-
Thông báo
-
Nội quy Lý Học Plaza
Nội quy này là bản mở rộng Nội Quy - Quy định của Diễn đàn. Khi tham gia mua bán, các thành viên phải tuân theo những quy định sau: Tiêu đề bài viết: Bao gồm: Chỉ dẫn địa lý, Loại hình Mua/Bán, Thông tin mua bán.
Chỉ dẫn địa lý: Tỉnh/thành nơi mua bán. Hoặc sử dụng định nghĩa có sẵn:TQ: Toàn quốc
HCM: TP Hồ Chí Minh
HN: Hà Nội
[*]Ví dụ: HCM - Bán Vòng tay Hổ Phách Nội dung bài viết: Mô tả chi tiết sản phẩm mua/bán
Bắt buộc phải có thông tin liên lạc, giá Mua/Bán
Bài mới đăng chỉ được phép up sau 03 ngày.
Thời gian up bài cho phép: 01 ngày 01 lần.
Các hành vi vi phạm nội quy này sẽ bị xóa bài hoặc khóa tài khoản mà không cần báo trước.
-
Leaderboard
Popular Content
Showing most liked content on 11/06/2011 in Bài viết
-
Trung Quốc cũng hay viện dẫn công hàm này để cải lý với Việt nam. Cơ sở để chúng ta phản bác ở đây Công hàm của TT Phạm Văn Đồng không thể là cơ sở để TQ lấn chiếm Hòang Sa của VN. Bối cảnh ra đời của Công Hàm: Ngày 4 tháng 9 năm 1958, Chu Ân Lai, Thủ tướng nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa công khai tuyên bố với quốc tế về quyết định của Chính phủ Trung Quốc về hải phận 12 hải lý kể từ đất liền của Hoa Lục, có đính kèm bản đồ về đường ranh giới lãnh hải, trong đó bao gồm quần đảo Hoàng Sa. Cùng lúc bấy giờ, chiến tranh với Mỹ bắt đầu leo thang, Hạm đội 7 của Mỹ hoạt động trên eo biển Đài Loan và đe doạ Trung Quốc. Bối cảnh ấy, TT Phạm Văn Đồng đã phải lập tức lên tiếng để ủng hộ Trung Quốc, nhằm gây một lực lượng phản công lại với mối đe doạ của Mỹ. Lời lên tiếng ủng hộ Trung Quốc của TT Phạm Văn Đồng, thực hiện bằng 1 Công hàm Và hình như giờ đây TQ viện dẫn vào Công hàm ấy để nói rằng VN đã đồng ý Hòang Sa là của họ. Công hàm đề ngày 14 tháng 9 và cho đăng trên báo Nhân Dân ngày 22 tháng 9 năm 1958... Công hàm của TT Phạm Văn Đồng http://www.thuvienphapluat.vn/Default.aspx?CT=NW&NID=5586 Sau đây là bài phân tích giá trị Pháp Lý của Công Hàm trên Tạp chí Thời Đại : (Bài phân tích dùng nhiều thuật ngữ Công pháp Quốc tế, sẽ khó đọc cho một số độc giả - THƯ VIỆN PHÁP LUẬT) Những lời tuyên bố trên không có hiệu lực vì trước năm 1975, Việt Nam Dân chủ Cộng hòa không quản lý những đảo này. Lúc đó, những đảo này nằm dưới sự quản lý của Việt Nam Cộng hoà; mà các chính phủ Việt Nam Cộng hoà luôn luôn khẳng định chủ quyền của Việt Nam trên hai quần đảo. Còn Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hoà miền Nam Việt Nam cũng không tuyên bố điều gì có thể làm hại đến chủ quyền này cả. Tác giả Monique Chemillier-Gendreau đã viết như sau: “Dans ce contexte, les declarations ou prise de position éventuelles des autorités du Nord Vietnam sont sans consequences sur le titre de souveraineté. Il ne s’agit pas du gouvernement territorialement competent à l’égard des archipels. On ne peut renoncer à ce sur quoi on n’a pas d’autorité…” (Có thể dịch là: “Trong những điều kiện này, những lời tuyên bố hoặc lập trường nào đó của chính quyền miền Bắc Việt Nam không có hiệu lực gì đối với chủ quyền. Đây không phải là chính quyền có thẩm quyền trên quần đảo này. Người ta không thể chuyển nhượng những gì người ta không kiểm soát được…”). Một lý lẽ thứ hai nữa là đứng trên phương diện thuần pháp lý, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa lúc đó không phải là một quốc gia trong cuộc tranh chấp. Trước năm 1975, các quốc gia và lãnh thổ tranh chấp gồm: Trung Quốc, Đài Loan, Việt Nam Cộng hoà và Philippin. Như vậy, những lời tuyên bố của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa xem như lời tuyên bố của một quốc gia thứ ba không có ảnh hưởng đến vụ tranh chấp. Nếu đặt giả thuyết Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là một thì dựa trên luật quốc tế, những lời tuyên bố đó cũng không có hiệu lực. Tuy nhiên, có tác giả đã nêu thuyết “estoppel” để khẳng định những lời tuyên bố đó có hiệu lực bó buộc đối với Việt Nam, và Việt Nam bây giờ không có quyền nói ngược lại. Theo luật quốc tế, không có một văn bản pháp lý nào có thể gắn cho những lời tuyên bố đơn phương một tính chất bó buộc, ngoại trừ thuyết “estoppel”. Điều 38 Quy chế Toà án Quốc tế không liệt kê những lời tuyên bố đơn phương trong danh sách những nguồn gốc của luật pháp quốc tế. Estoppel là một nguyên tắc theo đó một quốc gia không có quyền nói hoặc hoạt động ngược lại với những gì mình đã nói hoặc hoạt động trước kia. Câu tục ngữ thường dùng để định nghĩa nó là “one cannot at the same time blow hot and cold.”[72] Nhưng thuyết estoppel không có nghĩa là cứ tuyên bố một điều gì đó thì quốc gia tuyên bố phải bị ràng buộc bởi lời tuyên bố đó. Thuyết estoppel bắt nguồn từ hệ thống luật quốc nội của Anh, được thâu nhập vào luật quốc tế. Mục đích chính của nó ngăn chặn trường hợp một quốc gia có thể hưởng lợi vì những thái độ bất nhất của mình, và do đó, gây thiệt hại cho quốc gia khác.Vì vậy, estoppel phải hội đủ các điều kiện chính: 1. Lời tuyên bố hoặc hành động phải do một người hoặc cơ quan đại diện cho quốc gia phát biểu, và phải được phát biểu một cách minh bạch (clair et non equivoque). 2. Quốc gia nại “estoppel” phải chứng minh rằng mình đã dựa trên những lời tuyên bố hoặc hoạt động của quốc gia kia, mà có những hoạt động nào đó, hoặc không hoạt động. Yếu tố này trong luật quốc nội Anh-Mỹ gọi là “reliance”. 3. Quốc gia nại “estoppel” cũng phải chứng minh rằng, vì dựa vào lời tuyên bố của quốc gia kia, mình đã bị thiệt hại, hoặc quốc gia kia đã hưởng lợi khi phát biểu lời tuyên bố đó. 4. Nhiều bản án còn đòi hỏi lời tuyên bố hoặc hoạt động phải được phát biểu một cách liên tục và trường kỳ. Thí dụ: bản án “Phân định biển trong vùng Vịnh Maine”, bản án “Những hoạt động quân sự và bán quân sự tại Nicaragua”, bản án “Ngôi đền Preah Vihear”,… Ngoài ra, nếu lời tuyên bố đơn phương có tính chất một lời hứa, nghĩa là quốc gia tuyên bố mình sẽ làm hoặc không làm một việc gì, thì quốc gia phải thực sự có ý định muốn bị ràng buộc bởi lời hứa đó, thực sự muốn thi hành lời hứa đó. Thuyết estoppel với những điều kiện trên đã được án lệ quốc tế áp dụng rất nhiều. Trong bản án “Thềm lục địa vùng Biển Bắc” giữa Cộng hòa Liên bang Đức và Đan Mạch/Hà Lan, Toà án quốc tế đã phán quyết rằng estoppel không áp dụng cho Cộng hòa Liên bang Đức, mặc dù quốc gia này đã có những lời tuyên bố trong quá khứ nhằm công nhận nội dung của Công ước Genève 1958 về thềm lục địa, vì Đan Mạch và Hà Lan đã không bị thiệt hại khi dựa vào những lời tuyên bố đó. Trong bản án “Những hoạt động quân sự và bán quân sự tại Nicaragua” giữa Nicaragua và Mỹ, Toà đã phán quyết như sau: “… ‘Estoppel’ có thể được suy diễn từ một thái độ, những lời tuyên bố của một quốc gia, nhằm chấp nhận một tình trạng nào đó; thái độ hoặc lời tuyên bố không những phải được phát biểu một cách rõ rệt và liên tục, mà còn phải khiến cho một hoặc nhiều quốc gia khác dựa vào đó mà thay đổi hoạt động, và do đó phải chịu thiệt hại”. Áp dụng những nguyên tắc trên của estoppel vào những lời tuyên bố của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, chúng ta thấy thiếu điều kiện 2/ và 3/ đã nêu ở trên. Năm 1956, năm 1958 và năm 1965, Trung Quốc đã không có thái độ nào, hoặc thay đổi thái độ vì dựa vào lời tuyên bố của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Và Trung Quốc cũng không thể chứng minh được rằng mình bị thiệt hại gì do dựa vào những lời tuyên bố đó. Việt Nam Dân chủ Cộng hòa cũng không được hưởng lợi gì khi có những lời tuyên bố đó. Lúc đó hai dân tộc Việt Nam và Trung Hoa rất thân thiện, “vừa là đồng chí, vừa là anh em”. Những lời tuyên bố của Thủ tướng Phạm Văn Đồng hoàn toàn do