì mà vội thế!” > Từ đối mà nói lên hai trạng thái nghịch ĐỨNG/ĐI, nguyên thủy của nó là những từ có Rỡi đơn như Ù/U, Ồ/Ổ Xét cặp từ đối Ù/U dẫn đến cặp VÙ/VU: Ở nghĩa ĐI có: Vù=Vời (“xa vời” là khái niệm “đi”)=Chơi (là khái niệm Động=Đi)=CHẦY ( cái Chầy luôn ở trạng thái hoạt động là “đi”, nghịch với trạng thái của cái cối)=Giầy (gọi là đôi giầy vì nó ở trạng thái “đi”)=Dộng (động tác “di cho rộng ra”=dộng)=Rống ( “ra tiếng rộng” tức đưa tiếng “đi” vang xa)=Hồng (làm cho rộng ra, “nạn hồng thủy” là nước “đi” rộng ra)=HÙNG (“hồng cả một vùng”=hùng , tức “đi” mở rộng cả một vùng). < Vù=Vời=Chơi=Chầy=Giầy=Dộng=Rống=Hồng=Hùng>. Ở nghĩa ĐỨNG có: Vu=Vuông=VƯƠNG=Vững=Chưng=Cứng (“Kẻ Đứng”=Cứng, “Đóng Cứng”= “Đông Cứng”=Đứng)=Cái=CỐI. < Vu=Vuông=Vương=Vững=Chưng=Cứng=Cái=Cối> Chỉ từ hai tiếng của cặp đối VÙ/VU cũng đã thấy được dân CHẦY/CỐI là dân HÙNG/VƯƠNG, là tiền nhân chung của cả hai dòng Việt ở(粤) và Việt đi (越), mà Hán thư thời Xuân Thu gọi là Bách Việt. Trăm nước Việt=Lắm nước Việt= “Lắm Nác” Việt= “Lạc” Việt. < Đến thời Tần các nước của Lạc Việt đã bị Tần xóa sổ hết, đổi thành quận huyện của nước Tần, chỉ còn lại bộ phận của Lạc Việt ở Lĩnh Nam và Giao Chỉ, nên sách sử viết sau gọi Lạc Việt là một chi của Bách Việt, nhận định ấy vừa đúng lại vừa sai. Đúng bởi nó vẫn là người Lạc Việt, sai vì đó không phải là một chi từ trước, mà là bộ phận Lạc Việt còn lại sau khi đại bộ phận ở phía bắc của nó đã bị Hán hóa hết. Bộ phận còn lại đó sau lập nên nước Nam Việt thời Triệu Đà > Vậy từ HÙNG VƯƠNG là từ Việt hay từ Hán-Việt ? Người ta cứ hiểu theo “từ Hán-Việt” nên phải dịch nghĩa của nó là Vua Hùng, tức ông vua tên là Hùng hay họ là Hùng. Và vì vậy họ lý giải “18 đời Vua Hùng mà kéo dài 3000 năm thì mỗi ông vua Hùng phải sống đến hơn 166 tuổi ?”. Hiểu theo từ Việt như QT thì Hùng/ Vương là một xã hội, xã hội của dân Lạc Việt ấy trải qua 18 thời đại kéo dài 3000 năm,mỗi thời đại đều gọi là thời đại Hùng/ Vương của dân Chầy/Cối. Do tín ngưỡng của người Việt là thờ tổ tiên, nên người dân thánh hóa mỗi thời đại thành một ông vua để đưa vào truyện cổ tích truyền miệng. < Theo QT thì QT=Có Tỏ=Có Thọ=Có Thấy. Vì tiếp nhận (thọ) và thấy cho nên , lại theo QT, La Tinh=Liên Tây=Là Tinh=Là Tỉnh=Là Tiền=Là Tình=Là Mình. Điều này nước Nhật hai trăm năm qua đã chứng minh rồi, là cái logic: Có ngả sang phương Tây thì mới Tinh, có Tinh mới có Tỉnh, có Tỉnh mới có Tiền, có Tiền mới có Tình, có Tình mới là Mình. Việt Nam phải giàu mạnh có Tiền thì thế giới mới yêu, nếu vẫn nghèo tuy tốt tính thì thế giới chỉ thương thôi, tuy thương thì cũng thỉnh thoảng có thí, nhưng như thế thì tội nghiệp lắm. Vì triết lý Âm Dương nên cặp từ đôi Con=Cái, cũng là cặp từ đối Con/Cái ở mặt trái của nó, cũng vậy cặp từ đôi Tiền=Tình, cũng là cặp từ đối Tiền/Tình ở mặt trái của nó. Mặt trái của xã hội thể hiện ở cặp từ đối Làm Tiền/Làm Tình. Xưng Ta gọi Mình đều là nói cái hồn của một con người : Mình=Tình=Linh=Lòng=Lả=Tá=Ta=Tâm . Còn nói con người cả thể xác cả linh hồn thì đó là