-
Thông báo
-
Nội quy Lý Học Plaza
Nội quy này là bản mở rộng Nội Quy - Quy định của Diễn đàn. Khi tham gia mua bán, các thành viên phải tuân theo những quy định sau: Tiêu đề bài viết: Bao gồm: Chỉ dẫn địa lý, Loại hình Mua/Bán, Thông tin mua bán.
Chỉ dẫn địa lý: Tỉnh/thành nơi mua bán. Hoặc sử dụng định nghĩa có sẵn:TQ: Toàn quốc
HCM: TP Hồ Chí Minh
HN: Hà Nội
[*]Ví dụ: HCM - Bán Vòng tay Hổ Phách Nội dung bài viết: Mô tả chi tiết sản phẩm mua/bán
Bắt buộc phải có thông tin liên lạc, giá Mua/Bán
Bài mới đăng chỉ được phép up sau 03 ngày.
Thời gian up bài cho phép: 01 ngày 01 lần.
Các hành vi vi phạm nội quy này sẽ bị xóa bài hoặc khóa tài khoản mà không cần báo trước.
-
Leaderboard
Popular Content
Showing most liked content on 20/07/2011 in Bài viết
-
Kinh Phật Bà Quan Âm
viethavvh and one other liked a post in a topic by phamhung
Thưa các Ông, Bà, Bác, Cô, Chú và các anh chị! Phamhung được một người bạn già tặng Kinh phật bà quan âm, và nói là "Đức phật giáng điển", nay xin được chia sẻ với mọi người, cầu mong điều an lành sẽ đến với mọi người!!! NHỮNG LỜI VÀNG NGỌC TỰA NƯỚC CÀNH DƯƠNG MONG MAU CHÓNG ĐƯỢC THẤM TỚI MUÔN NGƯỜI NAM MÔ ĐƯƠNG LAI LONG HOA GIÁO CHỦ HẠ SANH DI LẶC TÔN VƯƠNG PHẬT NAM MÔ TÂY PHƯƠNG CỰC LẠC THẾ GIỚI - ĐẠI TỪ ĐẠI BI, CỨU KHỔ CỨU NẠN , ĐẠI LINH CẢM BẠCH Y QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT TỪ BI CỨU ĐỘ MUÔN LOÀI CẦM BÌNH CAM LỘ NGỰ NƠI NIẾT BÀN NGỒI TRÊN CHÍN PHẨM SEN VÀNG QUAN ÂM CỨU KHỔ GIÁNG ĐÀN DẠY KINH LỜI TỰA Các quý phật tử thân mến ! Sự nghiệp tu hành đức phật đã khai sáng nơi trần gian, để giải thoát cho muôn loài qua khỏi vòng sinh tử. Trong thời đại nạn mạt kiếp, người đã ban xuống cho thế gian với tất cả lòng đại từ đại bi và lòng hỉ xả không thể nghĩ bàn trong lời kinh tiếng kệ. Như mỗi hồi chuông thức tỉnh đưa chúng ta ra khỏi thế giới luân hồi khổ não si mê. Đã bao nhiêu kiếp nghiệp đời nay cứ mặc cho số phận sống chết buông trôi trong vòng lục đạo. Vậy muốn thoát khỏi mọi mê lầm, tất cả mỗi chúng sinh hay mỗi phật tử hãy phát tâm dấn thân vào cuộc tu hành để tự cứu lấy thân mình và giác ngộ cho tất cả cùng quay về bờ giác. Đó là sự nghiệp bỏ cái ác quay về cái thiện, để có một thân tâm bình đẳng, có một tinh thần yêu nước, yêu đồng loại và yêu ging nòi . Muốn vậy chúng ta hãy tự nhen lên cho mình ngọn lửa trong thân tâm, đó là ý chí tu hành và có một tư duy hiện đại, một tư tưởng tiến bộ lành mạnh. Trước tiên là hãy tự cứu mình ra khỏi thế giới mê hồn của phong tục tập quán phong kiến, mê tín dị đoan. Không sing bái chủ nghĩa thần thánh bằng các hình thức bói toán, xóc xăm, bùa ngải, đồng bóng và nặng về cầu cúng một cách tuỳ tiện thiếu ý thức. Đó là phương tiện giác ngộ để bảo vệ chân lý của đạo phật, nền văn hoá của đạo phật ra đời cách đây gần 30 thế kỷ. Trong quá trình thời gian của lịch sử, đạo phật ra đời luôn luôn thống trị tư tưởng ở một góc độ rất rộng lớn, kể cả không gian và thời gian. Luôn luôn thể hiện một tính cách văn minh bình đẳng và hoà bình đại chúng ở trong cõi tôn nghiêm. Đạo phật đã thấm sâu vào tư tưởng con người bằng lòng tự giác của thân tâm, một tâm hồn cao thượng trong sạch, luôn luôn đấu tranh cho công lý và lẽ phải, với một tinh thần sắc bén. Để đuổi hết tư tưởng xấu xa đồi bại, đó là những tư tưởng tiêu cực tham lam độc ác, sự lừa dối và cường bạo bất công, để tránh cảnh đầu rơi máu chảy, để tháo gỡ và vứt bỏ những chủ nghĩa thống trị nô lệ ở trong thế gian này. Các công trình văn hiến đền đài miếu mạo được bảo vệ và gìn giữ đến ngày nay, đó là nhờ ý thức tự giác của cha ông ta đã vượt qua sự mặc cảm của các triều đại phong kiến trong lịch sử để xây đắp lên những cảnh quan thể hiện sự tôn nghiêm của đạo phật. Đối với nước ta có một nền văn hiến vô cùng quý báu, đất nước chúng ta mang trên mình những dấu ấn đậm nét đặc trưng của thế giới tâm linh, vậy những ai muốn gần đức phật để có được những ước mơ thành đạt, có một cuộc sống bình yên và lành mạnh thì hãy nâng niu giữ gìn và bảo vệ nền văn hoá ấy như bảo vệ chính bản thân mình. Muốn vậy hàng ngày chúng ta phải tu nhân tích đức, phải hy sinh cống hiến sự nghiệp của mình vào con đường thiện nghiệp, hãy tránh xa những tội lỗi và không làm điều ác, để xây nên một xã hội văn minh, một loài người tiến bộ đi tới siêu văn minh, đó là lời dạy của đức phật để đưa loài người lên đại đồng thế giới. Cuốn kinh này ra đời là để thoả nguyện cho ai có chí hướng tu hành và mong cầu sự nghiệp giải thoá. Ví như người đang khát mà được đem nước tới, kẻ đói ăn mà gặp được tiệc tùng, người bệnh tật ốm đau sắp chết mà được hồi sinh. Trong thế giới hằng hà sa số chư phật và hằng hà sa bồ tát, có một vị phật ra đời thời quá khứ vị lai đã tu hành đắc quả thành tựu đến chính đẳng chính giác. Ngài là đệ tử thứ nhất của phật tổ Di Đà, nằm trên hàng Như Lai đứng đầu quả vị phật của đại A La Hán hiệu là Như Lai ứng cúng chính biến trị minh hành, tức thiện thể nan giải vô thượng sỹ điều ngự trượng phu thiên nhân sư phật thế tôn, trong vô lượng hằng hà sa số kiếp đã thành phật viên mãn. Ngài là ĐỨC PHẬT QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. Sinh thời trong quá khứ vị lai giáng sinh trên một hòn đảo ở vùng đông bắc Ấn Độ, tu hành ở một vùng biển có tên gọi là biển Nam Hải, nên thường gọi là Nam Hải Quan Âm. Ngài thường hiện thân trong khắp cõi ta bà, dùng ngìn mắt quan sát, dùng ngìn tay nâng đỡ chúng sinh, tuỳ duyên kêu cầu mà cứu độ chúng sinh nên gọi là: Quán tự tại Bồ Tát. Ngài có một đức hạnh đại từ đại bi không thể nghĩ bàn, có phép biến hoá thần thông quảng đại vô song. Có thể làm cho chấn động bảy cõi của vũ trụ. Vì thương xót thế gian mà đêm ngày không ngại ban bố tất cả phương tiện giáo hoá, thức tỉnh chúng sinh mau chóng tu hành giải thoát vòng khổ não của sinh tử luân hồi. Vì vậy người đã giáng bút ra quyển kinh này để làm phương tiện hằng ngày cho chúng sinh hãy gắng tu sửa. Hãy gắng trì niệm thì có một phúc đức vô lượng. Kẻ bệnh tật thì được tiêu trừ bệnh tật, kẻ đói nghèo thì mau được no ấm, kẻ dốt nát thì mau được mở trí thông minh. Có thể tiêu tan tất cả tội lỗi nghiệp chướng trong đời , dứt từ quả báo tội lỗi trong đường vị lai. Ai hàng ngày chuyên tâm trì niệm thì thân mệnh trọn đời yên vui, gia đình dòng tộc nội ngoại thuận hoà.Vạn sự trong đời sẽ mong cầu như ý. Vậy vào giai đoạn của thượng nguyên quyển kinh này cũng là một phương tiện cứu độ cho đại nạn mạt kiếp. Các ngày giới phật phải ăn chay, giữ giới, tắm mình sạch sẽ hoặc đến tịnh xá đền chùa hoặc tại tư gia dâng bày lễ vật, hương khói tôn nghiêm niệm kinh này rồi thỉnh cầu thì mọi việc vô cùng ứng nghiệm. Chỉ trừ những kẻ thiếu lòng chí thành và tâm can giả dối thì không thể thành tựu được. Khi vào khoá lễ tụng kinh không nhất thiết về thời gian, thời kinh tụng nhiều ít tuỳ theo điều kiện. Khi đọc tụng chậm rãi, chiết khúc, không làm cho người nghe khó hiểu, về trường độ âm thanh không cao thấp làm sai ý nghĩa kinh pháp. Vậy kính mong các quý phật tử hãy chuyên tâm trì niệm hàng ngày, lấy nghĩa lý trong kinh mà suy ngẫm, làm theo lời dạy của ngài, y theo đó mà thực hành thì lo gì không bước lên quả phật. Chúc các quý phật tử sớm đầy đủ nhân duyên trên đường tu thập thiện tinh tiến, vạn sự mong cầu bước lên chính quả, mau tới niết bàn, sở cầu như ý nguyện. Nam mô Nam Hải giáng sinh cứu khổ cứu nạn quảng đại linh cảm bạch y Quán Thế Âm Tuyết sơn Bồ Tát. Ai mà ấn tống truyền kinh Muôn đời quả bốc nhân sinh phúc dầy Vị lai, hiện tại sau này Trường sinh thoát khỏi đoạ đầy khổ đau Chết về bờ giác rất mau Sống thường gặp được nhiệm mầu phật tiên. DÂNG HƯƠNG Phảng phất hương bay chốn phật đài Hướng về tam bảo niệm Như Lai Quang minh soi sáng đường rộng mở Cứu độ mê tâm giải thoát đời LỄ PHẬT Kính lễ phật từ bi vô lượng Đạo viên thông vô lượng vô biên Ánh hào quang soi khắp mọi miền Giúp đệ tử mau lên chính giác LỄ PHÁP Kính lạy pháp nương nhờ giải thoát Vớt nhân gian trong bể ái hà Bể trầm luân sớm tối mau qua Về cõi phật Di Đà cực lạc LỄ TĂNG Kính lạy tăng tu hành khổ hạnh Truyền đạo màu giải thoát mê tâm Khai mở đường giác ngộ lý chân Vì đại chúng thân tâm vô ngại LỄ CÚNG DƯỜNG TAM BẢO Chắp tay cung kính mười phương Chứng lòng đệ tử dâng hương nguyện cầu Ba ngôi tam bảo nhiệm mầu Giáng đàn độ thế bắc cầu xét soi Độ người đức thiện muôn nơi Luân hồi giảI thoát vì đời hy sinh Từ bi cảm ứng chứng minh Gọi là một chút lòng thành phát tâm Dâng lên tam bảo thập phương Hương hoa lễ vật cúng dường Tây Thiên Chắp tay niệm Phật – Thánh – Tiên Linh thiêng độ xuống đàn tiền độ tha Tu hành đón hội Long Hoa Cúng dường Tam Bảo Di Đà Tây Phương Nam mô cập thập phương pháp giới thường trụ tam bảo Nam mô cập thập phương pháp giới thường trụ tam bảo Nam mô cập thập phương pháp giới thường trụ tam bảo SÁM PHÁT TÂM Thoảng qua như áng mây trôi Trải qua bao kiếp luân hồi trả vay Đã từng đắng chát chua cay Cơm chan nước mắt đến nay đã nhiều Đời như chuyến muộn đò cchiều Như hoàng hôn xuống cô liêu một mình Tối tăm trong cõi u minh Đoạ đày bao kiếp lai sinh cơ hàn Chìm trong bể khổ dây oan Nắng mưa vùi dập trái ngang đoạ đày Đã bao kiếp nghiệp cao dày Nên đời phải chịu trả vay vô thường Nhờ ơn phật thánh tây phương Từ bi tế độ mở đường vớt qua Về nương cửa phật di đà Biết đường quy chính cải tà từ đây Những mong qua khỏi kiếp này Bụi trần trút sạch trả vay dương trần Tháng ngày tích đức tu nhân Gắng công tích thiện giữ thân tu hành Xa rời ác mộng hôi tanh Trở về bờ giác đường lành thiện nhân Nương nhờ bóng mát phù vân Tắm mưa cam lộ Quan Âm nhiệm màu Cho đời hết cảnh thương đau Cho đời hết cảnh ngày sau đói nghèo Cho đời hết cảnh gieo neo Luân hồi sinh tử bọt bèo tấm thân Nguyện xin lấy đức báo ân Lấy tâm báo hiếu lấy bần độ sinh Trì trai , giữ giới, niệm kinh Sống nhờ thác gửi không sinh lòng tà Nguyện xin thánh phật độ tha Độ cho nhân loại mau qua niết bàn Nam mô Tây phương cực lạc thế giới đại từ đại bi , chứng quả đạo sư A Di Đà Phật KINH CÚNG CỬU HUYỀN THẤT TỔ Trước tam bảo kính dâng tiên tổ Cội nguồn xưa sinh nở giống nòi Gương trần mặt thịt khôn soi Những mong giải thoát cứu đời từ đây Xin nguyện được ơn dầy báo đáp Giải thoát vòng sống thác u minh Cho gia tiên thoát khỏi ngục hình Cho thất tổ cửu huyền chứng quả Để sinh linh yêu đương mồ mả Để âm hồn tiên tổ yên ngôi Được đắc quả giải thoát luân hồi Về đất phật đời đời thanh tịnh . Nhờ duyên quả ngàn năm đại định Nguyện trọn đời báo đáp tứ ân Xin hương linh soi tỏ lòng trần Nguyện trọn kiếp đền ơn báo hiếu Xin thất tổ cửu huyền thấu hiểu Chứng tâm con thanh tịnh lòng thành Trước đàn hương lễ vật tinh anh Nơi cửa phật đường lành khai sáng Mong thoát cửa hồn sầu lai láng Sống cơ bần , chết cũng đau thương Hồn giam trong địa ngục vô thường Thân thác gửi gió sương tàn lụi Thoảng qua như mây bay gió thổi Đắm chìm trong cát bụi trần gian Nơi suối vàng lệ tắm dây oan Đau xiết nổi gông cùm tù tội . Nay nhờ Phật khai đường mở lối Đại từ bi xá tội địa quan Nhờ hồng ân của các chư tăng Cầu siêu thoát mở mang cội đức. Ơn tam bảo quang minh Phật lực Địa Tạng vương mở ngục siêu sinh Đưa gia tiên qua khỏi ngục hình Về đất Phật tây phương nhờ cậy. Đời mặt thịt không trông khó thấy Công sinh thành mang nặng đẻ đau Ví chừng như tựa thái sơn cao Như trời biển nói sao hết được Đã bao đời truyền gia kế nghiệp Được truyền sinh kiếp kiếp vô song Đời cha ông không quản bão giông Cam sinh tử lòng không ngại khổ Cam làm ác bởi thương con nhỏ Nước mắt rơi bởi thấy con đau Mẹ ôm con ngồi suốt canh thâu Cam giá buốt vì thương con lạnh . Buổi sinh thành lòng cha canh cánh Kiếp đói nghèo tất cả cũng vì con Còng đôi vai thân xác hao mòn Quên sinh tử cũng vì con tất cả Lúc con đau mẹ cha như cắt dạ Mối tơ vò dằng dặc năm canh Nuôi dưỡng con chăm chút dỗ dành Từ tấm bé đến trưởng thành khôn lớn Công dưỡng nuôi không một ngày sung sướng Lúc hơi tàn nhắm mắt vẫn còn thương Vì thương con côi cút ở đời thường Khi thác xuống chẳng hề yên nhắm mắt Công ơn ấy chưa một ngày báo đáp Nghĩa sinh thành chưa một chút cù lao Bởi thời gian như một ngọn sóng trào Xoá đi cả công lao trời biển Bởi tham lam nên lòng người vô thiện Con đắm chìm trong biển si mê Có biết đâu công nuôi dưỡng cận kè Không báo đáp vô ơn thành tội ác Rơi chữ HIẾU thân con thành bội bạc Đem tiền tài khuê các đắp thân con Có biết đâu vạn vật chẳng thường còn Giờ nghĩ lại thấy vương đầy tội lỗi . Bởi có lúc tà tâm nói dối Nặng tình riêng không hối không thương Chữ báo đền không chút vấn vương Tâm ở bạc, trăm đường gây nên tội . Trước hương linh con quỳ sám hối Nguyện sớm chiều sửa tính tu tâm Không dối gian , độc ác , tà dâm , Không phụ bạc tình thâm nghĩa nặng. Vâng lời Phật từ nay đi đường thẳng Lấy tâm lành báo đáp tội ngày xưa Vâng theo lời Phật dạy sớm trưa Lòng mong những bồi vun dức hạnh . Theo chính pháp : Phật – Tiên – Thần thánh Sống trên đời xin báo bốn trọng ân . Dưới xin nguyền cùng các thánh nhân Tâm đức độ cứu ba đường khổ . Nơi tây phương nguyện cầu phật tổ Sau cầu xin giáo chủ long hoa Xin Quan Âm Bồ Tát Phật Bà Cùng pháp giới cầu như sở nguyện . Cầu tiên tổ cửu huyền linh hiển Nguyện xin cùng thất tổ anh minh Nguyện xin cùng tất cả chân linh Trên tam bảo lòng thành chứng giám Độ trì gia qua vòng u ám Hưởng thái bình vui khúc đoàn viên Cho cháu con hiếu thuận thảo hiền Cho gia tộc bình yên khang thái Cho tất cả thân tâm vô ngại Giác tâm thiền trai gái vững đường tu - Nam mô hội đồng gia tộc gia tiên tiền tổ liệt vị Chân linh cửu huyền thất tổ đồng lai chiếu giám. - Nam mô hội đồng gia tộc gia tiên tiền tổ liệt vị Chân linh cửu huyền thất tổ đồng lai chiếu giám. - Nam mô hội đồng gia tộc gia tiên tiền tổ liệt vị Chân linh cửu huyền thất tổ đồng lai chiếu giám. TUYẾT SƠN TÂM KINH Nam mô Nam Hải giáng sinh quang minh Chích phối thiên thủ thiên nhãn đại từ , đại bi , tầm thanh cứu khổ cứu nạn , cảm ứng chứng minh , linh cảm bạch y Quán Thế Âm tuyết sơn Bồ Tát Nam mô giáo chủ Long Hoa thế tôn Di Lặc tôn vương Phật Nam mô ta bà giáo chủ đại từ bi bổn sư hoà thượng Thích Ca Mâu ni Phật Nam mô A Di Đà Phật KHAI KINH Nước cam lộ cành dương tưới rửa Cứu muôn loài qua cửa trầm luân Đại từ bi Nam Hải Quan Âm Ban kinh Phật cứu Nhân độ thế Giải thoát đời qua vòng dâu bể Chiéu hào quang phổ tế muôn nhà Độ cho người về đến Long Hoa Vui cảnh Phật Di Đà bất diệt Bờ giác ngạn vui cùng nhật nguyệt Thuyền Tây phương Bát Nhã đón đưa Đặng qua vòng sinh tử nhớp nhơ Lên cảnh Phật nương nhờ tự tại Nam mô hiệu viên thông danh tự tại Quan Âm Như Lai đồng cam giải thoát nguyện linh cảm Quán Thế Âm Bồ Tát ( 3 lần ) PHẬT TUYẾT TÂM KINH Đường tích thiện thênh thang rộng mở Giang vòng tay che chở chúng sinh Đại từ bi vô lượng quang minh Cứu đại nạn thường sinh ba cõi Phật tế độ vớt người tội lỗi Lòng kính thành sám hối tu thân Dể trọn đời tích đức tu nhân Qua bể khổ trầm luân khổ ải Chắp tay niệm Quan Âm Nam Hải Lòng từ bi bác ái muôn phương Ngự đài sen đưa đẩy cành dương Tưới cam lộ ban thương làm phúc Khắp nơi nơi thường về dưới tục Cứu dân gian làm phúc cho đời Toả hào quang chiếu khắp nơi nơi Vầng thiên nhãn nhìn đời cứu khổ Trong mạt kiếp tơI bời dông tố Nhìn trần gian không nỡ buông trôi Lòng xót thương trong cuộc luân hồi Nên muốn cứu muôn loài vạn vật Như cuộc cờ ai thua ai mất Tựa đêm dài che lấp linh quang Muốn chúng sinh qua giấc mơ màng Trong bể khổ dây oan phiền não Nên Bồ Tát giáng về tam bảo Giáng truyền kinh điển báo thiên cơ đơa chúng sinh về chốn nương nhờ Nơi cửa phật đợi chờ đưa đón Đường nhân gian tuỳ ai có chọn Cửa từ bi chỉ có một đường Đó là đường chính giác tây phương Cứu đại nạn vô thường ba cõi . Này chúng sinh có nghe Phật nói Mấy ngàn năm gió