-
Thông báo
-
Nội quy Lý Học Plaza
Nội quy này là bản mở rộng Nội Quy - Quy định của Diễn đàn. Khi tham gia mua bán, các thành viên phải tuân theo những quy định sau: Tiêu đề bài viết: Bao gồm: Chỉ dẫn địa lý, Loại hình Mua/Bán, Thông tin mua bán.
Chỉ dẫn địa lý: Tỉnh/thành nơi mua bán. Hoặc sử dụng định nghĩa có sẵn:TQ: Toàn quốc
HCM: TP Hồ Chí Minh
HN: Hà Nội
[*]Ví dụ: HCM - Bán Vòng tay Hổ Phách Nội dung bài viết: Mô tả chi tiết sản phẩm mua/bán
Bắt buộc phải có thông tin liên lạc, giá Mua/Bán
Bài mới đăng chỉ được phép up sau 03 ngày.
Thời gian up bài cho phép: 01 ngày 01 lần.
Các hành vi vi phạm nội quy này sẽ bị xóa bài hoặc khóa tài khoản mà không cần báo trước.
-
Leaderboard
Popular Content
Showing most liked content on 25/07/2011 in all areas
-
Bài Học Miếng Trầu
Thiên Luân and 2 others liked a post in a topic by Lãn Miên
Bài học miếng trầu Trời xe nhau lại nên Giầu (TRẦU) Không dưng sao đến bạc đầu Cần Nhau (CAU) Nên duyên em đến Với Tôi (VÔI) Môi thêm Vệt Đỏ (VỎ) đẹp đôi vợ chồng Miếng trầu bốn vị, chữ Tâm 心 Cũng là số bốn thủy chung đời người (SINH-LÃO-BỆNH-TỬ) Âm động, Dương tịnh ngẫm soi Bà thời nông nổi, Ông thời thâm uyên Sang Tây tầm đạo học thiền Biển Đông đánh cá dong thuyền ra khơi Nhu-Cương hai chữ để đời Nhu thì mất Nước, cương thời lao đao Miếng trầu xưa dạy thủa nào Nền vôi trắng sạch ngấm vào đỏ tim Nước non muốn giữ vẹn nguyên Xúc tác minh bạch, dân liền đồng tâm.3 likes -
Tiếng Việt Dể Mà Khó
tuấn dương and one other liked a post in a topic by Thiên Đồng
TIẾNG VIỆT, DỄ MÀ KHÓ Tiếng Việt vừa dễ vừa khó, đúng hơn, dễ mà lại khó. Dễ đến độ rất hiếm người Việt Nam nào cảm thấy có nhu cầu phải sắm một cuốn Từ Ðiển Tiếng Việt trong nhà. Dễ đến độ bất cứ người nào trưởng thành ở Việt Nam cũng đều có thể tưởng là mình... thông thái, và nếu muốn, đều có thể trở thành... nhà văn được. Thế nhưng, chỉ cần, một lúc thảnh thơi nào đó, ngẫm nghĩ một chút về tiếng Việt, chúng ta bỗng thấy hình như không phải cái gì chúng ta cũng hiểu và có thể giải thích được. Trước đây, có lần, đọc cuốn Trong Cõi của Trần Quốc Vượng, một nhà nghiên cứu sử học, khảo cổ học và văn hoá dân gian nổi tiếng ở trong nước, tới đoạn ông bàn về hai chữ "làm thinh", tôi ngỡ đã tìm thấy một phát hiện quan trọng. Theo Trần Quốc Vượng, "thinh" là thanh, âm thanh, hay là tiếng ồn. "Nín thinh" là kiềm giữ tiếng động lại, là im lặng. Thế nhưng "làm thinh" lại không có nghĩa là gây nên tiếng động mà lại có nghĩa là... im lặng. Cũng giống như chữ "nín thinh". Trần Quốc Vượng xem đó như là một trong những biểu hiện của Phật tính trong ngôn ngữ và văn hoá Việt Nam: "nín" và "làm" y như nhau; có và không y như nhau; ấm và lạnh cũng y như nhau (áo ấm và áo lạnh là một!); "đánh bại" và "đánh thắng" y như nhau. Quả là một thứ tiếng "sắc sắc không không", nói theo ngôn ngữ Phật giáo, hay "huyền đồng", nói theo ngôn ngữ của Trang Tử. (1) Thú thực, đọc những đoạn phân tích như thế, tôi cảm thấy mừng rỡ và thích thú vô hạn. Thế nhưng, chẳng bao lâu sau, đọc bài viết "Tìm nguồn gốc một số từ ngữ tiếng Việt qua các hiện tượng biến đổi ngữ âm" của Lê Trung Hoa, tôi lại bàng hoàng khám phá ra là chữ "làm thinh" thực chất chỉ là biến âm của chữ "hàm thinh" trong chữ Hán. "Hàm" có nghĩa là ngậm (như trong các từ: hàm ân, hàm oan, hàm tiếu, hàm huyết phún nhân...). "Hàm thinh" là ngậm âm thanh lại, không cho chúng phát ra, tức là không nói, tức là... im lặng. (2) Y như chữ "nín thinh". Nhưng sự giống nhau ở đây chỉ là sự giống nhau của hai từ đồng nghĩa, chứ chả có chút Phật tính hay Trang Tử tính gì trong đó cả. Tôi mới biết là mình mừng hụt. Một ví dụ khác: về hai chữ "vợ chồng". Trước đây, đã lâu lắm, đọc cuốn Ngôn Ngữ và Thân Xác của Nguyễn Văn Trung, tôi thấy tác giả giải thích hai chữ "vợ chồng" đại khái như sau: "Chồng" là chồng lên nhau, nằm lên nhau. Còn chữ "vợ"? Nguyễn Văn Trung chỉ viết bâng quơ, trong câu chú thích in cuối trang: "chữ vợ phải chăng là vơ, vớ, đọc trại đi, theo giọng nặng; nếu thế, chữ vợ chỉ thị việc quơ lấy quàng lên, vơ vào, phù hợp với việc chồng lên trong hành động luyến ái?" (tr. 40) Ðọc đoạn ấy, tôi hơi ngờ ngờ, nhưng rồi cũng bỏ qua, không chú ý mấy. Gần đây, tôi sực nhớ lại vấn đề ấy khi đọc cuốn Phương Ngữ Bình Trị Thiên của Võ Xuân Trang. Tôi được biết là ở Bình Trị Thiên, thay vì nói cái "vai", người ta lại nói cái "bai"; thay vì nói đôi "vú", người ta lại nói đôi "bụ"; thay vì nói "vải", người ta lại nói "bải"; thay vì nói "vá" áo, người ta nói "bá" áo; thay vì nói "vả" (vào miệng), người ta lại nói "bả" (vào miệng), v.v... Qua những sự hoán chuyển giữa hai phụ âm V và B như thế, tự dưng tôi nảy ra ý nghĩ: phải chăng nguyên thuỷ của chữ "vợ" là... bợ? "Vợ chồng" thực ra là "bợ chồng"? Tôi càng tin vào giả thuyết trên khi nhớ lại, trong tiếng Việt hiện nay, có cả hàng trăm từ nguyên thuỷ khởi đầu bằng phụ âm B đã biến thành V như thế. Nhiều nhất là từ âm Hán Việt chuyển sang âm Việt. Ví dụ: trong chữ Hán, chữ "bái" sang tiếng Việt thành "vái"; chữ "bản" sang tiếng Việt thành "vốn" và "ván"; chữ "bích" sang tiếng Việt thành "vách"; chữ "biên" sang tiếng Việt thành "viền"; chữ "bố" sang tiếng Việt thành "vải"; chữ "bút" sang tiếng Việt thành "viết"; chữ "bà phạn" sang tiếng Việt thành "và cơm", v.v... Theo Nguyễn Tài Cẩn, trong cuốn Giáo Trình Lịch Sử Ngữ Âm Tiếng Việt (sơ thảo), quá trình hoán chuyển từ B đến V kéo dài khá lâu cho nên hiện nay thỉnh thoảng cả hai biến thể B/V vẫn còn tồn tại song song với nhau, như: băm và vằm (thịt); be và ve (rượu hay thuốc); béo và véo; bíu và víu, v.v... Chúng ta biết là hiện tượng tồn tại song song của hai biến thể như thế không phải chỉ giới hạn trong hai phụ âm B và V. Theo nhiều nhà ngôn ngữ học, ngày xưa, từ khoảng thế kỷ 17 trở về trước, trong tiếng Việt có một số phụ âm đôi như BL (blăng, blời...), ML (mlầm) hay TL (tlánh). Ðến khoảng thế kỷ 18, các phụ âm đôi ấy dần dần rụng mất. Ðiều đáng chú ý là khi những phụ âm đôi ấy rụng đi thì chúng lại tái sinh thành một số phụ âm khác nhau. Ví dụ phụ âm đôi TL sẽ biến thành TR hoặc L, do đó, hiện nay, chúng ta có một số chữ có hai cách phát âm và hai cách viết khác hẳn nhau, cùng tồn tại song song bên nhau, đó là các chữ tránh và lánh; trộ và lộ, trồi và lồi, trêu và lêu, trũng và lũng, trộn và lộn, trọn và lọn, trệch và lệch, trèo và leo, tràn và lan, v.v... Trong khi đó phụ âm đôi ML sẽ biến thành L hoặc NH, bởi vậy, chúng ta cũng có một số từ tương tự, như lầm và nhầm, lời và nhời, lẽ và nhẽ, lát và nhát, lạt và nhạt, lớn và nhớn.