-
Thông báo
-
Nội quy Lý Học Plaza
Nội quy này là bản mở rộng Nội Quy - Quy định của Diễn đàn. Khi tham gia mua bán, các thành viên phải tuân theo những quy định sau: Tiêu đề bài viết: Bao gồm: Chỉ dẫn địa lý, Loại hình Mua/Bán, Thông tin mua bán.
Chỉ dẫn địa lý: Tỉnh/thành nơi mua bán. Hoặc sử dụng định nghĩa có sẵn:TQ: Toàn quốc
HCM: TP Hồ Chí Minh
HN: Hà Nội
[*]Ví dụ: HCM - Bán Vòng tay Hổ Phách Nội dung bài viết: Mô tả chi tiết sản phẩm mua/bán
Bắt buộc phải có thông tin liên lạc, giá Mua/Bán
Bài mới đăng chỉ được phép up sau 03 ngày.
Thời gian up bài cho phép: 01 ngày 01 lần.
Các hành vi vi phạm nội quy này sẽ bị xóa bài hoặc khóa tài khoản mà không cần báo trước.
-
Leaderboard
Popular Content
Showing most liked content on 17/07/2011 in Bài viết
-
Thông Tin Cập Nhật
Văn Lang and one other liked a post in a topic by Vo Truoc
Bi kịch ở chỗ, nhiều khi sai lầm vẫn cứ diễn ra. Trong thời kỳ hưng vượng, người ta thường đi quá mức. Đó là mầm mống của sự suy sụp, trong Phúc có họa. Trong Họa có phúc. Tuy TQ không phải chủ nhân học thuyết ADNH nhưng họ cũng có chút liên quan. Hy vọng họ thừa hưởng chút ít cái minh triết trong đó để hành động đúng mực hơn, tránh được tai họa cho họ và cho cả ta.2 likes -
Bài 15 : Sự xấu, tốt của đại vận và lưu niên Chương 12 Cát hung của đại vận và lưu niên 1 – Cát hung của đại vận và lưu niên khi chưa tính đến các lực hình, xung, khắc, hại, hợp giữa các can chi với nhau a - Ðại vận hay lưu niên đẹp nhất là can của chúng giống với dụng thần chính, sau mới đến dụng thần phụ (vì khác dấu), cuối cùng mới đến các can có hành là các hỷ thần. Chi đại vận và chi lưu niên chỉ có tác dụng làm cho cho các đại vận hay lưu niên đó tốt thêm một chút nếu chúng mang hành của hỷ dụng thần hay giảm tốt một chút nếu chúng mang hành của kỵ thần. b - Các đại vận hay lưu niên có can mang hành của kỵ thần là xấu, trong đó can đại vận vượng mà khắc được dụng thần chính là hung vận, tức là vận xấu nhất. Các chi của chúng cũng chỉ có tác dụng làm thay đổi một phần sự tốt xấu của tuế vận. c - Can đại vận là hỷ dụng thần thì 10 năm đó thường là đẹp còn là kỵ thần thì 10 năm đó thường là xấu. Can lưu niên là hỷ dụng thần thì chỉ đẹp tại năm đó còn là kỵ thần thì cũng chỉ xấu tại năm đó. 2 – Cát hung của đại vận và lưu niên khi đã tính đến các lực hình, xung, khắc, hại, hợp giữa các can chi với nhau a - Khi can hay chi của lưu niên, đại vận hợp với các can chi khác hóa cục có hành là hỷ hay dụng thần là tốt còn hóa thành kỵ thần là xấu. b - Nếu các can của tuế vận bị hợp nhưng không hóa thì tuế vận này thường bị giảm tốt rất nhiều nếu chúng là hỷ dụng thần (nhất là chúng bị khắc) và giảm xấu nếu chúng là kỵ thần (nhất là chúng bị khắc), còn các chi của tuế vận hợp mà không hóa thì thường là tốt bởi vì nó thường giảm được nhiều các lực hình, xung, khắc và hại giữa các chi với nhau. c - Nói chung nếu các can chi, nạp âm trong tứ trụ và ở tuế vận, tiểu vận mà hình, xung, khắc, hại với nhau nhiều hay chúng hóa thành các cục là kỵ thần cũng như chúng hóa thành 2 hay nhiều hóa cục khắc nhau, thì năm đó bất kể đang là