tình hữu nghị Hoa-Việt. Hơn nữa, lời văn của bản tuyên bố không hề nói rõ ràng minh bạch là công nhận chủ quyền của Trung Quốc trên Hoàng Sa. Bức công hàm chỉ nói: “Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tôn trọng quyết định ấy (quyết định ấn định lãnh hải 12 dặm của Trung Quốc), và sẽ chỉ thị cho các cơ quan Nhà nước có trách nhiệm triệt để tôn trọng hải phận 12 hải lý của Trung Quốc…”. Lời tuyên bố của Thủ tướng Phạm Văn Đồng cũng có thể hiểu là một lời hứa đơn phương, một lời tuyên bố ý định sẽ làm một việc gì (declaration d’intention). Thật vậy, đây là một lời hứa sẽ tôn trọng quyết định của Trung Quốc trong việc ấn định lãnh hải của Trung Quốc, và một lời hứa sẽ ra lệnh cho cơ quan công quyền của mình tôn trọng lãnh hải đó của Trung Quốc. Một lời hứa thì lại càng khó ràng buộc quốc gia đã hứa. Toà án Quốc tế đã ra thêm một điều kiện nữa để ràng buộc một lời hứa: đó là ý chí thực sự của một quốc gia đã hứa. Nghĩa là quốc gia đó có thực sự muốn bị ràng buộc bởi lời hứa của mình hay không. Để xác định yếu tố “ý chí” (intention de se lier), Toà xét tất cả những dữ kiện xung quanh lời tuyên bố đó, xem nó đã được phát biểu trong bối cảnh, trong những điều kiện nào (circonstances). Hơn nữa, nếu thấy quốc gia đó có thể tự ràng buộc mình bằng cách ký thoả ước với quốc gia kia, thì lời tuyên bố đó là thừa, và Toà sẽ kết luận là quốc gia phát biểu không thực tình có ý muốn bị ràng buộc khi phát biểu lời tuyên bố đó. Vì vậy, lời tuyên bố đó không có tính chất ràng buộc. Trong bản án “Những cuộc thí nghiệm nguyên tử” giữa Úc/Tân Tây Lan và Pháp, Pháp đã tuyên bố là sẽ ngừng thí nghiệm nguyên tử. Toà án đã phán quyết rằng Pháp bị ràng buộc bởi lời hứa vì Pháp thực sự có ý muốn bị ràng buộc bởi lời hứa đó. Trong trường hợp Việt Nam, Thủ tướng Phạm Văn Đồng, khi tuyên bố sẽ tôn trọng lãnh hải của Trung Quốc, không hề có ý định nói đến vấn đề chủ quyền trên Hoàng Sa và Trường Sa. Ông đã phát biểu những lời tuyên bố trên trong tình trạng khẩn trương, chiến tranh với Mỹ bắt đầu leo thang, Hạm đội 7 của Mỹ hoạt động trên eo biển Đài Loan và đe doạ Trung Quốc. Ông đã phải lập tức lên tiếng để ủng hộ Trung Quốc nhằm gây một lực lượng chống đối lại với mối đe doạ của Mỹ. Lời tuyên bố năm 1965 của Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa cũng như vậy. Động lực của lời tuyên bố đó là tình trạng khẩn trương, nguy ngập ở Việt Nam. Đây là những lời tuyên bố có tính chính trị, chứ không phải pháp lý. Nếu xét yếu tố liên tục và trường kỳ thì ba lời tuyên bố của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa cũng không hội đủ tiêu chuẩn này. Estoppel chỉ đặt ra nếu chấp nhận giả thuyết Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là một; và cả Pháp trong thời kỳ thuộc địa, và Việt Nam Cộng hoà trước năm 1975 cũng là một đối với Việt Nam hiện thời. Nếu xem như Việt Nam Dân chủ Cộng hòa là một quốc gia riêng biệt với Việt Nam hiện thời, thì estoppel không áp dụng, vì như đã nói ở trên, lời tuyên bố sẽ được xem như lời tuyên bố của một quốc gia không có quyền kiểm soát trên lãnh thổ tranh chấp. Như vậy, nếu xem Việt Nam nói chung như một chủ thể duy nhất từ xưa đến nay, thì ba lời tuyên bố của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa chỉ là một sự phát biểu có ý nghĩa chính trị trong đoản kỳ thời chiến, so với lập trường và thái độ của Việt Nam nói chung từ thế kỷ XVII đến nay. Tóm lại, những lời tuyên bố mà chúng ta đang phân tích thiếu nhiều yếu tố để có thể áp dụng thuyết estoppel. Yếu tố “reliance” (tức là quốc gia kia có dựa vào lời tuyên bố của quốc gia này mà bị thiệt hại), và yếu tố “ý chí” (tức là quốc gia phát biểu lời hứa có ý muốn bị ràng buộc bởi lời hứa đó) rất quan trọng. Không có “reliance” để giới hạn sự áp dụng của estoppel thì các quốc gia sẽ bị cản trở trong việc hoạch định chính sách ngoại giao. Các quốc gia sẽ phải tự ép buộc cố thủ trong những chính sách ngoại giao lỗi thời. Khi điều kiện chung quanh thay đổi, chính sách ngoại giao của quốc gia kia thay đổi, thì chính sách ngoại giao của quốc gia này cũng phải thay đổi. Các quốc ga đổi bạn thành thù và đổi thù thành bạn là chuyện thường. Còn những lời hứa đơn phương trong đó quốc gia không thật tình có ý muốn bị ràng buộc, thì nó chẳng khác gì những lời hứa vô tội vạ, những lời hứa suông của các chính khách, các ứng cử viên trong cuộc tranh cử. Trong môi trường quốc tế, nguyên tắc “chủ quyền quốc gia” (état souverain) rất quan trọng. Ngoại trừ tục lệ quốc tế và những điều luật của Jus Congens, không có luật nào ràng buộc quốc gia ngoài ý muốn của mình, khi mà quốc gia này không gây thiệt hại cho quốc gia nào khác. Vì vậy ý chí của quốc gia đóng một vai trò quan trọng trong việc quyết định tính chất ràng buộc của một lời hứa đơn phương2 likes
-
===============================================Cái ngu nó nằm ở chỗ này: Trung Quốc luôn xác định - Chỉ có một nước Trung Quốc. Còn Đài Loan mà đòi độc lập thì " Tả ". Đài Loan thì không đòi độc lập, nhưng đòi chủ quyền chung với Trung Quốc Đại Lục cho cùng một địa danh. Vậy nhân danh cái gì? Bởi vậy, em bị loại khỏi cuộc chơi trong Canh bạc cuối cùng thì cũng đừng ân hận.2 likes
-
Tây Tạng: Nghinh đón Lễ "Tát Ca Đạt Ngõa" Triêu Dương (dịch) Ngày 2/6/2011, là 1/4 theo lịch Tây Tạng, dưới ánh nắng tươi đẹp của thành phố Lhasa linh thiêng, Tây Tạng lại một lần nữa nghinh đón lễ"Tát Ca Đạt Ngõa" (Sagadawa Festival) - lễ truyền thống của Phật giáoTạng Truyền. Tháng 4 (theo lịch Tạng) là tháng Phật, ngôn ngữ Tạng gọi là"Tát Ca Đạt Ngõa". Lễ "Tát Ca Đạt Ngõa" bắt đầu từ mồng 1tháng 4, khi đến ngày 15 thì đã đạt đến đỉnh điểm. Tương truyền, ngày 15/4(lịch Tạng) là ngày đản sinh, niết bàn và thành Phật của đức Phật Tổ Thích Ca Mâu Ni, Tây Tạng gọi là tháng Phật. Trọn cả thời gian tháng Phật, để kỷ niệm Phật Tổ, mọi người sẽ thông qua các hình thức như: Chuyển kinh, bố thí, thắp nhang, phóng sanh... Khách hành hương đang vây quanh Cung điện Potala Ngày 2/6/2011 là ngày đầu tiên của lễ Tát Ca Đạt Ngõa. Buổi sáng, các phóng viên đã đến các nơi chủ yếu là Lâm Khuếch, Bát Khuếch - con đường chuyển kinh, nhìn thấy các tín đồ tay cầm Phật châu (chuỗi), tay xoay ống chuyển kinh, miệng niệm kinh văn, thành tâm cầu nguyện. Người chuyển kinh bái Phật đi qua cung điện Potala Trước chùa Đại Chiêu, các tín đồ triều bái tượng Thích CaMâu Ni và họ xếp thứ tự để đi vào đại điện, cũng có rất nhiều người quỳ dài lễ bái bên ngoài, thể hiện túc nguyện từ trong tâm của họ Những tín đồ đến từ rất sớm và khấu đầu trước chùa Đại Chiêu(Jokhang) Tín đồ và du kháchđến chuyển kinh trong thời gian lễ "Tát Ca Đạt Ngõa" tương đối nhiều hơn ngày thường. Đúng 12 giờ trưa, vẫn có rất đông tín đồ vây quanh Cung điện Potala, chùa Đại Chiêu để chuyển kinh. Vô số người chuyển kinh trong công viên Tông Giác Lộc Khang Khói trong hai lò Ôi Tang trước quảng trường chùa Đại Chiêu,từ sáng sớm đến trưa, những sợi khói từ cành dâu vẫn lượn lờ không dứt, thỉnh thoảng có một số tín đồ tiếp tục thêm vào lò những cành dâu cành thông, tỏa những sợi khói thơm cuộn tròn trên không. (Ôi Tang chính là những sợi khói lantỏa rồi cuộn vòng giống như mây mù do khói từ những cành tùng bách được đốt lên, là nghi thức cúng tế truyền thống của dân tộc Tạng) Lò Ôi Tang Chuyển kinh là một hoạt động tôn giáo của Phật giáo Tạng Truyền, tức là đi xung quanh tuyến đường nhất định để cầu nguyện, cứ một vòng thì xoay ống chuyển kinh một lần. Trên ống chuyển kinh có thần chú Lục Tự Chân Ngôn (sáu chữ Đại Minh Thần chú). Phật giáo Tạng Truyền cho rằng, nếu ai tụng chú này càng nhiều, biểu lộ tâm kiền thành đối với Phật càng nhiều, thì sẽ thoát khỏi cái khổ luân hồi. Do đây, hàng tín đồ ngoài niệm tụng bằng miệng ra, họ còn chế tạo ống kinh "Ma Ni", đem câu "Lục tự Đại Minh chú" khắc vào ống dẫn kinh, dùng tay xoay chuyển, mỗi lần chuyển, niệm một biến kinh, biểu lộ lặp đi lặp lại hàng trăm hàng nghìn lần câu thần chú "Om Mani Pad meHum" "Kinh Luân" thường gặp ở hầu hết các chùa Phật giáo Tây Tạng Potala luôn trong trái tim người Tây Tạng dù ở bất kỳ nơi đâu1 like
