-
Thông báo
-
Nội quy Lý Học Plaza
Nội quy này là bản mở rộng Nội Quy - Quy định của Diễn đàn. Khi tham gia mua bán, các thành viên phải tuân theo những quy định sau: Tiêu đề bài viết: Bao gồm: Chỉ dẫn địa lý, Loại hình Mua/Bán, Thông tin mua bán.
Chỉ dẫn địa lý: Tỉnh/thành nơi mua bán. Hoặc sử dụng định nghĩa có sẵn:TQ: Toàn quốc
HCM: TP Hồ Chí Minh
HN: Hà Nội
[*]Ví dụ: HCM - Bán Vòng tay Hổ Phách Nội dung bài viết: Mô tả chi tiết sản phẩm mua/bán
Bắt buộc phải có thông tin liên lạc, giá Mua/Bán
Bài mới đăng chỉ được phép up sau 03 ngày.
Thời gian up bài cho phép: 01 ngày 01 lần.
Các hành vi vi phạm nội quy này sẽ bị xóa bài hoặc khóa tài khoản mà không cần báo trước.
-
Leaderboard
Popular Content
Showing most liked content on 27/06/2011 in Bài viết
-
Chủ Quyền Trên Hai Quần Đảo
BabyWolf and 3 others liked a post in a topic by Thiên Sứ
Không có cái gọi là 'đường lưỡi bò' trong sử TQ Cập nhật lúc :9:31 AM, 27/06/2011 Bao năm qua, một luồng quan điểm lớn ở Trung Quốc đã cố tình gây ra sự hiểu nhầm khi lợi dụng tên gọi biển Nam Trung Hoa (do người phương Tây gọi) để phán rằng biển của Trung Quốc bao chiếm gần như toàn bộ biển Đông. Thế nhưng sự thật khoa học cho thấy danh xưng biển Nam Trung Hoa (chỉ biển Đông) mà Trung Quốc lợi dụng để gây ra sự hiểu nhầm ấy chưa thấy xuất hiện ở những bản đồ do chính người Trung Quốc vẽ từ hàng trăm năm trước. Xin giới thiệu bài viết của nhà nghiên cứu Nguyễn Đình Đầu về vấn đề trên. Từ điển Bách khoa Việt Nam giải thích: Giao Chỉ là tên gọi do các triều đại phong kiến Trung Quốc dùng chỉ người và nước Việt Nam xưa. Thời Hùng Vương, Giao Chỉ là một trong 15 bộ của nước Văn Lang… Các triều đại phong kiến Trung Quốc sau này nhiều khi vẫn dùng tên Giao chỉ cũng như tên An Nam để chỉ quốc gia và nhân dân Đại Việt. Trong nhiều văn bản và bi ký, tên Giao Chỉ vẫn còn chỉ nước ta tới hết thế kỷ XIX. Người Trung Quốc không gọi biển Đông là biển Nam Trung Hoa Trên hai trang 11b và 12a trích từ sưu tập bản đồ Võ bị chí (ghi lại cuộc hành trình của Trịnh Hòa trong thời gian 1405-1433 đi từ Trung Quốc qua Ấn Độ dương tới Phi Châu) có vẽ nước ta tuy đơn giản nhưng cũng rõ ràng: Nước Giao Chỉ bắc giáp Khâm Châu Trung Quốc, nam giáp nước Chiêm Thành, đông giáp biển cả mang tên Giao Chỉ dương, tức biển của nước Giao Chỉ. Đây là tư liệu của Trung Hoa khắc vẽ về nước ta và biển cả thuộc về nước ta từ thế kỷ XV. Năm 1842, tác giả người Trung Hoa - Ngụy Nguyên xuất bản sách Hải quốc đồ chí mô tả và khắc vẽ bản đồ tất cả các nước trên thế giới và toàn thể năm châu bốn bể, theo phương pháp khoa học với kinh tuyến và vĩ tuyến. Trong sách này, Ngụy Nguyên đã vẽ hai bản đồ về Việt Nam. Trong đó, bản đồ thứ nhất vẽ sơ sài, chia nước ta ra hai phần (Việt Nam Đông đô và Việt Nam Tây đô). Ở ngoài khơi phía đông hai phần Việt Nam, Ngụy Nguyên ghi rõ là Đông Dương đại hải, tức biển Đông rất lớn. Bản đồ 1, nước Giao Chỉ với Giao Chỉ dương, trích từ bộ Võ bị chí. (Ảnh chụp lại từ tư liệu của nhà nghiên cứu Nguyễn Đình Đầu) Cũng trong tác phẩm Hải quốc đồ chí, Ngụy Nguyên còn khắc vẽ bản đồ An Nam quốc với đường nét đúng kinh tuyến và vĩ tuyến rất rộng lớn. Ngoài khơi nước An Nam có ghi rõ Đông Nam hải, tức là biển Đông Nam. Rõ ràng, hầu hết bản đồ Trung Hoa vẽ về Việt Nam từ thế kỷ XV hoặc trước nữa cho tới đầu thế kỷ XX đều ghi biển cả phía đông Việt Nam là Giao Chỉ dương hay Đông Dương đại hải hoặc Đông Nam hải, đều có nghĩa là biển của Giao chỉ (tức Việt Nam) hay đơn giản là biển Đông (của Việt Nam). Việt Nam thực thi liên tục chủ quyền của mình Như chúng ta biết, ít nhất từ đầu thế kỷ XVII Việt Nam đã thi hành chủ quyền trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa ở giữa biển Đông một cách chính thức, liên tục và không hề thấy một quốc gia hay dân tộc nào đến khiếu nại hay tranh giành. Từ khi chiếm nước ta làm thuộc địa, Pháp đã nhân danh Việt Nam thi hành chủ quyền ấy đúng công pháp quốc tế. Pháp đã xây dựng hai trạm khí tượng theo hệ thống quốc tế trên đảo Hoàng Sa và đảo Ba Bình trong quần đảo Trường Sa. Năm 1947, chính phủ Trung Hoa dân quốc đưa ra yêu sách về chủ quyền biển Đông theo “đường lưỡi bò gồm 11 khúc đứt đoạn”. Năm 1949, chính quyền Cộng hòa nhân dân Trung Hoa cũng yêu cầu tương tự nhưng không quyết liệt, quốc tế coi như làm ngơ. Ngày 14/10/1950, tại Hội nghị ký hòa ước San Francisco (Liên Hiệp Quốc), Thủ tướng Trần Văn Hữu của chính quyền Bảo Đại do Pháp bảo trợ đã tuyên bố: “Chúng tôi xác nhận chủ quyền đã có từ lâu đời của chúng tôi trên quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa”… Bản đồ 3, An Nam quốc với biển Đông Nam hải, trích Hải quốc đồ chí. (Ảnh chụp lại từ tư liệu của Nhà nghiên cứu Nguyễn Đình Đầu) Những bước leo thang trên biển Đông Ngày 15/1/1974, Trung Quốc đem quân đến đánh chiếm các đảo Hoàng Sa. Dưới thời của nước Cộng hòa XHCN Việt Nam, Trung Quốc đem thủy quân hùng hậu đánh chiếm một số đảo trong quần đảo Trường Sa của Việt Nam (năm 1988). Ngày 21/2/1992, Trung Quốc ra quy định biển Đông thuộc lãnh hải tỉnh Hải Nam, theo bản đồ với những “đường cắt khúc chín đoạn” chiếm hầu hết biển Đông, thâu tóm cả Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam. Trung Quốc đã chính thức trình lên Liên Hiệp Quốc bản đồ “đường lưỡi bò” vào năm 2009. Việt Nam và các nước liên quan đã phản đối sự phi lý, không phù hợp với luật pháp quốc tế của “đường lưỡi bò” này. Mấy tháng gần đầy, Trung Quốc ngang nhiên cấm đánh cá trên biển Đông, xâm phạm vào cả vùng biển thuộc chủ quyền của Việt Nam. Gần đây nhất, Trung Quốc có hành động ngang ngược là gây hấn với các tàu thăm dò dầu khí hay các chương trình nghiên cứu khác về biển. Những hành vi gây hấn này được Trung Quốc tiến hành trong phạm vi “đường lưỡi bò”, mặc dù đường ranh giới này vi phạm Công ước quốc tế về Luật Biển 1982 của Liên Hiệp Quốc. Phải khẳng định rằng những hành vi của Trung Quốc là sai trái, vi phạm nghiêm trọng luật pháp quốc tế, xâm phạm trắng trợn vào vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam. Việc gọi tên biển Nam Trung Hoa không có nghĩa đó là biển của Trung Quốc và Trung Quốc có quyền thực thi chủ quyền xâm phạm cả vào vùng biển của các nước khác được xác lập theo đúng Công ước quốc tế về luật biển 1982. Nhà nghiên cứu Nguyễn Đình Đầu/ Pháp luật TP HCM4 likes -