thổi mây bay Dưới luân hồi bao kiếp trả vay Vòng sinh tử đêm ngày chẳng hết Cảnh vô thường sinh sinh diệt diệt Cảnh vui buồn sống chết lẫn nhau Miệng kêu trời mà chẳng thấy đâu Con tự cắt thịt mình mà chẳng biết Giờ đã đến kia rồi mạt kiếp 2000 năm báo trước trong kinh 2000 năm nhắc nhở chúng sinh Sao mê mải sự tình chẳng hiểu Nào có biết cao sâu huyền diệu Khi đất trời dông tố vần xoay Có biết đâu nay đã đến ngày Vòng mạt kiếp đắng cay tàn lụi . Giờ cát bụi lại trở về cát bụi Cơn tạo hoá buồn buồn tủi tủi Cuộc sinh ly còn mất dở dang Nay trước giờ khi lịch sử sang trang Khi bốn biển loài người về 21 2000 năm thời trung nguyên đã hết Sử sang trang nào có biết hay chăng Thế kỷ 20 như một giấc mộng vàng đã kết thúc một thời sinh diệt. Người có biết tại sao sinh mạt kiếp ? Nay mở đường Phật cho biết thiên cơ Nếu một mai con có muốn qua bờ Hãy nghe phật truyền thơ dạy bảo Trước nguyên thuỷ đã có ngôi tam bảo Có Phật , Trời , Thánh đế , Thần tiên Có ma vương ,tà quỷ, thánh hiền Chung tất cả một bầu vũ trụ Trong bẩy cõi phân chia đầy đủ Các cõi trời địa hoá rất nghiêm minh Trên thiên đình có luật giới vô hình Theo nhân quả thường sinh mà thưởng phạt. Từ than ấy trong cõi trời Bồ Tát Và địa đồ của các thánh tiên Rất tôn nghiêm , đức độ , rất hiền Trong thế giới âm thiên bình đẳng Cõi vô sinh không hề mưa nắng Cả tứ thời thảo tiết vân hương Chỉ có người tích thiện hiền lương Sống tự tại trên đường chính giác Cứ mỗi kỳ Như Lai thuyết pháp Là thiên cung mở hội bàn đào Các Thánh tiên Bồ Tát thấp cao Hoa sen nở ngạt ngào thế giới Ngày không sâng , đêm không biết tối Nên không sinh không diệt bao giờ Không hề vướng chút bụi bẩn dơ Trong thế giới an vui thiền định . Cả thế giới là bầu thanh tịnh Phật thuyết pháp nhiệm mầu cung kính Các cõi trời đều đến nghe kinh Thường năng tu rèn luyện cho mình Để tu được mình vàng như Phật Đức Di Đà là người cao nhất Ngự toà sen thuyết pháp khai minh Độ mười phương trên cõi thiên đình Khai chính giác quang minh trí tuệ phép nhiệm mầu từ bi kế thế Đại thần thông phổ tế truyền trao Được truyền từ dưới thấp lên cao Mười hai bậc được vào chính đẳng Thập nhị địa thần thông vô quảng Soi thân tâm biến hoá vô cùng Có thể làm thế giới chuyển rung Hoặc biến hoá tận cùng bẩy cõi . Bỗng một ngày như cơn sang nổi Quỷ tham lam nên mới hiện hình Muốn làm vương trên cõi thiên đình Họ nhà quỷ phát sinh từ đấy Thường trêu chọc đêm ngày phá quấy Nhập vào ai kẻ ấy mê tâm Thường tham lam nên mắc sai lầm Gây tội ác tà tâm dục lạc Rồi sinh ra giả danh bội bạc Chuyên dối lừa kẻ khác đua tranh Đức Di Đà huyền diệu cao minh Ma quỷ cũng hiện hình trêu chọc Đại từ bi phật không hề chấp Biết ác nhân , biết kẻ tà ma Vẫn đức độ thứ tha không chấp ngã Quỷ được nước ngày đem quấy phá Làm không yên các giới của thần tiên . Đức Diêu Trì cung Mẫu thượng thiên Phật Địa Mẫu cao sâu vời vợi Cầm quyết linh biến hoá nhiệm mầu Sinh ra quả địa cầu bằng đất Cõi ta bà là nơi thấp nhất Đày quỷ về trái đất đi tu Từ THẾ GIAN hay chữ NGỤC TÙ Được sinh hạ ban ra từ đó Vì gian dối nên thân hình lông lá Thường sinh ra nơi rú thẳm rừng sâu Chịu nhân quả mưa nắng dãi dầu Thân xấu xí đủ màu đen trắng Hoá sinh làm loài vượn của rừng xanh Vì ác tâm nên chẳng được lành Nên đoạ kiếp súc sinh là vậy Vòng sinh tử luân hồi từ đấy Được sinh ra khắp cõi ta bà Đến ngày sau địa mẫu sinh ra Sáu thiên tử thay bà trị thế Nên luân hồi là nơi dâu bể Có tu nên mới được thành người Nên nhân gian mới sinh hạ hai nơi Một Âm giới , một là dương giới Hai ngàn năm mới một vòng thay đổi Luật trời sinh đã có tới vô niên Từ cõi Nhân , cõi Địa , cõi Thiên Luôn có một hình chân hợp nhất Luật báo ứng rành rành sự thật Từ cõi Người mới được về thiên Nếu không tu, không chịu đáp đền Nếu ác nữa vẫn nguyên thành là quỷ Nơi Địa ngục ngày đêm cai trị Khi luân hồi thác đã về âm Hồn nằm trong địa ngục giam cầm Sau sinh hạ phải hoá thành dã thú Phật thuyết pháp hãy nghe cho đủ : Tình dục nhiều tư tưởng không minh Phải đoạ vào làm kiếp súc sinh Trăm thứ giống mỗi loài một khác Cũng có kiếp sinh nằm trên thớt chịu cực hình kiếm bổ dao băm ở trên rừng thì phải mọc lông Xuống dưới nước mọc vây mỗi khác Thân mạng chịu trăm đường sống thác Vì kiếp xưa ở ác không hiền Phải đoạ vào sinh tử liên miên Hồn phải chịu dầu sôi lửa bỏng Thân thác gửi bùn lầy mưa nắng Nấm mồ hoang sớm vắng chiều tan . Sống không tu chết nắm sương tàn Trong bể khổ , dây oan là vậy . Luật sinh hoá rõ ràng đã thấy Đã thành người là gốc của thiên cung Chỉ khác nhau ở chỗ hoá thân Bên xác thịt , bên hồn tự tại Cõi Niết Bàn là vô diệt vô sinh Cõi dương gian là cõi ngục hình Sao chẳng tự cứu mình qua bể khổ . Nay nhìn lại trong thế gian còn đó Luật vô thường xem có hay không ? NơI thế gian ăn ở hai lòng Người hạ giới mới làm điều bội bạc Kẻ tục trần mới sinh ra tội ác Nên trong tâm mới có quỷ tà Thế nên đời đen trắng mới phân ra Bên Ác – Thiện cũng từ đây tất cả Khi đầu thai gửi về miền giới hạ (( Nhân chi sơ tính bản thiện )) ban đầu Khi lọt lòng nào ai có ác đâu Khi khôn lớn bắt đầu sinh tội lỗi . Lời Phật dạy ngàn năm đâu có đổi Xưa từng khuyên nên sám hối quy y Bỏ ác tâm lấy thiện hữu tu trì Lấy đức hạnh đền thay cho tội ác. Nếu được vậy thì lo gì đất nước Không tháI bình , không được yên vui. Nếu ai ai cũng giác ngộ đúng sai Không sân hận làm sao sinh loạn lạc . Nếu loài người không có tâm làm ác Thì làm sao đất nước có binh đao Có chiến tranh khói lửa thét gào Có máu chảy cảnh đầu rơi tan nát Có chia ly buồn đau trong nước mắt Chốn sa trường cỏ mọc nấm mồ hoang Súng nổ , bom rơi thiêu đốt những xóm làng Những đứa trẻ hồn lìa thân vô tội Vợ mất chồng bơ vơ trong đêm tối Mẹ khóc con không nổi bởi mòn khô Vì tham lam tiền của vô bờ Vì vật chất mới sinh binh biến Nên loài người mới sinh ra cuộc chiến Tranh giành nhau trên vũng máu hôi tanh Nên loài người mới có chiến tranh Trong súng nổ bom rơi nước mắt . Nếu loài người không tham lam vật chất Thì làm sao có lũ tham ô ? Không tà dâm thì làm sao có Si - Đa ? Không trộm cướp nhà tù sao có được ? Không sân hận làm sao sinh bạc nhược ? Không tham danh sao có kẻ cậy quyền ? Không sát sinh làm sao có oan khiên ? Sao có cảnh đầu rơi máu chảy . Không ngu si thì đời sao lại thấy : Con bỏ cha , vợ phải bỏ chồng Quên tổ tiên , quên hết cha ông Nỡ vứt bỏ nghĩa tình nên phụ bạc . Kẻ sang giàu coi nghèo như cỏ rác Kẻ anh hùng khinh suất những thường nhân Kẻ đức hạnh oan nhiều hơn kẻ ác Không mưu lược làm sao sinh kiếm chác Không gian manh sao có kẻ nịnh thần Không bất công sao kẻ sướng người bần Cũng ở tại trần gian nên tất cả . Nay Phật dạy truyền kinh giáng hạ Thức lòng người giữ dạ có nhân tâm Đừng dối gian độc ác tà dâm Gây tội lỗi non sông dầy sổ mạt . Theo thiên thời truyền kinh bồ tát Cho hay vòng mạt kiếp ở trần gian Hai ngìn năm cuộc dâu bể tuần hoàn Nay thấy rõ ác nhiều hơn chữ thiện . Luật nhân quả nay tới thời thiên biến Mở sổ trời thanh toán dưới trần gian Nên tam tai ác kiếp thấy rõ ràng Sinh mưa gió sấm vang rồi đất chuyển Sinh bệnh tật mạt ôn trong khí quyển Tràn về nơi trái đất chẳng sai đâu. Hết hai mươi vòng mạt kiếp bắt đầu Khi chấm hết hạ nguyên thời đại cũ . Trời diệt hết tham quan bè lũ Diệt ác nhân diệt hết tà gian Xưa sấm trời đã chép còn vang Vòng mạt kiếp sàng ba mất bẩy Ba còn một vẫn còn phải sẩy Người thiện nhân tất thảy đều nguyên Để bước vào lịch sử tam thiên Sang 21 đại đồng thế giới Sang 21 đưa loài người tiến tới Siêu văn minh của thế giới tự do . Vào thượng nguyên (2044) tất cả sẽ ấm no Với tất cả hoà bình đại chúng . Hội Long Hoa xưa Phật đài báo ứng Đầu thượng nguyên đại đạo sẽ ra đời Để cứu sinh cho tất cả loài người Ai đã biết tu thân về gốc thiện Trước giúp kẻ hiền lương tu niệm Đã đầy thuyền đức hạnh dưới đường tu Sau giúp người lầm lỡ âm u Giờ đã biết quay đầu trở lại Biết sám hối từ đây mãi mãi Nguyện quy y theo Phật tu hành Bỏ ác tâm quay lại đường lành Tu đắc quả để thành chính giác . Nay tâm kinh giáng linh từ bồ tát Là tây phương nam hải quan âm Giáng kinh này cứu độ mê tâm Đưa qua bể trầm luân khổ ải. Vô thỉ kiếp lòng từ bi vô ngại Cứu chúng sinh trong khắp cả hoàn cầu Dù núi cao , biển cả, sông sâu Khi cuộc sống có lâm vào đại nạn Lòng chí thành nếu chuyên tâm trì niệm Năng tu trì thì ứng nghiệm thấy ngay . Ngự toà sen bồ tát sẽ ra tay Mắt thiên nhãn hàng ngày soi quán xét Các chướng nạn thảy đều tiêu tán hết Kẻ tu hành mau đắc đạo viên thông Sẽ luôn luôn được thanh tịnh xác thân Sẽ đắc quả cứu nhân độ thế . Nếu chuyên tâm niệm trì kinh kệ Thì đi đâu cũng gặp được hiền nhân Trí tuệ thường đáng bậc minh quân Thường gặp Phật xuống trần linh ứng hiện . Dẫu có ác cũng mau về đường thiện Dẫu ngu đần cũng thoát khỏi mê tâm Kẻ đói nghèo mau no ấm xác thân Kẻ bệnh tật mau thoát vòng khổ ải Nếu có kẻ ác tâm làm hại Niệm kinh này diệu lực sẽ trừ ngay Vào thượng nguyên nên phải niệm kinh này Cho tất cả chúng sinh trong pháp giới . ĐẠI BI THẦN CHÚ Nam mô hội thượng phật bồ tát ( 3 lần ) Thiên thủ thiên nhãn vô ngại đại bi tâm đà la ni Nam mô hắc ra, đát na, đá ra, dạ da. Nam mô a rị da bà lô kiết đế. Thước bát da ra, bồ đề tát đoá , bà da ma ha tát đoá bà da ma ha ca lô ni ca da án tát bàn ra phạt dụê. Số đát na đát tả nam mô tất kiết lật đoả y mông a rị da bà lô kiết đế thất phật ra lăng dà bà . Nam mô na ra cẩn trì, hệ rị ma ha bàn đá sa mế. Tát bà a tha đậu du bằng a thể dung tát bà tát dá,na ma bà già ,ma phạt dạt dậu dát diệt tha án a bà lô hê. Lô ca dế, ca ra dế. Dị hê rị, ma ha bồ đề tát doả, tát bà tát bà, ma ra ma ra ma hê ma hê rị dà dựng cu lô,cu lô yết mông. Dô lô dô lô phạt xà ra dế. Ma ha phạt xà da dế. Đà la đà la, địa lỵ ni, thất phật ra da, dá ra dá ra, mạ mạ phạt ma ra, mục dế lệ, y hệ, y hệ thất na thất na. A ra sâm, phật ra xá lợi phạt sa phạt sâm. Phật ra xá dạ. Hô lô hô lô hê ri, ta ra ta ra, tất lị tất lị tô rô tô rô. bồ đề dạ bồ đề dạ bồ dà dạ bồ dà dạ di dế rị dạ, Na ra cẩn trì ,địa ri sắc ni la, ba dạ ma na. ta bà ha. Tất dà du nghệ. thất bàn ra dạ ta bà ha. Na ra cẩn trì, ta bà ha ma ra na ra ta bà ha. Tất ra tăng a mục khư da ta bà ha.Ta bà ma ha a tất dà dạ, ta bà ha. giả cát a ra tất đà la, ta bà ha. Ba đà mạ yết tất đà dạ, ta bà ha. Na ha cẩn trì bàn dà ra dạ, ta bà ha. Ma bà lợi thắng kiết ra dạ, ta bà ha. Nam mô hắc ra đát na đá ra dạ da, nam mô a rị da, bà mô yết đế, thước bàn ra dạ ta bà ha, án tất diện dô mạn đà ra, bạt đà da, ta bà ha. Nam mô Thập phương thường trụ tam bảo ( 10 lần ) Nam mô A di đà phật ( 10 lần ) Nam mô Hải hội bồ tát ( 10 lần ) Nam mô Giáo chủ long hoa thế tôn di lặc bồ tát ( 10 lần ) Nam mô Quán thế âm bồ tát (10 lần) Nam mô Tây thiên hội mẫu bồ tát ( 10 lần) Nam mô Linh sơn Hội thượng Phật Bồ Tát (10 lầ NIỆM PHẬT PHÁT NGUYỆN TU HÀNH Trước toà sen con niệm Tâm kính thỉnh phật đài Con niệm đức Như Lai Cùng mười phương bồ tát Khắp cõi trời bồ tát Hương lành thơm bát ngát Phảng phất trước cửa thiền Con niệm phật thánh tiên Giáng linh về tam bảo Ngự giáng về tam bảo Nguyện quy y phật đạo Xin trọn kiếp tu hành Giải thoát đời hôi tanh Qua khỏi vòng mạt kiếp Được qua vòng mạt kiếp Bao đời trong bể nghiệp Chìm đắm giữa luân hồi Đến nay được làm người Nhờ thiện duyên tái tạo Ơn phật trời tái tạo Ngước trông về tam bảo Lòng ân hận vô cùng Những mong được đầy công Tu hành nên chính quả Được viên thành chính quả Bởi chăng vòng nhân quả Trói chặt dưới luân hồi Vì xưa kiếp làm người Mà lòng không chính thiện Bởi con không làm thiện Ví bằng như nước biển Không gột hết tanh hôi Xưa bao kiếp làm người Đã làm nên tội lỗi Đã chất đầy tội lỗi Đời như cơn gió thổi Thoảng qua giữa chiều đông Hết, có , rồi lại không . Cứ vần xoay thế mãi Nơi tục trần thế mãi Đã bao lần dầu dãi Trong nước mắt chia ly Khi kẻ ở người đi Đắm chìm trong sinh tử Giữa luân hồi sinh tử Đã bao lần dang dở Sự nghiệp với giàu nghèo Sướng khổ với gieo neo Cam dập vùi xác thịt Mải mê vùi xác thịt Dấn mình vào tam nghiệp Thêm tội lỗi càng dầy Làm ác chẳng biết hay Dối lừa không hổ thẹn Chẳng biết điều hổ thẹn Vì tham lam bỏ thiện Vì tăm tối si mê Chịu quả báo trăm bề Giữa trần lao khổ ải Giữa trăm bề khổ ải Giờ bắt tay nghĩ lại Quá khứ thật hãi hùng Tội ác thật khó dung Lòng ân hận vô cùng Biết làm sao đây nữa Biết làm gì đây nữa Nay con về nương tựa Thanh tịnh trước cửa thiền Chắp tay niệm thánh tiên Niệm mười phương Bồ tát Niệm Di Đà Bồ tát Tay đưa vòng tràng hạt Lòng thanh tịnh như lông Cho con được qua vòng Vòng trầm luân khổ ải Qua khỏi vòng khổ ải Niệm quan âm Nam Hải Thường cứu khổ muôn nhà Con niệm đức phật bà Mau đưa qua bể khổ Thoát qua vòng bể khổ Chắp tay cầu Phật tổ Con niệm Đức Lưu Ly Đưa bàn tay diệu kỳ Nhiệm màu ban thuốc Phật Con nguyện cầu thuốc Phật Cho tiêu trừ bệnh tật Cho thân mệnh yên vui Cho cuộc sống trên đời Hưởng trường lai phúc Phật Được trường lai phúc Phật Niệm thế tôn Di Lặc Niệm giáo chủ Long Hoa Đưa sinh chúng gần xa Lên đại đồng thế giới Được đại đồng thế giới Niệm Văn Thù sư lợi Không thối chuyển thân tâm Đưa qua khỏi mê lầm Đắc thành nên chính quả Được mau thành chính quả Đại từ bi hỷ xả Con niệm đức Phổ Hiền Khai trí tuệ vô biên Xoá u mê phiền não Gột rửa lòng phiền não Tâm hướng về tam bảo Đệ tử niệm Diêu Trì Niệm địa Mẫu từ bi Mau giải đường kiếp nghiệp Mẹ giải đường kiếp nghiệp Lòng chí thành khẩn thiết Niệm tam bảo hội đồng Phép biến hoá thần thông Cho giang sơn gặp vận Cho loài người gặp vận Nguyện qua vòng đại nạn Niệm pháp giới thiên đình Niệm hội đồng cứu sinh Vớt loài người thoát nạn Cứu qua vòng đại nạn Lòng kính thành vô hạn Chắp tay niệm thánh hiền Con niệm toà kim liên Niệm linh sơn thánh mẫu Niệm tam toà thánh mẫu Dưới trần gian soi thấu Ban phúc khắp mọi miền Ban bút pháp thần tiên Dạy loài người tiến bộ Giúp loài người tiến bộ Gót xe loan đại độ Cứu vớt cảnh ba đào Cho khắp cả hoàn cầu Sớm đồng thân phật tánh Trọn đồng thân phật tánh Hội bàn đào tiên cảnh Con niệm đức tiên ông Nhờ quảng đại thần thông Cứu hiền nhân tích thiện Giúp kẻ hiền đức thiện Cảm lòng nhân ứng hiện Niệm thánh cậu tiên cô Dạo chơi khắp ngũ hồ Giúp thần dân trăm họ Cứu giúp cùng trăm họ Tâm nguyện cầu soi tỏ Chắp tay niệm mười phương Bồ Tát rộng lòng thương Ngự linh về tam bảo Giáng ngự về tam bảo Chứng lòng thành hiếu thảo Đệ tử nguyện quy y Nguyện kiếp kiếp tu trì Đắc lên thành quả Phật Được mau thành quả Phật Nguyện được thành bồ tát Cứu độ khắp muôn loài Độ cho cả loài người Được mau về chính giác Sớm trở về chính giác Nam mô Bốn sư hoà thượng Thích Ca Mâu Ni Phật ( 3 lần ) Án ma ni bát minh hồng ( 7 lần ) BÁT NHÃ TÂM KINH Khi hành Bát Nhã bà la Ngài quán tự tại soi ra tột cùng Thấy trong năm uẩn đều không Bao nhiêu khổ ách khốn cùng độ qua Nay xá lợi tử xét ra Không là Sắc đó – Sắc là Không đây Sắc cùng Không chẳng khác sai Không cùng Sắc cũng sánh tày như nhau Thọ , Tướng , Hành ,Thức ,Uẩn nào Cũng như Sắc Uẩn một màu Không Không . Này Xá Lợi tử ghi lòng : Không Không tướng ấy đều không tướng hình Không tăng giảm , không trược thanh Cũng không diệt , cũng không sinh pháp đồng Vậy nên trong cái chân không Vốn không năm uẩn cũng không sáu trần Mắt , tai , mũi , lưỡi , ý, thân Vị , hương , súc , pháp, cùng phần sắc , thanh Từ không giới hạn mắt nhìn Đến không ý thức vô minh cũng đồng Hết vô minh cũng vẫn Không Hết già , hết chết cũng không có gì Không khổ , tập ,diệt , đạo kia Trí tuệ chứng đắc cũng là không không Sở thành , sở đắc bởi không Các vị Bồ Tát nương cùng tuệ năng Tâm không còn chút ngại ngần Nếu không còn chút băn khoăn sợ gì Đảo điên mộng tưởng xa lìa Niết Bàn mới đến bên kia bến bờ Ba đời chư Phật sau xưa Đắc thành chính giác là nhờ huệ năng Trí tuệ năng lực vô ngần Đại minh vô lượng đại thần cao