từ đôi Thân Mình . Thân là từ cái Kẻ=Thẻ=Thể=Thân=Thần=Mẫn=Mình (cái logic chỉ con người đã đi từ phần xác thịt rồi mới đến phần linh hồn, cũng giống như cái trứng khi thụ tinh thì có khí từ vũ trụ tương tác vào để thành một sự sống mới gồm phần thịt và phần hồn. Bởi vậy người xưa răn rằng khi giao hợp thì không được hành sự ở nơi thờ phượng hay vào lúc đang có giống tố sấm sét), mà cũng theo QT: cái “Thể trên chân”=(lướt)= “Thân”. Từ Mình chính gốc nó là do QT Lướt “Một sinh Linh”= “Mình”. Người Việt vợ chồng hay tình nhân đều gọi nhau là “Mình ơi”, tức gọi cái phần hồn chứ không phải gọi cái phần thịt, tự xưng là Ta, gọi ngôi thứ hai là Mình ( “Mình về có nhớ Ta chăng, Ta về ta nhớ hàm răng Mình cười”) , và tiếng gọi người tình ấy cũng trúng QT Lướt “Một mối Tình”= “Mình”. Từ Mình gốc do con số Một mà ra, Một sinh Linh=Mình. Từ Thân Mình khi xét về một con người thì nó là một từ đôi, có phần thịt và phần hồn, gắn liền với nhau thành một từ giống như từ dính, tức không thể đảo ngược vị trí mà nói là Mình Thân được, phải nói là Thân Mình (đúng với khoa học là thịt có trước, hồn nhập vào sau); nhưng khi xét về cơ thể học thì nó là một từ đối Thân/Mình như là Xác/Hồn. Từ Mình chính là từ cái Mồi (“Một Người”=”Một Ngôi”=Mồi) để khi cái trứng Mồi ấy đưa vào trong Nôi của QTNở thì nó bắt đầu tách đôi theo cách sinh sản của tế bào: đầu tiên nó Mấp-Máy ( tức bắt đầu Rục-Rịch, Động-Đậy), rồi lớn từ từ là thành Mon-Men, rồi lớn lên là Mới-Mẻ, tách hẳn để nở ra khỏi Nôi thì nó là Ma và Mình, có cặp từ đối Ma/Mình, đó là từ đối nói một hồn người khi ở hai thế giới là Âm thế và Dương thế, ở Âm thế là Ma, ở Dương thế là Mình. Cặp từ đối Ma/Mình này chính sau nâng tính trừu tượng bằng cách làm nhạt nghĩa đi thành cặp từ đôi Ma Mãnh để chỉ tính khí cá nhân người gian xảo cả ban đêm lẫn ban ngày. Cặp từ đối Ma/Mình (một hồn khi ở hai thế nghịch nhau) chữ nho nâng lên thành tính bác học, viết 冥/明 (mà Hán nho đọc là Minh/Minh, không có biết phân biệt là hai tiếng nghĩa Âm Dương khác nhau thì phát âm ra phải thành tiếng khác nhau) nghĩa nó là Tối/Sáng, ngụ ý là Âm thế/Dương Thế. Từ Ta thì đã thấy rõ trong nôi khái niệm lớn: Mình=Tình=Linh=Lòng=Ly=Lửa=Lả=Tá=Ta=Tâm. Từ nôi này mà ra các từ đôi Tá Lả, Lửa Lòng, Tấm Lòng, Tâm Tình, Tâm Linh, đều là thuộc cái phần hồn của con người. Vì tâm của con người là ngọn lửa của sự sống, do cái khí từ vũ trụ đưa lại. Khí trả lại về vũ trụ thì cái xác còn lại lạnh ngắt cứng đờ. < Mày=Mi=Mình=Tình=Linh=Lòng=Ly=Lửa=Lả=Tá=Ta=Tau=Tui=Tôi=Tâm. Từ trong gốc gác của từ Ta và Mình (là cái hồn của mỗi người Việt) đã thấy rõ là người Việt là dòng Lửa, là dân Kẻ Lửa tức Quẻ Ly, dân xứ nóng của Viêm Đế. Ngôi nhà sàn cổ xưa của người Việt có bếp lửa ở giữa sàn nhà (như của đồng bào Tây Nguyên vẫn còn) đồng bào ta gọi là “nhà quẻ ly”. Chữ quẻ ly (nghĩa là Lửa) bằng ký tự kẻ vạch là một vạch liền ở trên (kín như mái nhà), một vạch liền ở dưới (kín như nền đất), một vạch đứt thành hai nét kẻ ở giữa (hở như cái sàn ghép bằng nứa), tất cả