-
Thông báo
-
Nội quy Lý Học Plaza
Nội quy này là bản mở rộng Nội Quy - Quy định của Diễn đàn. Khi tham gia mua bán, các thành viên phải tuân theo những quy định sau: Tiêu đề bài viết: Bao gồm: Chỉ dẫn địa lý, Loại hình Mua/Bán, Thông tin mua bán.
Chỉ dẫn địa lý: Tỉnh/thành nơi mua bán. Hoặc sử dụng định nghĩa có sẵn:TQ: Toàn quốc
HCM: TP Hồ Chí Minh
HN: Hà Nội
[*]Ví dụ: HCM - Bán Vòng tay Hổ Phách Nội dung bài viết: Mô tả chi tiết sản phẩm mua/bán
Bắt buộc phải có thông tin liên lạc, giá Mua/Bán
Bài mới đăng chỉ được phép up sau 03 ngày.
Thời gian up bài cho phép: 01 ngày 01 lần.
Các hành vi vi phạm nội quy này sẽ bị xóa bài hoặc khóa tài khoản mà không cần báo trước.
-
Leaderboard
Popular Content
Showing most liked content on 25/06/2011 in Bài viết
-
Việc này ko cần thiết longphibaccai ơi, dịch tên ra thì cho vui vậy thôi, bản thân mỗi hành có các mức độ vận động khác nhau, gọi là Lục Khí. Tức là có 6 hình thức vận động cho mỗi hành. Vd : hành Kim có các mức độ như Hải Trung Kim, Sa Trung Kim, Kiếm Phong Kim, Kim Bạch Kim, Bạch Lạp Kim, Thoa Xuyến Kim... Các từ đứng trước như Hải trung, Sa Trung... tức là 1 hình thái vận động của Hành Kim. Chỉ đơn giản vậy thôi, ko cần phải dịch ra làm gì cho phức tạp mà lại nghe ko "văn vẻ" tí nào. Mỗi 1 Hành nào cũng có 1 sự vận động từ thấp lên cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ yếu, sơ khởi đến mạnh, trưởng thành. Có sinh, vượng, mộ! không nên bám vào từng chữ nghĩa vì đôi khi không cần thiết. Trước đây cũng có người hỏi rằng :"tôi mạng Hỏa, là Phúc Đăng Hỏa, tức ngọn đèn dầu, tức lửa "lay lắt", trong nhà ko nên để hồ cá vì thủy khắc hỏa, là ko tốt, xui xẻo". Thế thì TL trả lời luôn là nếu vậy thì anh/chị đừng tắm nữa, vì thủy cũng khắc hỏa . Vạn vật vốn âm dương hài hòa cân bằng, mỗi 1 hình thái vận động muốn biết tốt xấu phải tùy vào hoàn cảnh và điều kiện tương quan để xem xét.2 likes
-
Chào tất cả mọi người. Tôi đã nhận lời mời làm giảng viên chính cho lớp học Tứ Trụ sơ cấp và trung cấp bên trang web Nhân Trắc Học. Chương trình dậy theo đúng từng chương của cuốn "Giải Mã Tứ Trụ" của tôi. Có thể vì vậy mà nhiều người đã ghi danh tham gia học (gần 500) nhưng chỉ có 151 người được học. Ðây là một bất đồng của tôi với ban điều hành khi tôi muốn cho tất cả mọi người đã ghi danh đều được học. Ðó là lý do vì sao tôi mở chủ đề này. Nội dung dậy như sau: Nội dung khóa học sơ - trung cấp Sơ cấp : Bài 1 : Vận mệnh và dự đoán vận mệnh Bài 2 : Sáu mươi năm Giáp Tý Bài 3 : Học thuyết Âm Dương và Ngũ Hành Bài 4 : Đặc trưng của Tứ trụ Bài 5 : Đại vận và tiểu vận của Tứ trụ Bài 6 : Thân và mười thần của Tứ trụ Bài 7 : Thiên địa nhân của tứ trụ Bài 8 : Thần sát của tứ trụ Bài 9 : Sơ đồ biểu diễn tứ trụ, tuế vận và tiểu vận Trung cấp : Bài 10 : Thân và vùng tâm Bài 11 : Xác định điểm vượng của các trạng thái Bài 12 : Dụng thần của Tứ Trụ Bài 13 : Dụng thần của một số Tứ Trụ đặc biệt Bài 14 : Điểm hạn của ngũ hành Bài 15 : Sự xấu, tốt của đại vận và lưu niên Bài 16 : Cách tính điểm hạn cho từng năm Bài 17 : Các cách giải hạn cơ bản Bài 18 : Các ví dụ mẫu xây dựng lý thuyết Tôi sẽ cố gắng giải đáp mọi thắc mắc của mọi người về nội dung giảng dậy cũng như mọi trao đổi, tranh luận của mọi người trong chủ đề "Giải đáp thắc mắc" trong mục Tử Bình Bát Tự (ở phía dưới, vì ở đó mọi người mới được viết bài). Thân chào.1 like
-
ANH NHỚ EM Nhạt nắng chiều về anh nhớ em Vi vu gió thổi lùa qua mành Nghe sao bất chợt buồn như lạ Để lệ làm rơi ướt mắt xanh Có lẽ không em nắng cũng sầu Trên cành lá úa khóc tình ngâu Đôi khi bất chợt làm mưa đổ Rớt xuống trần gian tím...cả màu1 like
-
Thưa chư vị, Hôm qua, khi chúng tôi đăng tải ý kiến của GS. Lê Văn Lan kịch liệt phản đối chiều bộ phim "Đường tới thành Thăng Long" trên sóng của Đài truyền hình quốc gia, đã nhận được sự quan tâm đặc biệt của dư luận. GS. Lê Văn Lan đang đi làm phim về Hoa Lư với đoàn phim Niu-Di -Lân ở Ninh Bình, đã về Hà Nội ngay trong đêm qua và đã dành cho Nguyễn Xuân Diện-Blog cuộc gặp và phỏng vấn sáng nay. Dưới đây là cuộc phỏng vấn, được thực hiện tại Hà Nội: NXD: Thưa GS Lê Văn Lan, vì sao ông lại phản đối kịch liệt việc chiếu bộ phim này trên sóng Đài TH quốc gia trong thời điểm này? LVL: Không chỉ trong thời điểm này. Nhưng càng trong thời điểm này, thì càng rõ ra một vấn đề cơ bản qua các thời điểm là: Không như công văn của Bộ Văn hóa - Thể thao Du lịch gửi Đài TH Việt Nam ngày 15 tháng 3 năm 2011, nó rằng phim này muốn chuyển tải cho người xem biết và tự hào về một giai đoạn lịch sử của nước ta. Qua tất cả các thời điểm, tôi đều không thể tự hào về cách người ta đưa giai đoạn lịch sử của nước ta lên phim như thế này. NXD: Thưa nhà sử học Lê Văn Lan, được biết là nhóm làm phim này đã đưa tên của ông vào danh sách những người cố vấn cho phim mà chưa được phép của ông. Việc đó có đúng vậy không? LVL: Ở lần xem phim thứ nhất, khi thấy tên tôi trên gie-ne-ríc phim, đề là cố vấn lịch sử, tôi đã trực tiếp phản đối với ông Trịnh Thanh Sơn, GĐ Hãng Trường Thành, đồng thời đã viết 2 bài báo để nói rõ chuyện đó, là: Tôi có được biết phim làm vào lúc nào đâu và làm ở đâu để mà nhận việc cố vấn. NXD: Thưa, vậy thì đến nay, tên của Giáo sư đã không còn trên gie-ne-ric của phim? LVL: Họ vẫn đề tên tôi với danh hiệu là Người Tu Chỉnh kịch bản. Nhưng đáng tiếc thay là những điều tôi đề nghi tu chỉnh họ đã không tiếp thu, và họ cứ làm theo ý của họ. NXD: Xin Giáo sư cho biết vắn tắt rằng vì sao lại không thể chiếu bộ phim này? Nó sai lầm về trang phục, đạo cụ, bối cảnh, hay là những xuyên tạc lịch sử, bạo lực, tình ái, hạ thấp tinh thần của người Việt Nam? LVL: Thứ nhất, không như công văn của Bộ VH - TT - DL đã nói: "Về cơ bản, tinh thần lịch sử trong phim được tôn trọng". Xin nêu một ví dụ: Về cuộc kháng chiến của dân tộc ta chống quân Tống xâm lược lần thứ nhất (980 - 981) đây là niềm tự hào của tất cả những người Việt Nam chân chính. Nhưng phim này lại chỉ nói về cuộc kháng chiến này dưới dạng một trận đánh ở một ngọn núi ất ơ nào đó (tên là núi Chu Tước). Ở lần xem phim thứ nhất, thì tại trận (núi Chu Tước ất ơ này - lời GS Lan) diễn rõ cảnh Thiền sư Vạn Hạnh khuyên và trao cẩm nang cho Anh hùng dân tộc Lê Hoàn, nói rằng: Không cần đánh! Giặc sẽ tự tan. Và trên thực tế của phim, vai diễn Lê Hoàn còn ra lệnh: Kẻ nào bàn đánh. Chém!. Đến lần xem phim thứ hai và thứ ba (tức là lần duyệt cuối), sau ý kiến phản kháng kịch liệt của tôi, họ đã sửa lại nhưng vẫn kéo toàn bộ cuộc kháng chiến oanh liệt của dân tộc ta thời đó vẫn vào trận núi Chu Tước ất ơ ấy. Và lại còn cho ông Vạn Hạnh đón đường hành quân ra trận của ông Lê Hoàn và lại khuyên: "Chớ sát sinh nhiều". Và vai diễn Lê Hoàn đã thực sự thể hiện sự băn khoăn về lời khuyên trận mạc này. Nói chung, tinh thần và những cuộc kháng chiến chống ngoại xâm của dân tộc ta oanh liệt là thế, nhưng phim này thể hiện rất mờ nhạt, còn thì đấu đá nội bộ, thậm chí chém giết, sát phạt nội bộ và được tô đậm bằng những trường đoạn rất rùng rợn (thậm chí có nhân vật Hạng Lang sua khi đánh nhau với anh ruột là Long Đĩnh, thì đã chết với những mũi công cắm xuyên từ gáy sang bên mặt, rất rùng rợn) NXD: Còn nhân vật Lê Hoàn là nhân vật lịch sử chính của giai đoạn này thì đã được thể hiện như thế nào trong phim, thưa giáo sư? LVL: Tất cả mọi người Việt Nam chân chính đều hiểu và tôn vinh Lê Hoàn là anh hùng dân tộc. Hơn nữa, đây là một nhà thủy lợi đầu tiên với việc đào Kênh Nhà Lê, bây giờ còn sử dụng. Nhưng trong phim này, Lê Hoàn lại hiện ra như một ông vua xa xỉ, chỉ biết bắt dân xây dựng cái gọi là "vườn ngự uyển", không cần biết đến những lời can gián, thậm chí còn trừng phạt cả Lý Công Uẩn vì đã dám ngăn vua xây dựng những công trình phục vụ cho việc ăn chơi xa hoa. Lê Hoàn còn hiện ra như một ông vua nhu nhược, đi kinh lý thì lại để cho giặc cỏ nó bắt được. Rồi lại sa thải các trung thần. Tóm lại là một ông vua không đúng như lịch sử đã ghi chép và các nhà sử học xưa nay đã nhận định và tôn vinh. NXD: Thế còn những nhân vật lịch sử khác thì hiện ra trong phim như thế nào? Như là Thái hậu Dương Vân Nga chẳng hạn? LVL: Tôi và một số nhà nghiên cứu khác đang được dòng tộc họ Dương mời làm một hội thảo khoa học về các nhân vật họ Dương trong lịch sử. Tôi rất sợ rằng dòng tộc họ Dương sẽ có thái độ phản kháng dữ dội khi phim này được chiếu trên song truyền hình quốc gia với hình tượng một Dương Vân Nga ủy mị, sướt mướt, thậm chí đã treo cổ tự tử khi được Lê Hoàn tỏ tình. Trong khi chính sử chép rõ bà là người thông tuệ, sắc sảo, và quyết đoán là thế trong những tình huống cam go của lịch sử. Ah, còn về Chi hậu Đào Cam Mộc nữa chứ.Đào Cam Mộc hiện lên trong phim, từ đầu chí cuối là một ông tướng võ biền, là cha của một ông tướng trẻ khác, cũng chỉ suốt ngày đòi thách đấu với Lý Công Uẩn. Còn khi được giao việc hộ vệ Lê Đại Hành tuần du thì lại ngơ ngẩn, sơ xuất, để cho hoàng đế của mình bị giặc cỏ bắt sống. Trong khi đó, mọi người đều biết Đào Cam Mộc là quan Chi hậu, tức là người quản mọi việc trong nội cung, và là quan văn. Tóm lại, những nhân vật lịch sử trong phim đều bị bóp méo làm cho sai lệch đi. Điều này rất nguy hiểm, không chỉ vì nó là một sự xuyên tạc lịch sử trong một tác phẩm nghệ thuật mà hơn thế qua đây thì việc giáo dục về truyền thống anh hùng của dân tộc đã bị ảnh hưởng nghiêm trọng. NXD: Thưa giáo sư, thế còn các sự kiện lịch sử quan trọng trong giai đoạn này đã lên phim như thế nào? LVL: Một sự kiện quan trọng bậc nhất là việc Thái tổ Lý Công Uẩn lên ngôi. Phim này không chỉ gọi "lên ngôi" là "đăng cơ"(Tàu hoàn toàn - LVL) mà rành rành lịch sử viết Lý Công Uẩn lên ngôi ở Hoa Lư, được triều đình đồng thuận, nhưng trên phim thì Lý Công Uẩn lại lên ngôi ở ...một ngôi chùa...Tàu. NXD: Ồ! Thế ạ? Chao ôi! Kinh khủng quá! Thế trang phục của Đức vua Lý Công Uẩn thì sao? LVL: Không chỉ trang phục của nhà vua, mà của văn võ bá quan và trăm họ đều rất ...Tàu. Rồi thì lại cả cảnh chùa chiền, cung điện, nhà cửa, ngựa xe, binh khí...cũng đều là rất Tàu. NXD: Thưa giáo sư, đấy là cảnh trên phim, ở lần duyệt cuối cùng phải không? Và những cảnh đó sẽ được chiếu trên Đài truyền hình quốc gia phải không? LVL: Vâng! Đúng thế. Và chính vì thế tôi mới kiên quyết phản đối việc chiếu bộ phim này ở các rạp và trên sóng Đài Truyền hình quốc gia cũng như các Đài truyền hình địa phương. Tôi tin chắc rằng đồng bào tôi cũng như tôi, không thể "tự hào" về mình, và tổ tiên của mình, ở một giai đoạn lịch sử quan trọng lại Tàu như thế này! Và tôi nghĩ rằng, sẽ có nhiều người kêu gọi tẩy chay bộ phim này. NXD: Xin chân thành cảm ơn giáo sư Lê Văn Lan đã dành cho Nguyễn Xuân Diện-Blog cuộc phỏng vấn này! Kính chúc Giáo sư dồi dào sức khỏe. (http://xuandienhannom.blogspot.com)1 like
-
Tham vọng “nghịch thiên” của Trung Quốc Thanhnien Online 26/06/2011 0:24 Kế hoạch chuyển dòng nước từ phía nam lên cứu khát ở phía bắc đang gây ra những lo ngại không nhỏ về dân sinh và môi trường. Miền bắc Trung Quốc đang ở "cửa tử". Hạn hán kinh niên tàn phá đất trồng trọt. Sa mạc Gobi bành trướng xuống phía nam. Sông Hoàng Hà, cái nôi của nền văn minh Trung Hoa, ô nhiễm đến mức mất khả năng cung cấp nước sinh hoạt. Sự phát triển nhanh chóng của các siêu đô thị như Bắc Kinh với 22 triệu dân và Thiên Tân với 12 triệu dân cũng làm cạn kiệt các tầng nước ngầm. Theo báo The New York Times, Chính phủ Trung Quốc đã đề ra một giải pháp tốn kém và "nghịch thiên" để đối phó tình hình trên: chuyển dòng khoảng 23 tỉ mét khối nước mỗi năm qua hàng trăm cây số từ sông Dương Tử nhằm giải quyết cơn khát của miền bắc với 440 triệu người. Tham vọng Công trình nói trên, có tên dự án Chuyển dòng nước Nam-Bắc, là kế hoạch tham vọng nhất của Bắc Kinh nhằm chinh phục thiên nhiên. Chi phí 62 tỉ USD của dự án cao gấp đôi chi phí xây dựng đập Tam Hiệp - đập thủy điện lớn nhất thế giới. Tương tự đập Tam Hiệp, vốn đang có nhiều "vấn đề nghiêm trọng" như thừa nhận của giới chức Bắc Kinh, dự án Chuyển dòng nước Nam-Bắc ngày càng gây lo ngại về chi phí, tác động đến môi trường và những sự hy sinh mà người nghèo ở những vùng bị ảnh hưởng. Dự án chuyển dòng được nghiên cứu lần đầu tiên vào thập niên 1950 sau khi Chủ tịch Mao Trạch Đông nhận định: "Nước ở miền nam dư dả, nước ở miền bắc hiếm hoi. Nếu có thể, mượn một ít sẽ rất tốt". Ở một đất nước bị tác động bởi những chu kỳ hạn hán và lũ lụt nghiêm trọng, việc kiểm soát nguồn nước luôn rất quan trọng đối với những người cầm quyền. Các đời hoàng đế Trung Hoa đã cố gắng duy trì sự cai trị bằng những dự án lớn về nước, chẳng hạn như Đại Vận Hà, sông nhân tạo dài nhất thế giới được tạo ra vào thế kỷ thứ 5-6 và nối Bắc Kinh với Hàng Châu. Năm 2002, Quốc vụ viện Trung Quốc bật đèn xanh cho việc khởi công xây dựng hai trong ba con kênh nằm trong khuôn khổ dự án Chuyển dòng nước Nam-Bắc, bao gồm tuyến giữa và tuyến phía đông lãnh thổ. Ngoài ra, còn có tuyến thứ ba ở phía tây. Tuyến này được thiết kế băng qua cao nguyên Tây Tạng trên độ cao trung bình 3.000-4.000 mét để tưới tiêu cho lưu vực sông Hoàng Hà nhưng chưa được khởi công. The New York Times dẫn lời ông Vương Kiến, một cựu quan chức quản lý nước và môi trường của Chính phủ Trung Quốc, thừa nhận dự án "có nhiều rủi ro lớn", nhưng Trung Quốc không còn sự lựa chọn nào khác do tình trạng thiếu nước nghiêm trọng hiện tại ở nước này. 3 tuyến kênh dẫn ngược dòng nước sông Dương Tử từ nam lên bắc Trung Quốc - Ảnh: New York Times, Đồ họa: Hạ Huy Thực tế Kênh phía đông đang được xây dựng dọc Đại Vận Hà và băng qua Thiên