siêu Trí tuệ năng lực có nhiều Thật là thần chú trừ tiêu não phiền Trí tuệ năng lực vô biên Dẫn đường giải thoát qua bên giác ngàn Liền theo lời chú thuyết rằng : Độ tha giác ngộ khắp trần chúng sinh . Yết đế , yết đế , ba la yết đế , ba la tăng yết đế Bồ đề tát bà ha (3 lần ) Ma ha bát nhã ba la mật đa tâm kinh . NGUYỆN TIÊU TAM NGHIỆP NGHIỆP THÂN Trước toà sen ứng hiện Đệ tử phát nguyện lành Tự giảI thoát hôi tanh cho nghiệp thân thanh tịnh An vui trong thiền định Không nhung gấm lụa là Không dục lạc trăng hoa Không điểm tô hình thức Chân như thường chẳng khác Không ngại khổ tu hành Cho thân xác yên lành An vui không bệnh tật NGHIỆP KHẨU Nguyện mười phương tam bảo Cùng Phật , Thánh ,Thần , Tiên Nguyện bỏ ác làm hiền Tiêu trừ thanh nghiệp khẩu Không ba hoa nói xấu Không buôn bán chuyện đời Không dối gạt với người Không nói điều ác độc Nguyện theo đường tu học Miệng chỉ nói điều lành Nguyện kiếp kiếp tu hành Chỉ nói điều chính pháp NGHIỆP Ý Nguyện cùng chư Bồ Tát Trong pháp giới mười phương Ở giới cõi vô thường Chân tâm không thối chuyển Ý tâm như lời nguyện Tu tích thiện lòng thành Nguyện diệt nghiệp thường sinh Không nghĩ làm điều ác Không làm điều bội bạc Không gian xảo dối lừa Không sân hận tranh đua Diệt tà tâm ác ý Nguyện tiêu trừ phiền luỵ Tam ngiệp đến tận cùng Tu thanh tịnh viên thông Đắc cầu như sở nguyện NGUYỆN SINH Nguyện sinh bờ giác tây phương Sinh về cực lạc dựa nương Niết Bàn Hoá sinh trong đoá Sen vàng Sinh về cõi Phật muôn vàn từ bi HỒI HƯỚNG Nguyện đem công đức tu hành Hồi hướng tất cả chúng sinh muôn loài Mau thành Phật quả Như Lai Được về chính giác phật đài tây thiên THỌ TRÌ NGŨ GIỚI GIỚI 1: ĂN CHAY Ăn chay là tự cứu mình Trì trai giữ giới niệm kinh hàng ngày Thân không bệnh tật thấy ngay Nhẹ nhàng xác thịt kiếp này thảnh thơi Nhanh khai trí tuệ tuyệt vời Sáng trong như ngọn đèn trời chẳng sai Mỗi khi học đạo Như Lai Làu làu chí tuệ trong ngoài đều thông Chóng mau tu tiến thân tâm Được lên quả Phật mê lầm độ qua Các ngày vía Phật tại gia ( tuần rằm , mùng 1 ) Gái , trai , già , trẻ , chớ mà sát sinh Súc vật cũng giống như mình Cũng là một kiếp súc sinh dưới trần Bởi xưa nhiều kiếp bất nhân Bây giờ phải chịu hoá thân muôn loài Khát khao sự sống ở đời Cũng như cuộc sống loài người cả thôi . Ham chi máu chảy đầu rơi Giết ăn chi để tanh hôi thân mình . Phạt khuyên rất kỵ sát sinh Đừng gây tội ác cho mình kiếp sau . Nếu còn chém giết lẫn nhau Đời sau quả báo mang vào thân ta . Mỗi loài mỗi bệnh sinh ra Ăn nhiều lắm bệnh tự ta mang vào . Bệnh nhiều thân xác đớn đau Cũng từ các nghiệp ban đầu sát sinh Ăn chay là tự cứu mình Tu được phước báu quang minh vô cùng Một lòng độ lượng bao dung Sát sinh xin nguyện đến cùng độ qua . GIỚI 2 : THAM LAM Đã đi theo Phật Di Đà Bỏ đi giới cấm ấy là tham lam Sướng khổ cũng một lòng cam Của người không nỡ lấy làm của ta Gian tham tâm lại biến tà Dễ vì dục vọng sinh ra hại người Đó là quả báo luân hồi Cũng là dây trói cho đời khổ đau Nguyện vì muôn kiếp mai sau Kiếp này giải thoát chẳng cầu tham lam . GIỚI 3 : TÀ DÂM Tà dâm truỵ lạc mê đam Say mê sắc đẹp tự làm khổ ta Chơi bời lêu lổng trăng hoa Loạn luân dạ thú - ấy là ác nhân Còn đâu đạo nghĩa dương trần Cũng vì dục lạc mà thân hao gầy . Nương thân cửa Phật kiếp này Nguyện tu diệt nghiệp trả vay luân hồi Tà dâm là gánh nợ đời Thề không sa đoạ ăn chơi dục tình Nguyện trì giữ giới nghiêm minh Đưa thân qua bể ái tình tà dâm . GIỚI 4 : NGHIỆP KHẨU Miệng người bởi lưỡi không xương Cho nên uốn có trăm đường sai ngoa Đúng sai cũng tự tâm ta Thiện nhân ác nghiệp điêu ngoa do mình Dối gian lừa gạt chúng sinh Cũng là do ở tâm mình mà ra Rồi ta tự dối lừa ta Vọng ngôn , loạn ngữ sinh ra vô nghì Mất nhân , mất đức cũng vì Nói năng chẳng nghĩ chẳng suy cho cùng Đoạ vào quả báo không dung Nhiều phen trả giá vô cùng khổ đau Nghĩ trước rồi mới nói sau Nói ngay , nói phải , chẳng đau ai nào Người khôn ăn nói thanh cao Thật thà , ngay thẳng trước sau rõ ràng Đừng như người dại nói quàng Điêu ngoa gian dối thế gian chê cười Muốn nên đức thiện trên đời Phải mau dứt bỏ xa rời vọng ngôn . GIỚI 5 : NGHIỆN NGẬP RƯỢU CHÈ , CỜ BẠC Rượu chè nhậu nhẹt say sưa Thân ví như chết mà chưa xuống mồ Thiện nhân thành kẻ côn đồ . Anh hùng thành kẻ ma cô bét nhè Cũng vì sa ngã rượu chè Nằm bờ ngủ bụi lên khe xuống hồ Sinh ra trộm cắp côn đồ Chửi con mắng vợ cũng do sa đà Cũng từ nghiện ngập sinh ra Làm con bất hiếu quên cha mẹ mình . Chửi bè chửi bạn linh tinh Còn đâu lễ nghĩa ân tình với ai . Bỏ con bỏ vợ đói dài Anh em làng xóm chẳng ai thương cùng Cửa nhà rách nát lung tung Áo quần hôi hám chân tay rã rời Thân đang sống ở trên đời Mà như kẻ đã chết rồi chưa chôn Trông ra như kẻ mất hồn Say sưa là đã tự chôn thân mình. Tham chi chè rượu linh đình Ham chi cờ bạc để sinh tội đời Cờ gian bạc lận rong chơi Say sưa chè rượu là đời đớn đau Rượu là thuốc độc sai đâu Rượu bia giới ấy là cầu ác nhân . Tu hành muốn được yên thân Phải trì ngũ giới chuyên cần mới nên . Trì trai . giữ giới Phật khuyên Tu từ dưới thấp tu lên cao dần Mới mong thanh tịnh xác thân Mới mong cuộc sống trọn phần yên vui Mói mau tinh tiến thảnh thơi Phải lo giữ giới cứu đời độ tha Hàng ngày tu niệm tại gia Ai mà tu được ắt là bình yên . NGUYỆN QUY Y Nguyện quy y đức Phật Mau giải thoát luân hồi Nguyện quy y chính pháp Mau thoát khỏi súc sinh Nguyện quy y chư tăng Sớm thoát vòng ngạ quỷ Nguyện cho tất cả chúng sinh Quy y cửa Phật đường lành gặp duyên Phát lòng vô lượng vô biên Độ cho tất cả mọi miền thế gian Quy y chính pháp đạo tràng Thấu rõ kinh luật mở mang cửa thiền Cao tăng hiệp chúng đồng tình Trọn đời tích thiện tu hành nên công Nguyện cho tất cả viên thông Mau lên chính giác đại đồng Long Hoa . Nam mô tây thiên cực lạc thế giới đại từ đại bi chứng quả đạo sư A Di Đà Phật (3 lần) Nam mô giáo chủ Long Hoa Thế TônDi Lặc Tôn Vương Phật (3 lần) Nam mô đại từ đại bi tầm thanh cứu khổ nguyện linh cảm Quán Thế Âm Bồ Tát (3 lần) BÚT PHÁP TÂM THI – BẠCH Y TUYẾT SƠN GIẢNG ( Đọc bài này trước khi giải hạn ) Này đệ tử lắng nghe lời ta dặn Kẻo mai ngày ân hận bước đường tu, Bởi nhân gian như một đám mây mù Xem tựa đám phù du tan lại hợp . Giảng chân kinh mở mang đường sử học Muốn mai ngày khó nhọc bước mau qua Thì hôm nay khuyên hãy nhớ lời ta Lời dạy bảo hà sa cho chúng tử. Nay thế cuộc hãy còn đang chung thử Như nấu vàng trên ngọn lửa thiên sơn Chuyện nhân gian nào thua thắng thiệt hơn Trong bể nghiệp xem nào ai đã biết . Nay lẫn lộn đang trong vòng sinh diệt Bút thơ khuyên , kinh sách nói đã nhiều Mà chúng người tu có được bao nhiêu ? Nếu kết lại mười điều chưa được một . Nay ta khuyên đường làm điều dại dột Nhìn thế thời 21 hãy trông xa Khắp nơi đều thấy đạo Long Hoa Chính cũng có , tà rồi cũng có Phúc hay hoạ cũng chính từ chỗ đó Ngẫm cho cùng đen , đỏ cũng từ đây . Vậy ta khuyên tất cả tớ lẫn thầy đừng mê mải mai đây thành đại hoạ . Muốn thành công phải biết nuôi chí cả Phải tề gia trị quốc mới nên yên Phải từ bi ăn ở cho hiền Từ bạn bè đến đồng bào xã hội . Đừng chấp ngã dấn sâu vào tội lỗi Đừng sân si tăm tối mất thân tâm Đừng đưa nhau đến những sai lầm Gây nhân quả sau này e đã muộn . Lệnh pháp giới ban ra từ thiên thượng Vứi loài người bất kể với ai ai Không kể gì lớn, bé , gái hay trai Già hay trẻ làm sai đều phải chịu . Phật dạy nhiều sao các người không hiểu ? Bước đường tu thừa thiếu do tâm Nếu thấy ai sa ngã lỗi lầm Thì phải biết từ bi mà cứu vớt . Trời chưa định sao biết mình xấu tốt Đừng kiêu căng mai mốt sẽ thành suy. Trong ba điều ta dặn kỹ cơ vi Khuyên nhớ lấy mà trì trong chính pháp : Với thiên thời phải tịnh tâm nắm bắt Tìm thiên cơ mà dìu dắt chúng sinh Với địa lợi cũng phải cho tinh Phải biết lúc thịnh suy trong thời mạt Muốn giữ được thiên thời và địa cát Thì Nhân hoà nhất nhất phải làm xong Mất Nhân hoà mọi việc sẽ thành không Thì tất thảy khó qua vòng sụp đổ Đó là luật của Di Đà Phật tổ Phải chuyển luân cho hợp nhất mới thành . Ta khuyên đừng trái luật trời xanh Đểv mai mốt chóng thành nên vạ lớn. Nay ta báo có điềm trời linh ứng Xuống trần gian có quỷ khắp nơi nơi Báo cho hay là quỷ của nhà trời Nay sai xuống thử người tâm ác thiện . Đối với quỷ là thành phần đại diện Cho ác tà ở dưới nhân gian . Còn Thánh Tiên hay Phật ngự đàn Nơi hạ giới chỉ coi phần thiện ngộ . Nếu đi sai con đường phật tổ Bỏ tam quy ngũ giới không trì Thì lập tức tà quỷ sẽ đưa đi Sau phải chịu nhưỡng gì trong tội lỗi Từ án mạng cho đến vòng tù tội Khi muộn màng sám hối cũng không dung Khó qua vòng pháp luật của dương trần Thì lúc ấy đừng trách ta chẳng bảo . Nếu sai luật lập tức thành tà đạo Thì không cầu tam bảo được đâu Nay ta về nhắn bảo mấy câu : 1 – Không được làm điều dối trá 2 – Thân tâm phải giữ đạo từ bi 3 – Phải tuyệt đối không : tham , sân , si 4 – Phải hết sức kiên trì nhẫn nhục 5- Sống ở đời phải chuyên năng làm phúc 6 – Hãy vì đời lấy đức để làm gương 7 – Không mê tâm chấp ngã ở đời thường 8 – Không cá thể để làm điều vụ lợi Nếu hành sai những điều ta nói Thì sau này đại bại sẽ vào thân Ắt ngày sau sụp đổ dưới dương trần Cũng đừng trách ta không phân lẽ phải. Bút Bồ Tát Quan Âm Nam Hải Độ kỳ viên ta dặn lại đôi câu Chữ Giác Tâm phải suy nghĩ cho sâu Lấy tự giác làm đầu cho tất cả . Hãy an phận thủ thường đi cái đã Nếu vội vàng sa ngã phải suy vong Thì mai sau e có chuyện đau lòng Sao vượt khỏi qua vòng chung thử được. Nhìn tà đạo cũng đủ tài thao lược Mọc lên đầy tất cả khắp nơi nơi Đó cũng là sắp đặt của trời Để phân định hai nơi : ác - thiện Nay cơ pháp đang vận hồi xoay chuyển Báo thiên cơ linh bút điểm từng canh Nay về đây ta báo rõ ràng Loạn bút pháp coi chừng gây đại hoạ Dễ xem chừng quỷ ma quấy phá Sự nghiệp này sẽ trả những đòn oan Ta xem chừng mấy chốc dễ mà tan . Nay lệnh ta truyền thẳng xuống thế gian Phải căn duyên đủ tuệ niết bàn Đâu có phải ai ai cầm cũng được Vậy cơ bút nay ta truyền báo trước Loạn tâm trần như nước tuôn ra Xem dễ có quỷ tà linh nhập đạo Cấm đồng bóng trước ngôi tam bảo Nơi dương trần sai luật chẳng dung đâu đừng tạo thêm cho kẻ cứng đầu Mắt theo dõi đâu đâu nhìn cũng có. Vòng số 8 đang rập rình con đó Phải dừng ngay nghe rõ lời ta: Là hạt nhân của đại đạo long hoa Phải hết sức văn minh và khoa học Nếu không nghe sau này đừng trách móc Khi thấy đời trả giá đau thương Không viét chữ thiện để làm phép vô thường Sẽ đến lúc làm gương cho pháp luật . Lời ta nói thế gian là sự thật Muốn thành công trong sự nghiệp mai sau Vì xưa kia trời thử có biết đâu Nay đến lúc phải dừng ngay tất cả Nay ta ban lòng từ bi hỷ xả Độ chúng sinh trong khắp cõi ta bà Vì đại đồng thế vận của Long Hoa Vậy hôm nay ta nhắc trẻ với già Để loạn pháp thì thiên cơ sẽ lộ Là đệ tử của tây phương Phật tổ Ta thay lời cho Giáo chủ Long Hoa Dặn chúng sinh tu đạo pháp Di Đà Y sắc lệnh Phật Bà phê bút ngọc Nay tất cả đang trong vòng sàng lọc Cả hoàn cầu trong bốn biển năm châu Chẳng riêng gì một chỗ nào đâu Không phân biệt một nơi nào tất cả Nay ta dạy chúng sinh trong bản ngã Dù trần gian hay bất cứ ai ai Đã được trao linh pháp của phật đài Cũng phải cố nay mai mà hành thiện Dù pháp sư cũng phải tròn lời nguyện Hay cứu sinh cũng phải biết đường tu Đừng sân si chấp ngã , hận thù Thành phá đạo tội tù e khó tránh Gương trước mắt đã bày ra trong cảnh Cờ quân đi đức thánh mới thử tâm Mà chúng sinh đã mắc sai lầm Sao qua được trầm luân , qua mạt kiếp Chính chúng con tự đoạ vào sinh diệt Vì trời sinh quả báo có từ ai Nếu thiện tâm đắc phúc chẳng hề sai Néu ác giả thì ác lai chẳng khỏi . Vậy hôm nay gắng nghe lời ta nói Kẻo sau này ân hận khó thành công Đại Long Hoa là thế giới đại đồng Từ cá thể đến đồng bào xã hội Lời thầy dạy từ khi xưa đã nói Lấy từ tâm mà cứu vớt nhau qua Lấy chính công mà độ kẻ ác tà Đừng phân biệt Quỷ ma hay Bồ Tát đừng phân biệt thiện nhân hay kẻ ác Nếu kẻ ác đến ngày rồi cũng giác Khi hiểu rồi tự ác sẽ rời xa Lấy từ bi mà độ kẻ tâm tà Lấy đức thiện để cứu người tội lỗi . Đạo muốn thịnh để ngày sau nên nổi Cứu được người là phúc đẳng hà sa Phải ngày đêm giành giật với Quỷ ma Đừng để chúng đưa người vào chỗ chết Ác hay thiện trời cao cũng biết Nên luân hồi quả báo có riêng ai Nếu muốn thành đệ tử của Như Lai Hãy tu lấy từ bi cái đã Mất từ bi là tiêu tan tất cả Mất công tâm chân lý sẽ mờ phai Mất đức nhân là tham luyến lợi tài Mất độ lượng một mai thành sân hận Tính cố chấp sẽ trở thành gay cấn Mất tình thương sinh tội oán thù Thì thà rằng đừng vội đi tu Thà làm kẻ mê u còn nhẹ tội . Thầy dạy trò không nên thầy mắc lỗi Trò vô tâm trò mắc lỗi với thầy Tự đưa nhau vào địa ngục cao dày Thì ta hỏi làm sao nên chính giác ? Sự nghiệp này có cầu mong cực lạc Có nguyện cầu bồ tát để ra tay Dù nơi đâu trong những phút giây này Hãy nhớ lấy lời ta khuyên dạy bảo Khoan hãy vội cho mình là có đạo Có hương đài là kẻ đi tu Xem Thần tiên như một ô dù Xem chính pháp của riêng mình tất cả Không phải thế từ xưa trong thiên hạ Cõi Bồng Lai nào riêng của ai đâu Phật giúp ai những kẻ có tâm cầu Dù khổ ải vẫn không thay lòng thiện Trước dù ác nay có lòng phát nguyện Sám hối đi tu luyện hàng ngày Gắng sửa tâm sửa tính cho ngay Cam nhẫn nhục cao dày mong chuộc tội Thì bồ tát mới cảm thương nông nổi Mà phù linh cứu vớt kẻ hiền lương Đừng tưởng rằng chén nước cây hương Hay lễ vật ngày đêm dâng cúng tiến Niệm kinh thỉnh là Thánh Tiên lại đến Phù cho ai theo ý của riêng mình Để buôn may . bán đắt , lợi sinh Để sung sướng thân mình hơn kẻ khác Để xa hoa đêm ngày trong dục lạc Lấy tiền tài khinh kẻ khác hay sao Vất tình người mà không biết thương nhau Thì ta hỏi còn đâu là đạo nữa Vậy ta mong muốn sớm hôm kề dựa Nương cửa thiền bồ tát ở Tây thiên Tỉnh lại đi hãy nhớ mấy lời khuyên Ta dạy bảo trăm miền nơi hạ giới Thương chúng sinh ngày đêm mong đợi Đón đưa về chờ hội Long hoa Đường gập ghềnh 21 chẳng còn xa Mau hối lại tỉnh ra mau còn kịp Đạo Long Hoa ta hé cho con biết Nếu sau này sang 21 còn ai Sẽ là người thập thiện không sai Là những kẻ đồng tâm không lay chuyển Không đói khổ , cũng không còn binh biến Không đầu rơi máu chảy thương tâm Không giàu nghèo cao thấp sâu thâm Không có kẻ nịnh thần hay tà đạo Thì lúc ấy ở trên ngôi tam bảo Không cầu kinh cũng thấy Phật hiện về Vì dương trần đã hết cảnh u mê Trong ba cõi đi về thành một . Đợi đến ngày Thiên - Địa – Nhân hợp nhất Giữa cõi trời và thế giới âm ty Cùng cõi người thành một chốn đi về Thì lúc ấy là ngày Long Hoa hội Có ngũ nhạc bổng trầm hương gió thổi Có phù vân bay nổi chốn không gian Sẽ có mưa hoa trong thế giới ngập tràn . Sẽ thấy được mình vàng đức Phật Dù huyền thoại chưa biến thành sự thật Vậy ai còn ai mất đến ngày sau Nên trời sinh mạt kiếp chẳng sai đâu Đó là luật từ lâu kinh đã báo Chẳng khác gì ví như người sàng gạo PhảI sàng ra chắc lép , phải riêng nhau PhảI phân ra thóc , gạo hai màu Còn cám bụi cũng cho vào một chỗ . Vậy Long Hoa là những ai chính quả PhảI tu lên đức độ cao dày PhảI quên đời nhẫn nhục đắng cay Thì mới được sau này còn lại . Bút tâm thi giáng linh từ Nam HảI Xuống dương trần để lại giúp mai sau NơI thế gian đã ban phép nhiệm màu Dù đó chỉ là phần ít ỏi Để thức tỉnh những ai còn nông nổi Quên đường về lạc lối giữa đêm đen Trang thơ khuyên như đã thắp ngọn đèn Nơi trần tục đang ngày đêm lẫn lộn Nay như đám bòng bong đang lộn xộn Hỏi ai người gỡ rối cho đây ? Bút truyền kinh ta để lại thơ này Ta nhắc cả tớ, thầy , sư lẫn sãi Đừng vui chi trong cuộc cờ mê mải E ngày sau khôn dại khó hòng qua Nay bước đầu chuẩn bị đón Long Hoa Nên tất cả phải vần xoay thiên mệnh Phép đã học ta khuyên nên cứu bệnh Luyện cho siêu chờ lệnh của tào sen Ta bảo rằng khi ở dưới nhân gian Đợi đến lúc bệnh tràn đây đó khắp Nhiều thứ bệnh nan y tấp nập Thuốc tây y không chữa được bệnh này Thì nhiệm màu khi ấy sẽ ra tay Cứu đại nạn từ đây sau sẽ rõ Thuốc đông dược sau này rồi cũng bỏ Nay tạm thời nam dược trị nam nhân Đợi đén khi thiên mênh xoay vần Thì đông dược ta mở ra vòng khác Ta quảng đại chỉ trong vòng giây lát Thì huyền vi mầu nhiệm sẽ vô song Nay đang hồi chờ đợi nhớ nghe không Cứu được ai thì thêm quả phúc hồng Cũng là quả trời cho con đó vậy Dù hôm nay mắt con nhìn chẳng thấy Đợi ngày mai thì mới rõ lời ta Muốn gia đình dòng tộc được vớt qua Thì phúc đức hãy lo mà tích lại Tâm cứu khổ gắng lên đường có ngại Nếu chùn chân sau quay lại khó lòng Muốn sau này sự nghiệp thành công Phải sáng suốt nhìn trông trong vận mệnh Trong mạt kiếp sẽ sinh trăm thứ bệnh Lời ta khuyên tỉnh táo gắng lên đi Gắng cho chăm mà nhẫn nhục từ bi Mai mới được mong cầu như sở nguyện Gắng nghe ta tu tích thiện cho dày Đừng thấy đời thua thiệt đắng cay Mà sớm vội quay lưng vứt bỏ Là chính tự con trói mình lại đó Thì sau này chớ trách Phật , Thánh , Tiên Không từ bi trong phút cuối hạ nguyên Đổ mạt kiếp toà sen không báo trước . Tựa bàn cờ chuyển xoay tong nước Theo thiên thời đến lúc mới truyền trao Theo thiên cơ cho địa lợi ứng vào Đó là chuyển vần xoay trong hạ giới . Vậy còn lại trong những ngày tháng tới Có điều gì trong quá khứ đã qua Phải sửa đi mau giữ lấy nhân hoà Nếu không sửa e có thành vạ lớn . Đôi phút ngự giáng về linh báo ứng Độ dương trần trong những bước đường tu Xuống thế gian ta vén đám mây mù Giúp đệ tử quy tu cho chính đạo Soi thiên nhãn chiếu mười phương tam bảo Nhìn trần gian giáng bút báo tâm thi Cho chúng sinh tìm được chốn đường về Mau qua khỏi sông mê thời mạt kiếp Vì đại chúng ta dựng xây sự nghiệp Cứu muôn loài qua cảnh đau thương Nơi trần gian loạn biến vô thường Trong mạt kiếp đam mê mùi tục luỵ Nay ta bảo đang có vòng đại thuỷ Bắc trung nam điểm chỉ có sai đâu Nước của trời đã đổ tới nơi đâu Thì nơi ấy sẽ sinh ra dịch bệnh Âu đó cũng là do trong vận mệnh Vì thiên cung có lệnh sắc giang hà Thế cho nên thuỷ hoả phải can qua Rồi sẽ thấy lời ta trong bút pháp Thu chưa hết , đông về còn bão táp Thấy dập dồn khắp các địa châu Cho chúng tử khuôn thân mà giữ đạo Nay nhân lúc truyền kinh trên tam bảo Dặn mấy lời điểm báo nhắc nhân sinh Hãy thức tâm mà tự cứu lấy mình Lời ta dạy độ sinh cho tất cả . 