(3) Trong những cặp từ tương tự vừa kể, có một số chữ dần dần bị xem là phương ngữ hoặc là cách nói cổ, càng ngày càng ít nghe, như các chữ Nhớn, Nhời, và Nhẽ. Thay vào đó, chúng ta sẽ nói là lớn, lời và lẽ. Tuy nhiên, những chữ khác thì cho đến nay cũng vẫn còn tồn tại khá phổ biến, ví dụ chúng ta có thể nói là rượu lạt hoặc rượu nhạt; nói lầm lẫn hoặc nhầm lẫn; nói một lát dao hay một nhát dao đều được cả. Ðặt trong toàn cảnh mối quan hệ giữa hai phụ âm B và V cũng như quá trình biến đổi phụ âm đầu như thế, chúng ta sẽ thấy ngay giả thuyết cho nguồn gốc của chữ "vợ" trong "vợ chồng" là "bợ" rất có khả năng gần với sự thật. "Vợ chồng" như thế, thực chất là "bợ chồng". "Bợ": từ dưới nâng lên; "chồng": từ trên úp xuống. Danh từ "bợ chồng" diễn tả tư thế thân mật giữa hai người nam nữ khi ăn ở với nhau. Cách gọi tên khá thật thà như thế kể cũng thú vị đấy chứ? Qua các trường hợp biến đổi từ "hàm thinh" thành "làm thinh" và từ "bợ chồng" thành "vợ chồng", chúng ta tiếp cận được một hiện tượng rất phổ biến trong tiếng Việt: hiện tượng biến âm. Biến âm không phải chỉ vì nói ngọng, kiểu "long lanh" thành "nong nanh" hay "nôn nao" thành "lôn lao" như một số người ở một số địa phương nào đó. Biến âm cũng không phải chỉ vì phương ngữ, kiểu "về" thành "dề" như ở miền Nam, hay "nhà" thành "dà" như ở một số làng huyện ở miền Trung, "trung trinh" thành "chung chinh" như ở miền Bắc. Ðiều đáng nói hơn là những hiện tượng biến âm xuất phát từ những quy luật nội tại của ngôn ngữ, những sự biến âm có mặt ở mọi vùng đất nước và nếu không tự giác và tốn công truy lục, chúng ta sẽ không thể nào tái hiện được nguyên dạng của nó. Chúng ta dễ ngỡ biến âm là chính âm. Dễ ngỡ nó tự nhiên là thế. Ví dụ, để diễn tả tâm sự buồn nào đó dần dần giảm nhẹ đi, chúng ta hay dùng chữ "nguôi ngoai". Ðúng ra là "nguôi hoai". Trong các từ điển cổ, "hoai" có nghĩa là phai nhạt. Nghĩa ấy, cho đến bây giờ chúng ta vẫn dùng trong chữ "phân đã hoai". "Nguôi hoai" là từ ghép chỉ sự phai dần của một nỗi buồn, một niềm đau. Tương tự như vậy, chữ "yếu ớt" chúng ta hay dùng ngày nay là do chữ "yếu nớt". "Ớt" thì không có nghĩa gì cả. Trong khi "nớt" có nghĩa là sinh thiếu tháng, vẫn còn dùng trong từ "non nớt". "Yếu nớt", do đó, có nghĩa là yếu đuối, là non nớt. Chữ "nói mớ" thật ra là biến âm của chữ "nói mơ", nói trong giấc mơ. "Nước miếng" thật ra là biến âm của "nước miệng", nước chảy ra từ miệng, cùng cách kết cấu với các chữ nước mắt hay nước mũi. Chữ "to tát" hiện nay tất cả các từ điển đều viết với chữ T ở cuối, TÁT; nhưng trong Ðại Nam quốc âm tự vị của Huỳnh Tịnh Của thì lại viết chữ TÁC kết thúc bằng C: "to tác", kèm theo lời định nghĩa là: thô kệch, lớn tác. Mà chúng ta đều biết chữ TÁC có nghĩa là tuổi hay vóc dáng, như trong các từ tuổi tác, tuổi cao tác lớn, hay ngày xưa người ta nói bạn tác, tức bạn hữu; trang tác, tức cùng lứa, cùng tuổi với nhau. (4) Các con số đếm, nơi rất cần sự chính xác, cũng không thoát khỏi luật biến âm. Như số 1, chẳng hạn. Ðứng một mình là một. Ðứng trước các con số khác cũng là một. Nhưng khi đứng sau các con số khác, trừ số 10, nó lại biến thành "mốt": hai mươi mốt; ba mươi mốt, bốn mươi mốt. Những chữ "mốt" ấy chính là biến âm của "một". Nhưng không phải lúc nào "mốt" cũng có nghĩa là một: "Mốt" trong một trăm mốt hay trong một ngàn mốt, một triệu mốt... không phải là một. Con số 5 cũng vậy. Ðứng một mình là năm. Ðứng trước các số khác cũng là năm. Nhưng khi đứng sau các số, từ 1 đến 9, nó lại biến thành "lăm": mười lăm, hai mươi lăm... Con số hai mươi lăm ấy lại được biến âm thêm một lần nữa, thành hăm nhăm. Số ba mươi lăm cũng thường được biến âm thành băm nhăm. Từ số bốn mươi lăm trở lên thì chỉ có một cách rút gọn là bốn lăm; năm lăm, sáu lăm, bảy lăm, tám lăm, và chín lăm chứ không có kiểu biến âm như hăm nhăm và băm nhăm. Con số 10, cũng vậy. 10 là mười. Nhưng từ 20 trở lên thì "mười" biến thành "mươi”: hai mươi, ba mươi, bốn mươi... Dấu huyền bị biến mất. Có điều, "mươi" không phải lúc nào cũng có nghĩa là mười. Trong nhóm từ "mươi cái áo", chẳng hạn, "mươi" lớn hơn hoặc nhỏ hơn mười: một con số phỏng định, ước chừng, bâng quơ. Con số còn thay đổi được, huống gì những từ khác. Như từ "không", chẳng hạn. Phủ định điều gì, người ta có thể nói "không", mà cũng có thể nói "hông", nói "khổng", nói "hổng". Xuất hiện trong câu nghi vấn, chữ "không" ấy có thể có thêm một biến âm khác là "hôn": "nghe hôn?" Chưa hết. Một số âm vị trong cụm "nghe hôn" ấy bị nuốt đi; "nghe hôn" biến thành "nghen", rồi đến lượt nó, "nghen" lại biến thành "nghén" hay bị rút gọn lần nữa, thành "nhen", rồi "hen", rồi "hén", rồi "nhe", v.v... Như vậy, biện pháp biến âm trở thành một biện pháp tạo từ. Ðã có từ "vậy", chỉ cần thay dấu nặng bằng dấu huyền, chúng ta có từ mới: "vầy" (như vầy này!). Ðã có từ "lui hui", người ta tạo thêm các chữ "lúi húi" rồi "lụi hụi". Ðã có từ "chừ bự", người ta tạo thêm các từ mới: chư bư, chừ bư, chừ bử, chử bử, chứ bứ, chự bự. Ðã có "trật lất", người ta tạo thêm: trết lết, trét lét, trớt lớt, trớt huớt... (5) Ðã có từ "ngoại" vay mượn từ chữ Hán, chúng ta tạo thêm hay từ khác: "ngoài" để các quan hệ không gian cũng như thời gian và "ngoái" để chỉ quan hệ về thời gian: "năm ngoái". Biện pháp biến âm như vậy đã dẫn đến một hiện tượng khá thú vị trong tiếng Việt: hiện tượng từ tương tự, tức những từ hao hao gần nhau về cả ngữ âm lẫn ngữ nghĩa, chẳng hạn: các chữ bớt và ngớt; đớp, tợp, hớp và đợp; bẹp, xẹp, lép, khép, nép và nẹp; khan, khàn và khản; xẻ, chẻ, bẻ và xé; xoăn, xoắn, quăn và quắn; tụt, rụt và thụt; véo, nhéo, và béo; v.v... Các từ tương tự ấy có khi khác nhau về từ loại nhưng lại tương thông tương ứng với nhau về ý nghĩa, chẳng hạn: chúng ta có cái nẹp để kẹp, cái nêm để chêm, cái nan để đan, cái mõ để gõ, cái nệm để đệm, cái vú để bú; hoặc chúng ta cưa thì thành khứa, rung thì rụng, phân thì có từng phần, dựng thì đứng, thắt thì chặt, đập thì giập, dìm thì chìm, ép thì ẹp, dứt thì đứt, chia thì lìa, gạn thì cạn, v.v.... Mới đây, đọc báo, không hiểu tại sao, tình cờ tôi lại chú ý đến chữ "đút" trong một câu văn không có gì đặc biệt: "Chị ấy đút vội lá thư vào túi quần..." Từ chữ "đút" ấy, tôi chợt liên tưởng đến chữ "rút": cả hai từ làm thành một cặp phản nghĩa: đút (vào) / rút (ra). Ðiều làm tôi ngạc nhiên là