-
Thông báo
-
Nội quy Lý Học Plaza
Nội quy này là bản mở rộng Nội Quy - Quy định của Diễn đàn. Khi tham gia mua bán, các thành viên phải tuân theo những quy định sau: Tiêu đề bài viết: Bao gồm: Chỉ dẫn địa lý, Loại hình Mua/Bán, Thông tin mua bán.
Chỉ dẫn địa lý: Tỉnh/thành nơi mua bán. Hoặc sử dụng định nghĩa có sẵn:TQ: Toàn quốc
HCM: TP Hồ Chí Minh
HN: Hà Nội
[*]Ví dụ: HCM - Bán Vòng tay Hổ Phách Nội dung bài viết: Mô tả chi tiết sản phẩm mua/bán
Bắt buộc phải có thông tin liên lạc, giá Mua/Bán
Bài mới đăng chỉ được phép up sau 03 ngày.
Thời gian up bài cho phép: 01 ngày 01 lần.
Các hành vi vi phạm nội quy này sẽ bị xóa bài hoặc khóa tài khoản mà không cần báo trước.
-
Leaderboard
Popular Content
Showing most liked content on 19/07/2011 in Bài viết
-
Khó chi tiết lắm. Bởi vì quẻ - nói chung, chứ ko cứ gì LVDT - chỉ cho độ số, còn bao nhiêu con số 0 đằng sau thì tùy vào không gian với tính chất sự việc cần giải đoán. Bởi vậy, muốn thật chính xác phải có bản đồ thiên văn tại vùng có khả năng xảy ra động đất để loại suy. Ngay cả quẻ Ất, cũng chỉ có thể cho phương vị , chứ không cho con số chính xác cự li.Xác định được phương vị cũng là cố gắng lắm rồi. Còn cụ thể phải có kết hợp với tri thức Thiên Văn hiện đại.3 likes
-
Góp vui với anh em 1 số ảnh tự chụp cách đây vài năm của TL Hoa Quỳ - Gia Lai Đường dẫn xuống biển Hồ - Pleiku Biển Hồ - Pleiku Thủy điện Yaly Hầm dẫn vào bên trong công trình thủy điện Yaly Tổ máy bên trong Hầm Thủy Điện Một số hình ảnh tại KonTum - cách Pleiku 50km, ở KonTum có rất nhiều nhà thờ, được xây từ thời Pháp thuộc, vẫn còn nguyên vẹn. Dưới đây là hình ảnh 2 nhà thờ nổi tiếng nhất tại KimTum, kiến trúc được giữ nguyên theo năm tháng. Nhà Thờ Gỗ - KonTum, được dựng hoàn toàn bằng gỗ. Một công trình cạnh bên nhà thờ "Một nhà sàn đơn sơ" lấp ló qua cửa kính xe! Cầu treo KonLo - KonTum Tòa tổng giám mục KonTum Bên trong nhà nguyện.2 likes
-
Đất Nước Việt Nam Không có ngôn ngữ nào như ngôn ngữ Việt Nam, người Việt Nam từ thủa khai thiên lập địa gọi xứ sở của mình là Đất Nước, đó là Đất liền và Biển cả của dòng giống Tiên Rồng. Người Việt đã khai thác đất liền và biển cả của mình hàng vạn năm nay, minh chứng là hình thuyền trên trống đồng và mộ thuyền của người Việt là những di tích khảo cổ trên một vùng rộng lớn ở Đông Nam Á. Danh từ Đất Nước còn mãi từ trong sâu thẳm tâm thức của người Việt Nam, dùng đến tận bây giờ, mà các ngôn ngữ khác phải dịch khái niệm đó theo cách hiểu của họ là “Land” hay “Quốc thổ” hoặc “Giang sơn”. Bản thân danh từ Đất Nước của tiếng Việt đã có nghĩa là Đoàn Kết, vì Đất=Đàn=Đoàn; Nước=Nếp=Nết=Kết. Chính cái Nết tức cái Văn Hóa Biển Đông tức Văn Hóa Trống Đồng đã là chất keo kết dính mọi vùng đất của Tổ Quốc Việt Nam. Đến thời hiện đại, có cuốn tiểu thuyết nổi tiếng “Đất Nước đứng lên” của nhà văn Đoàn Giỏi cũng dùng đúng danh từ, đúng ý nghĩa là Đất Nước. Và bút danh Đoàn Giỏi cũng nói lên đầy đủ: Việt Nam, Đoàn kết tất cả mọi thứ lại thì thành Giỏi. Đất Nước là xứ sở Việt Nam, đã có trong lòng người Việt Nam từ hàng vạn năm trước, trong lời nói, khi nhân loại còn chưa có các loại ký tự. Xứ sở Việt Nam là Đất Nước, thực tế diện tích biển của nước ta còn rộng gấp mấy lần diện tích đất liền của nước ta, danh từ Đất Nước là Đất liền và Biển cả đã tồn tại trong tín ngưỡng thờ Tổ Tiên của người Lạc Việt từ hàng vạn năm trước, hiện hữu trong các đền thờ khắp đất nước ta. Trong đền thờ Quốc Tổ Lạc Hồng tại 98 Nguyễn Thái Sơn Gò Vấp Tp HCM có ban thờ Quốc Mẫu Âu Cơ, ban thờ Quốc Phụ Lạc Long Quân, ban thờ Nguyễn Trãi mà ở tường có khung treo văn bản từ nguyên gốc bài “Bình Ngô đại cáo”. Vào đền nhìn thấy những ban thờ đó trong lòng đã thật cảm động. Ban thờ Quốc Mẫu Âu Cơ có câu đối: “Nhìn Non thương nghĩa Mẹ; Trông Biển nhớ ơn Cha”. Rõ ràng là cuộc sống của dòng giống Tiên Rồng gắn liền với Đất liền và Biển cả. Câu đối dân gian của người xưa: “Nhìn Non thương nghĩa Mẹ; Trông Biển nhớ ơn Cha” nhắc nhở chúng ta rằng: Non cao Biển rộng là nhà; Cội nguồn văn hóa Việt là Rồng Tiên. Trong đền còn có một ban thờ mà linh vị đề là Cửu Huyền Thất Tổ, hai bên là câu đối: Vũ Hóa Hồ Hà Khai Thệ Giác; Trụ Sinh Hà Lạc Biểu Thần Thông. Vì không gặp vị chủ nhang đền thờ ở đó nên không có cơ hội được học hỏi, tôi chưa hiểu hết nghĩa các chữ trên, viết bằng chữ quốc ngữ, thành ra tôi phải đoán mò. Cửu Huyền Thất Tổ có phải là: thờ Tổ (chữ Tổ) của nền văn minh đã khuất (chữ Thất) về nơi chín suối (chữ Cửu) chỉ còn lại dấu tích trong huyền thoại (chữ Huyền) ? Còn câu đối “ Vũ Hóa Hồ Hà Khai Thệ Giác; Trụ Sinh Hà Lạc Biểu Thần Thông” dễ đoán hiểu hơn, nên tôi viết lại bằng chữ nho: 宇 化 湖 河 開 誓 覺 柱 生 河 洛 表 神 通 Và hiểu là: Trời sinh sông biển khai minh Lạc Hà trọn kiếp khiến mình thần thông Nếu là đúng như tôi đoán hiểu, thì rõ ràng là người xưa đã dặn lại rằng “ Vũ Hóa Hà Hồ Khai Thệ Giác”: Dương (chữ Vũ) có trước rồi mới sinh (chữ Hóa) ra Âm (chữ Hồ Hà) tức Trời có trước rồi mới sinh ra Trái Đất, tức có “Mẹ Tròn” trước rồi mới sinh ra “Con Vuông”, và có nước (chữ Hồ Hà) trên trái đất thì mới bắt đầu có sự sống để phát triển (chữ Khai) đến thành nền văn minh (chữ Thệ Giác) của nhân loại. “Trụ Sinh Hà Lạc Biểu Thần Thông”: Hà đồ và Lạc thư (chữ Hà Lạc) là biểu hiện (chữ Biểu) trí tuệ (chữ Thần Thông) trọn vẹn nhất (chữ Trụ) của đời sống (chữ Sinh) nhân loại. Không biết có đúng không ? Mong các bậc thức giả chỉ giáo, xin cảm ơn.1 like
-
Ngôn từ Việt và thuyết Âm Dương Ngũ Hành. Để dễ theo dõi bài viết, xin bạn đọc chú ý mấy điểm sau ở cách nói của Lãn Miên: 1/ Định nghĩa Từ: Từ là một Lời, tức có mang một nghĩa hoàn chỉnh. Ở ngôn ngữ Việt Nam, Từ cơ bản chỉ là một Tiếng (đơn âm tiết, coi như là một cái Tế để tạo thành Từ, hay là một cái Trứng để tạo thành Tiếng) có cấu tạo gồm cái “Tơi” hoặc cái “Vời” ở đầu và cái “Rỡi” ở đuôi. Tơi là phụ âm đầu, tức cái “Tiền tố tạo Lời”=(lướt)= “Tơi”, cũng là cái “Tay đưa Lời”=(lướt)=”Tơi”. Vời là không có Tơi, tức “Vắng Tơi”=(lướt)= “Vời”, hay cũng là “Vỏ Lời”=(lướt)=”Vời”. Rỡi có cấu tạo là một nguyên âm hoặc một âm vận, là cái “Ruột của Lời”=(lướt)= “Rỡi”(có mang dấu ngã là gen của Lõi). 2/ Qui tắc tạo ngôn từ Việt của Lãn Miên, viết tắt là QT, gồm: 1.Qui tắc Vo ( qui tắc 1): Đưa từ đa âm tiết (của ngôn ngữ chắp dính) vào trong cái Vò của Việt , gọi là Vò Việt, là một cái “Nôi khái niệm”, để vo tròn như vo gạo trong cái rá, từ đa âm tiết sẽ bị rụng những phụ tố đầu đuôi để chỉ còn mỗi cái “Lõi” thành một “ Lời” là một Từ đơn âm tiết. 2.Qui tắc Nở ( qui tắc 2) : Một “Từ” đơn âm tiết là một cái “Tế” ở trong “nôi khái niệm” như cái “bầu”, cái “Tế” ấy sẽ tự sinh sản theo kiểu tách đôi như cách sinh sản của tế bào tức một cái “Trứng” tự tách thành hai “Tiếng”, hai tiếng ấy dính thành một “Từ hai âm tiết dính nhau không thể đảo ngược thứ tự khi phát âm”, gọi là “từ dính” , mang khái niệm lấp-lửng (thường đánh dấu giữa hai tiếng bằng một gạch ngang - ). Rồi “từ dính” đó mới tách rời hẳn ra thành hai từ đơn âm tiết riêng, một từ mang tính Âm và từ kia mang tính Dương, ghép chúng lại với nhau thì được một Từ Đối (thường đánh dấu giữa hai tiếng bằng một gạch xẹt / ).Từ Đối dùng để khái niệm sự trái ngược. 