5 giờ sáng ngày 21 tháng 9 năm Kỷ Mão (1999) NAM HẢI QUAN ÂM HUẤN THỊ PHÁP Linh bút phật giáng từ Nam Hải Giúp đàn con trong buổi ra đi Khi thế gian đang trong cuộc cờ mê Trong bóng tối tràn trề mạt kiếp Buổi sáng nhân ta tìm người kế nghiệp Cho non sông mong đợi cậy nhờ Học phép màu ta tự tại giáng thơ Cho con biết nước cờ tạo hoá Hỡi này con ! nay trong vòng bản ngã Cuộc luân hồi có có lại không không Cầu chữ đồng con đừng cậy thế đông Phép mầu nhiệm không thành sự thật Bao căn kiếp con theo đời ẩn dật Bao quê hương trong tong mỗi con người Giáng sinh từ muôn nẻo muôn nơi Theo thiện quả đạo trời ta xe lại Nay dưới trần con chớ vui chi mãi Luật trời cao khuyên con hãy ghi tâm Sách có câu : Khẩu , ý , Thân , Tâm Giữ cho sạch dùi mài cho kỹ Nay mở cửa tìm sao trong cát vị Khi bước vào lớp học hôm nay Ta nhắc cho những đạo luật này Con nhớ kỹ kẻo mê lầm mắc tội Trong ngũ giới tam quy ngày tới Kể từ đây đến mãi mãi mai sau Trong cuộc vui nào mải miết hay đâu Nhiều bia rượu , ngày sau thân con khổ Sách kinh xưa nhớ lời phật tổ : Chim tham ăn sa võng lưới tan tành Luyện phép màu con muốn được cho nhanh Thì bia rượu dứt từ con phải bỏ Mầm tẩu hoả nhập ma sinh từ đó RơI minh tâm thì vạn sự chẳng còn Sự nghiệp này ta trông cậy ở nơi con Lòng nhẫn nhục , từ bi và đức hạnh Đạo từ bi là đời không tranh cạnh Đức từ bi vô lượng dưới trần gian Lòng nhẫn nhục là không sợ dây oan Tu hạnh phật phải muôn vàn độ lượng Nơi trần gian đâu phải một tháng ngày Dễ gì con tu được kiếp này Mà đã có từ lâu trong tiền kiếp Bao kiếp rồi con vùi chôn trong bể nghiệp Ta nhân từ dìu dắt con ra Theo thiện duyên chờ đón cuộc long hoa Theo thế cuộc ta đưa về gặp lại Đạo chính quả muốn vững bền mãi mãi Để sau này khỏi trở lại đầu thai Vậy hôm nay ta truyền đạo Như Lai Nghiêm luật giới từ nay con phải giữ Theo thế vận sàng thiên còn chung thử Nghiêm môn quy ta định giới rõ ràng Trước vận thời khi 21 sang trang Nếu phạm luật thân con mang đại hoạ · Điều thứ nhất : Hội hè trong bản ngã Không được dùng tửu chén kim bôi · Đièu thứ hai : Khi vào lớp học rồi Theo ngũ giới tam quy con phải giữ Với điều này thiện nam hay tín nữ Luật trai chay , giữ giới phải nghiêm minh · Điều thứ ba : trong luật giới vô hình Khi truyền phép không vương vào ngũ dục Thân uế tạp thường sinh ra uẩn khúc Nặng tâm thiền trong lúc hành môn · Điều thứ tư trong mỗi lúc luyện ôn Khi hành đạo con phải luôn nhớ kỹ Không kiêu căng , không mơ hồ chức vị Không xa hoa , không lãng phí ngoài đời · Điều thứ năm : khi sử dụng phép mầu Khi cứu chữa cho người trần tục Không tham lợi , không đam mê sắc dục Không sân si trong lúc cứu sinh Xem bệnh nhân là bệnh của chính mình PhảI hết mực tận tình cứu chữa · Điều thứ sau : Không nặng lời hay sinh tính lửa Không khoe khoang , doạ nạt người đời Không đạp chà trên danh dự đẻ ăn chơi Không lợi dụng người đời bằng vật chất · Điều thứ bẩy : Vớt cứu sinh không hờn giận Không cậy tài hay gian lận trong tâm Phải từ bi hỷ xả mọi lỗi lầm Không thoái biến , suy tâm khi hành đạo · Điều thứ tám : Ngoài đời không hỗn láo Phải nhân từ với kẻ dưới người trên Không kể công , không đòi hỏi bạc tiền Không danh lợi , không cầu ai báo đáp · Điều thứ chín : Không uống ăn hỗn tạp Khi giúp đời hoặc sau lúc cứu sinh Không sợ gian lao uế bẩn thân mình Vì đạo quả phải hy sinh tất cả · Điều thứ mười : Không lọc lừa gian trá Không manh tâm phản bạn lừa thầy Phải hy sinh bằng tâm đức dắp xây Gieo phật quả hằng ngày bằng đạo nghĩa · Điều thứ 11 : Không sát sinh xâm xỉa Gặp tiểu nhân phải giữ nghĩa trượng phu Không âm mưu bè phái hận thù Không ràng buộc ô dù haycậy thế Không xu nịnh , không gây điều khó dễ Không làm điều thất lễ với chúng sinh Không cúi luồn , không cá thể vì mình Với đồng chúng phải hết mình kính nể · Điều thứ 12 : Khgi cứu sinh dâng lễ Chỉ hương hoa trà quả trước bàn thờ Một lòng thành không gợn chút bẩn dơ Phải hết mực lòng từ bi trong sạch · Điều thứ 13 : Phải biết sống cuộc đời thanh bạch Đạo thiện duyên xem như cũng một nhà Không kể gì kẻ ngái hay người xa Dầu mới cũ phải xem người là bạn Phải chia sẻ buồn đau khi hoạn nạn Hoặc buồn vui trong mỗi lúc thanh bình Nghĩa thanh cao là chia sẻ nỗi ưu phiền Không so sánh bạc tiền bằng công đức · Điều thứ 14 : Phải tự cường tự lực Không ỷ vào công đức của thập phương Dẫu lưng cơm đI mấy choc dặm đường Không chùn bước trong gió sương bão táp PhảI luyện tôI khi mưa sa gió tạt NuôI chân tâm bằng ý chí con người Không lợi dụng cơ hội để ăn chơi Không lấy của người đời tô thân sắc · Điều thứ 15 : Khi chúng sinh công đức Không suy bì nài ép một ai Dẫu đi trên danh vọng tiền tài Không tư lợi của ai trong trần tục Tuỳ hảo tâm khi chúng sinh làm phúc Giúp chư tăng trong lúc đi xa Hoặc gieo neo giúp đỡ việc nhà Thì phải đến trước toà xin pháp giới Không lợi dụng lòng dân làm vụ lợi Phải hết lòng hướng thiện quy y Nếu cầu xin người công đức những gì Phật đồng chứng mới là cho chấp thuận · Điều 16 : Dẫu đói nghèo hay cuộc đời lận đận Dẫu gian lao , mang áo vải che thân Cũng phải thanh cao trong sạch bội phần Không sa ngã đem thân vào dục lạc · Điều 17 : Không rượu chè cờ bạc Không dối lừa trộm cắp điêu ngoa Không tà dâm , không bất hiếu với mẹ cha Không phụ bạc ông bà cùng tiên tổ · Điều 18 : Phải tận tình cứu khổ Phải hết lòng đại độ thương yêu Đạo cứu sinh không ngại sớm chiều Không phân biệt giàu nghèo , khổ hạnh Không thiên vị ruột rà hay bè bạn Đạo tây phương phải hết mực trung thành Phải hết lòng cứu đại nạn chúng sinh Dẫu gian khổ phải hết lòng cứu khổ . · Điều 19 : Việc thiên cơ không để lộ Việc thiên traểctong mỗi lúc đi về Không làm quà buôn chuyện dưới sông mê Không nài ép giao thề hay bội ước Không ngộ nhận những điều chưa biết trước Lỡ thiên cơ là lỡ bước tu hành Mười chín điều thiên luật của trời xanh Nghiêm giới luật rõ rành cho tổng hội Phải nhập tâm những điều ta nói Theo môn quy không được phép làm sai Thiên cơ mở một mai con về hội Đang loạn thời phúc tội biết là đâu Đạo tây phương vạn kiếp khó nan cầu Vận thiên khởi ta bắc cầu đạo quả Thương trần tục tối tăm trong bản ngã Màng vô minh che lấp linh quang Nay thiên cơ đang trên bước lọc sàng Ai còn mất trên đường vàng còn lại Thân nhẹ nhàng là thân tâm vô ngại Khẩu thiện tâm là khẩu có thần linh Khẩu thiện thanh luôn nói những điều lành Thân bồ Tát tự luyện thành kim sắc ý con lành là ý tâm Bồ tát Phải tu lên từ nước mắt khổ đau Bằng mồ hôi , bằng xương thịt dãi dầu Bằng bất hạnh , bằng đớn đau khổ nhục Đổi tất cả để tìm về cõi phúc Thì thân tâm con nhẹ nhõm muôn phần Tâm từ bi là độ thế cứu nhân Tâm thanh tịnh là muôn phần tự tại Tâm Bồ Tát là thân tâm vô ngại Bụi trần gian trút sạch nỗi chua cay Con tu nhân tích đức cho dày Tâm tích thiện thì sau nên thiện quả Con làm sai , ác quả chẳng sai đâu. Trong lục căn trí tuệ đứng hàng đầu Tu chính giác là cao sâu hơn tất cả Nguyên tử tuệ soi đường trong bản ngã Soi cho con trong bóng tối của màn đêm Nhân đức kia là cánh võng êm đềm Ru con ngủ lớn lên từ tấm bé Ru cho con suốt một thời thơ trẻ Từ bầu thai con khôn lớn thành người Bàn tay lành ấp ủ bên nôi Trong tiền kiếp mấy ngàn năm rồi đó Dẫu kiếp này đã ngàn năm ấp ủ Ta sinh ra trong bọc giống tiên rồng Khắp năm châu tiền kiếp đã đủ vòng Nay đất Việt quê hương ta về lại Giáng sinh từ Nam Hải về đây Đò nhân duyên tích thiện đã gần đầy Con cố gắng đắp xây nên con nhé Gắng lên con ! để ngày mai con khoẻ Khổ hôm nay , mai con được nhẹ nhàng Đạo viên thông là bẩy sắc hào quang Ta luôn mở soi đường cho con đó Gắng lên đi ! Hỡi những đứa con bé nhỏ Kiếp giáng sinh phải chịu khó tu hành Phải nghe ta mọi sự mới viên thành Phải tôi luyện theo ta về 21 Ta dìu dắt con cho tới giờ phút chót Dẫu mạt thời tạo hoá có vần xoay Con nghe ta chăm chỉ tháng ngày Trong mạt kiếp ta ra tay nuôi dưỡng Ta dắt dìu các con về nguyên thượng Trên cõi trời ta đứng đầu vương tướng Dẫn đưa con hướng tới toà sen Hãy quên đi những vật chất đua chen Còn vướng bận hỏi con về sao được ? Biết không con ? cuộc trần là bể nghiệp Muốn song toàn con phải diệt giặc sân Lũ giặc kia đang ngự trị trong tâm Chúng đang muốn giết dần con đó Nay ta cho những đứa con bé nhỏ Thanh gươm thần cầm chắc sẵn trong tay Phải trừ đi giết hết lũ giặc này Thì thân xác con đời đời thanh tịnh Chờ khởi sự ta cho con cầm lệnh Giúp loài người trong bốn biển năm châu Cho non sông đất nước đẹp giàu Cho trăm họ thần dân qua mạt kiếp Cho ba cõi khởi hành thiên hội hiệp Ta xoá đi bể nghiệp của trần gian Cho chúng sinh cởi bỏ hết thân tàn Cho oan nghiệp thế gian trong sạch Hội rồng mây đang lập trình danh sách Đợi thuyền tâm trong bối cảnh thiên cơ Tiểu Long Hoa khởi vận hãy còn chờ Mai bến hẹn thiên cơ con về lại Ta chăm chút dẫn đưa con đừng ngại Trong vòng quay biến loạn của thiên thời Loạn âm phần tà đạo mọc khắp nơi Nên tà quỷ ma vương quấy phá Bởi thiên sinh vòng này trong bản ngã Để lọc phân ra rõ chính hay tà Vậy giới trần phải nhìn rộng trông xa Trì chính pháp thì quỷ tà cũng sợ Có ngìn tay trên đài ta bảo trợ Sẽ quy y hết lũ tà thần Mạt kiếp này trừ hết lũ buôn dân Mặc áo Phật để buôn thần bán thánh Trừ giặc dốt cho thế gian trong sạch Trừ gian tham cho thế giới đại đồng Không loại trừ những kẻ đã dày công Nợ nhân thế giờ tích thành quả báo . Dù một bậc thượng sư nên đại lão Tu xuất gia dẫu được bách niên Đến hôm nay chưa tích được đạo thiền Không ngộ đạo vẫn não phiền : Thân , Khẩu , ý Còn tham luyến ngôi cao chức vị Với tiền tài danh vọng để cao sang Dẫu trăm năm không dứt được lòng tham Thì công ấy ví bằng như cũng bỏ Đến hôm nay trong cuộc cờ đen đỏ Cũng trở về ngã quỷ mà thôi ! Tự đem thân vào địa ngục luân hồi Trong bóng tối thay ngôi cho quỷ dữ Đạo sàng nhân đang trong vòng chung thử Nhìn gương đời cho kỹ nghe con ! Vì thế gian vạn vật chẳng thường còn Vì đạo quả ta khuyên con gắng sức Những đứa con theo ta về 21 Đại Long Hoa đến phút trót trần gian Kẻ bình thường cũng đáng bậc siêu nhân Của thế kỷ 20 là chuyện thật . Giờ phút chót khuyên con đừng để mất Đạo vô lượng tiền bạc dễ mua sao ? Nay ta khuyên hãy mạnh dạn bước vào Vòng chung thử tầm quyền trao ấn quyết Không lạc đạo là thân tâm bất diệt Tội không vương căn số tựa vừng hồng Tạo hoá đền cho những kẻ có công Là tội phúc hà sa vô tận Vậy hành trang con bước vào chiến trận Là thân , tâm , khẩu , ý phải viên thông Dẫu đời chỉ manh áo vải che thân Giữa thời loạn phải tu nhân con nhé ! Dẫu 50 đời con còn quá trẻ Đại Long Hoa ta chia sẻ niềm vui Ta trả lại cho con bao năm tháng ngậm ngùi Thì lúc ấy là xem đời chẳng đắt Vậy một mai sự nghệp còn hay mất Việc có thành còn nhờ ở tâm con Muốn tu nên cho đạo quả vuông tròn Khuyên hãy gắng nghe lời ta dạy bảo Theo năm tháng ta khuyên con tần tảo Dẫu đói nghèo con giữ lấy thân tâm Trong cuộc thế thăng trầm đừng ngại khổ Bẩy ngàn năm đến hôm nay phật tổ Mới ban trao ấn quyết một lần Ban cho con độ thế cứu dân Xem mấy kẻ dưới trần nào đã được Ngày mở cửa ta giáng về báo trước Theo thiên thời nay được lệnh truyền trao Đạo học này mỗi lúc được nâng cao Theo thế vận để truyền trao linh phép Tựa thiên hà lòng ta không nông hẹp Chăm tinh rồng ta ấp ủ thiện nhân Trí thanh cao là trí tuệ thiên thần Chân như thường không thay đổi chân nhân Thì đạo quả sẽ muôn phần bền vững Đạo quả ấy là điềm trời báo ứng Cứu người hiền trong mạt kiếp can qua Con có quyền cứu được mẹ cha Cùng ruột thịt ông bà thân quyến thuộc Cùng máu mủ hay đạo đồng ruột thịt Học đạo này là pháp môn vô diệu Độ cho con ấn quyết cứu sinh Trang thơ này ta mở huệ khai minh Giúp đệ tử tự mình ngộ đạo . Bút ta cho giáng linh từ tam bảo Gắng tu hành giữ lấy nghe con Để một mai khi đạo quả vuông tròn Ban trí tuệ ta giúp con thành đạo . Hẹn ngày sau thiên cơ về ta báo Giáng linh chỉ mở lối đưa đường Gúp chúng sinh trong mười cõi thập phương Về hội ngộ trên đường hành thập thiện . Nam mô Nam Hải giáng sinh, cảm ứng giáng linh, cứu khổ, cứu nạn, đại từ, đại bi Linh cảm Bạch Y Quan Thế Âm Tuyết Sơn Bồ Tát ( Giáng bút năm 1999 – Kỷ Mão ) GIẢI THÍCH VỀ CÁC NGUYÊN - Một nguyên là 60 năm, kể từ năm Giáp Tý đến năm Quý Hợi . - Ba nguyên ( tam nguyên ) gồm 180 năm được phân ra: Thượng nguyên – Trung nguyên – Hạ nguyên, khi luân chuyển hết một vòng lại quay trở lại như cũ. Trong mỗi nguyên 60 năm lại chia ra làm ba phần, mỗi phần 20 năm gọi là tiểu vận, mỗi một tiểu vận lại có một sao chủ tể cho tiểu vận đó. Như thời gian xuất hiện cuốn kinh này (năm 1999) là cuối thế kỷ 20, thuộc về hạ nguyên thất vận. Vòng tam nguyên này bắt đầu từ năm1864 đến năm2043. Bao gồm : Từ năm 1864 – 1923 : Thượng nguyên Từ năm 1924 – 1983 : Trung nguyên Từ năm 1984 – 2043 : Hạ nguyên Trong Hạ nguyên 1984 – 2043 phân chia ra tiểu vận như sau: Từ năm 1984 – 2003 là hạ nguyên thất vận Từ năm 2004 – 2023 là hạ nguyên bát vận Từ năm 2024 – 2043 là hạ nguyên cửu vận. Từ năm 2044 trở đi là bước vào thượng nguyên của một vòng tam nguyên mới. Chúng ta hiện đang sống ở hạ nguyên cuối thế kỷ 20, bước sang thế kỷ 21, từ nay tới năm 2043 chính là thời kỳ mạt kiếp của hạ nguyên, ứng với lời sấm sàng lọc: Mười phần chết bẩy còn ba Đến khi vua ra chết hai còn một (2044) Từ năm 2044 bước vào thượng nguyên mới là thuộc về thế giới siêu văn minh, bình đẳng, bác ái. L . Đ . A2 likes -
