• Thông báo

    • Bá Kiến®

      Nội quy Lý Học Plaza

      Nội quy này là bản mở rộng Nội Quy - Quy định của Diễn đàn. Khi tham gia mua bán, các thành viên phải tuân theo những quy định sau: Tiêu đề bài viết: Bao gồm: Chỉ dẫn địa lý, Loại hình Mua/Bán, Thông tin mua bán.
      Chỉ dẫn địa lý: Tỉnh/thành nơi mua bán. Hoặc sử dụng định nghĩa có sẵn:TQ: Toàn quốc
      HCM: TP Hồ Chí Minh
      HN: Hà Nội
      [*]Ví dụ: HCM - Bán Vòng tay Hổ Phách ​Nội dung bài viết: Mô tả chi tiết sản phẩm mua/bán
      Bắt buộc phải có thông tin liên lạc, giá Mua/Bán
      Bài mới đăng chỉ được phép up sau 03 ngày.
      Thời gian up bài cho phép: 01 ngày 01 lần.
      Các hành vi vi phạm nội quy này sẽ bị xóa bài hoặc khóa tài khoản mà không cần báo trước.

Leaderboard


Popular Content

Showing most liked content on 14/07/2011 in all areas

  1. Ngư dân Việt Nam bị Trung Quốc đánh, tịch thu tài sản Bộ Ngoại Giao chưa lên tiếng. Vitinfo Thứ năm, 14/07/2011, 06:55(GMT+7) (PL)- Trước đó, khoảng 10 giờ ngày 5/7/2011, tại phía đông bắc quần đảo Hoàng Sa, các ngư dân trên đang đánh lưới cản thì có một tàu chiến của Trung Quốc mang số hiệu 44861 đuổi theo. Tàu chiến thả một canô chở 10 lính trang bị tiểu liên và dùi cui xông lên tàu, đánh đập thuyền trưởng Nguyễn Thừa, thuyền trưởng tàu QNG-98868 TS, và lục soát thu giữ khoảng một tấn cá. Sau đó, lính Trung Quốc đuổi các ngư dân, không cho đánh cá ở vùng biển này. Ông Thừa cho tàu tiếp tục đi đánh bắt để kiếm tổn phí, sau đó mới vào bờ và báo cáo sự việc. Nhóm nhân sĩ trí thức đang chờ để được Bộ Ngoại Giao mời vào làm việc Ngày 13/7/2011, báo Pháp Luật đưa tin từ Đồn biên phòng Mỹ Á thuộc bộ đội biên phòng Quảng Ngãi cho biết: các ngư dân trên tàu cá QNG-98868 TS do ông Nguyễn Thừa (ngụ xã Phổ Quang, huyện Đức Phổ, Quảng Ngãi) làm chủ đã bị lính Trung Quốc đánh đập, tịch thu tài sản và xua đuổi khi đang đánh bắt cá trên vùng biển thuộc chủ quyền Việt Nam. Từ nhiều năm nay, binh lính Trung Quốc thường xuyên quấy nhiễu đánh đập bắt giữ tàu và ngư dân Việt Nam để đòi tiền chuộc, khi họ đang đánh bắt cá tại vùng biển thuộc chủ quyền của Việt Nam. Những hành động này của Trung Quốc đã khiến cho ngư dân Việt Nam lâm vào cảnh bần cùng. Cùng ngày 13/7/2011, theo kế hoạch, đại diện Bộ Ngọai giao có cuộc gặp với các nhân sĩ ký tên vào bản kiến nghị yêu cầu Bộ Ngọai giao cung cấp thông tin về quan hệ Việt Nam - Trung Quốc. Nhóm nhân sĩ trí thức muốn có cuộc tham vấn chính thức trước khi trả lời phỏng vấn cho các hãng truyền thông nước ngoài. 18 vị nhân sĩ trí thức đã ký tên vào bản kiến nghị hầu hết là các bậc lão thành quyền cao chức trọng và đã đảm nhận các trọng trách trong chính quyền, trong đó có: thiếu tướng Nguyễn Trọng Vĩnh, giáo sư Hòang Tụy, giáo sư Phạm Duy Hiển, giáo sư Nguyễn Huệ Chi, tiến sĩ Nguyễn Quang A, tiến sĩ Nguyễn Xuân Diện và luật sư Trần Vũ Hải... Tin tổng hợp Nguồn tin: Phapluattp - Baothuathienhue ============================================ Ít nói thì người ta cho là ngu đần không biết gì.... Nói nhiều thì bị cho là ba hoa rỗng tuyếch ... William Shakespeare .
    3 likes
  2. Cõi Vô hình (phần ll) Luật thiên nhiên cho thấyvật nặng sẽ chìm xuống dưới và vật nhẹ nổi lên trên thì cõi vô hình cũng thế. Nguyên tử cõi âm rung động với một nhịp độ khác với cõi trần, các nguyên tử rung động thật nhanh dĩ nhiên phải nhẹ hơn các nguyên tử nặng trược. Tóm lại, tùy theo nhịp độ rung động mà tạo ra những cảnh giới khác nhau, có bảy loại rung động nên có bảy cõi giới. Các nguyên tử rung động chậm chạp phải chìm xuống dưới vì nếu ta mang nó lên cao, sức ép sẽ làm nó tan vỡ ngaỵ Thí dụ ta đặt một quả bóng xuống nước nếu đến một độ sâu nào đó sức ép của nước sẽ làm nó vỡ tan. Loài cá cũng thế, có loại sống gần mặt nước, có loại sống tận đáy đại dương. Nếu loại sống gần mặt biển bị mang xuống đáy nó sẽ bị sức ép mà chết, ngược lại nếu loài sống ở dưới đáycũng không thể lên sát mặt nước vì đã quen với sức ép khác nhau. Cảnh giới thứ bảy lúc nào cũng tối tăm, nặng nề với các vong linh hình dáng ghê rợn, nhưng hoàn toàn không có vụ quỷ sứ tra tấn tội nhân. Bị lưu đày ở đây đã là khổ sở lắm rồi, các ông hãy tưởng tượng bị dụcvọng hành hạ mà không thể thoa? mãn thì còn khổ gấp trăm lần bị tra tấn. Vong linh thèm muốn nhưng không so thoa? mãn được, như đói mà không thể ăn, khát không thể uống. Do đó, theo thời gian y sẽ học bài học chịu đựng, nhẫn nhục cho đến khi dục vọng giảm bớt và tan ra thì y sẽ thăng lên cảnh giới thứ sáu. Cõi giới thứ sáu, có sự rung động rất giống như cõi trần, tại đây các vong linh ít còn thèm muốn vật chất như ăn uống, dục tình, nhưng bận tâm với những nhỏ nhen của cuộc sống như thoa? mãn bản ngã, ích kỷ, ghen tuông, hờn giận, v…v… Đa số có hình dáng giống như người cõi trần, nhưng lờ mờ không rõ. Vì sự rung động của nguyên tử gần giống như cõi trần nên họ hay trở về cõi này, họ thường nhập vào đồng cốt, các buổi cầu cơ, cầu hồn để chỉ dẫn bậy bạ, nói chuyên vu vơ nhằm thoa? mãn tự ái, bản ngã cá nhân. Vì đa số vong linh khi còn sống rất ham mê danh vọng, chức tước, uy quyền nên khi họ nhập vào đồng cốt, họ thường tự xưng là các đấng này, đấng nọ. Theo thời gian, các rung động ham muốn, các cố chấp về bản ngã, danh vọng cũng tan biến nên họ thăng lên cảnh giới thứ năm. Cõi thứ năm có sự rung động thanh nhẹ hơn cõi trần nên vong linh có thể biến đổi sắc tướng rất nhanh chóng. Đây là một thế giới với những âm thanh màu sắc lạ lùng dễ bị mê hoặc. Các vong linh ở đây đã bớt ham muốn về cá nhân, nhưng còn ham muốn về tư tưởng, kiến thức. Đây là nơi cư ngụ của những kẻ đạo đức giả, những kẻ bảo thủ nhiều thành kiến, những người trí thức tự phụ, v…v… Đây cũng là cõi có những sinh hoạt của loài Tinh linh. Loài Tinh linh là những sinh vật vô hình có hình dáng hao hao giống như người mà ta thường gọi là Thiên tinh (sylphs), Thổ địa (gnome), Phong tinh (elves), v…v… Một số bị thu phục bởi các phù thuỷ, pháp sư để làm ảo thuật hay luyện phép. Cõi này còn có sự hiện diện của những “hình tư tưởng”. Các ông nên biết, khi một tư tưởng hay dục vọng phát sinh thì chúng sử dụng tinh chất cõi này tạo nên một hình tư tưởng thích hợp. Đời sống của chúng tùy theo sức mạnh của tư tưởng mạnh hay yếu. Vì đa số tư tưởng con người còn mơ hồ nên hình tư tưởng chỉ tạo ra ít lâu là tan rã ngaỵ Một người tập trung tư tưởng có thể tạo ra một hình tư tưởng sống lâu trong vài giờ hay vài ngày. Một pháp sư cao tay có thể tạo ra các hình tư tưởng sống đến cả năm hay cả thế kỷ, không những thế hình tư tưởng này còn chịu sự sai khiến của ông tạ Các phù thuỷ luyện thần thông đều dựa trên nguyên tắc cấu tạo một sinh vật vô hình để sai khiến. Hình tư tưởng không chỉ phát sinh từ một cá nhân mà còn từ một nhóm người hay một quốc gia, dân tộc. Khi một đoàn thể, dân tộc cùng một ý nghĩ, họ sẽ tạo ra một hình tư tưởng của đoàn thể, quốc gia đó. Hình tư tưởng này sẽ tạo một ảnh hưởng vô cùng rộng lớn đối với tình cảm,phong tục, thành kiến của quốc gia, dân tộc. Ta có thể gọi đó là “Hồn thiêng sông núi” hay “dân tộc tính”. Khi sinh ra tại một quốc gia, ta ít nhiều chịu ảnh hưởng của hình tư tưởng này, dĩ nhiên chúng chỉ ảnh hưởng lên thể vía, nghĩa là tình cảm của dân tộc đó, chứ không ảnh hưởng đến lý trí. Một người sống nhiều bằng lý trí sẽ ít chịu ảnh hưởng như người bình thường. Điều này giải thích tại sao một dân tộc có tâm hồn mơ mộng như thi sĩ khi dân tộc khác lại có đầu óc thực tế mặc dù trên phương diện địa lý, họ không ở cách xa nhau mấy và ít nhiều chia sẻ một số quan niệm về tôn giáo, phong tục, tập quán. Cảnh giới cõi thứ tư sáng sủa hơn và dĩ nhiên nguyên tử cõi này rung động rất nhanh. Phần lớn những vong linh tiến hoá, thánh thiện, những nhà trí thức trầm mặc nhưng còn quyến luyến một ít dục vọng khi chết đều thức tỉnh ở cảnh giới này. Đa số đều ý thức ít nhiều, nên họ bắt đầu cởi bỏ những ham muốn, quyến luyến. Đây cũng là chỗ họ học hỏi và ảnh hưỏong lẫn nhau, và đôi khi kêt những liên hệ để cùng nhau tái sinh trong một gia đình hay quốc gia. Cõi giới thứ ba chói sáng, có những rung độgn nhẹ nhàng. Tại đâu có những linh hồn từ tâm nhưng vụng về, những tu sĩ thành tâm nhưng thiếu trí tuệ, những nhà lãnh đạo anh minh nhưng thành kiến. Đây cũng là một cảnh giới của một số thần linh (devas) như Cảmđục thiên thần (Kamadeva), Hữu sắc thiên thần (Rupadeva), và Vô sắc thiên thần (Arupadeva). Các thần linh này có đời sống và tiến hoá cao hơn trình độ của nhân loại. Cõi giới thứ hai và thứ nhất cấu tạo bằng những nguyên tử hết sức thanh thoát, rung động rất nhanh và tràn đầy ánh sáng. Đây là cõi giới mà những người tiến hoá rất cao, rất tệ nhị không còn dục vọng, ham muốn, lưu lại để học hỏi, trao đổi kinh nhigệm, phát triển ccác đức tính riêng trước khi siêu thoát len cảnh giới cao hơn. - Như thế người chết thường lưu lại ở cõi Trung giới bao nhiêu lâu ? - Thời gian lưu lại đây hoàn toàn tùy thuộc vào dục vọng con người, có người chỉ ghé lại đây vài giờ, lập tức đầu thai trở lại. Có kẻ ở đây hàng năm và có kẻ lưu lại đây hàng thế kỷ… Để siêu thoát, thể vía phải hoàn toàn tan rã hết thì mới lên đến cõi Thượng thiên hay siêu thoát. Tóm lại danh từ như thiên đàng hay địa ngục chỉ là những biểu tượng của những cảnh ở cõi Trung giới (Kamaloka). Tùy theo sự sắp xếp của thể vía khi chết, mà ta thức tỉnh ở một cảnh giới tương ứng. Mọi người yên lặng nhìn nhau, những điều Hamud giải thích hoàn toàn hợp lý và hết sức khoa học, không hoang đường chút nào. Nhưng làm sao chứng minh những điều mà khoa học thực nghiệm không thể nhìn thấy được ? Dù sao Hamud cũng là một Tiến sĩ Vật lý tốt nghiệp đại học nổi tiếng nhất Âu châu chứ không phải một phù thuỷ vô học chốn hoang vu, ít nhiều ông ta cũng có một tinh thần khách quan vô tư của một khoa học gia chứ không mê tín dễ chấp nhận một lý thuyết vu vơ, không kiểm chứng. Nhưng làm sao có thể thuyết phục những người Âu Mỹ vốn rất tự hào, nhiều thành kiến và tin tưởng tuyệt đối ở khoa học. Hamud mỉm cười tiếp tục : - Sự hiểu biết về cõi vô hình rất quan trọng, vì khi hiểu rõ những điều xảy ra sau khi chết, ta sẽ không sợ chết nữa. Nếu có chết chỉ là hình hài, xác thân chứ không phải sự sống, và hình hài có chết đi, thì sự sống mới tiếp tục tiến hoá ở một thể khác tinh vi hơn. Đây là một vấn đề hết sức hợp lý và khoa học cho ta thấy rõ sự công bình của vũ trụ. Khi còn sống, con người có dục vọng này nọ, khi dục vọng được thoa? mãn, nó sẽ gia tăng mạnh mẽ, đồng thời các chất thô kệch, các rung động nặng nề sẽ bị thu hút vào thể vía. Sau khi chết, dục vọng này trở nên mạnh mẽ vì không còn lý trí kiểm soát nữa, chính thế nó sẽ đốt cháy con người của ta. Sự nung đốt của dục vọng chẳng phải địa ngục là gì ? Giống như đức tính, phẩm hạnh khi còn trẻ, quyết định điều kiện sinh sống lúc tuổi già, đời sống cõi trần quyết định đời sống bên kia cửa tử. Luật này hết sức hợp lý và dễ chứng minh. Khi còn trẻ ta tập thể thao, giữ thân thể khoẻ mạnh, thì khi về già ta sẽ ít bệnh tật, khi còn trẻ ta chịu khó học hỏi, có một nghề nghiệp vững chắc thì khi về già đời sống được bảo đảm hơn, có đúng thế không ? Những người nào chế ngự được dục vọng thấp hèn, làm chủ được đòi hỏi thể xác, thì các dục vọng này không thể hành hạ khi ta chết. Luật thiên nhiên định rằng khi về già thể xác yếu dần, đau ốm, khiến cho ta bớt đi các ham muốn và nhờ thế, dục vọng cũng giảm bớt rất nhiều nên thể vía cũng thanh lọc bớt các chất nặng nề, ô trượt để khi chết, sẽ thức tỉnh ở cảnh giới cao thượng hơn. Trái lại những người còn trẻ, lòng ham muốn còn mạnh mẽ, nếu chết bất đắc kỳ tử thường đau khổ rất nhiều và phải lưu lại cõi Trung giới lâu hơn. Nếu hiểu biết như thế, ta cần phải duyệt xét lại đời sống của mình ở cõi trần để khỏi lưu lại những cảnh giới thấp thỏi, nặng nề bên cõi âm. Những người lớn tuổi cần chuẩn bị để dứt bỏ các quyến luyến, ràng buộc, các lo lắng ưu phiền, các tranh chấp, giận hờn, phải biết xả ly, dứt bỏ mọi phiền não để mau chóng siêu thoát. Một sự chuẩn bị Ở cõi trần sẽ rút ngắn thời gian bên cõi âm và chóng thúc đẩy thời gian lên cõi giới cao hơn. - Nhưng còn các ma quỷ thì sao ? - Các ông cứ cho rằng ma quỷ là một thực thể thế nào đó, khác hẳn loài người. Thật ra phần lớn chúng là những vong linh sống ở cảnh giới thứ bảy, thứ sáu mà thôi. Chúng còn lưu luyến cõi trần, còn say mê dục vọng không sao thoát ra khỏi cảnh giới này… Luật thiên nhiên không cho phép chúng trở lại cõi trần, nhưng cũng có những trường hợp đặc biệt, khiến người cõi trần trong một thoáng giây có thể nhìn thấy chúng…Khoan đã, các ông hãy xem kìa, người bạn của tôi đã làm xong việc. Hamud chỉ vào góc phòng nơi ông ta để bó len và cây kim đan áo. Mọi người bước đến gần và thấy một chiếc áo len đan bằng tay đã thành hình từ lúc nào không ai rõ. Chiếc áo đan tay rất vụng, không khéo léo nhưng trên ngực có thêu tên giáo sư Mortimer. Vị pháp sư giải thích : - Con ma này rất nghịch, và thường quanh quẩn ở đây. Tôi yêu cầu hắn đan chiếc áo len cho các ông để làm bằng chứng. Để tránh việc các ông cho rằng tôi làm trò ảo thuật, tráo vào đó một chiếc áo len khác, tôi yêu cầu hắn thêu tên người nào trong phái đoàn có nhiều nghi ngờ nhất. Các ông đều biết rằng từ khi gặp gỡ tôi không hề hỏi tên các ông, và nếu chiếc áo này không đan riêng cho các ông thì còn ai nữa ? Qủa thế, vị pháp sư gầy gò không thể mặc chiếc áo đan to tướng , rất vừa vặn cho giáo sư Mortimer, một người Âu mà kích thước đã rất ư quá khổ, so với những người Âu khác, đó là chưa kể vòng bụng khổng lồ, rất hiếm có của ông này. Hơn nữa, áo này cũng không thể may sẵn để bán vì đường kim mũi chỉ rất ư vụng về, nếu có bán, cũng chẳng ai muạ Tại nơi hoang vu, không có ai ngoài vị pháp sư và phái đoàn, sự kiện này quả thật rất lạ lùng. Giáo sư Evans-Wentz thắc mắc : - Như vậy ông có thể sai khiến ma quỷ hay sao? - Tôi không phải là một phù thuỷ, lợi dụng quyền năng cho tư lợi; mà chỉ là một người có rất nhiều bạn hữu vô hình bên cõi âm. Tôi hiểu rõ các luật thiên nhiên như Luân hồi, Nhân quả, và hậu quả việc thờ cúng ma quỷ để mưu cầu một cái gì. Tôi chỉ là một khoa học gia nghiên cứu cõi vô hình một cách đứng đắn. Sự nghiên cứu những hiện tượng siêu hình là một khoa học hết sức đứng đắn, chứ không phải mê tín dị đoạn. Nhiều người thường tỏ ý chê cười khi nói đến vấn đề ma quỷ, nên những ai có gặp ma, cũng chả dám nói vì sợ bị chê cười hay cho là loạn trí. Nếu người nào không tin hãy nghiên cứu và chứng minh một cách khoa học rằng ma quỷ chỉ là những giả thuyết tưởng tượng, còn như phủ nhận không dám chứng minh chỉ là một cái cớ che dấu sự sợ hãi. Điều khoa học chưa chứng minh được không có nghĩa là điều này không có thật, vì một ngày nào đó, khoa học sẽ tiến đến mức mà họ có thể chứng minh tất cả. Những phương pháp thông thường như cầu cơ, đồng cốt, thường gặp sai lầm vì như tôi đã trình bày, các vong linh nhập vào phần lớn cũng có kiến thức giới hạn ở cảnh giới nào đó. Đôi khi họ cũng trích dẫn vài câu trong “Thánh kinh”, hoặc sách vở, kinh điển để nâng cao giá trị lời nói, điều này có khác nào những nhà chính trị khi diễn thuyết. Phương pháp khoa học chính xác nhất là phải tự mình qua hẳn thế giới đó nghiên cứu. Các ông nên biết thân thể chúng ta không phải môi trường duy nhất của linh hồn và giác quan của nó cũng không phải phương tiện duy nhất để nghiên cứu ngoại cảnh. Nếu ta chấp nhận rằng vũ trụ có nhiều cõi giới khác nhau và mỗi thể con người tương ứng với một cõi, thì ta thấy ngay rằng thể xác cấu tạo bằng nguyên tử cõi trần nên chỉ giới hạn trong cõi này được thôi. Các thể khác cũng có giác quan riêng của nó và khi giác quan thể vía được khai mở, ta có thể quan sát các cõi giới vô hình dễ dàng. Khi từ trần, thể xác tiêu hao, các giác quan không còn sử dụng được nữa thì linh hồn sẽ tập phát triển các giác quan thể vía ngaỵ Nếu biết cách khai mở các giác quan này khi còn sống, ta có thể nhìn thấy cõi âm một cách dễ dàng. Giáo sư Allen ngập ngừng : - Nhưng có một quan niệm lại cho rằng, sau khi chết linh hồn sẽ lên thiên đàng hay xuống địa ngục vĩnh viễn, điều này ra sao ? Hamud lắc đầu : - Đó là một quan niệm không hợp lý, vì điều này cho rằng khi chết linh hồn sẽ đổi thay toàn diện. Sau khi chết, linh hồn sẽ mất hết tính xấu để trở nên toàn thiện, trở nên một vị thiên thần vào cõi thiên đàng hoặc là linh hồn có thể mất hết các tính tốt để trở nên xấu xa, trở nên một thứ ma quỷ bị đẩy vào địa ngục. Điều này vô lý vì sự tiến hoá