-
Thông báo
-
Nội quy Lý Học Plaza
Nội quy này là bản mở rộng Nội Quy - Quy định của Diễn đàn. Khi tham gia mua bán, các thành viên phải tuân theo những quy định sau: Tiêu đề bài viết: Bao gồm: Chỉ dẫn địa lý, Loại hình Mua/Bán, Thông tin mua bán.
Chỉ dẫn địa lý: Tỉnh/thành nơi mua bán. Hoặc sử dụng định nghĩa có sẵn:TQ: Toàn quốc
HCM: TP Hồ Chí Minh
HN: Hà Nội
[*]Ví dụ: HCM - Bán Vòng tay Hổ Phách Nội dung bài viết: Mô tả chi tiết sản phẩm mua/bán
Bắt buộc phải có thông tin liên lạc, giá Mua/Bán
Bài mới đăng chỉ được phép up sau 03 ngày.
Thời gian up bài cho phép: 01 ngày 01 lần.
Các hành vi vi phạm nội quy này sẽ bị xóa bài hoặc khóa tài khoản mà không cần báo trước.
-
Leaderboard
Popular Content
Showing most liked content on 12/06/2011 in all areas
-
2 likes
-
2 likes
-
Trung Quốc cũng hay viện dẫn công hàm này để cải lý với Việt nam. Cơ sở để chúng ta phản bác ở đây Công hàm của TT Phạm Văn Đồng không thể là cơ sở để TQ lấn chiếm Hòang Sa của VN. Bối cảnh ra đời của Công Hàm: Ngày 4 tháng 9 năm 1958, Chu Ân Lai, Thủ tướng nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa công khai tuyên bố với quốc tế về quyết định của Chính phủ Trung Quốc về hải phận 12 hải lý kể từ đất liền của Hoa Lục, có đính kèm bản đồ về đường ranh giới lãnh hải, trong đó bao gồm quần đảo Hoàng Sa. Cùng lúc bấy giờ, chiến tranh với Mỹ bắt đầu leo thang, Hạm đội 7 của Mỹ hoạt động trên eo biển Đài Loan và đe doạ Trung Quốc. Bối cảnh ấy, TT Phạm Văn Đồng đã phải lập tức lên tiếng để ủng hộ Trung Quốc, nhằm gây một lực lượng phản công lại với mối đe doạ của Mỹ. Lời lên tiếng ủng hộ Trung Quốc của TT Phạm Văn Đồng, thực hiện bằng 1 Công hàm Và hình như giờ đây TQ viện dẫn vào Công hàm ấy để nói rằng VN đã đồng ý Hòang Sa là của họ. Công hàm đề ngày 14 tháng 9 và cho đăng trên báo Nhân Dân ngày 22 tháng 9 năm 1958... Công hàm của TT Phạm Văn Đồng http://www.thuvienphapluat.vn/Default.aspx?CT=NW&NID=5586 Sau đây là bài phân tích giá trị Pháp Lý của Công Hàm trên Tạp chí Thời Đại : (Bài phân tích dùng nhiều thuật ngữ Công pháp Quốc tế, sẽ khó đọc cho một số độc giả - THƯ VIỆN PHÁP LUẬT) Những lời tuyên bố trên không có hiệu lực vì trước năm 1975, Việt Nam Dân chủ Cộng hòa không quản lý những đảo này. Lúc đó, những đảo này nằm dưới sự quản lý của Việt Nam Cộng hoà; mà các chính phủ Việt Nam Cộng hoà luôn luôn khẳng định chủ quyền của Việt Nam trên hai quần đảo. Còn Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hoà miền Nam Việt Nam cũng không tuyên bố điều gì có thể làm hại đến chủ quyền này cả. Tác giả Monique Chemillier-Gendreau đã viết như sau: “Dans ce contexte, les declarations ou prise de position éventuelles des autorités du Nord Vietnam sont sans consequences sur le titre de souveraineté. Il ne s’agit pas du gouvernement territorialement competent à l’égard des archipels. On ne peut renoncer à ce sur quoi on n’a pas d’autorité…” (Có thể dịch là: “Trong những điều kiện này, những lời tuyên bố hoặc lập trường nào đó của chính quyền miền Bắc Việt Nam không có hiệu lực gì đối với chủ quyền. Đây không phải là chính quyền có thẩm quyền trên quần đảo này. Người ta không thể chuyển nhượng những gì người ta không kiểm soát được…”). Một lý lẽ thứ hai nữa là đứng trên phương diện thuần pháp lý, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa lúc đó không phải là một quốc gia trong cuộc tranh chấp. Trước năm 1975, các quốc gia và lãnh thổ tranh chấp gồm: Trung Quốc, Đài Loan, Việt Nam Cộng hoà và Philippin. Như vậy, những lời tuyên bố của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa xem như lời tuyên bố của một quốc gia thứ ba không có ảnh hưởng đến vụ tranh chấp. Nếu đặt giả thuyết Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là một thì dựa trên luật quốc tế, những lời tuyên bố đó cũng không có hiệu lực. Tuy nhiên, có tác giả đã nêu thuyết “estoppel” để khẳng định những lời tuyên bố đó có hiệu lực bó buộc đối với Việt Nam, và Việt Nam bây giờ không có quyền nói ngược lại. Theo luật quốc tế, không có một văn bản pháp lý nào có thể gắn cho những lời tuyên bố đơn phương một tính chất bó buộc, ngoại trừ thuyết “estoppel”. Điều 38 Quy chế Toà án Quốc tế không liệt kê những lời tuyên bố đơn phương trong danh sách những nguồn gốc của luật pháp quốc tế. Estoppel là một nguyên tắc theo đó một quốc gia không có quyền nói hoặc hoạt động ngược lại với những gì mình đã nói hoặc hoạt động trước kia. Câu tục ngữ thường dùng để định nghĩa nó là “one cannot at the same time blow hot and cold.”[72] Nhưng thuyết estoppel không có nghĩa là cứ tuyên bố một điều gì đó thì quốc gia tuyên bố phải bị ràng buộc bởi lời tuyên bố đó. Thuyết estoppel bắt nguồn từ hệ thống luật quốc nội của Anh, được thâu nhập vào luật quốc tế. Mục đích chính của nó ngăn chặn trường hợp một quốc gia có thể hưởng lợi vì những thái độ bất nhất của mình, và do đó, gây thiệt hại cho quốc gia khác.Vì vậy, estoppel phải hội đủ các điều kiện chính: 1. Lời tuyên bố hoặc hành động phải do một người hoặc cơ quan đại diện cho quốc gia phát biểu, và phải được phát biểu một cách minh bạch (clair et non equivoque). 2. Quốc gia nại “estoppel” phải chứng minh rằng mình đã dựa trên những lời tuyên bố hoặc hoạt động của quốc gia kia, mà có những hoạt động nào đó, hoặc không hoạt động. Yếu tố này trong luật quốc nội Anh-Mỹ gọi là “reliance”. 3. Quốc gia nại “estoppel” cũng phải chứng minh rằng, vì dựa vào lời tuyên bố của quốc gia kia, mình đã bị thiệt hại, hoặc quốc gia kia đã hưởng lợi khi phát biểu lời tuyên bố đó. 4. Nhiều bản án còn đòi hỏi lời tuyên bố hoặc hoạt động phải được phát biểu một cách liên tục và trường kỳ. Thí dụ: bản án “Phân định biển trong vùng Vịnh Maine”, bản án “Những hoạt động quân sự và bán quân sự tại Nicaragua”, bản án “Ngôi đền Preah Vihear”,… Ngoài ra, nếu lời tuyên bố đơn phương có tính chất một lời hứa, nghĩa là quốc gia tuyên bố mình sẽ làm hoặc không làm một việc gì, thì quốc gia phải thực sự có ý định muốn bị ràng buộc bởi lời hứa đó, thực sự muốn thi hành lời hứa đó. Thuyết estoppel với những điều kiện trên đã được án lệ quốc tế áp dụng rất nhiều. Trong bản án “Thềm lục địa vùng Biển Bắc” giữa Cộng hòa Liên bang Đức và Đan Mạch/Hà Lan, Toà án quốc tế đã phán quyết rằng estoppel không áp dụng cho Cộng hòa Liên bang Đức, mặc dù quốc gia này đã có những lời tuyên bố trong quá khứ nhằm công nhận nội dung của Công ước Genève 1958 về thềm lục địa, vì Đan Mạch và Hà Lan đã không bị thiệt hại khi dựa vào những lời tuyên bố đó. Trong bản án “Những hoạt động quân sự và bán quân sự tại Nicaragua” giữa Nicaragua và Mỹ, Toà đã phán quyết như sau: “… ‘Estoppel’ có thể được suy diễn từ một thái độ, những lời tuyên bố của một quốc gia, nhằm chấp nhận một tình trạng nào đó; thái độ hoặc lời tuyên bố không những phải được phát biểu một cách rõ rệt và liên tục, mà còn phải khiến cho một hoặc nhiều quốc gia khác dựa vào đó mà thay đổi hoạt động, và do đó phải chịu thiệt hại”. Áp dụng những nguyên tắc trên của estoppel vào những lời tuyên bố của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, chúng ta thấy thiếu điều kiện 2/ và 3/ đã nêu ở trên. Năm 1956, năm 1958 và năm 1965, Trung Quốc đã không có thái độ nào, hoặc thay đổi thái độ vì dựa vào lời tuyên bố của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Và Trung Quốc cũng không thể chứng minh được rằng mình bị thiệt hại gì do dựa vào những lời tuyên bố đó. Việt Nam Dân chủ Cộng hòa cũng không được hưởng lợi gì khi có những lời tuyên bố đó. Lúc đó hai dân tộc Việt Nam và Trung Hoa rất thân thiện, “vừa là đồng chí, vừa là anh em”. Những lời tuyên bố của Thủ tướng Phạm Văn Đồng hoàn toàn do tình hữu nghị Hoa-Việt. Hơn nữa, lời văn của bản tuyên bố không hề nói rõ ràng minh bạch là công nhận chủ quyền của Trung Quốc trên Hoàng Sa. Bức công hàm chỉ nói: “Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tôn trọng quyết định ấy (quyết định ấn định lãnh hải 12 dặm của Trung Quốc), và sẽ chỉ thị cho các cơ quan Nhà nước có trách nhiệm triệt để tôn trọng hải phận 12 hải lý của Trung Quốc…”. Lời tuyên bố của Thủ tướng Phạm Văn Đồng cũng có thể hiểu là một lời hứa đơn phương, một lời tuyên bố ý định sẽ làm một việc gì (declaration d’intention). Thật vậy, đây là một lời hứa sẽ tôn trọng quyết định của Trung Quốc trong việc ấn định lãnh hải của Trung Quốc, và một lời hứa sẽ ra lệnh cho cơ quan công quyền của mình tôn trọng lãnh hải đó của Trung Quốc. Một lời hứa thì lại càng khó ràng buộc quốc gia đã hứa. Toà án Quốc tế đã ra thêm một điều kiện nữa để ràng buộc một lời hứa: đó là ý chí thực sự của một quốc gia đã hứa. Nghĩa là quốc gia đó có thực sự muốn bị ràng buộc bởi lời hứa của mình hay không. Để xác định yếu tố “ý chí” (intention de se lier), Toà xét tất cả những dữ kiện xung quanh lời tuyên bố đó, xem nó đã được phát biểu trong bối cảnh, trong những điều kiện nào (circonstances). Hơn nữa, nếu thấy quốc gia đó có thể tự ràng buộc mình bằng cách ký thoả ước với quốc gia kia, thì lời tuyên bố đó là thừa, và Toà sẽ kết luận là quốc gia phát biểu không thực tình có ý muốn bị ràng buộc khi phát biểu lời tuyên bố đó. Vì vậy, lời tuyên bố đó không có tính chất ràng buộc. Trong bản án “Những cuộc thí nghiệm nguyên tử” giữa Úc/Tân Tây Lan và Pháp, Pháp đã tuyên bố là sẽ ngừng thí nghiệm nguyên tử. Toà án đã phán quyết rằng Pháp bị ràng buộc bởi lời hứa vì Pháp thực sự có ý muốn bị ràng buộc bởi lời hứa đó. Trong trường hợp Việt Nam, Thủ tướng Phạm Văn Đồng, khi tuyên bố sẽ tôn trọng lãnh hải của Trung Quốc, không hề có ý định nói đến vấn đề chủ quyền trên Hoàng Sa và Trường Sa. Ông đã phát biểu những lời tuyên bố trên trong tình trạng khẩn trương, chiến tranh với Mỹ bắt đầu leo thang, Hạm đội 7 của Mỹ hoạt động trên eo biển Đài Loan và đe doạ Trung Quốc. Ông đã phải lập tức lên tiếng để ủng hộ Trung Quốc nhằm gây một lực lượng chống đối lại với mối đe doạ của Mỹ. Lời tuyên bố năm 1965 của Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa cũng như vậy. Động lực của lời tuyên bố đó là tình trạng khẩn trương, nguy ngập ở Việt Nam. Đây là những lời tuyên bố có tính chính trị, chứ không phải pháp lý. Nếu xét yếu tố liên tục và trường kỳ thì ba lời tuyên bố của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa cũng không hội đủ tiêu chuẩn này. Estoppel chỉ đặt ra nếu chấp nhận giả thuyết Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là một; và cả Pháp trong thời kỳ thuộc địa, và Việt Nam Cộng hoà trước năm 1975 cũng là một đối với Việt Nam hiện thời. Nếu xem như Việt Nam Dân chủ Cộng hòa là một quốc gia riêng biệt với Việt Nam hiện thời, thì estoppel không áp dụng, vì như đã nói ở trên, lời tuyên bố sẽ được xem như lời tuyên bố của một quốc gia không có quyền kiểm soát trên lãnh thổ tranh chấp. Như vậy, nếu xem Việt Nam nói chung như một chủ thể duy nhất từ xưa đến nay, thì ba lời tuyên bố của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa chỉ là một sự phát biểu có ý nghĩa chính trị trong đoản kỳ thời chiến, so với lập trường và thái độ của Việt Nam nói chung từ thế kỷ XVII đến nay. Tóm lại, những lời tuyên bố mà chúng ta đang phân tích thiếu nhiều yếu tố để có thể áp dụng thuyết estoppel. Yếu tố “reliance” (tức là quốc gia kia có dựa vào lời tuyên bố của quốc gia này mà bị thiệt hại), và yếu tố “ý chí” (tức là quốc gia phát biểu lời hứa có ý muốn bị ràng buộc bởi lời hứa đó) rất quan trọng. Không có “reliance” để giới hạn sự áp dụng của estoppel thì các quốc gia sẽ bị cản trở trong việc hoạch định chính sách ngoại giao. Các quốc gia sẽ phải tự ép buộc cố thủ trong những chính sách ngoại giao lỗi thời. Khi điều kiện chung quanh thay đổi, chính sách ngoại giao của quốc gia kia thay đổi, thì chính sách ngoại giao của quốc gia này cũng phải thay đổi. Các quốc ga đổi bạn thành thù và đổi thù thành bạn là chuyện thường. Còn những lời hứa đơn phương trong đó quốc gia không thật tình có ý muốn bị ràng buộc, thì nó chẳng khác gì những lời hứa vô tội vạ, những lời hứa suông của các chính khách, các ứng cử viên trong cuộc tranh cử. Trong môi trường quốc tế, nguyên tắc “chủ quyền quốc gia” (état souverain) rất quan trọng. Ngoại trừ tục lệ quốc tế và những điều luật của Jus Congens, không có luật nào ràng buộc quốc gia ngoài ý muốn của mình, khi mà quốc gia này không gây thiệt hại cho quốc gia nào khác. Vì vậy ý chí của quốc gia đóng một vai trò quan trọng trong việc quyết định tính chất ràng buộc của một lời hứa đơn phương2 likes
-