Trong thời đại Hồ Chí Minh Nước Việt nam ta đã từng làm nên một Điện biên phủ trên bộ với giặc Pháp , một Điện biên phủ trên không với giặc Mỹ . Có lẽ sẽ còn một Điện biên phủ trên biển với giặc Tàu nữa2 likes
-
Hay hay THung lũng ngày càng đông khách, càng vui. Mời các hạ thỉnh thoảng thi triển vài chiêu chức cho Doanh Doanh được mở rộng tầm mắt. Xin lấy trà thay rượu, kính các hạ 1 ly. Xin phép được sửa vài chữ trong đường kiếm của Các hạ. Gió thổi, mây bay, hạc cuối trời Tương tư hình bóng, lòng chơi vơi. Người về thăm thẳm nơi xa ấy Hoàng hôn in đậm tiếng ai cười. Xung huynh, Doanh tỷ sao còn đợi Lòng người phấp phới chốn bồng lai Sao không đưa nhau về chốn ấy Tim hồng, rượu đậm – cõi thiên thai2 likes
-
Những tiếng nói tôn trọng lẽ phải trên báo chí Trung Quốc TP - Không phải bất cứ người Trung Quốc nào cũng tin vào những tuyên truyền về “chủ quyền không thể tranh cãi của Trung Quốc đối với Nam Hải” cách gọi của người Trung Quốc về Biển Đông) cùng những lời đe dọa dùng vũ lực giải quyết tranh chấp trên Biển Đông mà một số tờ báo và trang mạng quá khích tung ra. Chính “Thời báo Hoàn Cầu” (tờ báo vừa qua tung ra những luận điệu xuyên tạc và kích động) trong một bài báo ngày 21-6 cũng thừa nhận: “Giới học giả Trung Quốc khá bình tĩnh (trong vấn đề sử dụng vũ lực). Trong số 5 học giả được “Thời báo Hoàn cầu” phỏng vấn hôm 20-6, có 4 vị cho rằng: Dùng vũ lực để giải quyết tranh chấp ở Nam Hải là không sáng suốt. Đáng chú ý là trên nhiều trang mạng của Trung Quốc từ hôm 22-6 xuất hiện bài viết của ông Ngô Kiến Dân, Viện sĩ Viện Khoa học Châu Âu, Viện sĩ Viện Khoa học Âu Á, Chủ nhiệm Trung tâm nghiên cứu các vấn đề quốc tế Thượng Hải, nhan đề: “Việc Trung Quốc tự kiềm chế trong vấn đề tranh chấp Nam Hải là thể hiện sự tự tin”. Bài báo đã dấy lên phản ứng rất mạnh, ông Ngô phải hứng chịu những trận “ném đá” tơi bời trên mạng từ phía những kẻ đại diện cho tư tưởng hiếu chiến. Nguyên nhân khiến Viện sĩ Ngô bị phê phán, bị gọi là “Hán gian” bởi ông phản đối việc gây hấn, sử dụng vũ lực với các nước láng giềng. Ông viết: Do thời thế đã thay đổi nên trong quan hệ quốc tế đã xuất hiện tình hình mới, tác dụng của chiến tranh không còn như trước. Trong 3 cuộc chiến tranh diễn ra trong thế kỷ này: Chiến tranh Afghanistan, chiến tranh Iraq và chương trình Lybia thì 2 cuộc đầu do Mỹ và phương Tây tiến hành với ưu thế quân sự tuyệt đối đánh nước nghèo, nước nhỏ, kết quả là Mỹ và đồng minh sa vào cảnh khốn đốn. Còn cuộc chiến tranh Lybia đang diễn ra cũng sẽ dẫn đến kết cục đó. Vấn đề Nam Hải là do lịch sử để lại, khinh suất gây chiến tranh là không được. Lãnh đạo Trung Quốc nhấn mạnh cần phải giương cao ngọn cờ hòa bình, hợp tác, phát triển là sáng suốt. Ông phân tích tình hình, vị thế của Đông Á, quan hệ đem lại lợi ích chung lớn đang có giữa Trung Quốc với Việt Nam, Philippines rồi khẳng định: “Trước những thách thức cần phải bình tĩnh quan sát, xem xét toàn diện, tối kỵ nôn nóng hành sự, tối kỵ dùng tư tưởng cũ thời chiến tranh và cách mạng để xử lý những vấn đề hiện nay, nếu làm thế sẽ phạm phải sai lầm thời đại”. Ngay trong muôn vàn ý kiến phản hồi trên Hoàn Cầu và các diễn đàn mạng Trung Quốc khác, bên những ý kiến quá khích, cực đoan, chúng ta vẫn thấy xuất hiện những ý kiến tỉnh táo, có trách nhiệm của những người dân Trung Quốc hiểu biết, tôn trọng lẽ phải, tôn trọng sự thật, như: “Những cái đầu nóng chỉ mang lại tai họa, đầu phải lạnh mới có được quyết sách đúng!”, “Làm gì thì cũng phải tuân thủ Luật quốc tế trước”, “Tôi đã nghi ngờ nhiều năm. Vì sao lại vẽ Nam Hải của chúng ta tới tận cửa nhà người ta. Địa Trung Hải chả phải là biển của riêng nước nào hay sao?”, “Tôi nhìn bản đồ, không tin vào những điều chính phủ nói. Trung Quốc bắt đầu từ thời Minh đã thực thi chính sách bế quan tỏa cảng, đời Thanh cũng vậy, trước nay đâu có phát triển ra biển. Vậy mà nay lại vẽ bản đồ ra xa đến tận cửa nhà người khác như vậy. Tôi không tin trong lịch sử Trung Quốc đã có những nơi đó…”, “Vấn đề lãnh thổ xưa nay luôn là “được làm vua, thua làm giặc”, không hề như lối nói ngu xuẩn “từ xưa đến nay đã là lãnh thổ của XXX”. Bản đồ Trung Quốc luôn thay đổi trong lịch sử. Trung Quốc từng là một bộ phận của Mông Cổ, nếu nay người Mông Cổ nhảy ra nói “Trung Quốc là một bộ phận không thể chia cắt của Mông Cổ” thì người Trung Quốc nghĩ sao?”; “Nói thật lòng, là người Trung Quốc tôi dĩ nhiên cho rằng Nam Hải là của Trung Quốc, nhưng sau khi hiểu rõ tình hình và nhìn kỹ bản đồ, tôi mới phát hiện ra rằng Trung Quốc cần rút ra khỏi cuộc tranh chấp với Việt Nam và các nước Đông Nam Á. Nam Hải cách Trung Quốc xa nhưng gần với họ quá. Nếu Nam Hải thật sự trở thành của Trung Quốc thì nói hơi ngoa một chút, người nước họ bơi ra biển là đã “xuất ngoại” xâm phạm lãnh hải nước khác ư? Nếu là người Việt Nam thì bạn sẽ rất buồn”.v.v. Thu Thủy Theo báo chí Trung Quốc2 likes
-
Ngay cả không nhớ sinh ngày hay đêm ,thì giờ sinh làm sao chuẩn xác được để mà xem.1 like
-
Tủ vi không có xem vào tuổi mà xem vào vận và mệnh ,tức là những gì phải có .Cũng dễ , cô ấy nói thì im miệng cố gắng nghe cô ta nói gì , nếu thành vợ chồng rồi ,thì vợ nói chồng dạ ngoan ngoãn vâng lời ,mọi chuyện im ru như mặt nước hồ thu .1 like
-
Khổng Tử
TrungNhan liked a post in a topic by Lãn Miên