phải từ từ, chứ không thể đột ngột được. Trên thế gian này, không ai toàn thiện hay toàn ác. Trong mỗi chúng ta đều có các chủng tử xấu, tốt do các duyên, nghiệp từ tiền kiếp để lại; tùy theo điều kiện bên ngoài mà những chủng tử này nẩy mầm, phát triển hay thui chột, không thể phát triển. Một người tu thân là một người biết mình, lo vun xới tinh thần để các nhân tốt phát triển, giống như người làm vườn lo trồng hoa và nhổ cỏ dại. Thực ra, khi sống và chết, con người không thay đổi bao nhiêu. Nếu khi sống họ ăn tham thì khi chết, họ vẫn tham ăn, chỉ có khác ở chỗ, điều này sẽ không còn được thoa? mãn vì thể xác đã hư thối, tan rã mất rồi. Sau khi chết, tìm về nhà thấy con cháu ăn uống linh đình mà họ thì không sao ăn được, lòng ham muốn gia tăng cực độ như lửa đốt gan, đốt ruột, đau khổ không sao tả được. - Như ông đã nói, loài ma đói thường rung động theo không khí quanh đó, như thế họ có thoa? mãn không ? - Khi người sống ăn ngon có các tư tưởng khoái lạc thì loài ma đói xúm quanh cũng tìm cách rung động theo tư tưởng đó, nhưng không làm sao thoa? mãn cho được. Điều này ví như khi đói, nghĩ đến món ăn ngon ta thấy khoan khoái, ứa nước bọt nhưng điều này đâu có thoa? mãn nhu cầu bao tử đâu. Các loại ma hung dữ, khát máu thường tụ tập nơi mổ sẻ súc vật, lò sát sinh để rung động theo những không khí thô bạo ở đó. Những người giết súc vật trong nhà vô tình mời gọi các vong linh này đến, sự có mặt của họ có thể gây nhiều ảnh hưởng xấu, nhất là cho nhũng người dễ thụ cảm. - Đa số mọi người đều cho rằng ma quỷ thường xuất hiện ở nghĩa địa, điều này ra sao ? - Sự hiện hình ở nghĩa địa chỉ là hình ảnh của thể phách đang tan rã, chứ không phải ma quỷ, vong linh. Khi ta chết, thể xác hư thối thì thể phách vốn là thể trung gian giữa thể xác và thể vía cũng tan rã theo. Thể phách được cấu tạo bằng những nguyên tử tương đồng với nguyên tử cõi trần. Nhưng trong đó có nhiều nguyên tử 'dĩ tháí, nên nhẹ hơn, nó thu thập các sinh lực còn rơi rớt trong thể xác, để cố gắng kéo dài sự sống thêm một thời gian nữa. Vì đang tan rã nên thể phách không hoàn toàn, do đó, đôi khi ta thấy trên nghĩa địa có những hình ảnh người cụt đầu, cụt chân, bay là là trên các nấm mồ, người không hiểu thì gọi đó là mạ Theo sự hiểu biết của tôi, thì việc thiêu xác tốt đẹp hơn việc chôn cất, vì để thể xác tan rã từ từ làm cho linh hồn đau khổ không ít và thường ở trong một giai đoạn hôn mê, bất động một thời gian rất lâu. Thiêu xác khiến vong linh thấy mình không còn gì quyến luyến nữa nên siêu thoát nhanh hơn nhiều. - Ma quỷ thường thuộc thành phần nào trong xã hội ? - Chúng thuộc đủ mọi thành phần, tùy theo dục vọng khi còn sống. Người chết bất đắc kỳ tử thường lưu lại cõi âm lâu hơn người chết già vì còn nhiều ham muốn hơn. Những kẻ sát nhân bị hành quyết vẫn sống trong cảnh tù tội, giận hờn và có ý định trả thù. Một người tự tử để trốn nợ đời cũng thế, y sẽ hôn mê trong trạng thái khổ sở lúc tự tử rất lâu. Định luật cõi âm xác nhận rằng, “Chính cáidục vọng của ta quyết định cảnh giới ta sẽ đến và lưu lại ở đó lâu hay mau.” - Số phận của những người quân nhân tử trận thì ra sao ? - Họ cũng không ra ngoài luật lệ đó, tùy theo dục vọng từng cá nhân. Tuy nhiên, người hy sinh tính mạng cho một lý tưởng có một tương lai tốt đẹp hơn, vì cái chết cao đẹp là một bậc thang lớn trong cuộc tiến hoá. Họ đã quên mình để chết và sống cho lý tưởng thì cái chết đó có khác nào những vị thánh tử đạo. Dĩ nhiên không phải quân nhân nào cũng sống cho lý tưởng và những kẻ giết chóc vì oán thù và chết trong oán thù lại khác hẳn. - Như ông nói thì người chết vẫn thấy người sống ? - Thật ra phải nói như thế này. Khi chết các giác quan thể xác đều không sử dụng được nữa, nhưng người chết vẫn theo dõi mọi sự dễ dàng vì các giác quan thể vía. Không những thế họ còn biết rất rõ tư tưởng, tình cảm liên hệ; mặc dù họ không còn nghe thấy như chúng tạ Nhờ đọc được tư tưởng, họ vẫn hiểu điều chúng ta muốn diễn tả. - Như vậy thì họ Ở gần hay ở xa chúng ta ? - Khi mới từ trần, người chết luôn quanh quẩn bên gia đình, bên những người thân nhưng theo thời gian, khi ý thức hoàn cảnh mới, họ sẽ tách rời các ràng buộc gia đình để sống hẳn ở cõi giới của họ. - Như thế có cách nào người sống tiếp xúc được với thân nhân quá cố không ? - Điều này không có gì khó. Hãy nghĩ đến họ trong giấc ngủ. Thật ra nếu hiểu biết thì ta không nên quấy rầy, vì làm thế chỉ gây trở ngại cho sự siêu thoát. Sự chết là bước vào một đời sống mới, các sinh lực từ trước vẫn hướng ra ngoài, thì nay quay vào trong, linh hồn từ từ rút khỏi thể xác bằng một bí huyệt trên đỉnh đầu. Do đó, hai chân từ từ lạnh dần rồi đến tay và sau cùng là trái tim. Lúc này người chết thấy rất an tĩnh, nhẹ nhàng không còn bị ảnh hưởng vật chất. Khi linh hồn rút lên óc, nó sẽ khơi động các ký ức, cả cuộc đời sẽ diễn lại như cuốn phim. Hiện tượng này gọi là “hồi quang phản chiếu” (Memory projection). Đây là một giây phút hết sức quan trọng vì nó ảnh hưởng rất lớn đến đời sống cõi bên kia. Sợi dây từ điện liên hệ giữa thể xác và thể phách sẽ đứt hẳn. Đây là lúc người chết hoàn toàn hôn mê, vô ý thức để linh hồn rút khỏi thể phách và thể vía bắt đầu lo bảo vệ sự sống của nó bằng cách xếp lại từng lớp nguyên tử, lớp nặng bọc ngoài và lớp thanh nhẹ Ở trong. Sự thu xếp này ấn định cõi giới nào vong linh sẽ đến. - Ông du hành sang cõi âm thế nào ? - Nói như thế không đúng lắm, vì ám chỉ một sự di chuyển từ nơi này đến nơi khác. Các cõi thật ra ở cùng một nơi chỉ khác nhau ở chiều không gian và thời gian. Sang cõi âm là sự chuyển tâm thức, sử dụng giác quan thể vía để nhận thức chứ không phải đi đến một nơi nào hết. Sở dĩ cõi trần không thấy cõi âm vì nguyên tử cấu tạo nó quá nặng nề, rung động quá chậm không thể đáp ứng với sự rung động nhanh của cõi âm. Quan niệm về không gian cũng khác vì đây là cõi tư tưởng, nghĩ đến đâu là ta đến đó liền, muốn gặp ai chỉ cần giữ hình ảnh người đó trong tư tưởng ta sẽ gặp người đó ngaỵ Khi di chuyển ta có cảm giác như lướt trôi, bay bỗng vì không còn đi bằng hai chân như thể xác. - Những người chết nhận thức về đời sống mới ra sao ? - Trừ những kẻ cực kỳ hung dữ, ghê gớm, đa số mọi người thức tỉnh trong cảnh giới thứ năm hoặc thứ sáu, vốn có rung động không khác cõi trần là bao. Lúc đầu họ còn bỡ ngỡ, hoang mang nhưng sau sẽ quen đi. Tùy theo tình cảm, dục vọng mà họ hành động. Tôi đã gặp vong linh của một thương gia giàu có, ông này cứ quanh quẩn trong ngôi nhà cũ nhiều năm, ông cho tôi biết rằng ông rất cô đơn và đau khổ. Ông không có bạn và cũng chả cần ai. Ông trở về căn nhà để sống với kỷ niệm xưa nhưng ông buồn vì vợ con ông vẫn còn đó nhưng chả ai để ý đến ông. Họ tin rằng ông đã lên thiên đàng, vì họ đã bỏ ra những số tiền, tổ chức các nghi lễ tôn giáo rất lớn, một tu sĩ đã xác nhận thế nào ông cũng được lên thiên đàng. Tôi khuyên ông ta nên cởi bỏ các quyến luyến để siêu thoát nhưng ông ta từ chối. Một vài người thân đã qua đời cũng đến tìm gặp, nhưng ông cũng không nghe họ. Có lẽ ông ta sẽ còn ở đó một thời gian lâu cho đến khi các lưu luyến phai nhạt hết. Tôi đã gặp những vong linh quanh quẩn bên cạnh cơ sở mà họ gầy dựng nên, họ vô cùng đau khổ và tức giận vì không còn ảnh hưởng được gì, họ rất khổ sở khi người nối nghiệp, con cháu có quyết định sai lầm, tiêu phá cơ nghiệp. Tôi đã gặp những người chôn cất của cải, phập phồng lo sợ có kẻ tìm ra, họ vẫn quanh quẩn gần đó và đôi khi tìm cách hiện về doa. nạt những người bén mảng đến gần nơi chốn dấu. Vong linh ghen tuông còn khổ sở hơn nữa; họ không muốn người họ yêu mến chia sẻ tình yêu với kẻ khác. Đôi khi họ điên lên khi chứng kiến sự âu yếm của người họ yêu mến và người khác. Dĩ nhiên họ không thể làm gì được nên vô cùng khổ sở. Những nhà lãnh đạo, những vua chúa, những người hống hách quyền uy thì cảm thấy bất lực khi không còn ảnh hưởng gì được nữa, nên họ hết sức đau khổ. Hãy lấy trường hợp một vong linh chết đuối, vì y không tin mình đã chết, nên cứ ở trong tình trạng lúc chết, nghĩa là ngộp nước. Vì đầu óc hôn mê, nên y không nhìn thấy cõi âm, mà vẫn giữ nguyên hình ảnh cõi trần, dĩ nhiên nó chỉ nằm trong tư tưởng của y mà thôi. Nói một cách khác, thời gian như ngừng lại, y cứ thế hôn mê trong nhiều năm. Tôi đã cố gắng thuyết phục nhưng nói gì y cũng không nghe, tôi bèn yêu cầu y trở về nhà, đầu óc y hôn mê quá rồi, nên cũng không sao trở về được. Nhờ các bạn bè cõi vô hình, tôi tìm được tên tuổi, và địa chỉ thân nhân vong linh. Tôi tiếp xúc với họ và yêu cầu lập một nghi lễ cầu siêu để cảnh tỉnh vong linh. Nhờ sức chú nguyện mãnh lực của buổi cầu siêu, tôi thấy vong linh từ từ tỉnh táo ra, nghe được lời kinh. Y trở về nhà và chứng kiến buổi cầu siêu của con cháu gần 60 năm sau khi y qua đời. Sau đó y chấp nhận việc mình đã chết và siêu thoát… - Ông cho rằng sự cầu nguyện có lợi ích đến thế sau ? - Cầu siêu cho vong linh là một điều hết sức quan trọng và ích lợi , vì nó chứa đựng một sức mạnh tư tưởng vô cùng mãnh liệt. Oai lực lời kinh và âm hưởng của nó thật là vô cùng ở cõi âm nếu người ta tụng niệm chú tâm, sử dụng hết cả tinh thần. Tiếc thay, người đời chỉ coi tụng niệm như một hình thức. Họ chỉ biết đọc các câu kinh trên đầu môi, chót lưỡi chứ không biết tập trung tinh thần, nên mất đi phần nào hiệu nghiệm. Sự cầu nguyện có một sức mạnh kinh khủng, có thể dời núi lấp sông, đó là bí huyết khoa “Mật tông Tây Tạng”. - Như ông nói thì tôn giáo Tây Tạng có hiệu nghiệm nhiều hay sao ? - Vấn đề cầu nguyện cho người chết không phân biệt tôn giáo và cũng không cần theo một nghi thức, nghi lễ nào nhất định, mà chỉ cần tập trung tư tưởng, hết sức chú tâm cầu nguyện. Theo sự hiểu biết của tôi thì tôn giáo nào cũng có những nghi lễ riêng và nghi lễ nào cũng tốt nếu người thực hành thành tâm. - Như vậy nghi lễ rửa tội trước khi chết có ích lợi gì không ? - Một số người tin rằng, hạnh phúc vĩnh cữu của con người tùy thuộc tâm trạng y lúc từ trần. Nếu lúc đó y tin rằng mình được cứu rỗi thì như được một vé phi cơ lên thiên đàng, còn không y sẽ xuống địa ngục. Điều này gây nhiều sợ hãi, lo âu vô ích. Nếu một người chết thình lình thì sao? Phải chăng họ sẽ xuống địa ngục ? Nếu một tín đồ hết sức ngoan đạo nhưng chết ngoài trận mạc thì sao ? Họ đâu được hưởng nghi lễ rửa tội ? Sự chuẩn bị hữu hiệu nhất là có một đời sống thanh cao, nếu ta đã có một đời sống cao đẹp, thì tâm trạng khi chết không quan trọng. Trái lại, ta không thể ao ước một tương lai tốt đẹp dù tang lễ được cử hành bằng các nghi lễ to lớn, linh đình nhất. Dù sao, tư tưởng chót trước khi lìa đời cũng rất hữu ích cho cuộc sống mới bên kia cửa tử . Nó giúp vong linh tỉnh táo, dễ thích hợp với hoàn cảnh mới hơn. Một cái chết thoải mái, ung dung phải hơn một cái chết quằn quại, chết không nhắm mắt được. Theo tôi thì sự hiểu biết về cõi vô hình, sự chuẩn bị cho cái chết là điều hết sức quan trọng, cần được phổ biến rộng rãi, nhưng tiếc là ít ai chú ý đến việc này. - Vậy theo ông, chúng ta cần có thái độ gì ? - Đối với người Âu tây, đời sống bắt đầu khi lọt lòng mẹ, và chấm dứt lúc chết, đó là một quan niệm cần thay đổi. Đời sống cõi trần chỉ là một phần nhỏ của chu kỳ kiếp sống. Chu kỳ này được biểu hiện bằng một vòng tròn mà sự sống và chết là những nhịp cầu chuyển tiếp giữa hai cõi âm, dương, giữa thế giới hữu hình và vô hình. Trên con đường tiến hoá, còn hằng ha sa số các chu ký, các kiếp sống cho mỗi cá nhân. Linh hồn từ cõi thượng giới cũng phải qua cõi trung giới. Phần ở cõi trần chỉ là một phẩn nhỏ của một kiếp sống mà thôi. Trong chu kỳ này, phần quan trọng ở chỗ vòng tròn tiến sâu vào cõi trần và bắt đầu chuyển ngược trở lên, đó là lúc linh hồn hết tha thiết với vật chất, mà có ý hướng về tâm linh. Các cổ thư đã vạch ra một đời sống ở cõi trần như sau : 25 năm đầu để học hỏi, 25 năm sau để lo cho gia đình, đây là giai đoạn tiến sâu vào trần thế, 25 năm sau nữa phải từ bỏ việc đời để lo cho tâm linh, đó là thời điểm quan trọng để đi ngược lên, hướng về tâm linh, và 25 năm sau chót phải từ bỏ tất cả, chỉ tham thiền, quán tưởng ở nơi rừng sâu, núi thẳm. Đối với người Á châu thì 50 tuổi là lúc từ bỏ vật chất để hướng về tâm linh, nhưng người Âu châu lại khác, họ ham mê làm việc đến độ mù quáng, cho đến già vẫn tranh đấu hết sức vất vả, cho dục vọng, cho bản ngã, cho sự sống còn, cho sự thụ hưởng . Do đó, đa số mất quân bình và khi chết hay gặp các nghịch cảnh không tốt. Theo ý tôi, chính vì sự thiếu hiểu biết về cõi âm nên con người gây nhiều tai hại ở cõi trần. Chính vì không nhìn rõ mọi sự một cách tổng quát, nên họ mới gây lầm lỗi, chứ nếu biết tỷ lệ đời sống cõi trần đối với toàn kiếp người, thì không ai dồn sức để chỉ lo cho 1/3 kiếp sống, mà sao lãng các cõi trên. Nếu con người hiểu rằng quãng đời ở cõi trần rất ngắn ngủi, đối với trọn kiếp người và đời sống các cõi khác còn gần với chân lý, sự thật hơn thì có thể họ đã hành động khác đi chăng ? Có lẽ vì quá tin tưởng vào giác quan phàm tục, nên đa số coi thế giới hư ảo này là thật và cõi khác là không có… - Nhưng nếu ông cho rằng các cõi kia còn gần với sự thật hơn, thì tại sao ta lại kéo lê kiếp sống thừa ở cõi trần làm gì ? Tại sao không rũ nhau đi sang cõi khác có tốt hơn không ? Hamud mỉm cười : - Tuy cõi trần hư ảo, nhưng nó có những lợi ích của nó, vì con người chỉ có thể tìm hiểu, và phát triển xuyên qua các rung động thô thiển này thôi. Cõi trần có các bài học mà ta không tìm thấy ở đâu khác. Chính các bậc chân tiên, bồ tát trước khi đắc quả vị đều phải chuyển kiếp xuống trần, làm các công việc vĩ đại như một thử thách cuối cùng. Muốn khai mở quyền năng, con người phải tiếp nhận các bài học ở cõi trần, nhờ học hỏi những bài học này, họ mới trở nên nhạy cảm với các rung động ở cõi trên.__._,_.___ Telegraph news
    2 likes
  3. Anh Vuivui thân mến. Để khỏi loãng chủ để của anh Votruoc, tôi mạn phép mở chủ đề này. Tôi chép lại sang topic này những bài viết liên quan. Hy vọng anh sẽ yên tâm cùng chia sẻ học thuật nơi đây. * Apr 4 2009, 11:52 PM Anh Vui vui thân mến.Theo quan điểm của tôi thì Dương Tịnh và Âm Động. Tức là trái ngược với cổ thư chữ Hán cho rằng: Âm Tịnh, Dương động. Bởi vậy: Ngày là Dương thì tịnh, Đêm là Âm thì động. Sinh hoạt của muôn loài trên thế giới này, ban ngày thì sôi nổi, ban đêm thì tĩnh lặng, chính vì nguyên lý: Trong không gian Dương Tịnh thì mọi sinh vật Âm Động và ngược lại. Nguyên lý Dương tịnh Âm đông giải quyết được khởi nguyên vũ trụ vì: Dương trước Âm sau. Nếu Dương động thì khởi nguyên vũ trụ không giải quyết được. Vài lời chia sẻ. Apr 5 2009, 12:15 AM Anh Thiên Sứ viết: Đã trả lời cho Thiên long rồi. Thưa anh Thiên Sứ. Anh viết: Phải chăng ý anh muốn nói đến Không gian ? Vì Không gian thấy Tĩnh ?. Và vì thế nên Không gian Dương thấy Tĩnh ?. Còn cả câu: Thì Tôi không hiểu rõ ý của anh !. Phải chăng ý anh muốn nói : Không gian là dương - thấy Tĩnh, Mọi sinh vật sống trong Không gian là âm, thấy Động. Nên mới nói là Âm động còn Dương Tĩnh ?.Nếu Ý anh cho như vậy, thì có nghĩa là anh cho rằng Dương tĩnh và Âm động, mệnh đề này nhất quán phủ định Dương động Âm tĩnh ?. Và đúng như vậy, thì Tôi phải xin lỗi Votruoc về cái việc Tôi đã cho rằng Votruoc hiểu Sai ý của Anh. Đồng thời, Chúng ta, tức là cả Anh, Votruoc và Tôi cũng nên trao đổi ký về vấn đề này. Thân ái. Apr 5 2009, 04:37 AM Anh Vuivui thân mến. Theo tôi suy nghiệm: Khái niêm Âm Dương là một khái niệm thể hiện tính đối đãi, phân biệt, dùng để chỉ các trạng thái có phân biệt đối đãi từ khởi nguyên vũ trụ cho đến ngày nay. Khái niêm âm dương còn ứng dụng trong muốn vật từ hạt vật chất nhỏ nhất cho đến bao trùm cả những thiên hà khổng lồ. Bởi vậy, khi quán xét một sự việc, sự kiện trong khái niệm AD thì - cũng như phương pháp khoa học - chúng ta phải cô lập hiện tượng đó - chúng ta đang bàn về "ngày - đêm trên trái đất". Nhất quán với quan niệm cho rằng Dương tịnh - Âm Động và Ngày là Dương quang chiếu sáng thuộc Dương nên tịnh và Đêm ngược lại thuộc Âm nên Động. Hầu hết muôn vật trên trái đất thuộc Âm - động trong Dương tịnh vào ban ngày là lý trong Dương có Âm. Ngược lại thì Âm động nên đa số sinh vật tĩnh. Cổ thư viết: "Dương trước Âm sau - Âm thuận tùng Dương". Nhưng cổ thư chữ Hán cũng viết: "Dượng động - Âm tịnh". Nhưng nếu xét từ khởi nguyên vũ trụ. Nếu Âm tịnh thì Dương không thể có trước được. Trong hai vế thì Thiên Sứ tôi xác định chỉ một vế đúng và khi đổi lại Dương tịnh - Âm động thì thuyết Âm dương ngũ hành nhất quán và ứng dụng hoàn chỉnh khi lý giải các vấn đề liên quan. Vài lời tường sở ngộ. Rất cảm ơn anh quan tâm. Apr 5 2009, 07:22 AM Anh Vuivui thân mến. Tôi xin nói rõ hơn điểm này: Thiên Sứ viết: Tôi xin được diễn giải rõ hơn là:Dương có trước - trong trạng thái khởi nguyên vũ trụ - mà Động theo cổ thư chữ Hán - thì - Dương động so với cái gì tĩnh để gọi là Dương động? Nếu có một cái tĩnh để so sánh với nó - thì bản thân nó - trạng thái Dương - và cái tĩnh đối đãi với nó, tự nó đã phân Âm Dương thì sao gọi là Dương? Bởi vậy! Khái niệm Dượng Động - Âm tịnh chỉ là một cách hiểu sai của đám triết gia đời Đường Tống - Trung Hoa - giải thích sai câu trong hệ từ: "Thái Cực sinh lưỡng nghi" mà thôi. Vài lời tường sở ngộ. Cảm ơn sự quan tâm của anh. Apr 5 2009, 05:29 PM Anh Thiên Sứ thân mến !. Xin phép Anh, Tôi sẽ đứng trong vai trò phản biện và diễn dịch. Ở vai trò này, hy vọng chúng ta có teher làm sáng tỏ được vấn đề chính yếu và các vấn đề liên quan. Bởi không chỉ Phản biện - chỉ với vai trò này, xem ra có vẻ như là "đối chưởng" vậy - mà còn Diễn dịch thì sẽ là Trao đổi và cùng nhau giải quyết một số vấn đề được xem như là Bế tắc. Thưa anh Thiên Sứ. Anh viết: Tôi thống nhất với Anh, và chắc không chỉ có anh và tôi đồng nhất với cách nhìn nhận này, mà có thể đó cũng là cách nhìn nhận, hay nói rõ ra là quan điểm của chung các nhà Lý học đông phương, có bề dày.Nhưng trong cách ngôn, nếu Tôi phát biểu, thì có thể nói như sau: Âm - Dương là phạm trù mang tính Nhị nguyên, có nội dung đối lập và thống nhất. Chỉ vậy thôi, anh ạ. Với cách phát biểu như vậy. Đó là nội dung mang tính triết học. Nó cho phép chúng ta suy nghĩ không chỉ về tính khởi nguyên của Vũ trụ, không chỉ trong phạm vi Vật chất (theo quan niệm vật chất phân biệt với tinh thần, hay nói cách khác, vật chất phi triết học) mà còn có thể suy nghĩ về nó trong thế giới Tâm linh. Như thế, Nó sẽ mang tính phổ quát nhất. Và cũng bởi là Nhị nguyên, nên Đó là "hai vai" hay hai bên đồng đẳng. Có như vậy, chúng ta mới có thể tiến xa hơn nữa trong quan niệm âm dương xác định. Xin lưu ý là âm dương xác định, hay âm dương phân biệt nó khác với âm dương nhị nguyên, mà người xưa hay gọi là Lưỡng nghi. Tính đối lập và thống nhất sẽ tự nhiên cho chúng ta thiết lập được Tứ tượng. Cho dù phát biểu thế nào đi nữa, thì hai cách, như anh đã trình bày và như tôi đã viết trên, đều là tương đương. Chỉ có khác nhau ở chỗ là sự chỉ dẫn tư duy mà thôi. Anh viết: Tức là khi xét một đối tượng, anh sẽ Cô lập đối tượng đó. Thì đương nhiên nếu nói về phương pháp, Tôi không có ý kiến. Bởi mỗi phương pháp, đều có chỗ diệu dụng. Và đây cũng là phương pháp phổ biến. Và anh viết tiếp chúng ta bàn về ngày và đêm. Nếu Tôi hiểu không nhầm ý anh, có nghĩa là anh đã tách Ngày và Đêm thành một vấn đề riêng biệt, cô lập đối với các cặp âm dương khác ?.Đến đây thì Tôi có ý kiến: Trước hế, chúng ta "nhìn" ngày và đêm dưới dạng cụ thể nào cái đã ?. Chẳng hạn như nhìn nó như là một Khái niệm, hay là một đối tượng Vật chất vận động (vật chất theo nghĩa tổng quát nhất, vật chất của triết học) ?. Khi nhìn Ngày và Đêm như một đối tượng vật chất, lẽ đương nhiên đó là một đối tượng có vận động, có chuyển hóa. Và như thế, Âm - Dương sẽ trở thành tính chất đối lập và thống nhất, như vốn có của Vật chất. Tôi tin là anh nhìn ngày và đêm ở nghĩa này !. Theo nghĩa này, đương nhiên phải có một Vũ trụ của nó, hay cho nó, để nó có thể vận động được ở trong đó. Có nghĩa là phải có Không - Thời gian cho cái Cặp này, để theo dõi được sự vận hành của nó. Chính sự chuyển biến từ ngày tới đêm, và ngược lại đã nêu bật tính thời gian cho nó. Và Không gian cũng tự nhiên được thể hiện bởi vì chúng ta đang ơ trong Không gian và Quan sát được sự vận hành của nó. Tức là, lẽ tự nhiên, nói tới ngày và đêm, thì cũng phải hiểu rằng sự vận động của nó có tính Không - Thời gian. Và như vậy, thì Phát biểu: Dương tịnh - Âm Động như anh viết là quan niệm cho rằng chứ không phải là một mệnh đề tất yếu. Và như thế, đương nhiên phải chứng minh, hoặc bằng Lý luận, hoặc phải có căn cứ trên cơ sở quan sát thực tiến. Nếu bằng Lý luận, thì phải có những Nguyên lý, hay Cơ sở tổng quát hơn nữa. Nhưng như đã thấy, đó là một Phạm trù Nhị nguyên. Đó là Gốc rồi, còn có gì cao hơn nó nữa !. Bởi là Nhị nguyên, thì Dương tinh Âm động hay Dương động Âm tĩnh đều như nhau !!!. Và Ngày Đêm một cặp đối lập - thống nhất này là một đối tượng trực tiếp - không qua trung gian - của Nhị nguyên âm dương, hay nói theo lý học đông phương, thì nó đã là Lưỡng nghi. Vì thế, có thể nói rằng, Lý luận để chứng minh, sẽ là Vô nghĩa. Và không làm được. Do tính có Không - Thời gian, nên có Quan sát, tính Quan sát được là tất yếu. Từ đó, đi đến khẳng định Cặp Ngày Dương - Đêm Âm phải được quan sát. Lấy từ Quan sát để đi đến Ngày Động hay Đêm Động ?. Rồi từ đó mới biết được là Đối với Ngày và Đêm, Dương Tĩnh hay Động. Nói thì Dài, nhưng thực ra, Cổ nhân xưa đều làm như vậy để có những kiến giải trong lý học phương đông. tức là phải phân biệt được, đối tượng nào có thể Lý, Đối tượng nào có thể Quan, đối tượng nào phải Cảm. Đối với Ngày và Đêm, đương nhiên là phải Quan và Cảm. Quan trước rôi mới có Cảm. Việc cho ngày là Dương, đêm Âm là lẽ đương nhiên. Và bằng vào Quan sát lâu dài, rồi Cảm, sau đó là đúc kết, đúng như Anh đã viết: Thì đó chính là kết luận Dương - Động, Âm - Tĩnh vậy !.(Tôi bận, xin tiếp tục sau) cám ơn sự quan tâm của Anh. Thân ái. Anh Vuivui thân mến.Chỉ còn vài giờ nữa là tôi về VN. Nến không tiếp tục trao đổi với anh. Hy vọng khi về tới "bển", chúng ta sẽ tiếp tục trao đổi để cầu tìm chân lý. Nếu anh có ý gì mới, có thể viết tiếp. Tôi bay mất trên dưới 24 tiếng mới tới nơi.Thân mến.
    1 like
  4. Rin86 xin được giới thiệu một số nhạc cụ của người Maya để mọi người cùng tham khảo:
    1 like
  5. Vâng! Tôi nhầm. Cảnh chỉ có độ số 2 thôi. Còn thời gian do câu hỏi của Trực giác: Trong tháng này (Tháng Sáu ) có xảy ra động đất nữa không? và ở đâu? Độ số 2/ 3/ 8 xác định số trận động đất trong tháng. Ít là 2, Nhiều là 8.
    1 like
  6. Nhân sư là một nhân vật thần thoại biến thái động vật được thể hiện như một con sư tử nằm với một cái đầu người. Nó có nguồn gốc từ các nhân vật điêu khắc thời Cổ Vương quốc Ai Cập, được người Hy Lạp cổ đại gọi bằng cái tên riêng của họ cho một quái vật nữ, "kẻ bóp cổ", một nhân vật cổ của thần thoại Hy Lạp. Các nhân vật tương tự xuất hiện trên khắp Nam và Đông Nam Á. Trong nghệ thuật trang trí Châu Âu, hình tượng nhân sư đã được khôi phục mạnh từ thời Phục Hưng về sau. Nhân sư Ai CậpTrong thần thoại Ai Cập cổ đại, nhân sư là một nhân vật biến thái động vật, thường được thể hiện như một con sư tử đực hoặc cái nằm và có đầu người, nhưng thỉnh thoảng là một con sư tử với đầu chim ưng, diều hâu, hay cừu. Nhân vật này có nguồn gốc từ thời Cổ Vương Quốc và gắn liền với vị thần mặt trời Sekhmet. Việc sử dụng đầu của những loài vật khác gắn trên mình sư tử tuân theo chức vụ thần thánh của thành phố hay vùng nơi chúng được xây dựng hay của loài nào đang chiếm ưu thế trong Đền bách thần Ai Cập ở thời điểm đó. Sau này, hình ảnh nhân sư, một thứ rất giống với ý tưởng nguyên gốc Ai Cập, đã được xuất khẩu tới nhiều nền văn hoá, dù thường được thể hiện khá khác biệt vì sự chuyển nghĩa từ các văn bản gốc và sự tiến hoá ý tưởng liên quan tới các truyền thống văn hoá khác. Nhân sư cuối thời cổ đại Hy Lạp, Attica, khoảng 530 trước Công Nguyên Các truyền thống Hy Lạp về nhân sư Từ thời đồ Đồng, người Hy Lạp đã có các giao lưu văn hoá và thương mại với Ai Cập. Trước khi Alexander Đại Đế chiếm Ai Cập, cái tên Hy Lạp, sphinx, đã được dùng để gọi những bức tượng đó. Các nhà sử học và địa lý Hy Lạp đã viết nhiều về văn hoá Ai Cập. Họ thỉnh thoảng gọi các nhân sư đầu cừu là criosphinxes, và các nhân sư đầu chim là hierocosphinxes.[cần dẫn nguồn] Từ sphinx có từ từ Hy Lạp Σφίγξ, rõ ràng từ động từ σφίγγω (sphíngō), có nghĩa "bóp cổ".[2] Cái tên này có thể xuất phát từ thực tế rằng những kẻ đi săn trong một bầy sư tử là các con sư tử cái, và giết con mồi bằng cách bóp cổ, cắn vào yết hầu con mồi và giữ tới khi nó chết. Từ sphincter (cơ vòng) cũng có cùng nguồn gốc. Có một nhân sư duy nhất trong thần thoại Hy Lạp, một con quái vật duy nhất của sự huỷ diệt và đen đủi. Theo Hesiod, nhân sư là con của Echidna và Orthrus; theo những người khác, nhân sư là con của Echidna và Typhon. Tất cả chúng đều là các nhân vật từ thời đầu thần thoại Hy Lạp, trước khi các thần Olympia chiếm ưu thế trong đền bách thần Hy Lạp. Cuốn The Penguin Dictionary of Classical Mythology của Pierre Grimal nói rằng tên thật của Sphinx là Phix (Φιχ), dù ông không đưa ra nguồn của thông tin này. Dù vậy, Sphinx được gọi bằng tên (Phix (Φιχ)) bởi Hesiod ở dòng 326 cuốn Theogony (Thần hệ). Trong Thần thoại Hy Lạp, một nhân sư được thể hiện như một con quỷ với đầu và bộ ngực phụ nữ, thân của sư tử, cánh của đại bàng, và chót đuôi rắn. Nhân sư là biểu tượng của thành bang cổ Chios, và xuất hiện trên các con dấu và trên các đồng xu từ thế kỷ thứ 6 trước Công nguyên cho tới thế kỷ thứ 3 sau Công Nguyên. Bí ẩn Nhân sư Nhân sư được cho là đã gác cửa vào thành phố Thebes Hy Lạp, và đưa ra một câu đố bí hiểm cho ai muốn vào thành. Câu đố chính xác của Nhân sư không được những người thời cổ kể lại rõ trong các câu chuyện của họ, và không được tiêu chuẩn hoá như câu đố dưới đây thời kỳ cuối lịch sử Hy Lạp.[3] Truyền thuyết về sau nói rằng Hera hay Ares đã gửi Nhân sư từ quê hương Ethiopia (người Hy Lạp luôn nhớ về nguồn gốc nước ngoài của Nhân sư) tới Thebes tại Hy Lạp nơi nó sẽ hỏi tất cả mọi người đi qua câu đố nổi tiếng nhất trong lịch sử: “Sinh vật nào buổi sáng đi bằng bốn chân, buổi trưa đi hai chân và buổi chiều đi ba chân, và khi nó càng có nhiều chân thì nó càng yếu?” Nhân sư bóp cổ ăn thịt tất cả những người không thể trả lời. Oedipus đã giải được với câu trả lời như sau: Con người—bò bằng hai tay hai chân khi là trẻ con, sau đó đi trên hai chân khi trưởng thành, và chống gậy đi khi đã già. Một số nguồn khác cho rằng[4] (nhưng hiếm hơn), có một câu đố thứ hai: "Có hai chị em: một người sinh ra người kia và người kia lại sinh ra người này." (trả lời: ngày và đêm,—cả hai từ đều là giống cái trong tiếng Hy Lạp.) Câu chuyện kể tiếp rằng, khi bị giải đố, Nhân sư tự lao mình xuống thềm đá và chết. Một phiên bản khác nói rằng nó tự ăn thịt mình. Vì thế Oedipus có thể được công nhận là một nhân vật "liminal" hay giới hạn, giúp tạo ra sự chuyển tiếp giữa việc thực hành tôn giáo cũ đại diện bởi cái chết của Nhân sư, và sự trỗi dậy của cái mới, các vị thần Olympia. Nhân sư ở Nam và Đông Nam Á Cung điện La Granja, Tây Ban Nha, giữa thế kỷ 18 Nhân sư Mannerist ở thế kỷ mười sáu thỉnh thoảng được cho là nhân sư Pháp. Tóc trên đầu nhân sư dựng thẳng và nó có ngực một phụ nữ trẻ. Thông thường nhân sư có đeo khuyên tai và ngọc trai. Thân nhân sư được diễn tả như một sư tử cái nằm. Những nhân sư này đã được phục sinh khi phong cách trang trí grottesche hay "grotesque" của "Golden House" (Domus Aurea) thời Nero được phát hiện hồi cuối thế kỷ mười lăm tại Rome, và nó được tích hợp vào nhiều phong cách thiết kế cổ điển và arabesque lan tràn khắp Châu Âu trong nghệ thuật điêu khắc hồi thế kỷ mười sáu và mười bảy. Những con nhân sư cũng xuất hiện trong trang trí loggia của Vatican Palace bởi xưởng Raphael (1515-20). Một phiên bản nhân sư biểu tượng của Lần xuất hiện đầu tiên của Nhân sư trong nghệ thuật Pháp là tại "School of Fontainebleau trong thập niên 1520 và 1530 và nhân sư tiếp tục xuất hiện trong phong cách Hậu Baroque ở Régence Pháp (1715–1723). Từ Pháp, nhân sư tràn đi khắp Châu Âu, trở thành một nhân vật thường thấy trong điêu khắc trang trí ngoài trời tại các vườn cung điện thế kỷ mười tám, như tại La Granja ở Tây Ban Nha, ở Białystok, hay những ví dụ Rococo sau này ở Queluz National Palace Bồ Đào Nha (hay có lẽ thập niên 1760), với cổ áo xếp nếp và ngực mặc áo và chấm dứt với một áo choàng nhỏ. Nhân sư là một đặc điểm trang trí nội thất của Kiến trúc tân cổ điển của Robert Adam và những đệ tử của ông, quay trở lại gần hơn với kiểu không mặc quần áo. Nhân sư đã thu hút sự quan tâm của cả các nghệ sĩ và nhà thiết kế của chủ nghĩa lãng mạn, và sau này là của các phong trào tượng trưng ở thế kỷ mười chín. Đa số các nhân sư thời kỳ này đều được đơn giản hoá theo Nhân sư Hy Lạp, chứ không theo phong cách Ai CẬp, dù chúng có thể không có cánh. nguồn: http://vi.wikipedia.org/wiki/Nh%C3%A2n_s%C6%B0
    1 like
  7. Góp ý đôi chút với chị, chị chờ thêm ý kiến các bác cho chính xác nhé
    1 like
  8. Theo ngu ý của Lão là bé sinh giờ dần . Giờ này : Người BT mặt tròn . Không phải là nói nhiều mà hay nói thẳng thì đúng hơn. Thích chỉ huy ( chỉ tay ) hơn là làm. Tiền bạc dễ kiếm nhưng ko giữ được , Biết làm ra tiền khá sớm. Sống xa cha mẹ thì tốt gần thì hay bất đồng ý kiến và xung khắc nhất là với mẹ. Rất chịu khó chăm sóc sắc đẹp, có thể nói mặt mũi ( chịu soi gương) . Nhưng cũng đề phòng trong ngừoi có bệnh đễ dẫn đến dễ bị mổ xẻ cắt bỏ . Số có số thể xuất ngoại Ngoài ra còn có thể nói là tính tình hay bao đồng dễ giúp người khác . Và cung hay được giúp đỡ . Quan lộ công việc thường chỉ có hư danh mà ko có thực quyền nên dễ sinh chán nản trong cuộc sống rất vọng động để kiếm tiền . Có thể nói văn vũ toàn tài nhưng để khá lên phải qua tuổi 40 . Có thể nói là việc bé làm nhưng công dễ biến thành của người khác . Sang năm có thể lên xe hoa bất ngờ.... Lão dừng tại đây chúc bé thành công!
    1 like
  9. VN tố cáo TQ vi phạm chủ quyền tại LHQ Cập nhật lúc :3:58 PM, 18/06/2011 Ngày 17/6, tại Hội nghị thường niên của các nước thành viên Công ước Liên hợp quốc (LHQ) về Luật biển tổ chức ngày 14-17/6 tại trụ sở LHQ ở New York, Đại sứ Việt Nam Lê Lương Minh đã lên tiếng phản đối Trung Quốc có những hành động vi phạm chủ quyền của Việt Nam ở Biển Đông. Đại sứ Lê Lương Minh tố cáo Trung Quốc cho phép các tàu hải giám và tàu cá Trung Quốc cắt và gây rối dây cáp của 2 tàu thăm dò địa chấn thuộc Công ty PetroVietnam đang hoạt động trong khu vực chủ quyền lãnh hải Việt Nam ở Biển Đông cho rằng hành động này vi phạm trắng trợn chủ quyền biển của Việt Nam, đồng thời lên án và bác bỏ cái gọi là bản đồ "đường lưỡi bò" 9 đoạn của Trung Quốc trên Biển Đông. Đại sứ Lê Lương Minh yêu cầu Trung Quốc chấm dứt ngay những hành động vi phạm chủ quyền biển của Việt Nam và thực hiên nghiêm chỉnh Công ước LHQ về Luật biển năm 1982. Đại sứ khẳng định Việt Nam kiên trì giải quyết bất đồng Biển Đông bằng giải pháp hòa bình thông qua đối thoại đa phương giữa các bên trên cơ sở Công ước LHQ về Luật biển của LHQ năm 1982, DOC và các công ước quốc tế khác liên quan. Theo TTXVN
    1 like
  10. Yêu nhau thì lấy nhau. Nữ thì năm nào cưới cũng được nhưng nên chọn tháng được Đại Lợi hoặc chí ít được tiểu lợi. Năm cưới phụ thuộc người chồng có bị hạn tam tai ko.
    1 like
  11. Thì tôi có chê bai gì sư phụ của chú trucgiac đâu? Tôi ngưỡng mộ tâm huyết của chú Thiên Sứ và luôn ủng hộ chú, chỉ là chưa có duyên để theo học cùng với chứ Thiên Sứ. Còn đệ tử thì chú Thiên Sứ có cả khối, mà nhiều khi chưa chắc chú Thiên Sứ đã nhớ mặt!
    1 like
  12. Trung quốc làm mạnh lần này, tự lột bỏ bộ mặt giả nhân giả nghĩa của mình có khi lại tạo thế " cùng tắc biến " cho Việt nam và các nước Đông Nam Á. Có khi phải cám ơn họ. Giúp thức tỉnh 1 số người Việt và 1 bộ phận thế giới vẫn còn tin tưởng tuyệt đối vào lời đường mật chết người " trỗi dậy hoà bình, anh cả của giới cần lao ..v..v.." Chỉ sợ hắn chủ động khuấy động can qua, đẩy xung đột lên cao rồi giảm xuống 1 chút, theo chiêu " lấn 3, lùi 2, còn lời 1 ", vừa được tiếng tốt với thế giới vừa có bánh ăn thì thua thiệt cho Việt nam ta quá. Hoặc giả tay phải giơ cao dọa đánh, tay trái chìa ra cái bánh mốc ( có tẩm thuốc độc 10 năm sau mới phát tác ), mất cảnh giác lơ là thì đất đai, biển đảo teo dần hoặc tệ hơn là bao tử bị bóp, tay chân rũ riệt, dựa dẫm vào họ để sống qua ngày. -Miền Bắc lai tiếp tục mua điện. -Cả nước nhập siêu từ TQ cực lớn va ngày càng tăng -Nông dân thích bán nông sản cho TQ hơn cho thương lái Việt dù rất nhiềi lần bị họ cho lên bờ xuống ruộng. ... còn nhiều vd khác đơn giản dễ thấy nữa chưa kể đến những vấn đề thâm sâu như rất nhiều người mặc nhiên thừa nhận ,đánh đồng lý học đông phương đông với triết học cổ TQ, xem TQ là cội nguồn lý học mà không thèm có chút nghi ngờ.