Trước tiên xin kính chào các quý ông quý bà cùng toàn thể quý cô chiêu và quý cậu ấm. Hiện nay, mục Tử vi luận giải này rất đông khách, đại bộ phận khách khứa là quý cậu ấm và quý cô chiêu, mới 19 đôi mươi nên còn nhiều sự đời chưa hiểu, thiết tưởng mình đỗ đại học đã là nhớn, biết Hun đã là khôn nhưng khi lạc vào thế giới tiên đoán thì đúng là một kiến thức mới. Hiện nay, theo như tôi quan sát, hầu hết các anh chị, cô bác luận giải ở diễn đàn đều dùng từ ngữ tân thời, rất ít từ ngữ cổ hoặc cũ. Nhưng xem ra nhiều người Trẻ không hiểu và nhiều người xấu số (lá số không đẹp như ý) hay hỏi đi hỏi lại, người này trả lời không ưng thì tưng tưng chạy qua hỏi người khác. Giá mà khi đi học mà chăm chỉ chịu khó như thế thì tốt cho nước nhà quá. Vì vậy tôi xin mạn phép mở ra mục này để các cô bác, anh chị luận giải lá số đóng góp các kiến giải vào đây để các quý ông bà, quý cô ấm cậu chiêu đọc hiểu một vài vấn đề cơ bản. Với các quý vị nhờ bình giải lá số thì chỉ nên đọc hiểu chứ đừng View như người Anh. Bởi quý vị viết vài dòng cảm xúc vào đây thì sẽ có nhiều điều không cần thiết. Nếu thấy nhất thiết phải viết thì nên đọc kỹ trước khi đặt tay gõ phím hỏi về vấn đề mình chưa hiểu. Rào trước, Chắn sau như vậy thiết nghĩ cũng đã cạn lẽ. Xin phép quý vị cho tôi vào thẳng vấn đề cần vào như sau: 1/ Không còn là trinh nữ trước khi động phòng hoa trúc: Việc này không nhất thiết cứ phải là quan hệ với người ngoài rồi mới lấy chồng. Hoàn toàn có thể quan hệ với người chồng trước khi cưới và đăng ký kết hôn. 2/ Phải lập gia đình muộn mới tránh được hình khắc chia ly: Muộn là từ tầm 30 tuổi trở đi, Sớm là từ 24 tuổi trở về trước, Trung bình là tự hiểu. 3/ Giải pháp để tránh hình khắc ly dị: muộn lập gia đình, làm lẽ, cưới hỏi dở dang người này rồi lấy người khác, cưới đi và cưới lại 4/ Cưới đi và cưới lại: Là việc hi hữu, ví như vì ở xa nhau nên phải tổ chức cưới ở 2 nơi, bái gia tiên 2 lần, hoặc cưới chui trước khi cưới thật, tức là ra phường làm đăng ký kết hôn hoặc lấy được giấy đăng ký kết hôn rồi về nhà làm lễ bái gia tiên ở 1 trong 2 họ, Hiện nay thiên hạ rất chuộng cái vụ cưới đi rồi cô dâu lẳng lặng bỏ về nhà đẻ, sau đó chú rể mới lóc cóc đi đón dâu về lần nữa. Để gọi là qua 2 lần đò đểu. Vì là đò đểu nên chẳng có gì đảm bảo cái sự giả dối cố ý được biện hộ là chữa mẹo với chẳng méo này có tác dụng gì cả. Chồng 5 thê 7 thiếp vẫn cứ diễn ra, vợ thì có cả bộ sưu tập người tình thì vẫn chẳng tránh khỏi. Thế thì chọn giờ lành tháng tốt làm gì hay tại thầy bói dốt? 5/ Kim lâu đối với nữ nên không được lấy chồng: 1 lần ân ái cũng nên vợ chồng, nếu nói dại chỉ 1 lần nghịch dại mà có thai, vậy lúc nghịch dại ấy ai xem ngày xem giờ cho? Yêu thì Cưới, đó là nét văn hóa của dân tộc Việt, "Ép dầu ép mỡ ai nỡ ép duyên?", "Ngày xưa ai cấm duyên bà, mà nay bà già bà cấm duyên tôi?", "Hùng Vương kén rể thời nay: Xe bốn bánh, Cánh 2 bên, Lên thang máy (nhà biệt thự cao hơn 5 tầng phải đi thang máy chứ ko phải loại trung cư vớ vỉn) Như vậy Kim lâu hay không, không quan trọng trong việc cưới chồng, bởi nếu quan trọng thế thì sao lúc đẻ con ko tính chuyện kim lâu, chồng thì chỉ sống được vài chục năm cùng mình (lâu hơn cha mẹ mình) nhưng thường thì chồng không sống lâu hơn con mình (Ở nhà theo cha, lấy chồng theo chồng, chồng chết theo con cái). Vậy rõ ràng cái chuyện trăm năm kia là sống với con, con cái lo ma chay - hiếu hỉ cho cha mẹ, quan trọng thế sao không Kiêng? hay sướng quá nên quên mất việc kiêng cữ? 6/ Cải số: Quả có vài trường hợp lá số phán Tử vong, đương số quả nhiên có nhìn thấy Quỷ Môn Quan. Nhưng được cứu giải. Nên không phải xuống mười mấy tầng địa ngục an dưỡng. Đó là những trường hợp hi hữu và không phải tất cả những người có cùng ngày, cùng tháng, cùng năm đó đều được cứu giải như thế. Mình không chết thì người khác chết, số trời đã định ngày hôm đó Tử thần với lưỡi hái Đầu lâu phải gom đủ 3000 đầu lâu vào cái túi đen ngòm, nếu không đủ thì bị phạt, không nhẽ cái lão Sư cọ mốc với lưỡi hái dài ngoằng đó nhận hối lộ của quý vị để giết người khác thế thân cho quý vị hoài? Rõ là không rồi. Như vậy việc cải số cũng giống như việc thi Hoa hậu thế giới vậy, cả năm chỉ có 1 người đăng quang ngôi vị cao nhất mà thôi. Chứ cải được số thì sao không làm cho lá số đẹp cả 12 cung số luôn đi, chỉ cải mỗi cái cung Phu Thê hay Tử tức xấu hoắc để làm gì? vậy cung này tốt lên thì cung nào sẽ xấu đi đây? Tử vi không phải là cái để mọi người xoay chuyển càn khôn mà chỉ để con người nhìn vào đó để chuẩn bị tâm lý cũng như cách ứng xử sao cho tốt nhất trong hoàn cảnh đó mà thôi. Nhưng không có nghĩa là khoanh tay chịu trói, Tức biết được tháng này mình bị mất tiền có thể do bị cướp hoặc bị vay đểu. Thì mình phải tự đưa ra đối xách là cướp thì phải truy hô, vay đểu thì chỉ cho vay ít thôi. 7/ Giầu có đừng vội mừng, nghèo khó đừng vội lo: Biết số mình nghèo, bon chen cũng chẳng lợi gì thì đừng lấy đó làm buồn, mà hãy nghĩ đến việc mình sống có hạnh phúc không, người ta giầu có mà con cái ăn tàn phá hại thì có hạnh phúc không? kiếm tiền nhiều để vợ chồng nem chả mà vẫn chung giường, con cái hút sách mà vẫn đi du học thì khi về già có sướng không? Giầu mà không sang chẳng bằng nghèo khó mà đứng đắn. Sống ở trên đời, cần có 1 cái tâm cùng với cái tầm chứ không phải tiền bạc và địa vị. 8/ Tuổi còn trẻ quá (dưới 25) thì không nên tìm hiểu quá sâu về tương lai xa: Tầm tuổi này chỉ nên biết tương lai gần trong 5 năm tới chứ đừng tham lam mà hỏi thông cả đến lúc vào hòm. Cuộc đời này chỉ có 18% là những điều tuyệt vời, với 2% may mắn, còn lại có đến 80% những điều không may. Vì thế hầu hết xem số nói về điềm gở nhiều và dễ hơn điềm lành. Nhưng với số lượng điềm lành nhỏ bé ấy lại làm lên cả 1 kỳ tích về cuộc sống con người. Vì vậy, hãy nhìn gần để dễ làm, đừng nhìn xa quá mà thêm mệt mỏi. 9/ Tỷ phú tại Thiên, Triệu phú nhờ tích góp, đổi giờ sinh để làm gì?: Giầu không phô, nghèo không xấu hổ. Nếu đã biết số mình nghèo thì cố mà tích góp, để một mai mưa gió đau ốm còn có cái dùng, chứ nợ nần là tự mình bán danh dự của mình đi rồi. Bởi nhỡ một mai chết đi, gánh nợ đó đổ lên đầu ai nếu ko phải là người thân ruột thịt trong nhà? Vì vậy dù giầu hay nghèo thì cũng nên khiếm tốn. Đừng xừng sực đổi giờ sinh, ngày sinh. Nếu đã không biết thì cần làm rõ trước, khi đăng tin lên cần kiểm tra lại kẻo đến lúc người giải đã luận giải cả tràng rất dài rồi mà cuối cùng là sai giờ sinh. Nếu quý vị đi xem mất phí, sẽ có bao nhiêu người nhìn quý vị? người ta đang xếp hàng chờ đến lượt mà lại bị 1 kẻ lãng nhách xếp trước. Như thế là không lịch sự. Đổi giờ sinh, chắc gì đã có lá số tốt hơn 10/ Vợ chồng có ngày xa cách: Xa cách không có nghĩa là ly dị, nhưng lại có ý nghĩa là chia ly tạm thời. vì dận nhau hoặc vì công tác, không thể luận giải chính xác được là vì sao. 11/ Bị làm sao đó: Làm sao là làm sao thì có nhiều trường hợp, nhưng tựu chung là muốn biết nguyên nhân và kết quả, Tử vi không thể chỉ rõ được vấn đề, ví như đụng xe hay đâm xe? đụng thì chỉ là va quệt nhẹ, còn đâm xe thì nặng rồi. Nhưng ai đâm ai và xe đâm là xe gì thì chịu nhé, chỉ có Chúa mới biết nó là cái gì và như thế nào. Khoa học cũng như Tử vi không bao giờ trả lời Tại sao mà chỉ giải thích như thế nào. Đừng hỏi tại sao con người lại sinh ra trên trái đất này mà không phải là ở 1 Ngôi sao cô đơn nào đó trong vũ trụ. Không ai và không bao giờ bạn có câu trả lời. 12/ Sao này và sao kia: Nếu quý vị chưa thông tường hoặc chưa thuộc được ý nghĩa cũng như sự phối kết hợp giữa các sao thì không nên đưa ra những câu hỏi về các vì tinh tú này để tránh chuyện tranh cãi nhiều hơn là trao đổi học thuật. Người luận giải thực sự không có hứng thú đàm đạo với quý vị về vấn đề này (hầu hết là thế) 13/ Học giỏi không đồng nghĩa với giầu có và ngược lại: Cuộc đời là thế đó, quý vị có 1 quá khứ học hành siêu việt, nhưng chẳng có gì đảm bảo là quý vị có 1 tương lai sáng về tiền bạc cả. Tiền và Tài không phải lúc nào cũng song hành với nhau Ngày hôm nay có thu nhập cao thì đừng vội mừng, bao giờ nghỉ hưu ở tuổi 60 thì hãy phán xét việc bói toán là trò nhảm nhí. 14/ Giầu nứt đố đổ vách mà không bền: Ai cũng có 1 thời kỳ 10 năm phát đạt, nhưng không phải cả 10 năm đều phát mà có năm được năm hòa. Nhưng tổng kết là tốt và rất tốt. Cái ngưỡng 10 năm tốt đó nó thể hiện ở con số dưới đáy và ở giữa mỗi cung số. Quý vị có thể xác định được cho mình ở khoảng tuổi nào, ví như Mệnh là số 3 và khoảng thời gian tốt nhất cho mọi vấn đề của cuộc sống có thể là từ 23 đến 32 tuổi bởi cung kế tiếp là cung 33, nếu vận hạn tốt ở cung 43 thì thời kỳ tốt đẹp đó là từ 43 đến 52 tuổi. v.v... Đời người thường chi có 1 thời ký 10 năm này thôi, thường thì chỉ có một vài trường hợp đắc cách mới có 2 vận tốt, có thể là ở cung 33 và cung 53 tuổi, tức cung 43 tuổi ko tốt hoặc hơi xấu so với bình thường. 15/ Mất điện thoại có tìm lại được không? hay các câu hỏi đại loại như thế: Vậy mất người yêu có lấy lại được không? đâu cần bói toán gì cũng đoán được mà. Rất ít trường hợp Tử vi có thể đoán được, nên đi tìm các phương pháp tiên đoán khác thì hơn. Mong các quý vị giải số tiếp phím1 like
-
Lấy lại 2 lá số đi bé, ỷ quen rùi hết nhớ thủ tục rùi hay sao? Có mỗi bác Giaback xem cho em Âm Dương chứ ntpt đâu có xem. Hehe1 like
-
1 like
-
Ôi cháu mong lời tiên tri sẽ sai quá..Nếu chiến tranh thì người dân,trẻ nhỏ,các cụ già của 2 nước tội lắm..Hy vọng đừng có chiến tranh...mấy chú khựa này đang khiêu khích Việt Nam thì phải..Mong cho Việt Nam phải thật bình tĩnh,chỉ cần 1 phát súng chắc mấy chú khựa dựa vào đó mà chiến tranh quá... Ôi,đất nước Việt Nam quê hương yêu dấu..sao thương quá..Bỗng nhớ đến câu " Quyết tử cho Tổ Quốc quyết sinh"1 like
-
C Hồng Hà Doanh Doanh ko cho là ko có sự lựa chọn nào khác, nhà chị sâu những 17m - khá sâu nhất là với mặt tiền chỉ 3m, thông thường chiều sâu nhà ống chỉ rơi vào 13, 14m. - WC c ko để giữa, sau c sẽ thấy, cực kỳ bất tiện - Nhà mặt tiền hẹp, nên để tủ bếp ở cùng phía cầu thang, nếu ko giao thông trong nhà ko thuận lợi - Tủ bếp cũng ko hợp lý, chị là nội trợ, chắc chị biết qui trình nấu bêp thế này: Lấy thức ăn (từ tủ lạnh) mang ra rửa (chậu rửa) rồi mang ra chế biến (bàn soạn) sau đó mang đi nấu (bếp). Như vậy, tủ bếp phải bố trí lần lượt là tủ lạnh, chậu rửa, bàn soạn, bếp Nhà chị thì bếp nằm giữa tủ lạnh và bàn soạn. Chạy ra đầu này lấy thức ăn, chạy ra đầu kia để rửa, quên tí hành tí thơm lại chạy ra đầu này lấy........... không khoa học tí nào? Phải không? Phong thủy và kiến trúc khoa học đi đôi với nhau, về phong thủy thì tủ lạnh là thủy, chậu rửa là thủy, bếp là hỏa. 2 bên nước giữa là lửa thì chị biết lửa ntn rồi nhỉ . Mà bếp lửa là tượng trưng sự no đủ, tài bạch gia đình đó nhé. Lửa còn là người phụ nữ trong nhà. Lửa còn là hạnh phúc trong gia đình đó. Lửa bị nước dập thì hẳn chị biết ntn rồi chứ? - Trong phòng nên thiết kế hệ thống tủ âm tường, vừa ko tốn diện tích, phòng vuông vắn đẹp hơn, nhất là bề ngang quá hẹp mà để tủ kiểu kia thì ko ổn chút nào Còn một thứ nữa vô cùng quan trọng mà chị không biết: Nhà chị quá hẹp, vậy bể phốt, bể nước chị tính để thế nào? Ở đâu?Cái này mới ảnh hưởng, bởi phạm trung cung, hay đứt mạch nhà, hay phạm Càn cung, .... đều tuyệt đối ko được, mà nhà 3m thì khó thiết kế vô cùng. Doanh Doanh nghĩ, không biết chị ở đâu, nhưng chị nên mời ai đó tới nhà m xem (Hạt Gạo, Thiên Luân, ...) và phải bàn với KTS thiết kế lại. Bởi phần trên có thể sửa được, nhưng phần chôn dưới đất làm rồi thì đâu sửa lại nổi??? Phần trên có sửa cũng chỉ 1 vài thứ, còn liên quan tới nước lửa thì lại liên quan hệ thống ống chôn tường, .... Nói dài thế, không hiểu chị có hình dung ra? THực lòng, về công năng sd và thẩm mỹ, thì ngoài cầu thang, Doanh Doanh thấy 1 từ thôi XẤU TOÀN TẬP. Doanh Doanh nói rất chân tình, Cũng chọn viên đá nào nho nhỏ, xinh xinh, đèm đẹp nhất để ném rồi . Chị nghiên cứu kỹ lại xem nhé. Giờ Doanh Doanh ko ném đá nữa đâu. Chúc chị có một tổ ấm đúng nghĩa1 like
-
Tháng 5 này có sự níu kéo bao bọc và thuyết phục của người yêu. Chứ cả như cô thì đã cho cuộc tình này về với cát bụi rồi. Thấy tháng này chắc cô sút cân, Bởi sự ngăn cản quá quyết liệt lại có cả sự cãi nhau rất to của một đám đông người. T6 - rơi vào vòng mê muội. T7 Có thể sẽ là Em để tang cho một cuộc tình? Hãy để cho ông trời quyết định nhé hỏi ,xem trước có giải quyết gì đâu? khi mà số đã an bài1 like
-
Chuyện dọa là của bác sỹ, Thời này bác sỹ muốn kiếm xien ko dọa bệnh nhân mới là lạ . Cái này chuyện thường như ở huyện.1 like
-
Hải quân Việt Nam làm chủ trang thiết bị mới Thứ bảy, 11/06/2011, 09:40(GMT+7) Để bảo vệ vững chắc chủ quyền biển, đảo, thềm lục địa thiêng liêng của Tổ quốc, Hải quân nhân dân Việt Nam thường xuyên thực hiện huấn luyện sẵn sàng chiến đấu. Sau đây là một số hình ảnh về Quân chủng Hải quân nhân dân Việt Nam huấn luyện sẵn sàng chiến đấu, làm chủ các trang thiết bị mới, hiện đại. Biên đội tàu Hải quân NDVN chuẩn bị huấn luyện trên biển. Tàu hộ vệ săn ngầm Lữ đoàn 171 bắn tên lửa. Tên lửa trên bờ Hải quân tập trận bắn tên lửa. Tàu Hải quân huấn luyện bắn đạn thật trên biển. Chuẩn bị đi biển. Hải quân đánh bộ luyện tập sẵn sàng chiến đấu. Huấn luyện làm chủ trang bị mới, hiện đại ở Lữ đoàn 162, Vùng 4 Hải quân. Hải quân nhân dân Việt Nam chính qui, tinh nhuệ, hiện đại. Tên lửa bộ sẵn sàng chiến đấu. Biên đội tàu Lữ đoàn 162, Vùng 4 Hải quân huấn luyện trên biển. Tàu của Đoàn M72 huấn luyện trên biển. (Theo ĐấtViệt)Tin đăng lại Nguồn tin: Baodatviet1 like
-