Tân. Tuy nhiên, các nhà quản lý dự án phát hiện nước sinh hoạt được chuyển từ sông Dương Tử đến Thiên Tân lại ô nhiễm đến mức cần xây dựng 426 nhà máy xử lý chất thải. Theo Tân Hoa xã, việc kiểm soát ô nhiễm nước trên tuyến kênh này chiếm đến 44% chi phí đầu tư 5 tỉ USD. Với tình hình trên, các nhà hoạch định dự án hy vọng nhiều hơn đối với tuyến kênh giữa, dù sẽ phải đối mặt với những thách thức kỹ thuật lớn hơn. Nguồn nước từ sông Hán, một nhánh của Dương Tử, trên tuyến giữa có sạch hơn nhưng tuyến này sẽ phải băng qua 205 con sông, suối ở khu vực công nghiệp miền trung Trung Quốc trước khi đến Bắc Kinh. Ngoài ra, phải xây thêm 1.774 cấu trúc dọc theo chiều dài của con kênh do không có sẵn một tuyến đường thủy có sẵn như Đại Vận Hà để cặp theo. Theo kế hoạch, vào thời điểm khởi công tuyến kênh giữa, mực nước hồ chứa Đan Giang Khẩu trên sông Hán được nâng thêm 170 mét để nước có thể chảy về Bắc Kinh. Chính quyền cho biết mức nước tăng cùng nhu cầu chống xói mòn đất khiến 130.000 nông dân xung quanh hồ chứa phải di dời hồi năm ngoái. Những vụ di dời tương tự cũng đang diễn ra dọc theo dòng kênh, vốn chảy ngang qua 4 tỉnh. Đương nhiên, quá trình di dời cưỡng bức sẽ còn tiếp tục, do dự án "đã bước vào giai đoạn then chốt", theo tờ Nhân Dân Nhật Báo. Tuyến kênh phía đông dự kiến sẽ bắt đầu hoạt động vào năm 2013 còn tuyến giữa là vào năm 2014. Các tuyến kênh này ban đầu dự kiến đưa vào sử dụng vào dịp Thế vận hội 2008 nhưng bị trì hoãn vì nhiều sự cố khác nhau. Tuyến kênh thứ ba còn nằm trên giấy cũng vì lý do tương tự. Lo ngại Mục tiêu của dự án Chuyển dòng nước Nam-Bắc là mang nước từ dòng Dương Tử lên cứu miền bắc. Điều trớ trêu là bản thân khu vực này cũng đang điêu đứng vì thiên tai và những hệ lụy của đập Tam Hiệp. Theo Tân Hoa xã, từ tháng 4 đến đầu tháng 6.2011, gần 35 triệu người tại 5 tỉnh Giang Tô, An Huy, Giang Tây, Hồ Bắc và Hồ Nam bị ảnh hưởng bởi đợt hạn hán tồi tệ nhất kể từ năm 1961. Đến ngày 3.6, mưa lớn liên tục bắt đầu trút xuống nhiều tỉnh như Giang Tây, Hồ Nam, An Huy, Quý Châu, Hồ Nam, Hồ Bắc và Chiết Giang. Đợt lũ lụt này khiến hơn 170 người thiệt mạng và hàng triệu người phải sơ tán, theo Tân Hoa xã. Nhiều chuyên gia nhận định với việc mực nước và lưu lượng của sông Dương Tử liên tục không ổn định, việc can thiệp vào dòng sông này một cách trái tự nhiên như bơm nước từ miền nam ngược lên miền bắc sẽ càng làm trầm trọng thêm các vấn đề lâu nay. Từ lâu, đã có nhiều ý kiến về tác hại đối với môi trường và xã hội của đập Tam Hiệp. Theo AFP, Chính phủ Trung Quốc hồi tháng 8.2010 nói cần hàng tỉ USD để khắc phục hậu quả về môi trường từ đập này. Đập Tam Hiệp được khởi công từ năm 1993 tại đoạn sông Dương Tử chảy qua vùng Tam Đẩu Bình, tỉnh Hồ Bắc và chính thức hoàn thành năm 2008 với chi phí khoảng 26 tỉ USD. Khoảng 1,4 triệu người đã phải di dời vì công trình này. Ngay từ điểm khởi đầu của dự án Chuyển dòng nước Nam-Bắc là sông Dương Tử còn đang đối mặt những vấn đề vô cùng nan giải như vậy. Báo The New York Times dẫn lời một số nhà khoa học Trung Quốc nhận định rằng việc chuyển dòng nước còn có thể phá hủy hệ sinh thái của các con sông ở phía nam và biến chúng trở nên vô dụng như Hoàng Hà. Theo giới chuyên gia, chính phủ không nghiên cứu đầy đủ về tác động của dự án và nếu dự án gây tổn hại cho sông Hán, hơn 14 triệu người ở tỉnh Hồ Bắc sẽ bị ảnh hưởng. Đỗ Vân, chuyên gia địa lý thuộc Viện Hàn lâm khoa học Trung Quốc ở Vũ Hán, cho hay các nhà hoạch định dự án đã quyết định lượng nước sẽ được chuyển dòng dựa trên các tính toán lưu lượng trên sông Hán được thực hiện từ thập niên 1950 đến thập niên 1990. Kể từ đó, lưu lượng giảm dần do hạn hán, nhưng giới hữu trách đã không có những điều chỉnh cần thiết. Trong khi đó, sông Hán cũng đang gặp những thách thức lớn: các nhà máy thải nhiều chất gây ô nhiễm, các doanh nghiệp khai thác cát vô tội vạ để đáp ứng nhu cầu xây dựng ở các thành phố kế cận, và "giặc" tảo không ngừng tấn công. Sự chuyển dòng nước đến miền bắc sẽ chỉ làm gia tăng áp lực lên con sông này. Ngoài ra, còn phải kể đến những bức xúc của dân chúng và chính quyền các tỉnh phía nam Bắc Kinh và Thiên Tân về chuyện đền bù không thỏa đáng, áp lực dân số gia tăng ở các siêu đô thị do làn sóng người nhập cư từ các khu vực nông thôn... Tất cả những vấn đề này đang diễn biến theo chiều hướng ngày một nghiêm trọng hơn ở Trung Quốc. Trùng Quang1 like
-
1 like
-
Tôi nghĩ chau sanh giờ Thìn sau 7h / tính thâm trầm ,cô độc nghiêm nghị ban bè ít ,ngoại giao kém ,mắt cận ,trên là anh cả ,lúc nhỏ sanh dễ thường thì trước năm 16t có thọ cái tang lớn ,tay chân bên trái có vài vết sẹo , hay bị tay bay vạ gởi [ vu oan ] /nếu giờ MÃO thì tính tình và nhân cách ngược lại với giờ kia .1 like
-
Nếu ai hy vọng vào sự yếu mềm của Việt Nam thì họ nhầm BAODATVIET.VN Cập nhật lúc :9:27 PM, 25/06/2011 Việt Nam hiện vẫn tỏ ra bình tĩnh và kiềm chế trước các sự kiện vừa qua tại biển Đông. Tuy nhiên, sức chịu đựng nào cũng có giới hạn của nó. Lịch sử nhiều lần chứng minh Việt Nam luôn biết cách đứng vững. Nếu ai đó hy vọng vào sự yếu mềm của Việt Nam thì họ nhầm, nhà báo nổi tiếng của Nga Sergey Aphonin khẳng định. Nhà báo nổi tiếng của Nga, Sergey Aphonin trong cuộc trao đổi với phóng viên thường trú tại Moscow ngày 23/6 cho biết ông hy vọng các bên tham gia tranh chấp chủ quyền ở biển Đông sẽ ký được một Thỏa thuận giải quyết vấn đề một cách hòa bình. Theo nhà báo Aphonin, nếu nhìn trên bản đồ thế giới thì quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa rõ ràng có liên hệ với Việt Nam. Chủ quyền của Việt Nam đối với những hòn đảo này được chứng mình từ lâu bằng nhiều bằng chứng và tư liệu khác nhau. Những hòn đảo này tự nhiên được ghi vào thành phần của hai tỉnh tương ứng của Việt Nam. Trên thế giới, đối với nhiều thế hệ, Việt Nam từng là ngọn đuốc đấu tranh chống xâm lược, vì nền độc lập, tự do của đất nước, với sự ủng hộ của những người bạn chân chính và dư luận quốc tế. Không lẽ có ai đó đang muốn dập tắt ngọn đuốc ấy? Từng là phóng viên thường trú của hãng thông tấn TASS và báo Sự thật Đoàn viên ở miền Bắc Việt Nam trong chiến tranh chống Mỹ, sau đó nhiều lần đến thăm Việt Nam trong thời bình, ông Aphonin tỏ ra khâm phục nhân dân Việt Nam - một quốc gia đang có một vị trí xứng đáng trên diễn đàn khu vực và quốc tế - trong Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN), tại Liên Hiệp Quốc và những tổ chức quốc tế khác. Cuối cùng, nhà báo Nga khẳng định: “Việc sử dụng sức mạnh để giải quyết vấn đề lãnh thổ là hành động vô nghĩa! Cần giải quyết vấn đề một cách văn minh. Và điều quan trọng nhất là các bên cần tránh một cuộc xung đột quân sự. Điều này chỉ có lợi cho hoà bình và ổn định ở khu vực Đông Nam Á và toàn thế giới”. >> Tướng Trung Quốc dọa cho Việt Nam bài học lớn hơn Theo VietnamPlus1 like
-
Cá nhân tôi ủng hộ dự báo này và thống nhất mốc thời gian khởi đầu là 17g ngày 25. 6. 2011. Nhưng mốc cuối kéo dài là 16 ngày. Tính hôm nay là ngày thứ nhất. Đồng thời bổ sung thêm là: Một thiên tai lớn.1 like
-
Không biết có phải anh Thăng Long cho rằng TQ đang muốn chiếm chọn con rồng về lý học ko nhỉ? Các phong thủy gia TQ đều biết rằng đại mạch và địa huyệt quý đều nằm ở Viêt Nam. TQ tuy có những đại mạch và địa huyệt lớn nhưng thường hay bị tán khí. Hiện nay, thế giới đang bị khủng hoảng trầm trọng nên nền tài chính rất là eo hẹp. Chính vì lẽ đó nên TQ muốn thừa gió bẻ măng. Nhân cơ hội này thử nắn gân LHQ, sau khi đã trở thành nhà xuất khẩu hàng bình dân lớn nhất thế giới. Thân mến1 like
-
Trung Quốc thiếu “chứng từ khoa học” là cơ hội cho VN 24/06/2011 15:19:02 - Tập san Waste Management đăng một bài báo khoa học của một nhóm tác giả Trung Quốc có “đường lưỡi bò” như là một phần lãnh hải của Trung Quốc. Sự kiện là một cơ hội để Việt Nam nghĩ tới chuyện thực hiện những nghiên cứu bài bản về chủ quyền Biển Đông, có những “bằng chứng khoa học” in trên các tạp chí khoa học của thế giới. Sai sót về sự thật Tập san Waste Management số 31 (2011) có công bố một bài báo khoa học của một nhóm tác giả Trung Quốc. Trong bài báo, các tác giả trình bày một bản đồ của Trung Quốc với đường lưỡi bò. Chẳng những trình bày đường lưỡi bò, họ còn vẽ những đốm đen nhỏ, hàm ý chỉ những quần đảo trong khu đó là lãnh thổ của Trung Quốc. Một nhà khoa học gốc Việt ở Pháp phát hiện ra bản đồ trong bài báo, và cấp báo cho đồng nghiệp Việt Nam trên khắp thế giới để phản ứng. Nhiều nhà khoa học gốc Việt ở Âu châu, Mĩ, Úc và Việt Nam đã viết thư đến tổng biên tập để phản đối sai sót có thể nói là nghiêm trọng này. Bản đồ Trung Quốc với đường lưỡi bò trong bài báo trên tạp chí Waste Management vi phạm chủ quyền Việt Nam Theo tôi, đó không chỉ đơn giản là sai sót mang tính khoa học, mà còn là một sai sót về sự thật Hoàng Sa và Trường Sa là của Việt Nam. Đó là một sự thật. Vì đường lưỡi bò không được tổ chức quốc tế nào công nhận, chưa từng công bố trên các diễn đàn khoa học quốc tế, nên việc làm của các nhà khoa học Trung Quốc là hoàn toàn phi khoa học (unscientific). Sai sót trong bài báo khoa học là điều rất... bình thường. Kinh nghiệm của người viết bài này, với tư cách là biên tập và phục vụ trong ban biên tập, tỉ lệ sai sót có khi lên đến 50%. Đại đa số là những sai sót nhỏ, như sai về con số, sai về chú thích, sai tên tác giả, sai tài liệu tham khảo... Thỉnh thoảng cũng có những sai sót nghiêm trọng ảnh hưởng đến kết luận của công trình nghiên cứu. Dù là nhỏ hay nghiêm trọng, tất cả những sai sót đều được chỉnh sửa và thông báo rộng rãi đến đồng nghiệp. Bài báo của nhóm tác giả Trung Quốc tôi đề cập chẳng những sai sót về dữ liệu thật, mà còn sai về tiếng Anh. Ngay cả tiêu đề bản đồ họ cũng viết sai! Còn sai sót về văn phạm và ngữ vựng thì đầy rẫy trong bài báo. Vô ý hay cố ý? Câu hỏi đặt ra là tại sao nhóm tác giả Trung Quốc trình bày bản đồ đó trong bài báo của họ, và với mục đích gì? Nhiều giả thuyết có thể đặt ra để trả lời câu hỏi đó. Đơn giản nhất là chính nhóm tác giả Trung Quốc tưởng đường lưỡi bò là một sự thật nên họ "vô tư" trình bày bản đồ đó như là một fact – dữ liệu thật. Giả thuyết thứ hai là có một sự cố ý. Có thể các tác giả này lợi dụng một tập san không mấy danh tiếng để làm một chứng từ khoa học. Từ chứng từ này, họ sẽ có "cơ sở khoa học" để tuyên bố rằng bản đồ của họ đã được một hội đồng khoa học của tập san thông qua. Cố nhiên, đó chỉ là hai giả thuyết, chúng ta không có bằng chứng để khẳng định giả thuyết nào đúng. Tuy nhiên, dù là cố ý hay vô tình, thì đó vẫn là một error of fact cần phải chỉnh sửa. Sau khi nhận được nhiều thư phản đối, ban biên tập hứa sẽ chỉnh sửa trong thời gian sớm nhất. Bến Đảo, thị trấn Trường Sa. Ảnh: Dương Trung Quốc Có người nghĩ rằng việc Waste Management công bố bài báo là một cách nói rằng hội đồng biên tập chấp nhận bản đồ của Trung Quốc. Đây là một hiểu lầm. Thông thường, một bản thảo bài báo (sau khi nộp cho tập san) được gửi cho 2 hoặc 3 chuyên gia độc lập để bình duyệt; các tác giả phản hồi; sau khi có báo cáo của các chuyên gia bình duyệt và phản hồi của tác giả, tổng biên tập sẽ dựa vào đề nghị của các chuyên gia để quyết định từ chối hay chấp nhận cho công bố. Các chuyên gia bình duyệt làm việc hoàn toàn tự nguyện (không nhận thù lao) và thường khách quan. Họ quan tâm đến ý tưởng, phương pháp nghiên cứu, nội dung, dữ liệu là chính, chứ ít khi nào quan tâm đến bản đồ. Dù thế, các chuyên gia bình duyệt không thể nào phát hiện tất cả các sai sót trong bài báo. Do đó, dù bản đồ được Management Waste (hay bất cứ tập san khoa học nào) công bố hoàn toàn không phản ảnh quan điểm của hội đồng biên tập. Việt Nam và những ”chứng từ khoa học” (*) Công bố bài báo khoa học là một hình thức "acid test". Một khi bài báo được công bố, đồng nghiệp và công chúng khắp thế giới có quyền săm soi tất cả chi tiết trong bài báo và có quyền phản hồi. Đó là một trong những nét văn hóa khoa học. Cũng có thể nói rằng khoa học là một hoạt động dân chủ, hiểu theo nghĩa mọi người đều có tiếng nói. Trong trường hợp đề cập trên, nhiều nhà khoa học đã có tiếng nói, và tiếng nói đã đem lại hiệu ứng tích cực. Đó cũng chính là một hình thức làm sạch khoa học và giữ uy tín cho khoa học. Nói cho cùng, khoa học học từ sai sót; cho nên một sai sót như thế là một bài học quí báu cho tập san. Trường hợp trên không những là bài học cho tập san mà còn là bài học cho giới khoa học Việt Nam. Đó là bài học về chứng từ khoa học. Một dữ liệu sau khi công bố trên một tập san khoa học có thể xem là một chứng từ khoa học. Chứng từ khoa học có thể sử dụng trong các phiên tòa để đi đến một phán quyết. Trong vấn đề Biển Đông, chúng ta có nhiều dữ liệu lịch sử, có nhiều chứng cứ thực tế nhưng chúng ta chưa trình bày những dữ liệu đó cho cộng đồng khoa học thế giới thấy. Chúng ta thiếu các công trình nghiên cứu, các bài viết mang tính học thuật, bằng tiếng Anh trên các tập san quốc tế. Cách đây vài năm, tôi có làm một thống kê các bài báo khoa học của Việt Nam trên các tập san quốc tế. Tôi đã phát hiện ra một điều thú vị: Trong số 3456 bài trong 10 năm, từ 1996 đến 2005, chỉ có 69 bài, xấp xỉ 2%, liên quan đến khoa học xã hội. Tôi xem qua tất cả 69 bài này thì không có bài nào liên quan đến vấn đề Hoàng Sa, Trường Sa. Có thể nói rằng mặc dù chúng ta có nhiều chứng từ, nhưng dường như chúng ta nói để chúng ta nghe, chứ chúng ta chưa có trình bày các chứng từ đó một cách có hệ thống trên các diễn đàn quốc tế. Đây là một thiệt thòi của phía Việt Nam. TIN LIÊN QUAN Thêm nhiều