Bài viết để tham khảo Sau đây là ví dụ số 2 trong chủ đề “Luận dụng thần biến hóa“ của toahuongquy trong mục Tử Bình bên tuvilyso.org. “2 - Chúng ta lại xem mệnh người thứ hai, một nam mệnh là: Đại vận: ất mão/ bính thìn/ đinh tị/ mậu ngọ/ kỷ mùi Ất mộc sinh ở dần nguyệt, lộ ra bính hỏa thương quan ở thời can, địa chi có tuất không có ngọ, nếu như dần tuất có thể hóa hỏa, cách thành thương quan sinh tài, như vậy mệnh chủ ở trong hai vận bính thìn, đinh tị này tất nhiên đã gặp đại phát tài, nhưng sự thật lại không phải như thế. Mệnh chủ lần đầu phát tài là ở vận mậu ngọ năm giáp tuất, được huynh đệ mình trợ giúp mà phát hơn trăm vạn. Năm sau ất hợi tỉ kiên tranh tài, liền phá mất đi mấy chục vạn nguyên. Sau này ở năm mậu dần, kỷ mão lại phất lên dữ dội một vài khoản tiền. Tại sao mệnh chủ phải đến tài đại vận mậu ngọ mới xảy ra xoay chuyển? Nguyên nhân chỉ có một, đó chính là trên mệnh cục có tuất không có ngọ là không thể đủ hợp hóa thành hỏa, chỉ có tới vận mậu ngọ, có chữ ngọ, mới có thể đủ hợp hóa thành hỏa, khiến nguyên mệnh cục nguyệt kiếp cách biến thành thực thương cách, như vậy mới có thể làm cho mệnh chủ phất lên như sấm.” Sau đây là bài luận của tôi: Qua ví dụ của tổng thống Ðức Horst Koehler tôi đã đưa ra giả thiết “Hóa cục có thể hóa (xì hơi) các can động để sinh cho các can khác” (tức là hóa cục có khả năng làm dụng thần thông quan cho các can) đã sai qua ví dụ này như sau: Sơ đồ mô tả Tứ Trụ và đại vận Mậu Ngọ tại năm Ất Hợi: Qua sơ đồ ta thấy Thân khá vượng mà kiêu ấn ít nên dụng thần đầu tiên phải là quan sát/ Tân tàng trong Tuất trụ năm. Năm Ất Hợi thuộc đại vận Mậu Ngọ, tiểu vận Quý Sửu và Giáp Dần có tam hợp Dần Ngọ Tuất hóa Hỏa và ngũ hợp Dần tiểu vận với Hợi thái tuế hóa Mộc (ta xét tiểu vận Giáp Dần vì nó chiếm hầu hết năm Ất Hợi). Vì trong Tứ Trụ có Tuất và Dần hợp với tuế vận hóa cục thay đổi hành của chúng nên điểm vượng trong vùng tâm phải tính lại. Sau khi tính lại, Hỏa có 5,4đv được thêm 5,4đv của Dần trụ tháng và 1,44đv của Tuất trụ năm thành 12,24đv. Mộc có 24,4đv bị mất 5,4đv của Tuất trụ năm còn lại 19đv. Thổ có 9,16đv bị mất 1,44đv của Tuất trụ năm còn lại 7,72đv. Ta thấy Thân vẫn vượng nhưng Thực Thương nhiều nên dụng thần đầu tiên của năm Ất Hợi (hay của cả đại vận Mậu Ngọ) là Tài tinh Mậu ở trụ năm. Ta thấy : 1 - Giáp trụ tháng vượng ở lưu niên khắc (đoạt hay cướp Tài) Mậu đại vận và Mậu trụ năm. Giáp tiểu vận vượng ở tiểu vận khắc Mậu đại vận. 2 - Ất trụ ngày và Ất lưu niên chỉ vượng ở đại vận cùng khắc Mậu đại vận và Mậu trụ năm. Cho nên các Tỉ kiếp là Giáp và Ất đã cướp (tranh đoạt) hết Tài là Mậu ở trụ năm và Mậu ở đại vận nhưng vẫn còn Tài cục (Thổ cục) trong Tứ Trụ (vì chúng không khắc được) nên người này chỉ bị phá tài mà thôi. Nếu như theo giả thiết mà tôi mới đưa ra thì Hỏa cục sẽ phải hóa được các can Giáp và Ất để sinh cho Tài Mậu thì năm Ất Hợi vẫn phải là một năm phát tài nhưng thực tế lại ngược lại, đó là một năm phá tài nhưng không phải phá sản (vì còn Tài cục trong Tứ Trụ). Ðiều này đủ để kết luận các hóa cục không có khả năng làm dụng thần thông quan cho các can. Cho nên ở ví dụ của tổng thống Ðức, Mộc cục không có khả năng hóa Quý trụ năm để sinh cho Ðinh đại vận nên Quý vượng ở lưu niên đã khắc chết hẳn Ðinh đại vận (vì Quý không bị can nào khắc nó cả). Chắc vì vậy mà ông ta đành phải từ chức về hưu (?). Nhưng tại sao năm Giáp Tuất cũng có các can Giáp khắc Mậu Tài ở đại vận và Mậu trụ năm mà người này lại đại phát tài như vậy ? Ðó chính là vì năm Giáp Tuất chủ yếu thuộc tiểu vận Quý Sửu mà Quý lại hợp với Mậu đại vận hóa Hỏa thành công (vì có Ngọ đại vận hoặc lệnh tháng dẫn hóa) cũng như Giáp lưu niên nhược ở tuế vận nên khắc Mậu trụ năm bằng 0 (tức nó không khắc được Mậu mặc dù nó vẫn làm cho Mậu và Giáp trong Tứ Trụ ở trạng thái động). Do vậy Giáp trong Tứ Trụ mới khắc được Mậu ở trụ năm nhưng vì Giáp trụ tháng nhược ở tuế vận mà chỉ vượng tại lệnh tháng nên lực khắc của nó bị giảm đi ¾ (chú ý Mậu đại vận đã hóa Hỏa nên Giáp không thể khắc được nó. Dĩ nhiên là theo phương pháp của tôi, vì tôi theo cụ Thiệu mà thôi, còn các phương pháp khác thì họ cho rằng vẫn khắc được...). Ðiều này cho biết số tiền bị Tỉ Kiếp tranh đoạt vào năm Giáp Tuất là quá ít có thể bỏ qua được. Từ vận Tài (Mậu) đã chuyển thành vận Thực Thương sinh Tài (Mậu đã hóa Hỏa là Thực Thương) mà Tài trong Tứ Trụ thì quá nhiều (Mậu và Tài cục). Khi Tài Mậu động thì kho Tài là Thổ cục trong Tứ Trụ cũng động cho nên người này đã đại phát tài. Còn tác giả là Hoàng Ðại Lục đã giải thích sự phá tài này như thế nào ? Ông ta viết: “Mệnh chủ lần đầu phát tài là ở vận mậu ngọ năm giáp tuất, được huynh đệ mình trợ giúp mà phát hơn trăm vạn. Năm sau ất hợi tỉ kiên tranh tài, liền phá mất đi mấy chục vạn nguyên.”. Ông ta cho rằng năm Ất Hợi có Ất là tỉ kiên “tranh tài” còn năm Giáp Tuất thì ông ta cho rằng Giáp là kiếp nhưng không “tranh tài“ mà là “huynh đệ mình trợ giúp“ trong khi Tứ Trụ có Thân khá vượng. Ðiều này chứng tỏ ông ta không nắm được khả năng tranh đoạt tài của các Tỉ Kiếp là phải dựa theo khả năng vượng suy của chúng ở tuế vận. Bởi vì làm gì có chuyện Thân đã khá vượng rồi mà còn cần đến Tỉ Kiếp trợ giúp (điều này chỉ có thể đúng khi Thân nhược hay Thân hơi vượng, tức gần như Thân trung bình).2 likes
-
Mình thấy lá số của bạn có Thái âm thủ mệnh thì bạn hơi nữ tính, không được quyết đoán, nhẹ dạ cả tin - mệnh không thân kiếp . mệnk tuần thân triệt nên vất vả lắm2 likes
-
bạn nói ít thông tin về bạn quá. có phải bạn lấy vợ năm 25 tuổi.bạn thi cử ko thuận lợi,làm gì cũng khó khăn bị kìm hãm . bạn co năng khiếu về ngành y . số bạn sau này sẽ làm thầy .bạn rất mê tín .hôn nhân của bạn ko may mắn.số 2 vợ.phải năm 30 tuổi trở đi mới được thuận lợi.bạn bè hay phản bội. số đào hoa nhưng duyên nợ lận đận .bạn nên cố gắng trên con đường học hành. con đường quan lộc của bạn rất tốt hãy cố gắng lên chúc bạn thành công2 likes
-
Xin Tư Vấn Giúp
nokia and one other liked a post in a topic by Thiên Luân
Phải đành chịu vậy thôi! Nếu anh muốn hóa giải luôn thì phải đợi đến 2018 hoặc 2019, lúc đó thì mẹ 40t rồi, sợ không đảm bảo sức khỏe sinh sản! Nếu anh hỏi sớm cách đây 1, 2 năm thì TL chắc chắn sẽ tư vấn cho anh năm Tân Mão. Đảm bảo tuyệt đẹp! Âu cũng là số phận vậy! Thân mến.2 likes -
Tương tác về tuổi vẫn là 1 yếu tố trong nhiều yếu tố tác động đến 1 gia đình. Gia đình trên người nắm kinh tế chính là ông bố. Người mẹ chỉ đóng vai trò phụ trong kinh tế gia đình. Con gái út hợp cha và được cha cưng hơn so với mẹ. Với bà mẹ thì có thằng con trai. Đứa bé gái sau khá bướng mỉnh, có 2 biểu hiện, 1 là hay cãi mẹ, 2 là lầm lì khó chịu. Sau này chắc chắn sẽ không sống chung với cha mẹ. Chuyện giàu có là 1 vấn đề khác, có thể với Chim Chích Bông hoặc người khác nhìn vào thì thấy nhà này giàu, hạnh phúc. Nhưng với bản thân gia đình kia có cảm thấy vậy hay không lại là vấn đề khác? Có thể với 1 đứa con út hợp tuổi hơn thì họ càng giàu hơn, có tiếng tăm hơn. Ông này đúng là có danh tiếng nhưng chỉ là nhỏ thôi! Về sau còn chưa biết có chuyện gì mà! Số vận đang tốt thì vẫn sẽ tốt, nhưng có thể không tốt đúng với định mệnh, do nhiều yếu tố tương tác. Định mệnh mang tính định tính thì không đổi, nhưng định lượng thì thay đổi phụ thuộc vào các yếu tố tương tác khác! Phương pháp chọn năm sinh con theo Luận Tuổi Lạc Việt có những ưu tiên để tìm năm sinh con hợp cả cha và mẹ, và quan trọng là gia đạo của cả gia đình trong nhiều chục năm sau đó. Đây không phải là phương pháp mang tính tức thời. Thân mến.2 likes
-
Sinh Con Năm Thìn
học tập liked a post in a topic by Học Trò
Chào các bác giải đoán tuổi. Tôi có đứa cháu đang khăn gói quả mướp chuẩn bị cho kế hoạch sinh con năm Rồng. Với mong muốn tốt cho cả nhà và tốt cho cả bé. Chẳng hiểu cu cậu được các Thầy truyền thụ cho kiến thức bắt Rồng thế nào, thấy cu cậu hót líu lo rằng bắt Rồng vào tháng 2, 3 âm lịch là tốt nhất (thăng quan tiến chức, giầu có không lường, hạnh phúc gia đạo), Trong 2 tháng này thì tháng 3 tốt hơn tháng 2 vì là tháng 3 là tháng của Rồng. Tốt kém hơn chút là tháng 7 và 8. Được coi là tháng Mưa gió bão bùng, Rồng tha hồ bay lượn, vờn mây, quấn thủy, nhất là tháng 8 âm (nhưng kém hạnh phúc gia đạo). Tháng tệ nhất là tháng 11 và 12, Rồng Tuyết dễ bị cô đơn, ghẻ lạnh nên cần tránh sinh con tháng này. Tháng tang tóc nhất lại là tháng 1 bởi Long Hổ tranh Bá. Các tháng còn lại là 456,9,10 nói chung là gia đạo bất an vì Rồng hoặc đối tác hôn nhân không chung thủy. Nghe xong câu chuyện này mà thấy khá thú vị. Rất mong các bác luận tuổi cho ý kiến về việc săn bắt Rồng hợp pháp. Ta coi như chuyện Tuổi của bé Rồng là hợp hoàn toàn với Cha và Mẹ từ Mệnh đến Cục, từ Can tới Chi. Theo các bác thì bé Rồng sinh vào tháng nào thì tốt nhất? Tôi cũng nghĩ rằng các bác nên mở ra các mục như thế này hàng năm để các bậc cha mẹ sau khi luận được tuổi sinh bé rồi thì chọn cho mình tháng sinh con tốt nhất, nếu làm chủ được hành vi của mình, còn ý trời thì có giỏi tính mấy mà không có phúc cũng chẳng được hưởng. Ví như hiện giờ là đầu năm Mão, mình nên mở mục tư vấn tuổi sinh con năm Rồng và từ đầu năm sau mở mục tư vấn tuổi năm Tị. Tôi nghĩ rằng sẽ có nhiều bạn trẻ hưởng ứng.1 like -
Cám ơn anh Phamhung. Văn Lang thấy sẽ dễ đọc hơn nếu in ra giấy nên đã chuyển sang bản Pdf và up lên đây để chia sẻ cùng mọi người. http://www.mediafire.com/?zx7m44eardx44y91 like
-
Bác ơi cháu lại xem lá số của anh chồng. Xem ra có lá số không đúng giờ sinh. @ Chi Thanh Lam: em còn ít tuổi. Có phải chị có dạng người hơi cao, thon, da trắng, chân mày sắc, mũi hơi to, tóc xoăn hay hoe vàng, là con trưởng hay đoạt trưởng, Sức khỏe tốt không hay đau bệnh vặt. Chồng dạng người cao trung bình, đầy đặn, cũng là con trưởng hay đoạt trưởng, lưỡng quyền cao, cằm vuông hay chẻ, tính tình bảo thủ, ít khi tiếp thu ý kiến người khác, hay áp chế cho là mình đúng?1 like
-
1 like
-
Hóa lộc cũng là phúc tinh trừ bệnh tật tai nạn +quang -quí /đau bệnh chạy trùng thầy uống trúng thuốc ,tai nạn thì chóng qua vì được người giúp .1 like
-
hóa lộc thuộc về gan hay mật /bệnh phù bệnh vàng da / thiên hình là da hay bệnh về da1 like
-
1 like
-
1 like
-
Ngôn từ Việt và thuyết Âm Dương Ngũ Hành. Để dễ theo dõi bài viết, xin bạn đọc chú ý mấy điểm sau ở cách nói của Lãn Miên: 1/ Định nghĩa Từ: Từ là một Lời, tức có mang một nghĩa hoàn chỉnh. Ở ngôn ngữ Việt Nam, Từ cơ bản chỉ là một Tiếng (đơn âm tiết, coi như là một cái Tế để tạo thành Từ, hay là một cái Trứng để tạo thành Tiếng) có cấu tạo gồm cái “Tơi” hoặc cái “Vời” ở đầu và cái “Rỡi” ở đuôi. Tơi là phụ âm đầu, tức cái “Tiền tố tạo Lời”=(lướt)= “Tơi”, cũng là cái “Tay đưa Lời”=(lướt)=”Tơi”. Vời là không có Tơi, tức “Vắng Tơi”=(lướt)= “Vời”, hay cũng là “Vỏ Lời”=(lướt)=”Vời”. Rỡi có cấu tạo là một nguyên âm hoặc một âm vận, là cái “Ruột của Lời”=(lướt)= “Rỡi”(có mang dấu ngã là gen của Lõi). 2/ Qui tắc tạo ngôn từ Việt của Lãn Miên, viết tắt là QT, gồm: 1.Qui tắc Vo ( qui tắc 1): Đưa từ đa âm tiết (của ngôn ngữ chắp dính) vào trong cái Vò của Việt , gọi là Vò Việt, là một cái “Nôi khái niệm”, để vo tròn như vo gạo trong cái rá, từ đa âm tiết sẽ bị rụng những phụ tố đầu đuôi để chỉ còn mỗi cái “Lõi” thành một “ Lời” là một Từ đơn âm tiết. 2.Qui tắc Nở ( qui tắc 2) : Một “Từ” đơn âm tiết là một cái “Tế” ở trong “nôi khái niệm” như cái “bầu”, cái “Tế” ấy sẽ tự sinh sản theo kiểu tách đôi như cách sinh sản của tế bào tức một cái “Trứng” tự tách thành hai “Tiếng”, hai tiếng ấy dính thành một “Từ hai âm tiết dính nhau không thể đảo ngược thứ tự khi phát âm”, gọi là “từ dính” , mang khái niệm lấp-lửng (thường đánh dấu giữa hai tiếng bằng một gạch ngang - ). Rồi “từ dính” đó mới tách rời hẳn ra thành hai từ đơn âm tiết riêng, một từ mang tính Âm và từ kia mang tính Dương, ghép chúng lại với nhau thì được một Từ Đối (thường đánh dấu giữa hai tiếng bằng một gạch xẹt / ).Từ Đối dùng để khái niệm sự trái ngược. 3.Qui tắc Lởi ( qui tắc 3) : Một từ nếu giữ nguyên Rỡi, đổi Tơi khác hoặc đổi Vời thành có Tơi (trường hợp từ đó là Vắng Tơi ), sẽ tạo được từ mới cùng Nòi, tức cùng Nôi khái niệm lớn với từ ấy (ngôn ngữ học gọi là qui tắc “Phối tố đầu”, theo kiểu “Biến phụ âm đầu mà Bất biến âm vận đuôi”). Phụ âm đầu là cái “Tố đầu để tạo Lời” =(lướt)= “Tơi”, hay là cái “Tay đưa Lời”=(lướt)= Tơi. Nhưng cái “Tố đầu”, theo triết lý Âm Dương “Trong Có vẫn có Không, trong Không vẫn có Có”, nên cái “Tố đầu” có trường hợp nó là Tơi , cũng có trường hợp nó là Vắng Tơi, mà “Vắng Tơi”=(lướt)=Vời, tức cái Tơi của nó từ trước đã được mời đi đâu mất rồi không rõ, nó không có mặt, nên nó là Vắng Tơi, gọi lướt là Vời. 4.Qui tắc Rút ( qui tắc 4): Một từ nếu giữ nguyên Tơi hoặc Vời , đổi Rỡi khác, sẽ tạo được từ mới cùng Nòi, tức cùng Nôi khái niệm lớn với từ ấy (ngôn ngữ học gọi là qui tắc “Phối tố đuôi”, theo kiểu “ Biến âm vận đuôi mà Bất biến “cái Có phụ âm đầu” hoặc “cái Vắng phụ âm đầu”). Âm vận đuôi là cái “Ruột để tạo Lời”=(lướt)= “Rỡi” (cùng gen dấu ngã với Lõi). 5.Qui tắc Lướt ( qui tắc 5): Là lướt một cụm từ gồm hai hay nhiều từ hoặc thậm chí cả một câu dài thành một từ đơn âm tiết đồng nghĩa. Từ sẽ có Tơi hoặc Vời mang gen của Tiếng đầu câu và có Rỡi mang gen của Tiếng cuối câu, hoặc có thêm cả gen của một vài Tiếng giữa câu. 6.Qui tắc Tháp ( qui tắc 6): Là ghép hai từ đơn âm tiết đồng nghĩa (gọi là đồng Nòi) nhưng dị âm lại với nhau (gọi là khác Sắc, như 0 với 1 hay 1 với 0) thành một từ hai âm tiết đồng nghĩa (đồng Nòi) với hai từ trên. Nguyên tắc ghép là từ nào cổ hơn thì đứng trước. Từ ghép kiểu này tạo thành từ hai âm tiết gọi là “từ đôi”. Từ Đôi có ý nghĩa “Nhiều” hơn hay “Nhấn” mạnh hơn, như 0+1=1, hay 1+0=1. 7.Qui tắc Lặp (qui tắc 7): Là lặp lại một từ thành từ có hai âm tiết ( đương nhiên đồng âm, cùng ý nghĩa), dùng để nhấn mạnh hay so sánh. 3/. Dấu nối giữa các tiếng, gồm: 1. Dấu gạch ngang (-) là giữa hai tiếng của từ đôi 2. Dấu gạch xẹt (/) là giữa hai tiếng của từ đối 3. Dấu bằng (=) không phải là dấu ( = ) của đẳng thức trong toán học, nó chỉ dùng để dẫn ra nôi khái niệm lớn, có nghĩa là các Từ, tức các Tiếng, tức các Trứng liên hệ với nhau bằng dấu ( = ) là có cùng Gen. Giống như cái Hột giống của thực vật, nó có thể nẩy mầm ra cây Đực hoặc cây Cái (như cây đu đủ đực hoặc cây đu đủ cái). Vì Hột=Cột=Cộc=Cái=Trai=Gái=Gen. Cùng Gen tức cùng Gốc, Gốc ấy trong QT là: 1. Cùng Vò trong QT Vo (khi liên hệ với từ đồng nghĩa của các ngôn ngữ chắp dính) 2. Cùng Nôi trong QT Nở (tức cùng Tơi hoặc cùng Vắng Tơi như từ Gốc cho Gen) 3. Cùng Rỡi ( tức Rỡi bất biến) trong qui tắc Lởi < “Lấy tơi ra Đổi tơi khác nhằm thay Lời”=(lướt)= “Lởi”, Lởi còn có gen dẩu hỏi của Đổi, lại cùng gen với Lẩy như “Lẩy Kiều”, “Lấy câu ra thay câu khác để cho ý mới Nẩy”=(lướt)= “Lẩy”. Nếu là từ Vắng Tơi thì thay bằng có Tơi > 4. Cùng Tơi hoặc cùng Vời (tức Tơi hoặc Vời bất biến) trong QT Rút. < “Vắng Tơi”=(lướt)= “Vời”, nghĩa là Tơi đã được mời đi đâu mất rồi từ trước nên không có mặt, tức Vắng Tơi . “Rã thay Rỡi để đÚc mới Từ”=(lướt)=Rút, Từ = Tờ = “t” , giải phẫu của RÚT là R-Ú-T, R mang gen của Rã, Ú mang gen của Đúc, T mang gen của Từ > 5. Cùng Tơi của tiếng đầu câu và cùng Rỡi của tiếng cuối câu trong QT Lướt . 