là bốn nét. Chữ ấy sau được chuyển nghệ thuật hóa thành chữ nho Tâm 心, cũng gồm bốn nét, mà vẽ tượng hình như cái vòng kiềng trên ba ông đầu rau ( “Ba chân kiềng, một vòng cong. Trọn đời giữ một chữ Lòng sắt son”). Dân Quẻ Ly của Viêm Đế thời cổ đại đã định cư ở suốt một dải đất ven biển từ Trung Bộ Việt Nam đến hạ lưu sông Hoàng Hà, mà sử gọi là dòng Cửu Lê, có thủ lĩnh là Xuy Vưu. Vì là dân nông nghiệp lúa nước của ThầnNông, sống định cư, nên còn gọi là Kẻ Ở . “Kẻ Ở”=(lướt)= “Cơ” nên còn gọi là Họ Cơ. Đó là nguyên do tại sao trong cổ sử mọi dòng họ đều qui gốc tổ của mình là từ họ Cơ. Mà từ Họ lại là dòng Hùng To, “Hùng To”=(lướt)= “Họ”. Hùng 雄 là con gà trống (chữ nho gồm bộ Rộng 厷 ý là đất đai rộng lớn và bộ Chim 隹 ), lại cũng là dòng Lửa. Người Hán phát âm chữ Hùng 雄 này là “Xúng”, về sau họ dùng chữ “Xúng 熊” đồng âm nhưng nghĩa là “con gấu” để viết Hùng Vương 雄 王 thành Hùng Vương 熊 王, nghĩa chữ là “vua gấu”, đó chỉ là mượn chữ có âm na ná để phiên âm nhưng không hợp logic nghĩa chữ, cũng có thể do sử gia cố ý viết đểu đề làm mờ và rối lịch sử > Bởi ví tất cả đều được sinh ra từ Một, như triết lý Vũ Trụ của người Việt: Vũ Trụ ban đầu là một cái Ổ, theo QT Lướt “Từ Ổ”= “Tổ”. Tổ theo QT Nở chia ra Té/Tá, tức từ Ổ mà ra mới có Tá và Té, Tá=Dương, Té=Âm. Té nghĩa là Nước , là Âm, là Biển Đông , Âm=0 theo số học nhị phân, Âm+Âm=0+0=1= Ầm+Ầm=Ầm Ầm=Động (tính của Âm là Động). < Nước=Nặm=Tắm=Tưới=Té, có lễ hội Té Nước, Té Nước là một từ đôi, về sau chữ nho viết lễ hội ấy bằng một chữ Tế, “Té nước Lã” thành chữ Tế Lễ, Tế Lễ là một từ đôi). Té=Tía=Chia=Ché=Chứa=Cha=(chẵn)=CHẤN (phương của Hà Đồ). Té là Nước, là Âm đã sinh ra Dương là Cha, đó là dòng Rồng (Lạc Long) ở Biển Đông . Trong nôi khai niệm cũng thấy rõ con số 0 được toán nhị phân gọi là con số (chẵn)> Tá nghĩa là Lửa, là Dương, là lục địa Tây Đông Dương, Dương=1 theo số học nhị phân, Tá+Tá=1+1=0=Tà+Tà=Tà Tà=Tối=Tắt=Tịnh (tính của Dương là Tịnh). <Tá=Tây=Tả=Lả=(Lẻ)=Mẹ=Tẻ=Tiên=TỐN (phương của Hà Đồ)=Cồn=Non=Núi. Tá là Lửa, là Dương đã sinh ra Âm là Mẹ, đó là dòng Tiên, Tiên=Tiêm=Xiêm=Chiêm=Chim. Lửa=Lả=Tá=Tỏ=Đỏ=Đóm=Đuốc=Đun=Hun=Hong=Hóng=Hồng=Hỏa, các từ đôi Tá Lả, Tá Hỏa, Lửa Đỏ, Lửa Hồng, Đun Đỏ . Từ trong nôi khái niệm đã thấy rõ con số 1 được toán nhị phân gọi là con số (Lẻ) . Mẹ=Lẻ nên làm mẹ nữa gọi là làm Lẽ, lấy vợ nữa gọi là lấy vợ Lẽ >. Tá là Lửa là từ cổ nhất của người Kinh cổ đại, nguyên thủy ở vùng Trung Nam bán đảo Đông Dương, gọi là người Kinh Nam=Cam, đó là nước Cam đến ranh phía nam của nó gọi là Cam Ranh. Tư duy phương hướng của người Kinh là Ra Bắc, Vô Nam=Về Nam. Người Kinh cổ đại đã khai phá nông nghiệp từ Nam ra Bắc đến tận sông Dương Tử rồi đến đất Sở là người Kinh Sở. Về sau nước Sở là nước hùng mạnh nhất mở rộng địa bàn đến Trung Nguyên, chiếm vùng bằng 18 tỉnh của Trung Hoa ngày nay, kình địch với nước Tần. Sinh ra phương hướng là Tá=Thá=Tả=Tây=Tày=Thái=Sài=Đoài. Thá=Tả, nhà nông Nam Bộ đi cày ra lệnh cho hai con con trâu cùng kéo một cái cày rẽ Trái rẽ Phải