    1 like
  13. Ta cũng thiên về giờ dần nhiều hơn! Vì giờ này năm nay có sự lừa tình : " khách đến ăn tiệc xong rồi đi mất". Đau lắm hận lắm mà không tài nào nói ra được đau mà phải nuốt vào trong. Có thể có hậu quả của năm nay để lại
    1 like
  14. @Katze, Cháu: Nữ - Mậu Thìn Hỏi vào lúc: 17h 23 phút ngày 09/07/2011 Câu hỏi 1: Hôm nay có người nói năm nay bố cháu rất căng về sức khỏe. Cháu lo quá. Vậy cháu muốn hỏi bố cháu năm nay có vấn đề gì về sức khỏe không ạ? Xem lại mật và thận có vấn đề gì không. Câu hỏi 2: Chồng cháu sau này là người thế nào? Có phải là người chung thủy không ạ? Cháu có được nhờ chồng không ạ? Người dõng cao, nước da sáng, tính trầm nhưng vui vẽ. Chung thủy. Chồng yêu chìu. Câu hỏi 3: Hai vợ chồng sống có hạnh phúc không ạ? Hanh phúc. Cháu lo nhất là sức khỏe bố cháu. Bố cháu sinh năm 1952, tuổi Mèo. Mong chú xem giúp cháu. Cháu cảm ơn chú nhiều ạ. @geotech Em chân thành cảm ơn anh Thiên Đồng đã tư vấn ở #127. Em có thêm vài thắc mắc, mong em giải đáp giúp Em sinh ngày 31/10/1979; vợ em sinh 24/5/1984 Giờ hỏi 19h55 ngày 9/7/2011 Câu hỏi 1: Vợ em mang thai được 3 tuần rồi, vợ em có mẹ tròn con vuông được không? Sẽ tốt. Nhưng thường xuyên chú ý huyết áp hay tim mạch. Câu hỏi 2: Bây giờ vợ chồng em đang thuê nhà, bao giờ vợ chồng em có thể mua được nhà ạ? Nhanh thì tháng 8, chậm thì tháng 9 âm năm nay. Một lần nữa cảm ơn anh, chúc anh sức khỏe! @thanhnhien Chào Anh "Đông Thiền" ! em là nam , sinh Canh Thân giờ hỏi : 02h03 ngày 10/7/2011 mong anh xem giúp em một quẻ này! Em đang làm chỗ A. Đã nhờ 1 người X xin về chỗ B và Ban lãnh đạo chỗ B đã đồng ý. Nhưng em đã gửi hồ sơ cho người đó gửi cho Ban lãnh đạo chỗ B đã được 2 tháng nay rồi mà em không thấy trả lời. Mong anh giúp e 1 quẻ câu hỏi 1: Chỗ làm B mới này có tốt không, Nếu tốt thì e sẽ nhắc người mà e đã nhờ để tác động lại với Ban lãnh đạo B? Không nên nghĩ đến chổ này. Thiếu uy tín và trách nhiệm. câu hỏi 2: Dự định chuyển đổi này có thành không? Nếu có thì khi nào? Sẽ khó khăn hơn, nhưng về dài sẽ tốt, nhanh thì tháng 8, chậm tháng giêng năm sau. câu hỏi 3: Nếu không, em có nên chuyển hướng sang xin 1 chỗ C khác hay vẫn cứ ở lại chỗ A? Xin một chổ C khác. cảm ơn anh !!! @Engineer, Cháu chào chú Thiên Đồng nhé. Cháu mới kể cho mẹ cháu về diễn đàn Lý Học Đông Phương, mẹ cháu muốn nhờ chú tư vấn giúp mấy vấn đề sau đây ạ: Tuổi Kỷ Hợi Hỏi vào ngày : 10/8/2011 giờ 9h10 phút dương lịch Câu hỏi 1: Mẹ cháu bỏ vốn vào môi giới bảo hiểm, vậy liệu mẹ cháu có thu hồi được vốn về không ạ (nếu có thì chậm nhất là đến bao giờ thì thu lại được ạ)? Không biết đến đâu. Cố tới đâu được thì tới. Câu hỏi 2: Sức khỏe năm nay mẹ cháu thế nào ạ? Bình thường thôi. Có hay ho hoặc tiêu hóa kém. Không lo. Câu hỏi 3: Mẹ cháu định đi buôn vải khô xuất khẩu sang Trung Quốc, việc buôn bán này có thuận lợi, có lời lãi gì không ạ? Lỗ nặng. Chuyến thứ 4 thì bị lừa. Mong được sự tư vấn từ chú giúp mẹ cháu với ạ. @hajiwon Kính chào chú Thiên Đồng Xin nhờ chú xem dùm cháu 1 quẻ Tuổi: Giáp tý (16/12/1984 âm lịch - 06/01/1985 dương lịch) Hỏi vào ngày 12 tháng 07 năm 2011 giờ:10:55 dương lịch. Câu hỏi 01: cháu đang gặp rắc rối trong công việc do chính cháu tạo ra xin hỏi chú cháu có thoát ra được chuyện này không ạ? và nó ảnh hưởng như thế nào đối với cháu, Sẽ rút ra khỏi, tuy chậm, nhưng mất một phần lợi hay uy tín. Câu hỏi 02: chừng nào cháu mới có thể tiết kiệm được tiền bạc và tiền bạc có dư dả hay không? nhanh thì 1 năm sau, nhiều thì 31 tuổi. Câu hỏi 03: cháu muốn xem tình duyên cháu có gia đình hay không (hiện tại cháu chưa có bạn trai) nhanh thì tháng 8 âm này có tình duyên, châm thì sau 2 năm nữa sẽ có gia đình. Cháu xin cảm ơn nhiều @ canhcut Kính chào chú Thiên Đồng, mong chú xem giúp cháu Cháu là nữ, tuổi canh ngọ 1990 Giờ hỏi là 18h 30 phút, ngày 13 tháng 7 năm 2011 dương lịch Câu hỏi 1: Bạn cháu có rủ cháu tham gia bán hàng cùng, làm như 1 công việc làm thêm. Liệu cháu có nên tham gia không ạ? Không nên. không tốn công thì cũng tốn của. Câu hỏi 2: Cháu cảm thấy mất niềm tin vào người bạn ở trên. Liệu bạn ý có thật sự tốt và đáng tin cậy không ạ? Chỉ cafe cà pháo cho vui thôi. không nên hợp tác, hùn hạp kẻo ở dưới kèo người ta. CHáu cảm ơn chú
    1 like
  15. Ngư dân Việt Nam bị Trung Quốc đánh, tịch thu tài sản - Bộ Ngoại Giao chưa lên tiếng. (PL)- Trước đó, khoảng 10 giờ ngày 5/7/2011, tại phía đông bắc quần đảo Hoàng Sa, các ngư dân trên đang đánh lưới cản thì có một tàu chiến của Trung Quốc mang số hiệu 44861 đuổi theo. Tàu chiến thả một canô chở 10 lính trang bị tiểu liên và dùi cui xông lên tàu, đánh đập thuyền trưởng Nguyễn Thừa, thuyền trưởng tàu QNG-98868 TS, và lục soát thu giữ khoảng một tấn cá. Sau đó, lính Trung Quốc đuổi các ngư dân, không cho đánh cá ở vùng biển này. Ông Thừa cho tàu tiếp tục đi đánh bắt để kiếm tổn phí, sau đó mới vào bờ và báo cáo sự việc. Ngày 13/7/2011, báo Pháp Luật đưa tin từ Đồn biên phòng Mỹ Á thuộc bộ đội biên phòng Quảng Ngãi cho biết: các ngư dân trên tàu cá QNG-98868 TS do ông Nguyễn Thừa (ngụ xã Phổ Quang, huyện Đức Phổ, Quảng Ngãi) làm chủ đã bị lính Trung Quốc đánh đập, tịch thu tài sản và xua đuổi khi đang đánh bắt cá trên vùng biển thuộc chủ quyền Việt Nam. Từ nhiều năm nay, binh lính Trung Quốc thường xuyên quấy nhiễu đánh đập bắt giữ tàu và ngư dân Việt Nam để đòi tiền chuộc, khi họ đang đánh bắt cá tại vùng biển thuộc chủ quyền của Việt Nam. Những hành động này của Trung Quốc đã khiến cho ngư dân Việt Nam lâm vào cảnh bần cùng. Cùng ngày 13/7/2011, theo kế hoạch, đại diện Bộ Ngọai giao có cuộc gặp với các nhân sĩ ký tên vào bản kiến nghị yêu cầu Bộ Ngọai giao cung cấp thông tin về quan hệ Việt Nam - Trung Quốc. Nhóm nhân sĩ trí thức muốn có cuộc tham vấn chính thức trước khi trả lời phỏng vấn cho các hãng truyền thông nước ngoài. 18 vị nhân sĩ trí thức đã ký tên vào bản kiến nghị hầu hết là các bậc lão thành quyền cao chức trọng và đã đảm nhận các trọng trách trong chính quyền, trong đó có: thiếu tướng Nguyễn Trọng Vĩnh, giáo sư Hòang Tụy, giáo sư Phạm Duy Hiển, giáo sư Nguyễn Huệ Chi, tiến sĩ Nguyễn Quang A, tiến sĩ Nguyễn Xuân Diện và luật sư Trần Vũ Hải... QUÂN MẤT DẠY. TỘI NGHIỆP NHỮNG NGƯỜI NGƯ DÂN. KIỂU NÀY THÌ TÁN GIA, BẠI SẢN THÔI.
    1 like
  16. Tái Sinh Ở Phương Tây Ghi chú: Về tác giả Vicki Mackenzie, bà chào đời năm 1947 tại Anh, con của một sĩ quan hải quân,, lớn lên tại Úc, tốt nghiệp đại học Queensland University và làm ký giả cho báo nhật báo Sun tại Sydney. Sau này bà di chuyển qua Luân Đôn, viết cho các nhật báo như Daily Sketch, Daily Mail, Sunday Times, Observer, Daily Telegraph, Sunday Telegraph, Daily Express, Mail on Sunday và đóng góp cho nhiều tạp chí quốc gia.Vào năm 1976, bà nghỉ phép một tháng để dự một khóa thiền tại Nepal. Từ đó cuộc đời bà chuyển hướng. Bà muốn dùng ngòi bút để viết báo và viết sách nhằm mang Phật giáo và thuyết luân hồi đến công chúng Tây Phương.Bà đã viết những cuốn Reincarnation: The Boy Lama; Reborn in the West: The Reincarnation Masters (bài Hazel Denning nằm trong cuốn này); A Young Man of The Lama: A Tale Of Drugs, Hot Sex, and Violence in The Fall Of Tibet; Cave in the Snow: A Western Woman’s Quest for Enlightenment (hồi ký của Tenzin Palmo); Why Buddhism?: Westerners in Search of Wisdom; Child of Tibet (viết chung với Sonam Yangchen). Vicki Mackenzie Vào một buổi chiều lười biếng ở Sydney, tôi mở Tivi và thấy chương trình Oprah Winfrey đang tranh luận về kiếp trước kiếp sau, cuộc tranh luận rất sôi nổi. Đây là một “talk show” của Mỹ. Khách mời là Dr. Hazel Denning, bác sĩ phân tâm học, là một phụ nữ có tuổi, thông minh, ăn nói rất lưu loát và là sáng lập viên của hội Association for Past life and Therapies (Hội Nghiên cứu kiếp trước kiếp sau để ứng dụng vào việc chữa trị). Là một người tiền phong trong lãnh vực này, bà đã đi nhiều nơi trên thế giới thuyết giảng về luân hồi.Ngoài tài ăn nói rõ ràng lưu loát về đề tài luân hồi, về vấn đề kiếp trước ảnh hưởng đến kiếp hiện tại, bà còn là một bác sĩ tâm lý trị liệu rất giỏi. Tôi nghĩ công trình nghiên cứu của bà về luân hồi vào khoa tâm lý trị liệu ở Tây phương sẽ là những tài liệu quý báu cho tôi, nên tôi tìm cách hội kiến với bà.Máy bay hạ cánh xuống một phi trường nhỏ ở miền Nam California. Giáo sư Denning thân hành ra đón tôi. Người nhỏ thó, lưng thẳng đi đứng nhanh nhẹn tuy đã ngoài tám mươi. Bà ung dung lái xe về nhà ở Riverside, nơi sản xuất cam nổi tiếng của Cali. Trong căn phòng làm việc của bà treo đầy bằng cấp, chứng chỉ: hai bằng tiến sĩ, hai bằng thạc sĩ, bằng cấp cử nhân và rất nhiều văn kiện chứng thực bà rất uyên bác về khoa thôi miên và khoa cận tâm lý (Parapsychology). Trong hai ngày tôi ở lại nhà bà, bà kể cho tôi nghe về công việc của bà và giải thích lý do bà chọn công việc này. Từ hồi nhỏ, giáo sư Denning hay thắc mắc muốn tìm hiểu “tại sao” về việc này việc nọ, tại sao con người phải chịu khổ đau. Bà không tin đó là ý Chúa (God). Bà cho là tin như vậy có vẻ không hợp lý.Năm ngoài hai mươi tuổi, tình cờ bà được đọc một cuốn sách về luân hồi. Bà vui mừng,”Ôi chao! Tôi đã tìm được giải đáp cho những thắc mắc của tôi rồi. Tôi quá đổi vui mừng và suy nghĩ: cuối cùng thì tôi cũng tìm được một lời giải hợp lý, có thể lý giải được tất cả những bất công của thế gian”.Hồi đầu thì bà chưa tin lắm. Bà tìm đọc những tài liệu xưa để xem những thức giả đời trước nghĩ sao về luân hồi, và khám phá ra rằng tất cả những tôn giáo lớn trên thế giới đều tin luân hồi kể cả Thiên chúa giáo cho đến năm 533 sau Tây lịch, thì một ông vua La Mã và bà hoàng hậu cấm không cho nói đến luân hồi nữa. Có hai giáo hoàng bị giết vì muốn giữ đoạn nói về luân hồi trong kinh sách. Ít người biết đến dữ kiện này. Cũng không mấy ai biết chuyện những cha cố ngày xưa như cha Origin và ông thánh Augustin đều tin có luân hồi. Bà nói, “Vậy những người nào nói rằng tin có luân hồi là trái với giáo điều Thiên chúa giáo là không biết những chuyện này”. Bà càng thích thú hơn khi khám phá ra những nhân vật nổi tiếng từ cổ chí kim đều tin có luân hồi, từ Plato, Aristotle, Socrates đến Henry Ford, Gladstone, Thomas Edison, đại tướng Patton và nhiều người khác nữa. Bà áp dụng những hiểu biết về luân hồi vào khoa chữa bệnh tâm thần để tìm hiểu nguyên do sâu xa do đâu mà bệnh nhân dường như sống ở một thế giới khác, hay có nhiều sợ hãi vô lý (phobia).Tôi nóng lòng muốn biết giáo sư Denning làm sao dung hòa được hai vai trò có vẻ trái ngược, vai trò của một bác sĩ tâm thần và vai trò của một người dùng thuật thôi miên đưa bệnh nhân trở về kiếp trước. Làm sao bà có thể chấp nhận lối giải thích của các bác sĩ tâm lý trị liệu hiện nay dùng chữ nghiệp (karma) để giải thích rằng những gì xảy ra trong đời này đều do nghiệp chướng đương sự đã tạo nên từ nhiều đời trước.Giáo sư Denning không tin môi trường sống là tác nhân chính ảnh hưởng đến cách hành xử của một người. Bà công nhận hoàn cảnh bao quanh đời sống cũng đóng một vai trò khá quan trọng nhưng không phải là yếu tố chỉ huy. Theo bà thì mục đích của đời sống ở thế gian là để tu tâm hướng thượng. Một người tái sanh ở lại cõi trần là để thanh toán, thành tựu những gì mình làm dang dở trong những kiếp trước. Bà nói có những đứa trẻ sanh ra với một bản tánh yêu đời, đứa khác thì hay cáu giận, tức là mang theo chủng tử của kiếp trước. Theo bà thì số phận (destiny) của mỗi người không thể thay đổi được những phước báu của cha mẹ hay môi trường chung quanh có thể làm cho đời sống của người ấy thoải mái hơn hay khó khăn hơn.Vì thế giáo sư Denning quyết định trở nên một nhà thôi miên chuyên nghiệp. Bà muốn dùng thuật thôi miên đưa bệnh nhân trở về sống lại kiếp trước của mình. Bà rất cẩn trọng, tỉ mỉ và trung thực trong công việc này. Bà không tìm cách khống chế tư tưởng của bệnh nhân. Bà nói ngày trước trong khoa thôi miên người ta thường dạy phương pháp gợi ý cho bệnh nhân (post-hypnotic suggestion) dùng những câu như “Không được ăn thức ăn này. Thức ăn này ghê lắm v.v…”. Tôi không dùng phương pháp ấy, trái ngược với nguyên tắc của tôi. Tôi tìm được cách riêng của tôi mà không cần khống chế tâm ý của bệnh nhân. Vì thế tôi muốn dùng cụm từ “đổi đời” (altered state) thay vì hai chữ thôi miên”. Năm 1980 bà lập hội “Association for Past Life Research and Therapies” và vui mừng thấy hội phát triển nhanh hơn dự tính, vì số người tin và muốn tìm hiểu luân hồi ngày càng đông. Bà khẳng định rằng khoa hướng dẫn bệnh nhân nhớ lại kiếp trước (Past Life Therapy) trở nên một dụng cụ hữu hiệu trong khoa tâm lý và y khoa toàn diện – chữa trị cả thân và tâm. Đường hướng này không những phát triển nhanh ở Mỹ mà còn lớn mạnh ở các nước khác trên thế giới. Bà được mời đi nói chuyện nhiều lần ở Á châu và ở trường đại học Ultrecht của Hòa Lan, một trường đại học xưa nhất, mà cũng là trường đại học đầu tiên có giảng dạy môn cận tâm lý (parapsychology). Ở Mỹ những người tìm đến với Dr. Denning gồm đủ mọi thành phần xã hội. Bà dùng phương pháp thông thường trước. Nếu không có kết quả thì bà đưa bệnh nhân trở về kiếp trước để tìm hiểu nguyên nhân. Bệnh nhân của bà gồm đủ mọi hạng người, mục sư có, chuyên viên có, rất nhiều nhà giáo, nhiều quân nhân và các thành phần khác. Thường thường ai cũng muốn hỏi. “Mục đích của đời sống là gì?”, “Tôi đang làm gì ở đây”, “Tôi trở lại lần này để làm gì?” Bệnh nhân của bà thường ở lứa tuổi ba mươi đến bốn mươi, nhưng có một cô bé chín tuổi xin cha mẹ đến gặp bà để tìm hiểu tại sao cô sợ máu lắm. Mới chín tuổi nhưng cô rất chững chạc. Vừa thiếp đi cô bé thấy kiếp trước của mình là một ông già đang giẫy chết vì bệnh tim. Bỗng dưng cô la lên, “Không, tôi không phải chết vì bệnh mà vì tôi quá đau khổ”. Rồi cô bắt đầu kể đến ông già – tức là tiền thân của cô – đưa vợ đi ăn tiệm. Một tên cướp vào tiệm bắn chết nhiều người trong đó có vợ ông. Cô thấy người “vợ” chết trong vũng máu – ấn tượng hãi hùng đó theo thần thức qua đến đời này. Thêm vào đó là mặc cảm tội lỗi đã không cứu được người “vợ” của mình ray rức hành hạ cổ, bà kết luận. Quan điểm của giáo sư Hazel Denning về vấn đề này rất rõ ràng vì bà chứng kiến hàng ngàn bệnh nhân đã đổi đời, bà thấy rõ bao nhiêu thảm cảnh trong nhiều kiếp của họ và triển khai riêng lý thuyết của bà. Cuộc đàm thoại sau đây [giữa Vicki Mackenzie với giáo sư Denning], vì vậy, không những có giá trị về mặt thông tin mà còn rất thù vị và hào hứng. *Vicki Mackenzie: Tại sao lại có hiện tượng tái sanh? Hazel Denning: Khi đưa một người trở về kiếp trước và tìm hiểu tại sao đương sự chọn tái sanh vào gia dình này, và mục đích của họ trở lại thế gian để làm gì thì ai cũng có câu trả lời tương tự: “Quả thật tôi không muốn trở lại thế gian chút nào. Ép mình vào cái xác phàm như đi vào tù, ngột ngạt lắm”. Khi tôi hỏi lại: “Vậy tại sao ông/bà lại trở về, có ai bắt mình ở lại đâu?” thì câu trả lời luôn luôn là: “Vì thế gian là một trường học để rèn luyện nhân phẩm của mình. Muốn trau dồi tâm linh, muốn hướng thượng thì phải trở lại thế gian. Mà thật tình tôi muốn tu tâm nên tôi phải trở lại thế gian này”. Đó là câu trả lời tôi ghi lại. Vicki Mackenzie: Theo kinh nghiệm của bà thì người ta trở lại thế gian này bao nhiêu lần? Hazel Denning: Vô lượng kiếp, cho đến khi họ học hỏi thành tựu được những điều mong muốn. Ngay cả trong đời hiện tại này có người phải mất nhiều năm mới thấy rõ ý nghĩa của những chướng ngại khó khăn xảy ra cho mình. Có một bà khi đến phòng mạch lần đầu tuyên bố rằng, “Tôi đến đây muốn hỏi về tình yêu lứa đôi”. Trả lời thế nào với bà này? Là bác sĩ chuyên môn về khoa tâm lý, tôi không thể nói bà cứ yêu đi rồi sẽ được yêu. Bà vẫn đến phòng mạch nhưng không thường xuyên. Mãi đến mười tám năm sau bà mới tìm ra “chân lý”. Trong thời gian không gặp mặt, bà có một đời chồng, ly dị, ăn ở với một ông khác, lấy chồng lần thứ hai, rồi cũng ly dị, ăn ở với năm, sáu ông khác nữa cho đến một hôm bà không chịu đựng được cảnh sống một mình nữa và cương quyết đi gặp tôi mỗi ngày cho đến khi nào tìm được nguyên nhân tại sao bà không thể chung thủy với một người. Cuối cùng thì bà thấy kiếp trước bà là con gái của một gia đình giàu có ở Hy Lạp. Khi chừng mười bốn tuổi, cô bé yêu cậu người làm cùng tuổi. Khi biết được, cha cô nổi trận lôi đình đày người yêu của cô ra một hòn đảo và bán cô cho một người đàn ông lớn tuổi. Quá đau buồn uất ức, cô tự tử chết. Trước khi chết, cô nguyện rằng. “Tôi thề sẽ không bao giờ, không giờ thương yêu ai nữa”.Qua bao năm kinh nghiệm với công việc này, tôi thấy tư tưởng hay ý nguyện cuối cùng trước khi chết, nếu là tiêu cực sẽ theo người đó qua kiếp sau. Thí dụ nếu mình chết với lòng giận dữ, với tâm thù hận thì kiếp sau mình phải tu tâm dưỡng tánh để rửa lòng, để xả bỏ những thù hận của kiếp trước. Trở lại chuyện bà khách. Sau khi biết tiền kiếp của mình, bà gặp được một người chồng tử tế và có hai đứa con. Bà đang hụp lặn trong hạnh phúc mà trước đây bà không thể tưởng tượng có ngày bà có thể được hưởng. Sau khi chứng kiến câu chuyện bà này, tôi nghiệm rằng có nhiều người không thể một sớm một chiều mà tìm được lời giải. Họ cần phải trải qua nhiều biến cố nữa trước khi thấy cái nghiệp của mình. Và câu chuyện này cũng giúp tôi đi đến kết luận rằng mình không thể tự dối lòng. Cho đến khi mình thấy được cái nhân của đời trước, mình mới có thể giải quyết cái quả của đời này. Nhiều khi phải đi sâu vào nhiều đời trước mới thấy được cái “nhân” chính đang chi phối đời sống hiện tại. Vicki Mackenzie: Có những người đa nghi cho rằng bệnh nhân tưởng tượng ra những hình ảnh, thêu dệt nên những câu chuyện trong tiềm thức của họ để biện minh cho những đau buồn ưu não của họ? Hazel Denning: Nếu quả đúng như vậy thì khoa tâm lý học phải giúp được bệnh nhân giải quyết mọi ẩn ức của họ chứ. Nhưng thực tế thì không phải vậy. Có nhiều bệnh nhận của tôi theo khoa tâm lý trị liệu trong nhiều năm mà không ăn thua gì. Vicki Mackenzie: Bà có cho rằng chính mình tự chọn đời sống của mình không? Hazel Denning: Đúng vậy. Để tôi kể cho cô nghe một chuyện rợn tóc gáy. Một người đàn bà đến nói với tôi rằng: “Mẹ tôi đang hấp hối, cha tôi thì chết rồi. Cả cha lẫm mẹ tôi bầm dập sờ mó tôi hồi tôi mới ba tuổi cho đến năm tôi mới mười ba tuổi”. Khi thiếp đi, bà sống lại cảnh tượng bị cưỡng hiếp hồi còn bé và la lên, “Cha ơi đừng, đừng làm con đau!” và bà nói tiếp liền “Tôi muốn tha thứ cho mẹ tôi trước khi bà chết nhưng tôi thấy khó tha thứ quá, tôi thù ghét cả cha lẫn mẹ”.Nếu một người muốn sẵn sàng tha thứ, muốn quên hận thù cũ thì người đó đã được một sự chuyển hóa tâm linh cao và có thể hóa giải được. Nhưng nếu người nào nói ra rằng, “Đừng nói đến chuyện tha thứ những quân dã man đó, Tôi sẽ không bao giờ tha thứ cho họ. Tôi thù ghét họ”. Thì đừng tìm cách giúp họ tha thứ vì tâm họ chưa sẵn sàng.