tạp chí quốc tế đăng bản đồ hình lưỡi bò Giới KH Việt phản đối chú thích sai về bản đồ TQ Không nên bí mật những bản đồ không còn là bí mật! Vấn đề Hoàng Sa, Trường Sa: Hoan nghênh bản đồ trực tuyến! Trang web bản đồ trực tuyến Việt Nam chỉ chờ phê duyệt Nếu giới bản đồ Việt Nam quảng bá được chủ quyền... Bản đồ trực tuyến "Map World" vi phạm chủ quyền Việt Nam Ngược lại, Trung Quốc trong thời gian qua đã có khá nhiều bài báo khoa học về vấn đề Hoàng Sa và Trường Sa. Có một chuyên gia người nước ngoài nói với tôi, ông rất muốn trình bày bằng chứng để cho thấy là Việt Nam có tư cách chủ quyền trên hai quần đảo đó, thế nhưng khi tìm tài liệu trên các diễn đàn khoa học quốc tế, ông ấy chỉ tìm thấy tài liệu của Trung Quốc. Đó là một sự thật rất đau lòng. Dường như đã có một sự nhầm lẫn tai hại về chứng cứ khoa học. Nhiều người, kể cả giới nghiên cứu xã hội học, cho rằng những bài báo trên báo đại chúng hay các tạp chí của Việt Nam là chứng từ khoa học. Rất tiếc đối với cộng đồng khoa học quốc tế, đó không phải là chứng từ khoa học, vì chưa qua bình duyệt. Những công trình nghiên cứu mà chúng ta cần có là những công trình nghiên cứu mới, cho ra ý tưởng mới, hay là cách diễn giải mới. Chúng ta không có những bài như thế. Cơ hội cho Việt Nam Khi xuất hiện trên diễn đàn quốc tế, không thể dùng cảm tính được, phải dùng bằng chứng. Những yêu cầu như vậy đòi hỏi phải có nghiên cứu nghiêm chỉnh, phải có học thuật, phải có chuyên môn. Thỉnh thoảng chúng ta lại trưng bày ra một bằng chứng từ thế kỷ 19 hay 18 rồi nói đây là bằng chứng cho thấy chúng ta có chủ quyền trên hai hòn đảo này. Đó cũng là một cách diễn giải nhưng chưa đủ. Đã là khoa học, chúng ta phải trình bày một cách diễn giải khác. Tức là đặt ra một cách diễn giải, rồi bác bỏ cách diễn giải đó, để chứng mình rằng cách diễn giải về chủ quyền của mình là đúng. Bất cứ một sự kiện nào cũng là một cơ hội. Cơ hội tôi nghĩ đến là hi vọng rằng qua sự kiện trên Waste Management, giới khoa học xã hội sẽ có dịp suy nghĩ đến một chương trình nghiên cứu (chứ không chỉ là một dự án) về biển Đông. Trong chương trình đó, chúng ta rất cần những nghiên cứu về lịch sử, địa lí, hải dương học, khảo cổ, khoa học tự nhiên... Chúng ta cần cả nghiên cứu định tính và định lượng. Chúng ta cần hợp tác với đồng nghiệp quốc tế và phải công bố kết quả nghiên cứu trên tập san khoa học quốc tế. Tôi nghĩ nếu khoa học muốn có một đóng góp gì có ý nghĩa cho nước nhà, thì một chương trình nghiên cứu về Biển Đông là một cách đóng góp thiết thực nhất trong việc bảo vệ chủ quyền biển đảo của Tổ quốc. GS. Nguyễn Văn Tuấn =============================================== * Tựa đã biên tập bởi Thiên Sứ1 like
-
Cần nhìn lại giá trị phim Lý Công Uẩn Cập nhật lúc 25/06/2011 03:00:00 PM (GMT+7) - Chưa được trình chiếu rộng rãi, chưa có ý kiến của đông đảo người xem mà đã vội bảo nó là “xấu” thì liệu đã thật khách quan và công bằng chưa? "Lý Công Uẩn - Đường tới thành Thăng Long" lên sóng VTV Phim lịch sử và thương hiệu quốc gia Câu hỏi lớn cho dòng phim cổ trang lịch sử? 'Lịch sử hay lắm, không vớ vẩn như phim' Có gì trong tay mà làm phim cổ trang? Thách thức khi làm phim "mặc giáp sắt cưỡi ngựa" "Lý Công Uẩn - đường tới thành Thăng long” là một bộ phim video (19 tập) do Đài truyền hình Việt Nam và Công ty Trường Thành phối hợp sản xuất bằng nguồn vốn xã hội hoá nhằm hoàn thành và chiếu trong dịp mừng đại lễ “nghìn năm Thăng Long” tháng 10 năm 2010. Nhưng thật tiếc bộ phim này đã bị tạm dừng và không đúng hẹn với Đại lễ. Đến nay vẫn còn nằm trong “kho”. Một vài cơ quan báo chí và một số bloger cá nhân đã đua nhau lên tiếng phản đối kịch liệt bộ phim này vì cho nội dung của nó là “thân Tàu” và xuyên tạc lịch sử!? Rồi cả đến trang phục, khung cảnh là của Tàu cả? Nếu cứ như những nhận định ấy (mà chủ yếu dựa trên lời phê phán của nhà sử học Lê Văn Lan) thì các nhà làm phim có “âm mưu” giúp Tàu “đánh” Ta? Nhưng xem xét lại thì những ý kiến ấy không có cơ sở chuẩn xác bởi một điều đơn giản là nhiều “nhà” phê bình kia lại chưa bao giờ được xem phim này. Ngay những ý kiến của ông Lan cũng sai, và ông cũng đã thừa nhận với PV báo “Gia đình và xã hội” về mấy chi tiết lịch sử mà theo ông là chưa đúng. Tôi biết ông Lê Văn Lan là người đã có công đọc và nhớ nhiều về lịch sử của nước ta, vì thế một vài kênh truyền hình thường nhờ ông Lan “lên tivi” để nói về sử học nước nhà. Nhiều vấn đề có dính dáng đến quá khứ lịch sử, các cơ quan chuyên môn cũng thường mời ông Lan tham gia góp ý. Sau những lần góp ý ấy ông cũng nhận được “phong bì” khá nặng kí với cái thù lao mà tôi cho rằng vượt quá mức công sức lao động chất xám của ông. Đến bộ phim này, ông ra sức “công phá”, công phá đến mức nhầm lẫn cả chi tiết lịch sử. Tôi cứ tự hỏi không hiểu vì sao cả một tập thể Hội đồng duyệt phim với khá nhiều giáo sư, tiến sĩ có danh tiếng, hơn nữa cả lãnh đạo Bộ VH - TT- DL đã ký văn bản cho phát hành bộ phim này vậy mà đến nay vẫn chưa ra mắt khán giả? Phải chăng mấy ý kiến của ông Lan và một vài bloger lại là sự chỉ đạo dư luận? Có người bảo “chúng ta đang ở thời khắc nhạy cảm giữa ta và Trung Quốc, thì hãy tạm dừng phim này, vì chiếu ra có thể “bất lợi”? Nhưng xin thưa rằng đó là điều “biện lý” vô căn cứ. Ngay lúc này chúng ta lại càng cần phải “tung” bộ phim này ra trước công luận để thấy tinh thần quật khởi của dân tộc, và thấy cái quyết liệt của những nhà vua chân chính, những ý tưởng thông minh và cương quyết của Lý Công Uẩn sau bao lần các đời vua trước không thành công trong việc dời đô về kinh thành Đại La. Nói một cách công bằng là: nếu phim này được chiếu ở nước ngoài thì hay biết mấy, người xem nhất là những Việt kiều trẻ lâu ngày sống xa tổ quốc sẽ hiểu thêm về một giai đoạn lịch sử quan trọng và nhiều biến động của nước nhà. Người ta bảo “trang phục của Trung Quốc”, vậy các bạn thử xem, những tranh dân gian, tranh Hàng Trống, kể cả tranh Đông Hồ cũng hiện đại lắm. Có bức tranh dân gian vẽ vua Quang Trung cưỡi ngựa, mặc áo giáp, vung đao ra trận trông rất hào khí và mãnh liệt, vậy ai bảo là mặc áo bào Trung Quốc? Tranh “hứng dừa” váy yếm của hai phụ nữ rất “sexy”, vậy ai bảo bắt chước phương tây? Văn hóa kể cả vật thể hay phi vật thể đều có sự kế thừa và giao thoa, vì thế chúng ta không thể bảo thủ dập khuôn, cần có sự học tập và sáng tạo. Ví như bây giờ quốc phục của Ta là gì, chưa ai tìm được. Trong khi chưa có một quốc phục thuần Việt, các nhà nguyên thủ của ta và các giới chức ngoại giao vẫn phải mặc theo Âu Tây là “Com lê - Cà vạt”. Vậy cứ theo cái lý sự cùn của mấy nhà phê bình cố chấp trên đây, thì lãnh đạo ta “theo” Tây cả à? Bác Hồ bảo “Độc lập không phải là đứng một”, ta tự chủ không có nghĩa ta tách ta khỏi cái chung, ta nhận thức cái chung để rồi ta “độc lập” suy nghĩ, hành động theo định hướng của ta. Phim “Lý Công Uẩn - đường tới thành Thăng Long” ta thuê đạo diễn, nhưng diễn viên giỏi của ta vào vai rất đạt; trang phục vải Tàu nhưng thiết kế mẫu quần áo của họa sĩ Ta; đến nay ta chưa có một trường quay qui mô, thì ta mượn trường quay. Tất cả những cái đó không thể bảo là các nhà làm phim ngả “theo Tàu”. Cốt yếu là nội dung là lịch sử được phản ánh sự kiện qua con mắt của nhà biên kịch, nhà đạo diễn và phương tiện hiện đại, vươn lên cái hiện đại để dần dần bắt kịp với điện ảnh khu vực và thế giới. Quả thật phim của ta lâu nay vẫn quanh quẩn với sự nghèo nàn như kiểu “cơm chấm cơm” vậy! Một tác phẩm nghệ thuật cần được thẩm định qua công chúng, bởi ta đã từng biết, có những tác phẩm nghệ thuật đã được trao giải cao của ban giám khảo, mà khi đưa vào cuộc sống lại không được công chúng đón nhận, vì thế “tác phẩm” ấy tự lụi tàn, tự nó “tan” đi. Vậy nếu quả thực “Lý Công Uẩn - đường tới thành Thăng Long” chưa được trình chiếu rộng rãi, chưa có ý kiến của đông đảo người xem mà đã vội bảo nó là “xấu” thì liệu đã thật khách quan và công bằng chưa? Nếu “sợ” cái mới thì rất có thể gây phản cảm với những người luôn có ý tưởng sáng tạo, theo tôi bộ phim dài tập này hãy được trình chiếu trước các đại biểu Quốc Hội khóa XIII, để rồi chúng ta tin rằng sẽ có chính kiến thật công minh, giải thoát cho các nhà làm phim đang bức xúc bởi một cái “lý sự” ma mãnh và ác ý nào đó, chỉ vì một lợi ích nhóm mà thôi. Hoàng Công Minh Ảnh trong bài: Cảnh phim "Lý Công Uẩn - đường tới thành Thăng Long" ================================= Có bao nhiêu bài báo trong nước từ 20 năm nay nói về thời Hùng Vương cội nguồn Việt sử 5000 năm văn hiến? Có bao nhiêu bài viết phủ nhận truyền thống Việt sử gần 5000 năm văn hiến trên các báo chí chuyên ngành và báo ngày trong 20 năm qua? Rồi tại ngay các trường học từ phổ thông đến hết đại học luận điểm minh chứng Việt sử 5000 năm văn hiến cũng không có chỗ để chen chân vào! Tôi không cần xem nội dung bộ phim này, cũng chưa hề xem cái bài báo mà chính tôi coppi và đưa lên, gọi là bênh vực cho cái bộ phim có tư duy " ở trần đóng khố này ". Chỉ xin hỏi: Căn cứ vào cơ sở khoa học nào để quí vị gắn cho các nhân vật trong phim mặc quần áo như quí vị thể hiện?1 like
-
Vấn đề không chỉ là Biển Đông. Mà là Trung Quốc đang thách thức ngôi bá chủ thế giới của Hoa Kỳ. =====================================================================1 like
-
Hơi thở trị liệu thân tâm Giác Ngộ - Trong cuộc sống hàng ngày, đôi lúc chúng ta gặp phải những tình trạng hết sức căng thẳng, khó chịu và bất an. Những cảm xúc ấy được hình thành do nhiều yếu tố ngoại cảnh tác động vào, nhưng chính yếu vẫn là phát xuất từ tâm ý của mình. Bởi khi ta còn tham lam, sân hận và si mê thì sẽ dễ dàng bị phiền não khổ đau khống chế và trói buộc. Vì vậy, để trị liệu và chuyển hóa những hệ lụy khổ đau ấy, quán niệm hơi thở là liệu pháp vô cùng kỳ diệu, có khả năng chữa trị tận gốc căn bệnh tham sân si ở nơi mỗi chúng sinh. Thật vậy, hơi thở như là người mẹ hiền nuôi dưỡng cho ta khôn lớn. Hơi thở miệt mài làm việc liên tục suốt ngày đêm không bao giờ dừng nghỉ; cho dù ta có thức hay ngủ thì hơi thở vẫn chuyên cần hoạt động đều đặn, giúp cho máu huyết được lưu thông và nuôi dưỡng các tế bào của cơ thể. Hơi thở rất quan trọng và vô cùng quý giá, chỉ cần ngừng thở trong vòng một vài phút, thì kể như mọi hoạt động của thân thể và toàn bộ đời sống của con người đều bị tê liệt. Bao nhiêu công danh sự nghiệp mà ta đã cố gắng để vun đắp và gầy dựng, nhưng chỉ cần hơi thở ngừng hoạt động trong chốc lát, thì những thứ quý giá kia tự động cất cánh bay xa và mạng sống của chúng ta kể như chấm dứt. Thế mới biết đời sống của con người thật mong manh giả tạm, chẳng khác gì những hạt sương mai, như tia nắng sớm. Vì lẽ đó nên có lần Đức Phật hỏi các vị Tỳ-kheo về mạng sống của con người tồn tại trong bao lâu? Vị Tỳ-kheo đầu tiên trả lời là trong vòng vài ngày, người kế tiếp thì nói khoảng chừng một bữa ăn và vị Tỳ-kheo cuối cùng trả lời rằng, mạng sống của con người chỉ được tồn tại trong một hơi thở. Thế Tôn khen ngợi vị Tỳ-kheo này đã hiểu đạo lý (Kinh Tứ Thập Nhị Chương). Về phương diện sức khỏe, nếu như chúng ta biết cách để thực tập điều hòa hơi thở vào và hơi thở ra mỗi ngày, thì máu huyết trong cơ thể ta sẽ dễ dàng lưu thông và ngăn ngừa được nhiều chứng bệnh. Khi đến các trung tâm yoga hoặc thiền để thực tập thở, chúng ta thấy đời sống trở nên nhẹ nhàng và thân thể khỏe khoắn hơn. Nếu ta thở vào hoặc thở ra có ý thức, thì hơi thở ấy sẽ dài hơn và sâu hơn. Và khi ta thở vào sâu, hơi thở mang theo rất nhiều dưỡng khí trong lành vào cho cơ thể. Đến khi thở ra sẽ tống khứ những độc tố ra bên ngoài. Nhờ vậy, nên các tế bào của cơ thể được tươi nhuận, trẻ trung và sáng đẹp. Sau những buổi thực tập thiền thở, chúng ta ăn uống ngon lành và tinh thần được sảng khoái hơn. Đề cập đến việc thực tập quán niệm hơi thở, chúng ta phải nói tới thiền. Hiện nay ở các nước phương Tây, người ta dành nhiều thì giờ để thực tập thiền. Vì thiền đã giúp cho họ chuyển hóa được những bế tắc trong cuộc sống. Mặc dù họ dư thừa của cải vật chất, nhưng không thể giải tỏa được những khúc mắc, khó khăn trong con người của họ. Vì lẽ đó các nhà khoa học đã tập trung nghiên cứu về thiền. Gần đây, bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc có nhiều bài viết đề cập đến việc thực tập thiền thở để chữa bệnh. Qua sự trải nghiệm của tự thân về việc thực tập hơi thở, ông đã khám phá ra được rất nhiều điều mới lạ trong cơ thể con người. Và thiền đã giúp cho ông sáng tỏ hơn trong lĩnh vực y học cũng như hiểu rõ hơn về bản chất đích thực của đời sống. Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc khẳng định rằng: “Ở góc độ người thầy thuốc, tôi quan tâm đến thứ thiền đơn giản mà hiệu nghiệm, không “cao siêu, huyền bí và khó khăn”. Đó là thứ thiền trong đời sống hàng ngày. Nó liên quan đến sức khỏe, đến khoa học y học, được nghiên cứu và ứng dụng khá rộng rãi. Nó đã mang lại những hiệu quá rất bất ngờ. Nó chữa được nhiều căng thẳng (stress), lo âu, nhiều bệnh lý do hành vi lối sống gây ra mà thuốc men không thể chữa dứt”(Thở và thiền). Về phương diện tinh thần, hơi thở còn có khả năng làm lắng dịu và chữa trị những cảm xúc tuyệt vọng, lo âu, sợ hãi, bất an v.v... trong ta được bình phục. Bởi sống trong cuộc đời này, bất cứ ai cũng phải đối diện với rất nhiều khó khăn và gian khổ, cho dù ta có đầy đủ điều kiện vật chất, danh vọng, địa vị… thì vẫn không ngoại lệ. Có đôi lúc, ta gặp phải những vấn đề xảy ra ngoài khả năng chịu đựng, tâm ý hoàn toàn bị phiền não và khổ đau chi phối. Để vượt qua những trở ngại ấy, tốt nhất là ta trở về với hơi thở, trở về với chính mình, để lắng nghe và nhận diện những cảm xúc trong ta. Nhờ có sự trở về và lắng nghe ấy, nên ta mới thấy rõ được quy trình dựng lập của bản ngã tham, sân, si. Khổ đau luôn luôn do bản ngã tạo ra, nó được hình thành là do bóng tối của vô minh, tức sống trong mê mờ và lãng quên cái thực tại đang là. Những tâm lý buồn vui, thương nhớ, giận hờn, khó chịu, bất an… đều phát xuất từ vô minh, chấp ngã. Bản ngã luôn vướng mắc vào những gì tốt đẹp hoặc là dễ thương nhất. Ngược lại, những thứ gì xấu xa, dễ ghét thì bản ngã muốn loại trừ và tiêu diệt. Và mỗi khi hình thành quy trình này, thì con người sẽ mất tự do và dẫn tới đau khổ. Do đó, để hóa giải những phiền não khổ đau, thì bước căn bản đầu tiên chúng ta cần phải thực tập quán niệm về hơi thở. Và sự thực tập này, đã được Đức Phật dạy như sau: “Vị Khất sĩ tìm tới một khu rừng, hoặc một gốc cây, hoặc một căn nhà vắng, ngồi xuống trong tư thế kiết già, giữ thân hình ngay thẳng và thiết lập chánh niệm trước mặt mình. Người ấy thở vào với ý thức minh mẫn là mình đang thở vào. Người ấy thở ra với ý thức minh mẫn là mình đang thở ra. Thở vào một hơi dài, người ấy ý thức rằng: ta đang thở vào một hơi dài. Thở ra một hơi dài, người ấy ý thức rằng: ta đang thở ra một hơi dài. Thở vào một hơi ngắn, người ấy ý thức rằng: ta đang thở vào một hơi ngắn. Thở ra một hơi ngắn, người ấy ý thức rằng: ta đang thở ra một hơi ngắn...” (Kinh Bốn lĩnh vực quán niệm, HT.Thích Nhất Hạnh dịch). Đa phần các trường phái thực tập về hơi thở, người ta “dùng ý để dẫn khí”. Tức là, khi hít vào và thở ra, họ dùng tâm ý để điều khiển. Sự thực tập này, có thể phù hợp cho những ai mới bắt đầu tập thở, và nó cũng đem lại sức khỏe tốt cho con người. Tuy nhiên, để đạt tới an lạc giải thoát thực sự, thì cần phải buông bỏ ý niệm điều khiển và chủ quan của chính mình. Vì thế, Đức Thế Tôn dạy rằng: “Khi thở vào một hơi ngắn thì ta biết là thở vào một hơi ngắn, thở vào một hơi dài thì biết là dài”. Ta chỉ cần lặng lẽ quan sát hơi thở đang diễn biến như thế nào, thì ghi nhận y như thế đó, chứ không cần phải dùng ý thức xen vào để điều khiển hơi thở. Nhờ quán niệm hơi thở một cách sâu sắc nên ta thiết lập được chánh niệm tỉnh giác, an trú trong hiện tại. Trong sự thức tỉnh cao độ ấy, tâm lặng và trí sáng đã giúp ta làm chủ thân tâm, khiến cho vô minh phiền não rơi rụng, không còn khả năng chi phối lên đời sống, nhờ đó tâm hồn hành giả được an lạc, thảnh thơi và tự tại. Như vậy, hơi thở đối với đời sống của con người vô cùng quan trọng. Nếu chúng ta biết trở về để chăm sóc và lắng nghe trọn vẹn với hơi thở, thì ta sẽ khám phá ra được rất nhiều cái hay, cái đẹp mà cuộc đời đã trao tặng! Do đó, trở về với tự thân và nhận diện hơi thở, chính là điều kiện tất yếu để chuyển hóa khổ đau, đem lại niềm an vui và hạnh phúc cho chính bản thân mình, cũng như xây dựng nếp sống an bình và tốt đẹp cho cuộc đời này. Viên Ngộ1 like
-
Trung Quốc "giương lưỡi lê" trên mặt báo Thứ bảy, 25/06/2011, 06:28(GMT+7) Trong vài ngày gần đây, trên các tờ báo uy tín, được coi là “báo Đảng” của Trung Quốc liên tiếp có những bài viết cứng rắn, bày tỏ thái độ của quốc gia này về những căng thẳng trên biển Đông, bất chấp phản ứng kịch liệt từ dư luận quốc tế. Mới đây nhất, ngày 21/6, Thời báo Hoàn Cầu đã có một bài xã luận có tên “Trung Quốc phải phản ứng lại những hành động khiêu khích của Việt Nam”. Thứ trưởng ngoại giao Trung Quốc Trương Chí Quân. Thời báo Hoàn Cầu là phụ bản chính thống của Nhân dân nhật báo (People’s Daily) – tờ báo chính thức của Đảng Cộng sản Trung Quốc. Bài xã luận đã đưa ra những tuyên bố cứng rắn nhất từ trước đến giờ, bao hàm cả những lời lẽ mang tính đe dọa quân sự. “Trung Quốc sẽ sử dụng mọi biện pháp cần thiết để bảo vệ lợi ích của mình trên biển Hoa Nam (cách Trung Quốc gọi biển Đông)”, sẵn sàng “sử dụng lực lượng hải giám để đối phó, và nếu cần, sẽ dùng lực lượng hải quân tấn công lại”. Thậm chí, bài xã luận này còn không ngần ngại tuyên bố “Trung Quốc tự tin để tiêu diệt các tàu xâm lược Việt Nam”. Bà Lý Hồng Mai. Đây không phải là tờ báo duy nhất đưa ra lý lẽ kiểu này, cùng ngày China Daily cũng đổ lỗi “nguồn gốc của tranh chấp trên biển Hoa Nam hiện nay là do những hành động đơn phương của Việt Nam và Philipppines”. Tác giả bài viết này còn đề nghị Trung Quốc trước hết phải nói rõ cho quốc tế biết lập trường của mình về vấn đề biển Đông, thứ hai là phải bám lấy nguyên tắc “cùng phát triển những vùng đang tranh chấp”, và thứ ba là chính phủ phải lập ra một cơ quan cao cấp về các vấn đề biển để phối hợp hành động, đồng thời khẳng định đường ranh giới hình chữ U (đường 9 đoạn bất hợp pháp trên Biển Đông). Trước đó, ngày 20/6, trên tờ Nhân dân nhật báo cũng có một bình luận của nữ ký giả Lý Hồng Mai tiêu đề “Việt Nam nên tỉnh giấc mộng dữ”. Trong bài viết này, tác giả cho rằng Việt Nam nên “kiềm chế những tham vọng xa vời trên biển Hoa Nam, đừng hy vọng gắn bó với Mỹ. Lý do đơn giản là một khi Mỹ cảm thấy lợi ích riêng bị đe dọa sẽ sẵn sàng hy sinh lợi ích của các nước xung quanh vùng biển này”. Trung Quốc cũng đã ám chỉ khả năng dùng đến quân sự để giải quyết căng thẳng vài ngày trước đó. Hôm 18/6,Văn Hối – tờ báo uy tín của Bắc Kinh - đã đăng bài xã luận có đoạn “Cho dù chủ trương giải quyết tranh chấp trên Biển Đông bằng phương thức hòa bình, nhưng Trung Quốc cũng đã làm tốt các công tác chuẩn bị cần thiết về mặt quân sự, có đủ quyết tâm và thực lực để bảo đảm lợi ích cốt lõi của đất nước không bị xâm phạm". Trong bài viết có cụm từ “quyết không ngồi đó để nhìn” mà nhất định sẽ có đòn “phản kích mạnh mẽ", cho thấy thái độ kiên quyết, cứng rắn, không ngại sử dụng vũ lực của Bắc Kinh. Không chỉ thông qua những bài báo, ngày 22/6, Thứ trưởng ngoại giao Trung Quốc Trương Chí Quân một lần nữa yêu cầu Mỹ không can dự vào tranh chấp khu vực. “Tốt hơn hết Mỹ nên ngừng can thiệp vào tranh chấp ở Nam Hải (biển Đông), Washington nên để cho các nước liên quan tự giải quyết. Bất kỳ sự tham gia nào của Washington cũng khiến tình hình thêm phức tạp”. Ngoài ra, vị thứ trưởng này tuyên bố Trung Quốc không hề gây hấn trên Biển Đông, họ rất quan tâm đến cái gọi là “hành động khiêu khích” của các bên ở vùng biển tranh chấp. Ông này cho rằng tốt hơn hết Mỹ nên đứng ngoài cuộc đối với những căng thẳng trên Biển Đông trong thời gian gần đây. Cùng với tiết lộ thử nghiệm tàu sân bay vào 1/7 tới , những tuyên bố ngày càng gay gắt từ phía Trung Quốc được cho là sự đáp trả lại việc các học giả quốc tế “chỉnh huấn” quốc gia này tại Hội nghị an ninh hàng hải quốc tế. Những gì Trung Quốc nói, những việc Trung Quốc làm đã trưng cho thế giới thấy bản chất cái mà nước này gọi là “kiềm chế”, “phấn đấu vì hòa bình”. Một loạt động thái mới của Trung Quốc chắc chắn sẽ khiến sự căng thẳng trong khu vực ngày càng trầm trọng. Theo Báo Đất Việt Tin đăng lại1 like
-
Phương pháp uống nước lọc chữa bịnh của người Nhật Qúy vị nên thận trọng và không nên áp dụng phương pháp uống nước lọc này nếu qúy vị ở trong những trường hợp và bịnh sau đây: - Bị mổ tim: Sau khi mổ tim, thường các bịnh nhân đều phải kiêng muối và nước (tính luôn nước từ cả thức ăn và các chất lỏng khác), riêng nước thì hạn chế chỉ được 800 ml đến 1200 ml (khoảng hai chai nuớc suối nhỏ) - Bị thấp áp huyết: Quý vị nên quan sát và kiểm tra áp huyết của mình - Bị xuống đường, bị suy kiệt dinh dưỡng: Khi uống nhiều lượng nước, lượng đường của bạn sẽ xuống thấp thêm, máu sẽ loãng thêm. Xin hãy để ý - Nếu bạn bị các chứng bịnh phải kiêng nước, bạn nên thận trọng. ================================================= Uống nước lọc với bụng đói Phương pháp thông dụng tại Nhật Bản ngày nay là uống nước lọc ngay khi vừa thức dậy vào mỗi buổi sáng. Hơn nữa, những thử nghiệm khoa học đã chứng minh giá trị công dụng của phương pháp nàỵ Chúng tôi xin đăng tải dưới đây cách thức uống nước lọc cho quý đọc giả: Cho các vị lớn tuổi, các bịnh nan y, cũng như các chứng bịnh thông thường, cách chữa bịnh uống nước lọc đã được tìm ra bởi ủy hội y học Nhật Bản với tỷ lệ hoàn toàn một trăm phần trăm đã chữa khỏi các chứng bịnh dưới đây: * Headache: Bịnh nhức đầu * Body ache: Bịnh nhức mỏi, đau mình * heart system: Hệ tim mạch * arthritis: Phong thấp * fast heart beat: Nhịp tim đập nhanh * epilepsy: Bịnh kinh phong * excess: Dư thải * fatness: Bịnh mập, thừa mỡ * bronchitis: Sưng cuống phổi * asthma: Bịnh suyễn * TB: Lao phổi * Meningitis: Sưng màng óc * Kidney and Urine diseases: Bịnh về thận và đường tiểu * vomiting gastritis: Bịnh ói mửa về bao tử * diarrhea: Bịnh tiêu chảy * piles: Bịnh về túi mật * diabetes: Bịnh tiểu đường * constipation: Táo bón * all eye diseases: Các bịnh về mắt * womb cancer: Ung thư tử cung * menstrual disorders: Phụ nữ kinh kỳ rối loạn * ear nose,throat diseases: Bịnh tai, mũi, họng Phưong pháp uống nước lọc chữa bịnh: 1. Khi vừa thức dậy vào buổi sáng trước khi đánh răng, uống bốn ly nước lọc mỗi ly 160ml (tổng cộng 640ml, nhiều vị kinh nghiệm khuyên nên uống nước ấm) 2. Đánh răng xong, không ăn hoặc uống trong vòng 45 phút. 3. Sau 45 phút, bạn có thể ăn uống bình thường. 4. Sau khi ăn sáng, ăn trưa và ăn tối, có thể ăn tráng miệng và các món khác trong vòng 15 phút. Sau đó, trong vòng 2 tiếng không nên ăn uống gì thêm cả. 5. Các vị lớn tuổi hoặc đang mang bịnh không thể uống nổi bốn ly lúc ban đầu, có thể uyển chuyển uống tăng từ từ đến khi được 4 ly mỗi ngàỵ 6. Phương pháp chữa trị trên sẽ chữa lành các bịnh tật và quý vị có thể vui sống khỏe mạnh. Thống kê dưới đây cho biết số ngày cần có để có thể chữa trị các chứng bịnh như sau: 1. Cao áp huyết : 30 ngày 2. Dạ dày : 10 ngày 3. Tiểu đường : 30 ngày 4. Táo bón :10 ngày 5. Ung thư : 180 ngày 6. Lao phổi : 90 ngày Bịnh nhân phong thấp nên theo phương pháp chữa trị trên trong vòng 3 ngày trong tuần lễ đầu tiên và sau đó có thể uống mỗi ngàỵ Phương pháp uống nước lọc chữa bịnh này không bị các phản ứng phụ, tuy nhiên trong buổi khởi sự, bạn có thể sẽ phải đi tiểu nhiều lần hơn bình thường. Lời chào và chúc sức khỏe đến tất cả ...... www.QuanTheAmBoTat.com1 like
-
Quán vắng!
+Achau+ liked a post in a topic by Thiên Sứ
Trung Quốc cảnh báo CHDCND Triều Tiên 24/06/2011 23:56 Yonhap hôm qua dẫn lời một số nghị sĩ thuộc Ủy ban Quốc phòng của Quốc hội Hàn Quốc cho hay Trung Quốc đã cảnh báo CHDCND Triều Tiên không nên có hành động đụng độ với miền Nam. Theo các nghị sĩ này, thông tin trên được Tổng thống Hàn Quốc Lee Myung-bak đưa ra trong một buổi họp hôm 23.6. Ông Lee nói Bắc Kinh đã chính thức thông báo với Bình Nhưỡng và Seoul rằng họ sẽ không can dự nếu xảy ra xung đột do miền Bắc khơi mào trước. Tuy nhiên, không rõ thông báo trên được đưa ra khi nào và Văn phòng Tổng thống Hàn Quốc chưa chính thức xác nhận chuyện này. Trước đó, truyền thông Hàn Quốc dẫn lời Bộ trưởng Quốc phòng Trung Quốc Lương Quang Liệt phát biểu tại Diễn đàn an ninh châu Á - Thái Bình Dương Shangri-La diễn ra tại Singapore hồi đầu tháng rằng: “Chúng tôi đang cố gắng thuyết phục CHDCND Triều Tiên không hành động liều lĩnh”. Lê Loan ========================================= Nhà cái đang chia bài...... Cờ bí thì dí tốt......Cũng chẳng bít thế nào. Trời kêu ai nấy dạ vậy!1 like -
Giáo sư Đài Loan nói về Trung Quốc (ANTĐ) - Tình hình biển Đông nói chung và hải phận Việt Nam trong vùng biển này nói riêng vẫn nóng bỏng vì những hành động uy hiếp răn đe của Trung Quốc. Hành vi hung hăng của Trung Quốc khiến biển Đông nổi sóng Trước phản ứng của quốc tế và của Việt Nam, liệu Bắc Kinh có ngưng thái độ nước lớn cố hữu hay tiếp tục giương nanh vuốt? Ngoài vấn đề chủ quyền và dầu khí trên biển Đông thì còn điều gì tiềm ẩn đằng sau mối đe dọa của Trung Quốc? Chiến lược và âm mưu thâm độc của Bắc Kinh “Trung Quốc lộng hành với Việt Nam là chuyện đã lâu. Gần đây họ ra mặt một cách công khai, dùng chính những tàu của hải quân, được gọi là tàu hải giám, đến can thiệp trong lãnh hải của Việt Nam. Báo chí trong và ngoài nước nói có thể do vấn đề dầu khí mà Trung Quốc đang cần, vấn đề công nghiệp hóa đất nước mà họ bắt buộc phải nắm rất cả những kho dầu khí ở biển Đông. Đó là lý do về kinh tế mà nhiều người nói đến. Nhưng tôi nghĩ đó không phải là lý do chính”. Đó là lời Tiến sĩ Trần Văn Đoàn, Giáo sư Viện Đại học Quốc lập Đài Loan, cũng từng là Giảng viên Đại học Bắc Kinh. Là người am hiểu khá nhiều về Trung Quốc trong tương quan với Đài Loan và các nước nhỏ thuộc khu vực Đông Nam Á, trong đó có Việt Nam, điều Giáo sư Trần Văn Đoàn phân tích và góp ý ở đây là đào sâu khía cạnh tâm lý nước lớn mà Trung Quốc thường chủ trương: “Họ tiếp tục chính sách cũ, gọi là cách nhìn hay tâm lý của Trung Quốc với các nước Đông Nam Á, chiến thuật bành trướng của họ”. Quân đội Trung Quốc ngày càng hung hăng hơn Để thực hiện chính sách bành trướng, Giáo sư Trần Văn Đoàn dẫn giải, Trung Quốc áp dụng ba cách: “Cách thứ nhất là thúc đẩy những người Trung Quốc di dân ra các nước lân cận để lâu dần biến đó thành vệ tinh của Trung Quốc. Cách thứ hai, họ tìm cách lấn từng tấc đất, từng tấc biển. Trong quá khứ, họ đã bành trướng nước Trung Hoa từ vùng Hoàng Hà cho đến giờ vượt ra ngoài Mông Cổ đến Tây Tạng và xuống tận dưới Việt Nam và có thể sẽ đi xa hơn nữa. Bước thứ ba là họ muốn bành trướng theo kiểu kinh tế của người Mỹ. Tức là nếu họ nắm được kinh tế của những nước xung quanh thì họ có thể thống trị đất nước đó. Lấy ví dụ điển hình như Hồng Kông, tất cả thực phẩm, nước uống, điện đều từ Trung Quốc, thành ra bây giờ Trung Quốc nói Hồng Kông phải