tương ứng là “Thá !”, “Dí !”, hai con trâu đó có tên tương ứng là một con tên con Thá, một con tên con Dí. Vì từ Tá nghĩa là Lửa, có Tá=Lả=Chá=Cháy=Chói < Bằng QT cũng có thể dẫn ra các từ diễn tả một đôi trai gái yêu nhau và hậu quả của nó: Đôi=Ngồi=Ngắm=Nằm=Nắm=Nắn=Nụ=Đụ=Đúc=Đứa=Chửa, những từ ấy đều là cùng nôi khái niệm trong cảnh này vì chúng cùng có mẫu số chung là: sự đồng thuận giữa hai người. Từ Nụ Hôn là một từ đôi, Nụ là hành động do Trai , vì “Nôn nóng Đụ”=(lướt)= “Nụ”. Hôn là hành động do Gái, vì “Ham hơi Ôn”=(lướt)= “Hôn”. Từ Ôn là từ có viết bằng chữ nho về sau, gốc trước của nó là từ Ấm. Cặp từ đối nguyên thủy là Ấm/Âm như Nắng/Nước. Cặp Nắng/Nước còn cho ra Nóng/Nản (Nóng Làm/Nản Làm, cặp từ đôi Lười Nẳn đã theo QT Lướt “Lười Nẳn”= “Lãn”, chữ Lãn này là có sau, viết bằng chữ nho, nghĩa là Lười. Lãn công là do lười mà không chịu làm, còn Bãi công là do cố tình Bỏ để phản đối, chữ Bãi có viết bằng chữ nho, do cặp từ đôi theo QT Lướt “Bỏ Thải”= “Bãi” , Bỏ là từ gốc Việt, Thải là từ gốc Thái Lan. Từ cặp từ đối nguyên thủy Ấm/Âm mà Ấm đã theo QT Lướt “Ấm như Lồn”= “Ôn” ( đó là giải mã của mật ngữ-thành ngữ Việt: “Một người đàn bà bằng ba bếp lửa” ). Cặp Nóng/Nản cho ra cặp Nồng/Nàn, Nàn là nguội hơn, nên có từ ghép Nghèo Nàn tương đương Đói Rách. Từ cặp nguyên thủy là Nắng/Nước, đến sinh ra đời con là Nóng/Nản, rồi sinh ra đời cháu là Nồng/Nàn rõ ràng là cái gen đã phai đi nhiều, tức cái độ đậm của nghĩa đã bị nhạt đi , nên Nồng Nàn thành gần như là một từ đôi chứ không còn đối nữa. Muốn cho nó quay lại đậm nghĩa như trước, phải thay Tơi cho nó, như thay Đực khác để lai giống nhằm tránh bị dần dần thoái hóa giống, xa hơn thì sẽ mạnh hơn. Do vậy cặp Cặp Nồng /Nàn được thay Tơi, cho ra cặp Hồng/Hàn tương đương với Lửa/ Lạnh . Từ đối diễn tả sự trái ngược hoàn toàn, nhưng từ đôi thì như 0+1=1 hay 1+0=1 tức “nhiều” nhưng chỉ là nhiều của nghĩa của tiếng đứng vị trí trước, từ đôi Nồng Nàn ý là nhiều Nồng hơn, cũng như từ đôi Gà Qué ý là nhiều Gà hơn, chứ không thể là nhiều Qué hơn được>
    1 like
  21. Tôi thay nội dung Bài 17 thành Bài 16 và ngược lại. Bài 16 : Các cách giải cứu cơ bản Chương 18 Các cách giải cứu cơ bản I – Đặt tên (điều quan trọng nhất) Khi trẻ mới được sinh ra chúng ta phải xác định ngay tứ trụ của nó, sau đó xác định điểm vượng vùng tâm của các hành và dụng thần chính của tứ trụ. Qua sự mạnh hay yếu của các hành với dụng thần chúng ta sẽ biết được dụng thần có lực hay không có lực để đặt tên mang hành của dụng thần nhiều hay ít cho phù hợp. Ví dụ : Nếu dụng thần của tứ trụ là Thủy mà hành Hỏa hay Thổ quá vượng thì phải đặt tên có hành Thủy nhiều như Biển, Sông, Hồ, mưa,….. , còn nếu Thủy không quá yếu, Hỏa và Thổ không quá mạnh thì chỉ cần đặt tên có hành Thủy yếu như Hơi Nước, Sương Mù, …… . Nếu Thổ quá vượng mà Mộc là hỷ thần thì có thể đặt tên mang hành Mộc có lợi hơn tên mang hành Thủy cho dù dụng thần vẫn là Thủy, nhất là khi Thủy không quá nhược trong tứ trụ,…….Hoặc nếu Kim là hỷ thần thì cũng có thể