Đối với bà này, tuy bà nói sẵn sàng tha thứ cho cha mẹ, nhưng tôi nghĩ “Làm sao tôi có thể giúp bà ta tha thứ cho người cha, người mẹ đã làm những chuyện ghê tởm như thế đối với con mình”? Tôi bức rức, dằn vặt mãi và cuối cùng chính bệnh nhân đã giúp tôi tìm câu giải đáp. Bà thấy kiếp trước, thời Đức Quốc Xả, bà là một đứa trẻ bụi đời, sống lang thang đầu đường xó chợ và đã giết chết một đứa trẻ khác. Sau đó họ bị bắt vào Auschwitz, một trại giam người Do Thái, và bắt phải làm công việc kiểm soát những đứa trẻ Do Thái bị giết đã chết hẳn chưa. Lúc đầu công việc không làm bà phiền hà mấy, nhưng ngày lại ngày nhìn bao nhiêu xác trẻ con, bà chịu không được nên đã bỏ trốn và bị bắn chết. Bệnh nhân nói thêm rằng, “Đời sau, khi tái sanh, tôi muốn cha mẹ tôi hành hạ tôi để tôi trả nghiệp cho mau. Vì vậy tôi phải cám ơn hai vị này đã giúp tôi trả nghiệp báo” .Vicki Mackenzie: Có bao giờ bà chứng minh được những mẫu chuyện tiền thân này thật sự xảy ra không? Hazel Denning: Có chứ. Tôi vẫn để tâm theo dõi mỗi khi có dịp tốt. Thí dụ trường hợp một thân chủ nhất định không cho các con đi coi đoàn biểu diễn của gánh xiếc. Bà biết cấm đoán như vật thật là vô lý nhưng bà không thể làm gì khác hơn. Khi được đưa trở về kiếp trước thì bà thấy chính bà là “con mụ mập” (the fast lady) của một gánh xiếc và bà ghét cay ghét đắng vai trò của mình. Bà nhớ cả tên người đàn bà mập ấy và cả tên thành phố nữa. Có một bệnh nhân khác có mặt hôm đó biết thành phố này. Ông tình nguyện sẽ tìm đến xem thì quả nhiên đầu thế kỷ 20, ở thành phố đó có một bà mập tên đó đã theo đoàn hát xiếc kiếm ăn như lời bà kia tả lại. Trong đời hiện tại bà này cũng mập.Một bệnh nhân khác nhớ lại kiếp trước bà là một phú thương đàn ông bị chết chìm theo chiếc tàu Titanic. Bà nhớ tên tuổi của người đàn ông này. Về sau tìm xem sổ sách thì quả nhiên người đàn ông ấy là hành khách trên chiếc tàu Titanic. Bà kể khi nhìn thấy tên trong sổ bà rùng mình ớn lạnh! Ngoài những chứng cớ cụ thể này, những chứng cớ cho thấy những chuyện tiền thân mà các thân chủ tôi nói ra là có thật, và nó rất hợp tình hợp lý với bối cảnh riêng của từng người. Nhờ đó họ có thể đổi đời, có thể thoát được những ray rứt, những sợ hãi vô lý làm xáo trộn đời sống hiện tại của họ. Vicki Mackenzie: Có ai tỏ ra có mặc cảm tội lỗi khi nhìn thấy những việc xấu họ đã làm trong những đời trước? Hazel Denning: Không hẳn như thế sau khi họ hiểu mục đích của sự tái sanh và duyên nghiệp. Tôi giải thích cho họ thấy rằng những chuyện xảy ra trong quá khứ không quan trọng mấy. Quan trọng chăng là những gì mình học hỏi được từ những biến cố ấy, và dường như đây mới là nguyên tắc căn bản.Có một trường hợp rất lạ lùng. Một bệnh nhân vừa bước vào phòng mạch là ngồi phịch xuống ghế, đấm mạnh hai tay vào thành ghế và la lớn, “Tôi ghét Chúa! Jesus Christ là một kẻ lừa đảo! Tôi đã cố gắng làm hết mọi thứ, đã đi tìm thầy chuyên môn, đã học hết kinh Thánh mà vẫn không thay đổi gì được cuộc sống của tôi. Tôi khổ quá!” Bà gặp toàn chuyện xui. Rờ tới cái gì thì hỏng cái đó mặc dù bà là một người có khả năng xuất chúng. Sự nghiệp làm ăn bà gây dựng nên tưởng như thành công, cuối cùng cái gì cũng thất bại. Đường chồng con cũng xấu. Tuổi còn trẻ mà trông như một bà già. Bác sĩ nói cơ thể của bà già trước tuổi đến hai chục năm.Khi được hướng dẫn trở về kiếp trước thì thấy bà là một hồng y trong Tòa Án Dị Giáo (The Inquisition) do giáo hội La Mã Thiên Chúa chủ trì để trị tội những người ngoại đạo. Sự việc này làm đức hồng y (tiền thân của bà) rất đau khổ. Ngài biết trị tội những người ngoại đạo là sai lầm, nhưng đó là việc giáo hội muốn làm. Khi được hỏi tại sao bà trở thành công cụ chính trong Tòa Án Dị Giáo thì bà buột miệng nói rằng, “Đó là để cải tổ lại giáo hội vì giáo hội thời ấy quá hủ hóa, và tôi được giao trọng trách này”. Qua những chuyện tương tự, tôi thấy rằng những việc làm khủng khiếp đều có mục đích riêng. Vicki Mackenzie: Đứng trên góc độ này, nghiệp báo trở nên khúc mắc, ly kỳ khó hiểu, phải không thưa bà? Vì nếu quan niệm những kẻ phạm tội ác chỉ là những công cụ giúp người kia trả nghiệp thì họ đâu có tội lỗi gì? Hazel Denning: Thật ra thì cũng khó nói lắm. Trùng trùng duyên khởi, cái nọ xọ cái kia, khó mà giải thích chữ nghiệp một cách rốt ráo. Mọi vật hiện hữu trên đời đều phụ thuộc tương tác lẫn nhau, chúng nương nhau mà sống. Nói một cách giản dị, có thể lấy ví dụ của một người chỉ thấy hạnh phúc trong sự đau khổ (masochist) có thể thỏa mãn nhu cầu của một người chỉ thấy vui sướng trên sự đau khổ của kẻ khác (sadist). Hai loại người này nương tựa vào nhau mà sống. Không có cái gì xấu hoàn toàn. Mỗi kinh nghiệm là một bài học. Ta có thể là thủ phạm làm điều ác trong một kiếp nào đó nhưng cũng có thể là nạn nhân trong một kiếp khác. Và cứ như thế, con người sống từ đời này qua đời khác cho đến khi nào họ học được bài học.Tôi tin rằng chính chúng ta tự chọn con đường mình đi, dễ dàng hay chông gai là cũng do mình. Một khi mình nhận chân được sự thật đó và chấp nhận mục đích của đời sống hiện tại thì hoàn cảnh chung quanh có thể thay đổi. Nếu một người biết nhận trách nhiệm của mình thì người đó có thể giải quyết được nhiều vấn đề. Còn những kẻ ngu muội không biết nhận trách nhiệm của mình mà cứ đổ lỗi cho người khác thì họ chưa sẵn sàng thay đổi. Chúng tôi, bác sĩ chuyên môn, phải thấy và biết rõ điểm này.Khi đạt đến mức tỉnh thức tối thượng thì linh hồn (the soul) tự dưng hiểu thấu mọi lẽ – hiểu được mình là ai, tại sao mình hiện hữu ở đây; thấy những gì mình đã làm trong kiếp trước, và những gì mình sẽ làm về sau này vân vân và vân vân. Nhưng chính cá nhân người đó phải tự mình học hỏi. Và tôi cũng không hiểu lý do tại sao chúng ta phải học hỏi nhiều quá như vậy, nhưng tôi không phải là người tạo ra những quy luật ấy mà chỉ tìm cách phân tích lý giải chúng thôi.Có người thật sự không muốn thay đổi hoàn cảnh không mấy tốt đẹp của mình như chuyện một bà nọ sinh ra với hai con mắt gần như mù. Bà phải đeo mắt kiếng dầy cộm. Sau khi soi căn, bà biết rằng chính bà muốn mắt mình như thế để ít thấy những phù du vật chất, để quên cái ngã của mình, để quay nhìn vào bên trong. Từ đó, bà vui vẻ với cặp mắt gần như mù của mình và không chịu tìm cách làm cho mắt sáng hơn. Vicki Mackenzie: Bà có thấy ai chọn trở về gần gũi với những người họ quen biết từ nhiều kiếp trước không? Hazel Denning: Có, Nhưng vai vế thì thay đổi. Có người tái sanh với nhau để giải quyết nhiều vấn đề còn dang dở. Có người muốn trở lại để giúp đỡ những người thân. Tôi cho rằng các thánh tử đạo, hay những người chọn cái chết vì chính nghĩa là họ tự nguyện làm như vậy để thức tỉnh lương tri của nhân loại. Cho nên nói rằng nghiệp báo chỉ thể hiện như một sự trừng phạt thì không đúng, cũng có nghiệp dữ, nghiệp lành. Đó là luật nhân quả.Tôi có quen biết một bà bác sĩ, một người đàn bà rất dễ thương mà lấy một ông chồng dễ ghét nhất trần gian. Khi nào ông cùng mè nheo, gắt gỏng, độc ác mà chính ông không cố tình độc ác. Dần dần, bà chán nản không còn thương chồng nữa. Nhưng không bao giờ bà có ý định ly dị.Một hôm bà đến xin soi căn và thấy rằng bà đã gặp ông này ở một kiếp trước khi ông là một linh hồn lạc lỏng. Bà hứa kiếp sau sẽ lấy ông làm chồng và sẽ giúp ông tìm lại linh hồn mình. Và sau đó thì bà thay đổi thái độ, thật tình yêu thương ông, dịu dàng kiên nhẫn với ông và chỉ một năm sau thì ông cũng đổi tính. Ông đi nhà thờ với bà, ông lái chiếc xe sport màu đỏ rong chơi khắp phố phường. Ông nói năng vui vẻ, hài hước ai cũng thích.Tôi dùng câu chuyện này để khuyên răn những gia đình có chồng nghiện rượu. Tuy người vợ tha thứ sự nghiện ngập của chồng nhưng tình cảm đối với chồng thì đã sứt mẻ. Tôi nói với họ rằng. “Nếu chị thật tình thương yêu và muốn cải hóa chồng thì chị không nên dùng giọng lời gay gắt với chồng mà nên bộc lộ tình thương, ăn nói dịu dàng thì ông sẽ thay đổi”. Có nhiều bà nghe lời và đã thành công. Vicki Mackenzie: Bà cho biết sau khi chết, hồn có một thời gian nhất định để đi đầu thai không? Hazel Denning: Có người tái sanh trong vòng vài tiếng đồng hồ sau khi chết, nhất là lính tráng chết ngoài trận mạc. Họ không chịu được cảnh hồn họ lang thang. Họ muốn nhập xác liền. Có lẽ lý do này giải thích được hiện tượng thiên hạ sinh đẻ nhiều sau những trận chiến tranh. Có nhiều người thì mấy trăm năm sau mới tái sanh. Có nhiều linh hồn từ thời Atlantean Age mà bây giờ mới trở lại trần gian. Có lẽ họ chờ đúng thời cơ để đem những hiểu biết mới giúp cho sự chuyển tiếp qua thời đại mới. (New Age). Vicki Mackenzie: Có khi nào bà đã gặp những người đã từng sống ở hành tinh khác hay cõi giới khác không? Hazel Denning: Thỉnh thoảng cũng có. Rất nhiều người cho rằng hạ giới là hành tinh thấp nhất trên cột luân hồi (the totem pole). Có mấy người nói rằng trước kia họ sống trên một hành tinh khác. Có một ông viết một thứ chữ lạ hoắc rồi dịch lại tiếng Anh. Ông nói hành tinh ấy có một văn hóa khắc hẳn. Ông còn nói khi ấy ông hiểu được “nguyên lý đồng thời” – hiện tại, quá khứ và vị lai đều đang thể hiện ở giây phút này.Thật là khó hiểu. Vicki Mackenzie: Bà có biết những kiếp trước của bà không? Hazel Denning: Có chứ. Đời trước kiếp này của tôi rất lạnh lẽo. Tôi là một phụ nữ sinh ra ở nước Anh, lấy chồng là một người làm ngoại giao giàu có, nhà cao cửa lớn, có nhiều gia nhân hầu hạ, tiệc tùng liên miên nhưng tôi rất cô đơn, sống không có tình thương. Khi gần chết, tôi còn nhớ gia nhân rón rén bước không dám gây tiếng động, tôi đã nắm tay em gái tôi và nuối rằng, “Nếu chị được sống lại từ đầu, chị sẽ thương yêu nhiều hơn”.Và trong đời này, một em gái tôi chết lúc chín tuổi, tôi mới mười một tuổi. Tôi đã thương khóc em trong hai năm. Tôi cần kinh qua sự đau khổ như vậy mới lấy lại được cảm xúc bình thường.Nhưng kỷ niệm khó quên nhất xảy ra lúc tôi đang ở trong phòng tắm. Tôi bị đau gan từ lúc học lớp tám. Tôi hay bị những cơn đau túi mật hành hạ, đau đầu đến buồn nôn làm tôi khổ sở lắm. Hồi trước tôi cũng hay nóng nảy. Có hôm cơn giận nổi lên khiến hai mạch máu nhỏ ở cổ bị đứt. Có nhiều lúc tôi có cảm tưởng như cơn giận làm chóp đầu của tôi có thể bay đi mất. Nhưng không ai biết vì tôi không để lộ ra ngoài. Cách đây chừng mười năm, một hôm tôi đang tắm dưới một vòi sen thì cơn nhức đầu kéo tới. Tôi dằn giọng nói lớn, “Chúa ơi, tôi muốn biết tại sao tôi bị bệnh gan hành hạ, tại sao tôi phải chịu đau khổ như thế này?” Vừa dứt lời bỗng nhiên tôi thấy mình là một người lính theo Thập Tự Chinh thời Trung Cổ, vừa bị một giáo xuyên qua gan. Tôi tức giận sắp phải chết vì một “chính nghĩa” mà tôi không còn tin tưởng nữa. Tôi chán ghét những việc chúng tôi đang làm – đốt phá những đền đài đẹp đẽ – nhưng tôi không làm gì được hơn. Tôi biết tôi sắp chết và sẽ không bao giờ thấy lại được người vợ và hai đứa con trai. Tôi chết trong giận dữ, và chứng đau gan bây giờ là biểu hiện của cơn giận xa xưa ấy. Giây phút ấy trong phòng tắm, tôi nghe một giọng thì thầm: “Nguyên do của tính nóng giận của ngươi bắt nguồn ở đây”. Từ ngày đó, tôi không bị cơn đau túi mật hành hạ nữa. Vicki Mackenzie: Biết được kiếp trước của mình có lợi ích gì trong kiếp sống hiện tại không? Hazel Denning: Những hiểu biết về kiếp trước kiếp sau giúp tôi sống an nhiên tự tại. Đối với tôi, thế giới kia cũng rất thật như thế giới này. Cho nên khi mẹ tôi mất, rồi chồng và con trai lần lượt qua đời, tôi không đau buồn mấy. Ngày con tôi tử nạn xe mô tô, tôi vẫn tiếp tục đi thuyết giảng tại một trường đại học đã được sắp đặt trước. Khi biết ra, một giáo sư ở trường hỏi sao tôi có thể dửng dưng trước cái chết của con như vậy. Tôi đã trả lời rằng đối với người ngoài thì tai nạn ấy là một thảm cảnh, nhưng đối với tôi thì khác. Tôi biết con tôi là thầy tu trong ba kiếp trước. Trở lại lần này là cậu muốn nếm mùi đời. Cậu sống mau, sống vội, bất chấp nguy hiểm. Tôi biết con trai tôi không muốn kéo dài đời sống như vậy và cậu quyết định rời bỏ cõi trần sớm trước khi chuyện gì xấu có thể xảy ra. Tuy tôi thương tiếc con, và cũng như những bà mẹ khác, tôi vẫn mong được thấy ngày con khôn lớn, nên người v.v… nhưng trong thâm tâm, tôi mừng cho con đã giải thoát vì tôi biết con tôi sống trong đau khổ. Trường hợp chồng tôi cũng thế. Một buổi sáng đang chơi tennis, ông gục chết trên sân cỏ. Sau khi được tin, tôi vào phòng đọc sách gọi điện thoại báo tin cho gia đình và bỗng dưng một cảm xúc kỳ diệu chưa từng có đã đến với tôi. Căn phòng như sáng hơn và ấm áp hơn.Lông măng trên hai tay tôi dựng đứng hết và tôi cảm thấy được an ủi, khích lệ và sung sướng lạ lùng dường như được ôm ấp bởi tình yêu của nhà tôi, khi ấy tôi nghe tiếng ông thầm thì: “Em ơi, anh sung sướng được ra đi như ý muốn”. Tối hôm ấy tôi vẫn đi dự buổi họp ở trường. Tan họp, tôi mới báo cho mọi người biết tin và ai cũng xúc động thương tiếc làm tôi phải đi an ủi từng người.Khi người thân qua đời thì đau buồn là chuyện thường tình, nhưng tôi không chịu được cảnh người ta tỏ ra bi thương thái quá, vì như vậy chứng tỏ họ có mặc cảm tội lỗi gì với người chết. Vicki Mackenzie: Theo như bà nói thì mọi chuyện xảy ra đều có lý do? Và cuối cùng thì cũng đưa đến sự tốt đẹp? Hazel Denning: Đúng thế… Tôi cho rằng con người được sinh ra với một trí tuệ sáng tạo vô bờ mà chúng ta đã ngu muội không thông hiểu, đã phá hoại và lãng quên những khả năng ấy. Thời đại này là thời đại chúng ta có thể trở về với bản năng chân thật của chúng ta.* Cũng giống như những mẫu đối thoại với các vị “gurus” Tây phương khác về luân hồi, buổi nói chuyện với Dr. Denning thật là hứng thú. Những điều tôi học được ở bà cũng như ở nhiều nhà chuyên môn khác về kiếp trước kiếp sau cũng không khác những điều tôi đã được nghe mấy Lạt Ma của phương Đông giảng dạy. Chi tiết về trường hợp tái sanh có thể khác nhau nhưng chân lý thì chỉ có một, là chân lý mà Lama Yeshe và Lama Zopa đã nói cho chúng tôi nghe trong chiếc lều trên sườn núi của Kopan rằng sau khi chết sẽ có một đời sống khác; rằng đời sống kế tiếp như thế nào là do nghiệp báo của bao đời trước quyết định; rằng trạng thái tâm thần khi hấp hối đóng một vai trò quan trọng ảnh hưởng đến đời sau; rằng người ta thường trở lại sống với những người có nghiệp duyên với chúng ta; rằng những đau khổ của đời này là chính chúng ta tạo ra v.v… Không nên oán ai, đổ lỗi cho ai vì chính mình vẫn luôn luôn làm chủ đời mình. (Trích: Đặc San Hoa Nghiêm, Mừng Xuân Tân Mão, Phật lịch 2554 – 2011)Tái Sinh Ở Phương Tây (Reborn in the West) của Vicki Mackenzie