đại vận hay lưu niên là hỷ dụng thần cũng thường trở thành xấu, nặng có thể dẫn đến tử vong. (Nếu theo một số sách mệnh học cổ truyền thì trong 10 năm của đại vận, 70% xấu hay tốt của 5 năm đầu của đại vận chủ yếu do thiên can của đại vận đó quyết định, địa chi chỉ quyết định 30%, còn 70% xấu hay tốt của 5 năm sau chủ yếu do địa chi của đại vận đó quyết định, còn thiên can chỉ quyết định 30%.) Ví dụ minh họa sau đây (trích trong cuốn “Giải Mã Tứ Trụ“) có thể giải đáp được một phần thắc mắc cho nhiều người là môn Tứ Trụ có giúp được gì cho chúng ta trong cuộc sống ? Ví dụ 140: Tổng thống Ðức Horst Koehler sinh ngày 22/2/1943 lúc 20,00’ (?) có Tứ Trụ: Tứ trụ này có Thân khá nhược mà Tài tinh là kỵ thần số 1, vì vậy dụng thần đầu tiên phải là Tỷ kiếp/ Tân tàng trong Tuất ở trụ giờ. Các đại vận hỷ dụng thần của Tứ Trụ này là Tân Hợi, Canh Tuất, Kỷ Dậu và Mậu Thân (được xác định theo hàng can như trong lý thuyết tôi đã phân tính – 10 năm trong một đại vận chúng liên quan tới 10 thiên can), còn các đại vận kỵ thần là Quý Sửu, Nhâm Quý, Ðinh Mùi…trong chúng đại vận Ðinh Mùi thường là xấu nhất bởi vì nó khắc dụng thần chính là Tân của Tứ Trụ này nhưng ở đây không xấu bởi vì nó đã bị Quý trụ năm là Thực chế ngự. Vận Sát (Ðinh) có Thực thần (Quý) chế ngự thường là vận “Anh hùng áp đảo vạn người“. Trong Tứ Trụ có các thông tin đẹp như Mậu trụ giờ là Ấn vượng, nó đại diện cho con dấu tức là chức vụ và quyền lực của quan lại trong xã hội, nó cũng đại diện cho học vấn, nghề nghiệp, bằng cấp…; và “Thực Thương sinh Tài thì phú quý sẽ tự nhiên đến“, đó chính là Quý trụ năm là Thực vượng sinh Giáp ở trụ tháng là Tài cũng vượng. Mặc dù chúng là các thông tin rất đẹp nhưng làm thế nào để cho chúng có thể trở thành hiện thực ? Thân (Kim) nhược nó rất cần nhận được sự sinh của Ấn (Thổ), vì vậy người này nên làm các nghành nghề hay công việc liên quan tới Ấn, nó chính là làm công nhân viên chức nhà nước (tức làm công ăn lương). Bởi vì nếu dựa vào thông tin Thực Thương sinh Tài mà đi vào kinh doanh làm ăn cá thể (tức làm ông chủ) thì ở Tứ Trụ này, Thân khá nhược còn bị Thực Thương xì hơi để sinh cho Tài, vì vậy nó sẽ dẫn đến Thân càng nhược mà Tài càng vượng, Thân không thắng được tài thì vì tài mà gặp tai họa. Khi đó làm sao có “...phú quý tự nhiên đến“ được nữa mà là “...tai họa tự nhiên sẽ đến”. Không biết có ai cố vấn cho ông ta không mà các vận Tân Hợi tới Mậu Thân (từ tháng 2/1969 tới tháng 2/2009) ông ta đã làm công nhân viên chức của chính phủ đúng theo mệnh nên Thân vượng (đều là các vận là hỷ dụng và nghành nghề - công chức - bên ngoài bổ xung thêm) đã liên tiếp được thăng quan tiến chức ầm ầm cả trong nước Ðức và Europa, rồi cuối cùng được làm tổng thống nước Ðức. Rõ ràng ở đây “Phú quý tự nhiên đã tới“ với ông ta, dĩ nhiên Quý (chức vụ) nhiều hơn Phú (tiền, của cải) bởi vì Thân khá nhược nên vào các vận hỷ dụng cũng không thể phát Tài to được. Chúng ta thử xem vận Ðinh Mùi có phải là vận “Thực thần chế Sát anh hùng áp đảo vạn người“ hay không? Năm Kỷ sửu (2009) bắt đầu đại vận Ðinh Mùi là kỵ vận (nhưng nó không phải là hung