đặt tên mang hành Kim, vì Kim có khả năng hóa Thổ để sinh cho dụng thần Thủy. Dụng thần của các hành khác cũng suy luận tương tự như vậy để đặt tên. II – Phương hướng cần sinh sống (quan trọng thứ 2) Sau cách đặt tên thì đến phương để sinh sống cũng rất quan trọng trong việc giải hạn, vì nếu dụng thần mang hành nào thì người này nên sống ở phương mang hành đó là tốt nhất. Theo môn Tứ Trụ thì phương ở đây được so với nơi người này được sinh ra (hiện giờ tôi vẫn chưa biết chính xác là phải cách vị trí được sinh ít nhất là 10km; 20km hay 30km). 1 - Thủy là dụng thần bị Thổ khắc Nếu Thủy là dụng thần thì người này nên sống về phương bắc so với nơi người này được sinh ra, vì phương bắc là phương của Thủy vượng nó sẽ hỗ trợ một phần Thủy cho dụng thần Thủy và làm Thổ bị suy yếu đi một phần. Tại một năm đã được dự đoán có hạn rắt nặng mà nguyên nhân chính gây ra hạn bởi Thổ và Hỏa thì nó cần rất nhiều Thủy để giải cứu, người này ở phương bắc chưa đủ mà phải xuống sống ở dưới thuyền như dân chài lưới ở sông hay biển. Nếu như làm được một căn nhà bằng thủy tinh và nó được đặt ở khoảng giữa đáy và mặt nước của một cái hồ lớn và sâu để sống qua khoảng thời gian mà hạn có thể xẩy ra là lý tưởng nhất (?). Bởi vì thủy tinh mang hành Kim, nó có khả năng sinh cho dụng thần Thủy, nhưng điều quan trọng hơn là sống trong ngôi nhà thủy tinh, người đó luôn luôn nhìn thấy các phía đều là nước bao bọc, đó chính là con đường mà Thủy có thể vào được tứ trụ của người này để phù trợ cho dụng thần Thủy mạnh hơn cũng như nó có thể ngăn cản được phần lớn các tác dụng xấu từ bên ngoài của các hành Hỏa và Thổ tới dụng thần Thủy trong tứ trụ của người này (?). Ví dụ : Giả sử qua tứ trụ của một người, chúng ta xác định được người này sẽ có hạn nặng vào năm X. Tai họa này sẽ được gây ra bởi các tác động xấu từ vũ trụ tới tứ trụ của người này tại năm đó. Các tác động xấu này bắt buộc phải xuyên qua lớp nước dầy này mới đến được tứ trụ của người này, cho dù chúng đi từ trong lòng của trái đất lên. Cho nên lớp nước dầy này có thể sẽ ngăn cản được phần lớn các tác động xấu này, vì vậy tai họa tại năm đó có thể sẽ không còn nặng như vậy. Ngoài ra có thể dùng Mộc (nếu Mộc là hỷ thần và dụng thần Thủy không quá nhược) để giải cứu (như câu 4), hoặc dùng Kim (nếu Kim là hỷ thần) vì Kim có khả năng hóa Thổ để sinh cho dụng thần Thủy (như câu 5). 2 - Thổ là dụng thần bị Mộc khắc Nếu dụng thần Thổ không quá nhược mà Kim là hỷ thần, thì người này nên sống ở phương Tây so với nơi sinh, vì phương Tây là phương của Kim vượng nó sẽ làm cho Mộc bị suy yếu đi một phần. Giả sử tại một năm đã được dự đoán có hạn nặng mà nguyên nhân chính gây ra hạn bởi Mộc khắc dụng thần Thổ thì tốt nhất người này nên đi về phương tây và sống trong lòng một mỏ sắt, bởi vì dụng thần Thổ được lòng đất mẹ che trở và khí Kim hộ vệ (vì là mỏ sắt). Nếu cẩn thận thì từ cửa hang vào bên trong treo vài trăm thanh gươm hay kiếm của các võ sĩ Tầu hay Nhật (nhớ phải vứt bỏ bao) thì bố khí Mộc dám bén mảng tới. Tất nhiên về logic là như vậy nhưng nó có giải cứu được hay không thì chúng ta phải có các thực nghiệm mới có thể biết được. Nếu Dụng thần Thổ quá yếu mà Hỏa là hỷ thần thì đầu tiên phải lấy Hỏa để giải cứu, vì Hỏa có khả năng hóa Mộc để sinh cho dụng thần Thổ, vì vậy người này nên sống ở phương nam là phương của Hỏa vượng (như câu 3). 