    1 like
  17. Cõi vô hình. Hamud là một pháp sư có kiến thức rất rộng về cõi vô hình. Khác với những đạo sĩ phái đoàn đã gặp, ông này không phải người Ấn mà là một người Ai cập. Ông ta sống một mình trong căn nhà nhỏ, xây dựa vào vách núi. Hamud không hề tiếp khách, nhưng trước sự giới thiệu của bác sĩ Kavir, ông bằng lòng tiếp phái đoàn trong một thờ...i gian ngắn. Vị pháp sư có khuôn mặt gầy gò, khắc khổ và một thân hình mảnh khảnh. Ông ta khoác áo choàng rộng và quấn khăn theo kiểu Ai cập. Giáo sư Evans-Wentz vào đề : - Chúng tôi được biết ông chuyên nghiên cứu các hiện tượng huyền bí… Pháp sư thản nhiên : Đúng thế, tôi chuyên nghiên cứu về cõi vô hình. - Như thế ông tin rằng có ma… Vị pháp sư nói bằng một giọng chắc chắn, quả quyết : - Đó là một sự thật không những ma quỷ hiện hữu mà chúng còn là đối tượng nghiên cứu của tôi. - Bằng cớ nào ông tin rằng ma quỷ có thật ? - Khắp nơi trên thế giới đều có các giai thoại về ma, vì con người thường sợ hãi cái gì mà họ không thể nhận thức bằng các giác quan thông thường nên họ đã phủ nhận nó. Sự phủ nhận này mang đến niềm sợ hãi. Từ đó họ thêu dệt các giai thoại rùng rợn, ly kỳ, không đúng sự thật. Nếu chúng ta chấp nhận ma quỷ hiện hữu như một con voi hay con ngựa thì có lẽ ta sẽ không còn sợ hãi. Các ông đòi hỏi một chứng minh cụ thể chăng ? - Dĩ nhiên, chúng tôi cần một bằng chứng hiển nhiên … - Được lắm, các ông hãy nhìn đây. Vị pháp sư mở ngăn kéo lấy ra một cặp que đan áo, một bó len và mang ra góc phòng để xuống đất. Ông ta thong thả : - Chúng ta tiếp tục nói chuyện, rồi các ông sẽ thấy. Mọi người ngơ ngác, không hiểu ông muốn nói gì, giáo sư Mortimer nóng nảy : - Nếu ông nghiên cứu về cõi vô hình, xin ông giải thích về quan niệm thiên đàng, địa ngục cũng như đời sống sau khi chết ra sao ? Vị pháp sư nghiêm giọng : - Đó là một quan niệm không đúng, sự chết chỉ là một giai đoạn chuyển tiếp chứ không phải là hết. Vũ trụ có rất nhiều cõi giới, chứ không phải chỉ có một cõi này. - Khi chết ta bước qua cõi trung giới và cõi này gồm có bảy cảnh khác nhau. Mỗi cảnh được cấu tạo bằng những nguyên tử rất thanh mà ta gọi là “dĩ thái”. Tùy theo sự rung động khác nhau mà mỗi cảnh giới một khác. Tùy theo vía con người có sự rung động thanh cao hay chậm đặc, mà mỗi người thích hợp với một cảnh giới, đây là hiện tượng “đồng thanh tương ứng” mà thôi. Khi vừa chết, thể chất cấu tạo cái vía được sắp xếp lại, lớp thanh nhẹ nằm trong và lớp nặng trọc bọc phía ngoài, điều này cũng giống như một người mặc nhiều áo khác nhau vào mùa lạnh, áo lót mặc ở trong, áo choàng dầy khoác ngoài. Vì lớp vỏ bọc bên ngoài cấu tạo bằng nguyên tử rung động chậm và nặng nề, nó thích hợp với các cảnh giới tương ứng ở cõi âm, và con người sẽ đến với cảnh giới này. Sau khi ở đây một thời gian, lớp vỏ bao bọc bên ngoài dần dần tan rã giống như con người trút bỏ áo khoác bên ngoài ra, tùy theo các lớp nguyên tử bên trong mà họ thích ứng với một cảnh giới khác. Cứ như thế, theo thời gian, khi các áp lực vật chất tan rã hết thì con người tuần tự tiến lên những cảnh giới cao hơn. Điều này cũng giống như một quả bóng bay bị cột vào đó những bao cát; mỗi lần cởi bỏ được một bao thì quả bóng lại bay cao hơn một chút cho đến khi không còn bao cát nào, thì nó sẽ tự do bay bổng. Trong bảy cảnh giới của cõi âm, thì cảnh thứ bảy có rung động nặng nề, âm u nhất, nó là nơi chứa các vong linh bất hảo, những kẻ sát nhân, người mổ sẻ súc vật, những cặn bả xã hội, những kẻ tư tưởng xấu xa, còn đầy thú tánh. Vì ở cõi âm, không có thể xác, hình dáng thường biến đổi theo tư tưởng nên những kẻ thú tánh mạnh mẽ thường mang các hình dáng rất ghê rợn, nửa người, nửa thú. Những người thiếu kiến thức rõ rệt về cõi này cho rằng đó là những quỷ sứ. Điều này cũng không sai sự thật bao nhiêu vì đa số những vong linh này luôn oán hận, ham muốn, thù hằng và thường tìm cách trở về cõi trần. Tùy theo dục vọng riêng tư mà chúng tụ tập quanh các nơi thích ứng, dĩ nhiên người cõi trần không nhìn thấy chúng được. Những loài ma đói khát quanh quẩn bên các chốn trà đình tửu quán, các nơi mổ sẻ thú vật để tìm những rung động theo những khoái lạc vật chất tại đây. Khi một người ăn uống ngon lành họ có các rung động, khoái lạc và loài mà tìm cách hưởng thụ theo tư tưởng này. Đôi khi chúng cũng tìm cách ảnh hưởng, xúi dục con người nếu họ có tinh thần yếu đuối, non nớt. Những loài ma dục tình thì quanh quẩn nơi buôn hương bán phấn, rung động theo những khoái lạc của người chốn đó, và tìm cách ảnh hưởng họ. Nếu người sống sử dụng rượu, các chất kích thích thì ngay trong giây phút mà họ không còn tự chủ được nữa, các loài ma tìm cách nhập vào trong thoáng giây để hưởng một chút khoái lạc vật chất dư thừa. Vì không được thoa? mãn nên theo thời gian các dục vọng cũng giảm dần, các nguyên tử nặng trọc cũng tan theo, vong linh sẽ có các rung động thích hợp với một cảnh giới cao hơn và y sẽ thăng lên cõi giới tương ứng. Dĩ nhiên, một người có đời sống trong sạch, tinh khiết sẽ không lưu ở cõi này, mà thức tỉnh ở một cõi giới tương ứng khác. Tùy theo lối sống, tư tưởng khi ta còn ở cõi trần mà khi chết ta sẽ đến những cảnh giới tương đồng, đây chính là định luật “đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu”. Toàn thể phái đoàn im lặng nhìn nhau, vị pháp sư Ai cập đã diễn tả bằng những danh từ hết sức khoa học, chính xác, chứ không mơ hồ, viễn vông. Dù sao đây vẫn là một lý thuyết rất hay, nhưng chưa chứng minh được. Có thể đó là một giả thuyết của những dân tộc nhiều tưởng tượng như người Á châu chăng ? Hamud mỉm cười như đọc được tư tưởng mọi người : - Nếu các ông biết rằng tôi cũng là một tiến sĩ vật lý học tốt nghiệp đại học Oxford … Giáo sư Harding giật mình kêu lên : - Oxford ư ? Ông đã từng du học bên xứ chúng tôi sao ? Chính thế, tôi tốt nghiệp năm 1864, và là người Ai cập đầu tiên tốt nghiệp về ngành này. (Ghi chú của giáo sư Spalding : Phái đoàn đã phối kiểm chi tiết này và hồ sơ đại học Oxford ghi nhận có một tiến sĩ người Ai cập tên là Hamud El Sarim nhập học năm 1856 và tốt nghiệp năm 1864 với bằng Tiến sĩ Vật lý). - Nhưng làm sao ông biết rõ được cõi giới này ? Ông đã đọc sách vở hay dựa trên những bằng chứng ở đâu ? - Tôi đã khai mở các giác quan thể vía, nhờ công phu tu hành trong nhiều năm. Ngay khi còn là sinh viên tôi đã say mê môn Vật lý siêu hình (metaphysics). Tôi dành nhiều thời giờ nghiên cứu sách vở khoa học, nhưng đến một lúc thì khoa học phải bó tay. Sự nghiên cứu dẫn dắt tôi đến với Khoa Huyền Bí học. Tôi học hỏi rất kỹ về môn này, khi trở về Ai cập tôi may mắn gặp được các vị đạo sư uyên bác, nên sự nghiên cứu càng ngày càng tiến bộ. Sự nghiên cứu dẫn dắt tôi sang Ấn độ, và Tây Tạng. Tại đây tôi gặp một Lạt Ma chuyên nghiên cứu về cõi âm, tôi đã học hỏi rất nhiều với vị này. Sau đó, tôi tu nhập thất trong 10 năm liền, và khai mở được một vài giác quan đặc biệt. Từ đó, tôi tha hồ nghiên cứu cõi âm vì tôi có thể sang tận đây học hỏi và cõi này trở nên quen thuộc, tôi kết bạn với rất nhiều sinh vật siêu hình, chúng giúp đỡ tôi rất nhiều. Giáo sư Evans- Wentz ngập ngừng : - Ông muốn nói rằng ông kết bạn với ma ? - Dĩ nhiên, vì tôi dành trọn thời giờ hoạt động bên cõi này, nên tôi có rất đông bạn bè, phần lón là vong linh người quá cố nhưng cũng có một vài sinh vật có đường tiến hoá riêng, khác với loài người, có loài khôn hơn người và có loại không thông minh hơn loài vật là bao… Giao thiệp với chúng có lợi ích gì không ? - Các ông nên biết cõi âm là một thế giới lạ lùng, phức tạp với những luật thiên nhiên khác hẳn cõi trần. Sự đi lại giao thiệp giúp ta thêm kiến thức rõ ràng….. - Như thế có nguy hiểm không? - Dĩ nhiên, có nhiều sinh vật hay vong linh hung ác, dữ tợn…Một số thầy phù thuỷ, thường liên lạc với nhóm này để mưu cầu lợi lộc, chữa bệnh hoặc thư phù, nguyền rủa…. - Ông có thể làm như vậy không ? Vị pháp sư nghiêm mặt : - Tất cả những việc gì có tính cách phản thiên nhiên, ngược luật tạo hoá đều mang lại hậu quả không tốt. Mưu cầu lợi lộc cho cá nhân là điều tối kỵ của ai đi trên đường đạo. Tôi không giao thiệp với những loại vong linh này, vì chúng rất nguy hiểm, hay phản phúc và thường giết chết kẻ lợi dụng chúng bất cứ lúc nào. Các ông nên nhớ tôi là một khoa học gia chứ không phải một thầy pháp hạ cấp hay một phù thuỷ chữa bệnh. - Xin ông nói rõ hơn về những cảnh giới cõi âm. - Các ông nên biết dù ở cõi nào, tất cả cũng không ra ngoài các định luật khoa học. Thí dụ như vật chất có ba thể : thể lỏng, thể đặc và thể hơi, thì bên cõi này cũng có những thể tương tự. (còn tiếp)
    1 like
  18. Qua hai bài viết trên tôi cũng xin tham gia một ý như sau: Có một số học giả nghiên cứu thấy trong ngôn ngữ Việt có nhiều từ Hán Việt - có học giả thống kê trên 30. 000 từ Hán Việt - mà vội cho rằng Tiếng Việt có gốc Hán thì thật là một sai lầm. Bởi vì đó chỉ là nhận xét trực quan cục bộ. Nó không có tính liên hệ hệ thống và hợp lý với các vấn đề và hiện tượng liên quan. Bởi vì, để phổ biến và cập nhật dù chỉ một từ thôi cũng đòi hỏi phải có sự can thiệp của quyền lực áp đặt, chứ không thể chỉ giải thích theo kiểu lan truyền. Tôi thí dụ: Có một vị học giả nào đấy phát biểu rằng: Bánh dầy thì chữ dầy là sai . Mà phải viết là giầy. Nếu như thứ tư duy ở trần đóng khố này không được đưa vào chính thức giảng dạy trọng sách Giáo Khoa thì nó sẽ không thể trở thành phổ biến . Cho dù người nghĩ ra nó đẳng cấp giáo sư. Đấy mới chỉ là một từ. Vậy thì với 30. 000 từ Hán Việt làm thế nào để tất cả các học giả và kẻ sĩ người Việt thống nhất coi đó là bộ chữ và ngôn ngữ phổ biến trong xã hội Việt? Chưa hết, vấn đề là để có 30. 000 từ Hán Việt đó - xin lỗi - cả một viện Hàn Lâm khoa học cũng chưa thế nghiên cứu để đặt ra và hệ thống trong một thế hệ. Vậy ai, tổ chức nào đã hệ thống hóa 30. 000 từ Hán Việt đó và phổ biến nó trong ngôn ngữ Việt? Trong khi đó, chữ Hán chính cống để phổ biến chỉ cần học khoảng 1000 từ phổ thông là coi như thoát nạn mù chữ (Việc này được thực hiện bởi hai học giả Hán vào đầu thời Trung Hoa Dân Quốc, khi nhận thấy đại đa số dân Trung Quốc mù chữ đã soan ra 1000 chữ Hán phổ biến và dạy cho người dân nước họ). Bởi vậy, việc 60% hoặc 80% từ Hán Việt phổ biến trong ngôn ngữ Việt không thể cho rằng do người Hán đem lại được. Đó chính là phương pháp học chữ Hán cho dễ nhớ từ thời Hùng Vương dành cho những học giả hoặc quan chức ngoại giao học chữ Hán cho dễ nhớ, Phải có một quyền lực tối cao xác định và áp đặt thì " Văn " mới "hóa " được và phổ biến. Trong hoàn cảnh hiện nay, theo tôi việc kêu gọi học tiếng Hán là rất nhậy cảm. Cá nhân tôi sẽ chẳng học tiếng Hán trong lúc này. Thứ ngôn ngữ không mấy phong phú và thứ chữ mà chính người Hán muốn thay đổi mà chưa được.
    1 like
  19. Chúng ta thử giả thiết rằng: Sức mạnh như hiện nay của Trung Quốc kéo quân sáng đánh một số nước mà Trung Quốc gọi là xâm phạm chủ quyền với quyền lợi cốt lõi của họ. Cho rằng Trung Quốc thắng - chưa nói đến huề hoặc thua. Nhưng sau đó thì làm sao? Các nước khác chỉ ngồi lên tiếng phản đối thôi sao? Lúc đó dù thắng thì Trung Quốc cũng hao tổn. Lúc ấy, các nước khác trong đó có Hoa Kỳ, Nhật Bản, Ấn Độ, Nga, Úc.... chỉ lên tiếng phản đối ngoại giao, rồi thống nhất bầu Trung Quốc làm bá chủ thế giới để yên tâm nhậu tiếp hay sao? Bởi vậy, Người Trung Quốc đã sai lầm rất lớn khi đụng tới Việt Nam. Thôi - Long trọng công nhận chủ quyền Việt Nam ở hai đảo Hoàng Sa và Trường Sa đi.
    1 like
  20. ở nhà tôi có 7 cái đồng hồ ,dử loại quả lắc treo tường đồng hồ ,lên dây ,chạy bin ,điện / vài tháng là phải điều chỉnh cho chúng nó ăn khớp với nhau ,nhưng sau 1 tháng thì không có cái nào đúng với cái nào cả ,có cái đi sớm 5-3 phút ,có cái đi trễ ,thậm chí có cái đi trễ đến 10 phút trong 1 tháng ,cho nên ,ở đây tôi không đề cập giờ qui định mà ý nói là cái bênh đồng hồ ,khi cháu sanh ra cha mẹ hay mụ đỡ nhìn vào cái đồng hò mà ghi ,biết cái đồng hồ có đi đũng từng phút ?
    1 like
  21. Tháng 8 mùa thu lá rơi vàng chưa nhỉ?...Tháng này báo tin cho mọi người là: " em chuẩn bị nhặt lá vàng rơi" Làm quái gì có lá mà nhặt chẳng qua là ...nhanh quá bất ngờ quá Anh muốn cùng em chung nhà sao? Ok đồng ý nhưng chờ em 2 tháng tháng 10AL nhé! vì tháng này tất cả đã rõ ràng . Tháng tiếp theo tất tả ngược xuôi kêu khó kêu khổ . Tháng 12 muốn cãi nhau quá . May mà công việc còn thuận lợi chứ nó không thuận lôi cổ chàng ra mà cãi nhau cho nó đỡ bực bội trong lòng ...dù sao tháng này bé cũng đề phòng miệng lưỡi . Hết năm rồi nhé!....chuẩn bị tết Lão say chai rượu OK
    1 like
  22. Bài viết để tham khảo. Thêm một quy tắc mới về xác định điểm vượng trong vùng tâm Chủ đề “Một đánh giá về Thương Quan“ của Toahuongquy trong mục Tử Vi bên tuvilyso.org có đoạn viết: “ 6, Trùm Thượng Hải Chu Bác Tuyền mệnh: Mậu Tuất - Tân Dậu - ngày Mậu Tuất - Bính Thìn Bát tự trùm Thượng Hải Chu Bác Tuyền, nhân thìn tuất xung, bính hỏa vô căn, không thể cấu thành thương quan phối ấn, chỉ có thể cấu thành thương quan hỉ tỉ cách, tẩu giáp tý ất sửu vận mặc dù gặp quan sát, nhân có thương quan hồi khắc, khiến cho không thể khắc tỉ kiếp mà phá cách, nên mệnh chủ có thể trên Bến Thượng Hải long tranh hổ đấu, dương danh lập vạn, được xưng đại gia công thương nghiệp "Nửa Thượng Hải". Đến sau bính dần vận, ấn tinh đắc địa, nhân có tỉ kiếp hóa tiết mà không thể cấu thành thương quan phối ấn cách, cho nên sự nghiệp như mặt trời lặn phía trời tây, không còn chói lọi. Cuối cùng trở thành một người trú tại khu hộ ở lều, làm tạp vụ công - trường kỳ bị quần chúng giám sát.“. Ðoạn này tác giả luận về Tài Quan Ấn qua các cách cục về Thương Quan như: “thương quan phối ấn“, “thương quan hỉ tỉ cách“…. Nó thuộc trình độ cao cấp nên bài luận sau đây tôi chỉ dừng lại ở mức độ trung cấp là xác định Thân vượng hay nhược và dụng thần của Tứ Trụ này thông qua các vận hạn đã biết của người này. Sơ đồ Tứ Trụ như sau: Qua sơ đồ trên ta thấy Thân Thổ có 11,1đv trong vùng tâm nhỏ hơn điểm vượng trong vùng tâm của Thực Thương có 12,06đv, vì vậy Tứ Trụ này có Thân nhược và dụng thần phải là Kiêu Ấn /Ðinh tàng trong Tuất trụ năm. Nếu Ðinh là dụng thần thì vào đại vận Ðinh Mão là vận dụng thần thì nó phải là đẹp nhất trong cuộc đời của người này nhưng thực tế lại ngược lại hoàn toàn, ông ta không còn một xu nào và phải đi ăn mày. Tại sao lại như vậy ? Ðiều này chứng tỏ Ðinh (Hỏa) không thể là dụng thần được mà phải là kỵ thần. Ðể phù hợp với thực tế của ví dụ này thì dĩ nhiên Muốn Hỏa là kỵ thần thì bắt buộc Tứ Trụ này phải có Thân vượng. Do vậy ta phải đưa ra quy tắc mới là: “Nếu Thân nhược mà trong Tứ Trụ có 4 can chi tỷ kiếp (kể cả can ngày) thì điểm vượng trong vùng tâm của Thân được tăng 1đv, và 2đv nếu nó có từ 5 can chi tỷ kiếp trở lên“. Nếu sử dụng quy tắc này thì Thân có thêm 2đv thành 11,1đv + 2đv = 13,1đv, vì vậy điểm vượng của Thân lớn hơn điểm vượng của Thực Thương 1đv nên Thân đã trở thành vượng. Ðiều này có thể được giải thích như sau: Thường thì trên thế giới khi các nước nhỏ chiếm đa số trên 50% thì khi bị một hay vài nước lớn nào đó xâm chiếm, hay áp bức, đô hộ thì họ sẽ đoàn kết để chống trả lại. Do vậy mà họ có thêm sức mạnh hơn là từng nước đơn phương chống lại các nước đó (ví dụ như các nước ở Ðông nam Á hiện nay về vấn đề Biển Ðông chẳng hạn). Ta thử áp dụng quy tắc mới này để phân tích các vận trình đã qua của người này xem có phù hợp hay không ? Nếu Tứ Trụ này có Thân vượng thì vì Thực Thương nhiều nên dụng thần đầu tiên phải là Tài tinh/Quý tàng trong Thìn trụ giờ. Thực Thương (Kim) và Quan Sát (Mộc) là hỷ thần. Các vân Nhâm, Quý, Giáp và Ất đều là các vận hỷ dụng thần nên rất đẹp, vì vậy ông ta đã nổi tiếng và trở thành triệu phú. Vận Bính Dần là kỵ vận nhưng may là Bính chỉ hợp và khắc Tân trụ tháng, nó không có khả năng sinh cho Thân (vì bị hợp) mà chi là Dần (Mộc) là hỷ thần có khả năng chế ngự Tỷ Kiếp (Thổ) trùng phùng (nhiều) trong Tứ Trụ. Vì vậy mà vận này ông ta mới chỉ bị hao tài chưa đến mức phải đi ăn xin. Vận Ðinh Mão thiên khắc địa xung với trụ tháng Tân Dậu làm cho toàn bộ Kim (Thực Thương) trong Tứ Trụ bị thương tổn không thể hóa Thân vượng để sinh cho Tài (Thủy) được nữa. Mặt khác Ðinh còn có thể hóa Mão (Mộc) cùng trụ để sinh cho Thân. Thân vượng không bị xì hơi còn được sinh phù, dẫn đến Tỷ Kiếp nhiều trong Tứ Trụ đã tranh đoạt Tài với Thân. Do vậy mà ông ta đã mất hết tài sản và phải đi ăn mày trong vận này.