-
Hãy để cho trời quyết định lo làm chi cho nhọc hả Ly Ly. Người mẹ khi mang thai tuyệt đối ko được muộn phiền và lo lắng, Hãy bình tâm trên diễn đàn có chú đại Bi hãy tải về mà nghe hàng ngày LL sẽ cảm thấy nhẹ nhàng rất nhiều . Hãy chăm lo cho bản thân và em bé. Hãy luôn siêu âm và nghe lời khuyên của bác sỹ, Đừng hốt hoảng , Tuy có khó khăn bước đầu nhưng có nhiều cái tốt. Có bao nhiêu người xung quanh đang chìa tay ra swnz sàng cùng vượt cạn với cháu kia mà. Sinh năm 82 mà đã sợ nhiều tuổi. Mẹ tôi khi sinh tôi đã 45 tuổi kia>1 like
-
Có phải theo đủ ngày tháng chị sinh trong năm nay? Em nghĩ sinh tốt, chỉ đau hơi lâu, nhưng không phải đụng tới dao kéo, sinh con trai. Góp ý cho chị, chị chờ ý kiến các bác cho chính xác nhé1 like
-
Góp ý đôi chút cho chị, chị chờ bác haithienha tư vấn cho chính xác nhé1 like
-
1 like
-
Ờ tính tình nửa kín nửa hở ư? Không. kín hoàn toàn, cái gì cần kín kín như bưng : âm thầm . Làm việc gì đều có tính toán âm thầm chi tiết - Cho nên thích làm những việc thiên về tính toán đầu tư (ngắn ) dài hạn vì tính toán khá chính xác . Ai hỏi giá vàng hay đô lên xuống cần mua bán ra sao hỏi cô này . Khả năng kiếm tiền cao bất chấp mọi thứ miễn là có tiền nên cô này được cách song lộc nên tiền tài gặt hái chắc thành công lo gì nhỉ ? Sao không thử mình ở các cơ hội như đầu tư BĐS ? Nhưng có một điều nên nhớ là tiền tài chỉ đến khi cô thực sự lâm vào khó đặt mình vào nơi khó khăn tự khắc tìm lối thoát dễ dàng và nhớ nữa là bất cứ cái gì cũng có ngưỡng. nếu tham thì sẽ thâm mà phá sản( VD; đầu tư có được lãi rồi OK xong luôn quay sang việc khác chớ nên tham ). Nóng tính thì ko phải chắc chắn ko phải mà - Thẳng tính thì đúng hơn : Đúng thì là đúng sai là sai . Nhưng tính tình hay giận hờn kiểu trẻ con chính vì điều này mà chia tay với người yêu rất dễ , bé đừng tưởng chỉ mới nói chuyện người nhớn đã là chắc ăn ư. có khi cưới rồi còn chia tay í nhỉ? Nếu sức khỏe bé tốt thì mẹ sức khỏe kém.( ko hợp mẹ) Cung phụ mẫu của bé nói rằng Bố mẹ khá vất vả nhưng nhờ cha mẹ luôn tìm kiếm phấn đấu lo lắng tiết kiệm nên sau này cũng khá giả Nhưng cha mẹ khắc khẩu trong nhà hay có tiếng nói , tranh cãi. Ồ nếu vậy thì Phu cung cũng thế rất hay sôi nổi hay có xu hướng tan rã dù là chồng tương lai là người sang ( chưa chắc đã giàu..) hắn hào hoa mặt nhỏ phía dưới trán to cao và nở phía trên da hơi đen nên nhiều cô mê ..... thôi ..tạm thế đã nhỉ. Kiếm 1 bầu đã1 like
-
Tính tình à? lúc nào cũng như con trẻ tưng tửng ... nên hay giận hờn vu vơ, mà đã như con trẻ thì sinh ra nũng nịu. Khổ thân cho chằng nào yêu phải cô này nếu ko có tính kiên trì đảm bảo 3 ngày chán lè lưỡi Năm nay lưu hạn tốt nhưng thế nào cũng có chàng trai đến đóng cho một cái dấu ấn rõ sâu. Và tuyên bố với thiên hạ là cô bé này đã bị niêm phong hoặc ( Tôi đã xé niêm phong và cộp dấu vô đây ko ai được quyền xâm phạm chủ quyền. Năm ngoái thấy ngã ỏe đâu mà xây sẩm cả mặt mày lại còn cãi cọ nữa chứ xôm quá ha? Cô này nếu đúng lá số này nên làm thầy cãi chắc kiếm nhiều xen lắm cãi lý ra tiền đó chứ !1 like
-
Còn có tư liệu sớm hơn về nhà nước Đại Việt quản lý Hoàng Sa và Trường Sa là vào đời Trần. Sách của học giả Trung Quốc Trần Kinh Hòa viết: “Năm 1306 vua Trần Anh Tông liên kết với Chiêm Thành để cùng nhau chống quân Nguyên xâm lược. Anh Tông đem em gái gả cho Vua Chiêm , Vua Chiêm đưa sính lễ là hai châu Ô và Lý cho Vua Trần. Vua Trần Anh Tông chia hai châu đó thành châu Thuận ( sau gọi là Thừa Thiên phủ) và châu Hóa (sau gọi là Quảng Nam tỉnh)”. Quảng Nam quản hạt quần đảo Hoàng Sa. Nhưng trong lịch sử thì người dân Việt Nam đã quản lý và khai thác Hoàng Sa và Trường Sa từ thời nước Văn Lang cổ đại. Các học giả Trung Quốc viết rằng: “Truyền thuyết Trung Hoa có nói về nước Cam cổ đại, nhưng chẳng biết nước Cam ấy nằm ở đâu”. Bản thân tên Cam để lại trong truyền thuyết sử đã nói rõ rồi thây. Đó là nước của người “Kinh ở phía Nam”=(lướt)=Cam, mà ranh giới tận cùng của nó thời ấy là Cam Ranh. Về sau cổ sử Trung Hoa còn gọi nước đó là Cổ An Nam Quốc, mà Hòa Thượng Thích Đại Sán viết cuốn “Hải ngoại ký sự” gồm 6 quyển, chỉ kể về chuyến sang thăm và làm việc ở nước Đại Việt, đã vui mừng nói “được thăm Cổ An Nam Quốc”. Nước An cổ đại ở phía Nam, ấy chính là nước Yên=nước Nguyễn=nước Duôn=nước Lâm tức Lâm Âp. Dân cư gồm người Kinh, người Chăm và các dân tộc bản địa khác của đại tộc Việt sống xen kẽ các làng bản, cũng giống như 54 dân tộc anh em của Việt Nam ngày nay, hai sắc tộc ở hai làng chỉ cách nhau một cánh đồng cùng làm chung nhưng đều có ngôn ngữ riêng, trang phục riêng, phong tục riêng, có lễ hội nào cũng chung cả các săc tộc, còn chuyện yêu nhau lấy nhau lẫn lộn sắc tộc thì bình thường như từ hàng ngàn năm nay, vì người Việt vốn yêu tự do, tự do tỏ tình và thích hát múa. Xem bức họa mà người phương Tây vẽ cảnh dân cư Đàng Trong ngồi nghỉ trưa nói chuyện dưới gốc cây ngoài đồng (trong cuốn “Có năm trăm năm như thế”, mới XB năm 2011) thì thấy có ông người Kinh mặc áo và xống, Xà Rông=(lướt)=Xống, hơi giống cái Phạ Xà Lùng của người Lào, để cái nón quai thao dựng bên đầu gối, có bà người Ba Na cổi trần đang ăn trầu, có ông người Chăm mặc áo và váy v.v., ở Đàng Ngoài đàn bà mặc yếm và cái bằng Vải=Váy=Vận=Quấn=Mấn ,là cái váy, là “ cái thúng mà thủng hai đầu, bên Ta thì có bên Tàu thì không”, Mấn=Quần, người Hán gọi cái váy là Quần, phát âm là “Xuýn”, từ Quần ấy là một từ Việt, vì cổ đại dân du mục phương Bắc chưa biết làm vải, họ mặc cái bằng da cừu có hai ống để ngồi lưng ngựa cho tiện, sau họ gọi cái hai ống ấy bằng từ Khố của tiếng Việt, họ phát âm là “khu”. ( Chỉ có cái xi líp thì ta phải mượn từ của Pháp thôi, vì cổ đại dù người Việt có dệt được lụa bằng tơ tằm mỏng như tơ nhện, người Việt cũng không vận thứ đó vì nó “mất tự do”). Nước Lâm Ấp thì nhà Đường gọi là Hoàn Vương, nhà Tống gọi là Chiêm Thành hay Chiêm Bà. Thủ lĩnh Lâm Ấp là Khu Liên, “Hậu Hán thư” viết là Khu Lệnh, “Lương thư” viết là Khu Đạt, sử liệu Việt Nam viết là Thích Lợi Ma La, là người Chăm. Thời Bắc thuộc Khu Liên làm Tả Sứ cho huyện lệnh Tượng Lâm (như chức trợ lý của huyện lênh). Năm 137 Khu Liên lãnh đạo nhóm người cùng tộc giết chết huyện lệnh. Thứ sử người Hán đang cai trị ở Giao Chỉ là Phừng Diễn đem một vạn quân ở Giao Chỉ và Cửu Chân đánh không lại vài nghìn quân của Khu Liên, nên đòi xin thêm bốn vạn quân nữa từ Kinh Châu, Dương Châu, Dự Châu ( tức vùng Hồ Bắc, Hồ Nam, Triết Giang) sang. Nhưng Lý Cố can ngăn vua Hán Thuận Đế, vì trong nước cũng đang có loạn, không cho viện binh. Khu Liên giành được độc lập, lập Vương Quốc Chăm Pa, truyền được 2-3 đời, sau đó do không có trai thừa tự nên lập cháu ngoại là Phạm Hùng người Kinh lên làm vua. Vương Quốc Chăm Pa đa sắc tộc tồn tại độc lập được hơn 1700 năm trải qua nhiều đời vua. Đến thời Lê Lợi thì mới hội nhập hoàn toàn vào nước Đại Việt. Người Việt Nam giỏi hàng hải từ thời cổ đại, mà thời đó phương tiện rất thô sơ, nhưng vẫn vượt đại dương được nhờ người Việt đã sáng chế ra cái La-Canh là cái kim chỉ phương La=phương Lả=Phương Lâm=phương Lam=phương Nam=phương Nóng=phương Nóc(mặt trời ban trưa luôn trên đỉnh đầu, điều mà vùng ôn đới không thể có)=phương