3.Qui tắc Lởi ( qui tắc 3) : Một từ nếu giữ nguyên Rỡi, đổi Tơi khác hoặc đổi Vời thành có Tơi (trường hợp từ đó là Vắng Tơi ), sẽ tạo được từ mới cùng Nòi, tức cùng Nôi khái niệm lớn với từ ấy (ngôn ngữ học gọi là qui tắc “Phối tố đầu”, theo kiểu “Biến phụ âm đầu mà Bất biến âm vận đuôi”). Phụ âm đầu là cái “Tố đầu để tạo Lời” =(lướt)= “Tơi”, hay là cái “Tay đưa Lời”=(lướt)= Tơi. Nhưng cái “Tố đầu”, theo triết lý Âm Dương “Trong Có vẫn có Không, trong Không vẫn có Có”, nên cái “Tố đầu” có trường hợp nó là Tơi , cũng có trường hợp nó là Vắng Tơi, mà “Vắng Tơi”=(lướt)=Vời, tức cái Tơi của nó từ trước đã được mời đi đâu mất rồi không rõ, nó không có mặt, nên nó là Vắng Tơi, gọi lướt là Vời. 4.Qui tắc Rút ( qui tắc 4): Một từ nếu giữ nguyên Tơi hoặc Vời , đổi Rỡi khác, sẽ tạo được từ mới cùng Nòi, tức cùng Nôi khái niệm lớn với từ ấy (ngôn ngữ học gọi là qui tắc “Phối tố đuôi”, theo kiểu “ Biến âm vận đuôi mà Bất biến “cái Có phụ âm đầu” hoặc “cái Vắng phụ âm đầu”). Âm vận đuôi là cái “Ruột để tạo Lời”=(lướt)= “Rỡi” (cùng gen dấu ngã với Lõi). 5.Qui tắc Lướt ( qui tắc 5): Là lướt một cụm từ gồm hai hay nhiều từ hoặc thậm chí cả một câu dài thành một từ đơn âm tiết đồng nghĩa. Từ sẽ có Tơi hoặc Vời mang gen của Tiếng đầu câu và có Rỡi mang gen của Tiếng cuối câu, hoặc có thêm cả gen của một vài Tiếng giữa câu. 6.Qui tắc Tháp ( qui tắc 6): Là ghép hai từ đơn âm tiết đồng nghĩa (gọi là đồng Nòi) nhưng dị âm lại với nhau (gọi là khác Sắc, như 0 với 1 hay 1 với 0) thành một từ hai âm tiết đồng nghĩa (đồng Nòi) với hai từ trên. Nguyên tắc ghép là từ nào cổ hơn thì đứng trước. Từ ghép kiểu này tạo thành từ hai âm tiết gọi là “từ đôi”. Từ Đôi có ý nghĩa “Nhiều” hơn hay “Nhấn” mạnh hơn, như 0+1=1, hay 1+0=1. 7.Qui tắc Lặp (qui tắc 7): Là lặp lại một từ thành từ có hai âm tiết ( đương nhiên đồng âm, cùng ý nghĩa), dùng để nhấn mạnh hay so sánh. 3/. Dấu nối giữa các tiếng, gồm: 1. Dấu gạch ngang (-) là giữa hai tiếng của từ đôi 2. Dấu gạch xẹt (/) là giữa hai tiếng của từ đối 3. Dấu bằng (=) không phải là dấu ( = ) của đẳng thức trong toán học, nó chỉ dùng để dẫn ra nôi khái niệm lớn, có nghĩa là các Từ, tức các Tiếng, tức các Trứng liên hệ với nhau bằng dấu ( = ) là có cùng Gen. Giống như cái Hột giống của thực vật, nó có thể nẩy mầm ra cây Đực hoặc cây Cái (như cây đu đủ đực hoặc cây đu đủ cái). Vì Hột=Cột=Cộc=Cái=Trai=Gái=Gen. Cùng Gen tức cùng Gốc, Gốc ấy trong QT là: 1. Cùng Vò trong QT Vo (khi liên hệ với từ đồng nghĩa của các ngôn ngữ chắp dính) 2. Cùng Nôi trong QT Nở (tức cùng Tơi hoặc cùng Vắng Tơi như từ Gốc cho Gen) 3. Cùng Rỡi ( tức Rỡi bất biến) trong qui tắc Lởi < “Lấy tơi ra Đổi tơi khác nhằm thay Lời”=(lướt)= “Lởi”, Lởi còn có gen dẩu hỏi của Đổi, lại cùng gen với Lẩy như “Lẩy Kiều”, “Lấy câu ra thay câu khác để cho ý mới Nẩy”=(lướt)= “Lẩy”. Nếu là từ Vắng Tơi thì thay bằng có Tơi > 4. Cùng Tơi hoặc cùng Vời (tức Tơi hoặc Vời bất biến) trong QT Rút. < “Vắng Tơi”=(lướt)= “Vời”, nghĩa là Tơi đã được mời đi đâu mất rồi từ trước nên không có mặt, tức Vắng Tơi . “Rã thay Rỡi để đÚc mới Từ”=(lướt)=Rút, Từ = Tờ = “t” , giải phẫu của RÚT là R-Ú-T, R mang gen của Rã, Ú mang gen của Đúc, T mang gen của Từ > 5. Cùng Tơi của tiếng đầu câu và cùng Rỡi của tiếng cuối câu trong QT Lướt . 4/ Qui tắc đếm của hệ số nhị phân là: 0+0=1 , 0+1=1, 1+0=1, 1+1=0 Ngôn từ Việt có Âm Dương Ngũ Hành, hay Âm Dương Ngũ Hành có trong ngôn từ Việt. Ngôn ngữ Việt Nam được xếp vào hệ ngữ Môn-Khơ Me. Nguyên thủy nó là một ngôn ngữ chắp dính (đa âm tiết, không biệt rõ thanh điệu). Tại miền đất bán đảo Đông Dương, hàng vạn năm trước, khi canh tác nông nghiệp trồng trọt đã phát triển thành nền văn minh lúa nước, người Việt sáng tạo ra thuyết Âm Dương Ngũ Hành cho nhiều ứng dụng khác nhau trong đời sống, rồi cũng vận dụng nó vào cả trong phát triển ngôn từ, người Việt mới dùng QT Vo để tạo ra một Tiếng phải là một Lời. < Qui tắc Vo - qui tắc 1: Đưa từ đa âm tiết của ngôn ngữ chắp dính vào trong cái Vò của Việt , gọi là Vò Việt, là một cái “Nôi khái niệm”, để vo tròn như vo gạo trong cái rá, từ đa âm tiết sẽ bị rụng những phụ tố đầu đuôi để chỉ còn mỗi cái “Lõi” thành một “ Lời” là một Từ đơn âm tiết. > Thế là ngôn ngữ đơn âm tiết xuất hiện, và theo nó là bắt buộc phải xuất hiện thanh điệu. Khi trong ngôn ngữ đã có cái hiệu quả: một Lời (tức đã trọn một nghĩa) chỉ là một Tiếng, như khái niệm dẫn ra: Lời=Lõi=Nòi=Trọi=Trồi=Trứng=Tưng=Tiếng; “Tiếng của Trứng” =(lướt)= “Tưng”=Tửng-Từng-Tưng, giống âm thanh của tiếng đờn T,rưng, thì người Việt coi cái Tiếng đó như là một cái Trứng, theo vận dụng thuyết Âm Dương Ngũ Hành, cái Trứng đó phải tự đẻ được theo cách như tế bào tự tách đôi, xuất hiện QT Nở. < Qui tắc Nở - qui tắc 2 : Một “Từ” đơn âm tiết là một cái “Tế” ở trong “nôi khái niệm” là cái “bầu”( đây chính là cái bầu tròn của biểu tượng Âm Dương, bên trong có hình giống như hai con Nòng-Nọc quấn quýt ngược đầu nhau), cái “Tế” ấy sẽ tự sinh sản theo kiểu tách đôi như cách sinh sản của tế bào tức một cái “Trứng” là một cái “Tế” tự tách đôi thành hai “Tiếng”, mỗi “Tiếng” sẽ thành một “Từ”, nhưng khi còn trong nôi thì hai tiếng ấy vẫn đang dính thành một “Từ có hai âm tiết dính nhau không thể đảo ngược thứ tự vị trí của chúng khi phát âm”, gọi là “Từ Dính” . Từ Dính mang khái niệm lấp-lửng (thường đánh dấu giữa hai tiếng bằng một gạch ngang - ). Rồi “Từ Dính” đó mới tách rời hẳn ra như nảy ra khỏi nôi thành hai từ đơn âm tiết khác nữa độc lập nhau, một từ mang tính Âm và từ kia mang tính Dương, ghép chúng lại với nhau thì được một Từ Đối (thường đánh dấu giữa hai tiếng bằng một gạch xẹt / ).Từ Đối dùng để khái niệm sự trái ngược.