• Thông báo

    • Bá Kiến®

      Nội quy Lý Học Plaza

      Nội quy này là bản mở rộng Nội Quy - Quy định của Diễn đàn. Khi tham gia mua bán, các thành viên phải tuân theo những quy định sau: Tiêu đề bài viết: Bao gồm: Chỉ dẫn địa lý, Loại hình Mua/Bán, Thông tin mua bán.
      Chỉ dẫn địa lý: Tỉnh/thành nơi mua bán. Hoặc sử dụng định nghĩa có sẵn:TQ: Toàn quốc
      HCM: TP Hồ Chí Minh
      HN: Hà Nội
      [*]Ví dụ: HCM - Bán Vòng tay Hổ Phách ​Nội dung bài viết: Mô tả chi tiết sản phẩm mua/bán
      Bắt buộc phải có thông tin liên lạc, giá Mua/Bán
      Bài mới đăng chỉ được phép up sau 03 ngày.
      Thời gian up bài cho phép: 01 ngày 01 lần.
      Các hành vi vi phạm nội quy này sẽ bị xóa bài hoặc khóa tài khoản mà không cần báo trước.

Leaderboard


Popular Content

Showing most liked content on 09/06/2011 in all areas

  1. Đất Nước Việt Nam Không có ngôn ngữ nào như ngôn ngữ Việt Nam, người Việt Nam từ thủa khai thiên lập địa gọi xứ sở của mình là Đất Nước, đó là Đất liền và Biển cả của dòng giống Tiên Rồng. Người Việt đã khai thác đất liền và biển cả của mình hàng vạn năm nay, minh chứng là hình thuyền trên trống đồng và mộ thuyền của người Việt là những di tích khảo cổ trên một vùng rộng lớn ở Đông Nam Á. Danh từ Đất Nước còn mãi từ trong sâu thẳm tâm thức của người Việt Nam, dùng đến tận bây giờ, mà các ngôn ngữ khác phải dịch khái niệm đó theo cách hiểu của họ là “Land” hay “Quốc thổ” hoặc “Giang sơn”. Bản thân danh từ Đất Nước của tiếng Việt đã có nghĩa là Đoàn Kết, vì Đất=Đàn=Đoàn; Nước=Nếp=Nết=Kết. Chính cái Nết tức cái Văn Hóa Biển Đông tức Văn Hóa Trống Đồng đã là chất keo kết dính mọi vùng đất của Tổ Quốc Việt Nam. Đến thời hiện đại, có cuốn tiểu thuyết nổi tiếng “Đất Nước đứng lên” của nhà văn Đoàn Giỏi cũng dùng đúng danh từ, đúng ý nghĩa là Đất Nước. Và bút danh Đoàn Giỏi cũng nói lên đầy đủ: Việt Nam, Đoàn kết tất cả mọi thứ lại thì thành Giỏi. Đất Nước là xứ sở Việt Nam, đã có trong lòng người Việt Nam từ hàng vạn năm trước, trong lời nói, khi nhân loại còn chưa có các loại ký tự. Xứ sở Việt Nam là Đất Nước, thực tế diện tích biển của nước ta còn rộng gấp mấy lần diện tích đất liền của nước ta, danh từ Đất Nước là Đất liền và Biển cả đã tồn tại trong tín ngưỡng thờ Tổ Tiên của người Lạc Việt từ hàng vạn năm trước, hiện hữu trong các đền thờ khắp đất nước ta. Trong đền thờ Quốc Tổ Lạc Hồng tại 98 Nguyễn Thái Sơn Gò Vấp Tp HCM có ban thờ Quốc Mẫu Âu Cơ, ban thờ Quốc Phụ Lạc Long Quân, ban thờ Nguyễn Trãi mà ở tường có khung treo văn bản từ nguyên gốc bài “Bình Ngô đại cáo”. Vào đền nhìn thấy những ban thờ đó trong lòng đã thật cảm động. Ban thờ Quốc Mẫu Âu Cơ có câu đối: “Nhìn Non thương nghĩa