4/ Qui tắc đếm của hệ số nhị phân là: 0+0=1 , 0+1=1, 1+0=1, 1+1=0 Ngôn từ Việt có Âm Dương Ngũ Hành, hay Âm Dương Ngũ Hành có trong ngôn từ Việt. Ngôn ngữ Việt Nam được xếp vào hệ ngữ Môn-Khơ Me. Nguyên thủy nó là một ngôn ngữ chắp dính (đa âm tiết, không biệt rõ thanh điệu). Tại miền đất bán đảo Đông Dương, hàng vạn năm trước, khi canh tác nông nghiệp trồng trọt đã phát triển thành nền văn minh lúa nước, người Việt sáng tạo ra thuyết Âm Dương Ngũ Hành cho nhiều ứng dụng khác nhau trong đời sống, rồi cũng vận dụng nó vào cả trong phát triển ngôn từ, người Việt mới dùng QT Vo để tạo ra một Tiếng phải là một Lời. < Qui tắc Vo - qui tắc 1: Đưa từ đa âm tiết của ngôn ngữ chắp dính vào trong cái Vò của Việt , gọi là Vò Việt, là một cái “Nôi khái niệm”, để vo tròn như vo gạo trong cái rá, từ đa âm tiết sẽ bị rụng những phụ tố đầu đuôi để chỉ còn mỗi cái “Lõi” thành một “ Lời” là một Từ đơn âm tiết. > Thế là ngôn ngữ đơn âm tiết xuất hiện, và theo nó là bắt buộc phải xuất hiện thanh điệu. Khi trong ngôn ngữ đã có cái hiệu quả: một Lời (tức đã trọn một nghĩa) chỉ là một Tiếng, như khái niệm dẫn ra: Lời=Lõi=Nòi=Trọi=Trồi=Trứng=Tưng=Tiếng; “Tiếng của Trứng” =(lướt)= “Tưng”=Tửng-Từng-Tưng, giống âm thanh của tiếng đờn T,rưng, thì người Việt coi cái Tiếng đó như là một cái Trứng, theo vận dụng thuyết Âm Dương Ngũ Hành, cái Trứng đó phải tự đẻ được theo cách như tế bào tự tách đôi, xuất hiện QT Nở. < Qui tắc Nở - qui tắc 2 : Một “Từ” đơn âm tiết là một cái “Tế” ở trong “nôi khái niệm” là cái “bầu”( đây chính là cái bầu tròn của biểu tượng Âm Dương, bên trong có hình giống như hai con Nòng-Nọc quấn quýt ngược đầu nhau), cái “Tế” ấy sẽ tự sinh sản theo kiểu tách đôi như cách sinh sản của tế bào tức một cái “Trứng” là một cái “Tế” tự tách đôi thành hai “Tiếng”, mỗi “Tiếng” sẽ thành một “Từ”, nhưng khi còn trong nôi thì hai tiếng ấy vẫn đang dính thành một “Từ có hai âm tiết dính nhau không thể đảo ngược thứ tự vị trí của chúng khi phát âm”, gọi là “Từ Dính” . Từ Dính mang khái niệm lấp-lửng (thường đánh dấu giữa hai tiếng bằng một gạch ngang - ). Rồi “Từ Dính” đó mới tách rời hẳn ra như nảy ra khỏi nôi thành hai từ đơn âm tiết khác nữa độc lập nhau, một từ mang tính Âm và từ kia mang tính Dương, ghép chúng lại với nhau thì được một Từ Đối (thường đánh dấu giữa hai tiếng bằng một gạch xẹt / ).Từ Đối dùng để khái niệm sự trái ngược.> Đi sâu vào xét QT Nở ta sẽ thấy ngôn từ Việt ẩn chứa qui tắc của thuyết Âm Dương Ngũ Hành chính xác như thế nào. Tiếng Việt là ngôn ngữ có âm vận phong phú nhất, thêm sáu thanh điệu làm cho lượng âm vận càng phong phú (tiếng Thái Lan có 5 thanh điệu, tiếng Hán có 4 thanh điệu). Âm vận đơn giản nhất là chỉ có một nguyên âm, đó là một Lời chỉ có Rỡi < Rỡi tức “Ruột của Lời” = (lướt)= “Rỡi” > mà Vắng Tơi < Tơi tức “Tay đưa ra Lời”=(lướt)= “Tơi”, hay “Tiền tố của Lời”=(lướt)= “Tơi” >. Đã phát âm thành một “Tiếng” thì của tiếng Việt nó ắt phải là một “Từ”, tức một Lời vì nó mang nghĩa hoàn chỉnh. Ký tự nguyên thủy của loài người là vẽ một vòng tròn ( O ) biểu thị Đực, là Dương, là bầu trời. Trong tiếng Việt thì Trời=Trồi=Tròn ( cái Rỡi của Tròn là On sẽ cho ra Con, cũng thuộc Đực, thuộc Dương). Nhưng “trong Dương có Âm” tức tính của Dương là Âm, nên từ hình vẽ chuyển sang ký tự của ngôn ngữ thì hình tròn ấy là chữ O, người Việt gọi “O” nghĩa là “Người con gái” (thơ Tố Hữu: “ O du kích nhỏ giương cao súng…”). O có dấu thanh điệu Ngang, tức vần Trắc, chỉ cần đổi ngược sang vần Bằng, tức thay dấu thanh điệu Ngang thành dấu thanh điệu Sắc ta có Ó là con chim Ó là loài diều hâu thuộc tính Dương, biểu trưng Dương. Hình thành cặp đối O/Ó. Con gà nó gáy bằng tiếng Việt là “ Ò-Ó-O…Ò-Ó-O…” một dãy âm thanh tiếp nối Bằng-Trắc…Bằng-Trắc…Con gà trong quan niệm cổ đại là biểu tượng Lửa, là Dương,tính của thịt gà theo Đông Y của người Việt là Nóng. Gà (tiếng Việt)=Cà (tiếng Việt)=Cáy (tiếng Tày)=Qué (tiếng Hoa)=Kê (chữ nho Việt), có từ đôi Cà Kê, Gà Qué. Gà=Kê ứng với hành Kim trong Ngũ Hành. Trong tiếng Việt thì khái niệm đã mở rộng ra theo QT là Gà=Lả=Tá=Tra=Trời=Trống=Rộng=Đồng=Hồng=Hùng, và chữ nho Việt viết Hùng nghĩa là Con Trống. Chỉ trong một nôi khái niệm này của tiếng Việt theo QT, đã có thể nhìn thấy thời đại Hùng Vương là thời đại kim loại đồ đồng của Trống Đồng trên một vùng đất đai văn hóa Rộng mênh mông của các Bản Làng đại tộc Việt. Vùng đất đai văn hóa rộng lớn ấy trải dài từ vịnh Thái Lan đến bờ nam sông Dương Tử, đó là nước Hồng Bàng cổ xưa của 18 thời đại Vua Hùng, (“Vua” “Hùng” = “Vùng của” “Trống Đồng”). Khi ngôn ngữ Việt đã thành đơn âm tiết, người Việt lại còn dùng Qui tắc Lướt để tạo thành những từ mới ngắn gọn bằng một Tiếng do cô đọng một câu dài. < Qui tắc Lướt ( qui tắc 5): Là lướt một cụm từ gồm hai hay nhiều từ hoặc thậm chí cả một câu dài thành một từ đơn âm tiết đồng nghĩa. Từ sẽ có Tơi hoặc Vời mang gen của Tiếng đầu câu và có Rỡi mang gen của Tiếng cuối câu, hoặc có cả gen của một vài Tiếng giữa câu > Bản Làng=(lướt)=Bàng=Bang=Băng, nhiều làng hợp lại thì thành một bang, dân biển đảo sông nước thì sống trên Bè, Mảng, nhiều thì cũng hợp lại thành Bang. Bè Mảng=(lướt)=Bảng=Bang. Bè=Phe=Phái, có từ đôi Phe Phái, Bè Phái, do đó thấy cổ nhất vẫn là từ Bè, đó là cái vật cụ thể ghép bằng nhiều cây nứa để đi sông biển. Ngôn từ của nhân loại đều do từ chỉ vật cụ thể rồi nâng lên tính trừu tượng thành từ bác học. Mảng cũng là vật cụ thể ghép bằng nhiều cây nứa để đi sông biển, Mảng=Mường=Minh, Liền Mảng=Liên Minh, Liên Minh là một từ bác học. <Trong Sấm của Nguyễn Bỉnh Khiêm có viết địa danh Bảo Giang, nói lái thì là Bảng Giao tức Bang của Giao Chỉ vùng biển, Bảng Giao=(lướt)=Bảo , mà cũng vậy Biển Đảo=(lướt)=Bảo. Bảo=Bửu=Báu. Còn nói theo qui tắc “phản thiết” của Hứa Thận thời Đông Tấn thì “phản” tức đảo ngược lại là Giang Bảo rồi “thiết” tức lướt thì Giang Bảo=(lướt)=Giao, cũng là Giao Chỉ nốt. Câu Sấm của Nguyễn Bỉnh Khiêm là: “Phân phân Tùng bách khởi. Nhiễu nhiễu xuất Đông chinh. Bảo Giang thiên tử xuất. Bất chiến tự nhiên thành”. Hán ngữ dùng các từ “Bang” nghĩa là một quốc gia, “Bàng Đại” nghĩa là rất to lớn, “Đại Bàng” nghĩa là loài chim có cánh xòe rộng > QT Lướt rất quan trọng trong tạo từ mới. Do lười biếng, ăn sẵn, vọng ngoại (lái là “vái ngọng”, đã làm hỏng dần ngôn từ Việt) người ta không để ý mấy đến QT Lướt. Trong khi đó thời Đông Tấn hai ngàn năm trước có Hứa Thận viết cuốn “Thuyết Văn Giải Tự” đã vận dụng qui tắc này , gọi là “Thiết”, Lướt=Thướt=Thiết, để dạy cách đọc đúng âm chữ nho. Tư duy của người Việt là một khái niệm phải được biểu đạt chỉ bằng một từ. Ngày nay trong tiếng Việt vô cùng nhiều khái niệm được các nhà ngôn ngữ học biểu đạt bằng cả một câu. Ví dụ “bao cao su”, đây là một cụm từ chứ không phải một từ, nếu trong đối thoại hỏi “Đây là cái gì?”, trả lời “Bao cao su” thì đó là một câu. Vậy mà nó cứ được dùng tự nhiên để khái niệm một vật cụ thể, nếu sau dăm năm nữa công nghệ phát triển không làm nó bằng cao su nữa thì gọi nó là cái gì?. Từ để khái niệm nó thực ra đã có sẵn trong QT rồi. Tên khoa học nó là Condom, QT Vo đã nhìn thấy cái lõi “Đ” ở Giữa là gen Giao Chỉ rồi. Nó là cái dụng cụ dùng để Đụ, mà Đụ là QT Lướt của câu “Đưa tinh trùng đến Tụ” vào cái ổ trứng, “Đưa tinh trùng đến Tụ”=(lướt)=Đụ. Nhưng dùng dụng cụ ấy không phải là để nhằm di truyền nòi giống, mà chỉ là dụng cụ dùng để Đụ Chơi. QT Lướt đã cho từ mới “Đụ Chơi”=(lướt)=Đơi. Vậy thì gọi dụng cụ ấy là cái Đơi cho rồi, khỏi “bao cao su” dài dòng. Hán ngữ gọi nó là cái “vệ sinh đai”, cũng dài, nghĩa là cái vành đai bảo vệ cho sạch sẽ. Nhưng cái Đơi của QT thì nó đã hàm ý bảo vệ rồi, vì nó nhắc nhở “Đừng có làm ngắn cuộc Đời của bạn”, Đời mà bị ngắn mất cái dầu huyền thì là Đơi. Đơi=Tơi (cái áo ngoài)=Toi, hãy coi chừng ! Trước khi hành sự thì nhớ “Đợi mang Tơi”=(lướt)=Đơi, kiểu nào cũng giải thích được.( “Phong ba bão táp chưa bằng ngữ pháp Việt Nam” ). Trong dân gian, nhất là trong lớp “teen” mạng bây giờ họ rành QT lắm, có lẽ là do từ trong tiềm thức Việt. Ví dụ từ “đi Phượt “ chỉ cả câu: Đi du lịch kiểu “Phớt lờ mà Vượt” mọi trở ngại thiên nhiên và bó buộc của tua truyền thống gọi là đi Phượt. Thợ xẻ có từ thợ “Làm lưỡi cưa cũ cho sắc lại như Mới”=(lướt)=Lỡi, gọi là thợ Lỡi. Ngày nay dùng máy tự động mài lưỡi cưa, lại không gọi là “máy Lỡi” mà gọi là “máy mài lưỡi cưa tự động”. Dân nuôi tôm ở Cà Mau gọi cái lưới mắt rất nhỏ để quây tôm con ở góc ao là cái “Vzèo” do lấy ở từ láy Vòng-Vèo, làm gì có chuyện “Vòng là tiếng đã đem dùng, còn Vèo là tiếng đang chờ chứ chưa sử dụng” như ngôn ngữ học giải thích từ láy. Vèo là do cái “Võng có mắt nhỏ tí Tẹo”=(lướt)= “Vèo”. Vòng là do cái “Võng có mắt Rộng”=(lướt)=Vòng. Ngôn từ Việt với chữ Quốc Ngữ: Ký tự cổ đại của loài người thì vẽ Đực-Trời là cái vòng tròn ( O ), ký tự Latin thì vòng tròn là cái chữ O . Sách giáo khoa dạy vỡ lòng của giáo sư Hoàng Xuân Hãn khi truyền bá chữ quốc ngữ có câu đầu tiên là: “O tròn như quả trứng gà. Ô thời đội mũ, Ơ thời mang râu”. Ý là, muốn hiểu rõ ngôn ngữ Việt Nam phải bắt đầu từ Trời ( tức từ nguyên lý Vũ Trụ) và từ cái Trứng (tức từ nguyên lý gen DNA), cả hai cái đó đều nằm trong thuyết Âm Dương Ngũ Hành của người Lạc Việt sáng tạo ra. Việc dùng QT để dẫn ra một nôi khái niệm lớn cũng là theo như triết lý Âm Dương “Trong Dương có Âm, trong Âm có Dương”, vậy thì nếu qui ước Âm là Nhỏ, Dương là To thì Trong To có Nhỏ, trong Nhỏ có to, cũng như trong Vũ Trụ có một con Người và trong một con Người cũng có cả một Vũ Trụ, trong Trời có một con Gà và trong một con Gà cũng có cả Trời. Lão Tử nói Tim chỉ là một cái phủ xác thịt trong số lục phủ của lục phủ ngũ tạng, còn Tâm của con người thì nó là Thiên Phủ, nó sâu vô cùng tận và cũng rộng vô cùng tận ( thì nó như là Vũ Trụ vậy). Đã ai nghiên cứu được hết tiềm năng con người? Hán ngữ chỉ có một từ “xin” , quả tim cũng gọi là “xin”, lòng người cũng gọi là “xin”, viết bằng chữ Tâm. Những nhà “từ Hán-Việt” thì soạn ra từ để trong cuốn Từ Điển Tiếng Việt có cụm từ “khoa Tim Mạch”, nhưng lại có cụm từ “đo điện Tâm đồ”, đo đồ Tim bằng điện thì có thể, chứ đo thế nào được đồ của Tâm mà gọi theo kiểu Hán là “điện Tâm đồ”. Vì ngôn từ tiếng Việt được tạo ra theo qui tắc Âm Dương, tức qui tắc của hệ số nhị phân, nên trước hết ta phải nhớ lại là qui tắc đếm nhị phân khác qui tắc đếm thập phân. Hệ số nhị phân đếm như sau: 0 + 0 = 1, 0 + 1 =1, 1 + 0 +1, 1 + 1 = 0 . Ngôn từ Việt đều được tạo ra theo qui tắc đó của hệ đếm nhị phân. Thời cổ đại người Việt dùng ký tự Kẻ vạch. Kẻ bằng một vạch liền là Dương, Kẻ bằng hai vạch nối cách nhau là Âm. Thời dùng Que làm công cụ để Kẻ ra ký tự là những vạch thẳng có lẽ là thời còn Cứng, thời ấy là còn người Kinh (cần Keo), nói còn gọi là Kêu (giọng rất Cứng), ra đến Lưỡng Quảng đất rộng hơn thì Kêu lại thành Coỏng (vẫn rất Cứng và giữ đến ngày nay). Sau đến thời biết dùng công cụ là chất liệu mềm hơn thì động tác Kẻ đã biến thành Vẽ, ký tự càng phong phú lên thì biết viết, lúc đó người Kinh đã thành người Việt. Từ người Kinh biết Kẻ đến biết Vẽ đến Viết để người Kinh trở thành người Việt là quá trình dài hàng vạn năm để từ Cứng thành Mềm, lúc đó mới gọi là người Man hay Mân. Thời còn Cứng ấy kéo dài đến thời nước Sừng hay nước Sùng, giọng Cứng sinh ra các từ cũng Cứng, nhiều Tơi “K”. Thức ăn thì có Cơm, Canh, Cay, Quyệt, Kẹo. Thực vật có Cây, Cọng, Cỏ, Cành, Cánh,Củi, Củ, Quả. Động vật hoang dã có Cá, Cua, Cáy, Cóc, Còng, Cà Cuống, Cồ Cộ, Cào Cào, Cắc Kè, Cà Cưỡng, Kền Kền, Qué, Qụa, Cù Cu, Cun Cút, Cồng Cộc, Công, Cò, Két , Cắt, Cú, Cọp. Nông cụ có Cán, Càn, Quang, Cày, Cuốc, Cào. Kỹ thuật đánh bắt thủy sản có Cất, Câu, Quây, Quét, Cào. Công đoạn làm thuyền có Cưa, Cắt, Quay, Cạo, Quết. Làm nghề rèn có Kiềng, Quạt, Kê, Quật, Cạy. Bán hàng có Quang, Cân, Cóng, Ky, Quầy. Máy móc là bộ Cơ có Cộ, Cọn, Cối, Cửi, Cạm. Đến thời Vẽ và Viết là ký tự ký âm gọi là chữ nòng nọc. Qua hàng vạn năm sau lại quay lại đến thời thay chữ ký âm nòng nọc (khoa đẩu) bằng ký tự La Tinh thì hóa ra lại Là Mình (La Tinh=Là Mình). Có thể La Tinh không đồng nghĩa với Là Mình, nhưng chắc chắn là nó có gen đấy. Vì trong tiếng Việt thì Là Tinh=Là Tỉnh=Là Tình=Là Mình. Ơn Ai đưa chữ La Tinh. Để Ta thấy lại Là Mình ngàn xưa (Lãn Miên) Hãy xét các cặp từ đối, dùng chữ Quốc Ngữ để thấy rõ cái gen của Từ. Cặp đối Con/Cái: Từ đối Con/Cái (từ đốii tương ứng do hai cặp từ đôi: “Con Cặc”/ “Cái Lồn”) chính là từ đối Âm/Dương (từ đối tương ứng do hai cặp từ đôi “Ít Ỏi”/ “Dồi Dào”, khoa học đã chứng minh Âm/Dương là một tám một mười, tỷ lệ dân số hiện nay ở Trung Quốc đang là Dương thịnh Âm suy).Từ đối Con/Cái dù là đối nhưng Con và Cái đều là một Nòi ở trong một Nôi mà ra, vì chúng cùng Tơi là “C”, cái Tế (bào) chung của chúng là “Kẻ” đã theo QT Nở mà tách đôi theo cách tự sinh sản của tế bào, lúc mới bắt đầu thì cái trứng “Kẻ” ấy mới chỉ là sinh ra từ dính “Cựa-Quậy” tức cái trứng đang từ từ tự tách để lớn dần lên, lớn đến mức độ “thái” thì nó thành từ dính “Quá-Quắt”, rồi trứng ấy nói được thì thành từ dính “Quang-Quác”. Nếu qui ước Quang=1=Dương thì trong Dương có Âm nên Quang đã có sẵn cái gen là dấu thanh sắc của Quác, nên khi nở (tức lúc đã thái Dương thì biến thành Âm) nó nở thành Cái, mang giá trị 0=Âm. Tất nhiên cũng phải theo qui ước, Quác=0=Âm, thì trong Âm có Dương nên Quác đã có sẵn cái gen là dấu thanh ngang của Quang, nên khi nở ( tức lúc đã thái Âm thì biến thành Dương) nó nở ra thành Con. Có được hai cá thể hoàn chỉnh ở ngoài là Con và Cái, rõ ràng là một tiếng Dương và một tiếng Âm, chúng là một đôi nguyên thủy cùng Nôi, nên tạo thành từ đối nguyên thủy là từ đối Con/Cái. Về thời gian mà cái trứng “Kẻ” dùng để duy dưỡng , dần dần tách ra được hai trứng Con và Cái, là một quá trình, được biểu thị bằng từ đôi Chọn Chài ( Chọn cùng Rỡi “on” với Con, Chài cùng Rỡi “ai” với Cái, câu “ Chài người để Chọn làm chồng” đã giải thích được ý nghĩa của từ đôi Chọn Chài, là quá trình mà “Kẻ” đang nuôi dưỡng, cân nhắc phân phối nhiễm sắc thể DNA cho hai đứa, đứa nào sẽ sinh ra thành Con, đứa nào sẽ sinh ra thành Cái). Chọn Chài là quá trình lâu dài, bản thân Con=Gọn, Cái=Dài đã tiên đoán đàn bà có tuổi thọ hơn là đàn ông.Từ đôi Chọn Chài theo QT Lướt thì “Chọn Chài”=(lướt)= “Chãy”. Chãy là từ thứ sáu, với dấu thanh điệu thứ sáu của ngôn ngữ Việt Nam. Theo QT Lởi và QT Rút thì Chãy=Chửa=Chở=Chứa=Chữa=Đưa=Đẩy=Dẫy=Dài,=Dỗi =Rỗi=Rãi=Rảnh=Rang, là một quá trình lâu dài, có từ đôi Chứa Chở, Đưa Đẩy, Chữa Chãy (thường phát âm sai là Chữa Chạy), Rảnh Rang , Rỗi Rãi , Dẫy Dài đều là cần thời gian lâu dài ; từ ghép Dẫy Chết cũng cần thời gian lâu chứ không thể chết ngay lập tức được.Toàn bộ thể hiện quá trình duy dưỡng và cân nhắc phân phối nhiễm sắc thể cho hai đứa sắp ra đời của “Kẻ” là Con và Cái. Năm từ kia với năm dấu thanh điệu khác nữa đều là năm động từ thể hiện tương tác giữa Âm và Dương, tức giữa Con và Cái khi chúng đang còn ở trong Nôi chưa tách rời hẳn nhau, đó là các động từ chỉ sự tương tác: Chạy (di chuyển - Kim), Cháy (thiêu đốt - Hỏa), Chảy (biến hóa - Thủy), Chày (giữ lại - Thổ), Chay (loại trừ - Mộc). Ngoài năm từ với năm dấu thanh điệu mà ứng với Ngũ Hành ở cái ý nghĩa của từ, thì từ thứ sáu có dấu thanh điệu thứ sáu thể hiện quá trình tương tác, tính chất của quá trình ấy là Sáu=Sâu=Lâu (Nên thuốc Nam làm bằng các vị thảo dược nó tác dụng lâu mới khỏi bệnh, không nhanh như thuốc Tây làm bằng hóa chất).Từ đối Con/Cái tương đương với Nam/Nữ = Nường/Nõn = Lang/Lồn (Câu “đi lang” ý chê trách là đi theo trai, “lang thang”, “lang bạt kỳ hồ” thường chỉ hành vi của con trai). Nữ là Âm nhưng tính của Âm là Động tức Nông-Nổi, nên mới có câu chê ngược cho vui là “Đàn ông nông nổi giếng thơi, Đàn bà sâu sắc như cơi đựng trầu” ( từ đối Thác/Thơi, Thác là nước chảy trên cao xuống, Thơi là nước mạch đùn dưới sâu lên). Như trên đủ thấy ngôn từ của tiếng Việt được tạo ra từ nguyên lý của thuyết Âm Dương Ngũ Hành, chứng tỏ thuyết Âm Dương Ngũ Hành là sản phẩm của người Việt, vì tư duy tạo ra ngôn ngữ, ngôn ngữ lại là công cụ để tư duy. Nhưng không chỉ có thế. Trong ngôn ngữ Việt