Thế giới nhận định về căng thẳng Biển Đông Giới quan sát quốc tế ghi nhận rằng căng thẳng đang leo thang trên Biển Đông, lý giải nguyên nhân, và dự đoán tình hình sẽ còn nghiêm trọng. Họ cũng khuyến cáo các bên phải rất kiềm chế và đoàn kết để có được giải pháp hòa bình. Dưới đây là trích đăng bài viết của một số hãng thông tấn, báo đáng chú ý trong hai ngày qua, sau vụ tàu Trung Quốc phá hoại cáp tàu khảo sát của Việt Nam. Tờ New York Times, với tiêu đề "căng thẳng bùng lên" ở Biển Đông, cho rằng tình hình hiện nay chứng tỏ cơ chế Tuyên bố về ứng xử của các bên ở Biển Đông không có hiệu quả. Đây là nhận xét của Michael Vatikiotis, chuyên gia an ninh tại Trung tâm đối thoại nhân văn Singapore. "Các nước láng giềng của Trung Quốc ngày càng bất bình với việc Quân đội Giải phóng nhân dân PLA thiết lập căn cứ tàu ngầm ở đảo Hải Nam, ngay rìa phía bắc của khu vực biển tranh chấp". Báo này dẫn bình luận của chuyên gia an ninh biển Mark Valencia - một người giỏi có tiếng trong vấn đề tranh chấp ở Biển Đông, như sau: "Dường như các vụ va chạm giữa Trung Quốc và các bên tuyên bố chủ quyền khác đang ngày càng tăng. "Tại sao lại là bây giờ?", chuyên gia đặt câu hỏi. Nhìn từ góc độ Trung Quốc, "có lẽ là do bây giờ họ đã có đủ lực lượng". Đài tiếng nói Hoa Kỳ VOA dẫn thông tin từ văn bản do Giám đốc CIA Leon Panetta gửi Quốc hội Mỹ trong quá trình xem xét việc ông sẽ trở thành Bộ trưởng Quốc phòng. Trong văn bản này, Panetta nhận xét rằng, Trung Quốc dường như đang xây dựng lực lượng để "chiến đấu và chiến thắng trong những cuộc xung đột quyết liệt và chớp nhoáng" trên các đường biên giới nước này. VOA tường thuật lại một số vụ đụng độ vừa qua trên biển giữa các tàu của Trung Quốc với tàu Việt Nam và Philippines, trong khi các quan chức Trung Quốc luôn khẳng định ủng hộ hòa bình và ổn định trên Biển Đông. Tàu khảo sát của Mỹ và các tàu của Trung Quốc trong một vụ va chạm trên Biển Đông năm 2009. Mỹ tố cáo Trung Quốc vi phạm luật lệ quốc tế khi cho tàu quấy rối tàu Mỹ. Bắc Kinh đáp lại rằng tàu Mỹ "do thám". Ảnh: US Navy.Giám đốc CIA lưu ý với Quốc hội Mỹ rằng, Trung Quốc có vẻ như đang xây dựng lực lượng chuẩn bị cho các xung đột tiềm tàng liên quan đến Đài Loan, kể cả khi có sự can thiệp của Mỹ. Ông chủ tương lai của Lầu Năm Góc đề nghị Mỹ theo dõi sát sự lớn mạnh của quân đội Trung Quốc trong lúc vẫn phải tìm cách duy trì hòa bình và ổn định, cũng như giảm nguy cơ xung đột trong khu vực này. Bản tin của BBC hôm qua, sau khi điểm lại tình hình căng thẳng leo thang hiện nay trên Biển Đông, nhấn mạnh thực tế rằng, "Trung Quốc muốn giải quyết vấn đề tranh chấp với từng quốc gia riêng lẻ. Việt Nam, Indonesia và Philippines muốn xây dựng nỗ lực chung của cả khu vực nhằm tìm một giải pháp đa phương cho cuộc xung đột". Bản tin của Inquirer, nhật báo hàng đầu của Philippines, dẫn tuyên bố mạnh mẽ của thượng nghị sĩ Francis Pangilinan kêu gọi chính phủ không quỳ gối trước sức ép của Trung Quốc. "Chúng ta không để bị bắt nạt bởi cách cư xử phi ngoại giao này", tuyên bố của ông Pangilinan đưa ra sau khi đại sứ Trung Quốc tại Manila Lưu Kiến Siêu yêu cầu các nước khác không được khai thác tài nguyên ở Trường Sa. "Chúng ta không bao giờ cho phép thế lực nào ép buộc chúng ta tuân lệnh", Pangilinan nói thêm. Các nghị sĩ Philippines có những luồng ý kiến khác nhau: nếu giải quyết hòa bình tránh leo thang căng thẳng - bằng cách đưa vấn đề tranh chấp ra LHQ và ASEAN, chẳng hạn theo cơ chế ASEAN+1. "Chúng ta nên theo cách này thay vì đồng tình với đề xuất củng cố quân đội Philippines, bởi điều đó sẽ chỉ kích động Trung Quốc có thêm các hành động thù địch trong khu vực mà thôi", nghị sĩ Rodolfo Biazon nói. Nghị sĩ Ben Evardone thì cho rằng ASEAN và LHQ nên tham gia dập tắt tình trạng leo thang căng thẳng hiện nay giữa các bên tranh chấp. "Các bên nên tránh những cuộc khẩu chiến qua lại. Tôi nghĩ đã đến lúc cần có tuyên bố đình chiến truyền thông, nhằm ngăn chặn nguy cơ xảy ra xung đột lớn". Đài RFA đăng bình luận của các nhà phân tích người Trung Quốc cho rằng tranh chấp chủ quyền lâu dài trên Biển Đông, gần Trường Sa, đang có dấu hiệu ngày càng nghiêm trọng. Wu Fan, chủ bút tạp chí China Affair có trụ sở tại Mỹ, cho biết, Trung Quốc đã bắt đầu lục tìm lại các ghi chép lịch sử từ thời phong kiến tiền 1911 để tìm những cứ liệu biện minh cho tuyên bố chủ quyền trên quần đảo Trường Sa, nơi được cho là có nhiều tài nguyên. "Việt Nam sẽ không xuống thang, và Trung Quốc cũng không xuống thang. Đặc biệt là không xuống thang trong vấn đề các quần đảo. Đôi bên sẽ ngày càng phân cực". Giáo sư đại học Seton Hall Yang Liyu nói rằng hiện giờ cả hai bên rất khó mà hạ nhiệt. "Chuyện này giống như châm lửa bằng xăng", Yang nói. "Tình hình rất có thể trở nên nghiêm trọng hơn, ảnh hưởng đến sự ổn định trong toàn khu vực" Biển Đông. "Sự tranh chấp và đụng độ chắc chắn sẽ ngày càng nghiêm trọng". Tờ Daily Youmuri, Nhật Bản đăng bài xã luận với tiêu đề "Bắc Kinh cần kiềm chế trên biển", cho rằng Trung Quốc đã phá vỡ cam kết trong DOC 2002. Báo này nhận xét rằng dù tại Đối thoại an ninh Shangri-La vừa qua, Bộ trưởng Quốc phòng Trung Quốc Lương Quang Liệt khẳng định Bắc Kinh ủng hộ hòa bình trên Biển Đông, và rằng khu vực này vẫn ổn định, nhưng hai người đồng nhiệm Việt Nan và Philippines ngay lập tức có những tuyên bố khác hẳn về tình hình. "Trung Quốc sẽ không có được lòng tin của cộng đồng quốc tế nếu những điều họ nói không giống những gì họ làm", xã luận có đoạn. Báo Nhật này cho rằng Trung Quốc đang ngày càng tỏ ra ngang nhiên trên biển bởi kế hoạch phát triển kinh tế xã hội 5 năm của nước này đã đặt trọng tâm vào mở rộng các lợi ích trên biển. Và vì thế "các thành viên ASEAN phải đoàn kết chặt chẽ" để bảo vệ vùng biển của họ, không để Trung Quốc biến nó thành "ao nhà". Thanh Mai1 like
-
tài bạch ,dễ kiếm tiền, giàu có nhưng cũng ăn xài mua sắm nên hoang phí nên không thành đại phú được ,nếu bán buôn ở xa lại càng phát tài nhanh chóng , có tay kinh doanh, nói ra tiền. Đang học về ngành gì? quan lộc, buổi đầu khó khăn , về hậu vận rất rực rỡ có danh chức khá cao ,nhưng cũng hay bị thị phi khẩu thiệt. Qua 33 tuổi thời vận bắt đầu thông Em chờ ý kiến bác haithienha, anh Quốc Tuấn, v v cho chính xác nhé1 like
-
Hãy tiếp tục học tiếp chớ để mọi người buồn vì mình. Việc cháu làm hay chóng chán nên ngay cả việc học cũng cả thèm chóng chán đó thôi. Không nên ngồi nơi này mà trong nơi khác Hãy học lấy một bằng hoặc một nghề thật tinh thông thì sẽ đạt được điều mình mong muốn . Và ko được nóng vội cháu mắc một căn bệnh cố hữu là hay nóng vội làm gì cũng muốn chóng xong . Nóng vộ nhiều khi là đầu nguồn của thất bại. Hãy tập tu theo chữ Nhẫn biết chưa?1 like
-
Hành động nguy hiểm và vô ích 10/06/2011 23:32 Thanh Niên tiếp tục trao đổi qua thư điện tử với một số học giả quốc tế uy tín liên quan đến vấn đề Trung Quốc tiếp tục làm leo thang căng thẳng tại biển Đông với hành động cản phá hoạt động tàu thăm dò Viking II của VN sáng 9.6. Ông nhận định thế nào về việc tàu Trung Quốc tiếp tục vi phạm nghiêm trọng chủ quyền thềm lục địa và đặc khu kinh tế của VN hôm 9.6? Giáo sư (GS) Carlyle A.Thayer, Học viện Quốc phòng Úc: Việc xâm nhập sâu vào vùng biển chủ quyền của VN liên tiếp trong 2 tuần của tàu Trung Quốc rõ ràng là hành động khiêu khích và gây hấn, làm phân hóa VN với các thành viên còn lại của ASEAN. Hành động này cho thấy Trung Quốc ngày càng ngang ngược, cố khẳng định chủ quyền tại nơi mà nước này không có cơ sở pháp lý nào để minh chứng cho điều đó. GS Thayer - GS Townsend-Gault GS Ian Townsend-Gault, khoa Luật, Đại học British Columbia (Canada): Trong lúc yêu sách về đường 9 đoạn của Trung Quốc vẫn không được cộng đồng thế giới công nhận, nước này lại tiếp tục có những hành động leo thang dưới danh nghĩa bảo vệ chủ quyền (không có giá trị pháp lý) của mình. Tôi sẽ đặt câu hỏi ngược lại rằng: Trung Quốc bảo vệ cái gì khi hoạt động thăm dò của tàu VN hoàn toàn nằm trong vùng biển thuộc chủ quyền, không gây phương hại nguồn tài nguyên biển Đông chứ đừng nói đến an ninh khu vực. Do vậy, hành động thái quá của Trung Quốc, trong cả 2 sự kiện 26.5 và 9.6, là rất nguy hiểm cho tình hình biển Đông. Ông có nhận xét gì về luận cứ tuyên bố chủ quyền trên biển Đông của Trung Quốc? Ông Rodolfo C.Severino, Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu ASEAN, Viện Nghiên cứu Đông Nam Á - ISEAS (Singapore): Rõ ràng, việc tuyên bố chủ quyền trên biển Đông mà chỉ dựa trên quyền lịch sử và luật lệ của chính nước mình là một hành động đi ngược lại luật pháp quốc tế, đặc biệt là Công ước LHQ về Luật Biển 1982. Trong khi VN và các nước khác trong khu vực như Philippines hay Malaysia đã có những điều chỉnh cụ thể về khái niệm thềm lục địa và đặc khu kinh tế để từ đó đưa ra những luận cứ thuyết phục hơn về chủ quyền, Trung Quốc vẫn chưa làm được điều này. GS Amer (trái), ông Severino - Ảnh: Nhân vật cung cấp GS Ramses Amer, Trung tâm Nghiên cứu châu Á, Thái Bình Dương, Đại học Stockholm (Thụy Điển): Trung Quốc chỉ dựa vào quyền lịch sử và khái niệm vùng biển liền kề để đưa ra tuyên bố chủ quyền và rất ít khi đề cập khái niệm thềm lục địa hay đặc khu kinh tế. Điều này làm việc khẳng định chủ quyền của Trung Quốc ngày càng mập mờ và tối nghĩa, trong khi các nước tranh chấp khác, trong đó có VN, ngày càng có quan điểm rõ ràng hơn về chủ quyền. Những hành động vừa qua của Trung Quốc sẽ mang lại kết quả gì cho nước này, thưa ông? GS Townsend-Gault: Chắc chắn tình trạng leo thang vừa qua trên biển Đông sẽ chẳng giúp ích được gì cho Trung Quốc trong tham vọng tuyên bố chủ quyền trên phần lớn biển Đông. Hơn thế nữa, hình ảnh của nước này, trong khu vực và trên thế giới, sẽ chẳng cải thiện được thêm chút nào. Tôi muốn nhấn mạnh rằng điều tiên quyết để khẳng định vị thế của một quốc gia trên thế giới là phải thể hiện tinh thần thượng tôn pháp luật quốc tế ở mức tối đa. GS Thayer: Như tôi đã nói ở trên, Trung Quốc đang cố tình gây phân hóa VN với các thành viên còn lại trong khối ASEAN. Nhưng những diễn biến vừa qua chỉ đem đến một kết quả chắc chắn: chủ đề biển Đông sẽ một lần nữa thống lĩnh chương trình nghị sự tại Hội nghị Bộ trưởng Ngoại giao ASEAN và Diễn đàn Khu vực ASEAN trong tháng 7. Vai trò của ASEAN đối với vấn đề này trong bối cảnh hiện nay như thế nào, thưa ông? Ông Severino: Theo tôi ASEAN cần tiếp tục gây áp lực với Trung Quốc, đặc biệt là đối với vấn đề muôn thuở chỉ một mình Trung Quốc thừa nhận: đường đứt khúc 9 đoạn. GS Townsend-Gault: ASEAN cần thể hiện quan điểm rõ ràng hơn nữa về khía cạnh luật pháp quốc tế. Khi ASEAN đã đồng thuận về việc mọi bất đồng phải được giải quyết trên tinh thần thượng tôn pháp luật thì tự nhiên Trung Quốc sẽ chịu một áp lực rất lớn trong việc tìm cơ sở pháp lý biện minh cho hành động của mình. Chừng nào ASEAN còn chưa có tiếng nói chung thì Trung Quốc còn dễ dàng thực hiện ý đồ của mình. An Điền (thực hiện)1 like
-
Còn có tư liệu sớm hơn về nhà nước Đại Việt quản lý Hoàng Sa và Trường Sa là vào đời Trần. Sách của học giả Trung Quốc Trần Kinh Hòa viết: “Năm 1306 vua Trần Anh Tông liên kết với Chiêm Thành để cùng nhau chống quân Nguyên xâm lược. Anh Tông đem em gái gả cho Vua Chiêm , Vua Chiêm đưa sính lễ là hai châu Ô và Lý cho Vua Trần. Vua Trần Anh Tông chia hai châu đó thành châu Thuận ( sau gọi là Thừa Thiên phủ) và châu Hóa (sau gọi là Quảng Nam tỉnh)”. Quảng Nam quản hạt quần đảo Hoàng Sa. Nhưng trong lịch sử thì người dân Việt Nam đã quản lý và khai thác Hoàng Sa và Trường Sa từ thời nước Văn Lang cổ đại. Các học giả Trung Quốc viết rằng: “Truyền thuyết Trung Hoa có nói về nước Cam cổ đại, nhưng chẳng biết nước Cam ấy nằm ở đâu”. Bản thân tên Cam để lại trong truyền thuyết sử đã nói rõ rồi thây. Đó là nước của người “Kinh ở phía Nam”=(lướt)=Cam, mà ranh giới tận cùng của nó thời ấy là Cam Ranh. Về sau cổ sử Trung Hoa còn gọi nước đó là Cổ An Nam Quốc, mà Hòa Thượng Thích Đại Sán viết cuốn “Hải ngoại ký sự” gồm 6 quyển, chỉ kể về chuyến sang thăm và làm việc ở nước Đại Việt, đã vui mừng nói “được thăm Cổ An Nam Quốc”. Nước An cổ đại ở phía Nam, ấy chính là nước Yên=nước Nguyễn=nước Duôn=nước Lâm tức Lâm Âp. Dân cư gồm người Kinh, người Chăm và các dân tộc bản địa khác của đại tộc Việt sống xen kẽ các làng bản, cũng giống như 54 dân tộc anh em của Việt Nam ngày nay, hai sắc tộc ở hai làng chỉ cách nhau một cánh đồng cùng làm chung nhưng đều có ngôn ngữ riêng, trang phục riêng, phong tục riêng, có lễ hội nào cũng chung cả các săc tộc, còn chuyện yêu nhau lấy nhau lẫn lộn sắc tộc thì bình thường như từ hàng ngàn năm nay, vì người Việt vốn yêu tự do, tự do tỏ tình và thích hát múa. Xem bức họa mà người phương Tây vẽ cảnh dân cư Đàng Trong ngồi nghỉ trưa nói chuyện dưới gốc cây ngoài đồng (trong cuốn “Có năm trăm năm như thế”, mới XB năm 2011) thì thấy có ông người Kinh mặc áo và xống, Xà Rông=(lướt)=Xống, hơi giống cái Phạ Xà Lùng của người Lào, để cái nón quai thao dựng bên đầu gối, có bà người Ba Na cổi trần đang ăn trầu, có ông người Chăm mặc áo và váy v.v., ở Đàng Ngoài đàn bà mặc yếm và cái bằng Vải=Váy=Vận=Quấn=Mấn ,là cái váy, là “ cái thúng mà thủng hai đầu, bên Ta thì có bên Tàu thì không”, Mấn=Quần, người Hán gọi cái váy là Quần, phát âm là “Xuýn”, từ Quần ấy là một từ Việt, vì cổ đại dân du mục phương Bắc chưa biết làm vải, họ mặc cái bằng da cừu có hai ống để ngồi lưng ngựa cho tiện, sau họ gọi cái hai ống ấy bằng từ Khố của tiếng Việt, họ phát âm là “khu”. ( Chỉ có cái xi líp thì ta phải mượn từ của Pháp thôi, vì cổ đại dù người Việt có dệt được lụa bằng tơ tằm mỏng như tơ nhện, người Việt cũng không vận thứ đó vì nó “mất tự do”). Nước Lâm Ấp thì nhà Đường gọi là Hoàn Vương, nhà Tống gọi là Chiêm Thành hay Chiêm Bà. Thủ lĩnh Lâm Ấp là Khu Liên, “Hậu Hán thư” viết là Khu Lệnh, “Lương thư” viết là Khu Đạt, sử liệu Việt Nam viết là Thích Lợi Ma La, là người Chăm. Thời Bắc thuộc Khu Liên làm Tả Sứ cho huyện lệnh Tượng Lâm (như chức trợ lý của huyện lênh). Năm 137 Khu Liên lãnh đạo nhóm người cùng tộc giết chết huyện lệnh. Thứ sử người Hán đang cai trị ở Giao Chỉ là Phừng Diễn đem một vạn quân ở Giao Chỉ và Cửu Chân đánh không lại vài nghìn quân của Khu Liên, nên đòi xin thêm bốn vạn quân nữa từ Kinh Châu, Dương Châu, Dự Châu ( tức vùng Hồ Bắc, Hồ Nam, Triết Giang) sang. Nhưng Lý Cố can ngăn vua Hán Thuận Đế, vì trong nước cũng đang có loạn, không cho viện binh. Khu Liên giành được độc lập, lập Vương Quốc Chăm Pa, truyền được 2-3 đời, sau đó do không có trai thừa tự nên lập cháu ngoại là Phạm Hùng người Kinh lên làm vua. Vương Quốc Chăm Pa đa sắc tộc tồn tại độc lập được hơn 1700 năm trải qua nhiều đời vua. Đến thời Lê Lợi thì mới hội nhập hoàn toàn vào nước Đại Việt. Người Việt Nam giỏi hàng hải từ thời cổ đại, mà thời đó phương tiện rất thô sơ, nhưng vẫn vượt đại dương được nhờ người Việt đã sáng chế ra cái La-Canh là cái kim chỉ phương La=phương Lả=Phương Lâm=phương Lam=phương Nam=phương Nóng=phương Nóc(mặt trời ban trưa luôn trên đỉnh đầu, điều mà vùng ôn đới không thể có)=phương Sóc=phương South, và phương Canh=phương Lạnh=phương Nạnh=phương North. Cũng còn gọi là Kim Chỉ Nam, Hán thư gọi là cái La Bàn. Người Việt gọi Hải là Bể, phương tiện để đi bể là cái Bè, Bể=Bè, Bè là thứ để đi dọc tức đi xa, còn đi gần tức đi ngang thì có Mảng, đều là bằng cây nứa ghép lại. Mảng=Miểng=Minh, sinh ra từ bác học “Liên Minh” nghĩa là “ghép sát lại với nhau”, cũng như từ ghép Bè Phái; Bè=Bậu=Tầu; Chỗ chung Bậu=(lướt)=Châu, từ Châu thường dùng để chỉ nơi tập kết nhiều bè, như địa danh Châu Ổ ở Quảng Ngãi, Châu Ổ=Tầu Đỗ; Bè Miểng=(lướt)=Biển, nên tiếng Việt có hai từ để gọi Hải là Bể hoặc Biển. Từ Châu và từ Biển đã được Hán ngữ mượn chỉ dùng để chỉ phương tiện đi bể, họ gọi là Châu Biển, chữ Châu là chữ tượng hình, còn chữ Biển chỉ là chữ để mượn âm