nghe. Họ cũng từng dùng chiến thuật như vậy với Đài Loan. Kinh tế Đài Loan lệ thuộc gần 34% vào Trung Quốc và tương lai sẽ còn nhiều hơn. Tương tự ở Việt Nam, bây giờ có thể nói kinh tế Việt Nam đã lệ thuộc vào Trung Quốc rất nhiều. Và trong thời gian tới, nếu không để ý, kinh tế của chúng ta sẽ bị Trung Quốc lũng đoạn và lúc đó Việt Nam khó có thể độc lập được”. Về mặt chính trị của Trung Quốc, điểm quan trọng từ đó xuất phát thái độ nước lớn uy hiếp nước nhỏ mà Giáo sư Trần Văn Đoàn vạch ra là nếu trong nước có những vấn đề đặc biệt thì Bắc Kinh sẽ gây hấn với các quốc gia lân cận, dùng ảnh hưởng ở bên ngoài sẽ đàn áp hoặc để giảm nhẹ mức nghiêm trọng ở bên trong: “Lấy ví dụ rất có thể ông Tập Cận Bình được bầu làm Tổng Bí thư vào năm tới. Để có được quyền hành thì phải nắm được quân đội. Chính vì lẽ đó, quân đội đã gây sức ép buộc Tập Cận Bình tăng cường thế lực của họ. Đấy là phương pháp tăng cường hải quân của họ, và để tăng cường hải quân họ bắt buộc phải gây hấn với nước nhỏ để thí nghiệm. Nếu thắng họ sẽ được nhiều tiền hơn, nếu thua họ cũng sẽ được nhiều tiền hơn để đổi mới. Đó là điều Đặng Tiểu Bình đã làm năm 1979 đối với Việt Nam. Khi đó nếu đánh Việt Nam mà thắng thì ông lấy đó để dẹp tan phe cuối cùng của bè lũ bốn tên. Trường hợp thua thì ông vẫn đổ lỗi được cho cách mạng văn hóa đã làm Trung Quốc tê liệt. Dù thắng hay thua ông ta đều thắng cả. Tôi nghĩ lần này ở Biển Đông y hệt như vậy, Tập Cận Bình và các nước Đông Nam Á, hoặc cảnh cáo được cả Nhật Bản nữa, thì uy thế của Trung Quốc rất lớn, nhóm Tập Cận Bình sẽ thành ông vua mới thay thế Hồ Cẩm Đào. Nếu không thắng, ông sẽ nói ở trong nước không có đoàn kết, ông tìm cách dập tan nhóm phản đối để có uy quyền trong tay”. Có hay không cuộc chiến Biển Đông Dưới mắt ông Trần Văn Đoàn, trong vấn đề Biển Đông, mới nhất là hôm 16/6, Trung Quốc đã huy động một tàu tuần tra lớn đến khu vực tranh chấp, trong lúc vẫn cam kết là chỉ muốn duy trì hòa bình và ổn định trong khu vực, thì vấn đề cần được nhìn và được hiểu theo văn hóa của Trung Quốc. Theo ông: “Văn hóa của Trung Quốc là vấn đề đất và nước, làm thế nào để có càng nhiều đất càng nhiều nước, biểu tượng sự giàu có và thành công của Trung Quốc. Thành thử xưa nay họ luôn theo chiến lược tiến hai bước, nếu bị quốc tế cảnh cáo họ sẽ lùi một bước”. Đó cũng là chiến thuật mà Bộ trưởng Quốc phòng Trung Quốc, ông Lương Quang Liệt, sử dụng tại Hội nghị Đối thoại An ninh ở Singapore mới đây. Ông Trần Văn Đoàn cho biết: “Ông Lương Quang Liệt trong bài diễn thuyết tại Singapore đã hai mươi bảy lần nói tới chữ “hòa bình”. Đây chỉ là một bước lùi của Trung Quốc mà thôi. Đó là vấn đề văn hóa bản chất của con người Trung Quốc. Vấn đề thứ hai, trong khi thế giới mới hôm nay chúng ta phải ngồi vào bàn hội nghị để giải quyết mọi vấn đề. Đó là cái nhìn của người phương Tây, cái nhìn khi mà cân bằng lực lượng với nhau. Nhưng khi với một lực lượng quá lớn thì Trung Quốc sẽ không ngồi vào bàn hội nghị, và nếu có thì họ sẽ tìm cách áp đặt. Họ sẽ cùng đàm phán và cùng một lúc lấn đất của người khác. Khi mọi người phản đối, họ có thể lùi một bước. Lùi lại một bước thì họ đã tiến được một bước rồi. Thành thử trong thế giới ngày hôm nay, họ sẽ ngồi vào bàn hội nghị nhưng họ sẽ tìm cách để thắng. Đó là tính cách của Trung Quốc”. Được hỏi về điều này, nhất là câu hỏi Trung Quốc thực sự có tiềm năng nước lớn để uy hiếp lấn chiếm và đe dọa các nước nhỏ xung quanh, nhất là Việt Nam hay không Giáo sư Trần Văn Đoàn nhận định: “Cho rằng Trung Quốc có tiềm năng thì chỉ là bề ngoài thôi. Tôi không nghĩ là Trung Quốc có tiềm năng. Thứ nhất, Trung Quốc phải lo giải quyết vấn đề một tỷ ba trăm triệu dân, trong đó 300-400 triệu người còn đói kém. Cứ tưởng tượng 300-400 triệu người nổi loạn thì Trung Quốc có đủ tiềm năng giải quyết vấn đề đó không. Bây giờ vấn đề quan trọng nhất của Trung Quốc là tìm cách đánh bóng bên ngoài để làm cho những người nghèo đói thỏa mãn tinh thần yêu nước để quên đi tình cảnh nghèo đói của họ. Nhưng đó chỉ nhất thời. Khi điều nhất thời qua đi họ phải trở lại giải quyết cái nghèo và lúc đó là vấn đề nhức đầu của Trung Quốc. Điểm thứ hai, người Trung Quốc rất đoàn kết bên ngoài nhưng thực tế bên trong họ chia rẽ khi nói đến quyền lực, tài sản, đất đai. Đó là điều thường xuyên xảy ra ở Trung Quốc, không giống như châu Âu hay Mỹ. Tôi không sợ tiềm năng của Trung Quốc như bên ngoài thường thổi phồng”. Theo Giáo sư Trần Văn Đoàn, dù được coi là một cường quốc kinh tế trên thế giới, dẫu cố tìm cách bành trướng thế lực quân sự và dương oai diễu võ với lân bang, Trung Quốc thực sự không đáng sợ bởi vấn đề khó khăn phải đeo mang là một tỷ ba trăm triệu dân: “Để giải quyết một tỷ ba trăm triệu dân thì kinh tế của họ ngày nay vẫn còn nghèo và chưa đủ để giải quyết vấn đề đó”. Thế nhưng có một cuộc chiến tranh khác, một cuộc chiến thầm lặng mà Việt Nam và các nước Đông Nam Á cần lưu ý, ông Trần Văn Đoàn kết luận, đó là chiến thuật lấn đất để chen dân vào bên cạnh chiến thuật lũng đoạn kinh tế bằng hàng hóa Trung Quốc. Theo RFA http://www.anninhthu...uoc/404081.antd1 like
-
1 like
-
Xung ca, để muội hạ bút xếp vài chữ với Xung ca. Hi vọng mua vui được vài trống canh EM NHỚ ANH Mưa rớt chiều nay em nhớ anh Bâng khuâng gió thổi lá lìa cành Đêm qua bão đổ cho trăng vỡ Phố xá thưa người, lòng vắng tanh Có lẽ chẳng thèm nhớ nữa đâu Cớ sao làm nắng trốn u sầu Một màu lá úa phôi pha mãi Em vẫn ở đây, anh ở đâu?1 like
-
Động đất 7,4 độ Richter gây cảnh báo sóng thần ở Mỹ VnExpress Thứ sáu, 24/6/2011, 11:53 GMT+7 Một cơn địa chấn có cường độ lên tới 7,4 độ Richter vừa làm rung chuyển chuỗi đảo núi lửa Aleutian, thuộc bang Alaska của Mỹ. Cảnh báo sóng thần đã được đưa ra, nhưng được rút lại sau đó một giờ. AFP dẫn lời Cơ quan Khảo sát Địa chất Mỹ (USGS) cho hay trận động đất xảy ra vào khoảng 18h09 theo giờ địa phương, ở độ sâu khoảng 40 km tại nhóm đảo Fox, nằm trong chuỗi đảo Aleutian. Theo sau cơn địa chấn là hàng loạt dư chấn có cường độ nhỏ hơn. Vòng tròn lớn nhất trên hình mô tả trận động đất cường độ 7,4 độ Richter tại Alaska. Đồ họa: Myforecast Chấn động ghi nhận được lên tới 7,4 độ Richter. Trung tâm Cảnh báo Sóng thần Alaska và bờ biển phía tây (WCATWC) đã phải đưa ra cảnh báo tại các khu vực ven biển từ eo biển Unimak tới eo biển Amchitka. Nếu sóng thần xảy ra, con sóng đầu tiên sẽ tới thành phố Adak thuộc chuỗi đảo Aleutian vào khoảng 20h12, tức là khoảng hơn 2 tiếng sau cơn địa chấn. WCATWC khuyến cáo các cư dân sống ven biển và tại các chuỗi đảo ở xa ngoài khơi cần phải vào đất liền ngay lập tức, để tới các vùng đất cao hơn nhằm tránh nguy cơ sóng thần. "Các ngôi nhà và tòa nhà nhỏ không được thiết kế để chống lại tác động của sóng thần. Đừng ở lại đó vào lúc này", WCATWC cho hay. Thông tin mới nhất từ vùng động đất cho hay WCATWC đã rút lại cảnh báo sóng thần sau một giờ đồng hồ. Diễn biến này phù hợp với nhận định của Trung tâm Cảnh báo Sóng thần Thái Bình Dương ở Hawaii, cho rằng "hiện không có cảnh báo" sau trận động đất xảy ra cách thành phố lớn nhất của bang Alaska là Anchorage khoảng 1.600 km. Hiện chưa có thông tin nào liên quan tới thiệt hại về người và của tại Alaska sau trận động đất, nhưng người dân ở đây tỏ ra hoảng loạn vì chấn động hiếm gặp này. Một người khuân vác có tên Jim Paulin ở cảng Dutch cho biết hàng trăm người đã kéo nhau lên những đồi cao quanh khu vực sinh đống để tránh sóng thần. Phan Lê ====================== Thiên Sứ tui xin nhắc lại lời cảnh báo rằng: Trong năm nay - Tân Mão Việt lịch - sẽ còn ít nhất một trận động đất tương đương hoặc lớn hơn trận động đất ở Nhật Bản vào ngày 11. 3. 2011 vừa qua.1 like
-
Hầu hết các sách Tử-Vi đã phát hành và một số lớn những người biết nhiều về Tử-Vi, thường hướng dẫn những người mới nghiên cứu rằng muốn xét sự hung kiết của Phúc, Mệnh, Thân, Hạn cần xem các cung Tam Hợp, Nhị Hợp, Xung Chiếu, có sách và có vị cẩn thận hơn còn khuyến khích nên xem cả cung cường, cung nhược … Một tổng hợp như vậy có lúc cần mang tính chất trái ngược nhau, qủa đã gây bối rối không ít cho những người mới nghiên cứu hoặc gây chán nản cho người muốn nghiên cứu Tử-Vi. Đó là chưa kể đến hậu quả có thể gây sự nhầm lẫn trong việc giải đóan. Ví dụ : Như có người nghiên cứu cung Mệnh, đã phối trí cung Tài, Quan, Di, rồi khi nghiên cứu cung Tài cho rằng chỉ cần thêm vào tổng hợp trên đặc tính của cung Điền và lọai trừ cung Di là đủ. Thật ra Tam Hợp không hẳn có nghĩa là phải phối hợp lại các đẩu tinh trong ba cung để luận đóan. Người xưa đã có những định luật, khi phối hợp các cung lọai trừ những đẩu tinh ít hoặc không ảnh hưởng đến lá số, những định luật này phần lớn thất truyền, có lẽ một phần do truyền thống “dấu nghề” của người Á-Đông, phần khác do chiến tranh khiến cho các sách quý của ta bị thất lạc, hậu qủa là với lối giải mơ hồ bất định đã đem lại cho người đời mối hoài nghi về Tử-Vi và thậm chí có người xếp khoa Tử-Vi vào thành phần đạo thuật.Trước đây một vị thâm cứu Tử-Vi, cụ Thiên Lương đã tiên phong khai sáng cái đạo lý Tử-vi qua cách giải đóan đại cương lá số bằng các Tam-Hợp, Thái-Tuế, Lộc-Tồn v.v… (đều tập trung vào 2 cuốn Tử-vi Nghiệm Lý và Tử-vi Đẩu số Tòan Thư) giúp cho người nghiên cứu, nhìn qua đã ước định được sự thành bại, hung kiết của đương số, thật bổ ích thay ! Noi gương cụ chúng tôi xin mạo muội trình bày với các bạn một ý kiến về cách thức loại trừ các đẩu tinh khi xét đóan cung Tam-Hợp mà chúng tôi may mắn và tình cờ học được. r Phân định tam-hợp Chúng ta thấy rằng trên Thiên bàn các cung (Tý, Sửu, Dần, Mẹo v.v… ) với các Hành (Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ ) của chúng nằm ở ví trí cố định, thứ tự các biểu tượng liên quan đến lá số (Phụ-Mẫu, Phúc-Đức v.v… ) cũng cố định đối với cả người sinh Dương lẫn sinh Âm và vị trí các biểu tượng này trên Thiên-Bàn hòan tòan tùy thuộc vào vị trí của Mệnh. Phân định các cung và các biểu tượng của lá số thành Tam-Hợp, ta có : Phần A : a)- Thân-Tý-Thìn B)- Tỵ-Dậu-Sửu c)- Hợi-Mão-Mùi d)- Dần-Ngọ-Tuất Phần B : 1/- Mệnh-Tài-Quan 2/- Phụ-Tử-Nô 3/- Phúc-Phối-Di 4/- Điền-Bào-Ách. Luận về Sinh-Khắc của Hành Xét ngũ hành Kim, Thủy, Mộc, Hỏa, Thổ ta thấy những hành liền nhau là Sinh, những hành cách khỏang nhau là Khắc. Vậy thì Sinh là liền nhau có tác dụng mạnh lên nhau, còn Khắc là gián đọan, có tác dụng xô đẩy và xa rời : khảo sát các hiện tượng vật lý cũng cho phép ta kết luận tương tự. Hơn nữa khoa Tử-Vi tuy được xem là một khoa học, nhưng chắc chắn căn bản dựa trên phước thiện của kiếp người, cổ nhân đã có câu “Nhân chi sơ, tính bổn thiện” cái Khắc chỉ do người tạo ra hoặc là từ kiếp này hay kiếp khác, và nó chẳng qua chỉ là cái “Quả” của một cái “Nhân” Sinh mà ra. Do đó chúng tôi cho rằng Sinh là nguồn gốc, là căn bản đến với mình và Khắc là phụ, xuất hiện từ cái Sinh. Vì vậy, tại ngay đây chúng tôi xin phép mở một ngoặc, để trả lời khi các bạn thắc mắc cho rằng Khắc cũng có ảnh hưởng, cũng có Khắc nhập, Khắc xuất v.v… trường hợp này chỉ là khi ta đi vào chi tiết tức là xét Hành của các tinh đẩu hoặc Hành chung của một Tam-hợp như Thái-Tuế chẵng hạn, để xem chúng có chung đụng với nhau được hay không mà thôi. Đây, ta chỉ xét các Hành nguyên thủy, mục đích tìm chiều vận hành của các cung để xem trong một Tam-Hợp, cung nào chịu ảnh hưởng cung nào, thứ tự ảnh hưởng và ảnh hưởng ra sao. Trở lại đọan a – của Phần A Xét Hành các cung Tam-Hợp, ta thấy : 1. Thìn (Thổ) sinh Thân (Kim) sinh Tý (Thủy) 2. Tỵ (Hỏa) sinh Sửu (Thổ) sinh Dậu (Kim) 3. Dần (Môc) sinh Ngọ (Hỏa) sinh Tuất (Thổ) 4. Hợi (Thủy) sinh Mão (Mộc) khắc Mùi (Thổ) Thứ tự trên cho phép ta kết luận rằng Nếu Mệnh và 11 biểu tượng khác của nó nằm trong 3 Tam-Hợp đầu, các biểu tượng sẽ chịu ảnh hưởng nhau và thứ tự ảnh hưởng hay chiều tác dụng sẽ được chúng tôi trình bày ở phần dưới với thí dụ cụ thể (xem 4 trường hợp nêu ở dưới). Nếu các biểu tượng này lọt vào Tam hợp thứ 4 , ta thấy ngay chỉ có biểu tượng nằm tại Hợi và Mão chịu ảnh hưởng nhau, còn Hợi và Mùi, Mão và Mùi đều bị gián đọan và độc lập. Chiều tác dụng Sự Sinh-Khắc của các Hành vận chuyển theo một chiều nhất định và không có chiều ngược lại. Khi ta nói ảnh hưởng nhau, chỉ vì ta đã giải thích theo khoa học rằng “cung Sinh” thì bị hao hụt, cung “được Sinh” thì được bồi đắp và trong sự hao hụt hay bồi đắp này đều bao gồm cả cái tốt lẫn cái xấu, tùy theo đặc tính của từng đẩu tinh. Tóm lại, hành thuận theo chiều Sinh có tác dụng. Hành đi ngược chiều Sinh ít tác dụng. Hành Khắc chiều Sinh không có tác dụng. * Ví dụ : Tam-hợp Thân-Tý-Thìn – Khi xét hung, kiết của cung Thân, ta chú trọng nhiều đến Thìn và Thân, riêng đối với cung Tý (Thủy) được cung Thân (Kim) sinh, ta giảm cường độ các Đẩu tinh tại Thân trước khi tổng hợp với đặc tính và cường độ của Đẩu tinh nơi cung Thìn chiếu nhập vào mà khỏi cần để ý đến tính chất của Đẩu tinh nơi cung Tý. – Nếu xét đến cung Thìn, ta chỉ cần giảm cường độ của Đẩu tinh cư tại cung này (vì đã xuất chiếu cho Thân) không cần đếm xỉa đến tính chất của các Đẩu tinh tại cung Tý và Thân (vì khắc và nghịch chiều) – Xét đến cung Tý, chỉ để ý đến đặc tính và cường độ, của Đẩu tinh tại cung này, và của cung Thân chiếu xuống, cung Thìn thì không kể đến. Kết luận : Mệnh chỉ vận hành trên 12 cung Thiên Bàn, các bạn có thể dựa trên đặc tính Sinh-Khắc, của 4 Tam-Hợp mà chúng tôi vừa kể để lập thành một bản vị trí tương ứng của các biểu tượng, của Mệnh đối với các cung Thiên Bàn, để lọai bớt sự phức tạp khi cần xét một Tam-hợp. Về