Sóc=phương South, và phương Canh=phương Lạnh=phương Nạnh=phương North. Cũng còn gọi là Kim Chỉ Nam, Hán thư gọi là cái La Bàn. Người Việt gọi Hải là Bể, phương tiện để đi bể là cái Bè, Bể=Bè, Bè là thứ để đi dọc tức đi xa, còn đi gần tức đi ngang thì có Mảng, đều là bằng cây nứa ghép lại. Mảng=Miểng=Minh, sinh ra từ bác học “Liên Minh” nghĩa là “ghép sát lại với nhau”, cũng như từ ghép Bè Phái; Bè=Bậu=Tầu; Chỗ chung Bậu=(lướt)=Châu, từ Châu thường dùng để chỉ nơi tập kết nhiều bè, như địa danh Châu Ổ ở Quảng Ngãi, Châu Ổ=Tầu Đỗ; Bè Miểng=(lướt)=Biển, nên tiếng Việt có hai từ để gọi Hải là Bể hoặc Biển. Từ Châu và từ Biển đã được Hán ngữ mượn chỉ dùng để chỉ phương tiện đi bể, họ gọi là Châu Biển, chữ Châu là chữ tượng hình, còn chữ Biển chỉ là chữ để mượn âm làm “giả tá”, Châu Biển=Tầu Biển=Tầu Bè. Học giả Trung Quốc Trần Kinh Hòa ( 1957) viết: Trung Quốc thời Minh Thanh e sợ tầu biển của Nhật Bản nên có “hải cấm chính sách”, không cho tầu biển của thương nhân Nhật vào Trung Quốc mua hàng, cũng cấm không cho thương nhân Trung Quốc dùng thuyền chở quặng sang bán cho Nhật (từ năm 1371-1567). Sau nhờ có quan tuần vũ tỉnh Phúc Kiến tâu xin đề nghị cho thương nhân dùng thuyền ra biển buôn bán để mỡ mang thương nghiệp nước nhà, lệnh mới được dỡ bỏ, nhưng vẫn cấm bán hàng, chủ yếu là quặng, cho Nhật. Thế là thương nhân Nhật và Trung Quốc hẹn buôn bán với nhau ở cảng Hội An của Việt Nam, riêng từ 1604 đến 1635 đã có được mấy trăm chuyến thương vụ trao đổi tại Hội An. Chúa Nguyễn Hoàng vào Thuận Hóa từ năm 1558, Chúa Nguyễn cho phép người Hoa chạy loạn từ nước Đại Minh sang được định cư khai khẩn đất hoang xen kẽ với các làng Việt, những người Hoa ấy gọi làng của họ định cư là Làng Minh Hương. Họ thấy làng Việt nào cũng có nơi sinh hoạt cộng đồng gọi là Đình, nên cũng bắt chước dựng nơi sinh hoạt cộng đồng gọi là Đình Minh Hương, mà kiến trúc thì giống như kiến trúc của miền Trung Bộ Việt Nam. Họ hội nhập nhanh vào xã hội Việt Nam, niên hiệu dùng trong viết gia phả hay văn tế đều lấy niên hiệu các Vua Đại Việt. Trong số họ cũng có nhiều người thành đạt hoặc được làm quan, như Võ Trường Toản, Trương Vĩnh Ký, Trịnh Hoài Đức, Phan Thanh Giản. Không giống như những người Hoa tới sau từ nước Đại Thanh, họ lập Hội quán riêng cho từng cộng đồng, niên hiệu vẫn viết theo niên hiệu nhà Thanh. Họ qui định với nhau, người Đại Thanh sang thì phải đến thế hệ hai mới có thể được xét để đóng thuế gia nhập Làng Minh Hương. Hòa Thượng Thích Đại Sán được mời sang thăm và làm việc ở nước Đại Việt. Về nước, ông viết sách “Hải ngoại ký sự” gồm 6 quyển , được khắc bản đời Khang Hy nhà Thanh. Ông kể sôi nổi về chuyến đi Việt Nam “Đi thuyền trên biển khỏi Quảng Đông là đến nước Đại Việt, tức vị chi Hải ngoại ký sự dã”. Ông được Chúa Nguyễn tiếp ở Thuận Hóa “ Bính Tí , Bồ nguyệt, Đại Việt Quốc Vương Nguyễn Phúc Chu thụ tiếp丙子蒲月大越國王阮福周受接”, rồi làm lễ ở “Tây Cung Giác Vương Nội Viện西宮覺王內院”. Từ Huế ông lại được đi thuyền biển vô Hội An, ấy là năm 1694. Ông say sưa kể về sự giàu có và dân cư Việt Nam lao động siêng năng trên đồng ruộng và trên biển. “Đâu cũng có thành quách, xung quanh thành quách đều có trồng tre”, “sản vật vô cùng phong nhú, hương liệu, kỳ nam chất như núi”, “hàng ngày đều có các thuyền của ngư dân Việt đem sản vật khai thác từ quần đảo Hoàng Sa về như cá, tôm, mực, đồi mồi, rau câu, ngọc trai”. Mời xem cập nhật bài của Tiến Sĩ Nguyễn Nhã: Cơ sở pháp lý xác lập chủ quyền VN tại Hoàng Sa Cập nhật ngày Thứ năm, 21 Tháng 10 2010 01:47 Cơ sở pháp lý quốc tế và các hành động xác lập và thực thi chủ quyền rất cụ thể của VN suốt từ đầu thế kỷ XVII là những bằng chứng hiển nhiên, bất khả tranh nghị về chủ quyền của Việt Nam tại quần đảo Hoàng Sa. Mọi sự tranh giành chủ quyền với Việt Nam là hành động trái phép với luật pháp quốc tế - Bài viết của Tiến sĩ sử học Nguyễn Nhã. Cơ sở pháp lý quốc tế về sự thiết lập chủ quyền lãnh thổ tại các hải đảo Trong giai đoạn từ đầu thế kỷ XVI đến thế kỷ XIX, các nước Hà Lan, Anh, Pháp cũng phát triển dần trở thành cường quốc, bị đụng chạm quyền lợi, không chịu chấp hành sắc lệnh của Giáo Hoàng Alexandre VI ký ngày 4 tháng 5 năm 1493 xác định nguyên tắc phân chia các vùng lãnh thổ mới phát hiện ngoài Châu Âu. Từ thực tế này, các nước đã tìm ra nguyên tắc mới về thiết lập chủ quyền trên những vùng lãnh thổ mà họ phát hiện. Đó là thuyết "quyền ưu tiên chiếm hữu" một vùng lãnh thổ thuộc về quốc gia nào đã phát hiện ra vùng lãnh thổ đó đầu tiên. Đó chính là thuyết "quyền phát hiện". Trên thực tế, việc phát hiện như trên chưa bao giờ tự nó đem lại cho quốc gia phát hiện chủ quyền lãnh thổ vì rất khó xác định chính xác thế nào là phát hiện, xác nhận việc phát hiện và xác định giá trị pháp lý của việc phát hiện ra một vùng lãnh thổ. Vì thế việc phát hiện đã mau chóng được bổ sung bằng việc chiếm hữu trên danh nghĩa, nghĩa là quốc gia phát hiện ra một vùng lãnh thổ phải để lại dấu vết trên vùng lãnh thổ mà họ phát hiện. Một đảo lớn trong quần đảo Hoàng Sa. Ảnh: TTO Sau hội nghị Berlin về châu Phi năm 1885 của 13 nước Châu Âu và Hoa Kỳ và sau khoá họp của Viện Pháp Luật Quốc Tế ở Lausanne ( Thụy Sĩ) năm 1888, nguyên tắc chiếm hữu thật sự trở thành quan điểm chiếm ưu thế trên thế giới. Điều 3, điều 34 và 35 của Định ước Berlin ký ngày 26 tháng 6 năm 1885 xác định nội dung của nguyên tắc chiếm hữu thật sự và các điều kiện chủ yếu để có việc chiếm hữu thật sự như sau: - “Phải có sự thông báo về việc chiếm hữu cho các nước ký định ước trên". - "Phải duy trì trên những vùng lãnh thổ mà nước ấy chiếm hữu sự tồn tại của một quyền lực đủ để khiến cho các quyền mà nước ấy đã giành, được tôn trọng…” Tuyên bố của Viện Pháp Luật Quốc Tế Lausanne năm 1888 đã nhấn mạnh “mọi sự chiếm hữu muốn tạo nên một danh nghĩa sở hữu độc quyền … thì phải là thật sự tức là thực tế, không phải là danh nghĩa”. Chính tuyên bố trên của Viện Pháp Luật Quốc Tế Lausanne đã khiến cho nguyên tắc chiếm hữu thật sự của định ước Berlin có giá trị phổ biến trong luật pháp quốc tế chứ không chỉ có giá trị với các nước ký định ước trên. Nội dung chính của nguyên tắc chiếm hữu thật sự là : 1.Việc xác lập chủ quyền lãnh thổ phải do nhà nước tiến hành. Tư nhân không có quyền thiết lập chủ quyền lãnh thổ vì tư nhân không có tư cách pháp nhân quốc tế, vì quan hệ quốc tế là quan hệ giữa các quốc gia. 2. Sự chiếm hữu phải được tiến hành một cách hoà bình trên một vùng lãnh thổ thật sự là vô chủ (res nullius) hoặc là đã được quốc gia làm chủ chủ động từ bỏ (derelicto). Dùng võ lực để chiếm một vùng lãnh thổ đã có chủ là một hành động phi pháp. 3. Quốc gia chiếm hữu trên thực tế phải thực hiện những hành động chủ quyền ở mức độ tối thiểu phù hợp với các điều kiện tự nhiên và dân cư trên vùng lãnh thổ đó. 4. Việc thực hiện chủ quyền phải liên tục trên vùng lãnh thổ đó. Ngày 10 tháng 9 năm 1919, công ước Saint Germain đã được các cường quốc lúc bấy giờ ký tuyên bố hủy bỏ định ước Berlin năm 1885 với lý do là trên thế giới không còn lãnh thổ vô chủ nữa và như thế nguyên tắc chiếm hữu thật sự không còn giá trị pháp lý nữa. Song do tính hợp lý của nguyên tắc này, các luật gia trên thế giới vẫn vận dụng nó khi phải giải quyết các vụ tranh chấp chủ quyền trên các hải đảo. Như phán quyết của toà án trọng tài thường trực quốc tế La Haye tháng 4 năm 1928 về vụ tranh chấp đảo Palmas giữa Mỹ và Hà Lan, phán quyết của toà án quốc tế của Liên Hợp Quốc tháng 11 năm 1953 về vụ tranh chấp các đảo Minquiers và Écrehous giữa Anh và Pháp. Những thay đổi trong pháp luật quốc tế nửa đầu thế kỷ XX đã làm thay đổi phương pháp thủ đắc chủ quyền lãnh thổ trên thế giới. Sau chiến tranh thế giới thứ 2, Liên Hợp Quốc được thành lập tiếp theo Hội Quốc Liên. Từ các cuộc chiến tranh xâm lược, Hiến Chương Liên Hợp Quốc đưa ra nguyên tắc (điều 2 khoản 14) có giá trị như một nguyên tắc pháp lý áp dụng cho tất cả các quốc gia. Nguyên tắc cấm sử dụng vũ lực trên đã được phát triển và tăng cường trong Nghị Quyết 26 – 25 năm 1970: “Lãnh thổ của một quốc gia không thể là đối tượng của một cuộc chiếm đóng quân sự do sử dụng vũ lực trái với “các quy định của Hiến Chương”. Lãnh thổ của một quốc gia không thể là đối tượng của một sự chiếm hữu của một quốc gia khác sau khi dùng đe dọa hay sử dụng vũ lực. Bất kỳ sự thụ đắc lãnh thổ nào đạt được bằng đe dọa hay sử dụng vũ lực sẽ không được thừa nhận là hợp pháp”. Nghị quyết trên cũng qui định: “Các quốc gia có bổn phận không dùng đe dọa hay sử dụng vũ lực để vi phạm các biên giới quốc tế hiện có của một quốc gia khác hay như biện pháp giải quyết các tranh chấp quốc tế , kể cả các tranh chấp về lãnh thổ và các vấn đề liên quan đến các biên giới của các quốc gia.” Năm 1982, Công ước về luật biển Liên Hợp Quốc gọi là “United Nations Convention on Law of Sea" ,viết tắt là UNCLOS Convention công bố ngày 10-2-1982 tại Montego Bay ở Jamaica đã được 159 quốc gia ký nhận. Sau khi có đủ 60 quốc gia duyệt y (ratification), kể từ ngày 16-11-1994 thoả ước UNCLOS hay LOS Convention trở thành luật quốc tế đối với các quốc gia phê chuẩn và được mang ra, thi hành, đã xác định về chủ quyền trên biển của mỗi quốc gia … Như thế trước khi bị các nước ngoài xâm phạm chủ quyền Việt Nam ở quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa tức đầu thế kỷ XX trở về thế kỷ XVII, theo pháp lý quốc tế theo kiểu Phương Tây lúc bây giờ, sự xác lập chủ quyền Việt Nam một cách thật sự, liên tục, hoà bình là cơ sở pháp lý quốc tế đương thời. Đến khi chủ quyền của Việt Nam bị xâm phạm, vào thời đểm 1909, pháp lý quốc tế có giá trị phổ biến là Tuyên bố của Viện Pháp Luật Quốc Tế Lausanne năm 1888. Sau đó Hiến Chương Liên Hiệp Quốc và Luật Biển 1982 cũng là cơ sở pháp lý quốc tế mà các thành viên ký kết bao gồm các nước đang vi phạm chủ quyền của Việt Nam ở quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là Trung Quốc, Philippines, Malaysia, Brunei đều phải tôn trọng. Tính pháp lý quốc tế của sự xác lập chủ quyền của Việt Nam tại quần đảo Hoàng Sa Vào đầu thế kỷ XVII đến đầu thế kỷ XX, năm 1909, Việt Nam đã chiếm hữu thật sự, hoà bình và thực thi liên tục theo đúng nguyên tắc pháp lý quốc tế lúc bấy giờ với những chứng cứ sau đây: Một là với tính cách nhà nước, đội Hoàng Sa, một tổ chức bán quân sự đã được giao nhiệm vụ, riêng một mình kiểm soát và khai thác định kỳ, liên tục và hoà bình hải sản quý cùng các sản vật kể cả súng ống của các tàu đắm tại các đảo Hoàng Sa suốt thời Đại Việt, trong thời các chúa Nguyễn và thời Tây Sơn, tức từ đầu thế kỷ XVII đến năm 1801 và sau đó là buổi đầu triều Nguyễn từ 1802 – đến trước 1815. Từ năm 1816, đội Hoàng Sa phải phối hợp với thủy quân. Hàng năm, đội Hoàng Sa hoạt động trong 6 tháng từ tháng 3 đến tháng 8 âm lịch (tháng 4 đến tháng 9 dương lịch) để phù hợp với điều kiện thời tiết ở vùng biển của quần đảo Hoàng Sa. Hai là suốt thời nhà Nguyễn, bắt đầu từ 1816, thủy quân được giao trọng trách liên tục kiểm soát, bảo vệ Hoàng Sa và Trường Sa. Ba là về mặt quản lý hành chánh liên tục suốt trong 4 thế kỷ từ thế kỷ XVII đến năm 1974 (khi Trung Quốc dùng vũ lực cưỡng chiếm), Hoàng Sa được các chính quyền ở Việt Nam để thể hiện quyền lực tối thiểu của mình, đặt dưới sự quản lý hành chánh của Quảng Ngãi (khi là phủ hoặc là trấn hay tỉnh qua từng thời kỳ lịch sử) hoặc của tỉnh Thừa Thiên (thời Pháp thuộc) hoặc của tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng (thời chia cắt Nam Bắc) rồi đến thành phố Đà Nẵng (thời thống nhất đất nước). Việc xác định sự quản hạt này hoặc đựợc ghi trong các sách địa lý của nhà nước biên soạn như bộ Hoàng Việt Địa Dư Chí hoặc Đại Nam Nhất Thống Chí dưới triều Nguyễn, hoặc do chính hoàng đế hay triều đình (Bộ Công) như thời vua Minh Mạng khẳng định, hoặc bằng các dụ, sắc lệnh, quyết định của chính quyền ở Việt Nam như dụ của Bảo Đại, triều đình Huế, Toàn Quyền Đông Dương ở thời Pháp thuộc, hoặc tổng thống, tổng trưởng trong thời kỳ Việt Nam bị chia cắt, hoặc quyết định, nghị quyết của nhà nước, quốc hội thời độc lập thống nhất. Điều này khác với Trung Quốc, chỉ xác định sự quản lý hành chánh sau năm 1909 tức vào năm 1921 và rồi vào năm 1947… có nghĩa là sau Việt Nam hơn 3 thế kỷ. Còn tất cả chỉ là suy diễn không có bằng chứng cụ thể rõ ràng. Chính quyền ở Việt Nam qua các thời kỳ lịch sử, ngay cả thời Pháp thuộc, chưa bao giờ từ bỏ chủ quyền của Việt Nam ở quần đảo Hoàng Sa, nên ngay cả khi bị Trung Quốc chiếm đóng trái phép sau chiến tranh thế giới thứ 2 hay năm 1974, quần đảo Hoàng Sa vẫn được tỉnh Quảng Nam và từ năm 1997 đến nay là thành phố Đà Nẵng quản lý. Bốn là trước thời kỳ bị xâm phạm, bất cứ dưới thời đại nào, nhà nước ở Việt Nam cũng có những hành động tiếp tục khẳng định và thực thi chủ quyền hàng năm như đo đạc thủy trình, để vẽ bản đồ do đội Hoàng Sa cuối thời chúa Nguyễn hay do thủy quân từ năm 1816 dưới triều Nguyễn (bộ Đại Nam Thực Lục Tiền Biên, Đại Nam Thực Lục Chính Biên hoặc Đại Nam Hội Điển Sự Lệ của Nội Các, hoặc Châu Bản triều Nguyễn đã ghi rất rõ, đã được trình bày trong phần tài liệu). Sau này, từ đầu thế kỷ XX cho đến năm 1974, Việt Nam cũng tiếp tục tổ chức các đoàn thám sát, đo đạc, vẽ bản đồ. Năm là trước thời kỳ bị xâm phạm, dưới triều Nguyễn, nhất là từ năm 1836 trở thành lệ, hàng năm đều luôn luôn tổ chức xây dựng bia chủ quyền từng hòn đảo. Trong thời bị xâm phạm cũng thế, các chính quyền ở Việt Nam luôn tiếp tục cho dựng bia chủ quyền thay thế bia bị hư hỏng. Sáu là trước thời kỳ bị xâm phạm, các triều đại Việt Nam, nhất là thời vua Minh Mạng của triều Nguyễn đã cho dựng miếu thờ làm bằng nhà đá (đá san hô), đào giếng mà năm 1909 các đoàn khảo sát đầu tiên của Trung Quốc ở Hoàng Sa đã trông thấy và khẳng định không biết có từ thời nào. Riêng tại đảo Phú Lâm, tài liệu Trung Quốc [ ghi có miếu ghi rõ Hoàng Sa Tự của Việt Nam. Sau khi có sự xâm phạm, chính quyền ở Việt Nam cũng tiếp tục cho xây miếu và nhà thờ. Bảy là trước thời kỳ bị xâm phạm, dưới triều Nguyễn nhất là thời vua Minh Mạng đã cho trồng cây tại các đảo để cho thuyền bè ở đàng xa nhận thấy, tránh bị nạn, và các nhà nghiên cứu thực vật như La Fontaine cũng thừa nhận các thực vật cây cối ở Hoàng Sa phần lớn có nguồn gốc ở Miền Trung Việt Nam. Tám là trước thời kỳ bị xâm phạm, dưới triều Gia Long như tài liệu phương Tây của Gutzlaff viết trong The Journal of The Geographical Society of London, vol 19, 1849, trang 97, đã cho biết Việt Nam đã thiết lập trại binh nhỏ và một điểm thu thuế. Đến thời kỳ bị xâm phạm từ năm 1909, các chính quyền Việt Nam lại là chính quyền sớm nhất đã tổ chức các trại lính đồn trú ở đảo Hoàng Sa (Patlle). Trong khi Trung Quốc chỉ cho quân chiếm đóng một thời gian ngắn sau chiến tranh thế giới lần 2 rồi rút đi (năm 1956, Trung Quốc chiếm lại đảo Phú Lâm (Ile Boisée). Đến năm 1974, Trung Quốc dùng vũ lực chiếm trái phép các đảo còn lại trong các trận đánh trên đảo và ở biển với hải quân Việt Nam Cộng Hoà, kết thúc vào ngày 20 –1-1974). Chín là chính quyền ở Việt Nam đã cho xây trạm khí tượng đầu tiên tại đảo Hoàng Sa (Pattle) vào năm 1938 hoạt động trong thời gian dài cho đến khi Trung Quốc chiếm đóng bằng vũ lực năm 1974. Mười là trước thời kỳ bị xâm phạm tức năm 1909, chính các hoàng đế Việt Nam như vua Minh Mạng và triều đình, cụ thể là