Mẹ; Trông Biển nhớ ơn Cha”. Rõ ràng là cuộc sống của dòng giống Tiên Rồng gắn liền với Đất liền và Biển cả. Câu đối dân gian của người xưa: “Nhìn Non thương nghĩa Mẹ; Trông Biển nhớ ơn Cha” nhắc nhở chúng ta rằng: Non cao Biển rộng là nhà; Cội nguồn văn hóa Việt là Rồng Tiên. Trong đền còn có một ban thờ mà linh vị đề là Cửu Huyền Thất Tổ, hai bên là câu đối: Vũ Hóa Hồ Hà Khai Thệ Giác; Trụ Sinh Hà Lạc Biểu Thần Thông. Vì không gặp vị chủ nhang đền thờ ở đó nên không có cơ hội được học hỏi, tôi chưa hiểu hết nghĩa các chữ trên, viết bằng chữ quốc ngữ, thành ra tôi phải đoán mò. Cửu Huyền Thất Tổ có phải là: thờ Tổ (chữ Tổ) của nền văn minh đã khuất (chữ Thất) về nơi chín suối (chữ Cửu) chỉ còn lại dấu tích trong huyền thoại (chữ Huyền) ? Còn câu đối “ Vũ Hóa Hồ Hà Khai Thệ Giác; Trụ Sinh Hà Lạc Biểu Thần Thông” dễ đoán hiểu hơn, nên tôi viết lại bằng chữ nho: 宇 化 湖 河 開 誓 覺 柱 生 河 洛 表 神 通 Và hiểu là: Trời sinh sông biển khai minh Lạc Hà trọn kiếp khiến mình thần thông Nếu là đúng như tôi đoán hiểu, thì rõ ràng là người xưa đã dặn lại rằng “ Vũ Hóa Hà Hồ Khai Thệ Giác”: Dương (chữ Vũ) có trước rồi mới sinh (chữ Hóa) ra Âm (chữ Hồ Hà) tức Trời có trước rồi mới sinh ra Trái Đất, tức có “Mẹ Tròn” trước rồi mới sinh ra “Con Vuông”, và có nước (chữ Hồ Hà) trên trái đất thì mới bắt đầu có sự sống để phát triển (chữ Khai) đến thành nền văn minh (chữ Thệ Giác) của nhân loại. “Trụ Sinh Hà Lạc Biểu Thần Thông”: Hà đồ và Lạc thư (chữ Hà Lạc) là biểu hiện (chữ Biểu) trí tuệ (chữ Thần Thông) trọn vẹn nhất (chữ Trụ) của đời sống (chữ Sinh) nhân loại. Không biết có đúng không ? Mong các bậc thức giả chỉ giáo, xin cảm ơn.
    3 likes
  2. Xin bàn luận với bác Lãn Miên. Cửu huyền thất tổ có thể hiểu đơn giản là Bảy đời tổ tông chốn cửu huyền, hay nói cách khác thờ Cửu huyền thất tổ là thờ tổ tiên. Nếu Vũ Trụ hiểu là Không gian và Thời gian thì câu đối trên có thể hiểu như sau: Vũ hóa hà hồ khai thệ giác: Trời (không gian) hóa ra sông biển, làm sáng (khai thệ) sự hiểu biết (tri giác) của con người. Trụ sinh hà lạc biểu thần thông: Thời sinh ra bốn mùa (Hà Lạc có thể hiểu như Xuân Thu, chỉ thời gian), là sự thể hiện của thần thông.
    2 likes
  3. Nhất trí ngay.Tôi đề nghị CLB nhiếp ảnh của Lý Học chụp ảnh nên có tính minh triết và nhân văn.
    2 likes
  4. Kính gửi BĐH lyhocdongphuong. Hiện tại hacker Trung quốc đang đánh phá rất mạnh các website Việt nam (kể cả những web nước ngoài có nói về vụ tàu TQ khiêu khích). Đề nghị BĐH sao lưu dữ liệu và ứng phó khẩn cấp cũng như có phương án thay thế trong trường hợp bị hack. HIện tại là 5h20 chiều ngày 4/6 danh sách web bị hack đang dài lên kể cả những trang như kiểu từ điển, âm nhạc cũng bị. Cám ơn.