cả hai từ đều có phần vần giống nhau: "-ÚT". Chúng chỉ khác nhau ở phụ âm đầu mà thôi: một chữ bắt đầu bằng phụ âm "đ-" (đút) và một chữ bằng phụ âm "r-" (rút). Hơn nữa, cả từ "đút" lẫn từ "rút", tuy phản nghĩa, nhưng lại có một điểm giống nhau: cả hai đều ám chỉ sự di chuyển từ không gian này sang không gian khác. "Ðút" cái gì vào túi hay "rút" cái gì từ túi ra cũng đều là sự chuyển động từ không gian trong túi đến không gian ngoài túi hoặc ngược lại. Tôi nghĩ ngay đến những động từ có vần "-ÚT" khác trong tiếng Việt và thấy có khá nhiều từ cũng có nghĩa tương tự. "Sút" là động tác đưa bóng vào lưới. "Hút" là động tác đưa nước hoặc không khí vào miệng. "Mút" cũng là động tác đưa cái gì vào miệng, nhưng khác "hút" ở chỗ vật thể được "mút" thường là cái gì đặc. "Trút" là đổ cái gì xuống. "Vút" là bay từ dưới lên trên. "Cút" là đi từ nơi này đến nơi khác do bị xua đuổi. "Nút" hay "gút" là cái gì chặn lại, phân làm hai không gian khác nhau. Thay dấu sắc (ÚT) bằng dấu nặng (ỤT), ý nghĩa chung ở trên vẫn không thay đổi. "Trụt" hay "tụt" là di chuyển từ trên xuống dưới. "Vụt" là di chuyển thật nhanh, thường là theo chiều ngang. "Lụt" là nước dâng lên quá một giới hạn không gian nào đó. "Cụt" là bị cắt ngang, không cho phát triển trong không gian. "Ðụt" (mưa) là núp ở một không gian nào đó, nhỏ hơn, để tránh mưa ngoài trời. Vân vân. Nếu những động từ có vần "-ÚT" thường ám chỉ việc di chuyển (hoặc việc ngăn chận quá trình di chuyển ấy) giữa hai không gian thì những động từ có vần "-UN" lại ám chỉ việc dồn ứ lại thành cục trong một không gian nhất định nào đó, thường là có giới hạn. "Ùn", "chùn", "dùn", hay "đùn" đều có nghĩa như thế. "Thun" hay "chun" cũng như thế, đều chỉ cái gì bị rút, bị co. "Cùn" là bẹt ra. "Hùn" là góp lại. "Vun" là gom vào. "Lún" hay "lụn" là bẹp xuống. Cả những chữ như "lùn" hay (cụt) "lủn", (ngắn) "ngủn", "lũn cũn"... cũng đều ám chỉ cái gì bị dồn nhỏ hay thu ngắn lại. Với cách phân tích như vậy, nếu đọc thật kỹ và thật chậm các cuốn từ điển tiếng Việt, chúng ta sẽ dễ thấy có khá nhiều khuôn vần hình như có một ý nghĩa chung. Chẳng hạn, phần lớn các động từ hay tính từ kết thúc bằng âm ÉT hay ẸT đều chỉ những động tác hay những vật thể hẹp, thấp, phẳng. "Kẹt" là mắc vào giữa hai vật gì; "chẹt" là bị cái gì ép lại. "Dẹt" là mỏng và phẳng; "tẹt" là dẹp xuống (kiểu mũi tẹt); "bét" là nát, dí sát xuống đất; "đét" là gầy, mỏng và lép. Những dộng từ kết thúc bằng âm EN thường chỉ các động tác đi qua một chỗ hẹp, một cách khó khăn, như: "chen", "chẹn", "chèn", "len", "men", "nghẽn", "nghẹn", "nén". Những từ láy có khuôn vần ỨC – ÔI thì chỉ những trạng thái khó chịu, như "tức tối", "bức bối", "bực bội", "nực nội", "nhức nhối", v.v... Những ví dụ vừa nêu cho thấy hai điều quan trọng: Thứ nhất, nếu chịu khó quan sát, chúng ta sẽ phát hiện trong những chữ quen thuộc chúng ta thường sử dụng hàng ngày ẩn giấu những quy luật bí ẩn lạ lùng. Tính chất bí ẩn ấy có thể nói là vô cùng vô tận, dẫu tìm kiếm cả đời cũng không hết được. Ðiều này khiến cho không ai có thể an tâm là mình am tường tiếng Việt. Ngay cả những nhà văn hay nhà thơ thuộc loại lừng lẫy nhất vẫn luôn luôn có cảm tưởng ngôn ngữ là một cái gì lạ lùng vô hạn. Thứ hai, vì có những quy luật, những điểm chung tiềm tàng giữa các chữ như vậy cho nên việc học tiếng Việt không quá khó khăn. Nói chung, người Việt Nam đều có khả năng đoán được ý nghĩa của phần lớn các chữ mới lạ họ gặp lần đầu. Lần đầu gặp chữ "thun lủn", chúng ta cũng hiểu ngay nó ám chỉ cái gì rất ngắn. Lý do là vì chúng ta liên tưởng ngay đến những chữ có vần "UN" vừa kể ở trên: cụt ngủn, ngắn ngủn, v.v... Lần đầu gặp chữ "dập dềnh", chúng ta cũng có thể đoán là nó ám chỉ một cái gì trồi lên trụt xuống do sự liên tưởng đến những chữ có khuôn vần tương tự: bấp bênh, gập ghềnh, khấp khểnh, tập tễnh, v.v... Nói tiếng Việt vừa dễ vừa khó là vì thế. ****************** Chú thích : 1. Trần Quốc Vượng (1993), Trong Cõi, Garden Grove: Trăm Hoa, tr. 169. 2. Lê Trung Hoa, “Tìm nguồn gốc một số từ ngữ tiếng Việt qua các hiện tượng biến đổi ngữ âm”, in trong cuốn Những vấn đề văn hoá, văn học và ngôn ngữ học (nhiều tác giả), nxb Khoa Học Xã Hội, Hà Nội, 1999: 211-225. 3. Xem bài "Vài chuyển biến trong phụ âm đầu tiếng Việt và các hiện tượng láy từ liên hệ" của Nguyễn Phú Phong trên Tập san Khoa Học Xã Hội (Paris) số 3 năm 1977, tr. 73-80. 4. Một số ví dụ trong đoạn này lấy từ bài viết của Lê Trung Hoa theo sách dẫn trên. 5. Biện pháp biến âm này đặc biệt thông dụng trong phương ngữ miền Nam. Có thể xem thêm cuốn Từ Ðiển Phương Ngữ Nam Bộ của Nguyễn Văn Ái, Lê Văn Ðức và Nguyễn Công Khai, nxb Thành Phố ****, 1994. Nguyễn Hưng Quốc nguồn: http://cuocsongviet.com.vn2 likes -
Tin Mới
Hạt gạo làng and one other liked a post in a topic by Lãn Miên
Cộng đồng mạng đang xôn xao về trường hợp quyển sách Luyện kỹ năng đọc hiểu tiếng Hoa "có in bản đồ đường lưỡi bò của Trung Quốc", đã tồn tại trên thị trường suốt sáu năm nay. Thông tin này gây bất bình trong nhiều người. Ðây là quyển sách dạy tiếng Hoa, tác giả: Ngọc Huyên, do doanh nghiệp sách Thành Nghĩa liên kết xuất bản với Nhà xuất bản Thanh Niên ấn hành từ quý 4-2005 (giấy CNKHXB 316/1528 CXB cấp ngày 9-9-2005). Sách bao gồm các bài khóa, hướng dẫn cách đọc tiếng Trung Quốc, qua đó người học làm quen với một số thông tin về đời sống học sinh, khí hậu các vùng, thói quen du lịch, các quan hệ giao tiếp, lễ kỷ niệm... của Trung Quốc. Nhưng tại trang 274, thuộc chủ điểm 2 của bài 17, phần giới thiệu các thông tin cơ bản của quốc gia Trung Quốc, sách in kèm một hình vẽ bản đồ Trung Quốc với cả đường lưỡi bò (đường chữ U đứt đoạn) thể hiện như một đường biên bao trùm các đảo. Giới quan sát cho rằng đây là cách làm việc cẩu thả và tắc trách của người soạn sách và lãnh đạo Nhà xuất bản Thanh Niên - nơi cấp phép và chịu trách nhiệm nội dung sách này. Xét trong bối cảnh quan hệ các bên ở biển Ðông, việc công bố bản đồ đường lưỡi bò của Trung Quốc đang bị Việt Nam và các bên liên quan phản đối. Báo Tuổi Trẻ cũng từng dẫn lời thạc sĩ Hoàng Việt khẳng định đường lưỡi bò của Trung Quốc là "vô căn cứ" (Tuổi Trẻ ngày 3-9-2009). Do vậy, việc ấn phẩm của một nhà xuất bản Việt Nam lại thể hiện hình vẽ bản đồ đường lưỡi bò trong nội dung là đi ngược lại chủ trương bảo vệ chủ quyền lãnh thổ của Việt Nam. Và tại khoản 4, điều 10 Luật xuất bản Việt Nam năm 2004 có quy định những nội dung "xuyên tạc sự thật lịch sử" là một trong những hành vi bị cấm trong xuất bản. LAM ĐIỀN2 likes -