    1 like
  23. Nói sơ bộ về Quán Sách ở đây: Dê chuột máu vào, rồi nhấp trái chuột vào dòng này Ngoài ra tôi xin thổ lộ thêm vài chữ: Quán Sách đi với Binh - Hình - Tướng - Ấn hoặc Tiền Tướng hậu Tướng hoặc Đứng riêng rẽ với từng Tướng ứng với cung Quan hoặc Di thì cũng rất tốt, nói gộp là có nhiều cách ứng xử hợp lý để đạt được mục đích của mình. Cũng có quan điểm cho rằng Quán Sách là khắc tinh của các sao Văn như Văn Xương, Văn khúc, Văn Tinh là chủ yếu, các sao thuộc bộ Văn Xương còn lại thì ko phải đối thủ. Nó lý giải cho việc nhiều sao văn hay lắm ở Tài - Quan - Mệnh mà sao học hành cà rốt thế. Nguyệt Sát là sự hung hiểm thì rõ rồi, nhưng nó có tính chất cướp đêm, mọi chuyện đến âm thầm lặng lẹ, nếu đi với các đại ác tinh thì đúng là cái chết bất ngờ. Đứng tại Thiên Di thì nên ở nhà vào buổi tối. Thiên Sát thì như kẻ cướp ngày, đi nếu gặp tứ đại ác nhân thì đúng là giữa đường gặp sơn tặc. Nếu đứng ở Thiên Di thì quả là nguy hiểm, cần có Phúc tinh mạnh giải cứu thì mới yên tâm thong dong buổi sáng, tản mạn buổi tối, ôm gối ngủ qua đêm.
    1 like
  24. Sau khi “Hai bên thỏa thuận định hướng dư luận”, tôi đọc mạng: ( bookmark.people.com.cn ) thấy nhiều bài đăng quá, không có thời gian đưa hết lên, dưới đây chỉ đưa hai bài cho bạn đọc tùy tâm bình luận, nếu thấy bài nào “định hướng dư luận” trên báo ta thì đưa lên cho mình đọc với. Bài thứ nhất Bài trên trang chủ báo Nhân Dân điện tử TQ: Kiên định tư tưởng Mao Trạch Đông, đường lối Đặng Tiểu Bình, chủ quyền của TQ đối với biển Nam Hải (biển Đông) là không thể tranh cãi坚定毛泽东思想,邓小平路线,中国南海(东海)主权无可争辩, ngày giờ đăng发表时间: 2011-07-09 10:39:43. Toàn văn: Trung Quốc đã thể hiện minh xác, Trung Quốc kiên định tư tưởng Mao Trạch Đông, đường lối Đặng Tiểu Bình, chủ quyền của TQ đối với biển Nam Hải (biển Đông) là không thể tranh cãi. Lập trường là “Đánh”, quyết không thoái lùi. Quyết không mềm tay立足于“打”,决不后退。绝不手软. Đối với cácnước xung quanh, TQ kiên trì “trường kỳ ổn định, mặt hướng tương lai, láng giềng hữu hảo, hợp tác toàn diện”. Đối với quốc gia như Việt Nam, TQ vẫn cho rằng ý thức hình thái quan của họ là đồng thuận với TQ, tăng cường chỉ đạo tinh thần ‘bốn tốt” là “Láng giềng tốt”, “Bạn bè tốt”, “Đồng chí tốt”, “Đối tác tốt”. Do nguyên nhân lịch sử, Trung Quốc xưa nay bỏ lơ hành sử quản hạt đối với chủ quyền ở Nam Hải, lưu lại một diện tích trắng to lớn, các nước lân cận tùy tâm tham mà chiếm lấy. Đến ngày nay khi TQ tiến vào hành sử chủ quyền của mình, tất nhiên làm cho các nước ấy có tâm lý bị áp lực . Khiến cho họ có cảm giác bị TQ chèn ép không gian sinh tồn của họ, việc này cần một lộ trình thích đáng, chẳng có gì là lạ. Đương nhiên, nếu các nước lân cận ấy không chịu tu chính, lại còn phán đoán sai lầm hình thế quốc tế, với lại kết bè lợi ích với một số quốc gia khác, khều chọc, quên hết tất cả, tự hót đắc ý, mê mà không ngộ, tất nhiên sẽ dẫn đến họ đuối lý trí, làm hàng loạt các cử động tổn người hại mình, nhưng họ tưởng gây như thế để làm nhụt ý chí kiên cường bảo vệ chủ quyền của TQ, thì họ tuyệt đồi là những ý đồ bệnh hoạn, tuyệt đối không đạt được gì, ắt sẽ thảm bại cuốn khỏi chiến trường ! ! ! Trung Quốc xác thực phải làm cho họ ý thức được điều này với một cảm nhận minh xác必定会以惨败收场!!!中国确实要让他们明确感知且意识到这些。 “Chủ quyền là ở Tôi, Tiêu trừ tranh chấp, Hợp tác cùng thắng” “主权在我,消除争议,合作共赢”. “Chủ quyền ở Tôi”, đấy là tuyệt đối, không thể lung lay, nhận rõ căn nguyên sản sinh tranh chấp,mục đích là để tiêu trừ tranh chấp vô lý sản sinh khi một số nước vì muốn tăng chút nặng lên bàn cân để kiếm chút lợi ích mà tạo nặn ra các tranh chấp. Để đạt mục đích hòa bình, hợp tác cùng thắng, cộng đồng phát triển. Đường lối thứ hai của Đặng Tiểu Bình, điều thứ 2, thương cáo hợp tác. Nếu họ (các nước lân cận) không nhận rõ địa vị của mình, không chịu hợp tác trên điều kiện công nhận chủ quyền không thể tranh cãi là thuộc TQ, thế thì là họ đã tự bỏ, tự họ gánh lấy mọi hậu quả sẽ xảy ra với họ do việc đó, vừa không thỏa mãn được cái tâm lý quật khởi bất khuất của họ, vừa chẳng đạt được chút phần thưởng nào trong hợp tác. Đợi đến khi Trung Quốc sang bước dùng vũ lực để thu phục thì là ngày họ triệt để thất bại ! 就是他们彻底失败的那一天!Điều kiện tiên quyết mà bị họ chà đạp thì nói hợp tác chẳng còn cơ hội nữa. Xã hội ngày nay mà có người còn mộng tưởng các thủ đoạn dùng súng chiếm đất, chiếm trộm, hoặc thừa cơ lúc người ta nguy để đạt mục đích của mình thì quá lỗi thời rồi, quá nực cười, những hành vi đó của họ mà đạt được thành quả gì trước một Trung Quốc đang ngày càng lớn mạnh thì chảng hóa TQ là kẻ vô năng, TQ ắt phải rời khỏi vũ đài lịch sử. Giả thiết nếu như có thực những hành vi nêu trên, thì TQ bất cứ lúc nào tùy thích có thể đổi tên những vị trí mà Việt Nam và Philippin đã chiếm rồi. Trung Quốc là một nước lớn có trách nhiệm của thế giới, Trung Quốc kiên trì nguyên tắc của chính mình, quyết sẽ không dao động (cũng không thèm đôi co với tiểu nhân). Trung Quốc ngực có thành trúc. Trung Quốc tất định thắng lợi. Từ thắng lợi bước tiếp thắng lợi càng lớn hơn ! ! ! ! ! Trên thế giới còn có quốc gia nào như Trung Quốc vĩ đại như thế này, thế nhân đều thấy tại mắt , rõ trong lòng. Trung Quốc đích chính nghĩa chi kỳ, tất nhiên cao cao phiêu giương! 中国的正义之旗,必然高高飘扬! ( Thảm thiệt !, “Định hướng” = Bịnh Trương = Bành Trướng ) Bài thứ hai Bài của Triệu Trung Tường, chủ trì Đài truyền hình trung ương Trung Quốc: Trung Việt wuýnh nhau, nước Mỹ mừng nhất中央电视台主持人赵忠祥:中越打仗,美国最高兴. Toàn văn: Tôi có một bức ảnh chụp kiểu kinh điển năm 1964, phông sau của ảnh là tấm bản đồ Việt Nam, lúc đó báo đề cập đến vấn đề VN. Từ chống Pháp đến chống Mỹ,lập trường của chúng ta là nhất trí đứng về phía nhân dân VN, ủng hộ lập trường của họ là chống ngoại xâm, đòi độc lập và tôn nghiêm, khiển tránh hành vi chiến tranh của chủ nghĩa đế quốc, lúc đó quan hệ Trung Việt rất tốt. Đại đa số các bài báo đều là do tôi trực tiếp phát đi. Tôi từng phỏng vấn thủ tướng Phạm Văn Đồng, thay mặt đài truiyeefn hình trung ương TQ, đem thiện ý hữu hảo của nhân dân TQ biểu đạt mong ước viễn cảnh quan hệ hữu hảo giữa hai nước trong tương lai. Đầu những năm 60 thời kỳ chiến tranh VN, chúng ta đã viện trợ cho VN rất nhiều, là viện trợ vô tư. Lúc đó TQ rất khó khăn, Mao Chủ tịch nói, vét đến đáy kho của chúng ta cũng phải viện trợ cho họ. Trong thời kỳ đó tôi có hai đồng nghiệp phải đi VN làm phóng sự ở tuyến đầu, tôi còn nhớ tôi ra sân ga tiễn họ mà nước mắt lưng tròng. Đó là những năm tháng khó quên, chúng ta kiên quyết chi viện cho họ. Năm 1979, tôi đang tháp tùng đồng chí Đặng Tiểu Bình thăm Mỹ, ngày thứ ba sau khi đến Mỹ, đột nhiên phát hiện các ký giả Mỹ xung quanh tôi có vẻ rất vui mừng, tôi chưa từng thấy người Mỹ hào hứng như vậy bao giờ. Lúc đó tôi còn chưa biết là xảy việc gì. Họ nói với tôi, các ông đã đánh nhau với VN rồi. Lúc đó tôi cảm thấy, Trung Việt wuýnh nhau, nước Mỹ mừng nhất. Việt Nam với chúng ta xưa nay quan hệ rất mật thiết, nhưng phải nhìn cho đúng một số vấn đề tồn tại, chúng ta từng binh nhung tương kiến, miêu nhĩ động hòa “vòng hoa dưới núi cao” 兵戎相见,猫耳洞和《高山下的花环》 là sản sinh trong đoạn thời gian ấy. Chúng ta cùng Việt Nam vốn có cội nguồn sâu xa, tôi cho rằng hai nước hòa hợp thì cả hai cùng được lợi, đánh nhau thì cả hai đều thương vong. Chúng ta giữ nguyên tắc “không xưng bá”, nhưng chúng ta cũng không thể vứt bỏ lợi ích căn bản nhất của quốc gia. Việt Nam là một điển hình trong quan hệ ngoại giao của chúng ta, rất khó nhằn khi xử lý. Cá nhân tôi cho rằng ngày nay không thể hai bên lại giao chiến như trong quá khứ, chúng ta cuối cùng đã là một nước lớn, không những thế chúng ta lớn mạnh đến mức độ mà họ không thể so đọ nổi, nhưng cũng không nên bởi thế mà vì việc này lại đánh nhau với họ. Nhưng trong vấn đề đàm phán , họ lại vô cùng ngoan cố. Do vậy làm cho chúng ta phải đối mặt lâu dài với sự khảo nghiệm to lớn, việc này đối với họ cũng càng là một áp lực. Nước Mỹ ngày nay đang muốn thiết lập quan hệ bạn bè chiến lược với họ, vấn đề có thể biến thành càng phức tạp khó nhằn. Là một công dân phổ thông của TQ, tôi cho rằng hai nước Trung Việt đã là láng giềng thì nên phát triển quan hệ láng giềng hữu hảo, hai bên đối với một số vấn đề nên thông qua một lộ trình thích đáng mà đàm phán. Tóm lại, từ nguồn gốc lịch sử sâu xa mà nói, tôi cảm thấy hai nước nên đời đời hữu hảo với nhau. Tôi không mong tranh chấp dẫn đến binh nhung tương kiến, nhưng chúng ta cũng không cho phép chủ quyền của chúng ta bị xâm phạm.
    1 like
  25. QUÁN THƠ NHỮNG NGÀY KHAI TRƯƠNG Quán thơ Thung Lũng của ngàn hoa Uống rượu bình thơ tấu, nhạc, ca, Giang hồ, hiệp khách, huynh, cùng muội Sao chẳng về đây một mái nhà. ----------***------------- Lệnh Hồ huynh đệ tiếp thi nhân Doanh Doanh muội đón khách hồng quần. Tùng Bách nhanh tay đà rót rượu Đuổi mèo Túy Lão đỡ vướng chân. *** Bác Gạo Làng chống gậy ghé qua. Trần Phương bận bịu vẫn gửi quà Kìa ai trông giống Người Vô Sự vô sự tình trong chốn Đà na. *** Ai ôm Đủ Thứ mang đến kìa. Chàng Yêu Phụ Nữ ở đằng kia. Longphibaccai mời vào chỗ. Rượu hồng đào ta lại sẻ chia. *** Thiếu vắng đâu đây bóng một người "Lão già câu cá mập biển khơi". Chắc hẳn mải mê cờ mạt chược. Thỉnh lão về đây uống rượu mời. Doanh Doanh tiểu thơ xem khách hồng quần còn thiếu nhiều điểm mặt thêm nhé. Lệnh Hồ Huynh đệ nhớ rượu đủ cho khách ... chớ để khách đến rồi về ko hẹn ngày trở lại
    1 like
  26. Mộng ảo. Trăng non gác ở đầu sườn non. Lối mòn cô phụ đợi mỏi mòn, Tri âm chàng hỡi sao chẳng đến? Để kẻ trộm trăng ghé mắt nhòm. ***** Là thực hay là chỉ là mơ. Đêm qua 2 đứa dưới trăng mờ, Hái trăng nàng bỏ trong bát rượu Rượu vàng sóng sánh hóa hồn thơ! *****
    1 like
  27. Quý anh học thêm 1 cái bằng nữa đi, công việc vào bên công an, quân đội, biên phòng, cảnh sát là tốt nhất. Sau này cuộc đời ko tệ đâu, trong vận 10 năm nữa là chuyện vợ con, vì thế hãy dành thời gian khi còn chưa lập gia đình mà học và ổn định công việc.
    1 like
  28. Công việc liên quan đến tài chính kế toán. Năm sau chắc công việc có thay đổi, năm nay thì ko.
    1 like
  29. cho em bám theo mấy câu ni nha bác YPNEm sợ một ngày đi bên chồng lại nhớ đến anh...nao lòng và quay quắt Em sợ một ngày nắm tay chồng lại mơ hồ hơi ấm bàn tay anh Em sợ một ngày mộng du em tìm về chốn cũ..kỷ niệm ngọt ngào và trong vắt... Em sợ một ngày em gọi "anh ơi" mà ngập tràn bóng dáng anh. Và em sợ , sợ lắm một ngày như thế.. dẫu cho đó chỉ là những phút xao lòng răng mà ni cô đẹp quá,thế này thì e chắc cũng tu luôn quá
    1 like
  30. NGƯỜI ĐI CHÙA THÔNG MINH - LƯỚT SÓNG MÀ ĐI THÍCH THÁI HÒA Có những vị trước khi biết đi Chùa và tu học, thì gia đình bình yên, nhưng sau khi đã đi chùa và bắt đầu biết tu học, thì gia đình cũng bắt đầu dậy sóng, không có bình yên. Có những vị trước khi chưa đi Chùa và chưa biết tu học, thì gia đình luôn dậy sóng, nhưng sau khi đã biết đi chùa và biết tu học thì gia đình trở lại bình yên. Có những vị trước khi chưa biết đi chùa và chưa biết tu học, thì gia đình đã bình yên và sau khi biết đi chùa và biết tu học, thì gia đình lại càng bình yên thêm. Có những vị trước khi chưa biết đi chùa và chưa biết tu học, gia đình luôn dậy sóng, không có bình yên và sau khi đã biết đi chùa và biết tu học, thì gia đình lại càng thêm dậy sóng. Trong bốn hạng người biết đi chùa và biết tu học như vậy, chỉ có hai hạng người đi chùa và biết tu học là có chính kiến và có từ bi, còn hai hạng người biết đi chùa và biết tu học không có chính kiến và không có từ bi. Những hạng người biết đi chùa và biết tu học có chất liệu của chính kiến và từ bi, những hạng người ấy không những có khả năng làm cho tâm mình lắng yên những phiền não, mà còn có khả năng giúp cho những người trong gia đình lắng yên phiền não nữa; những hạng người ấy không những có khả năng mở rộng không gian nhận thức cho chính mình, mà còn có khả năng chuyển hóa những không gian nhận thức trở thành không gian trí tuệ cho chính mình và cho mọi người nữa. Mở rộng không gian nhận thức bằng cách nào? Bằng cách biết học hỏi và lắng nghe. Ta phải biết học hỏi từ mọi người, từ mọi loài và từ cuộc sống, nhưng trước hết ta phải biết học hỏi những cấu trúc cơ bản và thâm sâu, vi diệu ở nơi thân và tâm ta. Nếu ta không hiểu được những cấu trúc cơ bản nơi thân và tâm ta, thì ta khó mà có được những chính kiến đối với thân và tâm ta. Và mỗi khi ta không có chính kiến đối với thân và tâm ta, thì ta cũng không thể có khả năng đối xử với thân tâm ta một cách có trí tuệ và từ bi. Ta hãy nhìn kỹ vào khuôn mặt của ta mỗi ngày, để ta có thể thấy rõ những yếu tố đang hiện hữu nơi khuôn mặt của ta, chúng chưa bao giờ hiện hữu đơn thuần, mà chúng hiện hữu trong sự tương quan. Mũi của ta không thể nào hiện hữu, nếu ta không có xương mặt và xương mặt không thể nào hiện hữu, nếu ta không có xương sườn và các xương sọ, và xương sườn, xương sọ không thể nào hiện hữu và tồn tại, nếu không có những chất hữu cơ và những yếu tố khác xúc tác liên hệ đến với chúng. Cũng vậy, mắt ta không thể nào hiện hữu đơn thuần mà mắt ta hiện hữu với những yếu tố không phải mắt, như tinh thể, võng mạc và hệ thần kinh thị giác,… và tác dụng nhận thức của mắt ta, không thể không có mọi hình, mọi sắc, không thể không có không gian, ánh sáng và ý thức,… Nếu thiếu một trong những yếu tố ấy, thì sự hiện hữu của con mắt không thể nào có được, huống nữa làm sao có tác dụng của con mắt đối với cái thấy và cái hiểu của chúng ta trong đời sống hằng ngày. Vì vậy, trong đời sống hàng ngày, ta phải biết học hỏi với những gì đang có mặt ở nơi thân thể của ta, ở nơi tâm hồn của ta và chúng ta phải biết ngồi yên để lắng nghe những gì mà thân tâm ta đã nói với ta trong từng phút giây của sự sống. Ta phải biết học hỏi cách làm việc và tiêu thụ của thân tâm ta. Mỗi bộ phận trong thân tâm ta, chúng làm việc đúng chức năng của chúng, chúng biết tiếp nhận và chế tác đúng chức năng của chúng và quan trọng hơn hết là chúng biết truyền thông và hỗ trợ cho nhau trong những điều kiện tương quan tự nhiên để tạo nên một hệ thống thân tâm nhất thể. Vì vậy, ta đi chùa và tu học không phải để tích lũy kiến thức hay tri thức, vì sao? Vì kiến thức hay tri thức, chúng chỉ là những thuộc tính của bản ngã, và làm sinh chất nuôi lớn tâm kiêu mạn trong ta và là miếng mồi nuôi lớn vô minh làm trở ngại đối với tuệ giác của ta, khiến cho ta không có khả năng thâm nhập và sống thường trú với thực thể toàn vẹn của vạn hữu bất tức, bất ly ấy. Do đó, ta đi chùa tu học cần phải thiết lập trên nền tảng của văn tuệ, tư tuệ và tu tuệ. Do biết lắng nghe và học hỏi, khiến cho tâm tuệ trong ta sinh khởi; do ta biết quán chiếu thâm sâu đối với những gì đã nghe và đã học, khiến cho cái nghe không ích lợi, không chính xác của ta từ từ bị đoạn tận, khiến cho tâm tuệ trong ta sinh khởi và lớn mạnh. Và do ta biết gạn lọc những gì ta đã học hỏi và ứng dụng chúng vào trong đời sống hàng ngày của ta, khiến cho tâm tuệ sinh khởi trong ta. Khi trong ta đã có tâm tuệ, mọi hành xử của ta đều có mặt của tuệ, nên chúng không bị đối ngại bởi những nhận thức hữu ngã, vì vậy ở trong đời sống hàng ngày, ta đang ở cương vị nào để hành xử, thì mọi hành xử của ta đều là hành xử của tuệ. Hành xử của tuệ là hành xử có khả năng chấm dứt khổ đau cho mình và cho người, có khả năng chấm dứt những tập khởi gây ra khổ đau cho mình và cho người. Và đương nhiên, khi những tập khởi và kết quả khổ đau giữa mình và người không còn hiện hữu, thì an lạc tự nó biểu hiện một cách như nhiên giữa tự và tha. Vậy, ta đi chùa và tu học là để làm việc và ứng xử với nhau bằng tuệ giác mà không phải bằng những kiến thức Phật học; bằng chất liệu từ bi mà không phải bằng sự tranh giành thắng bại; bằng sự khoan dung, chứ không phải bằng những sự ích kỷ, hẹp hòi. Người đi chùa như vậy là người đi chùa thông minh, vì họ có khả năng chế tác ra sự an lạc cho chính họ và có khả năng hiến tặng sự an lạc cho mọi người. Thư Viện Cổ Pháp.