Bộ Công đã lên tiếng khẳng định Hoàng Sa là nơi hiểm yếu trong vùng biển của Việt Nam, nằm trong cương vực của Quảng Ngãi. Mười một là trước khi bị xâm phạm, chưa có một hải đảo nào được nhiều tài liệu chính thức của nhà nước, từ chính sử địa lý của Quốc Sử Quán Triều Nguyễn như Đại Nam Thực Lục Tiền Biên, Đại Nam Thực Lục Chính Biên, hoặc địa dư như Hoàng Việt Dư Địa Chí, Đại Nam Nhất Thống Chí, hoặc sách hội điển, một loại pháp chế ghi những điển chương pháp chế của triều đình như Khâm Định Đại Nam Hội Điển Sự Lệ. Cũng chưa có một hải đảo nào tại Việt Nam lại được những nhà sử học lớn của nước Việt Nam đề cập đến như Lê Quí Đôn trong Phủ Biên Tạp Lục (1776), Phan Huy Chú (1821) trong Lịch Triều Hiến Chương Loại Chí , Dư Địa Chí, hay Nguyễn Thông trong Việt Sử Cương Giám Khảo Lược. Đặc biệt việc xác nhận chủ quyền của Việt Nam trên quần đảo Hoàng Sa lại còn do sách của chính người Trung Hoa viết như Hải Ngoại Ký Sự của Thích Đại Sán viết năm 1696. Đó là chưa kể nhiều tác giả tây Phương như là Le Poivre (1749), J Chaigneau (1816-1819), Taberd (1833), Gutzlaff (1849)… cũng đã khẳng định rõ ràng Hoàng Sa thuộc chủ quyền Việt Nam! Mười hai là bản đồ An Nam Đại Quốc Họa Đồ Của Giám mục Taberd trong cuốn Tự Điển Việt – La Tinh, nhan đề Latino – Anamiticum xuất bản năm 1838 đã ghi rõ : Paracel Seu Cát Vàng ở Biển Đông. Trong khi bản đồ "An Nam" này chỉ vẽ có Paracel Seu Cát Vàng, lại không có vẽ Hải Nam của Trung Quốc trong biển Đông. Rõ ràng bản đồ An Nam Đại Quốc Hoạ Đồ đã minh chứng Cát Vàng tức Hoàng Sa chính là Paracel nằm trong vùng biển của Việt Nam. Như thế với chức năng kiểm soát sự khai thác các sản vật ở Biển Đông và những hành động cụ thể trực tiếp khai thác các sản vật của Đội Hoàng Sa, một tổ chức dân binh liên tục gần hai thế kỷ suốt từ đầu thế kỷ XVII cho đến năm 1816 cùng những hành động xác lập và thực thi chủ quyền rất cụ thể như nêu cột mốc, dựng bia, xây miếu, trồng cây, đo đạc thủy trình vẽ bản đồ của thủy quân Việt Nam từ năm 1816 dưới sự chỉ đạo trực tiếp của vua và triều đình cũng như những lời tuyên bố của vua , triều đình nhà Nguyễn và sự quản hạt hành chánh vào Quảng Ngãi từ đầu thế kỷ XVII đến đầu thế kỷ XX là những bằng chứng hiển nhiên, bất khả tranh nghị về chủ quyền của Việt Nam tại quần đảo Hoàng Sa. Mọi sự tranh giành chủ quyền với Việt Nam là hành động trái với luật pháp quốc tế. Nguyễn Nhã (Tiến sĩ sử học) Nguồn: Báo Vnexpress.net1 like
-
1 like
-
1 like
-
Năm nay cả 2 vợ chồng đều phải cẩn thận trong các mối quan hệ với xã hội, không nên giao du với người lạ kẻo bị lừa mà dính tới pháp luật. Sức khỏe không tốt, đi đứng cẩn thận tai nạn bị thương ở tay chân, đầu mặt....Ông chồng nên cẩn thận1 like
-
Hai lá số này đã đúng giờ sinh? Vợ chồng cưới nhau lâu chưa? Lá số vợ năm nay tầm tháng 7 âm lịch có tin vui1 like
-
Lợi ích của uống nước muối loãng vào mỗi sáng sớm Để nhận được những lợi ích của nước muối pha loãng với sức khỏe hàng ngày, bạn nên lấy 2 lít nước ấm pha với 1 muỗng canh muối tinh thể hoặc muối biển. Sau đó, uống 1 cốc nhỏ nước này mỗi khi vừa thức giấc dậy vào sáng sớm nhé . Theo nhiều nghiên cứu đã công bố, trong chế độ ăn uống hàng ngày bạn nên giảm lượng muối vào cơ thể nhưng uống nước muối pha loãng vào mỗi sáng sớm lại có thể giúp hỗ trợ tiêu hóa, cải thiện tình trạng nhiễm trùng và khả năng miễn dịch, kiểm soát bệnh tiểu đường tốt hơn. Uống một cốc nước muối pha loãng vào buổi sáng còn giúp làm sạch cơ thể, chống lại các bệnh cảm lạnh, các vấn đề tiêu hóa và các bệnh liên quan đến tuổi tác như cao huyết áp. Bởi vì muối là một liều thuốc giúp giải độc cho đường ruột. Nó cũng giúp làn da trao đổi chất tốt hơn, cho làn da khỏe mạnh hơn. Ngoài ra, uống một cốc nước muối pha loãng vào sáng sớm trước khi bắt đầu luyện tập thể thao còn có thể cải thiện hiệu năng thể thao của bạn, giúp bạn tránh xa tình trạng suy nhược cơ thể khi đang luyện tập vì bị mất nước. Uống nước muối cũng giúp bạn tránh được tình trạng chuột rút cơ bắp, suy cơ, mất phương hướng và ngất xỉu nhất trong những ngày nắng nóng do mồ hôi trên cơ thể bạn bị ra nhiều (lúc ấy, cơ thể sẽ bị mất lượng natri). Lưu ý: Uống nước muối pha loãng vào sáng sớm thực sự có thể tăng cường sức khỏe tốt hơn cho bạn. Tuy nhiên, nếu bạn muốn kết thân và duy trì thói quen có lợi cho sức khỏe này, bạn hãy bắt đầu uống chậm rãi và từ từ nhé vì một số cá nhân vẫn có phản ứng bất lợi khi uống nước muối đấy. Lê Nhi (Theo livestrong/DT) Từ giacngo.vn1 like
-
Quán vắng!
TrungNhan liked a post in a topic by Thiên Sứ
Nga: Mỹ, Trung ai sẽ sụp nhanh hơn ai? Thứ sáu, 10/06/2011, 17:35(GMT+7) VIT - Thời gian qua người ta có cảm giác rằng Hoa Kỳ sẽ sụp đổ trong vòng từ 2 tới 3 năm tới, mà nếu không thì không quá 10 năm nữa. Nhũng cảm nhận này xuất phát từ các khoản nợ quốc gia quá lớn của Mỹ, sự trì trệ trong nền kinh tế, tỷ lệ thất nghiệp cao, và sự yếu kém trong cuộc chiến cạnh tranh toàn cầu - nhất là địa vị của đồng đôla bị đe dọa, v.v. Xét lại lịch sử trong những năm 30 của thế kỷ trước, nước Mỹ đã vấp phải những vấn đề lớn - đại suy thoái (kỳ 1929-1939), "nạn đói". Ấy vậy nhưng Thế chiến thứ Hai đã làm thay đổi tất cả; Mỹ vượt lên trở thành một siêu cường. Kịch bản này có thể được lặp đi lặp lại, hay đúng hơn, Mỹ đang cố gắng lặp lại. Kinh tế Trung Quốc đã nhanh chóng tăng trưởng trong hai thập kỷ qua, nhưng sự tăng trưởng nhanh chóng này ẩn chứa mối đe dọa khủng khiếp của sự sụp đổ nhanh chóng. Bắc Kinh hiện đang điên cuồng tìm cách để giải quyết vấn đề lớn: - "Biến đổi khí hậu": Tình trạng xa mạc hóa phía tây khiến cho người dân chạy nạn sang các vùng có khí hậu ôn hòa và có hạ tầng cơ sở thuận lợi, nhất là các tỉnh ven biển phía đông và phía đông-nam; điều này khiến cho chính phủ Trung Quốc buộc phải đầu tư để phát triển không gian sống ở các vùng như Tây Tạng, khu vực tự trị Tân Cương, Mãn Châu (Hắc Long Giang, Cát Lâm và Liêu Ninh, tỉnh). Mật độ dân số của Trung Quốc trong năm 2005. - "Áp bức dân tộc": Trung Quốc là một khối người khổng lồ được liên kết dựa vào sức mạnh quân phiệt độc tài, áp lực này đè nặng lên đầu của 55 dân tộc khác nhau với các truyền thống và ngôn ngữ riêng của họ. Người Hán đã xâm chiếm và đã cố gắng đồng hóa Tây Tạng, khu vực Tân Cương, Mãn Châu; và hiện nay đang tìm cách ngăn chặn sự nổi dậy của họ. Người Anh-Mỹ được biết đến với biệt tài chơi ván bài "dân tộc", với mạng lưới tình báo và các "tổ chức tư nhân" họ có thể kích động người Hồi giáo, người Uighur, và người Tây Tạng ly khai, để tạo ra thế bất ổn cho Trung Quốc.- "Cách mạng dân chủ": Người Anh-Mỹ có thừa kinh nghiệm để chơi con bài "dân chủ" ở Trung Quốc, đánh vào thế hệ trẻ khi mà lợi ích vật chất cá nhân là tiêu chí để đánh giá chất lượng cuộc sống. Về nguyên tắc, vào năm 2000 Trung Quốc bắt đầu cuộc "cách mạng tình dục". Xã hội Trung Quốc quen dần với lối sống trụy lạc của các vua chúa xưa kia, khi các thương gia giàu có, giới quan chức chính quyền cũng như các thế lực vai vế trong đảng cộng sản đều có nô lệ tình dục tại gia. - "Điên cuồng gây hấn": Do bản chất "bành trướng" của mình mà Trung Quốc luôn tìm cách gây hấn với tất cả các quốc gia láng giềng như Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan, Việt Nam, Ấn Độ ... Những quốc gia này ngày càng cảnh giác, có xu thế nghiêng về Mỹ sẵn sàng giáng trả sự khiêu khích của Trung Quốc. Trung Quốc đang lâm vào tình thế bất an, và sẽ còn lâu mới thoát ra khỏi hoàn cảnh hiện trạng. Đây là khoảng thời gian mà Mỹ có thể giải quyết các vấn đề của mình. Tin dịch ======================================= Cứ theo lý mà suy thì phàm muốn làm bá chửi thiên hạ thì phài có " bảng hiệu " cho ra hồn, gọi là " chính danh " . Ngay cả bá chủ giang hồ như Lương Sơn Bạc thì cũng phải giương cờ " Thế thiên hành đạo ". Ấy mới là bá chủ giang hồ. Huống chi bá chửi thế giới. Đại Nhật Bản muốn làm bá chủ châu Á thì cũng phải phịa ra thuyết Đại Đông Á; Đên Hítlle cũng phải đưa ra thuyết " Chủng tộc thượng đẳng "...vv....và....vv....Rồi bồ zdồ, quảng cáo tiếp cận thương hiệu. Nay cái nị cái bảng hiệu cũng không có. Viện Khổng Tử lập tràn lan ở nhiều nước trên thế giới với hệ thống Tử Thư, Ngũ kinh thì mơ hồ. Kinh Dịch thì cứ như từ trên trời rơi xuống, Thuyết Âm Dương Ngũ hành thì cũng chẳng biết có từ lúc nào. Kẻ bảo cuối Tần, người kêu giữa Hán? Long Mã, Rùa Thần lội bì bõm trên sông vướng mấy cái đập lê không nổi, chẳng thuyết phục được ai. Tượng Khổng Tử dựng lên ở Thiên An Môn rồi cũng đưa đi đâu mất. Bảng hiệu còn không có lấy quái gì quảng cáo thương hiệu mà cũng đòi rùm beng. Tớ cũng định viết dài một tý. Nhưng thôi. Để xem cái nị thế nào đã....1 like -