Chân thành cám ơn những lời chúc tốt đẹp của tất cả dành cho Wild nhân ngày Sinh Nhật và hãy nhận lại từ Wild lòng tri ân tri ngộ. @ ntpt & Thiên Luân : Merci pour tes souhaits même belle chanson "On ne peut pas choisir le destin de notre vie, il faut que pouvoir d'augmenter la meilleur charité pour changer"2 likes
-
TƯ VẤN PHONG THỦY LẠC VIỆT TỪ THIỆN Quý bạn đọc và thành viên diễn đàn thân mến, Nền Văn Hiến Việt 5000 năm lịch sử, một thời Huyền Vĩ ở bờ Nam sông Dương Tử, đã để lại cho con dân Việt nhiều di sản quý giá. Trong đó, môn Phong Thủy (được phục hồi lại với tên gọi Phong Thủy Lạc Việt), là môn ứng dụng quan trọng của thuyết Âm Dương Ngũ Hành và thực tế hiện nay đang chứng minh nhiều ưu điểm của Phong Thủy Lạc Việt trong việc hỗ trở cuộc sống con người. Chính vì vậy, với phát nguyện của anh +Achau+, chuyên viên nghiên cứu Phong Thủy Lạc Việt của TTNC-LHĐP, diễn đàn LHĐP mở Topic này nhằm tư vấn Phong Thủy, giúp đỡ cho những Gia đình Thành viên có hoàn cảnh thực sự khó khăn. Đối tượng tư vấn : những gia đình khó khăn thật sự, bế tắc trong cuộc sống, gia cảnh sa sút...v.v Hình thức tư vấn : tư vấn PTLV trực tiếp tại nhà cho những Gia đình Thành viên trong Nội thành Tp.Hồ Chí Minh. Thành viên tham gia : + Phụ trách, chịu trách nhiệm : +Achau+ + Tham gia : ACE thành viên nghiên cứu của TTNC-LHĐP. Kính báo. *Lưu ý : - Thành viên muốn được tư vấn: đăng kí, nêu rõ hoàn cảnh.. Chúng tôi sẽ liên hệ qua hộp thư cá nhân diễn đàn để lấy địa chỉ, số điện thoại. Vì lý do tôn trọng thông tin cá nhân nên địa chỉ hoặc số điện thoại sẽ không được công bố trên diễn đàn. - Đây là topic tư vấn, không mang tính chất học thuật nên các bài viết hỏi đáp, thắc mắc về học thuật sẽ bị xóa.1 like
-
Thiện tai ! Thiện tai. Đây là tượng của thần Ganesha - Thần đầu voi (1 ) theo Hindu giáo. Trong hệ thống của Phật giáo cả 3 thừa nói chung là đều không có thờ vị thần này - vì khác đạo Như vậy tượng thần Ganesha đặt nới chùa là sái cách. Đặc biệt lại đặt tại vị trí đáng lý là nơi thờ đức Di Lặc như các chùa khác mới đúng. ( Có lẽ ! vị thí chủ nào đó đi Ấn Độ thấy tượng có cái bụng ông thần giống bụng Phật Di Lặc - lại cứ nghĩ Ấn Độ chĩ có mỗi Đạo Phật nên đinh ninh là tượng các vị Bồ Tát - Hộ pháp thuộc bên Phật=> thỉnh về thờ. ) Thờ Thần bên Hindu giáo rất cầu kỳ - nghi lễ và phức tạp hơn Phật giáo. Thờ không đúng cách là nguy có khi. Hy vọng Thần ngồi dưới thần chú của Phật và có cải thiện..... ================ (1) Ganesha - Là một trong những vị thần chính của Đạo HinDu ( Ấn độ giáo ) - Biểu tượng của tàitrí hạnh phúc và thành công, có nhiều tài năng, dập tắt mọi trở ngại khó khăn, cóquyền ban mọi điều tốt lành. Là thần bảo vệ bếp lửa, thần là hiện thân của thôngminh và trí tuệ của thần Shiva. Có người còn thờ Ganesha quan niệm như vị Tài Thần hay bảo trợ thần trong khi tập Yoga. Hầu hết các giáo phái của đạo Hindu đều tôn thờGanesha. Ở Nam Ấn Độ coi Ganesha là thần chính. Có nhiều tích về xuất xứ của Ganesha : 1/ Ganesha là vị thần tùy hành của thần Shiva trên núiKailasa, do thần Shiva sáng tạo ra từ ngọn lửa thần trên trán của mình biếnthành. 2 /Ganesha là con của Shiva và Parvati. Nữ thần Parvati luônbị thần Shiva nhìn với con mắt thèm muốn nên nữ thần đã tìm cách tự bảo vệmình. Do đó bà đã tạo ra thần Ganesha khi Shiva đang trên đường đi săn. KhiShiva đi săn trở về không nhận ra cơ thể nữ thần Parvati vì chúng được Ganeshache mất. Shiva rất tức tối và đã chặt đứt đầu Ganesha. Paravati cầu xin Shivađể Ganesha được sống và cho Ganesha một cái đầu mới. Để Paravati không đau khổ,Shiva đã ra lệnh cho người hầu ra ngoài tìm một cái đầu về trong vòng một ngày,nhưng đoàn người hầu đi từ sáng sớm đến chiều tối chỉ tìm thấy một con voi, họbèn chặt đầu con voi đó dâng lên cho Shiva. Shiva liền gắn đầu voi vào thânGanesha. Từ đó thần Ganesha có hình dáng mình người đầu voi.1 like
-
1 like
-
Tin Mới
Thanh Ngân liked a post in a topic by Thiên Lang
AI ĐỤC BỎ LÒNG YÊU NƯỚC Hôm qua, báo Thanh niên cho đăng bài:” Lạng Sơn, những ngày tháng hai“, một ghi chép (Không phải phóng sự) rất hay.”Đây là lần đầu tiên lễ kỷ niệm được tổ chức tại chính Lạng Sơn, mảnh đất tiền tiêu mà 32 năm trước đã diễn ra những trận đánh ác liệt nhất của quân và dân ta để giữ vững từng tấc đất biên cương Tổ quốc… Với nhiều đồng đội cũ, đây là cuộc gặp gỡ sau hàng chục năm xa cách. Người đã chuyển ngành, người vẫn phục vụ trong quân đội nhưng dường như mọi ký ức, tình cảm của những người lính Quân đoàn 14 vẫn còn vẹn nguyên như ngày nào“. Từng là người lính nhập ngũ trong thời kì “Chống Trung Quốc xâm lược”, tui rất cảm động. Nhiều đoạn rưng rưng nước mắt.Đến khi nhìn thấy bức ảnh:”Tấm bia kỷ niệm chiến thắng tại đầu cầu Khánh Khê” thì sững sờ, rực lên một nỗi đắng cay. Tấm bia kỉ niệm chiến thắng mà tan nát thế này a? Bốn chữ ” Trung Quốc xâm lựơc” đã bị đục bỏ trắng trợn. Đỗ Hùng ( Báo Thanh niên) đã viết trong blog của anh: “Từ “Trung Quốc” đã bị xóa gần như hoàn toàn, từ “xâm lược” cũng thế. Tấm bia ghi chiến tích đánh Trung Quốc của quân đội Việt Nam trong cuộc chiến tranh biên giới 1979 đã bị đục nát như là bằng chứng cho sự khiếp nhược đã tới mức không thể diễn tả bằng lời“. (Ở TP.HCM, tôi thấy những tấm bia ghi chiến tích đánh Mỹ đặt trước Lãnh sứ quán Mỹ, khách sạn Park Hyatt vẫn trơ gan cùng tuế nguyệt).” Ai đục bỏ mấy chữ kia? Đỗ Hùng không nói, báo Thanh niên cũng không nói, chỉ than thở nhẹ nhàng: “Những dấu tích của thời gian và con người đã xóa mờ một vài chỗ trên tấm bia”. Cái “con người” mà báo Thanh Niên nói, đó là ai? Tại sao lại phải đục bỏ mấy chữ kia? Bởi vì một khi chủ trương đục bỏ bốn chữ ” Trung Quốc xâm lược“ trên tấm bia kỉ niệm chiến thắng tức là tự mình đục bỏ lòng yêu nước. Đỗ Hùng gọi đấy là sự khiếp nhược, quá đúng, sự khiếp nhược được che đậy bằng cái gọi là khôn khéo. Thảm hại thay! TIẾP THEO là chuyện đục bỏ bia Bác Hồ ca ngợi công đức hoàng đế Quang Trung phá giặc Tàu. Nguyễn Bắc Sơn &Phạm Xuân Nguyên bên tấm bia khăc thơ Bác Cách đây vài tháng mình đã có bài "Ai đục bỏ lòng yêu nước" kể chuyện Tấm bia kỷ niệm chiến thắng tại đầu cầu Khánh Khê (Lạng Sơn) đã bị đục bỏ mấy chữ “Trung Quốc xâm lược“. Chuyện này do Mr. Do kể lại và đã gây sốc rất nhiêu người. Cứ tưởng đây là chuyện hi hữu, có một không hai. Không ngờ tại đền thơ vua Quang Trung trên núi