cách thức giải đóan Tam-hợp như trên, chúng tôi có theo dõi một số trường hợp của người nhà trong nhiều năm nay, cũng xin nêu lên làm điển hình để các bạn nghiên cứu. 1-Trường hợp 1 : Người này tuổi Mậu Dần, có Mệnh đóng tại Sửu, chiều Sinh đi từ Quan đến Mệnh đến Tài, từ Điền đến Ách đến Huynh, từ Phụ đến Nô đến Tử, từ Thê đến Phúc. Phúc gián đọan Di, Di gián đọan Thê. Trên thực tế, người này nhờ có chức Trưởng mà được thảnh thơi, có một thời gian nghỉ dài hạn vì suy sụp tiền của, không phải vì làm quan mà có, tiền của người ấy phần nhiều là do cha mẹ để lại, và trúng số mà có. Các sự rắc rối và tai họa, thường do chuyện nhà đất mà nên. Tuy nhiên, khi gặp rắc rối, anh em trong nhà đều phụ giúp, gánh đỡ. Ngược lại, không bao giờ vì anh em mà gặp tai ương, và cũng không vì tai ương mà sản nghiệp bị ảnh hưởng. Bạn bè (Nô) thường đến nhà ông bà cụ và con cái của người này được nhờ bạn bè giúp đỡ. Trái lại, các cháu nội cũng không nhờ được ông bà nội và bạn bè cũng không giúp đỡ gì được, ông bà cụ, dù rằng ăn ở trong nhà. Cung Phúc-Đức của người này tốt, nhưng khi ra ngòai, (Di) lại không hưởng được và khi ra ngòai chẳng làm hại mà cũng không làm lợi cho vợ con (người này có Thân cư Phúc-Đức tại Mão) 2-Trường hợp 2 : Người này cũng tuổi Dần, có Mệnh đóng tại cung Mùi, cũng là người có chức Trưởng, kiếm được tiền nhờ ảnh hưởng chức vụ, nhưng Mệnh lại không được hưởng, thường bị mất cắp, hoặc bạn bè, người dưới lường gạt …, vì Mệnh bị gián đọan với Tài ở Mão, và Quan ở Hợi. Đối với Ách Huynh, Điền (Thuận chiều Sinh) người này nhờ anh em gánh chịu hết tai ương, và nhờ anh em mà tậu được nhà cửa; ngược lại không bao giờ gặp rắc rối vì việc nhà cửa. Đối với Thê, Di, Phúc (Thuận chiều Sinh) thường xa nhà vì Thê có sao khắc với đương số và khi ra ngòai thường gặp qúy nhân và được giúp đỡ, hưởng phúc. Đối với Tử, Phụ, Nô (Thuận chiều Sinh) con cái người này hiện ở với ông bà nội (cha mẹ của đương số) và ông bà cụ đã giúp đỡ cho bạn bè người này rất nhiều … 3-Trường hợp 3 : Người này tuổi Qúy Dậu, có Mệnh đóng tại Tý, hiện có chức sắc và nhờ đó làm ra tiền của, luôn luôn lo nghĩ về tiền bạc. Nghịch chiều lại, tiền bạc không giúp cho địa vị của người này được thăng tiến và người này cũng không mấy vui thú với chức vị hiện tại của mình, lúc nào cũng nghĩ đến việc thóai vị để đổi sang nghề khác. Đối với Nô, Phụ, Tử vì ở xa nên thường nhờ bạn bè giúp đỡ cha mẹ và hiện tại ông bà cụ săn sóc các cháu nội, nhưng ngược lại bạn bè của người này thì ít, vì người này mà săn sóc con cái cho ông khi ông ở xa. Đối với Phúc, Di, Thê người này càng đi ra ngòai, càng được nhiều người coi trọng, nhờ đó giúp cho vợ được nhiều lợi lộc (!?). Đối với Huynh, Điền, Ách, người này cũng nhờ anh em mà có đất đai, nhưng các rắc rối trên đường đời lại chẳng có liên hệ gì đền sản nghiệp hoặc anh em. 4-Trường hợp 4 : Người này tuổi Qúy Mùi, có Mệnh đóng tại Dậu, cũng là người có quyền chức, đặc biệt cung Tài Bạch rất tốt. Trên thực tế lại không được hưởng tiền của, mà phải sử dụng vào việc giữ vững địa vị của mình. Đối với Ách, Bào, Điền, anh em thường gánh chịu tai họa và cũng anh em phá tán sản nghiệp. Đối với Thê, Phúc, Di, vì có cung Phúc-Đức xấu nên mỗi lần đi ra ngòai là gặp chuyện không vừa lòng. Tuy nhiên, Thê cũng không chịu ảnh hưởng của Di và Phúc, bởi vì vợ của người này luôn luôn gặp may mắn (tôi cũng có nghiên cứu lá số của bà vợ và thấy cung Mệnh và cung Phúc Đức rất tốt). Đối với Nô, Tử, Phụ, con cái được bạn bè giúp đỡ và hiện giờ hai vợ chồng đi làm; con cái do ông bà ngọai nuôi giữ. Trên đây là những trường hợp có thật, tôi cũng đã phối kiểm một số khá nhiều lá số của người nhà và xin tạm ngừng dành cho các bạn thích nghiên cứu, tự phối kiểm lấy các lá số của người thân để có một ý niệm chính xác hơn trong việc luận đóan./. (KHBB)1 like
-
Bằng chứng lịch sử chủ quyền của Việt Nam ở Hoàng Sa, Trường Sa Tác giả: Nguyễn Quang Ngọc Bài đã được xuất bản.: 1 giờ trước Cuốn sách xưa nhất và ghi chép khá đầy đủ và cụ thể về các đội Hoàng Sa, Bắc Hải là Phủ biên tạp lục của nhà bác học Lê Quý Đôn viết vào năm 1776. Việt Nam có bờ biển dài, với vùng biển rộng. Biển và đảo suốt tiến trình lịch sử luôn luôn giữ vị trí trọng yếu trong đời sống kinh tế, chính trị, xã hội của đất nước. Từ thời kỳ tiền sử cho đến ngày nay, con người ở các vùng nội địa Việt Nam liên tục tiến ra chiếm lĩnh, khai phá, sinh cơ lập nghiệp trên các đảo, quần đảo. Bắt đầu từ các thời Lý - Trần - Lê, Biển Đông đã trở thành chiến lược phát triển của quốc gia Đại Việt. Con đường mở mang bờ cõi xuống phía nam của dân tộc Việt Nam cũng đồng thời là con đường tiến ra chiếm lĩnh biển, đảo. Đây chính là cơ sở hết sức quan trọng, một bước chuẩn bị thiết yếu để trong bối cảnh lịch sử mới, các chính quyền Đàng Trong đã thực hiện được kỳ tích tuyệt vời là xác lập và thực thi chủ quyền ở Hoàng Sa và Trường Sa. 1. TỔ CHỨC CÁC ĐỘI HOÀNG SA VÀ BẮC HẢI, HÌNH THỨC ĐỘC ĐÁO DUY NHẤT CỦA QUÁ TRÌNH XÁC LẬP VÀ THỰC THI CHỦ QUYỀN TRÊN CÁC VÙNG QUẦN ĐẢO NGOÀI BIỂN ĐÔNG TRONG CÁC THẾ KỶ XVII-XVIII Cuốn sách xưa nhất và ghi chép khá đầy đủ và cụ thể về các đội Hoàng Sa, Bắc Hải là Phủ biên tạp lụccủa nhà bác học Lê Quý Đôn viết vào năm 1776. Sách chép: "Phủ Quảng Ngãi ở ngoài cửa biển xã An Vĩnh huyện Bình Sơn có núi gọi là Cù Lao Ré...; phía ngoài nữa lại có đảo Đại Trường Sa, trước kia có nhiều hải vật và những hoá vật của tàu, lập đội Hoàng Sa để lấy, đi 3 ngày 3 đêm thì mới đến, là chỗ gần xứ Bắc Hải.... Trước họ Nguyễn đặt đội Hoàng Sa 70 suất, lấy người xã An Vĩnh sung vào, cắt phiên mỗi năm cứ tháng 2 nhận giấy sai đi, mang lương đủ ăn 6 tháng, đi bằng 5 chiếc thuyền câu nhỏ, ra biển 3 ngày 3 đêm thì đến đảo ấy. Ở đây tha hồ bắt chim bắt cá mà ăn. Lấy được hoá vật của tàu, như là gươm, ngựa, hoa bạc, tiền bạc, hòn bạc, đồ đồng, khối thiếc, khối chì, súng, ngà voi, sáp ong, đồ sứ, đồ chiên, cùng là kiếm lượm vỏ đồi mồi, vỏ hải ba, hải sâm, hột ốc vân rất nhiều. Đến kỳ tháng 8 thì về, vào cửa Eo, đến thành Phú Xuân để nộp, cân và định hạng xong, mới cho đem bán riêng các thứ ốc vân, hải ba, hải sâm, rồi lĩnh bằng trở về... Họ Nguyễn lại đặt đội Bắc Hải, không định bao nhiêu suất, hoặc người thôn Tứ Chính ở Bình Thuận, hoặc người xã Cảnh Dương, ai tình nguyện đi thì cấp giấy sai đi, miễn cho tiền sưu cùng các tiền tuần đò, cho đi thuyền câu nhỏ ra các xứ Bắc Hải, cù lao Côn Lôn và các đảo ở Hà Tiên tìm lượm vật của tàu và các thứ đồi mồi, hải ba, bào ngư, hải sâm, cũng sai cai đội Hoàng Sa kiêm quản... Tôi đã từng thấy một đạo công văn của quan chính đường huyện Văn Xương Quỳnh Châu gửi cho Thuận Hoá nói rằng: năm Kiền Long thứ 18 (1753) có 10 tên quân nhân xã An Vĩnh đội Cát Liềm (Cát Vàng?) huyện Chương Nghĩa phủ Quảng Ngãi nước An Nam ngày tháng 7 đến Vạn Lý Trường Sa tìm kiếm các thứ, có 8 tên lên bờ tìm kiếm, chỉ để 2 tên giữ thuyền, bị gió đứt dây thuyền, giạt vào Thanh Lan cảng, quan ở đấy xét thực, đưa trả về nguyên quán. Nguyễn Phúc Chu (Nguyễn Phúc Khoát?) sai cai bạ Thuận Hoá là Thức Lượng hầu làm thư trả lời" [1]. Như vậy, thông qua một hệ thống các tư liệu gốc, khách quan, xác thực và có giá trị sử liệu cao, Lê Quý Đôn đã giớí thiệu tương đối đầy đủ vị trí, đặc điểm tự nhiên của Hoàng Sa, Trường Sa, cũng như cơ cấu tổ chức, chức năng và hoạt động của hai đội Hoàng Sa, Bắc Hải. Đại Việt sử ký tục biên (1676-1789) là bộ chính sử do Quốc sử viện thời Lê Trịnh biên soạn, trong đó đoạn ghi chép về Hoàng Sa, Trường Sa trên căn bản không khác ghi chép của Lê Quý Đôn. Ý nghĩa củaĐại Việt sử ký tục biên chính là nó đã biến ghi chép khoa học, khách quan của Lê Quý Đôn thành một nội dung của bộ Quốc sử, chuyển tinh thần cơ bản của bản chép tay của Lê Quý Đôn thành bản khắc in chính thức trên danh nghĩa quốc gia. Đại Nam thực lục Tiền biên là phần đầu bộ chính sử của triều Nguyễn được khởi soạn năm 1821, hoàn thành và khắc in năm 1844, có đoạn mô tả Vạn Lý Trường Sa và các đội Hoàng Sa, Bắc Hải không khácPhủ Biên tạp lục và Đại Việt sử ký tục biên. Toản tập An Nam lộ của Đỗ Bá Công Đạo soạn năm 1686, phần bản đồ phủ Thăng Hoa và phủ Quảng Ngãi phía ngoài biển có vẽ Bãi Cát Vàng và ghi chú rõ mỗi năm đến tháng cuối đông Chúa Nguyễn đưa 18 chiếc thuyền đến đó nhặt vàng bạc. Khoảng một thập kỷ sau, vị Hoà thượng Trung Quốc Thích Đại Sán sau khi sang Đàng Trong, trên đường trở về nước đã mô tả khá chi tiết về bãi cát Vạn Lý Trường Sa và cho biết: "các Quốc vương [Chúa Nguyễn] thời trước hàng năm sai thuyền đánh cá đi dọc theo các bãi cát, lượm vàng bạc khí cụ của các thuyền hư hỏng dạt vào"[2]. Thật ra từ thế kỷ XVI trở về trước, các nhà hằng hải phương Tây đã có nhiều ghi chép và bản đồ xác định vùng quần đảo giữa Biển Đông là Baixos de Chapar (Bãi đá ngầm Chămpa) hay Pulo Capaa (Đảo của Chămpa)[3] và đoạn bờ biển tương đương với khu vực từ cửa biển Đại Chiêm (Quảng Nam) đến cửa biển Sa Kỳ (Quảng Ngãi) được gọi là Costa da Pracel (Bờ biển Hoàng Sa)[4]. Như thế từ rất lâu đời các nhà hằng hải phương Tây đã coi các quần đảo giữa Biển Đông có quan hệ hữu cơ với vùng bờ biển Đàng Trong. Bước sang thế kỷ XVII, số lượng tầu thuyền của người phương Tây đi đến vùng biển này thường xuyên hơn và nhận thức của họ về các quần đảo giữa Biển Đông cũng phong phú và chính xác hơn. Nhiều tư liệu chép đến các vụ đắm tầu ở Paracel được người Đàng Trong ra tận nơi cứu hộ rồi đưa các nạn nhân về Quảng Nam. Chính quyền Đàng Trong đã dành cho mình quyền giải quyết hậu quả và xử lý các hàng hoá tiền bạc trên các tầu bị đắm ở Hoàng Sa. Chính vì thế mà vào năm 1701, các giáo sĩ người Pháp trên tầu Amphitrite khẳng định: "Paracel là một quần đảo thuộc về vương quốc An Nam"[5]. Như thế các tư liệu đương đại của cả Việt Nam, Trung Quốc và phương Tây thế kỷ XVII đều chép rất cụ thể, rõ ràng và thống nhất về sự hiện diện của đội Hoàng Sa. Tuy nhiên cũng cần phải xác định rõ trong thế kỷ XVII, đội Hoàng Sa được đề cập đến sớm nhất vào thời điểm nào và trong nguồn sử liệu nào? Sử sách nhà Nguyễn đều chép thống nhất đội Hoàng Sa được tổ chức ngay từ thuở quốc sơ,tức là từ thời các Chúa Nguyễn đầu tiên. Tuy nhiên sách cũng không xác định rõ là Nguyễn Hoàng hay Nguyễn Phúc Nguyên hoặc Nguyễn Phúc Lan...? Tại nhà thờ họ Võ, phường An Vĩnh (thôn Tây xã Lý Vĩnh, huyện Lý Sơn, tỉnh Quảng Ngãi) còn giữ được tờ đơn đề ngày 15/Giêng/1775, do Hà Liễu là Cai hợp phường Cù Lao Ré xã An Vĩnh đứng tên xin chấn chỉnh lại đội Hoàng Sa. Đơn cho biết: "Nguyên xã chúng tôi xưa có hai đội Hoàng Sa và Quế Hương. Vào năm Tân Mùi (1631), Đốc chiến là Võ Hệ đã đệ đơn xin tâu được lập hai đội nữa là đội Đại Mạo Hải Ba và đội Quế Hương Hàm với số đinh 30 người...". Tư liệu cho phép suy đoán lúc đầu chúa Nguyễn chỉ cho tổ chức một đội Hoàng Sa 70 suất, sau lập thêm đội Quế Hương và đến năm 1631 lại có thêm hai đội Đại Mạo Hải Ba và Quế Hương Hàm 30 suất nữa.Năm 1636, nguời Hà Lan đã đuợc phép mở một thuơng điếm ở Hội An, dưới quyền điều hành của Abraham Duijcker. Ngày 6-3, tại Hội An chúa Thượng Nguyễn Phúc Lan đã tiếp Duijcker và nhân đó, Duijcker khiếu nại việc "chiếc tàu mang tên Grootenbroeck bị đắm ở ngoài khơi bãi cát Paracels, đoàn thuỷ thủ đã được các người Việt xứ Đàng Trong cứu giúp, nhưng đồng thời cũng lấy đi tổng số tiền là 25.580 réaux". Ông có nhiệm vụ xin được bồi hoàn số tiền đó. Chúa Nguyễn Phúc Lan cho rằng "những việc đó đã được xảy ra từ thời chúa trước (tức chúa Sãi Nguyễn Phúc Nguyên), không nên đề cập đến nữa, ngược lại, người Hà Lan từ nay sẽ được hoàn toàn tự do mang hàng hoá đến buôn bán, được miễn thuế, vả lại, sau này nếu có tàu Hà Lan bị đắm ở ngoài khơi thì sẽ không có chuyện tịch thu hàng hoá được cứu hộ nữa". Phải chăng những người Việt cứu giúp tầu Grootenbroeck bị đắm ở Hoàng Sa nói trên chính là người của đội Hoàng Sa, và như vậy càng có cơ sở để khẳng định đội Hoàng Sa chí ít đã xuất hiện từ đầu những năm 30 của thế kỷ XVII, dưới thời chúa Nguyễn Phúc Nguyên (1613-1635). Bước sang thế kỷ XVIII, hoạt động chủ quyền của chúa Nguyễn ở các vùng quần đảo giữa biển Đông càng trở nên nhộn nhịp thu hút sự chú ý nhiều người trong nước và nước ngoài. Tư liệu về chủ quyền của Việt Nam ở Hoàng Sa và Trường Sa, bên cạnh các tài liệu chính thức của nhà nước, của các địa phương còn có những ghi chép của các thương nhân, giáo sĩ, các nhà quân sự, các phái bộ ngoại giao nước ngoài và các học giả trong ngoài và nước. Cũng đúng vào năm 1776 khi Lê Quý Đôn viết sách Phủ biên tạp lục khảo tả rất cụ thể về vị trí, đặc điểm tự nhiên của Hoàng Sa, cũng như cơ cấu tổ chức, chức năng và hoạt động của đội Hoàng Sa, thì ở quê hương của đội Hoàng Sa, dân phường Cù Lao Ré làm đơn nói rõ đội Hoàng Sa đã có lịch sử lâu đời và bên cạnh chức năng thu lượm hoá vật, hải vật còn có nhiệm vụ chiến đấu bảo vệ an toàn vùng biển đảo: "Nguyên xã chúng tôi từ xưa đã có hai đội Hoàng Sa và Quế Hương... Bây giờ chúng tôi lập hai đội Hoàng Sa và Quế Hương như cũ gồm dân ngoại tịch, được bao nhiêu xin làm sổ sách dâng nạp, vượt thuyền ra các đảo, cù lao ngoài biển tìm nhặt các vật hạng đồng thiếc, hải ba, đồi mồi được bao nhiêu dâng nạp. Nếu như có tờ truyền báo xảy ra chinh chiến, chúng tôi xin vững lòng ứng chiến với kẻ xâm phạm. Xong việc rồi chúng tôi lại xin tờ sai ra tìm báu vật cùng thuế quan đem phụng nạp..."