3 – Hỏa là dụng thần bị Thủy khắc Nếu Hỏa là dụng thần mà bị Thủy khắc thì người này nên sống ở phương nam vì phương nam là phương của Hỏa vượng sẽ bổ xung một phần Hỏa cho dụng thần và làm Thủy suy yếu đi một phần nào. Tại một năm đã được dự đoán có hạn nặng mà nguyên nhân chính gây ra hạn bởi Thủy khắc Hỏa thì tốt nhất người này đi về phương nam và sống trong rừng già (vì nó có Mộc nhiều) và ở phía nam của một ngọn núi lửa đang hoạt động. Khí Thủy từ phương bắc xuống phải qua ngọn núi lửa mới đến được người này thì tất nhiên nó phải bị suy yếu đi rất nhiều. Gần ngọn núi lửa cũng như ở gần bếp lò rèn Hỏa nhiều sẽ hỗ trợ được phần nào cho dụng thần Hỏa và nếu người này còn sống trong rừng già thì càng tốt vì có thêm Mộc của rừng già sẽ hóa một phần nào Thủy để sinh cho dụng thần Hỏa. Nếu Thổ là hỷ thần và dụng thần Hỏa không quá nhược thì ta có thể dùng Mộc để giải cứu (như câu 2), hoặc nếu Mộc là hỷ thần thì ta có thể dùng Mộc để giải cứu (như câu 4). 4 – Mộc là dụng thần bị Kim khắc Người này nên sống ở phương đông, vì phương đông là phương Mộc vượng sẽ hỗ trợ một phần Mộc cho dụng thần Mộc và làm cho khí Kim bị suy yếu đi một phần nào. Tại một năm đã được dự đoán có hạn nặng mà nguyên nhân chính gây ra hạn bởi Kim khắc Mộc thì tốt nhất người này chui vào một gốc cây cổ thụ trong rừng già ở phía đông để sống hoặc sống trong một ngôi nhà bằng gỗ được đặt ở khoảng giữa đáy và mặt nước của một cái hồ lớn và sâu để sống qua khoảng thời gian mà hạn có thể xẩy ra. Bởi vì ở giữa lòng hồ Thủy quá vượng, nó sẽ hóa được phần lớn khí Kim từ vũ trụ đến để sinh cho dụng thần Mộc. Nếu Hỏa là hỷ thần và dụng thần Mộc không quá nhược thì ta có thể dùng Hỏa để giải cứu (như câu 3), hoặc nếu Thủy là hỷ thần thì ta có thể dùng Thủy để giải cứu (như câu 1). 5 – Kim là dụng thần bị Hỏa khắc Người này nên sống ở phương tây bởi vì phương tây là phương Kim vượng sẽ hỗ trợ một phần Kim cho dụng thần Kim và làm cho khí Kim bị suy yếu đi một phần nào. Tại một năm đã được dự đoán có hạn nặng mà nguyên nhân chính gây ra hạn bởi Hỏa khắc Kim thì phải dùng Kim để giải cứu (như câu 2) . Nếu dụng thần Kim không quá nhược mà Thủy là hỷ thần thì ta có thể dùng Thủy để giải cứu (như câu 1). III - Lấy chồng hay lấy vợ (điều quan trọng thứ 3) Lấy chồng hay lấy vợ cũng là một cách giải hạn khá quan trọng. Nếu trụ năm của người chồng và người vợ của anh ta là thiên hợp địa hợp với nhau thì nó thường là tốt và nó là tốt nhất khi chúng hóa thành hỷ dụng thần của cả hai người, nhưng nếu chúng hóa thành kỵ thần khắc dụng thần của một trong hai người hoặc cả hai người thì nó có thể là xấu nhất. Cái cần tránh nhất là trụ năm của hai người không được TKĐK với