làm “giả tá”, Châu Biển=Tầu Biển=Tầu Bè. Học giả Trung Quốc Trần Kinh Hòa ( 1957) viết: Trung Quốc thời Minh Thanh e sợ tầu biển của Nhật Bản nên có “hải cấm chính sách”, không cho tầu biển của thương nhân Nhật vào Trung Quốc mua hàng, cũng cấm không cho thương nhân Trung Quốc dùng thuyền chở quặng sang bán cho Nhật (từ năm 1371-1567). Sau nhờ có quan tuần vũ tỉnh Phúc Kiến tâu xin đề nghị cho thương nhân dùng thuyền ra biển buôn bán để mỡ mang thương nghiệp nước nhà, lệnh mới được dỡ bỏ, nhưng vẫn cấm bán hàng, chủ yếu là quặng, cho Nhật. Thế là thương nhân Nhật và Trung Quốc hẹn buôn bán với nhau ở cảng Hội An của Việt Nam, riêng từ 1604 đến 1635 đã có được mấy trăm chuyến thương vụ trao đổi tại Hội An. Chúa Nguyễn Hoàng vào Thuận Hóa từ năm 1558, Chúa Nguyễn cho phép người Hoa chạy loạn từ nước Đại Minh sang được định cư khai khẩn đất hoang xen kẽ với các làng Việt, những người Hoa ấy gọi làng của họ định cư là Làng Minh Hương. Họ thấy làng Việt nào cũng có nơi sinh hoạt cộng đồng gọi là Đình, nên cũng bắt chước dựng nơi sinh hoạt cộng đồng gọi là Đình Minh Hương, mà kiến trúc thì giống như kiến trúc của miền Trung Bộ Việt Nam. Họ hội nhập nhanh vào xã hội Việt Nam, niên hiệu dùng trong viết gia phả hay văn tế đều lấy niên hiệu các Vua Đại Việt. Trong số họ cũng có nhiều người thành đạt hoặc được làm quan, như Võ Trường Toản, Trương Vĩnh Ký, Trịnh Hoài Đức, Phan Thanh Giản. Không giống như những người Hoa tới sau từ nước Đại Thanh, họ lập Hội quán riêng cho từng cộng đồng, niên hiệu vẫn viết theo niên hiệu nhà Thanh. Họ qui định với nhau, người Đại Thanh sang thì phải đến thế hệ hai mới có thể được xét để đóng thuế gia nhập Làng Minh Hương. Hòa Thượng Thích Đại Sán được mời sang thăm và làm việc ở nước Đại Việt. Về nước, ông viết sách “Hải ngoại ký sự” gồm 6 quyển , được khắc bản đời Khang Hy nhà Thanh. Ông kể sôi nổi về chuyến đi Việt Nam “Đi thuyền trên biển khỏi Quảng Đông là đến nước Đại Việt, tức vị chi Hải ngoại ký sự dã”. Ông được Chúa Nguyễn tiếp ở Thuận Hóa “ Bính Tí , Bồ nguyệt, Đại Việt Quốc Vương Nguyễn Phúc Chu thụ tiếp丙子蒲月大越國王阮福周受接”, rồi làm lễ ở “Tây Cung Giác Vương Nội Viện西宮覺王內院”. Từ Huế ông lại được đi thuyền biển vô Hội An, ấy là năm 1694. Ông say sưa kể về sự giàu có và dân cư Việt Nam lao động siêng năng trên đồng ruộng và trên biển. “Đâu cũng có thành quách, xung quanh thành quách đều có trồng tre”, “sản vật vô cùng phong nhú, hương liệu, kỳ nam chất như núi”, “hàng ngày đều có các thuyền của ngư dân Việt đem sản vật khai thác từ quần đảo Hoàng Sa về như cá, tôm, mực, đồi mồi, rau câu, ngọc trai”. Mời xem cập nhật bài của Tiến Sĩ Nguyễn Nhã: Cơ sở pháp lý xác lập chủ quyền VN tại Hoàng Sa Cập nhật ngày Thứ năm, 21 Tháng 10 2010 01:47 Cơ sở pháp lý quốc tế và các hành động xác lập và thực thi chủ quyền rất cụ thể của VN suốt từ đầu thế kỷ XVII là những bằng chứng hiển nhiên, bất khả tranh nghị về chủ quyền của Việt Nam tại quần đảo Hoàng Sa. Mọi sự tranh giành chủ quyền với Việt Nam là hành động trái phép với luật pháp quốc tế - Bài viết của Tiến sĩ sử học Nguyễn Nhã. Cơ sở pháp lý quốc tế về sự thiết lập chủ quyền lãnh thổ tại các hải đảo Trong giai đoạn từ đầu thế kỷ XVI đến thế kỷ XIX, các nước Hà Lan, Anh, Pháp cũng phát triển dần trở thành cường quốc, bị đụng chạm quyền lợi, không chịu chấp hành sắc lệnh của Giáo Hoàng Alexandre VI ký ngày 4 tháng 5 năm 1493 xác định nguyên tắc phân chia các vùng lãnh thổ mới phát hiện ngoài Châu Âu. Từ thực tế này, các nước đã tìm ra nguyên tắc mới về thiết lập chủ quyền trên những vùng lãnh thổ mà họ phát hiện. Đó là thuyết "quyền ưu tiên chiếm hữu" một vùng lãnh thổ thuộc về quốc gia nào đã phát hiện ra vùng lãnh thổ đó đầu tiên. Đó chính là thuyết "quyền phát hiện". Trên thực tế, việc phát hiện như trên chưa bao giờ tự nó đem lại cho quốc gia phát hiện chủ quyền lãnh thổ vì rất khó xác định chính xác thế nào là phát hiện, xác nhận việc phát hiện và xác định giá trị pháp lý của việc phát hiện ra một vùng lãnh thổ. Vì thế việc phát hiện đã mau chóng được bổ sung bằng việc chiếm hữu trên danh nghĩa, nghĩa là quốc gia phát hiện ra một vùng lãnh thổ phải để lại dấu vết trên vùng lãnh thổ mà họ phát hiện. Một đảo lớn trong quần đảo Hoàng Sa. Ảnh: TTO Sau hội nghị Berlin về châu Phi năm 1885 của 13 nước Châu Âu và Hoa Kỳ và sau khoá họp của Viện Pháp Luật Quốc Tế ở Lausanne ( Thụy Sĩ) năm 1888, nguyên tắc chiếm hữu thật sự trở thành quan điểm chiếm ưu thế trên thế giới. Điều 3, điều 34 và 35 của Định ước Berlin ký ngày 26 tháng 6 năm 1885 xác định nội dung của nguyên tắc chiếm hữu thật sự và các điều kiện chủ yếu để có việc chiếm hữu thật sự như sau: - “Phải có sự thông báo về việc chiếm hữu cho các nước ký định ước trên". - "Phải duy trì trên những vùng lãnh thổ mà nước ấy chiếm hữu sự tồn tại của một quyền lực đủ để khiến cho các quyền mà nước ấy đã giành, được tôn trọng…” Tuyên bố của Viện Pháp Luật Quốc Tế Lausanne năm 1888 đã nhấn mạnh “mọi sự chiếm hữu muốn tạo nên một danh nghĩa sở hữu độc quyền … thì phải là thật sự tức là thực tế, không phải là danh nghĩa”. Chính tuyên bố trên của Viện Pháp Luật Quốc Tế Lausanne đã khiến cho nguyên tắc chiếm hữu thật sự của định ước Berlin có giá trị phổ biến trong luật pháp quốc tế chứ không chỉ có giá trị với các nước ký định ước trên. Nội dung chính của nguyên tắc chiếm hữu thật sự là : 1.Việc xác lập chủ quyền lãnh thổ phải do nhà nước tiến hành. Tư nhân không có quyền thiết lập chủ quyền lãnh thổ vì tư nhân không có tư cách pháp nhân quốc tế, vì quan hệ quốc tế là quan hệ giữa các quốc gia. 2. Sự chiếm hữu phải được tiến hành một cách hoà bình trên một vùng lãnh thổ thật sự là vô chủ (res nullius) hoặc là đã được quốc gia làm chủ chủ động từ bỏ (derelicto). Dùng võ lực để chiếm một vùng lãnh thổ đã có chủ là một hành động phi pháp. 3. Quốc gia chiếm hữu trên thực tế phải thực hiện những hành động chủ quyền ở mức độ tối thiểu phù hợp với các điều kiện tự nhiên và dân cư trên vùng lãnh thổ đó. 4. Việc thực hiện chủ quyền phải liên tục trên vùng lãnh thổ đó. Ngày 10 tháng 9 năm 1919, công ước Saint Germain đã được các cường quốc lúc bấy giờ ký tuyên bố hủy bỏ định ước Berlin năm 1885 với lý do là trên thế giới không còn lãnh thổ vô chủ nữa và như thế nguyên tắc chiếm hữu thật sự không còn giá trị pháp lý nữa. Song do tính hợp lý của nguyên tắc này, các luật gia trên thế giới vẫn vận dụng nó khi phải giải quyết các vụ tranh chấp chủ quyền trên các hải đảo. Như phán quyết của toà án trọng tài thường trực quốc tế La Haye tháng 4 năm 1928 về vụ tranh chấp đảo Palmas giữa Mỹ và Hà Lan, phán quyết của toà án quốc tế của Liên Hợp Quốc tháng 11 năm 1953 về vụ tranh chấp các đảo Minquiers và Écrehous giữa Anh và Pháp. Những thay đổi trong pháp luật quốc tế nửa đầu thế kỷ XX đã làm thay đổi phương pháp thủ đắc chủ quyền lãnh thổ trên thế giới. Sau chiến tranh thế giới thứ 2, Liên Hợp Quốc được thành lập tiếp theo Hội Quốc Liên. Từ các cuộc chiến tranh xâm lược, Hiến Chương Liên Hợp Quốc đưa ra nguyên tắc (điều 2 khoản 14) có giá trị như một nguyên tắc pháp lý áp dụng cho tất cả các quốc gia. Nguyên tắc cấm sử dụng vũ lực trên đã được phát triển và tăng cường trong Nghị Quyết 26 – 25 năm 1970: “Lãnh thổ của một quốc gia không thể là đối tượng của một cuộc chiếm đóng quân sự do sử dụng vũ lực trái với “các quy định của Hiến Chương”. Lãnh thổ của một quốc gia không thể là đối tượng của một sự chiếm hữu của một quốc gia khác sau khi dùng đe dọa hay sử dụng vũ lực. Bất kỳ sự thụ đắc lãnh thổ nào đạt được bằng đe dọa hay sử dụng vũ lực sẽ không được thừa nhận là hợp pháp”. Nghị quyết trên cũng qui định: “Các quốc gia có bổn phận không dùng đe dọa hay sử dụng vũ lực để vi phạm các biên giới quốc tế hiện có của một quốc gia khác hay như biện pháp giải quyết các tranh chấp quốc tế , kể cả các tranh chấp về lãnh thổ và các vấn đề liên quan đến các biên giới của các quốc gia.” Năm 1982, Công ước về luật biển Liên Hợp Quốc gọi là “United Nations Convention on Law of Sea" ,viết tắt là UNCLOS Convention công bố ngày 10-2-1982 tại Montego Bay ở Jamaica đã được 159 quốc gia ký nhận. Sau khi có đủ 60 quốc gia duyệt y (ratification), kể từ ngày 16-11-1994 thoả ước UNCLOS hay LOS Convention trở thành luật quốc tế đối với các quốc gia phê chuẩn và được mang ra, thi hành, đã xác định về chủ quyền trên biển của mỗi quốc gia … Như thế trước khi bị các nước ngoài xâm phạm chủ quyền Việt Nam ở quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa tức đầu thế kỷ XX trở về thế kỷ XVII, theo pháp lý quốc tế theo kiểu Phương Tây lúc bây giờ, sự xác lập chủ quyền Việt Nam một cách thật sự, liên tục, hoà bình là cơ sở pháp lý quốc tế đương thời. Đến khi chủ quyền của Việt Nam bị xâm phạm, vào thời đểm 1909, pháp lý quốc tế có giá trị phổ biến là Tuyên bố của Viện Pháp Luật Quốc Tế Lausanne năm 1888. Sau đó Hiến Chương Liên Hiệp Quốc và Luật Biển 1982 cũng là cơ sở pháp lý quốc tế mà các thành viên ký kết bao gồm các nước đang vi phạm chủ quyền của Việt Nam ở quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là Trung Quốc, Philippines, Malaysia, Brunei đều phải tôn trọng. Tính pháp lý quốc tế của sự xác lập chủ quyền của Việt Nam tại quần đảo Hoàng Sa Vào đầu thế kỷ XVII đến đầu thế kỷ XX, năm 1909, Việt Nam đã chiếm hữu thật sự, hoà bình và thực thi liên tục theo đúng nguyên tắc pháp lý quốc tế lúc bấy giờ với những chứng cứ sau đây: Một là với tính cách nhà nước, đội Hoàng Sa, một tổ chức bán quân sự đã được giao nhiệm vụ, riêng một mình kiểm soát và khai thác định kỳ, liên tục và hoà bình hải sản quý cùng các sản vật kể cả súng ống của các tàu đắm tại các đảo Hoàng Sa suốt thời Đại Việt, trong thời các chúa Nguyễn và thời Tây Sơn, tức từ đầu thế kỷ XVII đến năm 1801 và sau đó là buổi đầu triều Nguyễn từ 1802 – đến trước 1815. Từ năm 1816, đội Hoàng Sa phải phối hợp với thủy quân. Hàng năm, đội Hoàng Sa hoạt động trong 6 tháng từ tháng 3 đến tháng 8 âm lịch (tháng 4 đến tháng 9 dương lịch) để phù hợp với điều kiện thời tiết ở vùng biển của quần đảo Hoàng Sa. Hai là suốt thời nhà Nguyễn, bắt đầu từ 1816, thủy quân được giao trọng trách liên tục kiểm soát, bảo vệ Hoàng Sa và Trường Sa. Ba là về mặt quản lý hành chánh liên tục suốt trong 4 thế kỷ từ thế kỷ XVII đến năm 1974 (khi Trung Quốc dùng vũ lực cưỡng chiếm), Hoàng Sa được các chính quyền ở Việt Nam để thể hiện quyền lực tối thiểu của mình, đặt dưới sự quản lý hành chánh của Quảng Ngãi (khi là phủ hoặc là trấn hay tỉnh qua từng thời kỳ lịch sử) hoặc của tỉnh Thừa Thiên (thời Pháp thuộc) hoặc của tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng (thời chia cắt Nam Bắc) rồi đến thành phố Đà Nẵng (thời thống nhất đất nước). Việc xác định sự quản hạt này hoặc đựợc ghi trong các sách địa lý của nhà nước biên soạn như bộ Hoàng Việt Địa Dư Chí hoặc Đại Nam Nhất Thống Chí dưới triều Nguyễn, hoặc do chính hoàng đế hay triều đình (Bộ Công) như thời vua Minh Mạng khẳng định, hoặc bằng các dụ, sắc lệnh, quyết định của chính quyền ở Việt Nam như dụ của Bảo Đại, triều đình Huế, Toàn Quyền Đông Dương ở thời Pháp thuộc, hoặc tổng thống, tổng trưởng trong thời kỳ Việt Nam bị chia cắt, hoặc quyết định, nghị quyết của nhà nước, quốc hội thời độc lập thống nhất. Điều này khác với Trung Quốc, chỉ xác định sự quản lý hành chánh sau năm 1909 tức vào năm 1921 và rồi vào năm 1947… có nghĩa là sau Việt Nam hơn 3 thế kỷ. Còn tất cả chỉ là suy diễn không có bằng chứng cụ thể rõ ràng. Chính quyền ở Việt Nam qua các thời kỳ lịch sử, ngay cả thời Pháp thuộc, chưa bao giờ từ bỏ chủ quyền của Việt Nam ở quần đảo Hoàng Sa, nên ngay cả khi bị Trung Quốc chiếm đóng trái phép sau chiến tranh thế giới thứ 2 hay năm 1974, quần đảo Hoàng Sa vẫn được tỉnh Quảng Nam và từ năm 1997 đến nay là thành phố Đà Nẵng quản lý. Bốn là trước thời kỳ bị xâm phạm, bất cứ dưới thời đại nào, nhà nước ở Việt Nam cũng có những hành động tiếp tục khẳng định và thực thi chủ quyền hàng năm như đo đạc thủy trình, để vẽ bản đồ do đội Hoàng Sa cuối thời chúa Nguyễn hay do thủy quân từ năm 1816 dưới triều Nguyễn (bộ Đại Nam Thực Lục Tiền Biên, Đại Nam Thực Lục Chính Biên hoặc Đại Nam Hội Điển Sự Lệ của Nội Các, hoặc Châu Bản triều Nguyễn đã ghi rất rõ, đã được trình bày trong phần tài liệu). Sau này, từ đầu thế kỷ XX cho đến năm 1974, Việt Nam cũng tiếp tục tổ chức các đoàn thám sát, đo đạc, vẽ bản đồ. Năm là trước thời kỳ bị xâm phạm, dưới triều Nguyễn, nhất là từ năm 1836 trở thành lệ, hàng năm đều luôn luôn tổ chức xây dựng bia chủ quyền từng hòn đảo. Trong thời bị xâm phạm cũng thế, các chính quyền ở Việt Nam luôn tiếp tục cho dựng bia chủ quyền thay thế bia bị hư hỏng. Sáu là trước thời kỳ bị xâm phạm, các triều đại Việt Nam, nhất là thời vua Minh Mạng của triều Nguyễn đã cho dựng miếu thờ làm bằng nhà đá (đá san hô), đào giếng mà năm 1909 các đoàn khảo sát đầu tiên của Trung Quốc ở Hoàng Sa đã trông thấy và khẳng định không biết có từ thời nào. Riêng tại đảo Phú Lâm, tài liệu Trung Quốc [ ghi có miếu ghi rõ Hoàng Sa Tự của Việt Nam. Sau khi có sự xâm phạm, chính quyền ở Việt Nam cũng tiếp tục cho xây miếu và nhà thờ. Bảy là trước thời kỳ bị xâm phạm, dưới triều Nguyễn nhất là thời vua Minh Mạng đã cho trồng cây tại các đảo để cho thuyền bè ở đàng xa nhận thấy, tránh bị nạn, và các nhà nghiên cứu thực vật như La Fontaine cũng thừa nhận các thực vật cây cối ở Hoàng Sa phần lớn có nguồn gốc ở Miền Trung Việt Nam. Tám là trước thời kỳ bị xâm phạm, dưới triều Gia Long như tài liệu phương Tây của Gutzlaff viết trong The Journal of The Geographical Society of London, vol 19, 1849, trang 97, đã cho biết Việt Nam đã thiết lập trại binh nhỏ và một điểm thu thuế. Đến thời kỳ bị xâm phạm từ năm 1909, các chính quyền Việt Nam lại là chính quyền sớm nhất đã tổ chức các trại lính đồn trú ở đảo Hoàng Sa (Patlle). Trong khi Trung Quốc chỉ cho quân chiếm đóng một thời gian ngắn sau chiến tranh thế giới lần 2 rồi rút đi (năm 1956, Trung Quốc chiếm lại đảo Phú Lâm (Ile Boisée). Đến năm 1974, Trung Quốc dùng vũ lực chiếm trái phép các đảo còn lại trong các trận đánh trên đảo và ở biển với hải quân Việt Nam Cộng Hoà, kết thúc vào ngày 20 –1-1974). Chín là chính quyền ở Việt Nam đã cho xây trạm khí tượng đầu tiên tại đảo Hoàng Sa (Pattle) vào năm 1938 hoạt động trong thời gian dài cho đến khi Trung Quốc chiếm đóng bằng vũ lực năm 1974. Mười là trước thời kỳ bị xâm phạm tức năm 1909, chính các hoàng đế Việt Nam như vua Minh Mạng và triều đình, cụ thể là Bộ Công đã lên tiếng khẳng định Hoàng Sa là nơi hiểm yếu trong vùng biển của Việt Nam, nằm trong cương vực của Quảng Ngãi. Mười một là trước khi bị xâm phạm, chưa có một hải đảo nào được nhiều tài liệu chính thức của nhà nước, từ chính sử địa lý của Quốc Sử Quán Triều Nguyễn như Đại Nam Thực Lục Tiền Biên, Đại Nam Thực Lục Chính Biên, hoặc địa dư như Hoàng Việt Dư Địa Chí, Đại Nam Nhất Thống Chí, hoặc sách hội điển, một loại pháp chế ghi những điển chương pháp chế của triều đình như Khâm Định Đại Nam Hội Điển Sự Lệ. Cũng chưa có một hải đảo nào tại Việt Nam lại được những nhà sử học lớn của nước Việt Nam đề cập đến như Lê Quí Đôn trong Phủ Biên Tạp Lục (1776), Phan Huy Chú (1821) trong Lịch Triều Hiến Chương Loại Chí , Dư Địa Chí, hay Nguyễn Thông trong Việt Sử Cương Giám Khảo Lược. Đặc biệt việc xác nhận chủ quyền của Việt Nam trên quần đảo Hoàng Sa lại còn do sách của chính người Trung Hoa viết như Hải Ngoại Ký Sự của Thích Đại Sán viết năm 1696. Đó là chưa kể nhiều tác giả tây Phương như là Le Poivre (1749), J Chaigneau (1816-1819), Taberd (1833), Gutzlaff (1849)… cũng đã khẳng định rõ ràng Hoàng Sa thuộc chủ quyền Việt Nam! Mười hai là bản đồ An Nam Đại Quốc Họa Đồ Của Giám mục Taberd trong cuốn Tự Điển Việt – La Tinh, nhan đề Latino – Anamiticum xuất bản năm 1838 đã ghi rõ : Paracel Seu Cát Vàng ở Biển Đông. Trong khi bản đồ "An Nam" này chỉ vẽ có Paracel Seu Cát Vàng, lại không có vẽ Hải Nam của Trung Quốc trong biển Đông. Rõ ràng bản đồ An Nam Đại Quốc Hoạ Đồ đã minh chứng Cát Vàng tức Hoàng Sa chính là Paracel nằm trong vùng biển của Việt Nam. Như thế với chức năng kiểm soát sự khai thác các sản vật ở Biển Đông và những hành động cụ thể trực tiếp khai thác các sản vật của Đội Hoàng Sa, một tổ chức dân binh liên tục gần hai thế kỷ suốt từ đầu thế kỷ XVII cho đến năm 1816 cùng những hành động xác lập và thực thi chủ quyền rất cụ thể như nêu cột mốc, dựng bia, xây miếu, trồng cây, đo đạc thủy trình vẽ bản đồ của thủy quân Việt Nam từ năm 1816 dưới sự chỉ đạo trực tiếp của vua và triều đình cũng như những lời tuyên bố của vua , triều đình nhà Nguyễn và sự quản hạt hành chánh vào Quảng Ngãi từ đầu thế kỷ XVII đến đầu thế kỷ XX là những bằng chứng hiển nhiên, bất khả tranh nghị về chủ quyền của Việt Nam tại quần đảo Hoàng Sa. Mọi sự tranh giành chủ quyền với Việt Nam là hành động trái với luật pháp quốc tế. Nguyễn Nhã (Tiến sĩ sử học) Nguồn: Báo Vnexpress.net1 like
-
Sau đây là sơ đồ diễn tả điểm hạn khắc chết cha của anh ta năm 2010 (Canh Dần) cùng với điểm hạn của anh ta cũng năm 2010. Rất may là dụng thần của Tứ Trụ này và Thiên Tài (sao cha) Kỷ tàng trong Ngọ trụ năm (sao cha) là một. Vì chi ở tuế và vận đều hóa Mộc và có tổ hợp của thiên can liên kết tuế vận với Tứ Trụ nên điểm vượng trong vùng tâm phải tính lại và tính thêm điểm vượng của các can chi ở tuế vận. Thân trước và sau khi tính lại vẫn vượng chỉ có hành Thủy là kỵ vượng đã chuyển sang hành Mộc nhưng điểm hạn của ngũ hành bình thường và theo sao cha vẫn không thay đổi. Theo sơ đồ trên thì điểm hạn khắc cha là 6,5. Số điểm này không được giảm nên nó thừa sức làm cho cha của anh ta chết nếu vẫn sống cùng với anh ta (tức cha của anh ta không đi nơi khác càng xa anh ta càng tốt để sống). Các điểm hạn bị xóa trên sơ đồ là các điểm hạn thêm cho anh ta. Tổng điểm hạn là 9,67, số điểm này được giảm giữa 2 mức 1/2 và 7/12 bởi vì trong Tứ Trụ có 3 chi giống nhau hợp với tuế vận hóa cục có hành khác với hành của 3 chi giống nhau này (nếu hóa cùng hành sẽ được giảm cao hơn). Còn Mậu trụ năm là sao vợ, vì vậy Mậu có -1 điểm hạn tại thái tuế nhưng có thêm 1 đh của nước biển trụ tháng khắc lửa đỉnh núi trụ ngày nên tổng điểm hạn là 5,5. Số điểm này cùng lắm là ly hôn. Chú ý : Khi một trong 3 tai họa này xẩy ra thì các tai họa kia sẽ không xẩy ra hoặc có xẩy ra thì rất nhẹ bởi vì trong 3 tai họa này có chung rất nhiều điểm hạn nên nếu nó đã gây ra cho tai họa này thì số điểm đó đã mất, vì vậy nó không thể gây ra cho tai họa khác. Thân chào.1 like
-
Vẻ mặt luôn có vẻ buồn. Rất chú trọng về cách ăn mặc. Ra ngoài được nhiều người giúp đỡ có thể xuất ngoại . Có khả năng kiếm tiền từ sớm nhưng giàu có thì phải ngoài 30 . Được chồng khá nể, Công danh có thể làm trợ lý cho người . Công danh 2 năm nữa sẽ có, Năm nay chắc có việc gì mà phải đi xa ( có thể năm nay có tang xa mà phải đi chăng?)1 like
-
Mới gửi lên sao đã vội thế? Mọi người xem số là do duyên. Hơn nữa, bé ko nghĩ là các thầy còn phải đi làm sao? Hay bé cho là các thầy có mỗi việc online suốt ngày coi lá số, và hít không khí để sống vậy? Chờ đi nhé, khi nào có thầy nào rảnh, nhất định xem cho bé mà 20 tuổi, từ từ đi nhỉ1 like
-
Sau đây là chương trìng Tứ Trụ trung cấp TUẦN THỨ HAI Phương pháp xác định Thân vượng hay nhược Bài 10 : Thân và vùng tâm Chương 9 : Thân và vùng tâm I – Thân và vùng tâm 1 - Thân Hành và vị trí của can ngày (Nhật Can) được gọi là Nhật Chủ hay Thân, nó đại diện cho người có tứ trụ này. Can ngày chỉ có 1 điểm vượng ở lệnh tháng của bảng sinh vượng tử tuyệt nhưng Nhật Chủ hay Thân lại có điểm vượng của hành của can ngày ở vùng tâm. 2 - Vùng tâm và vùng ngoài Sơ đồ 1 (chỉ để minh họa): Qua sơ đồ này ta thấy can ngày là Kỷ mang hành Thổ nên Nhật Chủ hay Thân của người có tứ trụ này là Thổ. Muốn xem Thân của tứ trụ này là vượng hay nhược (tức là ta phải xem hành Thổ của tứ trụ ở tại vị trí của can ngày là vượng hay nhược so với 4 hành còn lại là Kim, Thủy, Mộc và Hỏa) thì đầu tiên ta phải xem trong tứ trụ này có nhiều can chi mang hành Thổ và chúng có được lệnh hay không cũng như các can chi khác sinh hay khắc với can chi mang hành Thổ này là mạnh hay yếu.... . Sau đó ta phải xét xem độ vượng còn lại của các can chi Thổ này giúp đỡ Nhật Can được nhiều hay ít, dĩ nhiên sự giúp đỡ này phụ thuộc vào khoảng cách xa hay gần của chúng với Nhật Can. Hoàn toàn tương tự khi ta xét độ vượng còn lại của các can chi của các hành khác tác động đến Nhật Can mạnh hay yếu cũng phụ thuộc vào khoảng cách của chúng với Nhật Can như vậy. Cuối cùng ta phải xác định được một vùng mà độ vượng còn lại của các can chi này tác động tới Nhật Can không còn phụ thuộc vào khoảng cách - vùng đó được gọi là Vùng Tâm. Trong vùng tâm ta chỉ việc cộng độ vượng của tất cả các can chi cùng hành với nhau, sau đó ta so sánh Thân (độ vượng của hành của Nhật Can) với các hành khác xem nó là mạnh hay yếu (lớn hơn hay nhỏ hơn). Do vậy nếu ta lấy Nhật Can Kỷ làm tâm điểm thì thấy gần nó nhất có can tháng, can giờ và chi ngày. Ta gọi vùng tâm là vùng hình học phẳng phía trong của chữ V chứa can tháng Canh, can ngày Kỷ, can giờ Đinh và chi ngày Sửu, còn can Nhâm trụ năm và các chi Thân, Tuất và Mão là ở ngoài chữ V (tức ở bên ngoài của vùng tâm). Qua đây chúng ta thấy các can tàng trong các chi của tứ trụ, mặc dù chúng có điểm vượng theo trạng thái của chúng tại lệnh tháng, nhưng các điểm vượng này không được tính trong vùng tâm (mặc dù các thần hay các hành mà các can tàng này đại diện vẫn có trong tứ trụ). 3 - Các quy ước trên sơ đồ : a – Tại các góc của các hình chữ nhật trên là vị trí của các can và chi trong tứ trụ. b - Các can chi trong chữ V được coi là ở trong vùng tâm còn các can chi ở ngoài chữ V được xem là ở vùng ngoài. c – Hai can chi được coi là gần với nhau khi chúng không phải đi qua một can chi nào cả. d – Hai can chi bị coi là cách một ngôi với nhau khi chúng phải đi qua 1 can hay 1 chi. e – Hai can chi bị coi là cách 2 ngôi với nhau khi chúng phải đi qua 2 can chi. f – Hai can chi bị coi là cách 3 ngôi với nhau khi chúng phải đi qua 3 can chi. 4 - Khả năng khắc nhau của các can chi trong tứ trụ (Chú ý: Ở phần “Xác định Thân vượng hay nhược” này chỉ xét sự khắc của Ngũ Hành) a - Can và chi cùng trụ khắc với nhau được gọi là khắc trực tiếp. Can hay chi bị khắc trực tiếp bị giảm ½ đv (điểm vượng) của nó và nó không có khả năng nhận được sự sinh của can hay chi cùng trụ cũng như nó không sinh hay khắc được với các can hay chi khác. b - Can hay chi bị khắc gần (tức không cùng trụ) bị giảm 1/3đv của nó và nó không có khả năng nhận được sự sinh cũng như nó không sinh hay khắc được với các can chi khác. c – Nếu can hay chi bị khắc cách 1 ngôi thì nó bị giảm 1/5v của nó, nhưng nó vẫn có khả năng nhận được sự sinh và sinh hay khắc được với các can hay chi khác. d – Nếu can hay chi bị khắc cách 2 ngôi thì nó bị giảm 1/10đv của nó, nhưng nó vẫn có khả năng nhận được sự sinh và sinh hay khắc được với các can hay chi khác. e – Nếu can chi bị khắc cách 3 ngôi thì nó bị giảm 1/20đv của nó, nhưng nó vẫn có khả năng nhận sự sinh và sinh hay khắc được với các can hay chi khác. 5 – Các can hay chi ở trong hay ngoài hợp của tứ trụ sinh hay khắc với nhau a – Nếu các can hay chi trong cùng tổ hợp hóa cục hay không hóa cục thì chúng có thể sinh hay khắc được với các can hay chi cùng trụ với chúng nếu các can hay các chi này không bị hợp (tức là nếu can và chi cùng trụ cùng bị hợp thì chúng không có khả năng sinh hay khắc với nhau). b - Nếu một tổ hợp không hóa cục thì các can hay chi trong cùng tổ hợp vẫn có khả năng khắc với nhau như bình thường. c – Các can hay chi không bị hợp có thể sinh hay khắc được với các can hay các chi cùng trụ với chúng trong tổ hợp. d - Nếu can hay chi trong tổ hợp hóa cục hay không hóa cục bị can hay chi cùng trụ không bị hợp khắc thì nó cũng được xem là bị khắc trực tiếp, nhưng nó vẫn khắc được các can hay chi trong cùng tổ hợp (nếu tổ hợp này không hóa cục). e - Nếu can hay chi ở ngoài tổ hợp bị can hay chi cùng trụ trong tổ hợp hóa cục hay không hóa cục khắc thì nó cũng được xem là bị khắc trực tiếp, nhưng nó vẫn khắc được các can hay các chi khác ngoài tổ hợp như bình thường. f – Nếu can hay chi trong cùng tổ hợp không hóa mà bị can hay chi trong cùng tổ hợp khắc gần thì nó không có khả năng nhận được sự sinh và không sinh hay khắc được với các can hay chi khác trong cùng tổ hợp hay cùng trụ. 6 – Can và chi cùng trụ sinh cho nhau Xem các giả thiết từ 81/ tới 85/ của chương 14. (81/39 - Thân vượng, kiêu ấn ít nhưng kiêu ấn phải là chi của trụ tháng và nó phải ở trạng thái Lộc hay Kình dương của lệnh tháng, nếu can và chi của trụ tháng không bị khắc gần hay chúng không cùng bị hợp thì can tháng có thể sinh cho chi tháng ít nhất 1/5 đv của nó. 82/45 – Nếu can và chi cùng trụ sinh được cho nhau thì can hay chi chủ sinh bị giảm ít nhất 1/10đv của nó chỉ khi nó là Thực Thương (và được lệnh?). 83/ - Can và chi cùng trụ không có khả năng sinh hay khắc với nhau nếu chúng cùng bị hợp. 84/ - Các can hay chi trong tổ hợp không hóa luôn luôn khắc được các can hay chi trong cùng tổ hợp. 85/ – Nếu can và chi cùng trụ không cùng bị hợp và can hay chi này không bị khắc gần thì chúng có thể sinh cho nhau 1/3đv của chúng chỉ khi can (hay chi) chủ sinh có can (hay chi) bên cạnh cùng hành (bất kể can (hay chi) bên cạnh này bị khắc gần hay trực tiếp cũng như kể cả hành cũ và hành mới mà nó hóa cục) và ½ đv nếu can (hay chi) bên cạnh mang hành sinh cho nó (bất kể can (hay chi) bên cạnh này bị khắc gần hay trực tiếp cũng như kể cả hành cũ và hành mới mà nó hóa cục)). 7 - Sơ đồ : A - Sơ đồ 1 bên trên: a - Mão (mộc) ở trụ giờ bị can tháng Canh (kim) khắc cách 2 ngôi nên Mão bị giảm 1/10đv của nó nhưng nó có khả năng nhận được sự sinh hay sinh và khắc được với các can hay chi khác. b – Sửu (thổ) ở trụ ngày bị Mão ở trụ giờ khắc gần (vì Mão và Sửu không bị hợp), vì vậy Sửu bị giảm 1/3đv của nó và nó không có khả năng nhận được sự sinh của can cùng trụ cũng như nó không sinh hay khắc được với các can chi khác. c - Nếu can giờ là Mậu hay Kỷ thì nó bị Mão khắc trực tiếp (vì cùng trụ) nên Mậu hay Kỷ bị giảm ½ đv của nó (vì cùng trụ nên lực khắc là mạnh nhất) và Mậu hay Kỷ không có khả năng khắc các can hay chi khác. d - Tuất ở chi tháng và Kỷ ở can ngày bị Mão khắc cách 1 ngôi nên Tuất và Kỷ bị giảm 1/5 đv của chúng, nhưng Tuất và Kỷ vẫn có khả năng sinh hay khắc với can hay chi khác như bình thường. e - Nếu Tuất là chi ở trụ năm và Kỷ là can ở trụ tháng thì chúng bị Mão trụ giờ khắc cách 2 ngôi, vì vậy Tuất và Kỷ bị giảm 1/10 đv của nó, nhưng Tuất và Kỷ vẫn có khả năng sinh hay khắc với các can hay chi khác như bình thường. f - Nếu Kỷ là can ở trụ năm thì bị Mão trụ giờ khắc cách 3 ngôi nên Kỷ bị giảm 1/20 đv của nó và Kỷ vẫn có khả năng sinh và khắc với các can hay chi khác như bình thường. g - Thân trụ năm có Tuất bên cạnh sinh cho, vì vậy Thân sinh được ½ đv của nó cho Nhâm cùng trụ. h - Tuất trụ tháng có Sửu bên cạnh cùng hành, vì vậy Tuất sinh được 1/3 đv của nó cho Canh cùng tru. B - Sơ đồ 2 (chỉ để minh họa): a - Ất trụ giờ sinh cho Bính trụ ngày, vì vậy Bính trụ ngày sinh ½ đv của nó cho Ngọ cùng trụ đã hóa thành Thổ. b - Thân và Giáp trụ năm cùng bị hợp hay Thân trụ năm bị Ti trụ tháng khắc gần, vì vậy Thân không khắc được Giáp cùng trụ. c - Tị và Kỷ trụ tháng cùng bị hợp, vì vậy Tị không sinh được 1/3đv của nó cho Kỷ cùng trụ, mặc dù Tị có Ngọ cùng hành bên cạnh (mặc dù Ngọ đã hóa Thổ cục) hay Kỷ bị Giáp khắc gần, vì vậy nó không thể nhận được sự sinh của Tị cùng trụ. d - Nếu Giáp ở trong hợp bị Thân cùng trụ khắc trực tiếp (nếu Thân không bị hợp) thì nó vẫn khắc được Kỷ trong cùng tổ hợp với nó. e - Mùi (hoặc các chi khác đã hóa Thổ) trụ giờ bị khắc trực tiếp bởi Ất cùng trụ, vì vậy Mùi bị giảm ½ đv của nó. 8 - Điểm vượng trong vùng tâm của các can chi Trên sơ đồ 1 có các mũi tên đi từ can năm, chi năm, chi tháng và chi giờ vào vùng tâm có các con số 2/5 và 1/2, chúng có nghĩa là điểm vượng còn lại của các can chi này (sau khi đã tính sự sinh hay khắc của chúng với các can chi khác trong tứ trụ) vào được vùng tâm phải bị giảm 2/5 đv hay ½ đv của chúng (các hệ số giảm này được xác định qua các ví dụ trong thực tế). 