vận - tức vận khắc dụng thần - vì có Quý trụ năm chế ngự) nhưng may mắn có Giáp trong Tứ Trụ hợp Kỷ đại vận hóa Thổ thành công mà Thổ là hỷ thần, thêm Quý trụ năm vượng ở lưu niên chế ngự được Ðinh đại vận. Do vậy năm Kỷ Sửu mặc dù có tam hình Sửu Mùi Tuất vẫn được xem là một năm đẹp (nhưng chưa thấy gì là áp đảo vạn người cả), Năm Canh Dần (2010) có Dần lưu niên hợp thêm với Hợi trong Tứ Trụ hóa Mộc. Vì vậy Mộc cục có thể xì hơi Quý (Thủy) để sinh cho Ðinh (Hỏa). Sát (Ðinh) không bị chế ngự lại được sinh càng vượng khắc Thân (Kim) là Canh và Tân. Thổ trong Tứ Trụ ở trạng thái tĩnh (Mậu, Mùi và Tuất) nên không có khả năng hóa Ðinh (Hỏa) để sinh cho Thân (Kim), vì vậy Thân (Kim) đã bị tổn thương. Thực tế ông ta đã bị chỉ trích quá nặng đành phải từ chức về hưu vào ngày 31/5/2010. Chúng ta thử xem nguyên nhân nào dẫn đến ông ta bị chỉ trích nặng nề như vậy? Nguyên nhân chính gây ra chính là Mộc cục mà Mộc trong Tứ Trụ này là Tài tức tiền hay gái. Dĩ nhiên gái thì không phải rồi nên chỉ còn nguyên nhân là tiền nhưng không thấy ôn ta dính dáng đến tiền long gì cả. Vậy thì nó là cái gì liên quan đến tiền ở đây ? Ðó chính là khi đến thăm Afghanistan ông ta đã phát biểu đại loại (không liên quan tới trách nhiệm của ông ta) là nước Ðức can thiệp vào Afhanistan là để tuyên truyền, quảng cáo...nhằm nâng cao uy tín của nước Ðức trên thị trường thế giới để duy trì và ký kết thêm được nhiều hợp đồng làm ăn kinh tế với các nước trên thế giới.... Ðúng là sự chỉ trích ông ta có liên quan đến tiền (Tài - Mộc) thật.1 like
-
mệnh cháu thuộc dạng ;mệnh triệt thân tuần ,cần 1 trong 2 cung mệnh hay cung thân vcd thì mới tốt ,nhưng nếu vcd không nên có thiên không ở đây.nhiều người luận về cung vcd sai lầm ,cái cung khong nói lên được cuộc đời con người mà là những sao tọa thủ hay cách trong cung đó . cũng có nhiều người hiểu sai về tam không ;tam không là thiên-địa và tuần . Số nầy không nên đeo đuổi chốn quan trường ,nên kinh doanh buôn bán ,sau sẽ giàu có nhưng cái giàu đến hơi muộn Sau nầy trong hay dưới tay có nhiều gia nhân hya kẻ dưới tay ...1 like
-
Tháng 6 nhận thông báo gì đó, tháng 7 thấy có tin phương xa. PS: Khi ghi tên người khác thì nhớ viết Hoa nhé.1 like
-
Khi nào bạn xin được việc thì hãy lên diễn đàn báo dùm 1 tiếng nhé, tôi nghĩ cuối tháng sau bạn được ai đó giúp đỡ tìm cho công việc rồi, người này có thể là người nữ, việc ko đc thuận lắm 2 tháng liên tiếp sau đó xảy ra xích mích với đồng nghiệp hay lại nghỉ việc tiếp, nếu không bản thân có bệnh nạn. tháng sau dù có xin đc hay ko cũng lên báo cho 1 tiếng với nhé, cảm ơn!1 like
-
Bạn sang đọc bài của anh Lãn Miên về vấn đề này ở đây. Hy vọng bạn sẽ thỏa mãn.1 like
-