> Đi sâu vào xét QT Nở ta sẽ thấy ngôn từ Việt ẩn chứa qui tắc của thuyết Âm Dương Ngũ Hành chính xác như thế nào. Tiếng Việt là ngôn ngữ có âm vận phong phú nhất, thêm sáu thanh điệu làm cho lượng âm vận càng phong phú (tiếng Thái Lan có 5 thanh điệu, tiếng Hán có 4 thanh điệu). Âm vận đơn giản nhất là chỉ có một nguyên âm, đó là một Lời chỉ có Rỡi < Rỡi tức “Ruột của Lời” = (lướt)= “Rỡi” > mà Vắng Tơi < Tơi tức “Tay đưa ra Lời”=(lướt)= “Tơi”, hay “Tiền tố của Lời”=(lướt)= “Tơi” >. Đã phát âm thành một “Tiếng” thì của tiếng Việt nó ắt phải là một “Từ”, tức một Lời vì nó mang nghĩa hoàn chỉnh. Ký tự nguyên thủy của loài người là vẽ một vòng tròn ( O ) biểu thị Đực, là Dương, là bầu trời. Trong tiếng Việt thì Trời=Trồi=Tròn ( cái Rỡi của Tròn là On sẽ cho ra Con, cũng thuộc Đực, thuộc Dương). Nhưng “trong Dương có Âm” tức tính của Dương là Âm, nên từ hình vẽ chuyển sang ký tự của ngôn ngữ thì hình tròn ấy là chữ O, người Việt gọi “O” nghĩa là “Người con gái” (thơ Tố Hữu: “ O du kích nhỏ giương cao súng…”). O có dấu thanh điệu Ngang, tức vần Trắc, chỉ cần đổi ngược sang vần Bằng, tức thay dấu thanh điệu Ngang thành dấu thanh điệu Sắc ta có Ó là con chim Ó là loài diều hâu thuộc tính Dương, biểu trưng Dương. Hình thành cặp đối O/Ó. Con gà nó gáy bằng tiếng Việt là “ Ò-Ó-O…Ò-Ó-O…” một dãy âm thanh tiếp nối Bằng-Trắc…Bằng-Trắc…Con gà trong quan niệm cổ đại là biểu tượng Lửa, là Dương,tính của thịt gà theo Đông Y của người Việt là Nóng. Gà (tiếng Việt)=Cà (tiếng Việt)=Cáy (tiếng Tày)=Qué (tiếng Hoa)=Kê (chữ nho Việt), có từ đôi Cà Kê, Gà Qué. Gà=Kê ứng với hành Kim trong Ngũ Hành. Trong tiếng Việt thì khái niệm đã mở rộng ra theo QT là Gà=Lả=Tá=Tra=Trời=Trống=Rộng=Đồng=Hồng=Hùng, và chữ nho Việt viết Hùng nghĩa là Con Trống. Chỉ trong một nôi khái niệm này của tiếng Việt theo QT, đã có thể nhìn thấy thời đại Hùng Vương là thời đại kim loại đồ đồng của Trống Đồng trên một vùng đất đai văn hóa Rộng mênh mông của các Bản Làng đại tộc Việt. Vùng đất đai văn hóa rộng lớn ấy trải dài từ vịnh Thái Lan đến bờ nam sông Dương Tử, đó là nước Hồng Bàng cổ xưa của 18 thời đại Vua Hùng, (“Vua” “Hùng” = “Vùng của” “Trống Đồng”). Khi ngôn ngữ Việt đã thành đơn âm tiết, người Việt lại còn dùng Qui tắc Lướt để tạo thành những từ mới ngắn gọn bằng một Tiếng do cô đọng một câu dài. < Qui tắc Lướt ( qui tắc 5): Là lướt một cụm từ gồm hai hay nhiều từ hoặc thậm chí cả một câu dài thành một từ đơn âm tiết đồng nghĩa. Từ sẽ có Tơi hoặc Vời mang gen của Tiếng đầu câu và có Rỡi mang gen của Tiếng cuối câu, hoặc có cả gen của một vài Tiếng giữa câu > Bản Làng=(lướt)=Bàng=Bang=Băng, nhiều làng hợp lại thì thành một bang, dân biển đảo sông nước thì sống trên Bè, Mảng, nhiều thì cũng hợp lại thành Bang. Bè Mảng=(lướt)=Bảng=Bang. Bè=Phe=Phái, có từ đôi Phe Phái, Bè Phái, do đó thấy cổ nhất vẫn là từ Bè, đó là cái vật cụ thể ghép bằng nhiều cây nứa để đi sông biển. Ngôn từ của nhân loại đều do từ chỉ vật cụ thể rồi nâng lên tính trừu tượng thành từ bác học. Mảng cũng là vật cụ thể ghép bằng nhiều cây nứa để đi sông biển, Mảng=Mường=Minh, Liền Mảng=Liên Minh, Liên Minh là một từ bác học. <Trong Sấm của Nguyễn Bỉnh Khiêm có viết địa danh Bảo Giang, nói lái thì là Bảng Giao tức Bang của Giao Chỉ vùng biển, Bảng Giao=(lướt)=Bảo , mà cũng vậy Biển Đảo=(lướt)=Bảo. Bảo=Bửu=Báu. Còn nói theo qui tắc “phản thiết” của Hứa Thận thời Đông Tấn thì “phản” tức đảo ngược lại là Giang Bảo rồi “thiết” tức lướt thì Giang Bảo=(lướt)=Giao, cũng là Giao Chỉ nốt. Câu Sấm của Nguyễn Bỉnh Khiêm là: “Phân phân Tùng bách khởi. Nhiễu nhiễu xuất Đông chinh. Bảo Giang thiên tử xuất. Bất chiến tự nhiên thành”. Hán ngữ dùng các từ “Bang” nghĩa là một quốc gia, “Bàng Đại” nghĩa là rất to lớn, “Đại Bàng” nghĩa là loài chim có cánh xòe rộng > QT Lướt rất quan trọng trong tạo từ mới. Do lười biếng, ăn sẵn, vọng ngoại (lái là “vái ngọng”, đã làm hỏng dần ngôn từ Việt) người ta không để ý mấy đến QT Lướt. Trong khi đó thời Đông Tấn hai ngàn năm trước có Hứa Thận viết cuốn “Thuyết Văn Giải Tự” đã vận dụng qui tắc này , gọi là “Thiết”, Lướt=Thướt=Thiết, để dạy cách đọc đúng âm chữ nho. Tư duy của người Việt là một khái niệm phải được biểu đạt chỉ bằng một từ. Ngày nay trong tiếng Việt vô cùng nhiều khái niệm được các nhà ngôn ngữ học biểu đạt bằng cả một câu. Ví dụ “bao cao su”, đây là một cụm từ chứ không phải một từ, nếu trong đối thoại hỏi “Đây là cái gì?”, trả lời “Bao cao su” thì đó là một câu. Vậy mà nó cứ được dùng tự nhiên để khái niệm một vật cụ thể, nếu sau dăm năm nữa công nghệ phát triển không làm nó bằng cao su nữa thì gọi nó là cái gì?. Từ để khái niệm nó thực ra đã có sẵn trong QT rồi. Tên khoa học nó là Condom, QT Vo đã nhìn thấy cái lõi “Đ” ở Giữa là gen Giao Chỉ rồi. Nó là cái dụng cụ dùng để Đụ, mà Đụ là QT Lướt của câu “Đưa tinh trùng đến Tụ” vào cái ổ trứng, “Đưa tinh trùng đến Tụ”=(lướt)=Đụ. Nhưng dùng dụng cụ ấy không phải là để nhằm di truyền nòi giống, mà chỉ là dụng cụ dùng để Đụ Chơi. QT Lướt đã cho từ mới “Đụ Chơi”=(lướt)=Đơi. Vậy thì gọi dụng cụ ấy là cái Đơi cho rồi, khỏi “bao cao su” dài dòng. Hán ngữ gọi nó là cái “vệ sinh đai”, cũng dài, nghĩa là cái vành đai bảo vệ cho sạch sẽ. Nhưng cái Đơi của QT thì nó đã hàm ý bảo vệ rồi, vì nó nhắc nhở “Đừng có làm ngắn cuộc Đời của bạn”, Đời mà bị ngắn mất cái dầu huyền thì là Đơi. Đơi=Tơi (cái áo ngoài)=Toi, hãy coi chừng ! Trước khi hành sự thì nhớ “Đợi mang Tơi”=(lướt)=Đơi, kiểu nào cũng giải thích được.( “Phong ba bão táp chưa bằng ngữ pháp Việt Nam” ). Trong dân gian, nhất là trong lớp “teen” mạng bây giờ họ rành QT lắm, có lẽ là do từ trong tiềm thức Việt. Ví dụ từ “đi Phượt “ chỉ cả câu: Đi du lịch kiểu “Phớt lờ mà Vượt” mọi trở ngại thiên nhiên và bó buộc của tua truyền thống gọi là đi Phượt. Thợ xẻ có từ thợ “Làm lưỡi cưa cũ cho sắc lại như Mới”=(lướt)=Lỡi, gọi là thợ Lỡi. Ngày nay dùng máy tự động mài lưỡi cưa, lại không gọi là “máy Lỡi” mà gọi là “máy mài lưỡi cưa tự động”. Dân nuôi tôm ở Cà Mau gọi cái lưới mắt rất nhỏ để quây tôm con ở góc ao là cái “Vzèo” do lấy ở từ láy Vòng-Vèo, làm gì có chuyện “Vòng là tiếng đã đem dùng, còn Vèo là tiếng đang chờ chứ chưa sử dụng” như ngôn ngữ học giải thích từ láy. Vèo là do cái “Võng có mắt nhỏ tí Tẹo”=(lướt)= “Vèo”. Vòng là do cái “Võng có mắt Rộng”=(lướt)=Vòng. Ngôn từ Việt với chữ Quốc Ngữ: Ký tự cổ đại của loài người thì vẽ Đực-Trời là cái vòng tròn ( O ), ký tự Latin thì vòng tròn là cái chữ O . Sách giáo khoa dạy vỡ lòng của giáo sư Hoàng Xuân Hãn khi truyền bá chữ quốc ngữ có câu đầu tiên là: “O tròn như quả trứng gà. Ô thời đội mũ, Ơ thời mang râu”. Ý là, muốn hiểu rõ ngôn ngữ Việt Nam phải bắt đầu từ Trời ( tức từ nguyên lý Vũ Trụ) và từ cái Trứng (tức từ nguyên lý gen DNA), cả hai cái đó đều nằm trong thuyết Âm Dương Ngũ Hành của người Lạc Việt sáng tạo ra. Việc dùng QT để dẫn ra một nôi khái niệm lớn cũng là theo như triết lý Âm Dương “Trong Dương có Âm, trong Âm có Dương”, vậy thì nếu qui ước Âm là Nhỏ, Dương là To thì Trong To có Nhỏ, trong Nhỏ có to, cũng như trong Vũ Trụ có một con Người và trong một con Người cũng có cả một Vũ Trụ, trong Trời có một con Gà và trong một con Gà cũng có cả Trời. Lão Tử nói Tim chỉ là một cái phủ xác thịt trong số lục phủ của lục phủ ngũ tạng, còn Tâm của con người thì nó là Thiên Phủ, nó sâu vô cùng tận và cũng rộng vô cùng tận ( thì nó như là Vũ Trụ vậy). Đã ai nghiên cứu được hết tiềm năng con người? Hán ngữ chỉ có một từ “xin” , quả tim cũng gọi là “xin”, lòng người cũng gọi là “xin”, viết bằng chữ Tâm. Những nhà “từ Hán-Việt” thì soạn ra từ để trong cuốn Từ Điển Tiếng Việt có cụm từ “khoa Tim Mạch”, nhưng lại có cụm từ “đo điện Tâm đồ”, đo đồ Tim bằng điện thì có thể, chứ đo thế nào được đồ của Tâm mà gọi theo kiểu Hán là “điện Tâm