Bắc Kinh chưa thuộc lời dạy của Khổng Tử Hiểu được sức mạnh của văn hóa, nên gần đây, bên cạnh việc tăng trưởng kinh tế, hiện đại hóa quân đội, Trung Quốc đã tăng cường công tác truyền bá văn hóa ra nước ngoài. Đến hiện tại, nước này đã cho xây dựng hơn 150 Viện Khổng Tử trên thế giới, với mục đích quảng bá ngôn ngữ và văn hóa Trung Hoa. Việc chọn Khổng Tử để đặt tên cho các viện không phải là ngẫu nhiên, bởi ở Trung Quốc, Khổng Tử được phong là “vạn thế sư biểu” (Biểu trưng người thầy ở mọi thời đại). Ông là người khai sáng Nho giáo, một học phái không chỉ ngự trị ở Trung Quốc hàng ngàn năm, mà còn ảnh hưởng sang nhiều nước trong khu vực, như Việt Nam, Nhật Bản và Triều Tiên. Ngày nay, học thuyết Khổng Tử được nghiên cứu trên khắp thế giới. Chúng ta trở lại sự kiện Lưu Hiểu Ba hồi năm rồi để hiểu thêm về tầm quan trọng của Khổng Tử đối với nhà nước Trung Quốc. Khi được chọn tặng giải Nobel Hòa bình 2010, Lưu Hiểu Ba đang bị giam tại Trung Quốc. Thế mà, Ủy ban Nobel vẫn quyết định tổ chức lễ phát giải vắng mặt. Tại Trung Quốc, trước một ngày khi lễ trao giải Nobel diễn ra, Bắc Kinh đã sáng lập giải Khổng Tử, và trao cho một nhà chính trị Đài Loan. Khi ấy, báo chí phương Tây đã ví von “Khổng Tử trước Nobel”. Cố tình không theo? Trung Quốc xem trọng Khổng Tử như thế, nhưng lạ thay, nước này có vẻ chỉ biết khai thác tiếng tăm của đức Khổng, bởi trong hành động, Bắc Kinh tỏ ra không hề hiểu, hoặc đã hiểu mà cố tình không làm theo lời dạy của ngài. Chúng ta chỉ cần nhìn vào ba điểm then chốt nhất của Khổng Giáo để chứng minh cho lời nhận định trên. 1) Khổng Tử dạy: Người quân tử lấy nghĩa làm đầu, không vì lợi mà quên nghĩa. Năm 1974, nhân thế cuộc chiến tranh Việt Nam lúc cao trào, Trung Quốc thừa cơ đánh chiếm Hoàng Sa. Nên nhớ rằng, trong thời gian đó, quan hệ Việt-Trung là đồng chí, anh em. Năm 1988, Trung Quốc lại tấn công Trường Sa, gây thương vong cho nhiều chiến binh Việt Nam. Hai sự kiện này cả thế giới ai cũng biết. Tức Trung Quốc cũng biết rõ hành động chiếm đoạt lãnh thổ của bằng hữu mình là trước thanh thiên bạch nhật, thế mà vẫn làm. Rõ ràng là thấy lợi quên nghĩa! Gần đây, Trung Quốc tăng cường hiện đại hóa quân đội, xây dựng căn cứ tàu ngầm Tam Á, và ngày càng có thái độ hung hăng trên Biển Đông. Thái độ và hành động hung hăng của Trung Quốc vừa qua cả thế giới điều biết, báo đài quốc tế đã tốn nhiều giấy mực để phân tích. Giải thưởng mang tên Khổng Tử được 'sáng lập' để đối chọi với giải Nobel Tại sao Trung Quốc lại tăng cường tấn công Biển Đông như thế mà không ngại trắng trợn vị phạm luật quốc tế, không ngại mất tình láng giềng, không ngại mang tiếng lấn lướt người yếu thế? Câu trả lời rất đơn giản mà cả thê giới đều biết, đó là dưới lòng Biển Đông trong khu vực Trung Quốc áp đặt đường lưỡi bò có một trữ lượng dầu hỏa và khí đốt khổng lồ. Rõ ràng lại vì lợi quên nghĩa! 2) Khổng Tử dạy: Người quân tử không sợ kẻ mạnh, không hiếp người yếu. So với Trung Quốc, các nước có tham gia tranh chấp Biển Đông điều là nước nhỏ hơn, kinh tế kém phát triển hơn, quân lực yếu hơn. Gần đây, Trung Quốc tăng cường ngân sách đáng kể cho quốc phòng, xây dựng căn cứ tàu ngầm Tam Á trên đảo Hải Nam. Trung Quốc cũng vừa soán ngôi Nhật Bản để trở thành nền kinh tế thứ hai thế giới. Trung Quốc lại là một trong năm nước có quyền phủ quyết tại Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc. Như vậy, có thể nói rằng, dù Bắc Kinh luôn “khiêm tốn” không thừa nhân, nhưng trên thực tế, Trung Quốc là một cường quốc kinh tế, chính trị và cả quân sự. “Tri kỉ tri bỉ”, Trung Quốc hiểu rõ vị thế của mình, và đã tận dụng lợi thế này để lấn lướt các nước trong khu vực, dùng sức mạnh để đe dọa láng giềng, không kể gì đến luật pháp quốc tế và tình nghĩa cận thân. Rõ ràng là ỷ mạnh hiếp yếu! 3) Khổng Tử dạy: Trong quan hệ bằng hữu, lấy chữ tín làm đầu. Trên các diễn đàn chính thức, Bắc Kinh luôn tuyên bố không cậy mạnh hiếp yếu, muốn giải quyết tranh chấp bằng hòa bình. Thế mà sự thật đã chứng minh, Trung Quốc tỏ ra "tiền hậu bất nhất". Philippines vừa rồi tố cáo Trung Quốc nhiều lần xâm phạm lãnh hải, trong khi quan chức Bắc Kinh đến thăm Philippines để tăng cường tình hữu nghị. Tàu hải giám Trung Quốc vào trong phạm vi đặc quyền kinh tế của Việt Nam để tấn công tàu Việt Nam. Thế mà, người phát ngôn Bộ Ngoại giao của Trung Quốc lại cáo buộc điều ngược lại, trong khi báo đài thế giới đều ghi nhận sự xâm phạm lãnh hải Việt Nam này của phía Trung Quốc. Rồi tại diễn đàn Shangri-La 2011, trước phản ứng của Philippines, Việt Nam, Malaysia, tổng trưởng quốc phòng Trung Quốc Lương Quang Liệt lại tuyên bố mạnh mẽ rằng Trung Quốc không hề dùng sức mạnh đe dọa láng giềng, Trung Quốc theo đuổi giải pháp hòa bình... Sau cuộc "trấn an", tàu Trung Quốc lại tiếp tục tấn công tàu Việt Nam một lần nữa. Rõ ràng là không giữ điều tín nghĩa ? Đức Khổng Tử răn dạy hậu thế tu thân để thành người quân tử. Thế nhưng, chỉ xét sơ ba điều cơ bản của Nho Giáo nói trên, thì đủ thấy rằng bài học cơ bản của đức Khổng đã không được Bắc Kinh học thuộc. Như vậy, chính phủ Bắc Kinh có xứng đáng là con cháu Khổng Tử chăng? Nếu phải, thì nên chăng Bắc Kinh phải học lại Khổng Giáo trước khi truyền bá cho người. Bài phản ánh quan điểm cá nhân của tác giả Lê Phước, một người nghiên cứu Nho giáo, hiện là nghiên cứu sinh tiến sỹ tại Đại học Versailles Saint-Quentin-En-Yvelines, vùng Ile de France, Pháp. Dưới đây trích bài “Nhân ngày Bác Hồ ra đi tìm đường cứu nước, suy nghĩ về việc học tập và làm theo đạo đức danh nhân văn hóa Hồ Chí Minh” của Nguyễn Thiện Chí, giảng viên cao cấp trường Đại học sư phạm Tp HCM, tháng 5-2011: Nói đến Khổng Tử, ta thường bị ám ảnh bởi Khổng Tử là người Trung Quốc, không sai. Khổng Tử là người Trung Quốc, ông là người nước Lỗ, sinh năm 551 trước công nguyên, cách nay 2562 năm. Nhưng Khổng Tử được công nhận là danh nhân văn hóa thế giới từ năm 1952, cho nên nhìn và đánh giá Khổng Tử cần đứng góc độ ông là người của nhân loại. Năm 1998 những người được giải Nobel hòa bình trên toàn thế giới đã nhóm họp tại Paris thủ đô Pháp, có ra lời tuyên