Ngôn từ Việt phản ánh sự hình thành Vũ Trụ Nhắc lại: 1/Định nghĩa Từ: Từ là một Lời, tức có mang một nghĩa hoàn chỉnh. Ở ngôn ngữ Việt Nam, Từ cơ bản chỉ là một tiếng (đơn âm tiết) có cấu tạo gồm cái Tơi hoặc cái Vắng Tơi ở đầu và cái Rỡi ở đuôi. Rỡi có cấu tạo là một nguyên âm hoặc một vần. 2/ Qui tắc tạo ngôn từ Việt của Lãn Miên, gọi tắt là QT: 1.Qui tắc Vo ( qui tắc 1): Đưa từ đa âm tiết (của ngôn ngữ chắp dính) vào trong cái Vò của Việt , gọi là Vò Việt, là một cái “Nôi khái niệm”, để vo tròn như vo gạo trong cái rá, từ đa âm tiết sẽ bị rụng những phụ tố đầu đuôi để chỉ còn mỗi cái “Lõi” thành một “ Lời” là một Từ đơn âm tiết. 2.Qui tắc Nở ( qui tắc 2) : Một từ đơn âm tiết là một cái “Tế” ở trong “Nôi khái niệm” là cái bầu, cái “Tế” ấy sẽ tự sinh sản theo kiểu tách đôi như cách sinh sản của tế bào thành “Tiếng” là một “Từ” hai âm tiết dính nhau không thể đảo ngược thứ tự khi phát âm, gọi là “từ dính” , mang khái niệm lấp-lửng. Rồi “từ dính” đó mới tách rời hẳn thành hai từ đơn âm tiết nữa, một từ mang tính Âm và từ kia mang tính Dương. 3.Qui tắc Nút, hoặc gọi là qui tắc Đổi Tơi ( qui tắc 3) : Là “Phối tố đầu”, theo kiểu “Biến phụ âm đầu mà bất biến âm vận đuôi”. 4.Qui tắc Rút, hoặc gọi là qui tắc Đổi Rỡi( qui tắc 4): Là “phối tố đuôi”, theo kiểu “ Biến âm vận đuôi mà bất biến “cái Có phụ âm đầu” hoặc “cái Vắng phụ âm đầu”. 5.Qui tắc Lướt ( qui tắc 5): Là lướt một cụm từ gồm hai hay nhiều từ hoặc thậm chí cả một câu dài thành một từ đơn âm tiết đồng nghĩa. 6.Qui tắc Tháp ( qui tắc 6): Là ghép hai từ đồng nghĩa dị âm lại với nhau thành một từ đồng nghĩa có hai âm tiết.Từ ghép kiểu này gọi là “từ đôi”. 7.Qui tắc Lặp (qui tắc 7): Là lặp lại một từ thành từ có hai âm tiết ( đương nhiên đồng âm, cùng ý nghĩa), dùng để nhấn mạnh hay so sánh. Trích: Phạm Công Thiện (1/6/1941 - 8/3/2011), là một nhà văn, triết gia, học giả, thi sĩ và cư sĩ Phật Giáo người Việt Nam với pháp danhThích Nguyên Tánh. Tuy nhận mình là nhà thơ và phủ nhận nghề triết gia, ông vẫn được coi là một triết gia thần đồng, một hiện tượng dị thường của Sài Gòn thập niên 60 [3] và của Việt Nam với những tư tưởng ít người hiểu và được bộc phát từ hồi còn rất trẻ. Ông đã để lại một lời chí tâm như sau: "Không cần phải đọc Platon, Aristote, Kant, Hegel hay Karl Marx, không cần phải đọc Khổng Tử và Lão Tử, không cần phải đọc Upanishads và Bhagavad Gita, chúng ta chỉ cần đọc lại ngôn ngữ Việt Nam và nói lại tiếng Việt Nam và bỗng nhiên nhìn thấy rằng tất cả đạo lý triết lý cao siêu nhất của nhân loại đã nằm sẵn trong vài ba tiếng Việt đơn sơ như CON và CÁI, như CHAY, CHÁY, CHÀY, CHẢY, CHẠY và còn biết bao nhiêu điều đáng suy nghĩ khác mà chúng ta đã bỏ quên một cách ngu xuẩn.” (Cảm ơn Thiên Đồng đã cung cấp đoạn viết trên, để tôi tiếp tục phân tích dưới đây) “Tất cả đạo lý triết lý cao siêu nhất của nhân loại đã nằm sẵn trong vài ba tiếng Việt đơn sơ như CON và CÁI, như CHAY, CHÁY, CHÀY, CHẢY, CHẠY và còn biết bao nhiêu điều đáng suy nghĩ khác mà chúng ta đã bỏ quên một cách ngu xuẩn.” Từ đối Con/Cái (từ đôi tương ứng: “Con Cặc”/ “Cái Lồn”) chính là từ đối Âm/Dương (từ đôi tương ứng: “Ít Ỏi”/ “Dồi Dào”, khoa học đã chứng minh Âm/Dương là một tám một mười, tỷ lệ dân số hiện nay ở Trung Quốc đang là Dương thịnh Âm suy).Từ đối Con/Cái dù là đối nhưng Con và Cái đều là do một Nòi ở trong một Nôi mà ra, vì chúng cùng Tơi là “C”, cái Tế (bào) chung của chúng là “Kẻ” đã theo QT Nở mà tách đôi theo cách tự sinh sản của tế bào, lúc mới bắt đầu thì cái trứng “Kẻ” ấy