nhau, vì nếu như vậy thì lúc nào hai người cũng đã có một ít về điểm hạn khắc nhau. Ngoài ra 2 người nên chọn sao cho các hành nào đó của người này nhiều có thể bù trừ cho sự thiếu hụt của người kia. Có như vậy thì cuộc sống của hai người sẽ thuận lợi hơn nhiều. Ví dụ : Nếu dụng thần của người này là Mộc mà hành Mộc của người kia lại nhiều là rất tốt, nhất là Mộc lại là tài tinh chẳng hạn thì tiền tài dễ kiếm.... IV – Ngăn chặn về hình, tự hình và hại Chúng ta đã biết hình và hại do các địa chi gây ra mà các địa chi là đất, nó nghĩa là đất nước mà con người đang sống ở trong đó. Đó chính là xã hội của con người, nó vô cùng phức tạp, ở trong đó phát sinh ra mọi thứ tệ nạn xã hội từ tốt đến xấu. Một trong các tệ nạn xấu của xã hội đó chính là con người làm hại lẫn nhau, chúng được gọi là hình và hại, còn nếu do chính các thói xấu của mình mà làm hại chính mìmh được gọi là tự hình. Do vậy nếu một ai muốn giải cứu các tai họa được gây ra bởi các điểm hạn chính của hình, tự hình hay hại thì tất nhiên người này phải rời xa những người đó, xã hội đó, với mọi tham vọng hay tuyệt vọng của chính mình. Một trong các cách giải cứu này là bãi quan, từ chức rút về ở ẩn trong rừng hay trên núi cao hoặc trong các chùa, nhà thờ,…… nghĩa là sống cách ly với xã hội và con người. Đối với trẻ em còn bé nhỏ thì các bậc cha mẹ, anh chị em, người lớn …. phải hết sức chú ý và chăm sóc tốt cho em bé đó. Bởi vì hình và hại có thể do người lớn gây ra hoặc do chính em bé đó đùa nghịch mà gây lên. V - Nghề nghiệp và mầu sắc Mầu sắc của quần áo mặc hay các thứ trong nhà (cây cảnh, bàn, ghế, giường, tủ....) cũng như khi trưởng thành nên làm những nghành, nghề theo đúng hành của dụng thần thì cuộc sống chắc chắn sẽ thuận lợi hơn nhiều (vì chúng cũng có một phần nào bổ xung thêm cho hành làm dụng thần). VI - Các hạn chưa có cách nào để ngăn chặn Các hạn được gây ra bởi các điểm hạn của thiên khắc đia xung, nạp âm, các hợp cục gây ra đại chiến, đại chiến 1 hay đại chiến 2,…….. thì đến giờ tôi vẫn chưa có một ý tưởng nào để ngăn chặn chúng. Các cách ngăn chặn (giải cứu) cơ bản ở trên tôi cũng chỉ từ các suy luận có lý mà đưa ra, còn chúng có giá trị hay không thì tôi chưa biết. Bởi vì năm 2004 tôi mới được biết đến môn này qua cuốn Dự Đoán Theo Tứ Trụ của thầy trò Thiệu Vĩ Hoa. Sau đó tôi tự nghiên cứu không có thầy và bạn, vì vậy tôi chưa có thời gian và điều kiện để thử nghiệm chúng trong cuộc sống.
    1 like
  22. đang trong 10 niên đại vận ;tướng triệt ;vũ- kỵ /chờ cho qua hết vận nầy mới phát được ,từ 33t trở đi như diều thêm gió ,đôi khi vài cơn gió lốc làm diều bứt dây .
    1 like
  23. Câu này rất hay, có thể đây là một phương pháp đơn giản, trực quan, đại chúng, dễ hiểu mà không kém phần chính xác để quán xét tiếng Việt và Tàu xem ai bắt chước ai!!!Cứ cho một anh Tây nào đó phát âm xem anh ta "nhại lại" tiếng nào dễ hơn. Đương nhiên tiếng khó hơn phải là tiếng gốc vì bắt chước thì dễ hơn là phát hiện. Tàu nhại tiếng ta thì khó chứ ta nhại tiếng tàu thì dễ ợt !