9 - Điểm vượng của bảng sinh vượng tử tuyệt Để dự đoán chính xác độ vượng hay suy của các trạng thái của can chi trong tứ trụ theo lệnh tháng, chúng ta không thể ước lượng chính xác độ vượng hay suy của chúng (may ra có một số người có khả năng này mà thôi). Bởi vì chính khó khăn này mà tôi đã tìm cách sử dụng các con số để đặc trưng cho độ vượng hay suy của các trạng thái trong bảng sinh vượng tử tuyệt. Vậy thì phải chọn các con số như thế nào để diễn tả được chính xác các trạng thái vượng suy của chúng ? Chúng ta thấy không gì đẹp bằng lấy số 10 đặc trưng cho trạng thái Đế vượng, số 9 cho trạng thái Lâm quan, số 8 cho Quan đới, số 7 cho Mộc dục, số 6 cho Trường sinh, số 5 cho Suy và Bệnh, số 3 cho Tử, Mộ và Tuyệt, số 4 cho Thai và Dưỡng. Các số đặc trưng cho các trạng thái từ trường sinh đến đế vượng là hợp lý nhưng các trạng thái gần nhau từ suy, bệnh đến thai, dưỡng có số điểm bằng nhau là chưa hợp lý. Các trạng thái có số điểm bằng nhau này cần phải được kiểm nghiệm qua các ví dụ trong thực tế để điều chỉnh chúng cho đến khi chúng chính xác. Vậy thì làm cách nào bây giờ ? Ví dụ nào là đáng tin cậy để có thể xác định được chúng ? Theo như tôi biết cụ Thiệu Vĩ Hoa là cháu nội đời thứ 29 (?) của cụ Thiệu Khang Tiết một nhà dịch học nổi tiếng của Trung Quốc và bây giờ cụ Thiệu Vĩ Hoa cũng đang là một nhà dịch học nổi tiếng. Vậy thì các ví dụ của cụ không đáng tin cậy sao? Để xác định một ví dụ có Thân vượng hay Thân nhược, cụ Thiệu Vĩ Hoa đã không những chỉ dùng tài năng bẩm sinh của mình mà còn sử dụng kinh nghiệm của cả 29 đời mệnh học gia truyền của dòng họ cụ nữa. Cho nên tôi đã không ngần ngại lấy các ví dụ của cụ để xác định chính xác các con số đặc trưng cho các trạng thái của bảng sinh vượng tử tuyệt. Nhưng đáng tiếc rằng mặc dù cụ có diễn đạt các cách để xác định Thân vượng hay nhược trong các ví dụ của cụ, chúng ta cũng không có mấy ai nắm được nó vững vàng. Cánh để xác định của cụ chỉ là phán đoán các thông tin trong tứ trụ rồi theo kinh nghiệm để kết luận Thân vượng hay nhược, cho nên chúng ta khó mà có được khả năng như cụ. Do vậy ở đây tôi chỉ cần lấy các kết quả mà cụ đã kết luận Thân vượng hay nhược trong các ví dụ của cụ là quý báu nắm rồi (trong sách cụ có nói đến phương pháp xác định Thân vượng hay Thân nhược nhưng tôi thấy phương pháp đó không có nhiều giá trị áp dụng trong thực tế). 10 – Điểm vượng vùng tâm của các hành Khi các trạng thái của bảng sinh vượng tử tuyệt có điểm vượng thì chúng chính là điểm vượng của các can chi trong tứ trụ tại lệnh tháng. Khi đó chúng ta tính toán xem sau khi các can chi trong tứ trụ sinh và xung khắc nhau chúng còn lại bao nhiêu điểm vượng, khi chúng vào trong vùng tâm còn lại bao nhiêu điểm vượng, các điểm vượng này chính là các điểm vượng trong vùng tâm của các can chi đó. Ở vùng tâm này ta chỉ còn việc cộng tất cả các điểm vượng của các can chi cùng một hành với nhau, tổng số đó chính là điểm vượng trong vùng tâm của hành đó. 11 – Các trường hợp ngoại lệ Kiêu ấn có thể sinh được 50%đv của nó cho Thân trong các trường hợp sau: Xem các giả thiết từ 193/ tới 194/ của chương 14. (193/95 – Nếu Thân nhược nhưng can ngày được lệnh và điểm vượng của Thân lớn hơn điểm vượng của Tài, Quan-Sát và Thực-Thương thì Kiêu-Ấn có thể sinh được 50%đv của nó cho Thân. 194/(47a;98) – Nếu Thân nhược nhưng điểm vượng vùng tâm của kiêu ấn lớn hơn điểm vượng vùng tâm của thực thương và tài tinh và can ngày được lệnh (nếu can ngày không được lệnh thì điểm vượng vùng tâm của Thân không nhỏ hơn điểm vượng trong vùng tâm của tài tinh và quan sát) thì kiêu ấn sinh được 50%đv của nó cho Thân.). 12 – Thân vượng hay nhược a - Nếu điểm vượng vùng tâm của Thân lớn hơn điểm vượng vùng tâm của Thực Thương, Tài và Quan Sát ít nhất 1đv (điểm vượng) thì Thân của tứ trụ đó được gọi là Thân vượng còn ngược lại được gọi là Thân nhược (không có Thân trung bình?). b - Thân được gọi là hơi vượng khi Thân chỉ nhiều hơn hỷ dụng thần số 1 ( nghĩa là nó là 1 hành trong các hành là hỷ dụng thần có điểm vượng lớn nhất trong vùng tâm) từ 1đv tới 1,5đv. 13 - Các ký hiệu và quy ước a – Theo thứ tự, hành tài tinh được viết đầu tiên, sau đến quan sát, kiêu ấn, Thân (tức tỷ kiếp), cuối cùng mới là thực thương. Ví dụ : Nếu Thân là kim thì thứ tự các hành được diễn tả như sau : b – Nếu các can chi lộ trong tứ trụ có cùng hành thì chúng được gọi là can chi của hành đó. Ví dụ : Nếu Kiêu ấn thuộc hành mộc mà trong tứ trụ có 1 Giáp và 2 Mão thì chúng được gọi 3 can chi của kiêu ấn. Nếu chúng chỉ là các can tàng phụ trong tứ trụ thì chúng không được tính là can chi Kiêu Ấn nhưng Kiêu Ấn vẫn được xem là có trong tứ trụ. c - Dấu #, nó nghĩa là trong tứ trụ không có can chi thuộc hành đó (kể cả can tàng phụ của hành đó). d - Dấu #4,2, nó nghĩa là trong tứ trụ không có can chi thuộc hành đó nhưng nó có can tàng phụ của hành đó và điểm vượng cao nhất của các can tàng phụ này là 4,2. e - Số – 1, nó nghĩa là điểm hạn của hành làm dụng thần và nó được viết phía trên hành của nó, tương tự với các điểm hạn của các hành khác cũng viết phía trên hành của chúng như vậy. f – Điểm vượng vùng tâm của các hành được ghi phía dưới tên của các hành của chúng. l - Trong phần tính điểm vượng vùng tâm, các điểm vượng của các can chi khi vào tới vùng tâm trên các sơ đồ được khoanh tròn, nhưng từ tuần thứ 3 trở đi chỉ có các điểm hạn trên các sơ đồ mới được khoanh tròn. m – Tháng 1 dương lịch được gọi là tháng 13 của năm cũ theo lịch can chi. Bài này tôi không đưa ra các câu hỏi trọng tâm, vì vậy ai không hiểu hay thấy không hợp lý ở phần nào thì cứ hỏi, tôi sẽ trả lời.1 like
-
Du Ca này, cần xác định lại giờ sinh không? Cân đó đong đếm, so tới so lui thì giờ Thìn mới mất đứt 2 tháng bùn như thế :huh: Chứ giờ Tỵ cũng được 3 tháng vui chứ. Hihi. Có người rơi vào hạn Thiên Không có cả chính tinh 4 tháng họ chưa bùn chuyện tình duyên... vẫn phơi phới :wub: Giờ Thìn thì hạn năm nay thêm Đào - Kiếp nên mới thở dàiiiiiiiiiiiiiiiiii như thế. Hihi. Chứ hạn Thiên Không không thì họ không có thở dài đâu http://lyhoc.vstatic.net/public/style_emoticons/default/eyelash.gif1 like
-
Ðáp án : Của các bài tập lấy trong cuốn “Giải Mã Tứ Trụ” như sau: 1 - Ví dụ 1 : Nam sinh ngày 26/3/1961 lúc 2,00’am. Chết vì ung thư gan vào tháng 10/2006. 2 - Ví dụ 5 : Nam sinh ngày 23/4/1948 lúc 8,00’am. Năm 1989 anh ta bị tai nạn, đầu va vào cửa kính và chân bị gẫy lòi xương. 3 - Ví dụ 6 : Nam sinh ngày 25/9/1990 lúc 13,00’. Tháng 7/1991 bị mổ u não may thoát chết. 4 - Ví dụ 10 : Bé trai Elgin Alexander Fraser (Canada) sinh ngày 10/4/2004 lúc 12,00’. Bị bệnh ung thư từ khi mới 8 tháng tuổi và được sống tới ngày 19/5/2007 lúc 19,45’. Hình chụp với trung phong (Centre) Mike Fisher gần đây, khi còn sống 5 - Ví dụ 14 : Nữ sinh ngày 29/11/1955 lúc 5,01’am. Chết vì cảm lạnh vào tháng 4/2007. 6 - Ví dụ 151 : Michael Jackson was born 29/9/1958 lúc 12,00’ (?). Anh ta chết vì trụy tim ngày 25/6/2009 lúc 12,44’. 7 - Ví dụ 215: Nhà bác học thiên tài Albert Einstein sinh ngày 14/3/1879 lúc 11,30’. Ông ta mất ngày 18/4/1955. Ðến đây là hết chương trình Tứ Trụ sơ cấp, chắc nhiều bạn đọc sẽ thắc mắc rằng chưa thấy Âm Dương Ngũ Hành Tứ Thời (bốn mùa) Luận đâu cả. Vâng, đúng là như vậy và rồi bạn đọc sẽ thấy trong chương trình Tứ Trụ trung cấp hầu như vẫn chưa thấy cái “Mê Hồn Trận“ này xuất hiện (vì nó đã được toán học hóa), nhưng chúng ta vẫn dự đoán được các tai họa có thể xẩy ra và tìm cách để ngăn chặn chúng. Chỉ đến chương trình Tứ Trụ cao cấp, khi dự đoán về Tài Quan Ấn mới bắt đầu thực sự đụng chạm tới nó và chỉ khi đó bạn đọc mới không sợ lạc vào cái “Mê Hồn Trận” này.1 like
-
Bài 8 và 9 : Thần sát của tứ trụ và Sơ đồ biểu diễn tứ trụ, tuế vận và tiểu vận Chương 7 Thần sát của tứ trụ Thực tế đã chứng minh có rất nhiều người thoát chết, hay thoát tai nạn một cách không thể hiểu được. Các trường hợp may mắn này lại hay gặp nhiều lần ở một người, trong khi đó nhiều người khác lại hầu như không gặp, thậm chí còn toàn gặp những điều rủi ro suốt cuộc đời. Tại sao lại như vậy? Điều này đã khẳng định rằng phải có một thế giới thần linh đang hiện hữu và tất nhiên phải có thần tốt (cát thần) và thần xấu (hung thần). Do vậy Họ đã xác định được các cát thần và hung thần này ở các can, chi trong tứ trụ của mỗi người. Nhưng theo phương pháp tính điểm hạn của tôi thì thần hộ mệnh vĩ đại nhất lại chính là tam hội trong tứ trụ (xem phần 2 của chương 16) . I – Cát thần Các quý nhân có khả năng giải hạn 1 – Thiên Ất quý nhân Cách tra là lấy can năm hoặc can ngày làm chủ để tìm các địa chi trong tứ trụ như sau : Thiên Ất quý nhân là thần tốt nhất trong mệnh chủ về thông minh, trí tuệ, là thần gặp hung hóa cát..... Nếu hợp hóa thành hỷ, dụng thần là rất tốt, rất kỵ gặp hình, xung, khắc, hại, đất không vong, tử, mộ hay tuyệt. 2 – Thiên Đức - Nguyệt Đức Cách tra Thiên Đức và Nguyệt Đức là lấy chi tháng sinh làm chủ để tìm các thiên can hay địa chi trong tứ trụ như sau: Quý nhân Thiên Đức và Nguyệt Đức là cát tinh, tính tình nhân từ đôn hậu, cuộc đời phúc nhiều, ít gặp nguy hiểm, gặp hung hóa cát, hóa hiểm thành an.... như có thần linh hộ vệ. Nếu trong tứ trụ mà có cả Thiên, Nguyệt Đức thì người đó có năng lực gặp hung hóa cát rất mạnh, gặp phải hung thần cũng bớt xấu rất nhiều, nhưng gặp phải xung, khắc thì vô dụng. 3 - Đức, Tú quý nhân Cách tra Đức,Tú quý nhân lấy tháng sinh làm chủ để tìm các thiên can trong tứ trụ như sau: a - Sinh các tháng Dần, Ngọ hay Tuất mà thấy Bính, Đinh là Đức quý nhân còn thấy Mậu, Kỷ là Tú quý nhân. b - Sinh các tháng Thân, Tý hay Thìn mà thấy Nhâm, Quý, Mậu, Kỷ là Đức quý nhân còn thấy Bính, Tân, Giáp, Kỷ là Tú quý nhân. c - Sinh các tháng, Tị, Dậu hay Sửu mà thấy Canh và Tân là Đức, còn thấy Ất và Canh là Tú. d - Sinh các tháng Hợi, Mão hay Mùi mà thấy Giáp và Ất là Đức còn thấy Đinh và Nhâm là Tú. Đức, Tú quý nhân là cát thần, trong mệnh có nó là người thành thật, tinh thần sáng sủa, nghĩa hiệp thanh cao, tài hoa xuất chúng, nó có thể biến hung thành cát, nếu gặp thêm Học Đường quý nhân thì có tài và quan cao sang, nếu gặp xung khắc thì bị giảm yếu. Ví dụ: Người sinh tháng Dần, Ngọ hay Tuất mà thấy Mậu hay Quý trong tứ trụ là có Tú quý nhân, có Bính hay Đinh là có thêm Đức quý nhân. Những cái khác cũng tra tương tự. 4 – Văn Xương quý nhân Cách tra lấy can năm hay can ngày làm chủ tìm các địa chi trong tứ trụ như sau: Văn Xương quý nhân có thể biến hung thành cát, là người khí chất thanh cao, văn chương giỏi, chủ về thông minh hơn người, ham học, ham hiểu biết, muốn vươn lên, cuộc đời lợi về đườnh học hành thi cử, tiến chức, không giao thiệp với kẻ tầm thường, nam gặp được thì nội tâm phong phú, nữ gặp được thì đoan trang. Đến giờ tôi mới xác định được bốn quý nhân trên khi xuất hiện ở tuế vận và tiểu vận (nếu không bị hợp) là có thể giải được một phần hạn (vì nó có đìểm hạn âm), còn nếu chúng ở trong tứ trụ thì tôi vẫn chưa xác định được điểm hạn của chúng. B - Các quý nhân chỉ phù hộ về tài và quan 1 – Thái Cực quý nhân Cách tra lấy can năm hoặc can ngày làm chủ để tìm các địa chi trong tứ trụ như sau: Thái Cực quý nhân chủ về thông minh hiếu học, tính cách chính trực, nếu được sinh vượng (Thân vượng) thì ý chí hiên ngang, phúc thọ song toàn, nếu không phải quan cao trong triều thì cũng là người giầu sang giữa muôn dân. 2 - Lộc thiên can Lấy can ngày làm chủ để tìm các địa chi trong tứ trụ nhhư sau: Thần Lộc vượng không gặp phải hình, xung, khắc, phá là chủ về công danh thuận lợi. Thân vượng mà Lộc nhiều thì nên bị khắc hoặc cho xì hơi (sinh cho can khác), còn thân nhược mà Lộc nhiều lại không bị khắc (tức Lộc phù trợ cho Thân nên Thân có thể từ nhược thành vượng) đều là quý mệnh. Lộc kỵ bị xung, khắc (như Giáp Lộc ở Dần gặp Thân là bị phá... ) hoặc gặp Không Vong. 3 - Tướng Tinh Lấy chi năm hoặc chi ngày làm chủ để tìm các chi trong tứ trụ như sau: Tướng Tinh vừa chủ về võ vừa chủ về văn, có khả năng nắm quyền, được mọi người kính phục. Tướng Tinh đi với Mã Tinh, đi với Kình Dương là hỷ dụng thần, người như thế không phải là tướng soái cũng là cấp tương đương (lộc trọng quyền cao). 4 - Trạch Mã Lấy chi năm hay chi ngày làm chủ để tìm các chi trong tứ trụ như sau: Trạch Mã có hung có cát. Trạch Mã là hỷ dụng thần, nhiều nhất là có tin mừng thăng quan, tiến chức, ít thì cũng được lợi trong sự hoạt động. Mã là kỵ thần, nhiều nhất là buôn ba lao khổ, ít thì vất vả bận rộn. Mã gặp xung (như Mã là Dần mà gặp Thân) như bị quất roi thì thường phải đi lại nhiều như làm trong các ngành giao thông, bưu điện, .... Mã bị hợp như là bị trói (tức khó mà đi đâu được). Mã Tinh là Thực, Thương gặp vận tài phát nhanh như mãnh hổ (điều này chỉ đúng khi Thân vượng hoặc vào vận Thân vượng). 5 – Kim Dư Cách tra lấy can ngày làm chủ để tìm các chi trong tứ trụ như sau: Kim là kim loại quý như vàng bạc, Dư là xe, vì vậy nó nghĩa là xe trở vàng, hay trở vua, quan đi lại. Người gặp nó thì có phúc đặc biệt, chủ về thông minh, phú quý, tính cách uyển chuyển ôn hòa, dáng người thanh thản. Ngày sinh, giờ sinh gặp được là rất đẹp. Cho nên phàm là người có phúc, nam gặp thì nhiều thê thiếp, anh em hòa thuận, con cháu đông đúc. Nữ gặp thì nhiều phú quý. Nếu còn gặp Mã thì không những lên xuống xe ngựa mà còn có nhiều người hầu hạ ra vào tấp lập, uy phong lừng lẫy. 6 – Kim Thần Kim Thần chỉ có ba nhóm Can Chi là Ất Sửu, Kỷ Tị và Quý Dậu (có sách cho rằng Kim thần chỉ có khi Nhật can là Canh hay Tân, sinh vào các tháng Canh Thân hoặc Tân Dậu và phải có tam hợp Tị Dậu Sửu hay tam hội Thân Dậu Tuất trong tứ trụ, nếu các tổ hợp này hóa được Kim cục thì cực tốt). Nếu trụ ngày hay trụ giờ là một trong 3 tổ hợp của can chi trên là có Kim Thần. Kim không có hỏa không thể thành vũ khí, Kim Thần cần phải có hỏa để luyện, vì vậy Kim gặp hỏa thì sẽ phát. Hỏa có trong tứ trụ không đủ khả năng để phát mạnh mà phải gặp đại vận là hỏa thì mới phát mạnh, vì vậy mới có câu “Kim Thần gặp hỏa, uy trấn biên cương” hay “Kim Thần nhập hỏa, phú quý vanh xa”, nhất là hỏa lại là hỷ, dụng thần. Kim Thần gặp Thủy (nhất là vào đại vận Thủy) thì tai họa đến ngay, đi lên phương Bắc là xấu, có thể gặp tai nạn rất nặng (theo tôi đều này chỉ đúng khi Thủy là kỵ thần). 