mới chỉ là sinh ra từ dính “Cựa-Quậy” tức cái trứng đang tự tách để cùng lớn dần lên, lớn đến mức độ “thái” thì nó thành từ dính “Quá-Quắt”, rồi trứng ấy nói được thì thành từ dính “Quang-Quác” để Nở ra khỏi Nôi mà thành hoàn chỉnh hai cá thể ở ngoài là Con và Cái, rõ ràng là một tiếng Dương và một tiếng Âm, chúng là một đôi nguyên thủy cùng Nôi, nên tạo thành từ đối nguyên thủy là từ đối Con/Cái. Về thời gian mà cái trứng “Kẻ” dùng để duy dưỡng , dần dần tách ra được hai trứng Con và Cái, là một quá trình, được biểu thị bằng từ đôi Chọn Chài ( Chọn cùng Rỡi “on” với Con, Chài cùng Rỡi “ai” với Cái, câu “ Chài người để Chọn làm chồng” đã giải thích được ý nghĩa của từ đôi Chọn Chài, là quá trình mà “Kẻ” đang nuôi dưỡng, cân nhắc phân phối nhiễm sắc thể DNA cho hai đứa, đứa nào sẽ sinh ra thành Con, đứa nào sẽ sinh ra thành Cái). Từ đôi Chọn Chài theo QT5 thì Chọn Chài=(lướt)=Chãy. Chãy là từ thứ sáu, với dấu thanh điệu thứ sáu của ngôn ngữ Việt Nam, mà Phạm Công Thiện không đưa ra trong câu viết đã trích trên. Theo QT3,4 thì Chãy=Chửa=Chở=Chứa=Đưa=Đẩy, có từ đôi Chứa Chở, Đưa Đẩy. Toàn bộ thể hiện quá trình duy dưỡng và cân nhắc phân phối nhiễm sắc thể cho hai đứa sắp ra đời của “Kẻ”. Năm từ kia với năm dấu thanh điệu khác nữa đều là năm động từ thể hiện tương tác giữa Âm và Dương, tức giữa Con và Cái khi chúng đang còn ở trong Nôi chưa tách rời hẳn nhau, đó là các động từ chỉ sự tương tác: Chạy (di chuyển - Kim), Cháy (thiêu đốt - Hỏa), Chảy (biến hóa - Thủy), Chày (giữ lại - Thổ), Chay (loại trừ - Mộc). Ngoài năm từ với năm dấu thanh điệu mà ứng với Ngũ Hành ở cái ý nghĩa của từ, thì từ thứ sáu có dấu thanh điệu thứ sáu thể hiện quá trình tương tác, tính chất của quá trình ấy là Sáu=Sâu=Lâu (Nên thuốc Nam làm bằng các vị thảo dược nó tác dụng lâu mới khỏi bệnh, không nhanh như thuốc Tây làm bằng hóa chất).Từ đối Con/Cái tương đương với Nam/Nữ = Nường/Nõn = Lang/Lồn (Câu “đi lang” ý chê trách là đi theo trai, “lang thang”, “lang bạt kỳ hồ” thường chỉ hành vi của con trai). Nữ là Âm nhưng tính của Âm là Động tức Nông-Nổi, nên mới có câu chê ngược cho vui là “Đàn ông nông nổi giếng thơi, Đàn bà sâu sắc như cơi đựng trầu” ( từ đối Thác/Thơi, Thác là nước chảy trên cao xuống, Thơi là nước mạch dưới sâu đùn lên). Như trên đủ thấy ngôn từ của tiếng Việt được tạo ra từ nguyên lý của thuyết Âm Dương Ngũ Hành, chứng tỏ thuyết Âm Dương Ngũ Hành là sản phẩm của người Việt, vì tư duy tạo ra ngôn ngữ, ngôn ngữ lại là công cụ để tư duy. Nhưng không chỉ có thế. Trong ngôn ngữ Việt Nam lại cũng đã chỉ rõ sự sinh ra vũ trụ từ trong cách tạo từ của nó: Vũ trụ nguyên sơ là một cái Ổ hư vô, nhưng trong nó đã có mầm mống của tố chất Âm và Dương, chỉ có điều là chưa có cái nào được sinh ra mà thôi.Từ Ổ ấy là cùng Nòi với từ AND của tiếng Anh, vì “Ổ” và “AND” đều là cùng là “Vắng Tơi”. ( Tiếng Anh AND nghĩa là “và” tức ám chỉ nó phải có ít nhất là hai yếu tố nằm ẩn trong đó, mà tiếng Việt thì Và=Vài=Hai).Thượng Đế thấy cái Ổ hư vô đó là không được, Thượng Đế không hài lòng, muốn phủ định nó đi, nên Ngài mới lệnh Nỏ Ổ ! ( “Nỏ” tiếng