Nam lại cũng đã chỉ rõ sự sinh ra vũ trụ từ trong cách tạo từ của nó: Vũ trụ nguyên sơ là một cái Ổ hư vô, nhưng trong nó đã có mầm mống của tố chất Âm và Dương, chỉ có điều là chưa có cái nào được sinh ra mà thôi.Từ Ổ ấy là cùng Nòi với từ AND của tiếng Anh, vì “Ổ” và “AND” đều là cùng mẫu số chung là “Vắng Tơi”. ( Tiếng Anh AND nghĩa là “và” tức ám chỉ nó phải có ít nhất là hai yếu tố nằm ẩn trong đó, mà tiếng Việt thì Và=Vài=Hai).Thượng Đế thấy cái Ổ hư vô đó là không được, Thượng Đế không hài lòng, muốn phủ định nó đi, nên Ngài mới lệnh Nỏ Ổ ! ( “Nỏ” tiếng Việt là Không, như “No” tiếng Anh cũng là Không, suốt giải miền Trung “trọ trẹ” đều vẫn đang dùng từ “Nỏ” nghĩa là Không, nhưng Từ điển Tiếng Việt thì không đưa từ này vào !). Thế là No AND đã thành một câu phủ định, và theo QT5 nó lướt “No AND”=(lướt)= “NAND”. Nhưng ở tiếng Việt thì Nỏ Ổ đã lướt “Nỏ Ổ”=(lướt)=Nổ. Vụ Nổ này là nổ tan tành sạch sành sanh, nên gọi là Nổ Trắng, theo QT5 để lướt thì “NổTrắng”=(lướt)=Năng. Vụ nổ đó tạo ra một cái Năng, là cái hàm chứa trong nó sức lực vô tận. Cái trứng Năng này như một Tế bào, trong Nôi âm dương của Việt nó được duy dưỡng và từ từ tách đôi, thoạt đầu nó thành từ dính Nở-Nang (như 0 + 1, tức ký tự kẻ: một Vạch Đứt và một Vạch Liền, Âm Dương cân bằng), rồi tiếp diễn quá trình, nó đến thành Nảy-Nòi (như 1 + 0, tức ký tự kẻ: một Vạch Liền và một Vạch Đứt, Dương Âm cân bằng). Cuối cùng thì cái trứng NĂNG ấy tạo ra được hai đứa ,“con” là NẮNG và “cái” là NƯỚC, ghép lại có từ đối NẮNG/NƯỚC tương đương Dương/Âm. (Như Thượng Đế tạo ra ADAM rồi bẻ một mẩu xương sườn của Adam để nặn ra EVA. Dương sinh ra trước, Âm sinh ra sau, vì Nắng mang nhiều gen của Năng hơn là Nước. Rõ ràng thiên nhiên thì Nắng vẫn nhiều hơn Nước). “Cái” là Nước nên câu thành ngữ “Khôn ăn cái dại ăn nước” có nghĩa là đều ăn nước cả là khôn. Tây nó khôn hơn Ta nên nó toàn ăn súp với một tẹo bánh mì mà nó khỏe hơn, nên dưỡng sinh dạy là phải nhai một trăm lần cho mieesngthuwsc ăn nhuyễn thành Nước rồi mới Nuốt là tốt nhất. Cổ sơ thì trong tiếng Việt cũng chỉ có một từ Yên=Nghiền=Ngốn, dùng chung cho cả khái niệm uống và ăn, như tiếng Thái Lan vẫn chỉ một từ Yên=In=Kin, uống cũng gọi là Kin, ăn cũng gọi là Kin. Bởi cái QT Nở mà Yên đã chia tách ra thành Uống và Ăn ( đều cùng Nòi là “Vắng Tơi”). Thành ra nói hơi rắc rối, “nghệ thuật Uống-Ăn”= “nghệ thuật Ẩm- Thực”, tiếng Thái Lan chỉ cần nói “nghệ thuật Kin” là xong. Cho nên chắc chắn Thái Lan sẽ tiến đến “khoa học hợp nhất” nhanh hơn Việt Nam, vì Việt Nam đang còn lưỡng lự giữa hai, vấn-vương như Uống-Ăn, còn lâu mới tiến được đến “khoa học hợp nhất” như Yên, vốn đã có dùng thủa cổ xưa. Những nhà ngôn ngữ học “từ Hán-Việt” cứ cho rằng ngôn từ Việt gần gũi nhất với ngôn từ Hán, nhưng lại không thấy thực tế là nó gần gũi với ngôn từ tiếng Thái Lan và tiếng Khơ Me hơn nhiều . NĂNG là nhất nguyên đã sinh ra NẮNG và NƯỚC là nhị nguyên. NẮNG ghi bằng hai kẻ: Vạch Liền và Vạch Liền, như 1+1, thái Dương thì thành Âm, Nắng sẽ biến thành Nước gây mưa , sóng thần, lụt lội. NƯỚC ghi bằng hai kẻ: Vạch Đứt và Vạch Đứt, như 0+0, thái Âm thì thành Dương, nước có thể biến thành lửa, như QT: Nước=Nấu=Lẩu (tiếngTháiLan, nghĩa là rượu)=Dậu=Diệu=Riệu=Rượu=Rang=Rộp=Rổn= Cồn= Êtanol. Có từ đôi Rượu Cồn, Rổn Rang=Rộn Ràng chỉ cái không khí “hot”. Hệ đếm nhị phân trong ngôn ngữ Việt Nam ở con số Mô/Một đã có từ thủa khai thiên lập địa, nên cách tạo ngôn từ Việt nó mới nhuyễn Âm Dương Ngũ Hành và cả hệ số nhị phân như vậy. Thượng Đế cho tiếng Việt, ở lệnh phủ định Nỏ Ổ=(lướt)=NỔ trước , để tạo ra Vũ Trụ. Rồi Thượng Đế mới cho tiếng Anh, ở lệnh No AND=(lướt)=NAND, để xử lý ra hệ nhị phân, như ngôn ngữ Việt Nam vốn đã tự có hệ nhị phân từ trong tạo ngôn từ của nó từ khi có Vũ Trụ. Thượng Đế cho tiếng Anh cái lệnh phủ định là No AND= (lướt)=NAND, đã thành cái cổng (gate) NAND là mạch điện tử cơ bản sơ đẳng nhất trong kỹ thuật xử lý số. Mạch này có hai đầu vào, một đầu ra, xử lý phủ định (như lệnh của Thượng Đế đã ban), tạo ra ở đầu ra được bốn tổ hợp là 0 0, 0 1, 1 0, 1 1. (Đó chính là Tứ Tượng). Mà hệ nhị phân của công nghệ thông tin, như các nhà khoa học nói, “là công cụ tạo ra mọi văn minh cho nhân loại trong tương lai”. Cặp từ đối Âm/Dương, người Việt phát âm thì đúng như động tác cặp môi Mím/Mở (hay Ngậm/Toang), còn người Hán phát âm Âm/Dương là Yin/Yang, hai âm này cặp môi phát âm đều mở hết cỡ, vậy Yin/Yang chỉ là phiêm âm bắt chước mà thôi, không thể hiện được Đóng/ Mở như công tắc điện là môi trên môi dưới phải tiếp xúc chặt khi phát âm “Đóng” và nhả ra không tiếp xúc nữa khi phát âm “Mở”. Công tắc điện Mở/Đóng người Hán gọi là Khai/Quan, hai âm này khi cặp môi phát âm đều mở toang hết cỡ, làm sao phân biệt được là Đóng hay Mở, Ngậm miệng hay Há miệng. Động tác Đóng/Mở của công tắc điện được điều khiển trong kỹ thuật số bằng con số 0/1 của hệ số đếm nhị phân: 0=Âm= “Không có điện”=Chẳng được gì, 1=Dương= “Có điện”=Được nhiều. Cặp số Không/Một cũng đúng động tác Ngậm môi và Mở môi của cái miệng Việt. Nguyên thủy thì nó là Mô/Một. Người ta quan niệm Âm là khái niệm khép kín (hướng nội), Dương là khái niệm mở mang (hướng ngoại) thì Mô và Một của tiếng Việt cũng phản ảnh đúng như vậy: Mô=Mất=Mông=Không=Hổng=Hết=Chết, tức chẳng được kiến thức gì, vì “bế quan tỏa cảng”. Một=Hốt=Nhốt=Nhặt=Nhận=Nhiều, tức tiếp thụ được nhiều kiến thức, vì “cải cách mở cửa” (Không “hốt” bạc thì cũng “hốt” được nhiều kiến thức, từ “hot” lại là “nóng” của tiếng Anh). Nguyên thủy từ đối phải là cùng gốc như Âm Dương vốn cùng một gốc mà ra, nên hai tiếng trong từ đối phải có cùng mẫu số chung là “cùng Tơi” hoặc “cùng Vời”, hoặc cùng “Rỡi”. Ví dụ nguyên thủy của cặp từ đối Mưa/Nắng phải là Nước/Nắng.(Vậy mà Nước và Nắng đều là năng lượng vô tận). Cặp từ đối Nước/Nắng phản ánh đúng nơi sinh ra thuyết Âm Dương Ngũ Hành là bán đảo Đông Dương có bên núi bên biển, chỉ rõ Âm tính động, Dương tính tĩnh, chỉ rõ phương hướng của Hà Đồ. Những điều này thể hiện rõ ngay trong qui tắc tạo ngôn từ Việt: NƯỚC=Nổi=Sôi=Dội=Dậy=Đẩy=Đảo=Động=ĐÔNG=Đấm=ÂM=Sấm=Sóng=Chỏng= =Chống=CHẤN. Trong các từ cùng Nòi này có các từ đôi như: Nước Nổi=Nước Nôi, Sôi Động, Dậy Sóng, Chấn Động, Đẩy Chống (thuyền). Tất cả chúng đều biểu thị tính động của Âm. ( Nếu theo QT mà dẫn ra sẽ có hàng trăm động từ diễn tả tác động của nước (tức hiệu quả của năng lượng từ Nước, công nghệ kỹ thuật cao đang nghiên cứu các động từ ấy để lấy được hiệu ích từ năng lượng của nước, thủy điện mới chỉ là một ứng dụng sơ đẳng nhất có mỗi một động từ “chảy” của Nước. Chính vì phong phú động từ do Nước như vậy, để mà lấy được năng lượng, nên mới có câu thành ngữ “Rừng vàng Biển bạc”) NẮNG= Lắng=Lặng=Ắng=Im=Ương=Bướng=DƯƠNG=Tượng=Tịnh=Tĩnh=TÂY=TỐN. Trong các từ cùng Nòi này có các từ đôi như: Tĩnh Lặng, Im Ắng, Lắng Lặng, Lẳng Lặng, Ương Bướng. Tất cả chúng đều biểu thị tính tịnh của Dương. Người ta cũng quan niệm rằng cặp từ đối Âm/Dương cũng tương tự cặp từ đối Nữ/Nam hay tương tự cặp từ đối Ít/Nhiều ( đúng như câu “Nam thực như hổ, Nữ thực như miêu, hay đúng như ở châu Á số đàn bà đang ít hơn số đàn ông). Điều này cũng thể hiện rõ trong qui tắc tạo ngôn từ Việt: Âm=Ít=Ỏi, có từ đôi Ít Ỏi. Âm tương đương con số 0=Ít Dương=Dồi=Dào=Diều=Nhiều, có từ đôi Dồi Dào. Dương tương đương số 1 = Nhiều. Trong số học nhị phân nó xử lý như sau: 0+0=1 (tức Thái Âm thì thành Dương) 0+1=1 (tức cân bằng Âm Dương thì thành nhiều) 1+0=1 (tức cân bằng Âm Dương thì thành nhiều) 1+1=0 (tức Thái Dương thì thành Âm) (Đấy là xử lý của mạch NAND trong kỹ thuật số, là một cổng điện tử có hai đầu vào một đầu ra, nó cũng đúng như qui tắc tạo từ của tiếng Việt. Ví dụ từ đôi Gà Qué, cùng Nòi khác Sắc, tức Gà=1 Qué=0, 1+0=1 như Gà+Qué = Gà Qué = Nhiều gà). Âm là Nhu, Dương là Cương. Nhu=0, Cương=1. Từ trong qui tắc tạo ngôn từ Việt cũng đã thấy được: 1+1=0 (0 tức chẳng được gì, cũng như mất cả chì lẫn chài). Bản thân Biển Đông là Âm, “khái niệm” Âm thì là 0, nhưng “tính” của Âm thì là Động, tức=1. Bây giờ bọn cường bạo lại đến quấy Động nữa tức đưa thêm 1 vào để thành Động+Động như 1+1, ắt phải là 1+1=0, vậy thì bọn cường bạo sẽ chẳng được gì, mà sẽ được cái 0=Mô=Mất=Mông=Không=Hổng=Hết=Chết. Dùng ký tự La Tinh để phân tich tính Âm Dương trong ngôn từ Việt, ta thấy rất trùng hợp trong từng con chữ cái của chữ Quốc Ngữ: Cặp đối Ơ/Í. Tư duy con người là bắt đầu từ 0 rồi đến 1. Lúc đang là 0 (chưa nảy ra gì) thì là âm vận Ơ ( “Ơ ! sao nó lại như thế này ?” ). “Ơ” là chưa hiểu gì, Ơ=Mơ=Lơ Mơ=Lơ Tơ Mơ=Mờ=Ngờ=Ngờ Ngợ là chưa nghĩ ra được, cái bước chuẩn bị tư duy ấy cũng chỉ có ở con người, Người Ơ=(lướt)=Ngờ. Lúc tư duy nảy ra thì nó đã là 1, đó là âm vận Í ( “ Í ! hay quá ta !” ). “Í” là đã hiểu rồi, “Ý” là một tư duy, Ý = Nghĩ = Kỹ = Duy = Tri = Trí . Cặp đối Ơ/Í tương đương 0/1. Từ Ngơ đến Nghĩ rồi mới ra Lời, vậy mà nó đã xử lý trong óc là : 0+1=1, như Ơ+Í=ƠÍ, hay Ơ Í=(lướt)=ƠÍ, và nhờ cái Lưỡi làm công cụ đưa cái tư duy đó ra thì Lưỡi+ƠÍ= 0+1=1, hay Lưỡi Ơi=(lướt)=Lời . (Phân tích bằng số của hệ nhị phân như vậy để khẳng định rằng: Nếu đã cho rằng “Lời” là từ thuần Việt, thì “Ý” cũng phải là từ thuần Việt, và các từ mà “Lời” và “Ý” dẫn ra theo QT đều là thuần Việt hết, chẳng có từ nào gọi là “từ Hán-Việt” cả). Ta đã thấy rõ Í là tư duy, chỉ có loài người thì mới có tư duy, chính nó là như vậy, trong tiếng Việt đã chỉ rõ: Người+Í=0+1=1, hay Người Í=(lướt)=Nghĩ. Nhưng khi cái tư duy đã có nhưng chưa đưa ra bằng Lưỡi, thì cái tư duy ấy mới chỉ là Ơ+I=0+1=1, hay Ơ I=(lướt)=Ơi, và Người+ Ơi=1+0=1, hay Người Ơi=(lướt)=Ngợi. Từ đôi Nghĩ Ngợi chính là chỉ người đang tư duy nhưng chưa đưa ý nghĩ ra bằng Lời. Xin nhắc lại: Mỗi Từ của tiếng Việt như là giá trị của một “bit” thông tin, “bit” thông tin thì có hai giá trị nảy sinh một cách xác suất, hoặc khi là 1, hoặc khi là 0. Ví dụ từ Người, khi này nó có thể mang giá trị 1, Người=1, khi khác nó có thể mang giá trị 0, Người=0, tùy theo khi nó cặp với từ nào, đã mang sẵn giá trị nào. Vì hai từ tiếng Việt khi ghép lại với nhau chúng theo qui tắc là âm chúng phát ra phải khác nhau, như một Đực và một Cái tương ứng nhau trong từng trường hợp cụ thể. Ví dụ Người=Ngợm=Ngài=Ngòi=Dõi=Dân=Nhân thì cặp từ đôi Nhân+ Dân=1+0=1=Nhiều người; Người+ Dân=1+0=1=Nhiều người (nếu khi ấy Dân đang mang giá trị Dân=0) nhưng cũng có thể là Người+Dân=0+1=1=Nhiều người (nếu khi ấy Dân đang mang giá trị Dân=1, thì Người phải nhảy ngay sang giá trị Người=0, để đảm bảo xử lý cho đầu ra bằng 1, đây là xử lý của kỹ thuật số); Người+Ngợm=1+0=Nhiều người (mang khái niệm xấu). < Dõi=Người, Nối Dõi là nối người đời sau với đời trước, Dòng Dõi là chuỗi người cùng huyết thống, Dòng Dõi chữ nho viết là Tông Đại, Đời=Đại=Ngài=Người, Đời cũng là Người chứ hết đời thì đã gọi là Ma, Đời=Ngời=Người, Ngời tức Sáng là Người Đời=(lướt)=Ngời, tức đang ở Dương thế nên nghĩa là Sáng, chứ ở Âm thế thì đã là Ma> Cặp đối U/Ù Cặp đối nguyên thủy U/Ù chính là nghĩa Ở/Đi, mà qua một ngàn năm Hán hóa, người Việt đã quên. Cùng mẫu số chung là cùng “Vời” với U có Ổ=Ở=Ủ=U. U nghĩa là Mẹ (tiếng Bắc Bộ, người Đài Loan cũng gọi là U), có nghĩa là “dân tại chỗ”, như cái noãn trứng trong tử cung của Cái thì nó là “dân tại chỗ”, còn con tinh trùng của Đực thì nó là “dân nhập cư”. Thủa xa xưa là mẫu hệ, còn lại dấu ấn là cái nhà dài của Tây Nguyên, các gia đình của con cái vẫn tiếp tục ở với mẹ, nối dài cái nhà ra mãi. Phát triển lên viết bằng chữ nho thì U=Ư=Vu=Vầy=Về=Quê đều là sự qui tụ tại chỗ. Ù là “đi” ( Đánh bài tổ tôm có bước “chạy ù” tức chạy đi; câu “Làm nhanh ù, đi con” tức “làm nhanh đi, đi con”). Đó là thủa còn là người Kinh, vạn năm sau khi người Kinh đã gọi là người Việt thì cặp đối U/Ù nó biến thành Vu/Vù (“Nó vù mất rồi” tức “Nó đi mất rồi”; “Đánh vu hồi”, câu này đã bị Hán hóa, tức “Đánh về chỗ ở”). Thời này vẫn đúng Âm Dương trong ngôn từ Việt, hai tiếng đối nhau phải là phát âm khác nhau (Vu/Vù) như tiếng Đực tiếng Cái, như 1 và 0, không thể là đồng âm nhau được. Đến thời chữ nho Việt bị Hán hóa, người Hán không có quan niệm Âm Dương trong ngôn từ, nên họ đọc hai chữ Vu/Vù ấy là đồng âm “Yuê”/ “Yuê”, đó là cặp Việt ở/ Việt đi, mà chữ nho viết là 粵 / 越. Chữ Việt ở 粵thì Hứa Thận giải thích chữ “Yuê 粵” ấy là “Vu dã”= “Vu ạ” tức nó là “Vu” (tức là tại chỗ, là dân bản địa, tức “Việt 粵ở”.< Người ta cứ gọi đó là chữ Việt bộ mễ, thực ra không phải vậy, theo học giả Đỗ Tòng người Triều Châu giải thích, đây là chữ nho Việt hoàn toàn biểu ý, ghép bằng Vuông (口) + chữ Thái (采) . Thái=Chái (phát âm của Nam Bộ) = Chói (phát âm của Triều Châu) = Chá (phát âm của Quảng Ngãi)= Lả ( phát âm của Nghệ An) =Tá (phát âm cổ nhất của người Kinh), có từ đôi Tá Lả, Tá Hỏa đều chỉ sự nóng phát hoảng, nghĩa của chữ Thái 采 là ánh nắng mặt trời, Vuông đất của dân thờ mặt trời trên Trống Đồng , + bên dưới là hình cái cày của dân nông nghiệp lúa nước. Chữ Việt đi 越 thì Hứa Thận giải thích chữ “Yuê 越” tức “Việt 越 đi” ấy là “Độ dã” tức “Đò ạ” tức vượt sông, đò thì chỉ có vượt sang ngang qua sông, chỉ có thuyền thì mới đi dọc sông. Chữ Việt đi này là chỉ rõ, người Việt đã vượt sông Trường Giang lên đến Hoàng Hà thời cổ đại, về sau còn là thủa nước Sở của người Kinh Sở chiếm đến vùng Trung Nguyên, kình địch với nước Tần. Những cặp từ đối bằng chữ nho đã bị Hán hóa thành đọc hai chữ nghịch nghĩa đều đồng âm, có nhiều lắm, như Lửa/Lụn thì thành Liệt 烈 / Liệt 劣 ( nghĩa là lừng lẫy / lụn bại , bộ ghép biểu ý là Thiếu 少 Sức 力) , Ma / Mãnh thì thành Minh 冥 / Minh 明 (nghĩa là Âm phủ/ Dương thế) v.v.1 like
-
Xin lỗi, đoạn chữ "O" tôi viết lộn Bằng thành Trắc. Xin sửa lại như sau: Chữ O nghĩa là cô gái (thuộc Âm), chỉ cần đổi dấu đang là thanh ngang vần Bằng thành thanh sắc vần Trắc ta được chữ Ó nghĩa là con chim Ó (thuộc Dương, thịt của nó cũng tính nóng thật, ngược với thịt cò thì tanh và lạnh). Đây không phải là cứ vần Bằng thì phải thuộc Dương,vần Trắc thì phải thuộc Âm. Điều bắt buộc là hai tiếng của một cặp từ đối hay từ đôi là phải phát âm ra tiêng khác nhau, như Âm với Dương. Còn một tiếng thì ở trường hợp này nó là giá trị 1, ở trường hợp khác nó là giá trị 0, như xác suất xuất hiện giá trị 0 hay 1 của một bit nhị phân vậy.1 like
-
1 like
-
1 like
-
Tháng 6 hoặc tháng 12 âm của năm 2013 là 2 tháng tốt để làm đám cưới. Các năm tốt có thể sinh con là 2014, 2015, 2016, 2019! Thân mến.1 like
-
Ông chú liệt sĩ ngày xưa có nghiên cứu Lý Học hay không? Tôi không dám coi thường người cõi âm. Nhưng khi họ chuyển sang thế giới bên kia thì tâm tư tình cảm suy nghĩ của họ cũng không khác mấy so với khi còn ở bên này đâu. Tuy nhiên chỉ có ở thế giới bên này mới có khả năng tu tập vậy. Nếu không họ đâu cần người bên này cầu an siêu độ cho họ siêu thoát!1 like
-
XƯA VÀ... NAY Ngày xưa sung sức thì nghèo Bây giờ sung túc thì teo mất rồi Ngày xưa sức khỏe tuyệt vời Bây giờ nó có đàn hồi nữa đâu Ngày xưa như sắt như đồng Như đinh đóng cột như rồng phun mưa Bây giờ như cải muối dưa Mười thang Minh Mạng vẫn chưa ngẩng đầu Ngày xưa bất kể sớm trưa Bây giờ loáng thoáng lưa thưa gọi là Bây giờ nhảy phải lấy đà Ngày xưa búng nhẹ là qua cái vèo Ngày xưa khám phá suối đèo Bây giờ trầy trật leo trèo hai ba Ấy là nói chuyện ở nhà Còn sang hàng xóm vẫn là ngày xưa Trải qua một cuộc bể dâu Ôi! Thời oanh liệt còn đâu nữa mà Mai sau về với ông bà Núp sau nải chuối ngắm gà khỏa thân1 like
-