Cụ thể hơi kém là sao ta? Mắt phải có bị làm sao có sẹo? Gò má cao? Bố/mẹ là con trưởng hay đoạt quyền trưởng?1 like
-
Chào Anh2001! Có thể đây là trường hợp đầu tiên, vì các trường hợp tương tự khác đều có Ất tàng trong địa chi. Nay suy nghĩ lại thì thấy viết như vậy đã vô tình đồng nhất can lộ và can tàng giống nhau là sai. Bởi vì trong trường hợp này thì Mộc không thể lấy Ất làm dụng thần được (nếu hành Mộc là dụng thần) trong khi nếu Ất là can tàng thì vẫn có thể được lấy làm dụng thần bất kể nó là can tàng phụ hay chính (khi chi của nó tàng đã hóa cục có cùng hành hay không). Do vậy ở đây hành Mộc phải bỏ con số 3,1 đi thì mới chính xác. Thân chào.1 like
-
Bao giờ Trung Quốc động binh? Trong thời gian vừa qua, việcHải quân Trung Quốc ngày càng tiến sâu và lộ ý đồ “thâu tóm” biển Đông đã gâylo ngại cho các nước có chủ quyền tại vùng biển giàu tài nguyên của châu Á.Nhiều giả thuyết tỏ vẻ quan ngại khi cho rằng, sớm muộn gì Trung Quốc cũng sẽsử dụng vũ lực để giải quyết vấn đề tranh chấp biển Đông và các nước nhỏ hơnphải chịu thiệt hại. Trong các bài viết trước,blog đã dự đoán sơ lược tình hình Trung Quốc từ năm 2012 đến 2058, và đến phầnnày mời bạn xem chi tiết về Trung Hoa trong một tương lai gần hơn và giải đápcâu hỏi nước này bao giờ “động binh đao”. Từ lá số tử vi của Trung Quốccho thấy, từ tháng 6/2011 cho đến khi Đại hội Đảng Cộng sản Trung Quốc kết thúc(2012), không có sự kiện gì đặc biệt xảy ra. Nhưng sau khi đất nước đông dânnhất thế giới có bộ máy lãnh đạo nhà nước mới, vài vấn đề rối ren sẽ diễn ratrong thời gian dài từ 1-2 năm. Từ giữa năm 2012 cho đến2013, Thổ tinh và Nguyệt tinh hội chiếu Thái Dương trên bầu trời Trung Hoa.Điều này từng xảy ra nhiều lần trong quá khứ, gần nhất là vào các năm1999-2000, 1988-1989… Nhìn lại lịch sử Trung Quốcta thấy, năm 1999 tại Trung Quốc xảy ra phong trào đàn áp Pháp Luân Công, cònnăm 1989 xảy ra sự kiện Thiên An Môn gây chấn động dư luận quốc tế. Vì vậy,trong lần Thái Dương bị ảnh hưởng vào năm 2012-2013 chắc chắn sẽ không có ngoạilệ. Dự đoán: * Sẽ có phong trào quần chúngtương tự như sự kiện Thiên Anh Môn, Pháp Luân Công, diễn ra sau Đại hội ĐảngCộng sản Trung Quốc. * Thời gian: Khoảng cuối năm2012 hoặc 2013. * Nơi diễn ra: Phía Tây Bắc(có thể là vấn đề Tân Cương). * Kết quả: Phong trào bị thấtbại bởi biện pháp quân sự của chính quyền Trung Hoa. Đặc biệt, khoảng năm 2015Trung Quốc sẽ “động binh đao” tại hướng Bắc (chệch về phía Tây chút ít).1 like
-
1 like
-
Chào Anh2001! Anh2001 đã tính đúng điểm vượng trong vùng tâm của Kim là 4,15. Tôi đã sai, chắc là do cẩu thả khi đọc 4,15 lại viết là 4,5. Còn điểm vượng trong vùng tâm của Thổ thì Anh2001 tính thiếu điểm Ðắc địa Kình Dương (Ðế vượng) của Mậu tại Ngọ là 4,3 (xem lại bảng điểm của các trạng thái sẽ thấy). Thân chào.1 like
-
Nếu ta là người học Phật lâu năm ta sẽ nhanh nhẹn trả lời rằng có 3 loại: 1) Tài thí: tức bố thí tiền. 2) Pháp thí: tức bố thí pháp. 3)Vô úy thí: tức bố thí sự không sợ hãi. Trả lời như vậy xong, ta yên chí cho là mình đã hiểu xong Bố thí Ba La Mật, rồi ta bỏ qua, đi lấy Kinh Hoa Nghiêm ra đọc, hoặc lấy sách Tổ Sư Thiền ra coi. Nhưng than ôi! Ta đã lầm to, Bố thí Ba La Mật đâu phải chỉ có bấy nhiêu thôi! Khi nói đến sự bố thí, thì ta nhận ra có ba yếu tố tạo ra nó, đó là: người cho (năng thí), món đồ (vật thí), và người nhận (sở thí). Ba món Bố thí mà ta vừa kể trên (Tài, Pháp, Vô úy) thuộc về vật thí. Còn người cho và người nhận, ta đã sơ xuất bỏ quên. Ba yếu tố cho ra sự Bố thí quan trọng lắm, nếu thiếu một trong ba cái đó thì sẽ không có sự Bố thí. Có người cầm trong tay một món đồ muốn cho mà không có ai nhận thì không có sự bố thí. Có món đồ mà không có người cho và người nhận thì cũng không có sự bố thí. Có người sẵn sàng nhận đồ mà không có ai cho thì cũng không có sự bố thí. Nếu muốn phân loại thì ta phải căn cứ trên ba yếu tố của sự Bố thí mà phân loại: - Trên phương diện người cho (dayaka) thì có hai loại: Bố thí trong sạch (visuddhadàna) và không trong sạch (avisudha). Trên phương diện vật thí (deya) thì có ba loại: Tài thí (Dravyadàna), Pháp thí (Dharmadàna) và Vô úy thí (Abhayadàna). - Trên phương diện người nhận (tức đối tượng của sự bố thí), còn được gọi là ruộng phước (phước điền) thì có hai loại: ruộng phước nhỏ (karunàpunyaksetra) và ruộng phước lớn (satkàrapunyaksetra).Trên đây chỉ là tạm phân loại tổng quát thôi, vì mỗi loại lại được phân ra làm các phần nhỏ nữa mà ta sẽ đi sâu vào chi tiết sau. I. Trên phương diện người thí Có hai loại bố thí: Trong sạch và không trong sạch. 1) Thế nào là bố thí không trong sạch ? Đó là bố thí vì: tư lợi, bất kính, chán ghét, yếu hèn, muốn dụ dỗ, sợ chết, muốn chọc tức, ghen tức, ganh đua, kiêu ngạo, cầu danh, tránh né sự nguy hiểm, muốn mê hoặc lòng người,… Tóm lại bố thí vì một cái tâm xấu xa, không nghĩ đến sự an vui hay lợi ích cho người nhận. 2) Thế nào là bố thí trong sạch? >Nói một cách giản dị, đó là sự bố thí có tánh cách ngược lại những gì đã tả ở phần trên. Còn có nghĩa là Bố thí mà muốn đem lại lợi ích cho người nhận. Vừa kể trên là sự bố thí trong sạch cho tất cả mọi người. Riêng cho Phật tử thì Bố thí trong sạch còn có nghĩa là bồi đắp công đức cho sự giải thoát, tức Niết Bàn (Nirvàna). Phải bồi đắp cách nào? Bằng cách bố thí với tâm trong sạch, không cầu phước báo của Trời (Deva), người (Manusya), không cầu sự sung sướng trong đời này và đời sau, chỉ cầu giải thoát của Niết Bàn, bố thí với tấm lòng cung kính (satkàra) hoặc từ bi (maitrìkarùna). Trong lúc chưa chứng được hoàn toàn quả Niết Bàn, ta vẫn tái sinh ở cảnh an vui của Trời, người (mặc dù không cố ý cầu), đó là do nghiệp báo tốt của sự bố thí trong sạch. Đức Phật có nói rằng: ‘Trên đời này có hai hạng người rất là hiếm có: 1) Một vị Tỳ Khưu đã hoàn toàn giải thoát trong số các tu sĩ lang thang (pravajita); 2) Một người biết bố thí trong sạch trong số các cư sĩ tại gia’ II. Trên phương diện vật thí Có ba loại: Tài thí, Pháp thí và Vô úy thí. Trong mỗi loại trên lại chia ra: chân chính và không chân chính. 