    1 like
  5. Trước tiên xin kính chào các quý ông quý bà cùng toàn thể quý cô chiêu và quý cậu ấm. Hiện nay, mục Tử vi luận giải này rất đông khách, đại bộ phận khách khứa là quý cậu ấm và quý cô chiêu, mới 19 đôi mươi nên còn nhiều sự đời chưa hiểu, thiết tưởng mình đỗ đại học đã là nhớn, biết Hun đã là khôn nhưng khi lạc vào thế giới tiên đoán thì đúng là một kiến thức mới. Hiện nay, theo như tôi quan sát, hầu hết các anh chị, cô bác luận giải ở diễn đàn đều dùng từ ngữ tân thời, rất ít từ ngữ cổ hoặc cũ. Nhưng xem ra nhiều người Trẻ không hiểu và nhiều người xấu số (lá số không đẹp như ý) hay hỏi đi hỏi lại, người này trả lời không ưng thì tưng tưng chạy qua hỏi người khác. Giá mà khi đi học mà chăm chỉ chịu khó như thế thì tốt cho nước nhà quá. Vì vậy tôi xin mạn phép mở ra mục này để các cô bác, anh chị luận giải lá số đóng góp các kiến giải vào đây để các quý ông bà, quý cô ấm cậu chiêu đọc hiểu một vài vấn đề cơ bản. Với các quý vị nhờ bình giải lá số thì chỉ nên đọc hiểu chứ đừng View như người Anh. Bởi quý vị viết vài dòng cảm xúc vào đây thì sẽ có nhiều điều không cần thiết. Nếu thấy nhất thiết phải viết thì nên đọc kỹ trước khi đặt tay gõ phím hỏi về vấn đề mình chưa hiểu. Rào trước, Chắn sau như vậy thiết nghĩ cũng đã cạn lẽ. Xin phép quý vị cho tôi vào thẳng vấn đề cần vào như sau: 1/ Không còn là trinh nữ trước khi động phòng hoa trúc: Việc này không nhất thiết cứ phải là quan hệ với người ngoài rồi mới lấy chồng. Hoàn toàn có thể quan hệ với người chồng trước khi cưới và đăng ký kết hôn. 2/ Phải lập gia đình muộn mới tránh được hình khắc chia ly: Muộn là từ tầm 30 tuổi trở đi, Sớm là từ 24 tuổi trở về trước, Trung bình là tự hiểu. 3/ Giải pháp để tránh hình khắc ly dị: muộn lập gia đình, làm lẽ, cưới hỏi dở dang người này rồi lấy người khác, cưới đi và cưới lại 4/ Cưới đi và cưới lại: Là việc hi hữu, ví như vì ở xa nhau nên phải tổ chức cưới ở 2 nơi, bái gia tiên 2 lần, hoặc cưới chui trước khi cưới thật, tức là ra phường làm đăng ký kết hôn hoặc lấy được giấy đăng ký kết hôn rồi về nhà làm lễ bái gia tiên ở 1 trong 2 họ, Hiện nay thiên hạ rất chuộng cái vụ cưới đi rồi cô dâu lẳng lặng bỏ về nhà đẻ, sau đó chú rể mới lóc cóc đi đón dâu về lần nữa. Để gọi là qua 2 lần đò đểu. Vì là đò đểu nên chẳng có gì đảm bảo cái sự giả dối cố ý được biện hộ là chữa mẹo với chẳng méo này có tác dụng gì cả. Chồng 5 thê 7 thiếp vẫn cứ diễn ra, vợ thì có cả bộ sưu tập người tình thì vẫn chẳng tránh khỏi. Thế thì chọn giờ lành tháng tốt làm gì hay tại thầy bói dốt? 5/ Kim lâu đối với nữ nên không được lấy chồng: 1 lần ân ái cũng nên vợ chồng, nếu nói dại chỉ 1 lần nghịch dại mà có thai, vậy lúc nghịch dại ấy ai xem ngày xem giờ cho? Yêu thì Cưới, đó là nét văn hóa của dân tộc Việt, "Ép dầu ép mỡ ai nỡ ép duyên?", "Ngày xưa ai cấm duyên bà, mà nay bà già bà cấm duyên tôi?", "Hùng Vương kén rể thời nay: Xe bốn bánh, Cánh 2 bên, Lên thang máy (nhà biệt thự cao hơn 5 tầng phải đi thang