7 – Khôi Canh quý nhân Thần Khôi Canh chỉ có bốn tổ hợp can chi : Nhâm Thìn, Canh Thìn, Canh Tuất và Mậu Tuất. Khôi Canh chỉ có ở trụ ngày (có thể các trụ khác vẫn được xem là có Khôi Canh nhưng tác dụng của chúng yếu hơn). Người gặp Khôi Canh nếu suy (Thân nhược hay ở kỵ vận) thì nghèo đói rách nát, nếu vượng (Thân vượng hay ở vận hỷ dụng thần) thì giầu sang tuyệt trần. Khôi Canh hội tụ thì phát phúc phi thường, tính cách thông tuệ, văn chương nổi tiếng, nắm quyền thì thích sát phạt. Nhưng gặp Tài, Quan thì tai họa ập đến ngay, nếu tứ trụ có hình, sát thì còn nặng hơn. Người gặp Khôi Canh tuy có tài lãnh đạo, tiếng vang sức mạnh, thích quyền bính, hiếu thắng, nhưng hôn nhân thường không thuận, ngoài ra nếu không tôn trọng pháp luật thì khó tránh khỏi tù đầy. 8 – Tam Kỳ quý nhân Trong tứ trụ nó phải có đủ ba Can : Giáp, Mậu, Canh hay Ất, Bính, Đinh hoặc Nhâm, Quý, Tân. Phàm mệnh gặp Tam Kỳ, tinh thần người đó khác thường, hoài bão to lớn, biết rộng, nhiều tài năng. Người có thêm Thiên Ất quý nhân thì công danh siêu quần. Nếu có thêm Thiên Đức, Nguyệt Đức thì không bao giờ gặp tai họa. Nếu có thêm tam hợp hay tam hội nhập cục (hóa cục) thì đó là đại thần trong triều đình... Nhưng Tam Kỳ phải hội đủ 3 yếu tố sau: a - Ðắc thời, đắc địa (tức được lệnh tháng, kỵ nhất là không được tử, mộ, tuyệt tại chi mà nó đóng và gặp không vong). b - Có nhiều Quý thần giúp đỡ. c - Tổ hợp của tứ trụ phải đẹp. Còn nếu không đủ 3 yếu tố này thì chỉ là người bình thường, nếu ai còn gặp thêm không vong thì không cô độc cũng là kẻ vô gia cư lang bạt bốn phương. 9 - Từ Quán và Học Đường a - Học Đường (thường chủ về người có trình độ học vấn cao như đại học, tiến sĩ...). Mệnh (tức nạp âm của trụ năm) Mệnh Kim thấy Tị, Tân Tị là chính ngôi. Mệnh Mộc thấy Hợi, Kỷ Hợi là chính ngôi. Mệnh Thủy thấy Thân, Giáp Thân là chính ngôi. Mệnh Thổ thấy Thân, Mậu Thân là chính ngôi. Mệnh Hỏa thấy Dần, Bình Dần là chính ngôi. b - Từ Quán (thường chủ về người làm trong nghành giáo dục như giáo sư, viện sĩ...). Cách tra lấy can năm hay can ngày làm chủ tìm các tổ hợp Can Chi trong tứ trụ như sau: Từ Quán và Học Đường, chủ về tú khí phát sinh, thông minh khéo léo, văn chương nổi tiếng, cuộc đời giầu sang. Nên được sinh vượng, không nên bị khắc, hại, xung. Nếu có thêm Thiên Ất quý nhân hoặc các cát tinh phù hộ thì tốt, nếu không thì tài năng khó thi thố, ý chí bị bó buộc. II – Hung thần A - Các hung thần có thể gây ra điểm hạn 1 – Kình Dương Cách tra Kình Dương lấy Nhật can làm chủ xem Chi nào trong tứ trụ mà Nhật can ở trạng thái đế vượng thì Chi đó chính là Kình Dương (như Nhật can là Tân thì chi Thân nếu có trong tứ trụ thì nó là Kình Dương bởi vì Tân ở trạng thái đế vượng tại Thân). Kình Dương có cát có hung nhưng phần nhiều chủ về hung. Trong đại vận người ta sợ nhất là gặp Kình Dương, nó chủ về sự trì trệ, tai họa, thương tật, của cải hao tán, .... và cũng chủ về những tội phạm pháp. Kình Dương kiêm ác sát thì tai họa vô cùng. Kình Dương không những sợ gặp Tuế quân mà còn sợ xung Tuế quân (thái tuế hay chi của lưu niên), cho nên nói “ Kình Dương xung Tuế quân là tai họa cực xấu “. Kình Dương tuy là sự cứng rắn nhưng nếu thân nhược gặp phải nó thì không thể cho là xấu, vì Kình Dương có công năng bảo vệ thân (tức là vì Chi cùng hành với Thân nên giúp cho thân bớt nhược). Phàm người có Lộc, cần phải có Kình Dương để bảo vệ, gặp Quan hay Sát và Ấn phải có Kình Dương mới tốt. Như thế gọi là “Quan Ấn tương trợ, nhờ có Kình Dương mới đem Lộc về“. Trong mệnh gặp Kình, Sát kiêm vượng thì càng thông đạt đến Ấn thụ (tức chức trọng và quyền cao), tức nhờ Kình Dương trợ uy mà đạt được. Cho nên có câu “gặp Sát mà không có Kình Dương thì không thành đạt, có Kình mà không có Sát thì không có uy, có cả Sát cả Kình thì lập công kiến hiệp, có thể thành tướng, soái“. Hay câu “Sát Ấn tương sinh còn có Kình Dương trợ giúp thì không gì là không quý hiển“. Nói chung người gặp Kình Dương nên làm việc thiện, kiềm chế mình, tôn trọng pháp luật .....thì tránh được điều xấu, giữ được an thân, nếu không thì suốt đời trắc trở. 2 - Kiếp Sát Cách tra lấy chi năm hay chi ngày là chủ tìm các chi trong tứ trụ như sau: Kiếp Sát chủ về hung, về các tai họa bệnh tật, bị thương, hình pháp, trong tứ trụ không gặp là tốt nhất. Nếu nó là kỵ thần thì tính tình cường bạo, gian hoạt sảo trá, thường chuốc lấy tai họa. Nếu là hỷ, dụng thần thì là người hiếu học, cầu tiến bộ, ham lập nghiệp, công việc chuyên cần, quả đoán trong công việc, dễ thành công. 3 – Tai Sát Cách tra lấy chi năm làm chủ tìm các chi trong tứ trụ như sau: Tai Sát sợ khắc, nếu gặp sinh lại tốt (?). Trong tứ trụ nếu gặp Tai Sát thì phúc ít họa nhiều. Sát chủ về máu me, chết chóc. Nếu Sát thuộc hành Thủy hay Hỏa phải đề phòng bỏng, cháy; thuộc Kim hay Mộc đề phòng bị đánh; thuộc Thổ phải đề phòng ôn dịch (dịch bệnh) hay đổ sập của các vật (như tường, nhà,...). Tai Sát khắc thân là xấu, nếu có thần phúc cứu trợ, phần nhiều có quyền lực, cũnh như Kiếp Sát gặp Quan tinh, Ấn thụ là tốt. 4 – Vong Thần Cách tra lấy chi năm hay chi ngày làm chủ tìm các chi trong tứ trụ như sau: Vong Thần cát (tức tốt) thì sắc sảo uy lực, mưu lược, tính toán liệu việc như thần, binh cơ ứng biến, cuối cùng rồi sẽ thắng, nói năng hùng biện, tuổi trẻ tiến nhanh. Nói là tốt tức là chỉ khi Thân vượng, Vong Thần là hỷ, dụng thần (tức hành của nó là hỷ hay dụng thần). Nói là xấu tức Thân nhược, Vong thần là kỵ thần, là người ngông cuồng đảo điên, trắng đen thị phi lẫn lộn, lòng dạ hẹp hòi, đam mê tửu sắc, việc quan kiện tụng, phạm quân pháp. Mệnh (tứ trụ) đã có tuần Không Vong còn gặp Vong Thần thì họa không nhẹ, nghèo đói suốt đời (?). Với phương pháp của tôi Vong Thần luôn luôn có điểm hạn dương (xấu). 5 – Nguyên Thần Cách tra lấy chi năm làm chủ tìm các chi trong tứ trụ như sau: Với nam sinh các năm dương và nữ sinh các năm âm (dấu của can của năm sinh - tức trụ năm) là năm: Với nam sinh các năm âm và nữ sinh các năm dương: Mệnh gặp Nguyên thần thường tướng mạo xấu, thô cứng, giọng khàn đục, tính cách cũng vậy. Tuế Vận (lưu niên và đại vận) gặp Nguyên thần như cây gặp gió, bị xô lắc đảo điên, không được bình yên, không có bệnh trong thì gặp nạn ngoài, tuy có phú quý cao sang nhưng không thịnh. Đại vận gặp Nguyên thần thì cả 10 năm đáng sợ, không yên ổn, cửa nhà lận đận, nếu có cát thần phù hộ thì mới đỡ phần nào . Nguyên Thần tuy xấu, lưu niên đại vận gặp là không tốt, nhưng biết được điều xấu, tránh xa phương của Nguyên Thần (phương mang hành của Nguyên thần) thì có thể vô hại. 6 - Cấu và Giảo Cách tra lấy chi năm làm chủ. Với nam sinh các năm dương và nữ sinh các năm âm thì xem trong tứ trụ có ngôi thứ ba sau mệnh (chi của trụ năm - năm sinh và tính theo theo bảng 60 năm Giáp Tý) là Cấu ngôi thứ ba trước mệnh là Giảo. Với nam sinh các năm âm, nữ sinh các năm dương thì ngôi thứ ba sau mệnh là Giảo, ngôi thứ ba trước mệnh là Cấu. Ví dụ: Nếu nam sinh năm Canh Ngọ (nó là năm dương bởi vì can năm của nó là Canh là can dương) thì ngôi thứ ba sau năm Ngọ (mệnh) là Dậu tức là Cấu, ngôi thứ ba trước Ngọ là Mão tức là Giảo. Nữ sinh năm dương là Canh Ngọ (1990) thì ngôi thứ ba sau Ngọ là Dậu tức là Giảo còn ngôi thứ ba trước Ngọ là Mão tức là Cấu. Những cái khác tính tương tự. Mệnh gặp hai sát đó thân thường bị sát khắc, nhưng có nhiều cơ mưu, chủ về nắm các việc hình phạt hay sát phạt hoặc là tướng soái. Năm hành đến đó thường gặp chuyện cãi cọ, hình phạt. Cả hai cùng gặp càng nặng, đi với sát càng nặng. Trụ ngày và tuế vận nhất là thái tuế cùng gặp Cấu hay Giảo là chủ về tai nạn nát thân. 7 – Không Vong Nếu trụ ngày trong tứ trụ là Giáp Tý thì nó được gọi là Tuần Giáp Tý, nó có nghĩa là ở đây mỗi Tuần chỉ có 10 ngày tính từ trụ ngày Giáp Tý theo chiều thuận của bảng nạp âm là Giáp Tý (1), Ất Sửu (2), Bính Dần (3), Đinh Mão (4), Mậu Thìn (5), Kỷ Tị (6), Canh Ngọ (7), Tân Mùi (8), Nhâm Thân (9) và Quý Dậu (10), nó không có ngày Giáp Tuất (11) và Ất Hợi (12), cho nên các chi Tuất và Hợi được gọi là Không Vong của trụ ngày Giáp Tý bởi vì trong Tuần Giáp Tý không có các chi là Tuất và Hợi. Cách tra Không Vong là lấy trụ ngày trong tứ trụ làm chủ tìm các chi trong tứ trụ như sau: Sát của tuần Không Vong có cát có hung. Nếu tứ trụ có hung tinh, ác sát thì đó là đất tụ hội của tai họa, đều cần có Không Vong giải cứu. Nếu là đất Lộc, Mã, Tài, Quan thì đó là nơi phúc tụ, không nên gặp Không Vong vì sẽ bị nó làm cho tiêu tan. 8 – Thiên la và địa võng Thìn của trụ năm hay trụ ngày gặp Tị hay Tị của trụ năm hay trụ ngày gặp Thìn trong tứ trụ là Thiên La. Tuất của trụ năm hay trụ ngày gặp Hợi hay Hợi của trụ năm hay trụ ngày gặp Tuất trong tứ trụ là Địa Võng. Cách tra lấy chi năm hay chi ngày làm chủ tìm các chi trong tứ trụ như sau: Thiên la và địa võng là hung thần ác sát, là một trong những tiêu chí lao tù. Nếu trong tứ trụ có Thiên la hay Địa võng còn thêm tam hình thì khi gặp tuế vận khó tránh khỏi tù đầy. Nếu trong tứ trụ có thiên la hay địa võng thì nó chỉ có thể gây ra điểm hạn khi nó gặp lưu niên. 9 - Tứ phế Qua đây ta thấy trụ ngày mà can và chi của nó có hành giống nhau (trừ hành Thổ) và sinh vào các tháng thuộc mùa có hành xung khắc với nó thì nó là Tứ Phế. Tứ Phế chủ về thân yếu (?), nhiều bệnh, không có năng lực (?) nếu không gặp sinh, phù trợ mà còn bị khắc, hại, hung sát áp chế thì chủ về thương tật tàn phế, kiện tụng cửa quan, thậm chí bị giam, hoặc là người theo tăng đạo. Cho nên trong tứ trụ, cho dù là năm tháng ngày giờ gặp phải đều không tốt, nhất là trụ ngày. A - Các hung thần chưa xác định được điểm hạn 1 - Thập ác-đại bại Cách tra nếu ngày sinh là một trong các các tổ hợp can chi sau đây là có Thập ác đại bại Giáp Thìn, Ất Tỵ, Nhâm Thân, Bính Thân, Đinh Hợi, Canh Thìn, Mậu Tuất, Quý Hợi, Tân Tị, Kỷ Sửu. Thập ác như là người phạm mười trọng tội trong luật pháp, không được ân xá hay giảm. Đại bại là như trong luật nhà binh giao tranh thất bại, chết không sót một ai, nghĩa là rất nặng nề. Ngày Thập ác đại bại là ngày hung, cổ xưa giao chiến rất kiêng kỵ. Ngay nay nó thường được dùng để kiêng kỵ khi xuất hành, khởi sự công việc hay hỷ sự. Ngày Thập ác đại bại là “Kho vàng bạc hóa thành cát bụi“, nếu gặp cát thần phù trợ, quý khí trợ giúp thì còn tốt, nếu gặp Thiên đức, Nguyệt đức thì không còn là điều kiêng kỵ nữa, nếu gặp sao Tài sao Quan ngược lại là phúc. Năm can chi và ngày can chi xung khắc nhau lại là gặp cát thần quý nhân giúp đỡ. 2 – Âm Dương sai lệch Cách tra lấy trụ ngày làm chủ tìm các tổ hợp can chi trong tứ trụ như sau: Bính Tý, Đinh Sửu, Mậu Dần, Tân Mão, Nhâm Thìn, Quý Tỵ, Bính Ngọ, Đinh Mùi, Mậu Thân, Tân Dậu, Nhâm Tuất, Quý Hợi . Âm Dương sai lệch là thông tin về hôn nhân không thuận dễ dẫn đến vợ chồng bất hòa, ly hôn, nặng thì người phối hôn dễ bị bệnh tật. Bất kể là nam hay nữ, tháng, ngày, giờ mà có hai cái hay ba cái trùng nhau là rất nặng. (Riêng hung thần này chỉ gây ra điểm hạn cho người phối hôn.) 3 – Hàm Trì (hay Đào Hoa) Hàm Trì chủ về sự đòi hỏi sinh lý khá cao nhưng phàm người có Hàm Trì thì thường khéo tay, phong lưu, đẹp, tính nóng nhưng giỏi nhiều nghề, phần nhiều là nghệ nhân. Sự hiểu biết, linh lợi, thông minh,... chính là nguồn tiến bộ của văn hóa, nghệ thuật.... Có rất nhiều bậc quan quý cao sang, thương gia giầu có, nhiều nghệ sĩ và nhà khoa học, danh nhân tướng soái đều có Hàm Trì. Nhưng khi tổ hợp trong tứ trụ không tốt là chủ về sự phong lưu trăng gió, quan hệ mờ ám giữa nam nữ. Với nữ, nếu trong tứ trụ không có Quan hay Sát, nhất là Quan hoặc có cả Quan và Sát mà : a - Có cả sao Hàm Trì và Hồng Diễm. b - Sao Hàm Trì hợp với cung phối hôn (chi trụ ngày) hóa cục có hành sinh cho Nhật Can. c - Sao Hàm Trì và Hồng diễm cùng trụ. d - Sao Hàm Trì ở trụ giờ. Thì những người này phần nhiều làm nghề mãi dâm (nếu trong tứ trụ có 2 hay 3 trong 4 thông tin này). 4 - Hồng Diễm Cách tra sao Hồng Diễm là lấy can ngày hay can năm làm chủ tìm trong tứ trụ gặp những chi sau là có Hồng Diễm: Sao Hồng Diễm đại diện cho người có khả năng hấp dẫn, lôi cuốn những người khác giới tính bởi tính tình cởi mở hay có thân thể quyến rũ....của họ. Nếu nữ mệnh gặp phải Hồng Diễm mà nó không bị xung hay hợp thì rất xấu (?), nhất là có thêm sao Hàm Tri (Đào Hoa). Bảng tra thần sát theo địa chi Bảng tra thần sát theo thiên can Chỉ có các cát thần và hung thần có trong 2 bảng trên khi xuất hiện trên tuế vận và tiểu vận mới có khả năng gây ra hạn hoặc giải được hạn (trừ âm dương sai lệch). Vì mục đích của cuốn sách này là phương pháp tìm các điểm hạn nên ở đây chỉ lập các bảng tra các thần sát có khả năng gây ra điểm hạn, còn các thần sát khác bạn đọc tự lập lấy bảng để tra. Chương 8 Sơ đồ biểu diễn tứ trụ, tuế vận và tiểu vận I - Quy ước biểu diễn Tứ trụ, tuế vận và tiểu vận Ví dụ : Nam sinh ngày 11/10/1987 lúc 16,00’. 1 - Xác định tứ trụ, các đại vận và thời gian của chúng 2 - Xác định lưu niên và tiểu vận của tứ trụ này vào ngày 10 tháng 6 năm 2006. 3 - Xác định tất cả các cát thần và hung thần của tứ trụ này . Điều bắt buộc của tuần thứ nhất là bạn đọc phải trả lời đúng 3 câu hỏi này. Đáp án : 1 – Nam mệnh có tứ trụ : Đinh Mão – Canh Tuất – ngày Quý Tị - Canh Thân Các đại vận và thời gian của chúng : Đại vận đầu tiên của người này là Kỷ Dậu, nó bắt đầu vào tháng 6/1988 (khi người này 1 tuổi) tới 6/1998 bởi vì mỗi đại vận chỉ kéo dài đúng 10 năm. Vì vậy đại vận thứ 2 là Mậu Thân từ 6/1998 tới 6/2008, tiếp Đinh Mùi từ 6/2008 tới 6/2018, Bính Ngọ từ 6/2018 tới 6/2028,...... 