đồ”. Vì ngôn từ tiếng Việt được tạo ra theo qui tắc Âm Dương, tức qui tắc của hệ số nhị phân, nên trước hết ta phải nhớ lại là qui tắc đếm nhị phân khác qui tắc đếm thập phân. Hệ số nhị phân đếm như sau: 0 + 0 = 1, 0 + 1 =1, 1 + 0 +1, 1 + 1 = 0 . Ngôn từ Việt đều được tạo ra theo qui tắc đó của hệ đếm nhị phân. Thời cổ đại người Việt dùng ký tự Kẻ vạch. Kẻ bằng một vạch liền là Dương, Kẻ bằng hai vạch nối cách nhau là Âm. Thời dùng Que làm công cụ để Kẻ ra ký tự là những vạch thẳng có lẽ là thời còn Cứng, thời ấy là còn người Kinh (cần Keo), nói còn gọi là Kêu (giọng rất Cứng), ra đến Lưỡng Quảng đất rộng hơn thì Kêu lại thành Coỏng (vẫn rất Cứng và giữ đến ngày nay). Sau đến thời biết dùng công cụ là chất liệu mềm hơn thì động tác Kẻ đã biến thành Vẽ, ký tự càng phong phú lên thì biết viết, lúc đó người Kinh đã thành người Việt. Từ người Kinh biết Kẻ đến biết Vẽ đến Viết để người Kinh trở thành người Việt là quá trình dài hàng vạn năm để từ Cứng thành Mềm, lúc đó mới gọi là người Man hay Mân. Thời còn Cứng ấy kéo dài đến thời nước Sừng hay nước Sùng, giọng Cứng sinh ra các từ cũng Cứng, nhiều Tơi “K”. Thức ăn thì có Cơm, Canh, Cay, Quyệt, Kẹo. Thực vật có Cây, Cọng, Cỏ, Cành, Cánh,Củi, Củ, Quả. Động vật hoang dã có Cá, Cua, Cáy, Cóc, Còng, Cà Cuống, Cồ Cộ, Cào Cào, Cắc Kè, Cà Cưỡng, Kền Kền, Qué, Qụa, Cù Cu, Cun Cút, Cồng Cộc, Công, Cò, Két , Cắt, Cú, Cọp. Nông cụ có Cán, Càn, Quang, Cày, Cuốc, Cào. Kỹ thuật đánh bắt thủy sản có Cất, Câu, Quây, Quét, Cào. Công đoạn làm thuyền có Cưa, Cắt, Quay, Cạo, Quết. Làm nghề rèn có Kiềng, Quạt, Kê, Quật, Cạy. Bán hàng có Quang, Cân, Cóng, Ky, Quầy. Máy móc là bộ Cơ có Cộ, Cọn, Cối, Cửi, Cạm. Đến thời Vẽ và Viết là ký tự ký âm gọi là chữ nòng nọc. Qua hàng vạn năm sau lại quay lại đến thời thay chữ ký âm nòng nọc (khoa đẩu) bằng ký tự La Tinh thì hóa ra lại Là Mình (La Tinh=Là Mình). Có thể La Tinh không đồng nghĩa với Là Mình, nhưng chắc chắn là nó có gen đấy. Vì trong tiếng Việt thì Là Tinh=Là Tỉnh=Là Tình=Là Mình. Ơn Ai đưa chữ La Tinh. Để Ta thấy lại Là Mình ngàn xưa (Lãn Miên) Hãy xét các cặp từ đối, dùng chữ Quốc Ngữ để thấy rõ cái gen của Từ. Cặp đối Con/Cái: Từ đối Con/Cái (từ đốii tương ứng do hai cặp từ đôi: “Con Cặc”/ “Cái Lồn”) chính là từ đối Âm/Dương (từ đối tương ứng do hai cặp từ đôi “Ít Ỏi”/ “Dồi Dào”, khoa học đã chứng minh Âm/Dương là một tám một mười, tỷ lệ dân số hiện nay ở Trung Quốc đang là Dương thịnh Âm suy).Từ đối Con/Cái dù là đối nhưng Con và Cái đều là một Nòi ở trong một Nôi mà ra, vì chúng cùng Tơi là “C”, cái Tế (bào) chung của chúng là “Kẻ” đã theo QT Nở mà tách đôi theo cách tự sinh sản của tế bào, lúc mới bắt đầu thì cái trứng “Kẻ” ấy mới chỉ là sinh ra từ dính “Cựa-Quậy” tức cái trứng đang từ từ tự tách để lớn dần lên, lớn đến mức độ “thái” thì nó thành từ dính “Quá-Quắt”, rồi trứng ấy nói được thì thành từ dính “Quang-Quác”. Nếu qui ước Quang=1=Dương thì trong Dương có Âm nên Quang đã có sẵn cái gen là dấu thanh sắc của Quác, nên khi nở (tức lúc đã thái Dương thì biến thành Âm) nó nở thành Cái, mang giá trị 0=Âm. Tất nhiên cũng phải theo qui ước, Quác=0=Âm, thì trong Âm có Dương nên Quác đã có sẵn cái gen là dấu thanh ngang của Quang, nên khi nở ( tức lúc đã thái Âm thì biến thành Dương) nó nở ra thành Con. Có được hai cá thể hoàn chỉnh ở ngoài là Con và Cái, rõ ràng là một tiếng Dương và một tiếng Âm, chúng là một đôi nguyên thủy cùng Nôi, nên tạo thành từ đối nguyên thủy là từ đối Con/Cái. Về thời gian mà cái trứng “Kẻ” dùng để duy dưỡng , dần dần tách ra được hai trứng Con và Cái, là một quá trình, được biểu thị bằng từ đôi Chọn Chài ( Chọn cùng Rỡi “on” với Con, Chài cùng Rỡi “ai” với Cái, câu “ Chài người để Chọn làm chồng” đã giải thích được ý nghĩa của từ đôi Chọn Chài, là quá trình mà “Kẻ” đang nuôi dưỡng, cân nhắc phân phối nhiễm sắc thể DNA cho hai đứa, đứa nào sẽ sinh ra thành Con, đứa nào sẽ sinh ra thành Cái). Chọn Chài là quá trình lâu dài, bản thân Con=Gọn, Cái=Dài đã tiên đoán đàn bà có tuổi thọ hơn là đàn ông.Từ đôi Chọn Chài theo QT Lướt thì “Chọn Chài”=(lướt)= “Chãy”. Chãy là từ thứ sáu, với dấu thanh điệu thứ sáu của ngôn ngữ Việt Nam. Theo QT Lởi và QT Rút thì Chãy=Chửa=Chở=Chứa=Chữa=Đưa=Đẩy=Dẫy=Dài,=Dỗi =Rỗi=Rãi=Rảnh=Rang, là một quá trình lâu dài, có từ đôi Chứa Chở, Đưa Đẩy, Chữa Chãy (thường phát âm sai là Chữa Chạy), Rảnh Rang , Rỗi Rãi , Dẫy Dài đều là cần thời gian lâu dài ; từ ghép Dẫy Chết cũng cần thời gian lâu chứ không thể chết ngay lập tức được.Toàn bộ thể hiện quá trình duy dưỡng và cân nhắc phân phối nhiễm sắc thể cho hai đứa sắp ra đời của “Kẻ” là Con và Cái. Năm từ kia với năm dấu thanh điệu khác nữa đều là năm động từ thể hiện tương tác giữa Âm và Dương, tức giữa Con và Cái khi chúng đang còn ở trong Nôi chưa tách rời hẳn nhau, đó là các động từ chỉ sự tương tác: Chạy (di chuyển - Kim), Cháy (thiêu đốt - Hỏa), Chảy (biến hóa - Thủy), Chày (giữ lại - Thổ), Chay (loại trừ - Mộc). Ngoài năm từ với năm dấu thanh điệu mà ứng với Ngũ Hành ở cái ý nghĩa của từ, thì từ thứ sáu có dấu thanh điệu thứ sáu thể hiện quá trình tương tác, tính chất của quá trình ấy là Sáu=Sâu=Lâu (Nên thuốc Nam làm bằng các vị thảo dược nó tác dụng lâu mới khỏi bệnh, không nhanh như thuốc Tây làm bằng hóa chất).Từ đối Con/Cái tương đương với Nam/Nữ = Nường/Nõn = Lang/Lồn (Câu “đi lang” ý chê trách là đi theo trai, “lang thang”, “lang bạt kỳ hồ” thường chỉ hành vi của con trai). Nữ là Âm nhưng tính của Âm là Động tức Nông-Nổi, nên mới có câu chê ngược cho vui là “Đàn ông nông nổi giếng thơi, Đàn bà sâu sắc như cơi đựng trầu” ( từ đối Thác/Thơi, Thác là nước chảy trên cao xuống, Thơi là nước mạch đùn dưới sâu lên). Như trên đủ thấy ngôn từ của tiếng Việt được tạo ra từ nguyên lý của thuyết Âm Dương Ngũ Hành, chứng tỏ thuyết Âm Dương Ngũ Hành là sản phẩm của người Việt, vì tư duy tạo ra ngôn ngữ, ngôn ngữ lại là công cụ để tư duy. Nhưng không chỉ có thế. Trong ngôn ngữ Việt Nam lại cũng đã chỉ rõ sự sinh ra vũ trụ từ trong cách tạo từ của nó: Vũ trụ nguyên sơ là một cái Ổ hư vô, nhưng trong nó đã có mầm mống của tố chất Âm và Dương, chỉ có điều là chưa có cái nào được sinh ra mà thôi.Từ Ổ ấy là cùng Nòi với từ AND của tiếng Anh, vì “Ổ” và “AND” đều là cùng mẫu số chung là “Vắng Tơi”. ( Tiếng Anh AND nghĩa là “và” tức ám chỉ nó phải có ít nhất là hai yếu tố nằm ẩn trong đó, mà tiếng Việt thì Và=Vài=Hai).Thượng Đế thấy cái Ổ hư vô đó là không được, Thượng Đế không hài lòng, muốn phủ định nó đi, nên Ngài mới lệnh Nỏ Ổ ! ( “Nỏ” tiếng Việt là Không, như “No” tiếng Anh cũng là Không, suốt giải miền Trung “trọ trẹ” đều vẫn đang dùng từ “Nỏ” nghĩa là Không, nhưng Từ điển Tiếng Việt thì không đưa từ này vào !). Thế là No AND đã thành một câu phủ định, và theo QT5 nó lướt “No AND”=(lướt)= “NAND”. Nhưng ở tiếng Việt thì Nỏ Ổ đã lướt “Nỏ Ổ”=(lướt)=Nổ. Vụ Nổ này là nổ tan tành sạch sành