[6]. Không chỉ thống nhất với các nguồn tư liệu chính thức của Nhà nước mà nguồn tư liệu này còn gắn liền với các di tích và truyền thuyết ở địa phương như miếu Hoàng Sa, những bến bãi đội Hoàng Sa xuất phát, thậm chí cả những ngôi mộ giả, những nghĩa địa giả với những nghi lễ hết sức đặc biệt của làng quê đưa tiễn những người con quả cảm của mình đi làm nhiệm vụ ở Hoàng Sa, Trường Sa, nguyện dấn thân vào cõi chết vì một vùng biển đảo thiêng liêng của Tổ quốc: "Hoàng Sa đi có về không; Lệnh vua sai phái quyết lòng ra đi". Nguồn: Báo Giác Ngộ 2. TRIỂN KHAI HÀNG LOẠT CÁC HÌNH THỨC THỰC THI CHỦ QUYỀN Ở CẢ HOÀNG SA VÀ TRƯỜNG SA TRONG GẦN TRỌN THẾ KỶ XIX Dưới thời Nguyễn, những ghi chép về Hoàng Sa, Trường Sa phong phú, đa dạng với nhiều thông tin cụ thể trên cả hai khu vực tài liệu chính thức của vương triều và tài liệu của các học giả.Bộ sách đồ sộ và có nhiều thông tin hơn cả về Hoàng Sa, Trường Sa là bộ Đại Nam thực lục Chính biên. Trong hai thập kỷ đầu thế kỷ XIX, vua Gia Long đã nhiều lần quan tâm đến việc kiểm tra, kiểm soát Hoàng Sa được sách ghi lại như: "sai mộ dân ngoại tịch lập làm đôi Hoàng Sa" năm 1803; "sai đội Hoàng Sa là bọn Phạm Quang Ảnh ra đảo Hoàng Sa thăm dò đường biển" năm 1815 và năm 1816; nhận địa đồ đảo Hoàng Sa từ thuyền Mã Cao năm 1817... Nhưng hoạt động thực thi chủ quyền ở Hoàng Sa, Trường Sa của Việt Nam đã phát triển lên trình độ cao hơn dưới thời trị vì của vua Minh Mệnh. Năm 1833, ông lập kế hoạch phái người ra Hoàng Sa dựng miếu, lập bia và trồng cây. Các năm 1834, 1835, ông cho người ra dựng miếu, đền thờ thần, lập bia đá và xây bình phong ở khu vực toà miếu cổ. Năm 1836, ông quyết định hàng năm phái người ra Hoàng Sa xem xét, đo vẽ tỉ mỉ và lập thành bản đồ các đảo, hòn, bãi cát. Khi ra đo đạc ngoài Hoàng Sa đội thuỷ quân Phạm Hữu Nhật đã mang theo 10 bài gỗ, trên mặt khắc dòng chữ "Minh Mệnh thứ 17, năm Bính Thân, thuỷ quân chánh đội trưởng suất đội Phạm Hữu Nhật, vâng mệnh đi Hoàng Sa trông nom đo đạc đến đây lưu dấu để ghi nhớ". Liên tục từ năm 1834 đến năm 1839 vua Minh Mệnh thưởng công cho những người đi vẽ bản đồ ở ngoài đảo Hoàng Sa về. Đối với những người không may gặp gió bão ngoài biển mà bảo toàn tính mạng trở về cũng có thưởng; còn những người không hoàn thành nhiệm vụ tuần phòng ngoài biển thì bị phạt nặng...Bên cạnh Đại Nam thực lục Chính biên, dưới thời Minh Mệnh, Quốc sử quán còn được giao nhiệm vụ biên soan bộ Minh Mệnh chính yếu, trong đó quyển 25 có chép nhiều vụ tầu đắm ở ngoài Biển Đông, trôi dạt vào bờ đã được cứu giúp chu đáo. Chẳng hạn vào năm 1836 thuyền buôn nước Anh gặp gió bão ở Hoàng Sa, tạm ghé vào hải phận tỉnh Bình Định, đã được nhà vua "sai quan tỉnh tuyên cáo chỉ dụ của triều đình cho họ nghe, đồng thời mở cuộc phát chẩn...". Điều này không chỉ nói lên lòng nhân đạo cao cả của người Việt, mà quan trọng hơn chính là nghĩa vụ, trách nhiệm cứu hộ trên biển của Nhà nước và cư dân Việt Nam với tư cách là chủ nhân của vùng biển đảo này.Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ là bộ sách do triều thần nhà Nguyễn vâng mệnh vua ghi chép những việc làm của triều đình thuộc lục bộ về điển chương, pháp luật.... được hoàn thành trong khoảng thời gian từ năm 1843 đến năm 1851. Trong sách có đoạn chép về việc lập miếu, dựng bia, trồng cây ở Hoàng Sa và khảo sát, đo vẽ bản đồ toàn bộ khu vực, về cơ bản không khác so với Đại Nam thực lục Chính biên. Quốc triều chính biên toát yếu là bộ sử trích các phần quan yếu của Đại Nam thực lục Chính biên, trong đó quyển III có các đoạn chép về việc xây miếu và dựng bia, đo vẽ bản đồ và việc cứu hộ tầu Anh bị mắc cạn ghé vào bãi biển Bình Định. Lịch triều hiến chương loại chí của Phan Huy Chú là bộ bách khoa thư lớn nhất của thế kỷ XIX, được hoàn thành vào năm 1821 có phần Dư địa chí chép về bãi Hoàng Sa và đội Hoàng Sa cũng giống như Phủ biên tạp lục. Việt sử cương giám khảo lược là bộ sách địa lý lịch sử của Nguyễn Thông chép về Vạn Lý Trường Sa ngoài những đặc điểm địa lý, tự nhiên và dấu tích của người Việt Nam trên đảo Hoàng Sa, ông còn nói khá cụ thể về đội Hoàng Sa như việc tuyển đinh tráng các xã An Vĩnh, An Hải, thời gian tồn tại của đội Hoàng Sa... Đại Nam nhất thống chí do Quốc sử quán thời Tự Đức biên soạn từ năm 1865 đến năm 1882. Hoàng Sa, Trường Sa được giới thiệu trong quyển 8 (tỉnh Quảng Ngãi) phỏng theo Phủ biên tạp lục và những tư liệu tập hợp được trong Đại Nam thực lục. Riêng đoạn cuối sách cung cấp thêm: "Năm Minh Mệnh thứ 16, sai thuyền công chở gạch đá đến đây xây đền, dựng bia đá ở phía tả đền để ghi dấu và tra hột các thứ cây ở ba mặt tả hữu và sau. Binh phu đắp nền miếu đào được lá đồng và gang sắt có đến hơn 2000 cân".Nhiều công trình chuyên khảo hay những ghi chép khách quan của các quan chức, học giả đương thời khác cũng cung cấp thêm những thông tin có giá trị. Sử học bị khảo của Đặng Xuân Bảng cũng chép "đảo Hoàng Sa (ở giữa bể, thuộc huyện Bình Sơn (Quảng Ngãi), dài rộng vài nghìn dặm). "Bài thơ Vọng kiến Vạn Lý Trường Sa của Lý Văn Phức có một đoạn chú dài viết khá cụ thể về khu vực biển đảo mà chính tác giả suýt mắc nạn. Theo nguồn tài liệu này thì ngay từ đầu thế kỷ XIX, nhà Nguyễn đã từng thuê các thuỷ thủ dày dạn kinh nghiệm và các phương tiện kỹ thuật hiện đại của phương Tây trực tiếp dẫn dắt một số con thuyền vượt Biển Đông. Điều này cũng góp phần giải thích bản đồ khu vực biển đảo của Việt Nam tuy vẫn giữ phong cách vẽ truyền thống, nhưng đã sớm cập nhật những thông tin mới và độ chính xác cao của bản đồ hằng hải các nước phương Tây đương đại. Cũng thuộc nguồn tài liệu thư tịch và có giá trị cao để khẳng định quá trình các Nhà nước Việt Nam dưới thời Nguyễn thực thi chủ quyền của mình ở Hoàng Sa và Trường Sa là các Châu bản triều Nguyễn. Qua nghiên cứu khảo sát 144 tập của hai triều Minh Mệnh và Thiệu Trị, chúng tôi tìm ra được một số tư liệu là bằng chứng rõ ràng về quá trình thực thi chủ quyền của các nhà nước phong kiến Việt Nam ở hai quần đảo này như bản dụ của vua Minh Mệnh (13/7/1835 và 13/7/1837) về các đoàn đi công vụ ở Hoàng Sa; các bản tấu của Thủ ngự Đà Nẵng về việc thuyền của Pháp mắc cạn ở Hoàng Sa (21/6/1830); các bản tấu của Bộ Công về việc phạt những người đi Hoàng Sa không lập xong bản đồ (13/7/1837), về việc phái đoàn công vụ lên đường ra Hoàng Sa nhưng do gặp gió lớn mà không xuất phát được... Đặc biệt có tờ tấu của Bộ Công (21/6 /1838) cho biết đoàn khảo sát Hoàng sa trở về báo cáo đã đến được 25 đảo (trong 3 sở), còn 1 sở hơi xa lại gặp gió lớn nên chưa tới được... Dưới thời Nguyễn bên cạnh việc triển khai đo vẽ thực tế ở Hoàng Sa, Trường Sa là việc nhà nước cho hoàn thành nhiều bộ bản đồ quan trọng, trong đó tiêu biểu nhất là Đại Nam nhất thống toàn đồ hoàn thành trong khoảng từ năm 1838 đến năm 1840 dưới thời vua Minh Mệnh. Quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa trong bản đồ được vẽ chung thành một cụm hình lưỡi dao kéo dài gồm khoảng ba chục đảo lớn, trong đó Hoàng Sa ở phía cực bắc được nối liền với Vạn Lý Trường Sa (tức Trường Sa) ở phía nam trong một chuỗi các đảo chưa có dấu hiệu phân tách. Thật ra vào năm 1830 cũng đã xuất hiện tấm Bản đồ vẽ theo phong cách này, nhưng đang còn ở dạng bản thảo và sau này thời Thiệu Trị có Đại Nam toàn đồ, dưới thời Tự Đức có Đại Nam nhất thống toàn đồ (Nam Bắc kỳ hội đồ) là sự tiếp nối của phong cách vẽ bản đồ hiện đại.Xuất hiện trước và sau Đại Nam nhất thống toàn đồ có khá nhiều bản đồ khác vẽ Hoàng Sa, Trường Sa vẫn theo phương pháp tryền thống như Nam Việt bản đồ, Thiên tải nhàn đàm, An Nam dư địa chí, Khải đồng thuyết ước, Nam Việt địa dư trích lục, Nam Việt địa đồ cựu lục... Các bản đồ này tuy không cung cấp thông tin mới, nhưng lại xác nhận một thực tế là suốt trong thế kỷ XIX, Hoàng Sa, Trường Sa đã được đưa vào sách giáo khoa dạy cho học sinh hay dùng làm sách phổ biến kiến thức để mọi người dân Việt Nam ghi nhớ phần lãnh thổ không thể tách rời của nước Việt Nam thống nhất. Ngay từ khi mới bắt đầu thiết lập Vương triều, Nguyễn Ánh tiếp tục công cuộc thám sát và phòng thủ biển nhằm củng cố chính quyền. Một người Pháp trở thành một đại thần trong triều là Jean Baptiste Chaigneau (1769-1825) trong khi làm quan ở Huế xác nhận: "Xứ Đàng Trong mà Quốc vương ngày nay mang danh hiệu Hoàng đế bao gồm xứ Nam Hà theo đúng nghĩa của nó, xứ Bắc Hà, một phần vương quốc của Cao Miên, một vài đảo có người ở không xa bờ biển và quần đảo Hoàng Sa, gồm có những đảo nhỏ, bãi đá ngầm và mỏm đá không người ở. Chỉ đến năm 1816 thì nhà vua hiện nay mới chiếm hữu được quần đảo này". Các tác giả phương Tây lúc đó, trong các tác phẩm của mình, cũng đều công nhận chủ quyền pháp lý của các vua nhà Nguyễn đối với quần đảo Hoàng Sa. Giám mục Jean Louis Taberd người Pháp, người nhiều năm truyền giáo ở Đàng Trong cho rằng: "Quần đảo Pracel... Vào năm 1816, nhà vua đã tới long trọng cắm lá cờ của mình và đã chính thức giữ chủ quyền ở các bãi đá này, mà chắc là sẽ không có một ai sẽ tìm cách tranh giành với ông ta". Ông còn cho xuất bản cuốn Từ điển La Tinh An Nam và kèm theo tấm bản đồ An Nam đại quốc hoạ đồ, trong đó ở khoảng vĩ tuyến 170 bắc và kinh tuyến 1100 đông, bản đồ có vẽ một cụm các đảo nhỏ với dòng chữ ghi chú: Paracel Seu Cát Vàng.Tiến sĩ Gutzlaff, hội viên của Hội địa lý Hoàng gia Luân Đôn, biên soạn cuốn sách Geography of the Cochinchinese Empire cho biết: "Chính phủ An Nam nhận thấy lợi ích có thể đem lại được nếu như dựng lên một ngạch quan thuế và đã duy trì những thuyền đánh thuế và một đội quân nhỏ đồn trú ở tại chỗ để thu thuế đối với tất cả những ai đến đó, và để bảo vệ những dân chài của nước họ". Năm 1850, M. A Dubois de Jancigny, cựu đại uý, phái viên của Chính phủ Pháp ở Trung Quốc và Đông Dương đã viết sách nói rõ: "Chúng tôi chỉ muốn nhận xét rằng đã từ 34 năm nay, (tức là từ 1816 đến 1850), quần đảo Paracels (mà những người An Nam gọi là Cát Vàng), thật là một chốn mê cung chằng chịt những hòn đảo nhỏ, đá ngầm và bãi cát thật sự đã làm những người đi biển kinh hãi và chỉ có thể kể đến trong số những địa điểm hoang vu cằn cỗi nhất của địa cầu, quần đảo do đã bị các người xứ Đàng Trong chiếm giữ. Chúng tôi không rõ họ đã có đặt một cơ sở nào không (có thể với mục đích là bảo vệ công việc đánh cá), nhưng chắc chắn rằng nhà vua Gia Long đã chủ tâm đính thêm đoá hoa độc nhất vô nhị đó vào chiếc vương miện của ông, bởi vì ông đã xét thấy cần thiết phải đi tới việc đích thân chiếm giữ lấy quần đảo đó, và chính vì thế mà năm 1816 ông đã long trọng kéo lá cờ xứ Đàng Trong lên mảnh đất đó". Trong những thập kỷ cuối thế kỷ XIX, khi Pháp tiến hành cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam, triều đình Tự Đức không còn đủ sức chống lại đã lần lượt để mất chủ quyền về tay Thực dân Pháp, trong đó có cả chủ quyền các vùng biển đảo. Tuy nhiên vùng đất máu thịt của tổ tông vẫn là niềm thôi thúc các thế hệ con dân đất Việt đấu tranh đến cùng để giành lại chủ quyền bằng mọi giá. Tư liệu về nguồn gốc, chức năng và hoạt động của các đội Hoàng Sa và Bắc Hải (trong đó đặc biệt là đội Hoàng Sa) càng ngày càng được tập hợp phong phú hơn, đa dạng hơn. Chúng ta không chỉ biết về các đội Hoàng Sa Bắc Hải trong chủ trương thành lập và chỉ đạo hoạt động của các chúa Nguyễn, của vương triều Tây Sơn và các vua nhà Nguyễn, mà còn biết khá cụ thể các chủ trương ấy đã được chính quyền và nhân dân các địa phương tự giác chấp hành và thực hiện một cách đầy đủ và hết sức nghiêm chỉnh. Đây không chỉ dừng lại ở những văn bản chính thức của Nhà nước và những hoạt động phong phú đa dạng ở các địa phương, mà còn được tập hợp trong những ghi chép của các học giả, các nhà chức trách Việt Nam, các thương nhân và giáo sĩ phương Tây, thậm chí đến cả nhà sư Trung Quốc đương đại, những người đã thông qua quan sát trực tiếp hay khảo cứu công phu từ những văn bản gốc về hoạt động của các đội Hoàng Sa, Bắc Hải mà ghi chép lại một cách khách quan, trung thực. Tất nhiên các đội Hoàng Sa và Bắc Hải với chức năng chủ yếu là bảo vệ và khai thác các vùng quần đảo xa giữa Biển Đông, cũng có lúc thiên về công việc khai thác, cũng có lúc thiên về công việc bảo vệ, nhưng dù là thiên về chức năng nào thì cũng không thể thay thế được các đội Thuỷ quân. Vì thế trong lịch sử chủ quyền của Việt Nam ở Hoàng Sa và Trường Sa, có những lúc hoạt động của đội Hoàng Sa rất nổi bật, nhưng cũng có những lúc bị lu mờ, thậm chí có khi bị ghép chung vào công việc của đôi Thuỷ quân. Chúng ta từng biết có triều đình đã từng quyết định bãi bỏ đội Hoàng Sa và chuyển công việc của đội Hoàng Sa cho đội Thuỷ quân, nhưng ngay sau đó họ lại phải tính chuyện tái lập trở lại... Các đội Hoàng Sa, Bắc Hải dù hoạt động độc lập hay phụ thuộc vào đội Thuỷ quân, thậm chí có là hoạt động dưới danh nghĩa của đội Thuỷ quân đi nữa, thì cứ vẫn là một tổ chức độc đáo của các Nhà nước Việt Nam thế kỷ XVII, XVIII, XIX trong chủ trương khẳng định chủ quyền của mình ở Hoàng Sa và Trường Sa mà không có bất cứ một quốc gia nào trong khu vực có được. Đến giữa thế kỷ XIX trước cuộc chiến tranh xâm lược của thực dân Pháp, mặc dù dân các đảo Lý Sơn, Phú Quý, các xã An Vĩnh, An Hải, Bình An... vẫn tiếp tục đi ra Hoàng Sa, Trường Sa thu lượm hoá vật, hải sản dâng nộp cho triều đình Huế - nghĩa là vẫn thực hiện một chức năng của đội Hoàng Sa, Bắc Hải xưa, nhưng chức năng bảo vệ biển đảo đã chuyển hẳn cho các đội Thủy quân. Đến khi triều đình Huế thất thủ, không còn khả năng tổ chức lại quân đội, củng cố các đội Thuỷ quân để bảo vệ trực tiếp kinh thành Huế, thì đương nhiên họ cũng không còn khả năng khôi phục hoạt động của đội Hoàng Sa, Bắc Hải nữa. Sự chấm dứt hoạt động của đội Hoàng Sa, Bắc Hải tuyệt nhiên không phải là do Nhà nước phong kiến Việt