Dũng Quyết ở thành phố Vinh (Nghệ An), tấm bia khắc thơ Hồ Chủ tịch đã bị đục bỏ chỉ vì lời yêu nước chống Tàu của Bác. Tệ hại hơn, tấm bia khắc công trạng của vua Quang Trung cũng bị đục bỏ, vì đó là công trạng chống Tàu. Thật kinh khủng khiếp. Kể từ 30/6 blog mình không đăng bài người ngoài. Bài viết của Phạm Xuân Nguyên là một ngoại lệ, một ngoại lệ vô cùng cần thiết. Nguyễn Huệ là kẻ phi thường Mấy lần đánh đuổi giặc Xiêm, giặc Tàu Ông đà chí cả mưu cao Dân ta lại biết cùng nhau một lòng Cho nên Tàu dẫu làm hung Dân ta vẫn giữ non sông nước nhà Cả đoạn thơ viết về Nguyễn Huệ trên đây của Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh đã được khắc vào tấm bia đá đặt ở đền thờ “người anh hùng áo vải” trên núi Dũng Quyết ở thành phố Vinh (Nghệ An). Đền này được khánh thành năm 2008. Đi vào cổng đền, qua bình phong tứ trụ, là hai nhà bia nhìn vào nhau. Nhà bia bên trái khắc “Công trạng vua Quang Trung”. Nhà bia bên phải khắc “Chủ tịch Hồ Chí Minh viết về Quang Trung”, chính là đoạn thơ này. Đứng trên đỉnh núi lộng gió, đưa mắt nhìn toàn cảnh một vùng sơn thủy hữu tình địa linh nhân kiệt xứ Nghệ, đọc tấm bia khắc những lời người anh hùng dân tộc thế kỷ XX ca ngợi người anh hùng dân tộc thế kỷ XVIII tôi thấy lòng mình cảm khái vô cùng. Hồ Chí Minh không chỉ ca ngợi Nguyễn Huệ. Ông ca ngợi khối đoàn kết toàn dân, khi “vua hiền tôi sáng” biết ở giữa nhân dân, dựa vào sức dân, nhân mạnh lên sức của dân, để giữ nước và xây nước. Ông vua nào, nhà cầm quyền nào, thể chế nào có được, và giữ được, và phát huy được sức mạnh đó, thì sẽ bền vững và xứng đáng với dân tộc, giống nòi. “Dân ta vẫn giữ non sông nước nhà” – đó là một chân lý truyền đời. Những người làm văn hóa ở Nghệ An đã có công khi chọn được đoạn thơ của Hồ Chí Minh viết về Nguyễn Huệ và thuyết phục được các cấp lãnh đạo, quản lý chấp nhận khắc ghi nó lên tấm bia ở đền thờ. Tôi nói “thuyết phục” vì trong một lần về thăm đền tôi nghe phong thanh chừng như là đang có ý kiến cho rằng mấy câu thơ ấy “nhạy cảm”, dẫu là của cụ Hồ nhưng trong hoàn cảnh “tế nhị” hiện nay của quan hệ Việt-Trung thì khắc nó lên bia, bày nó ra giữa thanh thiên bạch nhật là không lợi. Ôi, chỉ mới nghe phong thanh thế thôi tôi đã bực mình, tức giận. Sao lại có thể hèn nhát đến vậy! Tôi nghĩ, đó chỉ là một vài ý kiến của ai đó, sẽ không được chấp nhận. Tôi tin, tấm bia khắc những câu thơ viết về Nguyễn Huệ của Hồ Chí Minh sẽ đứng mãi ở đền thờ Quang Trung, trên núi Dũng Quyết, giữa đất trời Nghệ An, đất trời Việt Nam, để tỏa sáng một chân lý của người Việt Nam, nước Việt Nam. Hỡi ôi, lời phong thanh đã thành sự thực, niềm tin của tôi đã bị dập tắt phũ phàng. Khi viết bài này tôi đã gọi điện về Vinh nhờ một tiến sĩ văn học lên tận đỉnh núi Dũng Quyết, vào tận đền thờ Quang Trung, xem tận mắt tấm bia khắc lời Hồ Chí Minh viết về Quang Trung có còn nguyên đó không. Điện báo ra là đã thay, đã thay rồi chú ơi! Cháu gửi ảnh ra ngay cho chú đây. Tấm bia bên trái khắc “Công trạng vua Quang Trung” đã bị đục bỏ, thay bằng bài “Tưởng niệm Hoàng đế Quang Trung” của Vũ Khiêu. Thơ yêu nước của Hồ Chí Minh đã bị đục bỏ, thay bằng đoạn trích chiếu của Hoàng đế Quang Trung – Nguyễn Huệ gửi La Sơn Phu Tử Nguyễn Thiếp chọn đất đóng đô. Và nhìn những tấm ảnh chụp mới tức thì, tôi không tin vào mắt mình nữa. Tấm bia bên trái khắc “Công trạng vua Quang Trung” đã thay bằng bài “Tưởng niệm Hoàng đế Quang Trung” của Vũ Khiêu. Còn ở tấm bia bên phải, những lời của Hồ Chí Minh đã bị đục bỏ, thay bằng đoạn trích chiếu của Hoàng đế Quang Trung – Nguyễn Huệ gửi La Sơn Phu Tử Nguyễn Thiếp chọn đất đóng đô. Tôi đã điện hỏi kỹ người chụp đây có phải là thay bia mới vào bia cũ, hay là chỉ đục bỏ văn bia, thay bài mới. Anh cho biết đã hỏi người trông coi đền thờ thì họ nói là chỉ đục bỏ chữ, thay văn bia, chứ không thay bia. Vậy là đã rõ. Lý do việc đục bỏ văn bia lời Hồ Chí Minh là sợ Tàu! (Hãy gọi là Tàu như trong đoạn thơ của ông Nguyễn). Đau xót, nhục nhã biết bao! Chẳng lẽ trên khắp nước Nam cái gì nói đến lịch sử oai hùng của Việt Nam trong quan hệ với Trung Quốc từ xưa đến nay đều là phải né tránh, cấm đoán? Nhưng chính quyền tỉnh Nghệ An phải có trách nhiệm trả lời cho đồng bào cả nước biết rõ ràng, công khai, vì sao có sự đục bỏ văn bia ghi lời Hồ Chí Minh viết về Quang Trung tại đền thờ Quang Trung trên núi Dũng Quyết? Ai đưa ra chủ trương này? Một việc hệ trọng, thiêng liêng như vậy đã được quyết định ở cấp nào, theo nghị quyết nào của tỉnh ủy, ủy ban nhân dân tỉnh, hay của Bộ VH-TT-DL, hay của một cấp cao hơn nữa? Bởi vì tôi được biết, để chọn được đoạn thơ của Hồ Chí Minh và quyết định khắc vào bia dựng ở đền thờ Quang Trung là phải có cả một quá trình từ người chuyên môn đến nhà chính trị lựa chọn, cân nhắc và quyết định. Khắc bia rồi đục bia, xưa hay nay, đều là chuyện nghiêm trọng. Nếu hôm nay người ta không dám ca ngợi anh hùng dân tộc của mình trên đất nước mình, thì ngày mai người ta sẽ thóa mạ ai? Nếu hôm nay người ta đục bỏ lời của Hồ Chí Minh, thì ngày mai người ta giữ lại cái gì? Đục bỏ những lời Hồ Chí Minh viết về Nguyễn Huệ tại đền thờ Quang Trung vì lý do sợ ảnh hưởng đến quan hệ ngoại giao nước láng giềng là xúc phạm cả Nguyễn Huệ, cả Hồ Chí Minh, cả toàn thể nhân dân Việt Nam. Hơn lúc nào hết, trong những ngày này, những lời ca ngợi sức mạnh đoàn kết toàn dân để giữ vững chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ dân tộc trong những lời thơ Hồ Chí Minh viết về Nguyễn Huệ đang rất cần được vang lên mạnh mẽ và thống thiết! Dân ta lại biết cùng nhau một lòng Cho nên Tàu dẫu làm hung Dân ta vẫn giữ non sông nước nhà Hà Nội 23.7.2011 P.X.N ============== Chỉ có thể nói đó là có tội với Tổ tiên, với Nhân dân và với Dân tộc. Đây cũng là chi tiết lý giải được tại sao người ta phủ nhận nền lịch sử văn hóa Việt 5000 năm của chính cha ông mình. Cũng lý giải tại sao VTV, HTV và nhiều đài truyền hình khác suốt 10 năm qua chiếu sáng trưa chiều tối phim Tàu.1 like -
Đầu năm tới giờ công việc của bạn tốt không? Tiền bạc thế nào?1 like
-
Công việc được người khác giúp đỡ, có thể là cha mẹ người lớn tuổi hơn xin cho. Con đường sự nghiệp cũng bình thường trong công việc sau cũng có chức vị nho nhỏ thường hay được cấp trên nâng đỡ trọng dụng, hợp với nghề kế toán kiểm toán, thủ kho hay thu ngân, nếu đi về doanh thương cũng tốt. Lấy chồng chưa? Cuối năm nay thấy bạn có người ngỏ ý.1 like
-