bố, long trọng kêu gọi thế giới rằng: “ Nếu loài người muốn tồn tại ở thế kỷ 21, cần phải hồi tưởng lại 2500 năm trước đây, tiếp thu trí tuệ của Khổng Tử”. Qua đó ta có thể thấy, nhân loại đánh giá rất cao giá trị học thuyết Khổng Tử. Tư tưởng Khổng Tử, nói chung là học thuyết Khổng Mạnh, Nho giáo, từ ngàn xưa ảnh hưởng rất sâu sắc đối với người Việt Nam ta, nhất là đối với các bậc sĩ phu thời phong kiến. Không phải ngẫu nhiên mà tại Quốc tử giám Văn Miếu, trường đại học đầu tiên của nước ta, trang trọng thờ Khổng Tử giữa chính điện từ nghìn năm nay. Hồ Chí Minh cũng không ngoại lệ. Những tư liệu mà chúng tôi tiếp cận được chứng minh rằng thời còn bé là cậu Nguyễn Sinh Cung, rồi trước khi ra đi tìm đường cứu nước lấy tên là Nguyễn Tất Thành, khi hoạt động cách mạng là Nguyễn Ái Quốc và khi làm chủ tịch nước là Hồ Chí Minh, Người đã tiếp nhận Khổng Tử, ca ngợi Khổng Tử và vận dụng sáng tạo tư tưởng đạo đức Khổng Tử. Trong hệ thống quan điểm, đạo đức Hồ Chí Minh có phần của Khổng Tử. Xin được lý giải: Đất nước Việt Nam vào cuối thế kỷ 19 sang đầu thế kỷ 20, chữ quốc ngữ chưa được phổ cập. Các bậc cha mẹ dạy con em mình, hoặc cho con em đi học, học vỡ lòng đều bắt đầu bằng chữ Nho, được gọi là chữ thánh hiền, đi học được xưng là đến “cửa Khổng sân Trình”, học Tam thiên tự, Tứ thư, Ngũ kinh. Nam Đàn Nghệ An là vùng đất văn vật, địa linh nhân kiệt, nhiều vị học rộng tài cao, đậu giải nguyên khoa bảng. Thời bầy giờ lưu truyền câu thơ “Tứ hổ” (bốn ông đồ nổi tiếng xứ Nghệ) Thông minh bất như Qúi ( Vương Thúc Qúi, chữ đẹp, giỏi câu đối) Uyên bác bất như San ( Phan Văn San đậu giải nguyên) Tài hoa bất như Song ( Ngô Qúi Song, học giỏi, chữ đẹp, đỗ tiến sĩ) Cường ký bất như Lương ( Trần Văn Lương, trí nhớ tốt, nhớ lâu) Và các bậc nho sĩ nổi tiếng khác như thầy Đô, thầy Trần Thân, Hoàng Phan Quỳnh, Ngô Thúc Tự… hầu như tất cả các vị đó Nguyễn Sinh Cung đều được thụ giáo. Thủa nhỏ Nguyễn Sinh Cung học rất thông minh, được xem như “thần đồng”, lại tiếp thu nhanh, sáng dạ, có đầu óc tư duy phản biện, có tài đối đáp, làm câu đối, thuộc làu các câu trong Luận Ngữ của Khổng Tử, thuộc làu thơ Đường Tống. Các cụ cứ đồn đại, cậu Cung của cụ Phó Bảng thuộc thông Tứ thư, Ngũ kinh, thầy dạy không còn đâu chữ nghĩa để dạy nữa. Thời kỳ ở Pháp từ 1921, Nguyễn Ái Quốc đã viết nhiều bài bình luận về học thuyết Khổng Tử, dịch sang tiếng Pháp nhiều bài của Khổng Tử. Nguyễn Ái Quốc viết: “ Khổng Tử là con người vĩ đại, ông đã đề xướng sự bình đẳng về quyền lợi trong một thế giới đại đồng giàu có”. Khổng Tử cho rằng: “ thiên hạ thái bình chỉ có thể thực hiện được trên nền tảng một thế giới đại đồng”. Nguyễn Ái Quốc trích dẫn câu nói của Khổng Tử “Không sợ nghèo, chỉ sợ không công bằng”, “của cải và cuộc sống phải bình đẳng với nhau”. Khi Nguyễn Ái Quốc hoạt động ở Quảng Châu, có một sự kiện chấn động làm mọi người phải kinh ngạc. Đó là vào ngày 15-2-1927 chính phủ Trung Hoa Dân Quốc ra quyết định “Kể từ nay trở đi, hủy bỏ các hoạt động thờ cúng Khổng Tử và theo đó chính phủ sẽ không cấp kinh phí nữa. Đền thờ Khổng Tử sẽ tu sửa thành trường học”. Bảy ngày sau đó, ngày 22-2-1927 ngay tại Quảng Châu, Nguyến Ái Quốc đã chính thức soạn thảo một văn bản với nội dung phê phán quyết định trên, Nguyễn Ái Quốc cho rằng “ Quyết định này là trái với tinh thần dân chủ” và Nguyễn Ái Quốc nói “Người An Nam chúng tôi vẫn phải đọc sách của Khổng Tử để tự hoàn thiện mình về mặt tinh thần”. Cốt lõi của học thuyết Khổng Tử là chữ NHÂN, lòng yêu thương con người, coi trọng con người. Chính Nguyễn Ái Quốc đã nhiều lần đề cập vấn đề này. Ngày 20-3-1947 Hồ Chủ tịch viết cuốn “Đời sống mới” để giáo dục cán bộ. Trong đó viện dẫn rất nhiều câu nói của Khổng Tử, Mạnh Tử như: “ Cụ Khổng Tử nói: Người sản xuất nhiều, người tiêu xài ít, làm ra mau, dùng đi chậm thì của cải luôn luôn đầy đủ” “Cụ Khổng Tử nói: Người mà không LIÊM, không bằng súc vật” “Cụ Mạnh Tử nói: Ai cũng tham lợi, thì nước sẽ nguy” “Về chữ CHÍNH cụ Khổng Tử nói: Mình có đúng đắn mới tề được gia, mới trị được quốc, mới bình được thiên hạ”. Một sự kiện khiến ta phải suy ngẫm là vào tháng 5-1965, để tránh mừng thọ trong nước, Người sang thăm Trung Quốc với tư cách cá nhân. Đúng vào ngày 19-5-1965 Người đến thăm Khúc Phụ, quê hương Khổng Tử và thăm đền thờ Khổng Tử, trong bối cảnh Trung Quốc đang “phê Lâm phê Khổng”, là việc không bình thường. Người được phó chủ tịch nước Trung Quốc là Đổng Tất Vũ và phu nhân tháp tùng đến thăm tỷ mỉ ba giờ đồng hồ liền. Tại đây, Người kể về thân thế, sự nghiệp của Khổng Tử, bàn luận về Khổng Tử. Người nói: “ Khổng Tử vĩ đại, siêu nhân, người dẫn đầu triết lý thánh hiền của thiên hạ”, “Khổng giáo không phải là tôn giáo mà là khoa học về đạo đức và kinh nghiệm xử thế. Tinh hoa của học thuyết Khổng Tử là ở chỗ sự tu dưỡng đạo đức cá nhân, mà sự tu dưỡng này rất quan trọng đối với sự mưu cầu hạnh phúc của nhân loại và phúc lợi xã hội”. Học thuyết Khổng Tử trải qua các thời đại, sớm trở thành hệ thống tư tưởng mang tính chính thống và đầy sức sống. Chúng ta không thể bác bỏ tất cả, mà nên tiếp thu một cách có chọn lọc và học lấy điều hay, điều đúng, làm phong phú thêm kiến thức cho bản thân mình và cho lớp con cháu mai sau. Trên đường từ Khúc Phụ đến Bắc Kinh, ngồi trên tàu lửa, Người đọc bài thơ vừa sáng tác cho mọi người cùng nghe 訪曲阜 Phỏng Khúc Phụ 五月十九訪曲阜 Ngũ nguyệt thập cửu phỏng Khúc Phụ 古松古廟兩依稀 Cổ tùng cổ miếu lưỡng y hy 孔家勢力今何在 Khổng gia thế lực kim hà tại 只剩斜陽照古碑 Chỉ thặng tà dương chiếu cổ bi Thăm Khúc Phụ Mười chín tháng năm thăm Khúc Phụ Miếu cổ, tùng xưa bóng chửa nhòa Uy quyền họ Khổng giờ đâu tá? Thấp thoáng bia xưa chút ánh tà ( bản dịch Nguyễn Thiện Chí) Bài thơ trữ tình, súc tích, ngắn gọn mà sâu sắc, đầy chất trí tuệ, ẩn chứa sự phê phán, bênh vực cho Khổng Tử. Xem thế ta có thể thấy được đạo đức Hồ Chí Minh có tiếp thu một cách sáng tạo tư tưởng đạo đức