Nam từ bỏ chủ quyền của mình trên các vùng quần đảo giữa Biển Đông. Tư liệu cho biết các Nhà nước Việt Nam đã thực thi chủ quyền của mình ở Hoàng Sa và Trường Sa dưới các hình thức và biện pháp khác nhau như vãng thám kiểm tra kiểm soát, khai thác các hoá vật và hải sản, tổ chức thu thuế và cứu hộ tàu bị nạn, khảo sát, đo vẽ bản đồ, dựng miếu thờ, lập bia chủ quyền, dựng bài gỗ lưu dấu để ghi nhớ, trồng cây để cho người qua lại dễ nhận biết... Lực lượng ra làm nhiệm vụ ở Hoàng Sa, Trường Sa không chỉ có các đội Hoàng Sa, Bắc Hải, các đội Thuỷ quân, biền binh, vệ giám thành mà cả binh đinh, dân phu. Mỗi chuyến đi ra Hoàng Sa Trường Sa đều phải có quyết định của Nhà nước dưới hình thức "tờ sai để thi hành công vụ" và nhiều khi chính nhà vua trực tiếp chỉ đạo việc quyết định cho thuyền ra khơi hay tạm dừng lại. Sau khi kết thúc công việc họ phải chạy thuyền thẳng về Kinh đô để báo cáo tình hình, khai nộp hoá vật, hải vật. Nhà vua thông qua Bộ Công để kiểm tra, đánh giá và tuỳ mức độ đóng góp hay vi phạm mà luận công hay định tội, thưởng phạt công minh. Những người hoàn thành nhiệm vụ đều được Nhà nước cấp bằng xác nhận. Công việc ở Hoàng Sa và Trường Sa là vô cùng gian nan nguy hiểm, nhiều trường hợp có đi mà không có về. Thậm chí có khi người ta phải làm lễ truy điệu sống, làm đám tang trước để an ủi người đi. Ý thức được đầy đủ nghĩa vụ và trách nhiệm với quê hương đất nước, nhiều người thản nhiên đi vào cái chết, tự giác coi đó là lẽ sống của chính mình. Trang lịch sử chủ quyền của Việt Nam ở Hoàng Sa và Trường Sa được viết bằng máu, được đánh đổi bằng cả cuộc đời của lớp lớp những con người như thế. Chủ quyền của Việt Nam ở Hoàng Sa và Trường Sa là một trong những trang đẹp nhất, bi hùng nhất của lịch sử hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam ta, mà bất cứ người Việt Nam chân chính nào cũng cần phải biết trân trọng và gìn giữ, không chỉ cho hôm nay, mà còn cho muôn đời sau. ----------- [1] Lê Quý Đôn: Toàn tập (Phủ Biên tạp lục), T.1, Bản dịch Nxb KHXH, Hà Nội, 1977, tr 116. [2] Thích Đại Sán: Hải ngoại kỷ sự, Viện Đại học Huế tr.125. [3] Bản đồ Thế giới của Mercator xuất bản tại Amsterdam (Hà Lan) 1606, in lại trong cuốn Asia in Maps from Ancient time to the Mid-19th Century, Lepzig, 1989. [4] Bản đồ Bartholomeu Lasso vẽ năm 1590 và 1592-1594, in trong cuốn sách Les Portugains sur les côtes du Vietnam et du Cămpa của P.Y.Manguin, Paris, 1972; Bản đồ Van Langren 1598, in trong cuốnIconographie Historique de l'Indochine của P.Boudet và A.Masson, Paris, 1931. [5] Jean.Yves Clayes: Journal de Voyage aux Paracels (Indochine No 45, 1941, tr.7). [6] Đơn của phường Cù Lao Ré xã An Vĩnh ngày 15 tháng Giêng năm 1776 (lưu tại nhà thờ họ Võ thôn Tây xã Lý Vĩnh, huyện Lý Sơn, tỉnh Quảng Ngãi). Theo Tạp chí Xưa và nay1 like
-
Mới đọc thì đúng là hoa mắt lên là phải. Tôi giải thích qua là : 1 - Mục đích tôi muốn chứng minh là nội dung cuốn Kinh Thánh chính là bản dự đoán vận mệnh của trái đất (như được sinh ra như thế nào, phát triển ra sao rồi vì sao chết. Mọi cái tôi đã giải thích, trong đó trận chiến ha ma ghê đôn là nói đến cái chết của trái đất). Và tôi đã đi đến kết luận chỉ có những người thuộc nền văn minh ngoài trái đất mới có thể dự đoán vận mệnh của trái đất chính xác đến như vậy. Bởi vì cách đây 3 đến 4 nghìn năm nền văn minh của chúng ta đang là một xã hội của những người "Ở Trần Ðóng Khố" thì biết gì về các thời kỳ kiến tạo địa chất của trái đất cơ chứ. 2 - 10 Can và 12 Chi và Bảng Nạp Âm 60 năm Giáp Tý cũng vậy. Ðọc đoạn sau sẽ rõ: Trang 272, cuốn Dự Ðoán Theo Tứ Trụ - in năm 2002, cụ Thiệu Vĩ Hoa đã viết: “Trong bảng sáu mươi năm Giáp Tý, căn cứ theo nguyên tắc gì để nạp âm ngũ hành? Người xưa tuy có bàn đến nhưng không có căn cứ rõ ràng và cũng chưa bàn được minh bạch, do đó vẫn là huyền bí khó hiểu. Bảng 60 năm Giáp Tý biến hóa vô cùng, cho đến nay đối với giới học thuật của Trung Quốc đó vẫn còn là một bí ẩn”. Ðây chính là một trong các bằng chứng để chứng minh rằng bảng nạp âm sáu mươi năm Giáp Tý không phải do người Trung Quốc phát minh ra. Hai bài học đầu tiên này tôi muốn chứng minh rằng vận mệnh của Trái Ðất mà người ta (những người ngoài hành tinh của chúng ta) còn dự đoán được thì lẽ gì họ không dự đoán được vận mệnh của con người. Họ không cho chúng ta biết bằng cách nào mà họ đự đoán được vận mệnh của trái đất nhưng dự đoán vận mệnh của con người thì họ đã cho chúng ta biết qua Bảng nạp âm 60 năm giáp tý và học thuyết âm dương ngũ hành. Cuốn sách "Giải Mã Tứ Trụ" đúng như nghĩa của nó là phải sử dụng học thuyết âm dương ngũ hành và Bảng nạp âm 60 năm giáp tý để Giải Mã các Tứ Trụ của con người, xem có đúng là chúng có thể dự đoán được vận mệnh của con người hay không ?1 like
-
Tôi thấy vô cùng vui khi các bạn tham gia học và tìm hiểu môn Tứ Trụ này. Mặc dù nội dung dậy sẽ không khác nhau nhưng cách tiếp cận với môn Tử Bình của tôi không giống với cách tiếp cận (dậy) của các sách của các cổ nhân để lại. Phương châm của tôi là phải tìm được cách nhanh nhất và đơn giản nhất để dự đoán được các tai họa và tìm cách giải cứu các tai họa đó. Ðể thực hiện được mục đích quá khó khăn này thì không còn cách nào khác là phải toán học hóa nó như các định luật Vật Lý chẳng hạn. Nếu cứ theo cách trình bầy (dậy) của các cổ nhân thì các bạn cũng thừa biết nhiều cao thủ Tử Bình đã nghiên cứu có thâm niên tới 3 đến 4 chục năm mà xác định Thân vương hay nhược còn sai bét nhè thì còn nói gì đến dự đoán đúng được nữa. Tôi đồng ý theo ý kiến của đa số các bạn là mỗi tuần một bài (nếu gặp bài ngắn và dễ thì có thể chỉ cần 3 đến 4 ngày). Tôi hy vọng chỉ sau 4 tháng học các bạn sẽ có được trình độ trung cấp, sau đó các bạn sẽ cùng tôi học và nghiên cứu Tử Bình ở trình độ cao cấp. Ở trình độ cao cấp (dự đoán về Tài Quan Ấn) thì hiện nay tôi gặp khó khăn là không có bản dịch toàn bộ tiếng Việt 2 cuốn "Tử Bình Chân Thuyên Bình Chú" và "Trích Thiên Tủy" (theo tôi chỉ cần 2 cuốn này là đủ). Bởi vì muốn nhanh và không mất thì giờ vô ích thì phải "Ðứng trên vai những người khổng lồ" mới có chút hy vọng thành công được. Hiện tại tôi chỉ biết một vài thông tin về mệnh quý hiển mà trần Viên (học trò của cụ Thiệu) đã tổng kết trong sách "Dự Ðoán Theo Tứ Trụ" mà thôi. Còn 2 cuốn này nghe nhiều người nói các cách cục quý hiển đã được trình bầy chi tiết thì phải. Do vậy nếu bạn nào có bản dịch 2 cuốn này đưa lên đây cho mọi người cùng nghiên cứu thì xin cám ơn vô cùng. (Những ai không đăng ký được nick ở đây thì xin mời sang chủ đề "Giải đáp các thắc mắc" trong mục "Trao đổi về Tứ Trụ" bên trang web Lý Số Việt Nam để đăng ký nick. Ở đó tôi sẽ giải đáp các thắc mắc của các bạn như ở đây). Thân chào.1 like
-
Các bài giảng cho khóa học Tứ Trụ sơ cấp Bài 1: Vận mệnh và dự đoán vận mệnh Trích cuốn “Có một Ðấng Tạo Hóa quan tâm đến bạn không?“ của Liên Hiệp Thánh Kinh Hội NW: “Vào năm 1905, tức là 40 năm trước năm 1945, Einstein đã tiên đoán có một quan hệ giữa vật chất và năng lượng. Nhiều người biết phương trình E = mc² (trong đó E là năng lượng, m là khối lượng, c là vận tốc ánh sáng) của ông. Chẳng bao lâu sau khi quan hệ đó được Einstein công thức hóa thì các nhà bác học có thể giải thích được là làm sao mặt trời tiếp tục chiếu sáng hàng tỷ năm. Trong mặt trời có những phản ứng nhiệt hạch liên tục. Bằng cách này, mỗi giây, mặt trời biến khoảng 564 triệu tấn hyđro thành 560 triệu tấn heli. Ðiều này có nghĩa là cứ trong mỗi giây có khoảng 4 triệu tấn vật chất đã biến đổi thành năng lượng mặt trời mà một phần tỏa xuống mặt đất bảo toàn sự sống. Ðiều đáng chú ý là quá trình có thể đổi ngược lại. Cuốn The World Book Encyclopedia giải thích : “Năng lượng đổi thành vật chất khi những hạt bên trong nguyên tử va chạm nhau ở tốc độ cao tạo ra các hạt mới nặng hơn“. Các nhà khoa học đã thực nghiệm được điều này trong một phạm vi giới hạn, dùng máy khổng lồ gọi là máy gia tốc hạt, trong đó những hạt bên trong nguyên tử va chạm nhau ở vận tốc cực cao, để tạo ra vật chất. Nhà vật lý học đoạt giải thưởng Nobel, tiến sĩ Carlo Rubbia giải thích: “Chúng tôi đã tái tạo một trong các phép lạ về vũ trụ - biến năng lượng thành vật chất““. ………………………….. “Hãy ngước mắt lên cao mà xem: Ai đã tạo ra các vật này? Ấy là Ðấng khiến các cơ-binh ra theo số nó, và đặt tên hết thẩy, chẳng một vật nào thiếu, vì sức-mạnh Ngài lớn lắm, và quyền-năng Ngài rất cao (Ê-sai 40:26). Vâng, Kinh-thánh nói rằng một nguồn năng lượng vô biên - Ðấng Tạo Hóa – đã hình thành vũ trụ vật chất. Ðiều này hoàn toàn phù hợp với kỹ thuật tân tiến“. Qua 2 đoạn trích trên cho chúng ta thấy rằng câu đầu tiên của Kinh-thánh: “Ban đầu Ðức Chúa Trời dựng nên trời đất“ (Sáng-thế Ký 1:1) có thể được hiểu chính xác là : Ban đầu Ðức Chúa Trời đã dùng sức mạnh vô biên của mình để dựng nên vũ trụ trong đó có mặt trời và trái đất của chúng ta. Cho nên khi các ngôi sao (như mặt trời của chúng ta) cháy mãi hết nhiên liệu rồi sẽ phải tắt thì ở trong một môi trường đặc biệt nào đó như Hố Trắng chẳng hạn sẽ phun ra vật chất (tham khảo chủ đề “Những điều cần biết về Vũ Trụ học“ trong mục “Lý Học Ðông Phương“ tại trang web này), trong đó xuất hiên các ngôi sao mới. Chính điều này có thể chứng minh được vì sao trên bầu trời của chúng ta tới nay vẫn tồn tại ti tỷ các ngôi sao tỏa ánh sáng - năng lượng - vào vũ trụ rộng bao la trong khi thời gian là vô tận. “Nhà địa chất học nổi tiếng Wallac Pratt bình luận : “Nếu có ai yêu cầu tôi, với tư cách là một nhà địa chất học, giải nghĩa cách vắn tắt các tư tưởng tân thời của chúng ta về nguồn gốc của trái đất và sự phát triển của sự sống trên đó cho những người mộc mạc, quê mùa như các chi phái mà sách Sáng-thế Ký được viết cho, thì tôi không thể làm gì hay hơn là theo sát phần lớn lối diễn tả và ngôn ngữ trong chương một của Sáng-thế Ký“. Môi-se là người viết quyển đầu tiên của Kinh Thánh là Sáng-thế Ký khoảng năm 1513 TCN (vì cuốn Kinh Thánh là một bộ gồm 66 cuốn sách nhỏ được viết trong một khoảng thời gian hơn 1.500 năm từ 1513 TCN đến khoảng năm 80 SCN - có khoảng 40 người đã tham gia viết). Ông Wallac Pratt cũng nhận xét rằng thứ tự các biến cố mô tả trong sách Sáng-thế Ký: Nguồn gốc của đại dương, việc đất trồi lên, sự xuất hiện các loài sống dưới biển, chim chóc và các động vật hữu nhũ, thực chất là thứ tự của các giai đoạn chính yếu của thời đại địa chất. Chúng ta thử xem xét: Cách đây 3500 năm, làm sao Môi-se biết được thứ tự chính xác như thế nếu như tin tức đó không phải bắt nguồn từ Ðấng Thiết Kế (Ðức Chúa Trời)“. Ðể phù hợp với khoa học chúng ta thừa nhận rằng Môi-se vào thời gian đó chỉ là người “Ở Trần Ðóng Khố“ trong một xã hội còn rất lạc hậu trên trái đất của chúng ta đã ghi chép lại những tri thức mà các vị khách thuộc một nền văn minh ngoài trái đất ghé thăm chúng ta (có thể gọi họ là các sứ giả của Ðức Chúa Trời) truyền đạt cho. Chính vì vậy mà ngôn ngữ diễn đạt rất mộc mạc, đơn sơ, hầu như Môi-se và những người tham gia viết Kinh-thánh chỉ diễn đạt được các tri thức của Họ theo nghĩa đen mà thôi, vì vậy mới có nhiều sai sót. Ðó là lý do vì sao có sự kiện Galileo bị đưa lên ngọn lửa của giàn thiêu. Một điều quan trọng nữa là cuốn Kinh-thánh không những đã nói tới nguồn gốc hình thành, sự kiến tạo địa chất của trái đất và sự phát triển của sự sống trên trái đất mà cuốn Kinh-thánh còn dự đoán các sự kiện đã và chưa xẩy ra. Ðó là dự đoán sự xuất hiện của 7 cường quốc trên trái đất trước khi trái đất bị hủy diệt bởi sự va chạm với thiên thạch. Phần này xin mời các học viên đọc chủ đề: “Trận chiến Ha-ma-ghê-đôn và ngày tận thế“ trong mục “Dự Báo và Chứng Nghiệm“ tại trang web này. Ðiều này đủ cho chúng ta nhận thấy rằng cuốn Kinh-thánh không chỉ dừng lại ở mục đích truyền bá về hệ tư tưởng, đạo đức mà nó còn dự đoán vận mệnh của trái đất của chúng ta. Vận mệnh trái đất, Họ (tức người ngoài hành tinh của chúng ta) còn dự đoán được, vậy thì vận mệnh của con người chúng ta Họ không dự đoán được sao? Cho nên theo tôi học thuyết Âm Dương Ngũ Hành và bảng Nạp Âm sáu mươi năm Giáp Tý đã xuất hiện trên trái đất của chúng ta khoảng 3 đến 4 nghìn năm hoàn toàn phù hợp với khoảng thời gian xuất hiện cuốn Kinh-thánh cũng là món quà mà những vị khách này đã viếng thăm và tặng chúng ta. Ðây chính là lý do mà tôi đã nghiêm túc nghiên cứu môn Tử Bình qua lăng kính của Vật Lý học. Ở bài 1 này tôi không đòi hỏi mọi người phải tin rằng con người nói riêng hay vạn vật nói chung có vận mệnh và dự đoán được vận mệnh… mà tôi khuyên mọi người chưa nên tin bất cứ cái gì ngay được. Mọi cái cứ từ từ nghiên cứu xem sao đã, chỉ đến khi có được sự suy luận có lý cộng thêm các ví dụ trong thực tế kiểm nghiệm lý luận đó đúng thì mới có thể tin được mà thôi. Các câu hỏi trọng tâm: 1 - Bạn hãy thử chứng minh học thuyết Âm Dương Ngũ Hành cùng với bảng Nạp Âm sáu mươi năm Giáp Tý (hoàn toàn theo nhận thức đã có của bạn không dựa theo nội dung bài viết trên) là do người Trung Quốc nói riêng hay của người trên trái đất chúng ta nói chung phát minh ra chứ không phải do những người thuộc nền văn minh ngoài trái đất tặng. 2 – Theo bạn khái niện Lỗ đen và Lỗ trắng để giải thích sự tồn tại vĩnh hằng của Vũ Trụ có tính thuyết phục (hợp lý) hay không? 3 – Âm Dương Ngũ Hành là các tiên đề trong mệnh học Ðông Phương có hợp lý không? Sau đây xin mời các học viên cùng tôi khám phá các bí ẩn của thuyết Âm Dương Ngũ Hành và bảng Nạp Âm sáu mươi năm Giáp Tý qua con mắt của các nhà Vật Lý học xem chúng thuộc lĩnh vực Duy Vật hay Duy Tâm1 like