Quen nhau được 10 năm, yêu nhau 5 năm mà vì 1 lời nói lung tung mà bỏ nhau. Phương pháp Cao Ly Đầu Hình chúng tôi đã chứng minh tính trùng lặp của nó rất lớn, ko lẽ cứ 2 tuổi này lấy nhau đều sẽ xấu hay sao? Cuộc sống còn nhiều yếu tố lắm, nếu như bạn nghĩ rằng cuộc sống chỉ phụ thuộc vào 2 tuổi của bạn và người yêu thì bạn cứ tin những gì đã xem là đúng. Còn không thì cứ cưới nhau đi! Đã yêu thì không tiếc, không tính toán, không lựa chọn. Trên đời không có gì là kinh khủng cả! Có phước thì hưởng, có họa thì khó mà tránh được.1 like
-
Các vấn đề Chích Bông đưa ra đều được giải thích rõ ràng trong tiểu luận Luận Tuổi Lạc Việt của thầy Thiên Sứ. Tất cả đều thể hiện trên Hà Đồ Hậu Thiên Lạc Việt, Giáp Hợp Kỷ Hóa Thổ, Đinh hợp Nhâm hóa Mộc... Các sách từ trước đến nay chỉ đưa ra luận điểm nhưng không có lý giải. Đây cũng là phần khiếm khuyết của người xưa làm cho hậu sinh đọc vào thấy rối mù mù! Trong tương quan Luận Tuổi theo LTLV, thiên can là 1 yếu tố trong 3 yếu tố Can, chi, mạng. Vì vậy để được cách cuộc tốt thì phải kết hợp cả 3 yếu tố này. 1 mình thiên can chưa thể quyết đinh được tất cả. Thiên can thuộc về Dương, mạng và địa chi Thuộc âm. Trong thiên can lại có can âm can dương, địa chi và mạng cũng có âm dương. Rồi vấn đề thuộc dương theo dương mà xét, thuộc âm thì xét theo tương tác âm. Thân mến.1 like
-
1 like
-
Tuổi tác chỉ là một yếu tố trong nhiều yếu tố thôi bạn ạ! Dù cho tuổi tác có hợp hết mà phạm vào phong thủy thì vẫn xấu như thường, nhưng dù sao cũng đỡ xấu hơn so với tuổi xấu mà phạm phong thủy! Mà gia đình này con út ở chung với bố mẹ luôn à, vì ngọ hợi tuyệt thì con cái dễ xa gia đình lắm! Thân mến!1 like
-
1 like
-
Vì sách bên ngoài tính theo Lục Thập Hoa Giáp nên Nhâm Thìn mạng Thủy, sinh Thu Đông là hợp với hành khí Thủy của mùa! Tính theo Lạc Thư Hoa GIáp thì sinh Xuân hạ, hợp với hành Hỏa! Tôi khuyến khích dùng theo Lạc Thư Hoa Giáp vì tính chính xác và hợp lý! Thân mến.1 like
-
Mạng xét chủ yếu với người mẹ, năm 2014 mạng Kim khắc mẹ mạng Mộc là rất xấu! Thân mến!1 like
-
Bảo tàng Lịch sử Quốc gia được xây dựng tại Tây hồ Tây (Dân trí) - Bảo tàng Lịch sử Quốc gia được lựa chọn xây dựng tại phía Đông Nam khu công viên Hữu Nghị, thuộc khu đô thị mới Tây hồ Tây (xã Xuân Đỉnh, huyện Từ Liêm, Hà Nội). Phấn đấu trong tháng 6/2015, công trình sẽ hoàn thành và đưa vào khai thác. Phối cảnh Bảo tàng lịch sử quốc gia Cổng thông tin điện tử Chính phủ cho biết, Phó Thủ tướng Hoàng Trung Hải đã chỉ đạo chủ đầu tư khẩn trương hoàn thành công tác giải phóng mặt bằng, kết thúc giai đoạn chuẩn bị đầu tư để có thể khởi công dự án Bảo tàng Lịch sử Quốc gia trong năm 2012. Bảo tàng dự kiến được xây dựng như một tổ hợp kiến trúc gồm các khu chức năng như tòa nhà chính của Bảo tàng, không gian “Khám phá - Sáng tạo” và trưng bày dành cho tuổi trẻ, khu tưởng niệm danh nhân nằm trong một tổng thể sân, cây xanh và không gian trưng bày ngoài trời, tổ chức các hoạt động văn hóa truyền thống. Đến nay, công tác giải phóng mặt bằng cơ bản đã xong, Bộ Xây dựng đang triển khai thiết kế kiến trúc và lập dự án đầu tư công trình, chuẩn bị đầu tư. Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch triển khai tách phần việc thuộc nội dung và hình thức trưng bày thành dự án thành phần. Bên cạnh đó, các cơ quan đã tiến hành xây dựng kế hoạch, tiến độ dự án thành phần, tiến hành các thủ tục sáp nhập Bảo tàng Lịch sử Việt Nam và Bảo tàng Cách mạng Việt Nam. Phó Thủ tướng Hoàng Trung Hải cũng đã chỉ đạo Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch sớm xây dựng Đề cương tổng quát nội dung và hình thức trưng bày Bảo tàng, lựa chọn nhà thầu tư vấn nước ngoài thực hiện gói thầu tư vấn thiết kế trưng bày, thiết kế hệ thống kỹ thuật, mỹ thuật, thực hiện sưu tầm tài liệu, hiện vật trưng bày tại Bảo tàng. Các vấn đề về xử lý vấn đề cấp phát, quản lý và sử dụng vốn của các dự án thành phần, triển khai dự án bãi xe ngầm trong công viên, lập kế hoạch tiến độ chi tiết các hạng mục,… cũng cần được đưa ra ý kiến rõ ràng. Phấn đấu trong tháng 6/2015 dự án Bảo tàng Lịch sử Quốc gia sẽ hoàn thành, đưa vào khai thác. Lan Hương Trông cứ như cái xe tăng bánh xích ý nhỉ http://lyhoc.vstatic.net/public/style_emoticons/default/excl.gif1 like
-
Xin Tư Vấn Giúp
nokia liked a post in a topic by Thiên Luân
Giáp Ngọ hay Ất Mùi cũng tương đương cả thôi, nên sinh con gái. Quan trọng là đứa út phải là năm Bính Thân 2016, ưu tiên con trai thì gia đình mới phát được. Thân mến.1 like -
Năm nay cơ hội có con là cao nhất năm nay có thai sang năm sinh thì tốt . Số sinh nhiều mà nuôi ít thấy khó khăn quá tháng 7 Al có thể thụ thai. Sang năm tỵ sẽ ra ở riêng . Cuộc sống gặp nhiều thị phi lắm nên thay đổi tính nết . Cẩn thận trong các mối quan hệ đối với bạn bè khác phái hoặc đồng nghiệp có thể chiêu oán . Trong công việc tuyệt đối ko được tham lam nếu tham lam sẽ chiêu họa tức thì. Cuộc đời về sau mới an nhàn . Trong cuộc sống cần tìm hiểu thật kỹ bản chất của sự việc không nên làm việc theo kiểu cảm tính chớ lợi dụng địa vị mà làm liều sẽ xảy ra những điều không mong muốn ...chắc bạn hiểu hơn ai hết ... Lão say chỉ có thể nói như thế. mong bạn hiểu chúc thành công!1 like
-
Mymy1982 bên Nhân Trắc Học đã viết: "Các bạn mới học tứ trụ như mymy nên để ý đoạn này nhé, Thực Tài thấu lộ mà Sát đến thì có gọi là Thực chế Sát không? Đây chỉ là cơ bản mà thôi. Sang vận Đinh Mùi mệnh này rất kém thì rõ cả rồi, vận chuyển từ Tây (Kim) sang Nam (Hỏa) đi xuống trông thấy. Đinh hỏa Sát tinh đến, thân nhược không có chế nên kết quả có thể nhận thấy ngay ở đầu vận. Năm Kỷ Sửu, Ấn tinh hóa Sát, Sửu Mùi xung phá hỏa khí phùng hình thổ động, nhờ vậy mà được bình an. Đến năm Canh Dần thì kết quả đã thấy rõ..." Tôi đã trả lời: "Mymy luận theo đúng các sách hay về Tử Bình hiện nay như Trích Thiên Tủy, Tử Bình Chân Thuyên.... đó là xét dụng thần theo phương, tức lấy chi của đại vận làm trọng, điều này ngược với tôi (theo sách của cụ Thiệu) là phải lấy can đại vận làm trọng. Vậy thì cách nào đúng hơn hay cả 2 đều đúng (mỗi bên đúng 50%) ? Quả thực để trả lời câu hỏi này không đơn giản chút nào, tốt nhất là phải lấy các ví dụ trong thực tế để chứng minh mà thôi. Cái mà khúc mắc ở đây chính là khí của Thổ cục và khái niệm Thổ động do xung nhau của Sửu với Mùi và Thìn với Tuất chúng có thể chế ngự được các can hay hóa được các các can hay không ? Ðó là điều mà các sách mà tôi đã được đọc (vài đoạn của một vài cuốn mà mọi người dịch đã đăng) không thấy nói tới. Vì vậy tôi đành phải tự mình mầy mò vậy. Theo tôi (tới thời điểm này) thì Khí của hóa cục không khắc được các can nhưng các can có thể khắc được các hóa cục cũng như khí của hóa cục có thể hóa được các can (khi chúng động) nhưng sự động của Thổ do các chi xung nhau không có khả năng này. Nếu thừa nhận điều này thì Thổ cục (của Giáp với Kỷ) không có khả năng chế ngự Quý trụ năm, vì vậy Quý trụ năm vẫn chế ngự được Ðinh (Sát) đại vận. Ðinh bị Quý vượng ở lưu niên khắc chết hẳn, vì vậy mà Ðinh không khắc được Tân (tức Ðinh đã bị diệt - đã mất hẳn), thì Hỏa còn đâu cho Thổ cục hóa (xì hơi) để sinh cho Thân (Kim) nữa. Còn theo cách thứ 2 thì cho rằng vì đại vận đã đi vào phương nam là Hỏa (Mùi) nên Quý bị tử tuyệt ở đại vận Mùi nên không có khả năng chế ngự được Ðinh /Sát (mặc dù Quý vượng ở Sửu lưu niên) cũng như Thổ động và khí của Thổ cục đã hóa Ðinh để sinh cho Thân (Kim) nên Thân được bình an. Nếu luận theo cách thứ 2 này thì một điều tôi thấy không thể chấp nhận được là Quý vượng ở lưu niên mà không chế ngự được Ðinh đại vận hoặc Thổ động và Thổ cục có thể chế ngự được Quý nên Quý không chế ngự được Ðinh. Không biết có sách nào dạy như vậy không?"1 like
-
Quán vắng!
thaochau liked a post in a topic by Thiên Sứ
Lật tẩy báo cáo tác động môi trường Tuổi Trẻ – 12 giờ trước Đi thực địa gần một tuần trong khu vực dự án, các nhà khoa học nhận xét những người làm báo cáo tác động môi trường dự án thủy điện Đồng Nai 6 và Đồng Nai 6A chưa trực tiếp đến khảo sát vùng bị ảnh hưởng. Chị Điểu Thị Thanh (dân tộc Stiêng, ngư dân kiếm sống trên sông Đồng Nai) rất lo lắng khi biết trên sông này lại sắp có thêm hai nhà máy thủy điện - Ảnh: Đ.TUYÊN Sau gần một tuần đi thực địa khu vực dự án thủy điện Đồng Nai 6 và Đồng Nai 6A, phóng viên Tuổi Trẻ cùng các thành viên trong đoàn cán bộ Viện Sinh học nhiệt đới (Viện Khoa học - công nghệ VN) đều nhận thấy đánh giá tác động môi trường của hai dự án này có quá nhiều sai sót, trái ngược với thực tế, khiên cưỡng. Dự án đập thủy điện Đồng Nai 6, 6A do Công ty cổ phần Tập đoàn Đức Long Gia Lai làm chủ đầu tư. Viện Quy hoạch thủy lợi miền Nam được Bộ NNPTNT giao nhiệm vụ lập báo cáo đánh giá tác động về môi trường cho hai dự án thủy điện này. Trái ngược thực tế Dự án thủy điện Đồng Nai 6 nằm trên bờ sông Đồng Nai thuộc địa phận xã Đồng Nai Thượng, huyện Cát Tiên, tỉnh Lâm Đồng và xã Hưng Bình, huyện Đắk R’Lấp, tỉnh Đắk Nông. Công trình thủy điện Đồng Nai 6 sẽ làm ngập gần 171ha đất rừng. Theo tính toán của ban giám đốc vườn quốc gia (VQG) Cát Tiên, có 87ha đất rừng thuộc tiểu khu 506 - phân khu chức năng phục hồi sinh thái và phân khu bảo vệ nghiêm ngặt của VQG Cát Tiên - sẽ bị thủy điện Đồng Nai 6 “nuốt”. Thủy điện Đồng Nai 6A cũng nằm trên bờ sông Đồng Nai nhưng trong vùng lõi VQG Cát Tiên và một phần thuộc địa phận xã Phước Cát 2, huyện Cát Tiên, tỉnh Lâm Đồng và xã Đồng Nai, huyện Bù Đăng, tỉnh Bình Phước. Công trình này làm ngập hơn 110ha đất rừng, trong đó trên 50ha đất rừng nằm trong tiểu khu 497 thuộc phân khu chức năng bảo vệ nghiêm ngặt của VQG Cát Tiên Ông Trần Văn Bình, Hạt phó hạt kiểm lâm vườn quốc gia Cát Tiên, chỉ tọa độ mực nước sẽ dâng lên (hơn 70m) khi đập thủy điện Đồng Nai 6 được xây dựng (ảnh) và sơ đồ vị trí Nhà máy thủy điện Đồng Nai 6 và vùng ảnh hưởng ngập trên rừng Nam Cát Tiên - Ảnh: Đ.Tuyên - Đồ họa: Như Khanh Tính chung, hai dự án thủy điện Đồng Nai 6, 6A sẽ “ăn” 137,5ha đất rừng của VQG Cát Tiên. Thế nhưng, báo cáo đánh giá tác động môi trường (bản tóm tắt) của hai dự án này, Viện Quy hoạch thủy lợi miền Nam khẳng định: “Trong diện tích đất bị chìm ngập (của cả hai dự án Đồng Nai 6, 6A) không có những hệ sinh thái tự nhiên cần được bảo vệ và trên các diện tích đó cũng hầu như không có các loài thực vật quý hiếm cần được bảo vệ...”. Thủy điện Đồng Nai có lợi cho... Quảng Nam Nhiều nhà khoa học khi đọc bản báo cáo về tác động môi trường (bản tóm tắt) do Viện Quy hoạch thủy lợi miền Nam lập cho dự án thủy điện Đồng Nai 6, 6A đều dễ dàng nhận ra không ít chi tiết được sao chép từ một số tài liệu hoặc bản báo cáo tác động môi trường ở những vùng miền khác. http-~~-//www.youtube.com/watch?v=_zPxN7CqCHs&feature=player_embedded Cụ thể trong phần đánh giá tác động của dự án Đồng Nai 6, 6A đến môi trường trong giai đoạn thi công, Viện Quy hoạch thủy lợi miền Nam có một câu: “Ảnh hưởng đến môi trường sinh thái do việc chặt bỏ cây cối ven bờ kênh trong quá trình giải phóng mặt bằng xây dựng các hạng mục, đặc biệt là dừa nước hai bên bờ”. Qua gần một tuần đi thực địa, đoàn khảo sát nhận thấy nơi dự kiến xây dựng đập thủy điện Đồng Nai 6, 6A nằm ngay trên dòng sông Đồng Nai - một dòng sông với những thác ghềnh và dòng nước ào ào cuộn chảy - chứ không là kênh rạch như miền Tây Nam bộ. Đặc biệt, tìm mỏi mắt không có một cây dừa nước hai bên bờ sông. Tương tự, báo cáo đánh giá tác động môi trường tiếp tục nêu: “Việc đào bới lòng hồ và kênh dẫn qua vùng đất chua, lầy úng đọng sinh phèn, nước mang chất phèn muối, axit, chất độc... lan truyền rộng”. Nhận xét về đánh giá này, TS Lê Anh Tuấn (Trường ĐH Cần Thơ) nói: “Mấy từ này nông dân vùng châu thổ đồng bằng sông Cửu Long nghe thấy quen quen”. Thực tế cho thấy vùng đất dự kiến xây dựng thủy điện Đồng Nai 6, 6A là vùng đất rừng bazan với đồi núi nối tiếp nhau cùng những con suối với nước ngọt. Trong phần kết luận về các lợi ích của hai dự án thủy điện Đồng Nai 6, 6A, Viện Quy hoạch thủy lợi miền Nam viết: “Các lợi ích kinh tế xã hội do hai công trình thủy điện đem lại là cung cấp nguồn năng lượng cho hệ thống điện phía Nam, thúc đẩy sự phát triển kinh tế khu vực, đặc biệt là các huyện vùng sâu vùng xa của tỉnh Quảng Nam”. Dự án thủy điện Đồng Nai 6, 6A dự kiến được xây dựng trên sông Đồng Nai, không hề dính dáng đến tỉnh Quảng Nam. Nhận xét về bản báo cáo đánh giá tác động môi trường của cả hai dự án thủy điện Đồng Nai 6, 6A, giám đốc VQG Cát Tiên Trần Văn Thành cho rằng: “Nếu chỉ nhìn vào con số 137,5ha rừng bị mất thì đúng là không đáng kể (so với diện tích rừng bị mất trong cả nước). Tuy nhiên, đây là diện tích rừng đặc dụng và việc xây dựng công trình sẽ không chỉ đơn thuần làm mất số diện tích rừng mà còn gây ảnh hưởng đến cả hệ sinh thái trong khu vực, làm giảm tính đa dạng sinh học, tăng nguy cơ săn bắt thú và chặt phá cây rừng. Những điều này báo cáo đánh giá tác động môi trường chưa đánh giá, nhận định”. ĐỨC TUYÊN ============================================ Thủy điện đã làm biền Aral chết khô. Và chính người Trung Quốc cũng thừa nhận sai lầm khi xây đập Tam Hiệp. Thủy điện sẽ biến các vùng đất dưới hạ lưu của nó thành vùng đất chết một cách dần mòn..... Cá nhân tôi cho rằng không nên xây đập thủy điện và nên tìm một nguồn năng lượng lượng khác thay thế thủy điện.1 like -
Giải Trí Vui
thanhphuc liked a post in a topic by Văn Lang
Câu chuyện Chí Phèo - Thị Nở thì ai cũng biết, nhưng qua tài giật tít của các "nhà" báo thì sao??? Cùng tham khảo nhé: 1. Chuyện anh Chí đâm chết Bá Kiến, có thể "thi triển" các tựa đề: - Kinh hoàng vụ sát hại trưởng thôn tại làng Vũ Đại - Say rượu, đâm chết cán bộ thôn - Đã tìm được kẻ giết trưởng thôn làng Vũ Đại - Bi kịch làng Vũ đại – trưởng thôn bị giết tại nhà - Kẻ giết trưởng thôn Bá Kiến là người cùng làng - Nghi phạm giết trưởng thôn là người đã có tiền án - Trưởng C.A làng Vũ Đại: Chúng tôi đang tiếp tục điều tra 2. Sau đó, có thể khai thác chuyện anh Chí với chị Nở trong vườn chuối: - Sốc với hình ảnh giới trẻ công khai tình yêu trong vườn chuối - Có hay không vụ hiếp dâm trong vườn chuối - Vừa ra tù đã phạm tội hiếp dâm - Đau lòng người đàn bà dở bị cưỡng bức - Chân dung kẻ đồi bại tại làng Vũ Đại - Đã xác định được kẻ hiếp dâm chị N. - Vụ lạm dụng tình dục ở làng Vũ đại – công an thôn vào cuộc 3. Tiếp tới, ngay lập tức chuyển sang các nội dung: - Phát sốt vì bộ ảnh cực "nóng" của Thị Nở - Ngắm Thị Nở mặt mộc đẹp ngỡ ngàng. - Bé Nở "lạ lẫm" trong trang phục tứ thân - Thị Nở vai trần đi vo gạo - Thị Nở thổ lộ về mối tình đầu - Thị Nở e ấp bên người "đặc biệt" - Thị Nở hot với yếm đào bên bờ sông - Thị Nở: Anh ấy không phải là đại gia - Thị Nở: Giữa tôi và anh Chí chỉ là mối quan hệ cùng thôn - Thị Nở: Còn quá sớm để nói về chuyện yêu - Lộ ảnh sốc Chí Phèo & Thị Nở trên facebook - Chí Phèo: Tôi chỉ coi em Nở như em gái - Những bóng hồng trong cuộc đời anh Chí - Rộ tin đồn Bá Kiến là người thứ 3 - Dàn sao nông dân "kute" làng Vũ Đại cùng chúc mừng cho bé Nở - Xôn xao đoạn ghi âm đêm hẹn hò của chị Nở và anh Chí tại vườn chuối - Chí Phèo & Thị Nở: đẳng cấp chuyện tình Titanic 4. Nếu "có tầm nhìn" thì đi ngang sang các đề tài: - Cảnh tỉnh về lối sống buông thả của 1 bộ phận thanh niên nông thôn - Nói về vấn nạn lạm dụng tình dục ở nông thôn - Có hay không việc cần thiết đưa giáo dục giới tính về nông thôn - Tình trạng thất nghiệp ở nông thôn và các hệ lụy xã hội 5. Hoặc xoáy sang các chủ đề hút khách: - Rượu, cháo hành (không thịt) và câu chuyện an toàn tình dục - Rượu và chuối xanh: Thần dược của tình yêu ! - Cháo hành có phải là phương pháp phục hồi hữu hiệu sau khi làm "chuyện ấy"? 6. Và cuối cùng là "vét máng": - Làng Vũ Đại ngày ấy và bây giờ - Lật lại Hồ sơ vụ án Chí giết Kiến - Những chuyện chưa kể về anh Chí Phèo - Lương y Phạm Thị Hồng nghi ngờ Chí "còn nguyên": có không chuyện tình Vườn chuối? (Sưu tầm)1 like