máy chứ ko phải loại trung cư vớ vỉn) Như vậy Kim lâu hay không, không quan trọng trong việc cưới chồng, bởi nếu quan trọng thế thì sao lúc đẻ con ko tính chuyện kim lâu, chồng thì chỉ sống được vài chục năm cùng mình (lâu hơn cha mẹ mình) nhưng thường thì chồng không sống lâu hơn con mình (Ở nhà theo cha, lấy chồng theo chồng, chồng chết theo con cái). Vậy rõ ràng cái chuyện trăm năm kia là sống với con, con cái lo ma chay - hiếu hỉ cho cha mẹ, quan trọng thế sao không Kiêng? hay sướng quá nên quên mất việc kiêng cữ? 6/ Cải số: Quả có vài trường hợp lá số phán Tử vong, đương số quả nhiên có nhìn thấy Quỷ Môn Quan. Nhưng được cứu giải. Nên không phải xuống mười mấy tầng địa ngục an dưỡng. Đó là những trường hợp hi hữu và không phải tất cả những người có cùng ngày, cùng tháng, cùng năm đó đều được cứu giải như thế. Mình không chết thì người khác chết, số trời đã định ngày hôm đó Tử thần với lưỡi hái Đầu lâu phải gom đủ 3000 đầu lâu vào cái túi đen ngòm, nếu không đủ thì bị phạt, không nhẽ cái lão Sư cọ mốc với lưỡi hái dài ngoằng đó nhận hối lộ của quý vị để giết người khác thế thân cho quý vị hoài? Rõ là không rồi. Như vậy việc cải số cũng giống như việc thi Hoa hậu thế giới vậy, cả năm chỉ có 1 người đăng quang ngôi vị cao nhất mà thôi. Chứ cải được số thì sao không làm cho lá số đẹp cả 12 cung số luôn đi, chỉ cải mỗi cái cung Phu Thê hay Tử tức xấu hoắc để làm gì? vậy cung này tốt lên thì cung nào sẽ xấu đi đây? Tử vi không phải là cái để mọi người xoay chuyển càn khôn mà chỉ để con người nhìn vào đó để chuẩn bị tâm lý cũng như cách ứng xử sao cho tốt nhất trong hoàn cảnh đó mà thôi. Nhưng không có nghĩa là khoanh tay chịu trói, Tức biết được tháng này mình bị mất tiền có thể do bị cướp hoặc bị vay đểu. Thì mình phải tự đưa ra đối xách là cướp thì phải truy hô, vay đểu thì chỉ cho vay ít thôi. 7/ Giầu có đừng vội mừng, nghèo khó đừng vội lo: Biết số mình nghèo, bon chen cũng chẳng lợi gì thì đừng lấy đó làm buồn, mà hãy nghĩ đến việc mình sống có hạnh phúc không, người ta giầu có mà con cái ăn tàn phá hại thì có hạnh phúc không? kiếm tiền nhiều để vợ chồng nem chả mà vẫn chung giường, con cái hút sách mà vẫn đi du học thì khi về già có sướng không? Giầu mà không sang chẳng bằng nghèo khó mà đứng đắn. Sống ở trên đời, cần có 1 cái tâm cùng với cái tầm chứ không phải tiền bạc và địa vị. 8/ Tuổi còn trẻ quá (dưới 25) thì không nên tìm hiểu quá sâu về tương lai xa: Tầm tuổi này chỉ nên biết tương lai gần trong 5 năm tới chứ đừng tham lam mà hỏi thông cả đến lúc vào hòm. Cuộc đời này chỉ có 18% là những điều tuyệt vời, với 2% may mắn, còn lại có đến 80% những điều không may. Vì thế hầu hết xem số nói về điềm gở nhiều và dễ hơn điềm lành. Nhưng với số lượng điềm lành nhỏ bé ấy lại làm lên cả 1 kỳ tích về cuộc sống con người. Vì vậy, hãy nhìn gần để dễ làm, đừng nhìn xa quá mà thêm mệt mỏi. 9/ Tỷ phú tại Thiên, Triệu phú nhờ tích góp, đổi giờ sinh để làm gì?: Giầu không phô, nghèo