sanh, nên gọi là Nổ Trắng, theo QT5 để lướt thì “NổTrắng”=(lướt)=Năng. Vụ nổ đó tạo ra một cái Năng, là cái hàm chứa trong nó sức lực vô tận. Cái trứng Năng này như một Tế bào, trong Nôi âm dương của Việt nó được duy dưỡng và từ từ tách đôi, thoạt đầu nó thành từ dính Nở-Nang (như 0 + 1, tức ký tự kẻ: một Vạch Đứt và một Vạch Liền, Âm Dương cân bằng), rồi tiếp diễn quá trình, nó đến thành Nảy-Nòi (như 1 + 0, tức ký tự kẻ: một Vạch Liền và một Vạch Đứt, Dương Âm cân bằng). Cuối cùng thì cái trứng NĂNG ấy tạo ra được hai đứa ,“con” là NẮNG và “cái” là NƯỚC, ghép lại có từ đối NẮNG/NƯỚC tương đương Dương/Âm. (Như Thượng Đế tạo ra ADAM rồi bẻ một mẩu xương sườn của Adam để nặn ra EVA. Dương sinh ra trước, Âm sinh ra sau, vì Nắng mang nhiều gen của Năng hơn là Nước. Rõ ràng thiên nhiên thì Nắng vẫn nhiều hơn Nước). “Cái” là Nước nên câu thành ngữ “Khôn ăn cái dại ăn nước” có nghĩa là đều ăn nước cả là khôn. Tây nó khôn hơn Ta nên nó toàn ăn súp với một tẹo bánh mì mà nó khỏe hơn, nên dưỡng sinh dạy là phải nhai một trăm lần cho mieesngthuwsc ăn nhuyễn thành Nước rồi mới Nuốt là tốt nhất. Cổ sơ thì trong tiếng Việt cũng chỉ có một từ Yên=Nghiền=Ngốn, dùng chung cho cả khái niệm uống và ăn, như tiếng Thái Lan vẫn chỉ một từ Yên=In=Kin, uống cũng gọi là Kin, ăn cũng gọi là Kin. Bởi cái QT Nở mà Yên đã chia tách ra thành Uống và Ăn ( đều cùng Nòi là “Vắng Tơi”). Thành ra nói hơi rắc rối, “nghệ thuật Uống-Ăn”= “nghệ thuật Ẩm- Thực”, tiếng Thái Lan chỉ cần nói “nghệ thuật Kin” là xong. Cho nên chắc chắn Thái Lan sẽ tiến đến “khoa học hợp nhất” nhanh hơn Việt Nam, vì Việt Nam đang còn lưỡng lự giữa hai, vấn-vương như Uống-Ăn, còn lâu mới tiến được đến “khoa học hợp nhất” như Yên, vốn đã có dùng thủa cổ xưa. Những nhà ngôn ngữ học “từ Hán-Việt” cứ cho rằng ngôn từ Việt gần gũi nhất với ngôn từ Hán, nhưng lại không thấy thực tế là nó gần gũi với ngôn từ tiếng Thái Lan và tiếng Khơ Me hơn nhiều . NĂNG là nhất nguyên đã sinh ra NẮNG và NƯỚC là nhị nguyên. NẮNG ghi bằng hai kẻ: Vạch Liền và Vạch Liền, như 1+1, thái Dương thì thành Âm, Nắng sẽ biến thành Nước gây mưa , sóng thần, lụt lội. NƯỚC ghi bằng hai kẻ: Vạch Đứt và Vạch Đứt, như 0+0, thái Âm thì thành Dương, nước có thể biến thành lửa, như QT: Nước=Nấu=Lẩu (tiếngTháiLan, nghĩa là rượu)=Dậu=Diệu=Riệu=Rượu=Rang=Rộp=Rổn= Cồn= Êtanol. Có từ đôi Rượu Cồn, Rổn Rang=Rộn Ràng chỉ cái không khí “hot”. Hệ đếm nhị phân trong ngôn ngữ Việt Nam ở con số Mô/Một đã có từ thủa khai thiên lập địa, nên cách tạo ngôn từ Việt nó mới nhuyễn Âm Dương Ngũ Hành và cả hệ số nhị phân như vậy. Thượng Đế cho tiếng Việt, ở lệnh phủ định Nỏ Ổ=(lướt)=NỔ trước , để tạo ra Vũ Trụ. Rồi Thượng Đế mới cho tiếng Anh, ở lệnh No AND=(lướt)=NAND, để xử lý ra hệ nhị phân, như ngôn ngữ Việt Nam vốn đã tự có hệ nhị phân từ trong tạo ngôn từ của nó từ khi có Vũ Trụ. Thượng Đế cho tiếng Anh cái lệnh phủ định là No AND= (lướt)=NAND, đã thành cái cổng (gate) NAND là mạch điện tử cơ bản sơ đẳng nhất trong kỹ thuật xử lý số. Mạch này có hai đầu vào, một đầu ra, xử lý phủ định (như lệnh của Thượng Đế đã ban), tạo ra ở đầu ra được bốn tổ hợp là 0 0, 0 1, 1 0, 1 1. (Đó chính là Tứ Tượng). Mà hệ nhị phân của công nghệ thông tin, như các nhà khoa học nói, “là công cụ tạo ra mọi văn minh cho nhân loại trong tương lai”. Cặp từ đối Âm/Dương, người Việt phát âm thì đúng như động tác cặp môi Mím/Mở (hay Ngậm/Toang), còn người Hán phát âm Âm/Dương là Yin/Yang, hai âm này cặp môi phát âm đều mở hết cỡ, vậy Yin/Yang chỉ là phiêm âm bắt chước mà thôi, không thể hiện được Đóng/ Mở như công tắc điện là môi trên môi dưới phải tiếp xúc chặt khi phát âm “Đóng” và nhả ra không tiếp xúc nữa khi phát âm “Mở”. Công tắc điện Mở/Đóng người Hán gọi là Khai/Quan, hai âm này khi cặp môi phát âm đều mở toang hết cỡ, làm sao phân biệt được là Đóng hay Mở, Ngậm miệng hay Há miệng. Động tác Đóng/Mở của công tắc điện được điều khiển trong kỹ thuật số bằng con số 0/1 của hệ số đếm nhị phân: 0=Âm= “Không có điện”=Chẳng được gì, 1=Dương= “Có điện”=Được nhiều. Cặp số Không/Một cũng đúng động tác Ngậm môi và Mở môi của cái miệng Việt. Nguyên thủy thì nó là Mô/Một. Người ta quan niệm Âm là khái niệm khép kín (hướng nội), Dương là khái niệm mở mang (hướng ngoại) thì Mô và Một của tiếng Việt cũng phản ảnh đúng như vậy: Mô=Mất=Mông=Không=Hổng=Hết=Chết, tức chẳng được kiến thức gì, vì “bế quan tỏa cảng”. Một=Hốt=Nhốt=Nhặt=Nhận=Nhiều, tức tiếp thụ được nhiều kiến thức, vì “cải cách mở cửa” (Không “hốt” bạc thì cũng “hốt” được nhiều kiến thức, từ “hot” lại là “nóng” của tiếng Anh). Nguyên thủy từ đối phải là cùng gốc như Âm Dương vốn cùng một gốc mà ra, nên hai tiếng trong từ đối phải có cùng mẫu số chung là “cùng Tơi” hoặc “cùng Vời”, hoặc cùng “Rỡi”. Ví dụ nguyên thủy của cặp từ đối Mưa/Nắng phải là Nước/Nắng.(Vậy mà Nước và Nắng đều là năng lượng vô tận). Cặp từ đối Nước/Nắng phản ánh đúng nơi sinh ra thuyết Âm Dương Ngũ Hành là bán đảo Đông Dương có bên núi bên biển, chỉ rõ Âm tính động, Dương tính tĩnh, chỉ rõ phương hướng của Hà Đồ. Những điều này thể hiện rõ ngay trong qui tắc tạo ngôn từ Việt: NƯỚC=Nổi=Sôi=Dội=Dậy=Đẩy=Đảo=Động=ĐÔNG=Đấm=ÂM=Sấm=Sóng=Chỏng= =Chống=CHẤN. Trong các từ cùng Nòi này có các từ đôi như: Nước Nổi=Nước Nôi, Sôi Động, Dậy Sóng, Chấn Động, Đẩy Chống (thuyền). Tất cả chúng đều biểu thị tính động của Âm. ( Nếu theo QT mà dẫn ra sẽ có hàng trăm động từ diễn tả tác động của nước (tức hiệu quả của năng lượng từ Nước, công nghệ kỹ thuật cao đang nghiên cứu các động từ ấy để lấy được hiệu ích từ năng lượng của nước, thủy điện mới chỉ là một ứng dụng sơ đẳng nhất có mỗi một động từ “chảy” của Nước. Chính vì phong phú động từ do Nước như vậy, để mà lấy được năng lượng, nên mới có câu thành ngữ “Rừng vàng Biển bạc”) NẮNG= Lắng=Lặng=Ắng=Im=Ương=Bướng=DƯƠNG=Tượng=Tịnh=Tĩnh=TÂY=TỐN. Trong các từ cùng Nòi này có các từ đôi như: Tĩnh Lặng, Im Ắng, Lắng Lặng, Lẳng Lặng, Ương Bướng. Tất cả chúng đều biểu thị tính tịnh của Dương. Người ta cũng quan niệm rằng cặp từ đối Âm/Dương cũng tương tự cặp từ đối Nữ/Nam hay tương tự cặp từ đối Ít/Nhiều ( đúng như câu “Nam thực như hổ, Nữ thực như miêu, hay đúng như ở châu Á số đàn bà đang ít hơn số đàn ông). Điều này cũng thể hiện rõ trong qui tắc tạo ngôn từ Việt: Âm=Ít=Ỏi, có từ đôi Ít Ỏi. Âm tương đương con số 0=Ít Dương=Dồi=Dào=Diều=Nhiều, có từ đôi Dồi Dào. Dương tương đương số 1 = Nhiều. Trong số học nhị phân nó xử lý như sau: 0+0=1 (tức Thái Âm thì thành Dương) 0+1=1 (tức cân bằng Âm Dương thì thành nhiều) 1+0=1 (tức cân bằng Âm Dương thì thành nhiều) 1+1=0 (tức Thái Dương thì thành Âm) (Đấy là xử lý của mạch NAND trong kỹ thuật số, là một cổng điện tử có hai đầu vào một đầu ra, nó cũng đúng như qui tắc tạo từ của tiếng Việt. Ví dụ từ đôi Gà Qué, cùng Nòi khác Sắc, tức Gà=1 Qué=0, 1+0=1 như Gà+Qué = Gà Qué = Nhiều gà). Âm là Nhu, Dương là