Việt là Không, như “No” tiếng Anh cũng là Không, suốt giải miền Trung “trọ trẹ” đều vẫn đang dùng từ “Nỏ” nghĩa là Không, nhưng Từ điển Tiếng Việt thì không đưa từ này vào !). Thế là No AND đã thành một từ phủ định, và theo QT5 nó lướt “No AND”=(lướt)= “NAND”. Nhưng ở tiếng Việt thì Nỏ Ổ đã lướt “Nỏ Ổ”=(lướt)=Nổ. Vụ Nổ này là nổ tan sạch sành sanh, nên gọi là Nổ Trắng, theo QT5 để lướt thì “Nổ Trắng”=(lướt)=Năng. Vụ nổ đó tạo ra một cái Năng, là cái hàm chứa trong nó sức lực vô tận. Cái trứng Năng này như một Tế bào, trong Nôi âm dương của Việt nó được duy dưỡng và từ từ tách đôi, thoạt đầu nó thành từ dính Nở-Nang (như 0 + 1, tức ký tự kẻ: một Vạch Đứt và một Vạch Liền, Âm Dương cân bằng), rồi tiếp diễn quá trình, nó đến thành Nảy-Nòi (như 1 + 0, tức ký tự kẻ: một Vạch Liền và một Vạch Đứt, Dương Âm cân bằng). Cuối cùng thì cái trứng NĂNG ấy tạo ra được hai đứa “con” là NẮNG và “cái” là NƯỚC, ghép lại có từ đối NẮNG/NƯỚC tương đương Dương/Âm. (Như Thượng Đế tạo ra ADAM rồi bẻ một mẩu xương sườn của Adam để nặn ra EVA. Dương sinh ra trước Âm sinh ra sau, vì Nắng mang nhiều gen của Năng hơn là Nước. Rõ ràng thiên nhiên thì Nắng vẫn nhiều hơn Nước).” “Cái” là Nước nên câu thành ngữ “Khôn ăn cái dại ăn nước” có nghĩa là đều ăn nước cả là khôn. Tây nó khôn hơn Ta nên nó toàn ăn súp với một tẹo bánh mì mà nó khỏe hơn, nên dưỡng sinh dạy là phải nhai một trăm lần cho thành Nước rồi mới Nuốt là tốt nhất. Cổ sơ tiếng Việt cũng chỉ có một từ Yên=Nghiền=Ngốn, dùng chung cho cả khái niệm uống và ăn, như tiếng Thái Lan vẫn chỉ một từ Yên=Kin, uống cũng gọi là Kin, ăn cũng gọi là Kin. Bởi cái QT Nở mà Yên đã chia tách ra thành Uống và Ăn (đều cùng Nòi là “Vắng Tơi”). Thành ra nói hơi rắc rối, “nghệ thuật Uống-Ăn”=”nghệ thuật Ẩm- Thực”, tiếng Thái Lan chỉ cần nói “nghệ thuật Kin” là xong. Cho nên có lẽ Thái Lan sẽ tiến đến “khoa học hợp nhất” nhanh hơn Việt Nam, vì Việt Nam đang còn lưỡng lự giữa hai, như Uống-Ăn, còn lâu mới tiến đến “khoa học hợp nhất” như Yên, vốn có dùng thủa cổ xưa. Những nhà "từ Hán-Việt” cứ cho rằng ngôn từ Việt gần gũi nhất với ngôn từ Hán, lại không thấy thực tế là nó gần gũi với ngôn từ tiếng Thái Lan và tiếng Khơ Me hơn nhiều . NĂNG là nhất nguyên đã sinh ra NẮNG và NƯỚC là nhị nguyên. NẮNG ghi bằng hai kẻ Vạch Liền và Vạch Liền, như 1+1, thái Dương thì thành Âm, Nắng sẽ biến thành Nước gây mưa , sóng thần, lụt lội. NƯỚC ghi bằng hai kẻ Vạch Đứt và Vạch Đứt, như 0+0, thái Âm thì thành Dương, nước có thể biến thành lửa, như QT: Nước=Nấu=Lẩu(tiếng Thái Lan)=Dậu=Diệu=Riệu=Rượu=Rang=Rộp=Rổn=Cồn=Êtanol. Hệ đếm nhị phân trong ngôn ngữ Việt Nam ở con số Mô/Một đã có từ thủa khai thiên lập địa, nên cách tạo ngôn từ Việt nó mới nhuyễn Âm Dương Ngũ Hành và cả hệ số nhị phân như vậy. Thượng Đế cho tiếng Việt, ở lệnh phủ định Nỏ Ổ=(lướt)=NỔ trước , để tạo ra Vũ Trụ. Rồi Thượng Đế mới cho tiếng Anh, ở lệnh No AND=(lướt)=NAND, để xử lý ra hệ nhị phân, như ngôn ngữ Việt Nam vốn đã tự có từ trong tạo từ của nó từ khi có Vũ Trụ. Thượng Đế cho tiếng Anh cái lệnh phủ định là No AND= (lướt)=NAND, đã thành cái cổng (gate) NAND là mạch điện tử cơ bản sơ đẳng nhất trong kỹ thuật xử lý số. Mạch này có hai đầu vào, một đầu ra, xử lý phủ định (như lệnh của Thượng Đế đã ban), tạo ra ở đầu ra được bốn tổ hợp là 0 0 , 0 1 , 1 0 , 1 1. Mà hệ nhị phân của công nghệ thông tin, như các nhà khoa học nói, “là tạo ra mọi văn minh cho nhân loại trong tương lai”. Cặp từ đối Âm/Dương, người Việt phát âm thì đúng như động tác cặp môi Mím/Mở (hay Ngậm/Toang), còn người Hán phát âm Âm/Dương là Yin/Yang, hai âm này cặp môi phát âm đều mở hết cỡ, vậy Yin/Yang chỉ là phiêm âm bắt chước mà thôi, không thể hiện được Đóng/ Mở như công tắc điện là môi trên môi dưới phải tiếp xúc chặt khi phát âm “Đóng” và nhả ra không tiếp xúc nữa khi phát âm “Mở”. Công tắc điện Mở/Đóng người Hán gọi là Khai/Quan, hai âm này khi cặp môi phát âm đều mở toang hết cỡ, làm sao phân biệt được là Đóng hay Mở, Ngậm miệng hay Há miệng. Động tác Đóng/Mở của công tắc điện được điều khiển trong kỹ thuật số bằng con số 0/1 của hệ số đếm nhị phân: 0=Âm= “Không có điện”=Chẳng được gì, 1=Dương= “Có điện”=Được nhiều. Cặp số Không/Một cũng đúng động tác Ngậm môi và Mở môi của cái miệng Việt. Nguyên thủy thì nó là Mô/Một. Người ta quan niệm Âm là khái niệm khép kín (hướng nội), Dương là khái niệm mở mang (hướng ngoại) thì Mô và Một của tiếng Việt cũng phản ảnh đúng như vậy: Mô=Mất=Mông=Không=Hổng=Hết=Chết, tức chẳng được kiến thức gì, vì “bế quan tỏa cảng”. Một=Hốt=Nhốt=Nhặt=Nhận=Nhiều, tức tiếp thụ được nhiều kiến thức, vì “cải cách mở cửa” (Không “hốt” bạc thì cũng “hốt” được nhiều kiến thức, từ “hot” lại là “nóng” của tiếng Anh). Nguyên thủy từ đối phải là cùng gốc như Âm Dương vốn cùng một gốc mà ra, nên hai tiếng trong từ đối phải có cùng mẫu số chung là “cùng Tơi” hoặc “cùng vắng Tơi”, hoặc cùng Rỡi. Ví dụ nguyên thủy của cặp từ đối Mưa/Nắng phải là Nước/Nắng.(Vậy mà Nước và Nắng đều là năng lượng vô tận). Cặp từ đối Nước/Nắng phản ánh đúng nơi sinh ra thuyết Âm Dương Ngũ Hành là bán đảo Đông Dương có bên núi bên biển, chỉ rõ Âm tính động, Dương tính tĩnh, chỉ rõ phương hướng của Hà Đồ. Những điều này thể hiện rõ ngay trong qui tắc tạo ngôn từ Việt: NƯỚC=Nổi=Sôi=Dội=Dậy=Đẩy=Đảo=Động=ĐÔNG=Đấm=ÂM=Sấm=Sóng=Chỏng= =Chống=CHẤN. Trong các từ cùng Nòi này có các từ đôi như: Nước Nổi=Nước Nôi, Sôi Động, Dậy Sóng, Chấn Động, Đẩy Chống (thuyền). Tất cả chúng đều biểu thị tính động của Âm. ( Nếu theo QT mà dẫn ra sẽ có hàng trăm động từ diễn tả tác động của nước (tức hiệu quả của năng lượng từ Nước, công nghệ kỹ thuật cao đang nghiên cứu các động từ ấy để có hiệu ích từ năng lượng của nước, thủy điện mới chỉ là ứng dụng sơ đẳng nhất có mỗi một động từ “chảy” của Nước. Chính vì phong phú động từ do Nước , để mà lấy được năng lượng, như vậy nên mới có câu thành ngữ “Rừng vàng Biển bạc”) NẮNG= Lắng=Lặng=Ắng=Im=Ương=Bướng=DƯƠNG=Tượng=Tịnh=Tĩnh=TÂY=TỐN. Trong các từ cùng Nòi này có các từ đôi như: Tĩnh Lặng, Im Ắng, Lắng Lặng, Lẳng Lặng, Ương Bướng. Tất cả chúng đều biểu thị tính tịnh của Dương. Người ta cũng quan niệm rằng cặp từ đối Âm/Dương cũng tương tự cặp từ đối Nữ/Nam hay tương tự cặp từ đối