1) Tài thí: Tài thí lại chia ra hai loại: Ngoại thí và Nội thí. a) Ngoại thí (bàhyadàna) Ngoại thí là bố thí những đồ vật bên ngoài như: vàng, bạc, của cải, quần áo, đồ ăn thức uống… B) Nội thí (àdhyàtmika) Nội thí là bố thí những gì trong thân thể con người chúng ta; như xưa kia đức Phật còn làm Bồ Tát đã bố thí đầu, mắt, chân, tay… Ngày nay ta không làm nổi như vậy thì ta có thể ra công giúp sức như làm công quả cho chùa, kéo xe cho người già, v…v… Hoặc tiếp máu cho bệnh nhân ở nhà thương, hoặc ký giấy cho những bộ phận trong thân thể mình nếu bị chết bất đắc kỳ tử. c) Tài thí chân chính: là những đồ vật được bố thí không phải do từ trộm cắp hay cướp giật. Nếu ngược lại là tài thí không chân chính. Ngoài ra nếu ta bố thí trong những trường hợp sau đây thì phước báo sẽ tăng lên gấp bội: 1. Bố thí đúng lúc. Có nghĩa là bố thí cho: những người đi xa, người từ xa mới đến, người bịnh, người trông coi kẻ bịnh, trong những mùa giá lạnh. 2. Bố thí luôn luôn mà không thấy mệt mỏi hay chán nản. 3. Bố thí tùy theo sở thích của người xin. 4. Bố thí những vật quí giá. 5. Bố thí cho những người làm việc cho Chùa, làm vườn, đào mương … 6. Bố thí cho chư Tăng. 7. Bố thí mà kính trọng người nhận. 8. Bố thí cho những người có đức hạnh. 9. Bố thí tất cả những gì mà mình có. 2) Pháp thí Thế nào là pháp thí? Được xem là pháp thí gồm có: 1. Tất cả những lời nói chân thật, hữu ích có thể đem lại an lạc cho người nghe. 2- Giảng dạy chánh pháp của đức Phật (Buddhadharma). 3. Giảng dạy ba Tạng pháp: Kinh (Sùtra), Luật (Vinaya) và Luận (Abhidharma). 4. Giảng dạy cho người biết hai pháp: Thanh văn (Sravaka) và Bồ Tát (Bodhisattva). Nghi vấn: Tại sao Đề Bà Đạt Đa (Devadatta) cũng giảng dạy ba Tạng pháp, pháp Thanh văn và Bồ Tát mà lại bị đọa xuống Địa ngục ? Lý do tại sao ? Ai cũng biết Đề Bà Đạt Đa là người chuyên môn ganh đua tìm cách hại đức Phật, lại còn hay chia rẽ phá rối sự hòa hợp của Tăng đoàn. Ngoài hai trọng tội này ra, Đề Bà Đạt Đa lại còn tạo rất nhiều tội về tà kiến. Sự giảng dạy thuyết pháp của Đề Bà Đạt Đa không phải là một sự bố thí Pháp trong sạch, nhằm cầu sự giải thoát, mà là cầu danh, cầu lợi, cầu sự kính trọng, … Chính vì sự Pháp thí không trong sạch này nên Đề Bà Đạt Đa chả gặt hái được công đức nào mà vẫn bị xuống địa ngục như thường.Pháp thí không chân chính là giảng dạy những giáo pháp của ngoại đạo, không đưa con người đến sự giải thoát sinh tử luân hồi (như dạy xuất hồn, dạy làm bùa phép, v…v…) >Pháp thí chân chính là giảng dạy những giáo pháp đưa con người đến giải thoát rốt ráo của Niết Bàn (Nirvàna). 3) Vô úy thí Vô úy thí có nghĩa là bố thí sự không sợ hãi, tức là làm cho người khác được an tâm yên chí, không sợ gì cả. Theo nguồn gốc Kinh tạng nguyên thủy (Anguttara, Itivuttaka) thì chỉ có hai loại Bố thí, đó là Tài thí và Pháp thí. Nhưng theo giáo lý Đại thừa (Mahayàna), có thêm vào một loại bố thí thứ ba là Vô úy thí. Theo ý kiến cá nhân, thì tôi thấy Vô úy thí nằm trong Tài thí hoặc Pháp thí. Vì sao? Vì khi bố thí, tức là cho, thì có hai cách: một là cho bằng hành động, hai là cho bằng lời nói. Nếu bằng hành động thì đó thuộc Tài thí, còn nếu bằng lời nói thì đó thuộc Pháp thí. Nếu có một người đi đường ban đêm sợ cướp giật, thấy thế ta liền đi theo bảo vệ cho người đó hết sợ. Ta gọi đó là Vô úy thí. Nhưng hành động đi theo của ta chính là thân thí (có nghĩa là vác cái thân của ta đi theo người đó), vậy tức là thuộc tài thí rồi. Nếu có người sợ chết, sợ xuống địa ngục, ta liền đem giáo lý an ủi họ, chỉ cho họ làm lành hoặc biết niệm Phật thì sau khi chết sẽ về Cực Lạc. Nhờ đó họ không còn sợ chết nữa. Ta gọi đó là vô úy thí. Nhưng những lời lẽ mà ta an ủi họ, đó chính là Pháp thí rồi. Ta không thể nào tự nhiên làm cho người khác hết sợ hãi được. Ta phải làm một cái gì đó (một lời nói, một sự hiện diện, một sự an ủi, một sự giúp sức,…) cho người ấy thì người ấy mới hết sợ (vô úy) được. Sự hết sợ chính là kết quả của Tài thí hoặc Pháp thí. Vì vậy Vô úy thí không thể được xem là một loại bố thí riêng biệt không tùy thuộc gì nơi hai sự bố thí kia cả (Tài và Pháp thí Thế nào là vô úy thí chân chính? Vô úy thí chân chính hay không chân chính đó là tùy thuộc ở Tài thí và Pháp thí có chân chính hay không. Thí dụ: Có một người sợ chết. Ta bảo họ đừng sợ, cứ lo niệm Phật, ăn chay, làm phước, đến khi chết sẽ về Cực Lạc. Thế rồi họ nghe theo và hết sợ chết. Đó là vô úy thí chân chính. Cũng cùng một người, nếu ta bảo họ đừng sợ chết, vì chết là hết, không có gì phải lo cả, không có địa ngục, không có thiên đàng. Nếu họ tin ta mà không sợ chết nữa, thì đó là Vô úy thí không chân chính (vì ta dạy họ chấp đoạn 4. So sánh ba loại Bố thí Vì thấy Vô úy thí nằm trong Tài thí hoặc Pháp thí nên ở đây tôi chỉ so sánh Tài thí với Pháp thí thôi. Đa số chúng ta ai cũng biết trước là Pháp thí quý hơn Tài thí. Chính đức Phật đã nói:Trong hai loại Bố thí này, thì Pháp thí là trên’ (Anguttara I). Vì sao? Vì nhiều lý do Dục giới (Kàmadhatu) còn phước báo của Pháp thí có thể nằm trong ba cõi (Traidhàtuka) hoặc ngoài ba cõi. Sự Bố thí tài (tiền của, đồ vật) có giới hạn, còn sự Bố thí Pháp không có giới hạn (apramàna), vì tiền cho lâu rồi cũng hết, còn giáo pháp cho hoài không bao giờ hết. Quả báo của Tài thí còn thuộc về hữu lậu, trong khi quả báo của Pháp thí thuộc vô lậu Bố thí tài cần phải đòi hỏi nhiều sức lực, ra công trong khi bố thí pháp chỉ cần sự thông minh và trí tuệ Chỉ có bố thí Pháp mới có thể gặt hái được những phước báo giống như các hàng Thanh Văn (Sravaka), Bích chi Phật (Pratyekabuddha) hay Bồ Tát (BodhisattvaChỉ có bố thí Pháp mới có thể dẫn người khác đến con đường giác ngộ (BodhimàrgaTa có thể thực hành Tài thí trong bất cứ thời đại (Kalpa) nào, dù có Phật hay không có Phật ở đời. Ngược lại, chỉ trong thời đại có một đức Phật ra đời ta mới có thể thực hiện Pháp thí được. Vì thế Pháp thí hiếm hơn Tài thí.Ta có thể nêu ra nhiều lý do nữa, nhưng tóm lại bố thí Pháp sẽ gặt hái được nhiều công đức hơn bố thí tài III. Trên phương diện người nhận hay ruộng phước< Tại sao lại gọi người nhận (pratigràhaka) ruộng phước (punyaksetra)? Tại vì chính ở nơi họ mà ta gieo hạt giống phước đức nên gọi là ruộng phước. Nhờ có họ mà ta mới thực hiện được sự Bố thí.Có hai loại ruộng phước: 1) Ruộng phước nhỏ (Karunàpunyaksetra) : Vì lòng thương hại (karunà) người nhận nên ta phát tâm bố thí. Những hạt giống thương hại sẽ cho ra những cây lúa nhỏ, nên gọi là ruộng phước nhỏ 2) Ruộng phước lớn (satkàrapunyaksetra) :< Vì có tâm kính trọng (satkàra) người nhận nên ta phát tâm bố thí. Những hạt giống kính trọng sẽ cho ra những cây lúa lớn, nên gọi là ruộng phước lớn. Sự Bố thí của vua A Dục (Asoka) Một hôm đức Phật đi tản bộ cùng với ngài A nan trên thành Vương Xá (Ràjagrha). Đến một quãng đường có hai trẻ nhỏ Jaya và Vijaya đang vui đùa lấy đất sét nắn thành những cái nhà nhỏ. Khi thấy đức Phật đến gần, chúng rất vui mừng hớn hở. Jaya lấy đất sét nắn thành một cái bánh, thành kính cúi đầu cúng dâng cho đức Phật, còn Vijaya lức đó cũng chắp hai tay lại cúi lạy theo bạn. Jaya, trong lúc cúng dường cái bánh đất, phát nguyện rằng sau này sẽ làm vua an trị cả một thế giới, rồi em tụng lên một bài kệ cúng dường đức Phật. Đức Phật hoan hỷ đưa tay đón nhận cái bánh đất của em và mỉm cười. Thấy đức Phật mỉm cười, ngài A nan lấy làm lạ nên hỏi lý do, và đức Phật trả lời rằng: ‘Một trăm năm, sau khi ta nhập Niết Bàn, đứa bé này sẽ là một vị Chuyển luân thánh vương (Cakravartin) trông coi một trong bốn châu thiên hạ, và trong thành phố Kusumapura (Pàtaliputra), nó sẽ làm một vị minh vương tên là A Dục (Ásoka). Sau khi chia phát những xá lợi của ta xong, nó sẽ xây cất 84.000 bảo tháp để làm lợi ích cho muôn loài’. Sự tích trên cho ta thấy ý nghĩa phước báo của một sự bố thí với lòng kính trọng người nhận, tức ruộng phước lớn. Sau khi phân tách tỉ mỉ, đi sâu vào chi tiết từng loại bố thí, ta có thể tóm tắt lại như sau: Một sự bố thí được xem là trong sạch và đem lại phước đức quả báo vô lượng vô biên cần phải có ba yếu tố sau đây: 1) Người bố thí phải có tâm trong sạch. 2) Vật được thí phải chân chính. 3) Người nhận phải được kính trọng tối đa.1 like
-
1 like
-
1 like