Cương. Nhu=0, Cương=1. Từ trong qui tắc tạo ngôn từ Việt cũng đã thấy được: 1+1=0 (0 tức chẳng được gì, cũng như mất cả chì lẫn chài). Bản thân Biển Đông là Âm, “khái niệm” Âm thì là 0, nhưng “tính” của Âm thì là Động, tức=1. Bây giờ bọn cường bạo lại đến quấy Động nữa tức đưa thêm 1 vào để thành Động+Động như 1+1, ắt phải là 1+1=0, vậy thì bọn cường bạo sẽ chẳng được gì, mà sẽ được cái 0=Mô=Mất=Mông=Không=Hổng=Hết=Chết. Dùng ký tự La Tinh để phân tich tính Âm Dương trong ngôn từ Việt, ta thấy rất trùng hợp trong từng con chữ cái của chữ Quốc Ngữ: Cặp đối Ơ/Í. Tư duy con người là bắt đầu từ 0 rồi đến 1. Lúc đang là 0 (chưa nảy ra gì) thì là âm vận Ơ ( “Ơ ! sao nó lại như thế này ?” ). “Ơ” là chưa hiểu gì, Ơ=Mơ=Lơ Mơ=Lơ Tơ Mơ=Mờ=Ngờ=Ngờ Ngợ là chưa nghĩ ra được, cái bước chuẩn bị tư duy ấy cũng chỉ có ở con người, Người Ơ=(lướt)=Ngờ. Lúc tư duy nảy ra thì nó đã là 1, đó là âm vận Í ( “ Í ! hay quá ta !” ). “Í” là đã hiểu rồi, “Ý” là một tư duy, Ý = Nghĩ = Kỹ = Duy = Tri = Trí . Cặp đối Ơ/Í tương đương 0/1. Từ Ngơ đến Nghĩ rồi mới ra Lời, vậy mà nó đã xử lý trong óc là : 0+1=1, như Ơ+Í=ƠÍ, hay Ơ Í=(lướt)=ƠÍ, và nhờ cái Lưỡi làm công cụ đưa cái tư duy đó ra thì Lưỡi+ƠÍ= 0+1=1, hay Lưỡi Ơi=(lướt)=Lời . (Phân tích bằng số của hệ nhị phân như vậy để khẳng định rằng: Nếu đã cho rằng “Lời” là từ thuần Việt, thì “Ý” cũng phải là từ thuần Việt, và các từ mà “Lời” và “Ý” dẫn ra theo QT đều là thuần Việt hết, chẳng có từ nào gọi là “từ Hán-Việt” cả). Ta đã thấy rõ Í là tư duy, chỉ có loài người thì mới có tư duy, chính nó là như vậy, trong tiếng Việt đã chỉ rõ: Người+Í=0+1=1, hay Người Í=(lướt)=Nghĩ. Nhưng khi cái tư duy đã có nhưng chưa đưa ra bằng Lưỡi, thì cái tư duy ấy mới chỉ là Ơ+I=0+1=1, hay Ơ I=(lướt)=Ơi, và Người+ Ơi=1+0=1, hay Người Ơi=(lướt)=Ngợi. Từ đôi Nghĩ Ngợi chính là chỉ người đang tư duy nhưng chưa đưa ý nghĩ ra bằng Lời. Xin nhắc lại: Mỗi Từ của tiếng Việt như là giá trị của một “bit” thông tin, “bit” thông tin thì có hai giá trị nảy sinh một cách xác suất, hoặc khi là 1, hoặc khi là 0. Ví dụ từ Người, khi này nó có thể mang giá trị 1, Người=1, khi khác nó có thể mang giá trị 0, Người=0, tùy theo khi nó cặp với từ nào, đã mang sẵn giá trị nào. Vì hai từ tiếng Việt khi ghép lại với nhau chúng theo qui tắc là âm chúng phát ra phải khác nhau, như một Đực và một Cái tương ứng nhau trong từng trường hợp cụ thể. Ví dụ Người=Ngợm=Ngài=Ngòi=Dõi=Dân=Nhân thì cặp từ đôi Nhân+ Dân=1+0=1=Nhiều người; Người+ Dân=1+0=1=Nhiều người (nếu khi ấy Dân đang mang giá trị Dân=0) nhưng cũng có thể là Người+Dân=0+1=1=Nhiều người (nếu khi ấy Dân đang mang giá trị Dân=1, thì Người phải nhảy ngay sang giá trị Người=0, để đảm bảo xử lý cho đầu ra bằng 1, đây là xử lý của kỹ thuật số); Người+Ngợm=1+0=Nhiều người (mang khái niệm xấu). < Dõi=Người, Nối Dõi là nối người đời sau với đời trước, Dòng Dõi là chuỗi người cùng huyết thống, Dòng Dõi chữ nho viết là Tông Đại, Đời=Đại=Ngài=Người, Đời cũng là Người chứ hết đời thì đã gọi là Ma, Đời=Ngời=Người, Ngời tức Sáng là Người Đời=(lướt)=Ngời, tức đang ở Dương thế nên nghĩa là Sáng, chứ ở Âm thế thì đã là Ma> Cặp đối U/Ù Cặp đối nguyên thủy U/Ù chính là nghĩa Ở/Đi, mà qua một ngàn năm Hán hóa, người Việt đã quên. Cùng mẫu số chung là cùng “Vời” với U có Ổ=Ở=Ủ=U. U nghĩa là Mẹ (tiếng Bắc Bộ, người Đài Loan cũng gọi là U), có nghĩa là “dân tại chỗ”, như cái noãn trứng trong tử cung của Cái thì nó là “dân tại chỗ”, còn con tinh trùng của Đực thì nó là “dân nhập cư”. Thủa xa xưa là mẫu hệ, còn lại dấu ấn là cái nhà dài của Tây Nguyên, các gia đình của con cái vẫn tiếp tục ở với mẹ, nối dài cái nhà ra mãi. Phát triển lên viết bằng chữ nho thì U=Ư=Vu=Vầy=Về=Quê đều là sự qui tụ tại chỗ. Ù là “đi” ( Đánh bài tổ tôm có bước “chạy ù” tức chạy đi; câu “Làm nhanh ù, đi con” tức “làm nhanh đi, đi con”). Đó là thủa còn là người Kinh, vạn năm sau khi người Kinh đã gọi là người Việt thì cặp đối U/Ù nó biến thành Vu/Vù (“Nó vù mất rồi” tức “Nó đi mất rồi”; “Đánh vu hồi”, câu này đã bị Hán hóa, tức “Đánh về chỗ ở”). Thời này vẫn đúng Âm Dương trong ngôn từ Việt, hai tiếng đối nhau phải là phát âm khác nhau (Vu/Vù) như tiếng Đực tiếng Cái, như 1 và 0, không thể là đồng âm nhau được. Đến thời chữ nho Việt bị Hán hóa, người Hán không có quan niệm Âm Dương trong ngôn từ, nên họ đọc hai chữ Vu/Vù ấy là đồng âm “Yuê”/ “Yuê”, đó là cặp Việt ở/ Việt đi, mà chữ nho viết là 粵 / 越. Chữ Việt ở 粵thì Hứa Thận giải thích chữ “Yuê 粵” ấy là “Vu dã”= “Vu ạ” tức nó là “Vu” (tức là tại chỗ, là dân bản địa, tức “Việt 粵ở”.< Người ta cứ gọi đó là chữ Việt bộ mễ, thực ra không phải vậy, theo học giả Đỗ Tòng người Triều Châu giải thích, đây là chữ nho Việt hoàn toàn biểu ý, ghép bằng Vuông (口) + chữ Thái (采) . Thái=Chái (phát âm của Nam Bộ) = Chói (phát âm của Triều Châu) = Chá (phát âm của Quảng Ngãi)= Lả ( phát âm của Nghệ An) =Tá (phát âm cổ nhất của người Kinh), có từ đôi Tá Lả, Tá Hỏa đều chỉ sự nóng phát hoảng, nghĩa của chữ Thái 采 là ánh nắng mặt trời, Vuông đất của dân thờ mặt trời trên Trống Đồng , + bên dưới là hình cái cày của dân nông nghiệp lúa nước. Chữ Việt đi 越 thì Hứa Thận giải thích chữ “Yuê 越” tức “Việt 越 đi” ấy là “Độ dã” tức “Đò ạ” tức vượt sông, đò thì chỉ có vượt sang ngang qua sông, chỉ có thuyền thì mới đi dọc sông. Chữ Việt đi này là chỉ rõ, người Việt đã vượt sông Trường Giang lên đến Hoàng Hà thời cổ đại, về sau còn là thủa nước Sở của người Kinh Sở chiếm đến vùng Trung Nguyên, kình địch với nước Tần. Những cặp từ đối bằng chữ nho đã bị Hán hóa thành đọc hai chữ nghịch nghĩa đều đồng âm, có nhiều lắm, như Lửa/Lụn thì thành Liệt 烈 / Liệt 劣 ( nghĩa là lừng lẫy / lụn bại , bộ ghép biểu ý là Thiếu 少 Sức 力) , Ma / Mãnh thì thành Minh 冥 / Minh 明 (nghĩa là Âm phủ/ Dương thế) v.v.1 like
-
1 like
-
1 like
-
1 like
-
1 like
-
Đường quan lộ không thuận, nên xa xứ lập nghiệp, hợp với ngành kinh thương, phải về hậu vận mới phát đạt. Về tình duyên thì năm nay gặp chút trục trặc, năm sau có thể tiến tới hôn nhân. Vợ là con trưởng, nhỏ tuổi hơn, dáng người hơi nở nang, lưng dày, hơi cong tôm, da mặt hồng hào trán cao, hay kể chuyện người khác, cả nể vợ là điều không tránh khỏi.1 like
-