Ít/Nhiều ( đúng như câu “Nam thực như hổ, Nữ thực như miêu, hay đúng như ở châu Á số đàn bà đang ít hơn số đàn ông). Điều này cũng thể hiện rõ trong qui tắc tạo ngôn từ Việt: Âm=Ít=Ỏi, có từ đôi Ít Ỏi. Âm tương đương con số 0=Ít Dương=Dồi=Dào=Diều=Nhiều, có từ đôi Dồi Dào. Dương tương đương số 1 = Nhiều. Trong số học nhị phân nó xử lý như sau: 0+0=1 (tức Thái Âm thì thành Dương) 0+1=1 (tức cân bằng Âm Dương thì thành nhiều) 1+0=1 (tức cân bằng Âm Dương thì thành nhiều) 1+1=0 (tức Thái Dương thì thành Âm) (Đấy là xử lý của mạch NAND trong kỹ thuật số, là một cổng điện tử có hai đầu vào một đầu ra, nó cũng đúng như qui tắc tạo từ của tiếng Việt. Ví dụ từ đôi Gà Qué, cùng Nòi khác Sắc, tức Gà=1 Qué=0, 1+0=1 như Gà+Qué =Gà Qué=Nhiều gà). Âm là Nhu, Dương là Cương.Từ trong qui tắc tạo ngôn từ Việt cũng đã thấy được 1+1=0 (0 tức chẳng được gì, cũng như mất cả chì lẫn chài). Bản thân Biển Đông là Âm, “khái niệm” Âm thì là 0, nhưng “tính” của Âm thì là Động, tức=1. Bây giờ bọn cường bạo lại đến quấy Động nữa tức đưa thêm 1 vào để thành Động+Động như 1+1, ắt phải là 1+1=0, vậy thì bọn cường bạo sẽ chẳng được gì, mà sẽ được cái 0=Mô=Mất=Mông=Không=Hổng=Hết=Chết. Kẻ nào đối xử với Biển Đông mà đưa dấu nặng vào thì sẽ chết, làm cho Đông nặng thành Động, Động=Đóng=Đọng, mà “biển đọng” lái là “bỏng điện”, thì kẻ đó sẽ bị quả báo, cái mà “người chưa trừng phạt, trời đà phạt cho”, tức người chưa đánh thì Sấm đã đánh cho chết cháy đen rồi. Điều này câu Sấm của Nguyễn Bỉnh Khiêm từ 500 năm trước đã nói ứng với năm 2011, là câu: Phân phân tùng bách khởi : Năm 100 của Tùng tức TQ (1911-2011), nó trỗi rần rần. Nhiễu nhiễu xuất đông chinh : Nó quấy nhiễu Biển Đông. Bảo Giang thiên tử xuất :Bảo Giang là Bảng Giao ( Bản Làng Giao Chỉ )có thiên tử. Bất chiến tự nhiên thành : Không cần đánh mà vẫn giữ được Biển Đông. Chú thích: từ đôi Bản Làng đã lướt “Bản Làng”=(lướt)= “Bang”, nhiều bản làng hợp lại thành Bang.1 like
-
Huynh có thể giải thích vì sao không ? Đây là chiến tranh cơ mà ? Vì Trung Quốc không phải là chủ nhân thuyết ADNH nên chăng Trung Quốc không dám đánh Việt Nam ?Và nếu có đánh sẽ là một sai lầm lớn khi đụng đến chủ nhân thuyết ADNH đích thực ?1 like
-
chào huynh thiên đồngtheo tuấn dương cái từ con -cái có liên quan đến chút gì đó trong âm dương ,cũng có thể do đệ đang theo đuổi môn này nên nhạy cảm quá chăng con -dùng để chỉ những thứ chuyển động cái -dùng để chỉ những thứ ko thể chuyển động => con thuộc âm thể khí phát ra là dương khí => cái thuộc dương thể khí phát ra là âm khí dương trước âm sau ,tĩnh rồi mới động ko phải là những gì chúng ta được học sao ? đôi dòng suy nghĩ .... kính huynh1 like
-
Bổ xung: Còn thiếu là lực hợp của Sửu trụ ngày với Dậu trụ tháng là 4,8đv lớn hơn lực xung của Mão trụ giờ (vì Mão xung cách ngôi nên phải tính bình thường như các chi khác) với Dậu trụ tháng chỉ có (3,1 + 5,1 + 2.8).1/4.1/3.2/3 đv = 1,34đv (nó phải khắc Sửu gần nên bị giảm thêm 2/3 và 1/3 vì khắc cách 1 ngôi). Xem lại bài viết đó thì thấy tôi đã sửa lại là Dậu trụ tháng không hợp được với Sửu đại vận rồi còn gì nữa.1 like