Câu này rất hay, có thể đây là một phương pháp đơn giản, trực quan, đại chúng, dễ hiểu mà không kém phần chính xác để quán xét tiếng Việt và Tàu xem ai bắt chước ai!!!Cứ cho một anh Tây nào đó phát âm xem anh ta "nhại lại" tiếng nào dễ hơn. Đương nhiên tiếng khó hơn phải là tiếng gốc vì bắt chước thì dễ hơn là phát hiện. Tàu nhại tiếng ta thì khó chứ ta nhại tiếng tàu thì dễ ợt !1 like
-
Về cơ bản 2 tuổi này hợp thiên can Mậu Kỷ, địa chi hợp Thìn Tỵ, mạng Mộc có âm có dương, như vậy là hài hòa rồi. Yêu nhau cứ lấy thôi. Các phương pháp xem tuổi khác không thể hiện được đầy đủ vấn đề như xem thiên can địa chi và mạng đâu.1 like
-
1 like
-
Từ giờ tới năm 2016 ko có năm nào vừa hợp cha vừa hợp mẹ đâu. Tương quan với cha thhì thiên can quan trọng hơn, Nhâm hay quý gì cũng tương sinh với Giáp. Mạng hợp mẹ, thiên can hợp cha là ok rồi. Ngũ hành có sinh có khắc, lúc nào cũng vậy, sinh không phải lúc nào cũng tốt, khắc không hẳn là xấu. Nên nhớ như vậy. Đừng nên bám vào sinh sinh khắc khắc, chúng tôi tư vấn tức là đã cân nhắc cho bạn rồi. Sinh 2 con là đủ rồi, dân số VN tăng lên không ngừng, đừng đi ngược chủ trương nhà nước. Năm 2016 là năm rất tốt trong vòng 10 năm tới nên mới chọn sinh con út để gia đình có thể tốt về lâu về dài.1 like
-
1 like
-
Về cơ bản LVĐT đoán được, nhưng phụ thuộc vào cách luận và khả năng của từng người . Nói chung hay nói riêng thì đều là khó cả!1 like
-
1 like
-
Hillary: Tuyên bố chủ quyền phải có bằng chứng pháp lý Cập nhật lúc 23/07/2011 06:14:00 PM (GMT+7) - Ngoại trưởng Mỹ Hillary Clinton vừa kêu gọi các bên tranh chấp ở Biển Đông đưa ra tuyên bố chủ quyền với bằng chứng pháp lý. Theo bình luận của hãng Reuters, đây là một thách thức đối với Trung Quốc khi nước này tuyên bố chủ quyền với hầu hết Biển Đông. "Chúng tôi cũng kêu gọi tất cả các bên làm rõ những tuyên bố của họ ở Biển Đông trong điều kiện phù hợp với luật pháp quốc tế”, bà Clinton tuyên bố tại hội nghị an ninh lớn nhất của châu Á, ARF. "Tuyên bố với không gian hàng hải ở Biển Đông chỉ nên xuất phát từ tuyên bố chủ quyền hợp pháp với đặc điểm đất liền”, Ngoại trưởng Mỹ khẳng định. Ngoại trưởng Mỹ Hillary Clinton và người đồng nhiệm Trung Quốc Dương Khiết Trì. Ảnh: Reuters Tranh chấp Biển Đông trở thành tâm điểm cuộc gặp ARF tuần này tại Bali, Indonesia - nơi Mỹ, Trung Quốc, các nước ASEAN thảo luận về tương lai vùng biển giàu tài nguyên. Trung Quốc và 4 nước ASEAN - Philippines, Malaysia, Brunei và Việt Nam - đều tuyên bố chủ quyền ở Biển Đông. Trong đó Trung Quốc đưa ra tuyên bố chủ quyền lớn nhất, với bản đồ hình chữ U bao trùm hầu hết Biển Đông. Trong khi đó, Washington đã không ngại ngần chọc giận Bắc Kinh với tuyên bố Mỹ có lợi ích quốc gia trong đảm bảo tự do hàng hải và thương mại ở Biển Đông. Gần đây nhất, phản ứng với việc một đoàn nghị sĩ ra thăm hòn đảo mà họ nói thuộc chủ quyền của Philippines, Trung Quốc đã khẳng định có chủ quyền không thể tranh cãi với Biển Đông kể từ thời xa xưa. Phân định chủ quyền theo luật quốc tế Bắc Kinh hôm thứ năm đã nhất trí tiến hành những bước đi sơ bộ với các quốc gia Đông Nam Á để thiết lập một bộ quy tắc ứng xử về Biển Đông. Động thái này được Ngoại trưởng Clinton cho rằng có thể làm dịu căng thẳng gần đây trong khu vực khi Việt Nam và Philippines chỉ trích mạnh mẽ các hành động gây hấn của Trung Quốc trong phạm vi chủ quyền hai nước. Trung Quốc nói muốn giải quyết tranh chấp một cách hòa bình, trong khi vẫn duy trì các tuyên bố chủ quyền lịch sử với toàn bộ vùng biển trải dài tới tận bờ biển của một số nước Đông Nam Á. Trước đó, Philippines khẳng định, tuyên bố chủ quyền mà Trung Quốc đưa ra không có giá trị pháp lý theo luật quốc tế. Các quan chức Mỹ cho rằng, có những bên tuyên bố chủ quyền lãnh thổ trong khu vực một cách quá mức, và có những bên thiên về tuyên bố chủ quyền dựa trên tiền lệ lịch sử chứ không phải các đặc điểm đất liền. Theo tin từ Bangkokpost, tại ARF, Ngoại trưởng Mỹ cũng cảnh báo về tình hình căng thẳng Biển Đông. "Mỹ lo lắng rằng, những sự cố gần đây ở Biển Đông đe dọa hòa bình và ổn định ở khu vực mà tại đó, những tiến bộ đáng kể của châu Á - Thái Bình Dương đã được xây dựng”. Bà nói: "Những sự cố này gây nguy hiểm cho an ninh biển, leo thang căng thẳng, xói mòn tự do hàng hải và đặt ra sự rủi ro với thương mại hợp pháp không bị cản trở cũng như phát triển kinh tế”. Tôn trọng tự do hàng hải, thương mại hợp pháp Trong tháng 6, tại cuộc họp báo chung với người đồng cấp Philippines Albert del Rosario khi ông tới thăm Mỹ, Ngoại trưởng Clinton khẳng định: "Như tôi đã nói nhiều lần trước đây, Mỹ có một lợi ích quốc gia trong tự do hàng hải, tuân thủ luật pháp quốc tế, thương mại hợp pháp không bị cản trở ở Biển Đông. Chúng tôi chia sẻ mối quan tâm này không chỉ với các thành viên ASEAN mà còn với những quốc gia hàng hải khác trong cộng đồng quốc tế rộng lớn hơn”. "Mỹ không đứng về phía nào trong tranh chấp lãnh thổ ở Biển Đông, nhưng chúng tôi phản đối sử dụng vũ lực hoặc đe dọa sử dụng vũ lực để thúc đẩy tuyên bố chủ quyền của bất kỳ bên nào”, Ngoại trưởng Mỹ nhấn mạnh. Tại Bali tuần này, bà Clinton đã nói với các đại biểu trong đó có Ngoại trưởng Trung Quốc Dương Khiết Trì rằng, tất cả các bên cần tôn trọng tự do hàng hải và hoạt động hàng không ở lộ trình thương mại quan trọng trong Biển Đông và tranh chấp phải được giải quyết theo luật pháp quốc tế. Trước phản ứng của cộng đồng quốc tế, Trung Quốc nói muốn giải quyết tranh chấp một cách hòa bình, trong khi tuyên bố duy trì các tuyên bố chủ quyền lịch sử với toàn bộ vùng biển trải dài tới tận bờ biển của một số nước Đông Nam Á. Hôm qua, Ngoại trưởng Clinton và người đồng nhiệm Trung Quốc Dương Khiết Trì đã hội đàm song phương và có thảo luận về căng thẳng Biển Đông. Hai bên đều mô tả đó là cuộc hội đàm tích cực. Mặc dù vậy, theo lời người phát ngôn của ông Dương, ông này đã nói với bà Clinton rằng, vấn đề toàn vẹn lãnh thổ của Trung Quốc không phải là chuyện của Washington. Trung Quốc và 10 nước thành viên ASEAN trước đó đã nhất trí về việc đưa ra các hướng dẫn thực thi cho một bộ quy tắc hành xử ở Biển Đông. Tuy nhiên, Philippines phàn nàn rằng, tài liệu này thiếu ăn khớp, còn Ngoại trưởng Mỹ thì coi đó chỉ là “một bước đi đầu tiên quan trọng” tiến tới một giải pháp ngoại giao cuối cùng. Thái An ================================= Đúng rồi. Tuyên bố chú quyền phải có bằng chứng pháp lý. Tự dưng nhảy sổ vào tuyến bố chủ quyền sao được. Trung Quốc nên long trọng thừa nhận chủ quyền Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam đi. Không thì mất cả chì lẫn chài!1 like
-
Bác Hồ còn xác định là: Việt sử hơn 4000 năm văn hiến. Nói theo cách của tôi là gần 5000 năm.1 like
-
Hi, Ms. Tuyết Minh thân. Tại sao bàn thờ gia tiên đặt ở tầng 4 lại không tốt???, nếu không tốt thì theo Tuyết Minh thì nên đặt ở đâu đây? Cầu thang nên chọn loại có cổ.1 like
-
Bài viết để tham khảo Cách cục và dụng thần là hai hay một ? Theo như Hoàng Ðại Lục tác giả cuốn “Tử Bình Chân Thuyên Giảng Nghĩa“ đã viết: “Giải đọc: nếu như đinh hỏa nhật nguyên sinh ở hợi nguyệt, nhâm thủy trong hợi chính là chính quan của nhật nguyên, lấy dụng phải lấy chính quan cách. Nhưng nếu như trong bát tự có hai chữ mão mùi (chỉ một chữ mão cũng có thể), thì hợi mão mùi tam hợp thành mộc, đem hợi thủy chính quan ban đầu trở thành mão mộc ấn tinh, dụng thần cũng theo đó trở thành ấn cách.“. (Trích từ chủ đề “Luận dụng thần biến hóa“, bài dịch của toahuongquy bên tuvilyso.org). Có nghĩa là nếu Nhật can là Ðinh mà sinh tháng Hợi thì vì Hợi mang hành Thủy khắc Nhật can Ðinh mang hành hỏa nên cách cục đầu tiên của Tứ Trụ này được gọi là Cách Chính Quan nhưng nếu trong Tứ Trụ có Mão và Mùi thì Hợi hợp với Mão và Mùi hóa Mộc mà Mộc (Ấn) là hành sinh cho Thân Hỏa nên cách cục của Tứ Trụ từ Cách Chính Quan đã trở thành Cách Chính Ấn. Một điều mới lạ là ông ta cho rằng Cách cục là gì thì dụng thần chính là hành của Cách cục đó. Cho nên với Cách cục là Chính quan thì ông ta cho rằng dụng thần là Chính quan còn Cách cục đã thay đổi từ Chính Quan thành Chính Ấn thì dụng thần của Cách Chính Ấn phải là Chính Ấn. Sự thay đổi này Hoàng Ðại Lục cho rằng dụng thần đã thay đổi (hay dụng thần đã biến hóa). Thêm một điều mới lạ nữa là khi đã xác định được Tứ Trụ là Cách cục gì tức dụng thần là gì rồi thì ông ta khẳng định nó sẽ không thay đổi trong suốt cuộc đời của người có Tứ Trụ đó. Bằng chứng là ông ta đã viết tiếp: “Đến đây, cái gì là dụng thần, cái gì là dụng thần biến hóa, ở trong bản nghĩa Tử Bình Chân Thuyên đã thể hiện không sót rồi. Chúng ta có thể xác nhận: thuyết dụng thần trong mệnh học kinh điển như Tử Bình Chân Thuyên, chính là cái mà nguyệt lệnh có thể dụng và chữ định cách. Trong mệnh học kinh điển như Tử Bình Chân Thuyên, Thần Phong Thông Khảo, Uyên Hải Tử Bình cùng với Tam Mệnh Thông Hội, căn bản là không tồn tại cái gọi là dụng thần thăng bằng, phù ức, thông quan, điều hậu như thuyết về các loại này trong mệnh thư hiện đại. Trong thư tịch mệnh lý hiện đại, cũng có luận về dụng thần biến hóa, nhưng cùng thuyết Trầm thị không dính dáng nhau. Trầm thị nói chính là nguyệt lệnh thấu can và địa chi hội hợp dẫn tới vấn đề nguyệt lệnh biến hóa, mà sách mệnh lý hiện đại lại nói chính là vì tuế vận can dự vào phá vỡ thăng bằng nguyên mệnh cục, yêu cầu lại lần nữa vấn đề chọn chữ thăng bằng.“. Ðoạn này ông ta muốn nói đại ý là chỉ có các : “…sách mệnh lý hiện đại lại nói chính là vì tuế vận can dự vào phá vỡ thăng bằng nguyên mệnh cục, yêu cầu lại lần nữa vấn đề chọn chữ thăng bằng.“, còn các sách : “Trong mệnh học kinh điển như Tử Bình Chân Thuyên, Thần Phong Thông Khảo, Uyên Hải Tử Bình cùng với Tam Mệnh Thông Hội, căn bản là không tồn tại cái gọi là dụng thần thăng bằng, phù ức, thông quan, điều hậu như thuyết về các loại này trong mệnh thư hiện đại.“. Có nghĩa là ông ta cho rằng theo các sách “mệng học kinh điển " tuế vận không can dự vào Tứ Trụ để làm dụng thần thay đổi" như các sách “mệnh lý hiện đại“ (ví dụ như phương pháp của tôi). Từ đây cho thấy cái mấu chốt, cái mới lạ là ông ta cho rằng khi đã xác định được Cách cục tức Dụng thần của Tứ Trụ rồi thì nó sẽ không bao giờ thay đổi bởi tuế vận nữa. Nếu vậy thì theo tôi cái định nghĩa “Dụng thần biến hóa“ tức “Dụng thần biến đổi“ của ông ta thực chất chỉ là khâu xác định dụng thần chính trong Tứ Trụ mà thôi bởi vì nó có thời gian can dự vào đâu mà cho là biến hóa. Nếu như các phương pháp của các sách mệnh lý hiện đại mà theo cách định nghĩa của ông ta thì ví dụ : Nếu một Tứ Trụ có Nhật can thất lệnh chẳng hạn thì đầu tiên phải cho là Thân nhược nên dụng thần phải là Kiêu Ấn để sinh Thân hoặc Tỷ Kiếp để trợ Thân nhưng nếu trong Tứ Trụ có quá nhiều Kiêu Ấn và Tỷ Kiếp nên Thân quá vượng thì dụng thần phải là Tài , Quan Sát hay Thực Thương chẳng hạn thì cho rằng dụng thần đã thay đổi tức “Biến Hóa“ từ Kiêu Ấn… sang Tài Quan…hay sao ? Thật là một cái định nghĩa không lấy gì là chính xác cả. Sau đây tôi lấy ví dụ số 1 của ông ta trong chủ đề “Luận dụng thần thành bại ứng cứu“, được dịch bởi toahuongquy bên tuvilyso.org để chứng minh xem Cách cục và Dụng thần là 2 hay 1 như sau: Hoàng Ðại Lục đã viết: “1 - Như mệnh Lưu Trừng Như: Quan….. thực….. nhận…...tấn Nhâm…… kỷ…… đinh…….giáp Tuất………dậu…….Sửu…….thìn Niên can thấu quan, nguyệt can thấu thực, quan tinh chịu khắc mà phá quan cách. Nhưng còn có thể khí quan tựu thực, nói cách khác quan cách không thành, có sao đâu trở lại lấy tài cách. Tài cách có thực, thêm có ấn tinh, là có thể thành lập. Cho nên mệnh chủ sĩ lộ không thông tài lộ thông, kinh doanh tơ lụa có phương pháp, trung niên thành nhà giàu nhất Chiết Giang.“. Sau đây là bài luận của tôi: Sơ đồ xác định các điểm vượng trong vùng tâm: Theo phương pháp của tôi, chưa cần biết Cách cục của Tứ Trụ này là gì nhưng có thể xác định chính xác dụng thần của Tứ Trụ này là Mộc, do vậy đến tuổi trung niên vào các vận Giáp Dần và Ất Mão là các vận dụng thần, chúng là 2 đại vận huy hoàng nhất cuộc đời của người này. Do vậy người này đã đại phát tài. Còn theo phương pháp của Hoàng Ðại Lục thì cho rằng dụng thần của Tứ Trụ này là Tài (Kim) vì Tứ Trụ này có Cách Chính Tài. Vậy thì tại sao người này không phát tài ở vận Tài là Canh Tuất và Tân Hợi đi mà tới vận kỵ thần là Giáp Dần, Ất Mão mới phát ? Qua đây thì rõ ràng Kim không mang tính chất là dụng thần, vì vậy tôi có thể khẳng định mặc dù Tứ Trụ này có Cách Chính Tài nhưng dụng thần phải là Mộc chứ không phải là Kim. Cho nên Cách cục và dụng thần hoàn toàn không có gì liên quan tới nhau (tức là 2 chứ không phải là 1). Cách cục chỉ nói lên sự tốt hay xấu (tức quý hay tiện) của Tứ Trụ nhiều hay ít, còn các điều quý hay tiện này phát được hay không lại hoàn toàn phụ thuộc vào vận theo dụng thần được xác định theo Thân vượng hay nhược chứ không phải được xác định dựa theo Cách cục. Nói đơn giản (hay nói một cách thô thiển) là Cách cục chỉ là tên gọi của Tứ Trụ theo một quy tắc nào đó mà thôi. Tiếp theo chúng ta thử hỏi, theo phương pháp của ông ta thì khi đã xác định được Cách cục của Tứ Trụ rồi thì Cách cục này có bị thay đổi bởi tuế vận hay không ? Ta lấy ngay đoạn mà ông ta đã viết được trích ở trên: “Giải đọc: nếu như đinh hỏa nhật nguyên sinh ở hợi nguyệt, nhâm thủy trong hợi chính là chính quan của nhật nguyên, lấy dụng phải lấy chính quan cách. Nhưng nếu như trong bát tự có hai chữ mão mùi (chỉ một chữ mão cũng có thể), thì hợi mão mùi tam hợp thành mộc, đem hợi thủy chính quan ban đầu trở thành mão mộc ấn tinh, dụng thần cũng theo đó trở thành ấn cách.