Hà Nội: Công trình nghìn tỷ lại dột, ngập 05/07/2011 Quốc Hưng (GiadinhNet) - Chỉ với vài cơn mưa người ta lại thấy công trình nghìn tỷ này tiếp tục bị xuống cấp trầm trọng. Báo GĐ&XH từng thông tin về việc Bảo tàng Hà Nội bị xuống cấp, sự việc cũng đã được thành phố thừa nhận. Những tưởng công trình này sẽ được sửa chữa hay gia cố thì mới đây, chỉ với vài cơn mưa người ta lại thấy công trình nghìn tỷ này tiếp tục bị xuống cấp trầm trọng. Dột từ trên xuống dưới Nước lênh láng khắp sàn của tầng 1 và tầng âm 2 của Bảo tàng Hà Nội. Ảnh: Q.H Ngày 6/10/2010, UBND TP Hà Nội đã tổ chức lễ khánh thành Bảo tàng Hà Nội sau hơn 2 năm xây dựng (khởi công tháng 5/2008), tổng vốn đầu tư lên tới 2.300 tỷ đồng. Bảo tàng Hà Nội gồm 4 tầng nổi và 2 tầng hầm. Công trình được thiết kế 3 thang máy, 4 thang bộ (đi vòng tròn phía trong bảo tàng). 2 tầng hầm được bố trí phòng họp và các phòng kỹ thuật. Tại sảnh chính của Bảo tàng Hà Nội, khu lưu không dành cho khách tham quan, mỗi khi trời có mưa, nước từ mái tầng 5 đổ thẳng xuống sàn tầng 1. Một lao công cho hay: “Nước chảy nhiều đến mức chúng tôi phải dùng giẻ để thấm nhưng vẫn không xuể, thậm chí phải lấy xô hứng nước, dùng hót rác tát nước”. Tầng 4 của bảo tàng có hàng chục vị trí dột. Những ngày có mưa lớn, nước chảy từ mái rồi men theo tường đổ thẳng xuống sàn nhà, bên cạnh đó là vô vàn những tia nước khác dội trực tiếp từ mái xuống như thể trần nhà bị thủng. Theo các lao công đang làm việc tại đây, tầng 4 bị dột từ khu vệ sinh đến khu trưng bày, ngay cả khu vực kê ghế cho khách tham quan ngồi nghỉ cũng bị dột. Trần của khu trưng bày “Hà Nội Xưa và Nay” đang bị ôxy hoá, han gỉ do nước mưa ăn mòn. Còn dưới chân tường nhiều khu vực đã bị mốc xanh nham nhở do nước mưa ngấm vào lâu ngày. Sàn nhà, phần đá ốp đã bị phủ trắng do cặn của nước mưa bám vào. Mỗi khi trời mưa to, các lao công chỉ có cách duy nhất là chuẩn bị xô, chậu để hứng và tát nước tràn vào… Không chỉ các tầng nổi của Bảo tàng Hà Nội đang bị dột, tầng âm cũng luôn trong tình trạng nước ngập lênh láng. Ngày 30/6, thời tiết Hà Nội rất khô ráo. Có mặt tại tầng âm số 1 của Bảo tàng Hà Nội, khu vực chứa thiết bị điện và máy lạnh của cả toà nhà, chúng tôi chứng kiến cả một diện tích lớn vẫn đang trong tình trạng lênh láng nước. Nước từ bên ngoài ngấm qua tường, rồi tràn vào bên trong tầng âm 1. Trên tường vẫn còn đó những vết đục khoét nham nhở, ximăng vá tạm nhưng vẫn không xoá hết được vệt nước để lại. Lãnh đạo quả quyết “không dột” Mặc dù việc dột, ngấm diễn ra khá trầm trọng nhưng ông Nguyễn Văn Hùng, Giám đốc Bảo tàng Hà Nội lại khăng khăng quả quyết: “Làm gì có chuyện Bảo tàng Hà Nội bị dột, chẳng qua là do chúng tôi quên đóng cửa khu thông gió nằm trên sân thượng. Giờ thì mỗi khi trời có mưa, chúng tôi đã cảnh giác cao với khu thông gió này rồi”. Mới nói đến thế, không kịp để chúng tôi hỏi thêm, ông Hùng đã “chuyển” chúng tôi cho ông Đặng Minh Vệ, Trưởng phòng Kỹ thuật Bảo tàng Hà Nội. Khi đưa chúng tôi đi “thị sát”, ông Vệ liên tục giải thích: “Bảo tàng Hà Nội đang trong giai đoạn bảo hành nên mọi sự cố xảy ra, các nhà thầu đều phải chịu trách nhiệm. Còn đội ngũ cán bộ đang làm việc trong bảo tàng chỉ là đơn vị tiếp nhận”. Tại tầng âm thứ 2, khu vực chứa thiết bị điện của bảo tàng sàn nhà bị ngập nước còn kinh khủng hơn cả bên tầng âm số 1. Chúng tôi phải liên tục kiễng chân qua nhiều khu sàn bị ngập nước để đi hết tầng âm này. Nước ngập đến mức tràn qua cả gầm của những thiết bị điện. Có điều lạ là nước ngập như vậy nhưng ông Vệ vẫn quả quyết: “Có ngập nước đâu anh. Nếu ngập thì có mà các thiết bị máy móc ở đây ngừng hoạt động hết…”. Như vậy, dù mới đưa vào sử dụng chưa lâu nhưng Bảo tàng Hà Nội đã liên tục gặp sự cố. Cách đây khoảng 2 tháng, tại Bảo tàng đã có hiện tượng gạch lát nền bị vỡ, nước đọng trên trần nhà. Khi tới thực địa chúng tôi đã dễ dàng nhận thấy ngay lối lên cầu thang ngay tầng 1, gạch lát bị vỡ vụn, lộ cả lớp cát lót, còn trên trần nhà có vết nước đọng. Thậm chí nơi ngồi của lễ tân bảo tàng, nước từ trần nhà bị ứ đọng rơi xuống bàn. Khu vực bán hàng giải khát (tầng 1) cũng có hiện tượng tương tự. Tất cả các hiện tượng này đã được chúng tôi phản ánh trên báo. Ngày 10/5, bà Nguyễn Kim Loan – Phó Giám đốc Bảo tàng Hà Nội, một mặt thừa nhận những hiện tượng hỏng hóc trên, mặt khác giải thích rằng, do cửa chớp các tầng trên chưa đóng gây nên nước mưa đã chảy từ mái nhà xuống, bộ phận kỹ thuật của bảo tàng đã đi kiểm tra, phát hiện và xử lý sự cố này. Sau đó, tại cuộc họp giao ban báo chí Thành uỷ, một vị đại diện Ban quản lý Bảo tàng Hà Nội cho biết lỗi thấm, dột là do van vệ sinh nước bị rò rỉ và đã được xử lý. Nếu căn cứ vào những điều các vị này nói thì hẳn việc thấm, dột cho đến nay đã không thể xảy ra (vậy nhưng trên thực tế nó vẫn xảy ra). Chúng tôi định đem những băn khoăn quay lại hỏi ông Hùng thì thật không may, ông đã đóng cửa về từ bao giờ! Đã “giải quyết” sao vẫn dột? Vào ngày 11/5/2011Báo GĐ&XH đã có bài phản ánh về việc Bảo tàng Hà Nội xuống cấp. Ngày 7/6, tại buổi họp giao ban báo chí Thành ủy Hà Nội, đại diện Ban quản lý Dự án Bảo tàng Hà Nội đã thừa nhận những thông tin về việc bong rộp, thấm nước trong phòng kỹ thuật và mẫu vật hư hại tại Bảo tàng Hà Nội là chính xác.Với sự cố thấm nước ở phòng kỹ thuật, vị đại diện Ban QLDA Bảo tàng Hà Nội cho biết đó là do một van nước trong phòng vệ sinh tầng 2 bị rò rỉ dẫn tới việc nước bị thấm xuống sàn phòng kỹ thuật và làm hộp điện bị ẩm. Nhà đầu tư Vinaconex cùng Bảo tàng Hà Nội đã phối hợp giải quyết và hiện tượng nước chảy tràn ra các phòng kỹ thuật đã không còn. Quốc Hưng ------------------------------------------------- 1 công trình cao ốc 25 tầng; diện tích khuôn viên 3000m2, trung tâm quận 7 HCM, diện tích xây dựng 1700m2. Tổng chi phí cả đất <1800ty3, cùng thời gian xây dựng. Cái bảo tàng 3 tầng lộn ngược, nhìn vật liệu xây dựng là thấy bèo nhèo mà 2300 tỷ, dự kiến phát sinh 750 tỷ, không tính tiền đất. Thật kinh hoàng. >5 triệu người Việt cả hai miền chết trong chiến tranh.1 like
-
Bạn hỏi lại xem thử khắc mạng là như thế nào? nếu xem theo các sách ngoài thị trường theo Lục Thập Hoa Giáp thì mạng 1987 và 1990 không khắc! Mà làm gì khóc hết nước mắt thế? Cho dù đi khắp thế gian này tôi cũng đố bạn tìm được người hợp với mình. Tự dưng có 1 người xa lạ, vốn dĩ không quen biết, về ngủ chung thì gọi là vợ chồng. Xuất xứ vốn khác nhau mà yêu cầu hợp nhau, có phải là phy logic không? Haizz1 like
-
1 like
-
Liên minh Mỹ-Nhật đối mặt Trung Quốc Cập nhật lúc :6:52 AM, 19/07/2011 Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ và Nhật Bản Toshimi Kitadzava và Leon Panetta tuyên bố sẵn sàng tăng cường quan hệ quân sự đối mặt với những thách thức mới tại khu vực châu Á-Thái Bình Dương, trong đó có Triều Tiên và Trung Quốc. Tân Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Mỹ và người đồng nhiệm Nhật Bản của ông ta đưa ra lời tuyên bố nói trên chỉ vài ngày sau khi Chủ tịch Hội đồng Tham mưu trưởng liên quân Mỹ Michael Mullen hoàn thành chuyến thăm Trung Quốc. Vị đô đốc Mỹ rời Bắc Kinh với nụ cười nở rộng nhưng khi đến Seoul, ông thừa nhận rằng có sự khác biệt nghiêm trọng về quân sự giữa Mỹ và Trung Quốc. Khác biệt cơ bản là cái nhìn khó chịu của Washington trước sự nổi lên của Trung Quốc như là “con rồng biển” hay “diều gặp gió”. Trong khi đó, Nhật Bản vẫn quen coi Mỹ như một công cụ mạnh để kiềm chế Trung Quốc, chuyên viên Viktor Pavlyatenko từ Trung tâm nghiên cứu Nhật Bản của Viện Viễn Đông (Viện Hàn lâm khoa học Nga) nhận xét. “Từ phía Nhật-Mỹ có thể xem những phát