không xấu hổ. Nếu đã biết số mình nghèo thì cố mà tích góp, để một mai mưa gió đau ốm còn có cái dùng, chứ nợ nần là tự mình bán danh dự của mình đi rồi. Bởi nhỡ một mai chết đi, gánh nợ đó đổ lên đầu ai nếu ko phải là người thân ruột thịt trong nhà? Vì vậy dù giầu hay nghèo thì cũng nên khiếm tốn. Đừng xừng sực đổi giờ sinh, ngày sinh. Nếu đã không biết thì cần làm rõ trước, khi đăng tin lên cần kiểm tra lại kẻo đến lúc người giải đã luận giải cả tràng rất dài rồi mà cuối cùng là sai giờ sinh. Nếu quý vị đi xem mất phí, sẽ có bao nhiêu người nhìn quý vị? người ta đang xếp hàng chờ đến lượt mà lại bị 1 kẻ lãng nhách xếp trước. Như thế là không lịch sự. Đổi giờ sinh, chắc gì đã có lá số tốt hơn 10/ Vợ chồng có ngày xa cách: Xa cách không có nghĩa là ly dị, nhưng lại có ý nghĩa là chia ly tạm thời. vì dận nhau hoặc vì công tác, không thể luận giải chính xác được là vì sao. 11/ Bị làm sao đó: Làm sao là làm sao thì có nhiều trường hợp, nhưng tựu chung là muốn biết nguyên nhân và kết quả, Tử vi không thể chỉ rõ được vấn đề, ví như đụng xe hay đâm xe? đụng thì chỉ là va quệt nhẹ, còn đâm xe thì nặng rồi. Nhưng ai đâm ai và xe đâm là xe gì thì chịu nhé, chỉ có Chúa mới biết nó là cái gì và như thế nào. Khoa học cũng như Tử vi không bao giờ trả lời Tại sao mà chỉ giải thích như thế nào. Đừng hỏi tại sao con người lại sinh ra trên trái đất này mà không phải là ở 1 Ngôi sao cô đơn nào đó trong vũ trụ. Không ai và không bao giờ bạn có câu trả lời. 12/ Sao này và sao kia: Nếu quý vị chưa thông tường hoặc chưa thuộc được ý nghĩa cũng như sự phối kết hợp giữa các sao thì không nên đưa ra những câu hỏi về các vì tinh tú này để tránh chuyện tranh cãi nhiều hơn là trao đổi học thuật. Người luận giải thực sự không có hứng thú đàm đạo với quý vị về vấn đề này (hầu hết là thế) 13/ Học giỏi không đồng nghĩa với giầu có và ngược lại: Cuộc đời là thế đó, quý vị có 1 quá khứ học hành siêu việt, nhưng chẳng có gì đảm bảo là quý vị có 1 tương lai sáng về tiền bạc cả. Tiền và Tài không phải lúc nào cũng song hành với nhau Ngày hôm nay có thu nhập cao thì đừng vội mừng, bao giờ nghỉ hưu ở tuổi 60 thì hãy phán xét việc bói toán là trò nhảm nhí. 14/ Giầu nứt đố đổ vách mà không bền: Ai cũng có 1 thời kỳ 10 năm phát đạt, nhưng không phải cả 10 năm đều phát mà có năm được năm hòa. Nhưng tổng kết là tốt và rất tốt. Cái ngưỡng 10 năm tốt đó nó thể hiện ở con số dưới đáy và ở giữa mỗi cung số. Quý vị có thể xác định được cho mình ở khoảng tuổi nào, ví như Mệnh là số 3 và khoảng thời gian tốt nhất cho mọi vấn đề của cuộc sống có thể là từ 23 đến 32 tuổi bởi cung kế tiếp là cung 33, nếu vận hạn tốt ở cung 43 thì thời kỳ tốt đẹp đó là từ 43 đến 52 tuổi. v.v... Đời người thường chi có 1 thời ký 10 năm này thôi, thường thì chỉ có một vài trường hợp đắc cách mới có 2 vận tốt, có thể là ở cung 33 và cung 53 tuổi, tức cung 43 tuổi ko tốt hoặc hơi xấu so với bình thường. 15/ Mất điện thoại có tìm lại được không? hay các câu hỏi đại loại như thế: Vậy mất người yêu có lấy lại được không? đâu cần bói toán gì cũng đoán được mà. Rất ít trường hợp Tử vi có thể đoán được, nên đi tìm các phương pháp tiên đoán khác thì hơn. Mong các quý vị giải số tiếp phím