Khổng Tử. Chính Người đã tự nói điều này. Ngoài ra tất nhiên còn có vấn đề gia phong, truyền thống gia đình, ảnh hưởng của xã hội: sự cần cù hiếu học, chịu đựng gian khổ, sống đạm bạc giản dị, tôn ti nề nếp, kính già yêu trẻ, hiếu thảo ông bà cha mẹ, nhường nhịn lễ phép, yêu nước thương nòi là những biểu hiện đạo đức truyền thống của xã hội Việt Nam. Xin trích bảy câu nói của Hồ Chí Minh: “ Nếu ai nói chúng ta không dân chủ thì chúng ta khó chịu. Nhưng nếu chúng ta tự xét cho kỹ, thì thật có như thế” “Cách tổ chức và cách làm việc nào không hợp với quần chúng thì ta phải có gan đề nghị lên cấp trên để bỏ đi hoặc sửa lại” “Đưa mọi vấn đề cho dân chúng thảo luận và tìm cách giải quyết” “Nghị quyết gì mà dân chúng cho là không hợp thì để họ đề nghị sửa chữa” “Đảng không phải là một tổ chức để làm quan phát tài” “Làm cán bộ tức là suốt đời làm đầy tớ trung thành của nhân dân. Mấy chữ A,B,C này không phải ai cũng thuộc đâu, phải học mãi, học suốt đời mới thuộc được” “Làm cán bộ phải nhận ra phải trái. Giữ vững lập trường. Tận trung với nước, tận hiếu với dân”. …. … Tố Hữu nhà thơ lớn của chúng ta đã viết trong bài “Chào xuân 1999” : ÔI ! Việt Nam đất nước nghĩa tình Trái tim lớn yêu Chân Thiện Mỹ Sao gần xa cái Ác cứ rình Mặt nạ người che lòng dạ quỷ ! Sao lắm kẻ xưng danh đồng chí Nhạt lương tâm lạnh ngắt đồng tiền Gian tà dám bán rao đạo lý Tham nhũng leo thang bậc cửa quyền. Trong bài “Viếng bác Tú Xương” (18-5-2001) nhà thơ lại than thở: Chẳng ít quan tham nhũng Bỏ nghĩa chạy theo vàng Kéo cánh bè ăn vụng Mua chức vị làm sang ! Nhưng rồi Tố Hữu lại nhắn nhủ: Nhưng bác Tú Xương ơi ! Dân vẫn phân đen trắng Tay nào che mặt trời Chân lý nhất định thắng !1 like -
@nguoivosu Doanh Doanh cũng muốn tiếp huynh vài chiêu. Tiếp theo câu chuyện của huynh, Doanh Doanh muốn kể tiếp thế này: Cha em là trộm giỏi thật, đúng rồi, trộm sao cho vào mắt e, trộm đào tiên cho má e hồng, trộm mây làm sóng tóc, .... Thế mà cha e phải thua anh, bởi bao năm đi trộm, 1 ngày gặp anh, anh đã trộm tất cả thành quả đó của ông. Xin mời Đào tiên hái trộm ban đêm Phủ da em đó, má em ửng hồng Trên trời, mây tựa suối bông Ông đem làm tóc bềnh bồng cho em ..... Nhưng rồi thế đấy, anh xem Bao công sức ấy cũng liền mất thôi Bởi chưng e gặp a rồi A cao tay ấn, và rồi ông thua Công phu ăn trộm bao mùa 20 năm lẻ thượng thừa võ lâm Gặp trang hảo hán - không nhầm Trộm luôn thành quả bao năm ông làm Xin kính mời huynh nguoivosu một chung.1 like
-
Thời gian gần đây, báo chí có đưa tin về việc các nhà ngoại cảm đi tìm mộ liệt sĩ và tiếp xúc được với người "cõi âm”. Phật giáo giải thích hiện tượng này thế nào? Quan điểm của Phật giáo là thần thức sau khi chết tối đa là 49 ngày thì tái sanh vào một thế giới tương ứng với nghiệp thức. Nếu đã tái sanh vào cõi khác thì "ai” tiếp xúc với các nhà ngoại cảm? Tại sao có những người chết cách nay hàng trăm năm vẫn tiếp xúc được với các nhà ngoại cảm? "Cõi âm” mà các nhà ngoại cảm tiếp xúc được nằm ở đâu trong lục đạo. Việc các nhà ngoại cảm tìm được hài cốt của những người chết nhờ tiếp xúc với người “cõi âm” được báo chí công bố gần đây là điều có thật và rất đáng trân trọng. Thực ra, khả năng ngoại cảm của con người được biết đến từ thời xa xưa. Các nước trên thế giới, từ lâu, đã nghiên cứu và ứng dụng ngoại cảm vào nhiều lĩnh vực của đời sống, trong đó có cả quân sự. Và các nhà khoa học Việt Nam, từ khoảng 15 năm nay, đã bắt đầu nghiên cứu một cách nghiêm túc về các hiện tượng đặc biệt của con người, trong đó có ngoại cảm. Tiên phong trong lĩnh vực này là các cơ quan như Liên hiệp Khoa học Công nghệ tin học ứng dụng, Viện Khoa học Hình sự Bộ Công an, Trung tâm Bảo trợ Văn hóa truyền thống và Bộ môn Cận tâm lý Trung tâm Nghiên cứu tiềm năng con người. Trước hết, Phật giáo không hề có quan niệm về một dạng sống được gọi là “cõi âm”. Thế giới quan của Phật giáo là vô lượng vô biên thế giới, hằng hà sa số thế giới, trong đó có thế giới Ta bà gồm Dục giới, Sắc giới và Vô sắc giới. Hai cõi Sắc và Vô sắc là cõi giới của thiền định. Cõi Dục gồm lục đạo là các loài Trời, A tu la, Người, Ngạ quỷ, Súc sanh và Địa ngục. Cõi âm hoặc âm phủ chỉ là quan niệm dân gian dùng để chỉ thế giới của người chết đối lập với cõi người sống (cõi dương). Đối với các bậc chân sư Phật giáo đã chứng đạo, khả năng đặc biệt của các nhà ngoại cảm là chuyện bình thường, không có gì xa lạ cả. Những thiền sư, nhờ tu tập thiền định mà thành tựu Tam minh và Lục thông. Trong đó, khả năng của các nhà ngoại cảm hiện nay có thể xem như là một phần nhỏ của Thiên nhãn thông (năng lực thấy rõ mọi thứ, không ngăn ngại), Thiên nhĩ thông (năng lực nghe được tất cả các dạng âm thanh) và Tha tâm thông (năng lực biết được tâm ý của người cùng các chúng sanh khác). Chỉ có điều, các hành giả Phật giáo hiếm khi tuyên bố về thần thông, bởi thần thông thường thành tựu trước trí tuệ (chứng đắc Tứ thiền đã có năng lực của Ngũ thông, trừ Lậu tận thông) và chấp thủ hay lạm dụng vào thần thông sẽ chướng ngại giải thoát tối hậu. Vì vậy, các hành giả Phật giáo khi có sở đắc về thần thông thì đa phần thường im lặng. Đối với giới khoa học, Thiếu tướng Chu Phác, Chủ nhiệm Bộ môn Cận tâm lý Trung tâm Nghiên cứu tiềm năng con người, khá am tường Phật giáo khi nhận định: “Việc ‘thấy’ của các nhà ngoại cảm xét dưới góc độ khoa học hiện đại thực ra là hiện tượng Thiên nhãn thông, một trong mười lợi ích của thiền định”. Sau khi chết, thần thức thường trải qua giai đoạn trung gian, chuyển tiếp trước khi tái sanh. Khoảng thời gian cho giai đoạn mang thân trung ấm này tối đa là 49 ngày, ngoại trừ hai trường hợp cực thiện và cực ác thì tái sanh ngay lập tức vào cõi Trời hay cõi Địa ngục. Tuy nhiên, còn có trường hợp đặc biệt của thân trung ấm do chết đột ngột (đột tử) và chết một cách oan ức thì thần thức hoặc “không biết” mình đã chết, hoặc do oán hận ngút ngàn mà cận tử nghiệp bám chặt, chấp