ngôn này là dạng khởi động máy ép nén gây áp lực với Trung Quốc, nhằm để Bắc Kinh hiểu rằng cần cư xử đúng mức trong khu vực. Ở đây trước hết là chuyện tham vọng bành trướng của phía Trung Quốc đối với các đảo ở vùng biển phía Nam và Đông. Tiếp nữa là đáp lại hoạt động ngày càng tăng của hải quân và không quân Trung Quốc. Nhật Bản và Mỹ tuyên bố rằng nếu Trung Quốc không thay đổi lối hành xử, thì hai đồng minh này sẽ buộc phải đi tới hành động chung nào đó”. Trên hàng đầu, ở đây nói về những động thái có thể chọc giận mạnh với Bắc Kinh, như là tổ chức tập trận chung Nhật-Mỹ, chuyên viên Viktor Pavlyatenko bình luận. "Có thể tiến hành trò chơi, khi Washington và Tokyo sẽ bắt đầu giơ nắm đấm, ví dụ ngày mai chúng tôi sẽ tổ chức tập trận, trong khi ở Trung Quốc sẽ một lần nữa thể hiện thái độ không hài lòng. Nếu các cuộc tập trận được tổ chức, thì hiển nhiên đó là thực sự tăng áp lực với Trung Quốc. Còn nếu không tập trận, thì sẽ tạo ra ấn tượng rằng Nhật Bản và Mỹ thiện chí đi tới gặp gỡ đáp ứng mong muốn của bên đối tác Trung Quốc”. Đồng thời chuyên viên Nga Viktor Pavlyatenko cho rằng, dù thế nào thì Washington vẫn phải dùng quan hệ liên minh quân sự với Tokyo để củng cố vị thế đang chao đảo của mình trong khu vực trọng yếu này. “Mỹ phải tăng cường thắt chặt liên minh này như Ngoại trưởng Hillary Clinton nói cách đây chưa lâu: “Chúng tôi quay về châu Á-Thái Bình Dương để trụ lại đó”. Tại khu vực này vị thế và ảnh hưởng của Mỹ bị mất mát khá rõ. Và chính Trung Quốc chiếm lấy tất cả những thứ này. Người Mỹ đang cố gắng phát triển các liên hệ quân sự với ASEAN, thế nhưng Hiệp hội này cũng có quan hệ với Trung Quốc. Như vậy đồng minh trung thành nhất của Mỹ vẫn là Nhật Bản”. Nhật Bản cũng đang cố gắng tìm cách dàn xếp những bất đồng nảy sinh khi đảng Dân chủ lên cầm quyền. Cụ thể là những tuyên bố mong muốn có độc lập nhiều hơn với Mỹ, điều chuyển các căn cứ Mỹ khỏi Okinawa và rút một bộ phận quân đội Mỹ về Hawaii. Lập trường như vậy tạo ra rạn nứt đáng kể trong liên minh quân sự Nhật-Mỹ. Ngoài ra, dưới sự che chở của chiếc ô hạt nhân Mỹ, người Nhật vẫn muốn tham gia tích cực vào thành lập hệ thống an ninh trong khu vực. Dù là siêu cường kinh tế nhưng trên bình diện ý tưởng chính trị và quân sự thì Nhật Bản lại không tương xứng với qui chế đó. Vì thế, Tokyo trông đợi sẽ hồi sinh được trọng lượng địa chính trị xưa kia và đồng thời sẽ tạo lập thế lực độc lập để đối chọi với ảnh hưởng quân sự-chính trị ngày càng gia tăng của Bắc Kinh trong khu vực này. >> Các hội nghị ASEAN sẽ 'nóng' vì Biển Đông Theo RUVR ======================================== Như vậy là đủ bộ đồ cổ trong canh bạc: Hoa Kỳ, Nhật Bản, Trung Quốc và sắp tới có cả Nga nữa. Thêm hai tụ mới nữa là Úc và Ấn đô. Hồi còn trẻ tôi hay ca bài ca của Trịnh Công Sơn: Chúa đã bỏ loài người, Phật đã bỏ loài người, còn em.....em cũng xa rồi.... Thế thì buồn quá!1 like
-
@ Tri Người ta thường nói "tin thì có, không tin thì không có". Ông thầy nào nói vậy mà mình không tin thì sẽ không có. Trên thế giới này cả tỷ người Canh phá Giáp vậy cả tỷ đó chết sớm và gẫy đỗ sao? Còn nếu nói có người có có người không trong trường hợp này thì...ông thầy đó đã sai. Vậy cần gì phải lo lắng?! Sinh đứa Nhâm Thìn 2012 cũng được, con gái tốt hơn. Đứa sau phải là Đinh Dậu. Thiên Đồng1 like
-
Năm sau nên cưới tháng 10 âm lịch! Nếu muốn có con sớm thì sinh con năm Quý Tị, nhưng sẽ không tốt cho bố lắm, nếu không gấp nên sinh con năm Bính Thân 2016, con út sinh năm Đinh Dậu 2017! Sinh trai gái gì cũng được! Thân mến!1 like
-
THÔNG BÁO V/v Dời Ngày Khai Giảng Lần 02 Lớp Phong Thủy Lạc Việt Cơ Bản Khóa 07 Do số lượng học viên đăng ký không đủ cho việc tổ chức lớp học, vì vậy Trung tâm nghiên cứu Lý Học Đông Phương thông báo dời ngày khai giảng lớp Phong Thủy Lạc Việt cơ bản khóa 07, lần 2. - Khai giảng: dự kiến dời đến ngày 01/08/2011 (tức mồng 02/bảy/ Tân Mão) Chúng tôi vẫn ghi nhận danh sách các học viên đã đóng học phí lớp Phong thủy Lạc Việt cơ bản 07 và mong các anh chị em cảm cho việc tổ chức của trung tâm. Trân trọng.TM BQT1 like
-
quan lộ vất vã hay được nhiều người trên dìu dắt giúp đỡ nhưng vẫn không hanh thông , cần có dựa vào thế lực của cha mẹ hay người thân mới tiến thân được.nên cưới vợ muộn ,cưới sớm thì dễ chia tay ,vợ người hơi cao mặt tròn ,nước da trắng ,con thứ hay con dòng 2 ,vợ cách nhiều tuổi . tiền tài khó kiếm không giàu có được hay nghĩ cách kiếm tiền qua các dịch vụ đen ,về già mới khá .1 like
-
1 like
-
1 like
-
Phật trong mình là gì? Phật trong mình là gì? Là bình thản chấp nhận tất cả mọi sự mà không bực bội khó chịu. Cho nên hễ khi nào không còn giận hờn ai cả thì biết là ông Phật trong mình bắt đầu lớn rồi. Hễ còn tức giận ai đó là biết ông Phật của mình còn bị khó khăn, còn bị nhốt, chưa có cơ hội phát triển, như vậy còn kém đức, mà kém đức tức còn nhiều khó khăn trong cuộc sống. Chúng ta phải luôn ghi nhớ như vậy. Ai nói điều gì mà mình thấy khó chịu là biết ngay ông Phật mình đang bị khó khăn. Ai khen ngợi mình vẫn thấy bình thường, ai chê bai cũng không chạnh lòng, có nghĩa ông Phật của mình đã lớn lên và hào quang bắt đầu phát ra rồi. Hễ người nào mở rộng tâm thì hào quang phát ra. Do đó không phải vô cớ mà người ta làm hào quang phía sau Đức Phật. Vòng hào quang ấy ám chỉ điều gì? Đó chính là cái tâm mở rộng không giới hạn. Xác thân luôn có giới hạn còn cái tâm rộng lớn vô hạn. Vòng hào quang được vẽ lớn hơn đầu và thân hình nhưng cũng chỉ có ý nghĩa tượng trưng thôi chứ thật sự cái tâm lớn đến vô hạn. Nếu học Phật và làm đúng theo lời Phật dạy thì cái tâm rộng mở và chúng ta không sao hình dung được nó lớn đến chừng nào đâu. Duy Tuệ (Trích Mở Rộng Tâm)1 like
-
Ngày hôm thứ 6(15/7/2011) cho đến chiều nay (18/7/2011) thanhphuc cũng định đưa dự báo của mình lên, nhưng vì quá bận việc nên nhờ Thiên Anh, nhưng TA cũng bận nốt, hì hì. Giờ xin xác nhận quẻ đoán của Thiên Đồng, có thể sẽ xảy ra một loạt trận động đất, núi lửa, sụt lở đất, thậm chí có sóng thần theo dự đoán và vị trí bị nhiều nhất là Tây Bắc, Đông Nam và Bắc, Nam của Việt Nam, thời gian mạnh nhất sẽ vào khoảng từ 27 - 30/7/ 2011. Dân cư các vùng ven biển ở các hướng trên, kể cả Việt Nam đề phòng, cẩn thận, nhưng cẩn thận nhất vào đêm (29/7/2011!!!!). Vài lời dự báo, Không tự cho là đúng!!! Xin Sư phụ và các ACE xác định thêm.1 like
-
Năm 2013 sinh con được, mạng mẹ Mộc sinh mạng con Hỏa, Tị Dậu tam hợp, thiên can cha Nhâm hợp thiên can con Quí! Thân mến! Mệnh Giáng hạ thủy, nên sinh con các năm 2015, 2019! Thân mến1 like
-
Nếu là con trai thì có các hướng tốt sau: Tây - Tây Bắc - Đông Bắc - Đông Nam. Nếu là con gái thì có những hướng tốt sau: Bắc - Nam - Đông - Tây Nam. Thân mến1 like
-
Chắc là không có ,nhưng vì tự thấy mình học thì ít chơi thì nhiều ,khi thi nghĩ mình khó đậu nhưng sao lại đậu ,cho nên chắc đương số ngạc nhiên .1 like