2 - Ngày 10/6/2006, đó là năm (lưu niên) Bính Tuất thuộc đại vận Mậu Thân và tiểu vận Tân Sửu (bởi vì lưu niên Bính Tuất có 2 tiểu vận là Tân Sửu và Canh Tý, nhưng ngày 10 tháng 6 chưa qua ngày sinh nhật 11 thánmg 10 nên nó vẫn còn ở tiểu vận Tân Sửu). 3 - Sơ đồ biểu diễn: a - Hình chữ nhật phía trên : Giữa can chi cùng 1 trụ ghi nạp âm của trụ đó. Trụ Mậu Thân là đại vận: Trụ Bính Tuất là lưu niên (năm) 2006. Năm 2006 người này 19 tuổi (2006 – 1987 = 19), số 19 viết phía dưới can của lưu niên, còn năm 2006 viết phía trên thái tuế (chi của lưu niên). Con số 10/6 là ngày 10 tháng 6 năm 2006, đó là ngày và tháng của lưu niên (năm) 2006 là ngày Canh Ngọ và tháng Giáp Ngọ. Trước ngày sinh nhật (11/10) người này ở tiểu vận Tân Sửu, sau ngày sinh nhật (11/10) mới sang tiểu vận Canh Tý được viết trong 2 hình tứ giác phía trong hình chữ nhật (ý muốn nói tiểu vận chỉ có tác động được tới đại vận và lưu niên). b - Hình chữ nhật phía dưới : Giữa can chi của cùng 1 trụ ghi nạp âm của trụ đó. Trụ đầu tiên là trụ của năm sinh là Đinh Mão. Trụ thứ hai là trụ của tháng sinh là Canh Tuất. Trụ thứ ba là trụ của ngày sinh là Quý Tị. Trụ thứ tư là trụ của giờ sinh là Canh Thân. 11/10 lúc 16,00’ là ngày, tháng và giờ sinh của người này được viết dưới nạp âm của trụ ngày. 9/10 lúc 4,00’ là giờ, ngày và tháng thay đổi lệnh tháng - giao lệnh (tức là mốc thời gian thay đổi từ tháng này sang tháng tiếp sau) từ tháng 9 tới tháng 10 là tháng sinh của anh ta (mục đích để xác định thời gian bắt đầu đại vận đầu tiên), chúng cũng được viết dưới nạp âm của trụ ngày (ở bên trái 11/10 và 16,00’ với nam sinh năm âm và nữ sinh năm dương còn ở bên phải với nam sinh năm dương và nữ sinh năm âm). 1987 là năm sinh của anh ta được viết phía trên chi của trụ năm c - Cách để xác định trạng thái của các can chi : Bước đầu tiên : Các trạng thái (hay điểm vượng) của các can hay các chi trong tứ trụ được xác định theo lệnh tháng (tức là chi của trụ của tháng sinh), còn can đại vận được xác định theo chi đại vận, can lưu niên được xác định theo chi của lưu niên và can tiểu vận được xác định theo chi tiểu vận, tất cả các trạng thái (điểm vượng) của các can chi này được ghi bên phải ngay cạnh chúng. Bước thứ hai : Nếu các can đều nhược ở tuế vận thì viết là 0/0 (riêng can lưu niên thì viết số 0), còn nếu các can chỉ vượng ở đại vận (ta giả sử là Mộc Dục) nhưng nhược ở lưu niên thì viết là Mộc Dục/2, còn nếu vượng ở lưu niên thì viết chính trạng thái đó, tất cả các trạng thái này được viết phía trên các can của chúng 4 - Các cát thần và hung thần của tứ trụ . Các cát thần của tứ trụ này có thể giải được hạn là : Sinh tháng Tuất có Bính là Nguyệt đức, Bính và Đinh là Đức quý nhân, Quý và Mậu là Tú quý nhân và Bính là Thiên đức quý nhân. Can của trụ năm là Đinh và can của trụ ngày là Quý có Hợi, Dậu, Mão và Tị là Thiên ất quý nhân cũng như Dậu và Mão là Văn xương quý nhân. Các cát thần này được viết tắt là: Bính,bính,đinh,quý,mậu,bính,hợi,dậu,mão,tị,dậu,mão. Có tất cả 12 cát thần trong tứ trụ này. Các hung thần của tứ trụ này có thể gây ra điểm hạn là : Mão trụ năm có Thân là Kiếp sát và Dậu là tai sát và Dần là Vong thần. Chi Tị trụ ngày có Dần là Kiếp sát và Thân là Vong thần. Nam sinh năm âm (Đinh) Nguyên thần của chi Mão trụ năm là Thân và Cấu giảo là Tý và Ngọ. Trụ ngày là Quý Tị, vì vậy Không Vong là Ngọ và Mùi. Các hung thần này được viết tắt là : Thân,dậu,dân,dần,thân,thân,tý,ngọ,ngọ,mùi. Có tất cả 10 hung thần của tứ trụ này. Tất cả các cát thần và hung thần này khi xuất hiện ở tuế vận hay ở tiểu vận mới có khả năng gây ra điểm hạn, riêng tứ phế chỉ có điểm hạn khi nó ở trụ ngày. II - Bài tập 1 - Can và chi có ý nghĩa như thế nào trong hệ mặt trời của chúng ta ? 2 - Vì sao họ (người ngoài hành tinh của chúng ta) dự đoán được vận mệnh của trái đất ? Họ đã dựa vào lý thuyết nào ? 3 - Bạn có thể tìm thấy hành thứ 6 được không ? Nếu có thì hành đó là gì ? Và nó có những tính chất gì ? 4 - Ngũ hành và các can chi được phân bố theo các phương nào? 5 - Can và chi đại diện cho các bộ phận nào trong cơ thể ? Bạn có tin người ta đã sử dụng điều này để chữa bệnh cho con người không ? 6 - Bạn lấy một vài ví dụ bất kỳ trong sách này để trả lời 3 câu hỏi ở phần đầu của chương 8. Một vài ý kiến Bạn đọc tạm thời thừa nhận tất cả các khái niệm cơ bản của môn Tứ Trụ này, nhất là ý nghĩa của các nạp âm cũng như các tính chất tương sinh và tương khắc của ngũ hành (ví dụ nếu ta chỉ hiểu đất là đất, kim là kim thì làm sao đất có thể luyện để sinh được ra kim mà thực tế chỉ có quặng mới có thể luyện để sinh ra kim bởi vì trong quặng mới chứa kim loại....). Tôi hy vọng qua cuốn sách này bạn đọc chỉ cần mất khoảng 7 tuần tới 7 tháng là có khả năng hiểu được các phần cở bản của cuốn sách này mà tôi đã phải tự nghiên cứu không có thầy từ khi tôi biết môn này cho tới khi tôi viết xong cuốn sách này trong khoảng 5 năm. Các câu hỏi trọng tâm cho Bài 8 và 9. Các câu hỏi trong phần “II - Bài tập” ở trên tôi đã đưa ra ở các bài trước nên ở đây tôi chỉ đưa thêm một số bài tập dưới dạng câu 6 ở trên: Xác định: a - Tứ trụ. b - Các hung/cát thần của tứ trụ. c - Các đại vận và thời gian của chúng. d - Lưu niên và 2 tiểu vận của lưu niên đó. e - Các nạp âm của các trụ. f - Trạng thái của các Can-Chi trong tứ trụ, tuế vận và tiểu vận tại lệnh tháng, đại vận, tiểu vận và lưu niên (để đơn giản bạn đọc lấy số điểm tương ứng với từng trạng thái mà tôi đã ghi cùng hàng trong bảng Sinh Vượng Tử Tuyệt thay cho ghi trạng thái của chúng). Của các bài tập lấy trong cuốn “Giải Mã Tứ Trụ” như sau: 1 - Ví dụ 1 : Nam sinh ngày 26/3/1961 lúc 2,00’am. Chết vì ung thư gan vào tháng 10/2006. 2 - Ví dụ 5 : Nam sinh ngày 23/4/1948 lúc 8,00’am. Năm 1989 anh ta bị tai nạn, đầu va vào cửa kính và chân bị gẫy lòi xương. 3 - Ví dụ 6 : Nam sinh ngày 25/9/1990 lúc 13,00’. Tháng 7/1991 bị mổ u não may thoát chết. 4 - Ví dụ 10 : Bé trai Elgin Alexander Fraser (Canada) sinh ngày 10/4/2004 lúc 12,00’. Bị bệnh ung thư từ khi mới 8 tháng tuổi và được sống tới ngày 19/5/2007 lúc 19,45’. Hình chụp với trung phong (Centre) Mike Fisher gần đây, khi còn sống 5 - Ví dụ 14 : Nữ sinh ngày 29/11/1955 lúc 5,01’am. Chết vì cảm lạnh vào tháng 4/2007. 6 - Ví dụ 151 : Michael Jackson was born 29/9/1958 lúc 12,00’ (?). Anh ta chết vì trụy tim ngày 25/6/2009 lúc 12,44’. 7 - Ví dụ 215: Nhà bác học thiên tài Albert Einstein sinh ngày 14/3/1879 lúc 11,30’. Ông ta mất ngày 18/4/1955. .................................................................................... Ðáp án : Lấy ví dụ sát thủ Cho Seung Hui đã trình bầy ở trên làm mẫu như sau (bỏ phần “Ðiểm hạn và điểm vượng vùng tâm): Ví dụ 124 : Sát thủ Cho Seung Hui (sinh ngày 18/13/1983 - tức ngày 18/1/1984 -, chết ngày 16/4/2007) đã tự sát sau khi giết 32 sinh viên tại học viện Virginia Tech USA . 1 - Qua sơ đồ trên ta thấy Quý ở trụ năm có 8 điểm vượng ở lệnh tháng (Sửu), nó đại diện cho trạng thái Quan Ðới và 10 điểm ở ngay phía trên, nó đại diện cho trạng thái Ðế Vượng tại lưu niên Hợi (thái tuế). 2 - Ất trụ tháng có 5,1 điểm vượng tại lệnh tháng, nó đại diện cho trạng thái Suy và ký hiệu 0/0 ở ngay phía trên, có nghĩa Ất đều suy nhược (hay hưu tù) ở đại vận và lưu niên (nếu giả sử nó suy nhược tại lưu niên nhưng có 9 điểm vượng tại đại vận thì ta phải ghi là 9/2). .......................... 3 – Thân trụ giờ có 4,2 điểm vượng ở lệnh tháng, nó đại diện cho trạng thái Dưỡng (chú ý các Chi không ghi các điểm vượng của chúng ở đại vận hay lưu niên ở phía trên chúng). ........................ 4 – Quý đại vận có 10 điểm vượng tại đại vận Hợi và 10 điểm vượng tại lưu niên được ghi ngay phía trên. 5 – Ðinh lưu niên có 4,1 điểm vượng tại lưu niên và 0đv được ghi ngay trên nó vì Ðinh suy nhược tại đại vận Hợi (nếu giả sử Ðinh có 8 đv tại đại vận thì ta phải ghi là 8/2) 6 – Nhâm tiểu vận có 6 đv đại diện cho trạng thái Trường Sinh của nó tại tiểu vận là chi Thân. 7 - Nạp âm của trụ năm Quý Hợi là Nước biển, nó được ghi tắt là Biển. ............................ 8 - Nạp âm Lửa dưới núi của trụ giờ Bính Thân được ghi tắt là l/d/núi. .............................1 like
-
Bạn lấy thêm lá số giờ Mão để các bác xác định giờ sinh giúp cho nhé!1 like
-
Ở đoạn này cũng vậy, tác giả và Nhâm Thiết Tiều cũng chỉ hiểu nông cạn theo nghĩa đen về các trạng thái của “Bảng sinh vượng tử tuyệt“ mà thôi. Các khái niệm Âm Dương và các trạng thái của “Bảng sinh vượng tử tuyệt“ có thể mô tả được hầu như toàn bộ các quy luật đang diễn ra trong tự nhiên của chúng ta, kể cả trong Vũ Trụ. Bởi vì Âm Dương là 2 trạng thái đối lập nhau (hiểu theo nghĩa đơn giản nhất), cho nên Giáp là can Dương ở trạng thái Sinh (tức Trường sinh) ở Hợi thì Ất (cùng hành Mộc) mang dấu (can) Âm phải ở trạng thái đối lập của Sinh tức là nó phải ở trạng thái Tử tại Hợi thì mới đúng theo định nghĩa (học thuyết) về Âm Dương (các can khác cũng suy luận tương tự như vậy). Ví dụ 1 : Một người đang sống trong thế giới của chúng ta được xem là thế giới Dương và nặng + 60 kg chẳng hạn, còn một người Âm (tức ma… hay thần thánh gì đó) trong thế giới Âm thì phải có khối lượng Âm, giả sử nặng là -60 kg. Do vậy không thể theo như Nhâm Thiết Tiều cho rằng người Âm này cũng phải nặng +60 kg. Và nếu người Dương ở trạng thái Tử (chết) thì dĩ nhiên người Âm phải ở trạng thái Sinh mới là hợp lý, có logic...(vì một người chết đi thì "con ma" của chính người đó mới bắt đầu xuất hiện được chứ). Ví dụ 2 : Một Lỗ Ðen với lực hấp dẫn khủng khiếp đã hút mọi vật chất khi chúng không may đi qua “Chân Trời Sự Kiện“ của nó, khi tới một mức độ cùng cực thì ắt nó (Lỗ Ðen) phải trở thành Lỗ Trắng để đẩy (Phun) một phần vật chất “Dư Thừa“ ra khỏi bụng của nó, sau đó nó lại trở về trạng thái Lỗ Ðen bình thường như trước. Ðiều này hoàn toàn phù hợp với học thuyết Âm Dương : “Dương đến cùng cực thì sinh Âm; Âm đến cùng cực thì sinh Dương“. Ðại loại là như vậy. Hy vọng mọi người cung cấp thêm các ví dụ hiểu theo Nghĩa Bóng về các khái niệm này.1 like
-
Không ảnh hưởng gì đâu, nhà bạn yên tâm đi! Thân mến.1 like
-
Tôi có thể khẳng định rằng cách đây 3 đến 4 nghìn năm những người trong nền văn minh “Ở Trần Ðóng Khố“ đã hiểu các khái niệm Hình, Tự Hình và Hại theo nghĩa bóng như tôi đã trình bầy. Bởi vì nếu họ hiểu các khái niệm này theo nghĩa đen mà Nhâm Thiết Tiều đã trình bầy như đoạn tôi trích trên thì họ đã “vứt bỏ “ hay “tước bỏ“ chúng từ lúc đó rồi chứ làm gì mà họ ngu đến mức phải tốn công, tốn giấy mực để viết lại những điều mà các vị khách thuộc nền văn minh ngoài trái đất của chúng ta mách bảo để cho các khái niệm này còn tồn tại tới ngày nay. Bây giờ tôi không dùng đến các từ Ngụy tạo hay Tuyệt Chiêu nữa bởi vì có nhiều người hình như không hài lòng với các từ này thì phải. Do vậy ở đây tôi phải nói rằng Trình Ðộ của Nhâm Thiết Tiều mặc dù là người được “Mặc Áo, Mặc Quần“ sinh ra và lớn lên trong nền văn minh gần đây nhưng lại không bằng những người “Ở Trần Ðóng Khố“ sống cách đây vài nghìn năm. Sau đây là một vài ví dụ trong cuốn "Giải Mã Tứ Trụ“ : Ví dụ 40 : Nữ sinh ngày 6/6/1961 lúc 7,01’. Năm 1963 bị liệt hai chân vì sốt cao. (Ðây là ví dụ số 1 trang 572 trong cuốn “Dự Ðoán theo Tứ Trụ“ của thầy trò cụ Thiệu Vĩ Hoa.) Qua sơ đồ mô tả hạn năm 1963 ở trên, rõ ràng chúng ta thấy nếu theo suy luận của Nhâm Thiết Tiều thì sẽ không có Ngọ đại vận, trụ tháng và trụ ngày cùng hại Sửu trụ năm vì là tương sinh; Ngọ đại vận không thể tự hình Ngọ trụ tháng và Ngọ trụ ngày…. vì cùng hành và Thìn trụ giờ không thể hại được Mão thái tuế vì Mão (Mộc) đã khắc Thìn (Thổ). Vậy thì giữa Tứ Trụ với tuế vận ở trên còn có thông tin nào để có thể gây ra được tai họa này ? Cho nên nếu như môn Tử Bình chưa có khái niệm Hình, Tự Hình và Hại thì từ ví dụ này chúng ta cũng phải đưa ra các khái niệm này. Ví dụ 124 : Sát thủ Cho Seung Hui đã tự sát sau khi giết 32 sinh viên tại học viện Virginia Tech USA . Qua sơ đồ mô tả tai họa về cái chết năm 2007 của người này, chúng ta nhận thấy trong Tứ Trụ có 2 Hợi và tai họa lại xẩy ra vào đại vận Hợi và năm (lưu niên) Hợi (2007). Tất cả có tới 4 Hợi thì 4 Hợi này chúng có liên hệ gì tới cái chết do tự người này gây lên cho chính mình và các người khác. Một điều dễ dàng cho chúng ta nhận thấy là Hợi với Hợi phải có mối liên quan tới sự tự mình làm hại mình. Do vậy người ta đã gọi Hợi gặp Hợi là Tự Hình và qua các ví dụ trong thực tế người ta thấy chỉ có 4 chi liên quan tới Tự Hình là Thìn, Ngọ, Dậu và Hợi, đúng như lý thuyết của Tử Bình đã đề cập tới. Vậy mà Nhâm Thiết Tiều đã phủ nhận các khái niệm cơ bản xây dựng lên môn Tứ Trụ này. Tại sao ông ta lại làm như vậy và mục đích ông ta làm như vậy để làm gì ? Chả nhẽ ông ta đang bác bỏ dần lý thuyết môn Tứ Trụ ra khỏi nền văn minh Ðông Phương chăng ?1 like
-
Thich Đủ Thứ thân mến.Chú không hề kiêu ngạo khi nói ra câu này: Chú có nói ra thì ngay cả những nhà khoa học hàng đầu của nhân loại cũng chỉ mới cảm nhận được tính hợp lý và họ cùng nghiên cứu chứ chưa hiểu ngay được. Do đó: Bởi vậy, làm sao mà người Trung Hoa hiểu được dễ dàng thế. Hàng ngàn năm nay, bao học giả của họ lao vào nghiên cứu cuối cùng vẫn bế tắc. Khi hội nhập hai nền văn minh Đông Tây - cả khoa học hiện đại Tây phương lẫn hậu duệ của văn minh Đông phương cũng không thể khám phá ra. Cho dù họ có lấy luôn nguyên lý Hà Đồ phối Hậu Thiên và ứng dụng thì cũng chỉ ứng dụng trong phạm vi.....đã ứng dụng thôi. Nhưng lúc này họ phải công nhận ngầm Việt sử 5000 năm văn hiến là chân lý. Bởi lý thuyết đó phải có lịch sử hình thành và phát triền - khách quan - của nó . Nó không từ trên trời rơi xuống. Thế giới này cũng sẽ như vậy. Họ muốn hóa giải và hiểu được lý thuyết thống nhất ah? Chuyện này còn khó hơn "Dị nhân đuổi mưa".1 like
-
1 like