thủ kiên cố vào trạng huống “hiện tại”, được gọi là các “oan hồn”, cần phải khai thị (giải nghiệp) mới có thể chuyển kiếp, tái sanh. Ngoài các thân trung ấm, những “oan hồn”, các nhà ngoại cảm còn tiếp xúc được với những chúng sanh trong loài Ngạ quỷ. Nhà ngoại cảm Bích Hằng đã nói rất chính xác: “Thế giới người âm rất đa dạng, phong phú, chia thành nhiều giai tầng”. Chúng sanh loài Ngạ quỷ chiếm nhiều nhất so với các loài khác trong lục đạo. Những đối tượng mà con người gọi là “ma, quỷ, thần linh nói chung…” đều thuộc “những giai tầng” của loài Ngạ quỷ này. Như vậy, “cõi âm” mà các nhà ngoại cảm tiếp xúc được bao gồm các chúng sanh đang ở giai đoạn thân trung ấm, các “oan hồn” và loài Ngạ quỷ. Nhà ngoại cảm Bích Hằng cũng nói rõ là “tôi chưa thấy địa ngục của người cõi âm bao giờ”, bởi chỉ những người tạo các ác nghiệp và các bậc Đại Bồ tát có đầy đủ thần lực mới vào được địa ngục mà thôi. Hiện nay, các nhà ngoại cảm thường tìm kiếm hài cốt theo hai hướng. Khuynh hướng thứ nhất là các nhà ngoại cảm “thấy” được hài cốt, vẽ lại sơ đồ chi tiết khu vực ấy và hướng dẫn thân nhân tìm kiếm. Trường hợp này nhà ngoại cảm chỉ sử dụng khả năng “thiên nhãn thông” của mình để tìm kiếm và phát hiện hài cốt mà không cần trợ giúp của “chủ nhân” chính hài cốt ấy. Bởi hầu hết những hài cốt này chỉ là phần thân xác vật chất đơn thuần (địa đại-đất), còn thần thức đã theo nghiệp tái sanh. Tuy nhiên, vì các nhà ngoại cảm chưa thành tựu Đại định (tam muội) nên năng lực “thấy” của họ thường chập chờn. Tùy thuộc vào cấp độ định tâm hay trạng thái tâm của họ khi làm việc mà “thấy mờ hoặc tỏ” khác nhau, phải điều chỉnh nhiều lần mới tìm ra vị trí chính xác của hài cốt. Năng lực thấy rõ không có gì ngăn ngại này của các nhà ngoại cảm còn được vận dụng để tìm kiếm khoáng sản, thăm dò lòng đất (ngành mỏ-địa chất), khả năng khám, chữa bệnh (ngành y khoa) v.v… hiện đang được nhiều quốc gia trên thế giới nghiên cứu, khai thác và ứng dụng. Khuynh hướng thứ hai thì ngược lại, nhà ngoại cảm tiếp xúc với người “cõi âm” và họ chỉ cho nhà ngoại cảm thấy hài cốt của chính họ hoặc những người khác. Trường hợp này, sự trợ giúp của người “cõi âm” vô cùng cần thiết, do đó nhà ngoại cảm và thân nhân phải có lòng thành. Vì người “cõi âm” biết được tâm ý của chúng ta cho nên nếu lòng không trong sáng, tâm không thành khẩn, làm việc vì danh lợi thì sẽ thất bại. Những chúng sanh mang thân trung ấm, những “oan hồn” và loài ngạ quỷ đều có thể tiếp xúc được với nhà ngoại cảm để truyền thông những thông tin cần thiết. Ở đây, trường hợp đặc biệt cần lưu tâm là các “oan hồn”. Như đã nói những người chết “bất đắc kỳ tử”, chết trong oán hận tột cùng rất khó tái sanh. Mặc dù phần lớn các luận sư Phật giáo đều cho rằng thời gian thích hợp cho tái sanh của thân trung ấm thường tối đa là 49 ngày nhưng “oan hồn” là một ngoại lệ. Theo luận sư Pháp Cứu (Dharmatrata), tác giả Tạp A tỳ đàm tâm luận (Samyutara Abhidharmahridaya) thì thân trung ấm tồn tại không hạn chế thời gian nếu nhân duyên chưa đủ để đầu thai (xem thêm Đại cương luận Câu xá, tác giả Thích Thiện Siêu, NXB Tôn Giáo, 2000, tr.109). Kế thừa quan điểm này, về sau vị chân sư Phật giáo Tây Tạng Sogyal Rinpoche, bằng tuệ giác chứng ngộ của mình, trong Tạng thư sống chết (Thích nữ Trí Hải dịch) khẳng định: “Toàn thể trung ấm tái sanh kéo dài trung bình 49 ngày, và ít nhất là một tuần. Nhưng cũng còn tùy, giống như hiện tại có người sống tới trăm tuổi, trong khi kẻ khác chết non. Một số lại còn bị kẹt trong thế giới trung gian để thành ma quỷ (18- Bardo tái sanh)” hay “Những người đã có cái chết kinh khủng hay đột ngột rất cần được giúp đỡ. Những nạn nhân của ám sát, tự sát, tai nạn, chiến tranh, thường rất dễ rơi vào sợ hãi đau đớn, hoặc ở mãi trong kinh nghiệm khủng khiếp về cái chết của họ, do đó không thể tiến đến giai đoạn tái sanh (19- Giúp đỡ sau khi chết)”. Vì những lý do trên, có những trường hợp tuy đã chết rất lâu nhưng vẫn chưa được tái sanh. Phần lớn những người “cõi âm” mà nhà ngoại cảm tiếp xúc, mô tả hình dáng, tính cách của họ đúng như dáng vẻ, tâm trạng lúc chết đều ở trong trường hợp này. Chính việc thần thức “ở mãi trong kinh nghiệm khủng khiếp về cái chết”, “bị kẹt trong thế giới trung gian” (lời của Sogyal Rinpoche), sự chấp thủ kiên cố, bám chặt vào trạng huống “hiện tại” trước khi chết đã tạo ra một dạng sống gọi là “oan hồn”. Do đó, Phật giáo thường lập đàn tràng Giải oan bạt độ và Chẩn tế âm linh cô hồn. Giải oan là tháo gỡ sự chấp thủ, khai thị cho “oan hồn” hiểu giáo pháp mà buông xả, tỉnh ngộ để tái sanh. Chẩn tế là ban phát thực phẩm cho loài ngạ quỷ được no đủ, đồng thời khuyến hóa họ hồi tâm hướng thiện để sớm chuyển nghiệp, siêu thăng. Như vậy, thế giới “cõi âm” vô cùng đa dạng và phức tạp, những nhà ngoại cảm nhờ có nhân duyên đặc biệt nên tiếp xúc được với họ, giúp họ truyền thông với con người. “Thông điệp” của người “cõi âm” cũng không ngoài tình thương, sự trân trọng, quan tâm lẫn nhau và đề cao các giá trị đạo đức, tâm linh. Chính những tâm tư của người “cõi âm”, nhất là các “oan hồn” đã góp phần tạo nên khí vận quốc gia, hồn thiêng sông núi. Do đó, việc cầu nguyện cho âm siêu dương thái theo pháp thức Phật giáo là điều cần làm. Ngày nay, các nhà khoa học đang nỗ lực khám phá hiện tượng ngoại cảm theo hướng trường sinh học hay năng lượng sinh học. Tuy nhiên, nếu chỉ thiên về nghiên cứu “vật chất” thì sẽ khó tiếp cận trọn vẹn vấn đề, bởi “sắc tức thị không, không tức thị sắc” (Tâm kinh). Đó là chưa kể đến hoạt dụng của tâm thức A lại da bao trùm khắp cả pháp giới, siêu việt cả tâm lẫn vật, theo Duy thức học, chỉ có tu tập thiền định mới có thể khai mở và thành tựu kho tàng tuệ giác này. (Theo Giác Ngộ)1 like
-
Ồ Lệnh Hồ huynh đệ khách sáo quá rồi, Trần Phương tôi cũng chỉ là một lữ khách mến nhạc cảm thơ, rất vui cùng các huynh tỉ muội dạo hành khúc "tiếu ngạo giang hồ" nhé. Chẳng là lúc này TP đang gặp nhiều chuyện rắc rối trong công việc và cuộc sống, nhưng cũng xin góp vào một bài gọi là chút tâm sự của đời mình vậy. ---------------------- Đêm khuya tỉnh giấc quan hoài Trở mình nghe thoảng tiếng ai trách thầm... * ** Anh vẫn đợi em mỗi sớm mai Áo bà ba đó, tóc trâm cài Mái chèo em nhịp hồn lữ khách Sương khuya e ấp, lạnh bờ vai Bến cũ còn đây, dáng nhỏ đâu ? Nhớ chăng lời hẹn thuở ban đầu Hay em thầm trách : anh bội ước ? Bên dòng chỉ thấy vút ngàn lau... Về đây tìm chút tình riêng Ra đi, Mang cả nỗi niềm... Miên man1 like
-
Chuyện người nhặt xác 3000 hài nhi Dantri.com.vn Chủ Nhật, 26/06/2011 - 15:00 Ngày ngày, hai người đều đã ở tuổi "xưa nay hiếm" lóc cóc đạp xe hàng chục cây số rong ruổi trên những nẻo đường, tìm bới trên từng bãi rác, đến tận các cơ sở nạo hút thai, bệnh viện để xin xác hài nhi về chôn cất Gần 10 năm nay, có một bà cụ đã bước sang tuổi 73 vẫn ngày ngày lặn lội khắp nơi để nhặt những thai nhi bị bỏ rơi đem về chôn cất. Đó là bà Phạm Thị Cường, ngụ xã Nghĩa Thắng, huyện Nghĩa Hưng - Nam Định. Bà bộc bạch: “Hãy yêu thương những linh hồn bé nhỏ bị bỏ rơi kể cả khi chúng đã qua đời, bởi những đứa trẻ tội nghiệp ấy đã gánh thay chúng ta những tai họa ở trần gian”. Không thể kìm lòng Ở làng quê nghèo ven biển xã Nghĩa Thắng, không ai còn lạ với hình ảnh một người đàn bà đã vào cái tuổi thất thập cổ lai hy ngày ngày âm thầm đi gom nhặt thi hài những đứa trẻ khắp nơi về chôn cất. Trên đường về Nghĩa Thắng, khi hỏi thăm nhà bà Cường, chúng tôi đã được nghe nhiều câu chuyện về bà qua những nông dân ở vùng quê này. Ở nơi đây, mọi người vẫn trìu mến gọi bà là bà Hương “hài nhi”, có lẽ một phần cũng do những công việc mà bà đã và đang làm. Bà là một người hiền lành, phúc hậu. Đã gần 10 năm nay, không quản ngày nắng cháy da cháy thịt hay đêm đông lạnh giá, bà vẫn lặn lội khắp mọi ngả đường của huyện Nghĩa Hưng, đặc biệt là khu vực thị trấn Đông Bình, để nhặt các hài nhi xấu số bị phá bỏ về chôn cất. Cuộc sống của bà Cường chỉ trông vào gánh bán rau quả và những đồ tạp hóa ở khu chợ Đông Bình. Nơi đây có một số cơ sở nạo phá, hút thai nhi. Mỗi ngày có hàng trăm ca nạo phá thai đã diễn ra, một phần công khai còn chủ yếu là bí mật, cũng đồng nghĩa với việc hàng trăm hài nhi bị vứt bỏ. Trong câu chuyện với bà Cường, thỉnh thoảng chúng tôi vẫn nghe thấy tiếng thở dài của người phụ nữ đã ở tuổi gần hết cuộc đời về những chuyện lắt léo nhân tình thế thái của cuộc sống. Bà nói như oán trách: “Cuộc sống ngày càng phát triển thì nhiều người sống càng buông thả hơn. Ngày càng nhiều các cô gái đến các phòng khám ở Đông Bình để phá thai cũng đồng nghĩa với việc ngày càng nhiều đứa trẻ vô tội phải đi theo những vết kéo oan nghiệt. Mỗi lần nhìn thấy thi hài của các cháu bị vứt bỏ nơi đầu đường, xó chợ tôi lại không thể kìm lòng, càng thương các sinh linh bé nhỏ bơ vơ chưa kịp cất tiếng khóc chào đời đã phải chịu thay tội vạ mà cha mẹ chúng đã gây ra. Đáng trách quá!”. Bị cười chê là… khùng! Gần 10 năm nay, họ đã tìm nhặt và an táng hơn 3.000 sinh linh bé bỏng. Tưởng chừng như chỉ có mình bà Cường đi làm công việc “kỳ khôi” là gom nhặt và an táng cho những linh hồn bé nhỏ nhưng bà lại gặp được người bạn cùng chí hướng. Đó là ông Vũ Văn Bao, người cùng thôn, cũng âm thầm làm công việc tạo phúc đức như bà. Hai con người, hai số phận nhưng họ có chung một tấm lòng nhân ái với những số phận bất hạnh. Họ gặp nhau rồi ngày ngày lại cùng nhau thực hiện một công việc chung, một ơn nghĩa để đời. Từ đó đến nay, ngày ngày người dân xã Nghĩa Thắng thường gặp cảnh hai người đều đã ở tuổi xưa nay hiếm lóc cóc trên những chiếc xe đạp cà tàng, đạp hàng chục cây số. Họ rong ruổi trên những nẻo đường, tìm bới trên từng bãi rác, thậm chí đến tận các cơ sở nạo hút thai, bệnh viện để… xin thi hài về chôn cất. Bà Cường thắp nhang cho những hài nhi xấu số Những hài nhi nhặt về, bà Cường cùng với ông Bao tỉ mẫn cho vào những bát hương hoặc tiểu sành nhỏ. Bà Cường tâm sự: “Những ngày đầu, tôi thường bị người đời cười chê cho là khùng nhưng dần dần, họ hiểu nên cũng có vài người đi làm cùng”. Nhiều lúc bà Cường cũng nản khi có quá nhiều đứa bé bị nạo hút như vậy. Nhiều lúc bà định dừng công việc này nhưng lại nghĩ đến những đứa trẻ bơ vơ, sống không thấy mặt cha mẹ, chưa kịp chào đời đã bị bỏ rơi. Bà lại thấy mình không thể đứng nhìn được, phải làm việc gì sao cho có ích. “Vì vậy, tôi không kể gì là gian khổ, mưa nắng hay ngày đêm, lúc nào nghe tin ở đâu đó có thi hài bị bỏ rơi là lại tìm đến để xin về mai táng”- bà Cường cho biết. Nghĩa trang Quần Vinh trong một chiều mùa hạ, bà Cường lặng lẽ thắp những nén nhang thơm lên phần mộ của những hài nhi xấu số. Rồi bà nói trong tiếng nấc: “Các con chưa kịp chào đời đã phải trả giá cho sai lầm của những kẻ sinh thành nên các con. Bà thắp nén nhang thơm, mong các con được an nghỉ”. Bà Cường với công việc bán tạp hóa mưu sinh hằng ngày Bên ngôi mộ chung được xây dựng khá kiên cố và sạch sẽ, bà cho biết nó được một nhà hảo tâm trong TPHCM gửi tiền ra để xây cho các cháu. “Gần chục năm nay, chúng tôi đã an táng cho hơn 3.000 sinh linh bé bỏng tại nơi này”- bà não nề. Nhìn những bát hương bên trên có gắn xi măng và được đánh dấu rất chi tiết, mà theo bà Cường mỗi bát hương đó là một đứa trẻ, tôi không khỏi chạnh lòng suy nghĩ. Một địa phương nhỏ như Nghĩa Hưng mà gần chục năm đã có hàng ngàn em bé bị bỏ rơi và chết đi khi chưa kịp chào đời! Đó quả thực là con số quá đau lòng. Càng thương các cháu nhỏ bao nhiêu, tôi lại càng khâm phục những con người như bà Cường và ông Bao bấy nhiêu. Những việc họ làm không chỉ mang ý nghĩa nhân ái mà đó là hành động cao cả trong cuộc chiến bảo vệ quyền sống của con người, giúp chúng ta nhận ra một thực tại đau lòng, ngẫm về việc sống buông thả của một bộ phận giới trẻ hiện nay đã để lại những hậu quả đau lòng. Cầu mong… thất nghiệp