    1 like
  24. Chếch choáng men say dựng đá sầu Tấc lòng vạn lối vạn tương tư Mang nhớ mang thương vùi đáy cốc Mang cả tủi hờn cạn chén say Những tưởng say sầu đời quên mất Đâu hay rượu cạn sầu chẳng vơi Ta chôn thân ta vào men đắng Buộc cả đời mình mộng viễn vông 24 Juillet 2011 ntpt Lâu quá ntpt không ghé quán thơ của cô, giờ thấy mọi người say nên đua đòi :P
    1 like
  25. Chào học hỏi! Các can được xem là động như sau: 1 - Các can nằm trong các tổ hợp (hóa hay không hóa) giữa Tứ Trụ với tuế vận hay giữa đại vận, lưu niên, tiểu vận với nhau (chú ý: các can giống với các can trong tổ hợp mà ở bên ngoài tổ hợp này không được xem là động cũng như tổ hợp chỉ có các can trong Tứ Trụ thì các can này cũng không được xem là động). 2 - Các can giữa Tứ Trụ và tuế vận khắc nhau, khi đó các can trong Tứ Trụ giống các can này mới khắc được nhau cũng được xem là động (kể cả khi chúng khắc cách ngôi). 3 - Các can giữa đại vận, lưu niên, tiểu vận khắc nhau. Ví dụ: Ta thấy Bính đại vận hợp với Tân trong Tứ Trụ nên Bính đại vận và Tân là động nhưng Bính trụ giờ không ở trong tổ hợp nên vẫn là tĩnh. Kỷ lưu niên khắc Quý trong Tứ Trụ nên 2 can này là động, khi đó Kỷ trong Tứ Trụ mới động nên mới khắc được Quý. Giả sử Quý được thay bằng Ất thì Ất khắc được Kỷ lưu niên thì khi đó nó mới khắc được Kỷ trong Tứ Trụ, vì vậy 3 can này được xem là động. Ðiều này chỉ đúng theo lý thuyết của tôi (theo trường phái của cụ Thiệu) là các can trong tổ hợp không có khả năng khắc các can ở ngoài tổ hợp và ngược lại. Thân chào.
    1 like
  26. Vậy mà còn chạy vào học tử vi. Thiệt là....
    1 like
  27. Vợ dạng người ;hơi cao từ 1m6 >1m65 , nước da trắng hông hào ,hơi tròn người mặt đầy đặn ,đẹp và đãm đang ,hay thích ăn diện mua sắm vặt ,tánh tình nhân hậu thẳng thắng hay giúp ngừoi ,thấy chuyện bất bình thì ăn thua đủ /đàn ông mà có thiên tướng thủ cung thê thì nhất rồi ,mặc dầu danh lợi không đạt nhưng mà có vợ đẹp lại hiền cơm nước áo mặt vợ lo cho no đủ thì phú quí vinh hoa có khi cũng không đổi lấy được .
    1 like
  28. Tạm như vầy ; khi xem cung phu- thê thì nên xem kèm cung tử ,hay ngược lại / thường là nữ ,khi có hóa kỵ + hồng hay Đào ,thì người nầy , có lần gãy gánh giữa đường ,rồi lấy chồng khác ... nếu có Hóa kỵ đơn thủ [ không còn con gái trước khi về nhà chồng ] > nói cái nầy chắc bị mấy cô chửi rũa quá ???... > lại gặp mấy cậu muốn cưới vợ thì tò mò tìm hiểu chuyện đó ; thôi cũng không sao ,cái nầy nói theo sách vỡ mà / à quên còn nam thì hốt ổ không chừng như vậy .
    1 like
  29. Tôi không thể áp chế cô nhận giờ sanh nào cả ,nhưng tôi chỉ đưa ra những dữ kiện nào thích hợp với giờ sanh của cô ,vì bởi ngày xưa ông bà cha mẹ khi sinh ra chỉ chú ý đến ngày tháng năm sinh là tốt rồi ,ngay cả bây giờ cả thế hệ trẻ sau nầy cha mẹ cũng không chú trọng đến giờ sanh ,mà thường cứ lên đây nhờ xác định giờ sanh trước khi nhờ giải lá số / để thêm phần xác định giờ Tý ;với giờ nầy cung cha mẹ của cô có đại hao + địa không -địa kiếp thì trong song thân sớm khuyết 1 người lúc cô còn nhỏ ,nếu không lầm thì từ cô lên 5> 14t có khuyết 1 người ,nếu cha mẹ còn đủ hiện nay thì trong khoảng thời gian đó cô buộc phải xa cách 1 trong 2 thân ,vì số cô khắc 1 trong 2 người [ tôi không thể coi xa hơn về em gái của cô trong lá số của cô được] / có phải đường quan lộ của cô rất sáng sủa cũng có địa vị cao , bỗng lộc cũng nhiều ,không biết có đúng không ,cô làm những ngành nghề gì đó có liên quan đến ..,sự tiếp xúc giao thiệp nhiều người khách lạ ,như các ngành về ngoại giao ,du lịch tiếp đãi nhiều khách ngoại quốc ? ,năm vừa qua [sửu] cô gặp khá rắc rối về đất đai nhà cửa ,như thủ tục giấy tờ thưa kiện ,hay là bị thu hồi đất nhà cửa ,nếu có đầu tư về bất động sản hay mua đât đai cô bị thua lỗ hay bị lấy nhà ? ,có lẽ từ trước tới giờ cô chưa có dịp xuất ngoại hay có thì cũng thời gian rất ngắn ngũi .
    1 like
  30. Tuần -Triệt gặp bất cứ sao nào cũng phá đi tính chất của sao đó ,nhưng ngược lại không có sao nào có thể giải phá được cặp hung thần nầy .
    1 like