“. Nếu trong Tứ Trụ không có Mão và Mùi thì rõ ràng Tứ Trụ này vẫn là Cách Chính Quan nhưng đến tuế vận có Mão và Mùi thì dĩ nhiên tam hợp Hợi Mão Mùi đã hóa Mộc. Vậy thì Cách Chính Quan còn hay không khi Hợi đã biến thành Mộc (Ấn) ? Rõ ràng ông ta đã khẳng định ở trên là Hợi (Quan) đã biến thành Mộc (Ấn) nên thành Cách Chính Ấn rồi còn gì nữa. Từ đây tôi có thể kết luận điều mà ông ta khẳng định là dụng thần chính là hành của Cách cục của Tứ Trụ và Cách cục tức dụng thần không bị tuế vận làm cho thay đổi như các sách mệnh lý học hiện đại nói tới là hoàn toàn sai lầm.1 like
-
Chào Trực Giác! Một quẻ đúng không có nghĩa là đúng hoàn toàn, bởi LVĐT cần có mức độ cảm ứng rất cao. Nó phụ thuộc vào mức độ cảm ứng của mỗi con người. Trực Giác lấy quẻ và dự đoán thì cứ dự đoán, nhưng chưa nên viết những bài mang tính khẳng định như vậy nhé! Trực Giác cứ luận thoải mái, có gì đâu mà phải bức xúc. Mọi người đều hoan nghênh Trực Giác mà. Nhưng cần chiêm nghiệm nhiều thì mới chuẩn được Vài dòng lạm bàn, không tự cho là đúng Thân mến1 like
-
2 năm này đều sinh được, Nhâm Thìn hay Quý Tỵ thì con cũng hợp mẹ, đây là điều kiện căn bản rồi. Nếu mà ảnh hưởng xấu tới bố thì ngay lúc mang thai đã có chuyên biến rồi. Anh ngẫm nghĩ lại xem. Thiên can Nhâm hay Quý đều khắc Bính, Nhâm dương Thủy khắc Bính Dương hỏa, khắc thuận lý. Quý âm Thủy khắc Bính dương hỏa, khắc không thuận lý. Nhưng ở đây con so với cha là Âm, Dương thuận âm nghịch, nên thiên can con khắc thiên can bố vẫn là trường hợp tốt.1 like
-
Anh xem lại nhé, tuổi Mậu Tý mạng Thủy tính theo Lạc Thư Hoa Giáp. Ở đây chúng tôi tư vấn theo sách Việt. Anh nên sinh con út năm Bính Thân 2016 mạng THỦY!1 like
-
Nhà anh/chị nên sinh con năm Giáp Ngọ 2014! năm Tốt hơn là Tân Mão 2011 nhưng đã quá nữa năm rồi, lấy năm 2014 hoặc xa hơn thì 2018 Mậu Tuất! Thân mến.1 like
-
Trên là TM tả chồng tương lai của chị đấy, có vẻ đúng rồi. Tốt nhất là từ giờ đến cuối năm chị nên nín nhịn, đừng cãi lại làm gì, từ từ nhẹ nhàng lựa lời. Tầm cuối tháng 7al có Khoa+tả hữu nhờ người nào đứng ra lựa lời nói giúp (ví dụ như bà, hay bác gái,...) thì mẹ sẽ nguôi nguôi. Năm sau không khéo lại bất ngờ lên xe hoa cũng nên. Trên diễn đàn cũng có mục luận luổi, chị qua đó nhờ các anh xem cho, lấy về chỉ cho mẹ làm... bằng chứng. Chúc chị sớm nên duyên1 like
-
1 like
-
Bạn thử ra trang này http://www.thoigian.com.vn/ đổi ngày sinh dương lịch của bạn thành ngày âm. Và lấy thêm 1 lá số theo ngày âm đó. Mô tả thêm phần tướng mạo của bạn và chồng bạn để xem lá số nào đúng trước khi nhờ Bác Haithienha xem chi tiết.1 like
-
tại sao phải treo gương bát quái. Vạn sự tùy duyên http://lyhoc.vstatic.net/public/style_emoticons/default/1.gif1 like
-
Bạn muốm treo gương bát quái cho đúng thì trước tiên bạn phải xác định được ai là chủ ngôi nhà đó . hay ai là người quyết định chính trong ngôi nhà của bạn.Sau đó bạn sẽ sác định ngôi nhà đó năng lương sinh khí có tôt không, Nếu như bạn không thạo về pt thì bạn kiểm tra giấc ngủ của thành viên trong gia đình có tốt không, Có bị bệnh gì không ,có hay mỏi mệt cau gắt, có đoàn kết không. nếu có thì đúng nhà bạn nhiều khí âm, hoặc có cả tư khí. Nếu không chỉ có làm ăn giảm sút thì bạn phải xem lại vận mệnh của mình." phong thủy không phải là yếu tố quyết định tất cả, nó chỉ hỗ trợ cho vận mệnh của mình mà thôi".Theo tôi hiểu vận mệnh chiếm 50% pt chiêm 35% còn lại quan hệ con ngươi vói nhau chiếm 15%" hợp nhau, không hợp nhau". chào bạn nhé . xin chào diễn đàn.1 like
-
Trong triết lý phật giáo có 2 chử Nhân - Quả / có nghĩa là cái cây có được thì nhờ hạt giống mới thành ra cây ,cây lâu ngày lớn lên đơm bông kết quả ; tức là gieo hột chanh thì cây kết quả không thể nào ra trái quít đường được .1 like
-
Đường quan lộ vất vã nhưng hay được người trên dìu dắt giúp đỡ ,,làm việc tận tình tận tụy ,được xếp đánh giá có khă năng và được cấp trên tín nhiệm ,đối với người dưới hay kẻ làm chung thì sanh ra đố kỵ ,thường hay bị kẻ tiểu nhân rình rập hãm hại / sự nghiệp không bền hay thay đổi liên tục cũng như chổ ở ,nếu không thì thườn hay đi xa bởi công ăn việc làm ,gia sản không thừa hưởng cử phụ ấm để lại nếu có cũng phá tán hay từ bỏ đi xa mà không được hưởng , cuộc sống chật vật phải nổ lực thật nhiều mới tậu được mái nhà về già mới có được nơi ăn chốn ở nhất định / anh em rất hiếm may mắn chỉ có 1 ,nhưng không thành nhân nếu không cũng có cố tật / tài bạch kiếm tiền cũng dể nhưng cũng có lúc túng thiếu ,thâu nhập không nhất định ,nói chung không thể giàu có được / đến năm 25t có cơ hội lập gia đình sớm ,cợ dạng người thấp ,da trắng mặt hơi vuông hay tròn ,là trưởng nữ nếu không cũng đoạt trưởng ,tánh tình tiền hậu bất nhất ,hay thích xa mưu cầu những việc viễn vông không bền chí, hay xúc động dễ mềm lòng ,cả 2 đều rất thông minh , cưới nhau cũng dễ nhưng vài năm sau đó phải chia tay rồi có thời mới xum họp lại , vợ chồng hay gây gỗ đánh nhau , số nầy có thể có 2 vợ sống cùng 1 lúc .1 like
-
110 độ vẫn là nằm trong hướng Đông. Vậy so với tuổi của mẹ bạn phy cung Càn, nhà rơi vào hướng Ngũ Quỷ. Treo Bát Quái được, nhưng để chế Ngũ Quỷ nên quay bếp về hướng Tây - Sinh Khí. Vì hướng nhà chỉ là 1 yếu tố trong rất nhiều yếu tố tương tác đến nhà bạn nên việc làm ăn ko suôn sẻ chắc chắn phải xem xét đến nhiều yếu tố khác nữa. Thân ái, Thiên Luân1 like
-
Mệnh mẹ bạn theo tuổi Giáp Thình (46 tuổi) thì phi cung là cung Càn. nếu nhà đang ở Đông Bắc thì hướng ở Cấn, vậy là hướng Thiên y, hướng này là hướng tốt, không phải hướng xấu. còn trường hợp nếu hướng nhà về hướng Đông thì mới rơi vào hướng Ngũ Quỹ. Bạn kiểm tra chính xác lại hướng rồi hãy dùng, treo Bát Quái nếu treo sai sẽ bị tác dụng ngược đó.thân, (minh di chuyển bài bạn xuống mục tư vấn cho đúng chổ)1 like