Tuy hoàn cảnh gia đình rất khó khăn, bản thân lại già yếu nhưng lúc nào bà Cường cũng hiển hiện niềm tin cuộc sống và tình thương yêu con người. Tâm sự với chúng tôi, bà Cường không mong ước điều gì ngoài việc mình được… thất nghiệp. Bà mong sẽ không còn phải ngày ngày đi làm công việc thu gom xác hài nhi đầy đau đớn này nữa. Tuy vậy, bà Cường vẫn khẳng định: “Tôi sẽ tiếp tục công việc này cho đến khi nào còn sức khỏe. Tôi sẽ tiếp tục đi thu gom những hài nhi xấu số về chôn cất, bởi theo tâm niệm của tôi, những đứa trẻ tội nghiệp đó đã quá bất hạnh. Tôi quyết không để các cháu cô đơn mặc dù đã rời trần thế”. Chúng tôi rời nghĩa trang Quần Vinh khi mặt trời đã tắt. Nhìn những ngôi mộ của các sinh linh bé nhỏ, chúng tôi biết các cháu đã có giấc ngủ yên bình bởi các cháu được những người dù không trực tiếp sinh thành nhưng luôn làm tất cả để bảo vệ giấc ngủ bình yên cho mình ở nơi vĩnh hằng. Ngày mới sẽ đến, hy vọng sẽ không còn cảnh những bào thai bị vứt bỏ nữa để những người như bà Cường hay ông Bao sẽ được nghỉ ngơi và xã hội sẽ không còn những cảnh đau lòng. Theo Khánh Linh Người Lao động1 like
-
Mới chừng tuổi nầy mà nghĩ đến chuyện yêu đương thì quá sớm ; lời khuyên nên cưới vợ thật muộn... nên an phận thủ thường , đeo chốn quan trường thì càng gặp tai nạn ... số phải tha phương đất khách quê người ... nên tránh xa chốn ăn chơi nếu không dễ mắc ghiện.1 like
-
1 like
-
Tại sao mà cách biệt tới 6 canh giờ ? nếu chỉ có sự lựa chọn 1 trong 2 ,thì lá số giờ Ngọ hợp lý hơn ,tánh người thâm trầm ,thấp , mặt có nhiều tàn nhan hay trong người có nhiều nốt ruồi hay bớt , có khiếu ăn nói , như kể chuyện chọc người khác dễ cười ,1 like
-
Kính gửi Nghĩa Tỉ: Em băn khoăn mãi rồi mới quyết định bảo thằng cu Tai nhà em ngồi viết hộ em mấy dòng này gởi chị vì dạo này măt mũi em kém quá nên chả cầm cái bút được nữa (thậm chí cả con bò to đùng vào phá vườn em nom còn chả rõ nữa rồi chị ạ). Hồi mấy chục năm trước, nhà thằng Kỳ nó cậy giàu mới lại đông anh em nên kéo sang oánh nhà em. May (mà em cũng chả biết là may hay không nữa), có chị và anh Xô nhận anh chị em kết nghĩa là chị hiền của em, là anh cả của em. Hồi đó đói kém, em còn nhớ những thùng lương khô vuông vuông nhà chị gởi sang cho nhà em. Quí lắm. Đến lúc nhà Kỳ nó mệt, nó xin thua (hồi đận năm 73 ý) thì đùng 1 cái nhân lúc nhà em đang bận dàn hòa với nhà Kỳ, chị cho mấy thằng mất dạy nhà chị xăm trổ đầy người đến cướp trắng dẻo đất đầu làng mà cụ kị nhà em để lại. Em cay chị lắm nhưng lúc đó thằng Kỳ nó khẩy vào mặt em "Mịa, làm éo gì có bữa trưa nào là miễn phí" nên em đành nhịn. Thôi thì coi như em đổi đất lấy lương khô vậy. Nhà em đã vất, hồi đó chị cố o ép em, rồi lại anh Xô nữa cũng cấu véo tí dầu đèn mắm muối nhà em (mãi sau này mới ngơi) đâm ra em tính oánh nhau với nhà Kỳ em chả được cho không cái gì chị ạ. Rồi đến đận 79, bọn du côn do thằng Pôn nó cầm đầu cứ lẻn sang nhà em bắt gà giết chó. Em cay mũi quá, dọa nó mấy lần mà nó cứ nhơn nhơn cái mặt. Uất quá em mới bảo mấy thằng nhà em sang nhà nó tát cho mấy cái. Ấy thế mà chị lu loa lên bảo là nhà nó thân với nhà chị, chị kiếm cớ oánh em. Bên nhà em thì nghèo, con cái nheo nhóc mà vẫn phải nghe chị chưởi ra rả như loa phường, dức hết cả đầu. Chuyện này chị với em cũng đã thống nhất là không nhắc đến nữa nên em cũng thôi. Đấy, em cũng tưởng là thôi, nhất là sau vụ bờ rào nhà chị với nhà em xây xong cái tường. Em nhẹ cả người mặc dù cũng biết chị lấn của em mấy mét lận (mà giá đất lại đang lên chứ), cũng nghĩ trong lòng là thôi thì thí cho chị tí ti. (Mà cũng vì chuyện này mà mấy đứa nhà em nó chì chiết em suốt đấy, bảo là em nhu nhược). Em cũng ầm ừ cho qua chuyện vì quan trọng là cái sổ đỏ thổ cư là xong rồi. Chị làm éo gì được em, em nghĩ thế. Lại đùng 1 cái, thằng cả nhà em (thằng Dầu ý), hôm nọ nó alo về khóc ầm lên bảo là chị cho bò sang bờ ao nhà em để phá chỗ nhà nó trồng rau. Đấy là đất sản xuất nhà em, mà chị lại cho bò sang liếm rồi cứ tỉnh bơ hat bài "Bên bờ ao nhà mình" là sao? Em lại cay chị quá. Em nói thật, cũng là vì đận rồi em mới chị có làm tý nhôm đồng sắt vụn với nhau cho có đồng ra đồng vào nên em nhẫn nhịn giả vờ lôi mấy thằng ranh con nhà em ra tát mấy cái dọa cho nghỉ học, bắt đi nuôi lợn cho chị vui lòng. Em cũng tưởng chị vui lòng rồi. Lại thấy đùng một cái, sáng qua thằ ng cả Dầu nhà em lại lên phết búc khóc ầm là chị lại cho mấy thằng nhà chị cắt dây câu lươn của nó. Nó ra bảo thôi thì chị lại bảo là do nhà nó oánh con nhà chị trước. Em thật, cả nhà chị vừa tham lại vừa mất dạy. Cả làng mình ai chả biết nhà chị tham và thâm, nhưng thế thì chơi bửn quá chị ạ. Chị thích khoe của cho cả làng mình là nhà chị to, chị đông con, chị thích oánh ai thì oánh. Cơ mà nhiều đứa nhà chị nó cũng éo ưa gì chị đâu chị ạ. Mà to thì không có nghĩa là mạnh, nên chị đừng thấy em nhường mà nghĩ em sợ. Thằng Kỳ hôm nọ nó à ơi với chị, chị nghĩ là nó nợ chị tiền nên chị éo sợ nó. Chị quên là nó bùng thì chị cũng đứt chị nhé. Còn em, em mới nó cũng chả chơi gì với nhau vì thằng đấy nó chỉ tiền thôi. Nhưng tiên chỉ làng mình cũng đã dặn em là "thà chơi với nhà Kỳ còn hơn với nhà Hoa vì nó thâm là tham lắm". Các cụ nói chả bao giờ sai! Chị nuôi ạ, em nói thẳng thế này chị nhé. Thà em lấp mẹ cái ao nhà em, rồi em xây nhà trọ cho cave thuê ở còn hơn cho nhà chị xua bò sang phá nhà em. Nhà thằng Mã, thằng Bu mới lại nhà Phi cũng có ý thế, nên chị giỏi thì cứ vác bò sang. Em cho lũ con nhà em đập phát chết cả bò lẫn người. Lúc đó đừng trách em thủ đoạn tàn bạo tâm địa độc ác... như chị. Vậy thôi, em bảo thằng cu Tai nhà em dừng bút đây. Em lên phết búc chơi mới mấy đứa nhà em ở bển cái đã. (Nhà chị lên phết búc thế éo nào được vì chị cấm con đúng không). Chúc chị mạnh khỏe, nếu khỏe quá thì sang đây cà khịa tiếp với em. Mấy đời nay nhà em chả sợ nhà chị, thì giờ em cũng chả sợ chị đâu chị hiền ạ. Em Nam.1 like