    1 like
  31. Theo sự giải thích của các Thầy Tây Tạng, Xá Lợi là sự kết tinh kỳ diệu của sự thành đạt tâm linh, của sự phát triển tột cùng của hạnh từ bi và trí tuệ. Xá Lợi có những hình dạng như những viên ngọc trai hay đá quí nhiều màu sắc, thu nhặt được từ tro cốt của các bật Đại Sư sau lễ Trà Tỳ. Ích lợi gì cho những người chiêm bái? Vì là kết tinh của sự thành đạt tâm linh, nên, như lời dạy của Lạt Ma Zopa Rinpoche, “mỗi phần nhục thân và Xá Lợi của các Ngài chứa đựng một năng lực mầu nhiệm có thể làm căn lành tăng trưởng và nghiệp ác giải trừ“. Vì thế, Xá Lợi có năng lực cảm hóa tâm người, phát triển lòng bác ái trong nội tâm của những ai có cơ duyên được chiêm bái Xá Lợi. Phật đã từng dạy rằng có bốn nơi chốn đặc biệt: “nơi ta được sanh ra, nơi ta giác ngộ, nơi ta thuyết pháp và nơi ta nhập diệt. Sự thăm viếng một trong bốn nơi chốn này giống như sự gặp gỡ với chính bản thân ta.“ Vậy thì khi chiêm ngưỡng Xá Lợi cũng tương tợ như thế. Người Phật Tử như được nhắc nhở và sách tấn trên bước đường tu tập để đạt được sự hài hòa giữa thân, khẩu và ý.Bộ sưu tập Xá Lợi vô cùng trân quí gồm 1000 Xá Lợi của Đức Phật Thích Ca, của các đệ tử lớn của Ngài và của nhiều vị thánh tăng Ấn Độ, Trung Quốc và Tây Tạng. Một số Xá Lợi đã được bí mật lấy đi từ những pho tượng bị phá hủy ở Tây Tạng, và những bảo tháp, nơi an vị của những Xá Lợi hàng ngàn năm trước. Một số khác được Ngài Đạt Lai Lạt Ma và các Chùa trao tặng.Danh từ Xá Lợi không phải là xa lạ đối với người Á Châu. Người con Phật vẫn thường nghe nói đến Xá Lợi Phật, và của Chư Tổ. Không phải ai cũng có đủ duyên lành được chiêm ngưỡng Xá Lợi. Thường, Xá Lợi của các Ngài chỉ được an vị trong các tượng Phật hay bảo tháp của các Chùa, không mấy khi được trưng bày cho công chúng chiêm bái. Cho nên đây là dịp may hiếm có một lần trong đời của chúng ta. Bên cạnh Xá Lợi của đức Phật và chư Tổ, các hội đoàn sẽ cùng vui mừng tổ chức cuộc triễn lãm văn hóa Á Châu của tám nước: Nhật Bản, Đại Hàn, Việt Nam, Thái Lan, Ấn Độ, Tây Tạng, Đài Loan và Tích Lan, vì niềm vui lớn: Đức Phật và chư Tổ đến Hamburg.Cuộc triển lãm Xá Lợi tại Hamburg nằm trong dự án tổ chức của những cuộc triển lãm trên khắp thế giới kéo dài cho đến năm 2008. Sau đó, tất cả Xá Lợi sẽ được vĩnh viễn an vị vào Tâm Bảo Điện của pho tượng Di Lặïc bằng đồng cao 152 thước. Pho tượng này là trọng tâm của “Dự Án Di Lặc" dự trù được hoàn tất vào năm 2006 tại Kushinagar, Bắc ấn Độ, nơi Đức Thích Ca nhập diệt hơn 2500 năm trước. Đây là biểu tượng của lòng Bác Ái, một thông điệp của lòng Từ Bi và Hòa Bình. Công trình đúc tượng Phật Di Lặc sẽ bao gồm cả thiền tự, phòng triển lãm, viện bảo tàng, thư viện, cơ sở giáo dục và y tế phục vụ cộng đồng sẽ được thiết kế một cách hoàn hảo để có thể tồn tại ít nhất một ngàn năm để phụng sự công trình tâm linh trong suốt thời gian ấy. Một công trình qui mô như thế đòi hỏi phải có sự đóng góp lớn về công, sức và tài chánh. Vì thế “Dự Án Di Lac" hoan hỷ đón nhận sự đóng góp tịnh tài của tất cả mọi người, góp phần công đức vô cùng quí báu vào một công trình đem lại lợi ích tâm linh vững bền cho nhân loại. Viên Xá Lợi Phật là bảo vật hiếm quý không những của Phật giáo đồ Việt Nam, mà còn của toàn thể Phật giáo đồ khắp thế giới, bởi vì đó là di tích lịch sử thiêng liêng của Đức Từ Phụ để lại đã trải qua trên 2500 năm. Là người con Phật, ai ai cũng ao ước được nhìn thấy và chiêm bái Thánh tích của Đức Phật, nhất là người Phật tử Việt Nam vì đã kinh qua biết bao nhiêu là khủng hoảng về tinh thần lẫn vật chất trong cuộc đời. Danh từ Xá Lợi, theo từ ngữ Sanskrist là SARI, gọi đủ là SARILIKATHA. Đó là tinh chất thanh tịnh của Kim thân Đức Phật sau khi Trà tỳ còn lại, do công năng tu hành trong vô lượng kiếp và do lòng bi mẫn của Ngài nên lưu lại cho Nhân Thiên. Phẩm “Cúng dường Xá Lợi” trong Kinh Đại Bát Niết Bàn, Thánh tích của Ngài để lại Tôn thờ gồm có: - Pháp Xá Lợi là kinh hoặc những lời Giảng dạy của Ngài. - Hình ảnh, tranh tượng . ..và Xá Lợi Phật. Xá Lợi Phật, sau khi hỏa táng lưu lại, thường nhỏ như hột mè hoặc lớn bằng nửa hột gạo, gồm có 5 màu như : - Màu đen tức tóc của Ngài, gọi là Phát Xá Lợi. - Màu đỏ tức máu, gọi là Huyết Xá Lợi. - Màu vàng tức da, gọi là Bì Xá Lợi. - Màu xanh tức gân, gọi là Cân Xá Lợi. - Màu trắng tức xương, tủy, gọi là Cốt Xá Lợi. Tuy nhiên, phần từ cổ lên đỉnh đầu, những viên Xá Lợi lại lóng lánh, trong suốt như những viên kim cương. Nhưng lại tùy theo nghiệp lực của mọi người, mà viên Ngọc Xá Lợi Phật thay đỗi màu sắc so với màu nguyên thủy. Trong Kinh cũng có nói đến những Thánh tích của Đức Phật để lại như : - Sau khi Đức Phật thành Chánh Giác, có một Thương gia tên là Baddhali đến chiêm bái Ngài và vì ở xa xôi, nên đã xin thỉnh Phật một vật để Tôn thờ, và Ngài đã cho Ông ta một sợi tóc, gọi là Phát Xá Lợi hay cũng có Phát Xá Lợi hay Nha Xá Lợi được Tôn thờ trên cung Trời Đao Lợi. - Và sau khi Phật Nhập Niết Bàn, có 8 nước đến để tranh giành Thánh Tích Xá Lợi của Phật để mong sở hữu làm bảo quốc và Tôn thờ. Sau đây là lời dẫn giải của Thượng Tọa Thích Trí Siêu Trong chuyến viếng thăm chùa Ðức Viên ở San Jose California ngày 5 tháng 1 năm 2002, Ðại Ðức Thích Trí Siêu đã được tham dự buổi lễ trình diễn Xá Lợi của phái đoàn Phật Giáo Tây Tạng, do Ngài Lạt Ma Zopa Rinpoche hướng dẫn đến Hoa Kỳ để trình bày lần chót những hình ảnh về Xá Lợi của Phật Thích Ca, các vị A La Hán, và chư Tổ Trong dịp này TT Thích Trí Siêu đã thỉnh được một tập hình ảnh về các Xá Lợị Các Xá Lợi này rất quí giá, nếu tu hành tâm thanh tịnh thì có thể thấy được hào quang phát ra từ các Xá Lợị Nếu thờ phượng thiếu thành tâm thì các Xá Lợi sẽ tự biến mất. Xá lợi là gì? Xá lợi là những kết tinh lưu lại cho đời của các bậc thánh, những bậc đã sống vì đạo pháp, vì chúng sinh. Tất cả những tinh cốt còn lưu lại có công năng thù thắng, giúp tăng trưởng các điều lành thiện và tiêu trừ những điều xấu ác. Chỉ cần thành tâm, chúng ta có thể cảm nhận được năng lực mầu nhiệm của Xá Lợị Nguồn Gốc Của Xá Lợi Những viên ngọc Xá Lợi này được Ngài Lạt ma Zopa Rinpoche cung thỉnh và góp nhặt lạị Ngài là vị lãnh đạo tinh thần cho Công Trình Ðại Phật Di Lặc (Maitreya Project) cao nhất thế giới tại Ấn Ðô Có nhiều viên ngọc Xá Lợi quý báu của Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni, Ðức Phật Ca Diếp, và Xá Lợi của chư hiền thánh Tăng từ Ấn Ðộ, Tây Tạng và Trung Hoa. Hầu hết những Xá Lợi này đã được cất giữ trong những tôn tượng thờ tại Tây Tạng cả ngàn năm naỵ Chư Tăng ở Miến Ðiện, Indonesia, Thái Lan, Tây Tạng và Ðài Loan rất cảm kích Công Trình Ðại Phật Di Lặc nên đã cúng dường những viên Xá Lợi nàỵ Ngài Ðạt Lai Lạt Ma đã cúng dường Xá Lợi của Ðức Phật Thích Ca vào những số Xá Lợi đã góp nhặt được. Lạt Ma Zopa Rinpoche đã kiểm chứng cẩn thận những viên ngọc Xá Lợi này trước khi tiếp nhận. Vì Sao Chuyến Lưu Hành Xá Lợi Thật Ðặc Thủ Theo đúng truyền thống, Xá Lợi được canh gác và giữ gìn cẩn mật trong những hòm chứa pháp bảo hoặc được tôn trí trong các bảo tháp và các tượng thợ Thông thường chúng ta phải xin phép chính phủ và phải trải qua nhiều thủ tục hành chánh để được phép chiêm bái Xá Lợi. Chuyến đi trình bày Xá Lợi này chỉ thực hiện được nhờ lòng từ bi của Lạt Ma Zopa Rinpochẹ Với những quá trình hoạt động thật đặc biệt hy hữu, Ngài đã hội đủ cơ duyên góp nhặt được rất nhiều Xá Lợi từ khắp nơi trên thế giớị Những viên ngọc Xá Lợi này sẽ vĩnh viễn được tôn trí trong một bảo điện ngay trong quả tim của một tôn tượng Phật lớn nhất thế giới, tôn tượng Ðức Phật Di Lặc. XÁ LỢI TÔN GIẢ LA HẦU LA XÁ LỢI TÔN GIẢ CAMADA XÁ LỢI TÔN GIẢ KIỀU TRẦN NHƯ XÁ LỢI TÔN GIẢ PHÚ LÂU NA XÁ LỢI TÔN GIẢ BA KIẾT LA XÁ LỢI TÔN GIẢ BẠT ĐỀ LỢI CA XÁ LỢI NGÓN TAY PHẬT THÍCH CA MÂU NI XÁ LỢI ĐẦU PHẬT THÍCH CA MÂU NI XÁ LỢI RĂNG PHẬT THÍCH CA MÂU NI XÁ LỢI NÃO BẢY MÀU CỦA PHẬT THÍCH CA MÂU NI XÁ LỢI TIM PHẬT THÍCH CA MÂU NI X%C3%81%20L%E1%BB%A2I%20T%C3%94N%20GI%E1%BA%A2%20V%C3%94%20N%C3%83O XÁ LỢI TÔN GIẢ VÔ NÃO XÁ LỢI TÔN GIẢ A NAN ĐÀ
    1 like
  32. Ai cũng buồn vì có cung số nào đó của mình ko đẹp, nhưng thực sự không ai có đủ 12 cung số đẹp huy hoàng cả Ai cũng buồn vì mình không mau nổi tiếng và tài năng, nhưng nhìn những ngôi sao đương đại thì hiện nay mấy đĩa CD các bé hát hò đó đã lớn, vậy họ có còn được hâm mộ như lúc còn bé không? Ở VN mọi người có nhiều nổi tiếng đương đại để mọi người chiêm nghiệm, ko tiện nêu ra, nhỡ họ đọc xong lại kéo đổ diễn đàn thì khổ nhiều người. Trên thế giới có thể kể ra vài người đình đám có thể nêu vô tư vì nhiều khả năng họ chẳng biết mình nói gì về họ (toàn sự thật thôi mà) Michael Jackson sống là thế, chết là thế, có ai muốn như anh? Võ sĩ thép Mike Tison đến già mà vẫn có kẻ muốn thách đấu để 1 lần đứng trên đầu người vô địch một thời. Ai muốn được như anh không? Vua bóng đá PeLe chưa bao giờ đoán được đội vô địch, dù ở vòng trung kết. Buồn nhỉ. Thần đồng bóng đá Maradona nghiện ma túy đến độ lấy đầu con gái ra để thề là không nghiện hút mà vẫn hút hít v.v... Rất nhiều người tài đều chỉ có 1 thời và nếu không có sự điều chỉnh bản thân thì sẽ không có con đường tốt trong tương lai. Xem số là để biết ứng xử sao cho hợp lẽ đời và không hổ thẹn với lương tâm. Chứ không phải là để cải số hay thay đổi số phận hay làm sai đi lịch sử. Nếu trước kia tầu Titanic không chìm (trước đó đã có tiên đoán đến chuyện này và nêu đích danh cái tên Titanic) thì ngày nay nó đã ngao du khắp nơi với hàng ngàn lượt khách. Và người ta sẽ không thể tìm ra Vi khuẩn có thể phân hủy Thép (Thép cứng hơn Sắt do đã được bổ xung nhiều hợp chất tăng cứng Si, C, N, Ni...) Cái gì cũng có nguyên do sinh tồn của nó, cái chết của sinh vật này là sự sống của sinh vật khác. Giữa sinh và diệt là ranh giới mong manh.
    1 like
  33. Mời mọi người nghe khúc hát tuyệt vời về Đức Thích Ca VÌ CÓ PHẬT SÁNG TÁC: CHÂN QUANG - TRÌNH BÀY: HỢP CA http://www.youtube.com/watch?v=quijRfnnka4&feature=player_embedded#at=210 Mừng Đại Lễ Phật Đản Kể chuyện cuộc đời Đức Phật General Format : AVI Format/Info : Audio Video Interleave File size : 87.8 MiB Duration : 16mn 14s Overall bit rate : 755 Kbps Writing library : MPlayer Video ID : 0 Format : MPEG-4 Visual Format profile : Advanced Simple@L5 Format settings, BVOP : 2 Format settings, QPel : No Format settings, GMC : No warppoints Format settings, Matrix : Default (H.263) Codec ID : XVID Codec ID/Hint : XviD Duration : 16mn 14s Bit rate : 677 Kbps Width : 352 pixels Height : 240 pixels Display aspect ratio : 3:2 Frame rate : 29.970 fps Standard : NTSC Color space : YUV Chroma subsampling : 4:2:0 Bit depth : 8 bits Scan type : Progressive Compression mode : Lossy Bits/(Pixel*Frame) : 0.268 Stream size : 78.7 MiB (90%) Writing library : XviD 1.1.2 (UTC 2006-11-01) Audio ID : 1 Format : MPEG Audio Format version : Version 1 Format profile : Layer 3 Mode : Joint stereo Mode extension : MS Stereo Codec ID : 55 Codec ID/Hint : MP3 Duration : 16mn 14s Bit rate mode : Constant Bit rate : 64.0 Kbps Channel(s) : 2 channels Sampling rate : 48.0 KHz Compression mode : Lossy Delay relative to video : 33ms Stream size : 7.43 MiB (8%) Alignment : Aligned on interleaves Interleave, duration : 24 ms (0.72 video frame) Interleave, preload duration : 816 ms MỪNG NGÀY PHẬT ĐẢN Trăng soi bên hiên Gió reo thênh thang từng miền Nơi nơi hoan ca Mừng Đức Thích Ca Đến với đời CA KHÚC HOLY VESAK SONG - VESAK THIÊNG LIÊNG SÁNG TÁC: CHÂN QUANG | TRÌNH BÀY: HỢP CA [V-Z] Hôm nay, ngày Phật Đản lại về, khắp đất trời như tưng bừng, vui lại niềm vui của hơn hai ngàn năm trăm năm về trước. Ngày mà Đấng Cha Lành của chúng sinh thị hiện vào cuộc đời đau khổ lầm lỗi này để gióng lên tiếng chuông từ bi giải thoát. Ngài lớn lên trong cung vàng điện ngọc rồi khước từ cung vàng điện ngọc để vào rừng hoang tu hành khổ hạnh. Ngài thực hiện sự khổ hạnh khủng khiếp chưa từng thấy đến nỗi thân Ngài tiều tuỵ, mạng sống Ngài mong manh như sương trước nắng. Rồi Ngài lại khước từ sự khổ hạnh sai lầm đó để thực hành thiền định và chính con đường thiền định tuyệt vời này đã mang đến ánh sáng cho mười phương thế giới.Từ muôn kiếp qua vì vô minh mà chúng sinh trôi lăn mãi trong luân hồi sinh tử. Trong đêm dài sinh tử triền miên, chúng sinh tạo vô số nghiệp nhân thiện - ác để rồi khi thì được vui, khi thì chịu khổ. Nhưng dù khổ hay vui, dù là ông hoàng bà chúa hay kẻ ăn xin lầm than cơ cực, tất cả đều bị ràng buộc trong luân hồi mênh mông vô tận, chìm đắm trong vô minh âm u tâm tối. Sống trong cuộc đời bụi bậm này mỗi người chúng ta đều phải lo toan vất vả về sinh kế, tranh nhau từng chút hư danh, giành nhau từng chút ảo lợi. Để rồi cơn lốc vô thường cuốn phăng đi tất cả. Giữa biển khơi mênh mông ấy, ta không biết tấp vào đâu để có được một bến bờ yên vui, hạnh phúc. May mắn thay Đức Phật ra đời, Ngài thắp lên ánh sáng Từ Bi, mở ra con đường Giải Thoát, chỉ lối về an vui. Từ đây, ta có Bậc Đạo Sư cao cả, Đấng Cha Lành bao dung, có đảo cồn để nương tựa giữa biến khởi, có ánh sáng mặt trời quang minh trong đêm tối... ĐÔI ĐIỀU TÂM SỰ Lễ Phật Đản năm nay cũng như mọi năm, nhưng có một chút đặc biệt: Duy được ba mẹ cấp "visa" cho đi dự lễ tại Thiền Tôn Phật Quang (Bà Rịa Vũng Tàu), nơi mà vị trụ trì - Thượng Toạ Giảng Sư Nhạc Sĩ Thích Chân Quang là người đã sinh ra Duy lần nữa. Duy muốn làm một CD mừng ngày Vesak để đáp trả một chút gì đó những ân tình, đạo lý mà Thầy đã san sẻ, và cũng muốn cùng mọi người nhìn lại quãng đời đẹp hơn mọi kiệt tác nghệ thuật của Sidhattha Gotama - một con người vĩ đại, một người không phải là đấng tối cao, cũng chẳng phải là đấng ban phước gián hoạ, mà Ngài - Đức Thích Ca là một Bậc Thầy của nhân loại, một bậc Thầy từ bi, trí tuệ, đã vạch cho con người trên hành tinh nhỏ bé này con đường đi đến HẠNH PHÚC TUYỆT ĐỐI - điều mà bất cứ ai trong chúng ta đều khát khao, mơ ước. Vậy sao ta không cất bước theo sau Ngài? Trong CD này là cả một kho tàng những mẩu chuyện sâu sắc, độc đáo về cuộc đời Đức Phật mà có lẽ bạn chưa từng biết đến. Từ lúc Ngài đến với con người trong khu vườn Lumbini cho đến khi Ngài nhập Niết Bàn, đã có bao câu chuyện hay đáng để cho ta suy ngẫm. Và dĩ nhiên, có những bạn sẽ không thích xem video, cũng không thích nghe kể, mà lại thích đọc truyện tranh. Và bộ truyện tranh ĐỈNH NÚI TUYẾT - The White Peak (song ngữ Anh - Việt) dài 100 tập là sự đáp ứng hoàn hảo. Với nét vẽ trong sáng, rất Việt Nam của hoạ sĩ Hữu Tâm cùng chất lượng giấy rất tốt và thân thiện với môi trường, chắc chắn bạn sẽ có được những phút giây vừa thư giãn thoải mái sau giờ làm việc, vừa phải trầm trồ ngạc nhiên thích thú khi được từng trang sách dẫn đưa mình về nơi Ấn Độ hơn 2500 năm trước... Hiện đã xuất bản được tập 5 tập. Bạn nào muốn tìm đọc có thể liên hệ theo các địa chỉ sau: LINK DOWNLOAD BẢN XEM TRÊN DI ĐỘNG http://www.mediafire.com/?cclxle4coi1tv __________________________________________________ _____________ BẢN DVDRIP/ISO XEM TRÊN MÁY TÍNH Mặc dù khi tải về và nối lại bằng FFSJ thì mọi người sẽ nhận được một file .ISO. Tuy nhiên điều đó không thành vấn đề. Nếu bạn muốn xem CD này trên máy tính thì hoàn toàn có thể giải nén bằng Winrar file .ISO đó và thưởng thức. Còn trường hợp bạn thích xem trên đầu dân dụng để xem cùng cả nhà hay là để chép tặng người thân chẳng hạn, thì có thể dùng các phần mềm ghi đĩa để Burn ra CD. Mình khuyến cáo dùng Ultra ISO. http://www.mediafire.com/?8jjvx2uqs143f
    1 like