    1 like
  6. Gia Miêu - nơi phát tích Vương triều Nguyễn Các nhà văn Huế đã tổ chức chuyến "hành hương" về thăm Gia Miêu ngoại trang, nơi phát tích của Vương triều Nguyễn ở thôn Gia Miêu, xã Hà Long, tỉnh Hà Trung, Thanh Hoá. Có lẽ người miền Nam, ngay cả dòng họ Nguyễn Phúc cũng không nhiều người đã đến thăm Gia Miêu ngoại trang, quê hương của chúa Nguyễn Hoàng, thắp nén nhang lên mộ tổ Nguyễn Kim, bày tỏ niềm tri ân đối với những người mở cõi để mình được là con dân của một nước Việt Nam hình chữ S như bây giờ… Cho nên chuyến đi Gia Miêu lần này có ý nghĩa như tìm về cội nguồn. Đi tìm đất quý hương Vua Gia Long, từ hơn 200 năm trước đã phong cho Gia Miêu là đất quý hương. Theo đường quốc lộ 1A từ Bắc vào, đi qua Bỉm Sơn tìm mãi mới thấy biển đề lấp kín sau bụi cây: Gia Miêu ngoại trang. Cái ngành du lịch Thanh Hoá đến lạ. Gia Miêu ngoại trang đã được nhà nước xếp hạng Di tích lịch sử văn hoá cấp Quốc gia, thế mà chẳng có cái biển chỉ dẫn đường sá cho đàng hoàng. Ngay cả Thành nhà Hồ từ phía Gia Miêu, Hà Trung đi lên Vĩnh Lộc để vào cửa Đông, không hề có một biển chỉ dẫn nào. Xe chúng tôi cứ vài chục mét lại dừng để hỏi. Nước ta đã làm du lịch trên 25 năm rồi, sao mà nhiều nơi vẫn lạnh nhạt với di tích đến vậy! Đường lên Gia Miêu, mấy phút chúng tôi lại dừng xe hỏi. Đến Gia Miêu rồi cũng không thấy biển chỉ dẫn nào. Chúng tôi chợt thấy cái biển gỗ nhỏ xíu đề chữ đỏ viết vội bên phải "Nhà thờ họ Nguyễn Hữu". Sao lại là Nguyễn Hữu? Chúng tôi dừng lại hỏi, thì gặp ông Nguyễn Hữu Toại, là một trong những hậu duệ dòng Nguyễn Hữu. Ông Toại giải thích Nguyễn Hữu là một nhánh trong dòng họ 20 đời của Định Quốc Công Nguyễn Bặc (924 - 979) người Hoằng Hóa - Thanh Hóa, có công giúp Đinh Bộ Lĩnh dẹp loạn 12 sứ quân để lập ra triều Đinh đóng đô ở Hoa Lư mà đoàn nhà văn chúng tôi vừa ghé thăm hôm qua. Nói rồi ông Nguyễn Hữu Toại cầm bản đồ gia hệ, sách lịch sử họ Nguyễn lên xe dẫn chúng tôi đến thôn Gia Miêu 2, nơi có nhà thờ của dòng họ Nguyễn Hữu có đề 6 chữ quốc ngữ: Bình ngô khai quốc công thần. Cả một chi họ lớn thế mà cái nhà thờ tổ bé bằng ngôi nhà rường nhỏ ở Huế. Ngôi nhà nhỏ nhưng ở trong có bàn thờ ba cấp uy nghiêm lắm. Tượng, bài vị đều sơn son thiếp vàng. Theo ông Toại thì ở đây là nơi thờ tự ông tổ là Nguyễn Công Duẩn, hậu duệ đời thứ 10 của Nguyễn Bặc, bên dưới thờ Nguyễn Đức Trung và Nguyễn Văn Lang, Nguyễn Kim (Cam). Theo sử sách thì Nguyễn Công Duẩn, lập nhiều chiến tích trong cuộc khởi nghĩa Lam Sơn , được Lê Lợi giao trách nhiệm lo hậu cần vận lương cho cuộc kháng chiến, ông Duẫn đều lo chu tất. Ông được phong tước Thái Bảo Hoành công, con cháu được đời đời làm công thần nhà Lê. Hậu duệ của Nguyễn Công Duẩn cuối đời Hậu Lê là Nguyễn Kim. Đền thờ chi Nguyễn Hữu ở thôn Gia Miêu 2 Nguyễn Kim là một tướng giỏi, có nhiều công lao được phong tước An Thành Hầu. Khi nhà Hậu Lê bị nhà Mạc cướp ngôi, năm 1527, con cháu nhà Lê chạy trốn sang Lào. Lúc bấy giờ, hầu hết các cựu thần nhà Lê ngả về họ Mạc hoặc bỏ đi nơi khác, chỉ có Nguyễn Kim là lo chiêu tập hào kiệt bốn phương lánh lên Sầm Châu vùng Thanh Hoá giáp Lào lập bản doanh phò Lê diệt Mạc. Sau đó ông đã tìm được con vua Lê là Lê Duy Ninh ở Lào và đưa về tôn lên ngôi vua là Lê Trang Tông (1533-1548). Nguyễn Kim về sau được vua Lê phong làm Thái Sư Hưng Quốc Công, nắm giữ tất cả binh quyền. Năm 1545, hàng tướng nhà Mạc Dương Chấp Nhất đầu độc bằng cách tẩm thuốc độc vào trong quả dưa hấu và dâng lên Nguyễn Kim. Thế là ông trúng độc mất khi 78 tuổi. Vua Lê đã truy tặng cho Nguyễn Kim tước Chiêu Huân Tĩnh Vương. Ông có hai con trai đều là tướng giỏi được phong chức Quận công. Trong đó có Nguyễn Hoàng trở thành người mở đầu cho sự nghiệp của các chúa Nguyễn ở phía Nam. Nguyễn Hoàng được vua Lê phong tước Thái úy Đoan Quốc Công. Năm 1558, người ta bảo nghe Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm gợi ý Hoành sơn nhất đái vạn đại dung thân, ông xin vào trấn thủ Thuận Hoá, đóng đô ở Ái Tử, Quảng Trị thành Chúa Tiên Nguyễn Hoàng (1558 - 1613) . Có nguồn sử liệu ghi: Nguyễn Công Duẩn có 7 người con trai, sau phân thành 7 chi. Chi 4 là Nguyễn Như Trác sinh Nguyễn Văn Lưu. Văn Lưu sinh ra Nguyễn Kim. Hiện nay có tới 7 bộ gia phả họ Nguyễn. Có gia phả chép là Nguyễn Trãi (1380-1442) là hậu duệ thứ 11 của Nguyễn Bặc, Khi Nguyễn Trãi bị tru di tam tộc sau vụ án oan khiên Lệ Chi Viên, có 2 người con của Nguyễn Trãi còn sống và được bổ dụng sau này. Một người con cả là Nguyễn Công Duẩn từng tham gia khởi nghĩa Lam Sơn, không có mặt ở nhà khi cả họ bị hình nên thoát nạn. Người con nhỏ là con của một người vợ thứ của Nguyễn Trãi đã có mang cũng trốn thoát khi cả nhà bị hình, sau sinh được Nguyễn Anh Vũ. Gia phả họ Nguyễn còn ghi: sau này 2 chi của Nguyễn Công Duẩn và Anh Vũ trở thành hai ngành nổi tiếng trong lịch sử Việt Nam, một ngành là các Chúa Nguyễn và một ngành là họ Nguyễn Hữu có Nguyễn Hữu Dật (Gia Miêu ) cũng là khai quốc công thần của Chúa Nguyễn ở Đàng Trong mà hậu duệ có Nguyễn Hữu Cảnh, ông tổ khai canh của đất Sài Gòn Gia Định. Tướng tài Nguyễn Hữu Cảnh lớn lên ở Quảng Bình có công lớn giúp các chúa Nguyễn mở cõi về phía Nam 300 năm trước (Sách Lễ Thành hầu Nguyễn Hữu Cảnh (1997 của Nguyễn Ngọc Hiên và sách Tông phả kỉ yếu tân biên (2006) của Phạm Côn Sơn). Tuy nhiên, cũng có nhiều sử gia đã khảo cứu nhiều nguồn tài liệu, gia phả họ Nguyễn khác cũng như các sử sách để lại, thì cho rằng: Nguyễn Trãi không phải ông tổ của các Chúa Nguyễn. Theo một số nhà nghiên cứu, gia phả này chép lẫn gia phả họ Nguyễn Gia Miêu vào họ Nguyễn Nhị Khê (Nguyễn Trãi - ở Hà Tây ) do phải trốn tránh họa tru di. Có lẽ giả thuyết này có lý hơn. Lăng Trường Nguyên Sau khi thắp nhang bái lạy tổ Nguyễn Công Duẩn ở Nhà thờ họ Nguyễn Hữu, ông Toại dẫn chúng tôi đi thăm lăng mộ Nguyễn Kim. Rẽ trái khoảng cây số là đến vùng núi Triệu Tường, Thiên Tôn. Đây là Lăng Trường Nguyên, còn gọi là Lăng Triệu Tường, là nơi hợp táng ông bà Nguyễn Kim và Hoàng hậu triều Nguyễn - thân sinh và thân mẫu của chúa Tiên Nguyễn Hoàng. Rừng Thiên Tôn bây giờ đã thưa thớt, nhưng từ lăng Triệu Tổ Nguyễn Kinh nhìn lên núi non cũng uy nghiêm lắm. Đền thờ Nguyễn Kim ở thôn Gia Miêu 3 Theo ông Toại, còn có Miếu Triệu Tường cách đây hơn cây số. Theo nhà văn Nguyễn Đắc Xuân, Miếu Triệu Tường xây dựng ở cánh đồng tại thung lũng chân núi, cách khu vực lăng trên dưới 1km. Miếu Triệu Tường thờ gốc tổ triều Nguyễn, gồm nhiều kiến trúc bố trí trong một khu vực chu vi đo được 182 trượng, bao quanh có hồ nước và cầu gạch bắc qua, lại có hai lớp lũy bao bọc được xây dựng năm 1834 - 1835. Vì thế Miếu Tường còn có tên Thành Thiên Tôn hay Thành Triệu Tường. Không gian bên trong Thành Triệu Tường chia làm 3 khu vực: Khu vực chính ở giữa xây Miếu thờ Nguyễn Kim và Nguyễn Hoàng. Khu vực phía đông dựng miếu thờ Trừng Quốc Công (Nguyễn Văn Lưu- thân phụ của Nguyễn Kim), khu vực phía tây dành làm nơi trú ngụ của các quan và gia đình hộ lăng và trại lính canh lăng. Tất cả đều do các vua Nguyễn như Gia Long, Minh Mạng xây dựng. Từ ngày nhà Nguyễn sụp đổ (9-1945), Chúa Nguyễn và Vương triều Nguyễn một thời bị cho là "phản động"… nên các lăng miếu ấy trở nên đổ nát, hoang tàn. Năm 2007, lăng Triệu Tường được trùng tu khôi phục lại nơi thờ vọng, bia và nhà bia ở chân núi và lăng thờ Nguyễn Kim kinh phí hết 300 triệu do bà con tộc Nguyễn Phúc, Nguyễn Hữu quyên góp. Đường vào lăng Nguyễn Kim đúc bê tông rộng rãi. Làng Gia Miêu xưa bây giờ chia thành 3 làng : Gia Miêu 1, Gia Miêu 2, Gia Miêu 3. Lăng Triệu Tổ Nguyễn Kim thuộc địa phận làng Gia Miêu 3. Ở lăng bia Nguyễn Kim có tấm bia đá khắc công tích của Đức Triệu Tổ Nguyễn Kim. Có bức tường khắc bản dịch của vua Thiệu Trị dịch bài minh bằng chữ Hán của vua Minh Mạng vào năm Minh Mạng thứ 3 (1822), Nội dung như sau: "Đất lớn chúa Thiêng sinh ra Triệu Tổ/ Vun đắp cương thường nên rạng thánh võ/ Nghĩa động quỉ thần công truyền vũ trụ/ Cõi trần rời bỏ lăng ở bái trang/ Non nước bao bọc sấm mắt tùng xanh/ Khí thiêng nhóm họp đời đời xưng vinh/ Mệnh trời đã giúp con cháu tinh anh/ Võ công dựng nước bèn tìm gốc nguồn/ Tuy tôn dựng miếu lăng gọi Trường Nguyên/ Tân tuy Bắc tuần đến đây dựng lại/ Trông ngắm non sông nhớ đến gốc cõi/ Khắc chữ vào bia lưu ức vạn tài". Theo ông Nguyễn Hữu Toại, sau khi Di tích Gia Miêu được công nhận là Di tích lịch sử văn hoá cấp quốc gia, Miếu Triệu Tường, Đình Gia Miêu, những di tích quan trọng của đất thiêng Gia Miêu ngoại trang,chính quyền tỉnh Thanh Hoá đã có kế hoạch đầu tư lớn để phục dựng và bảo tồn. Nghe mà phấn chấn trong lòng. Về cái chết của Triệu Tổ Tĩnh Hoàng đế Nguyễn Kim, ở lăng Trường Nguyên có bài ghi công đức có đoạn: "Năm Ất Tỵ (1545), ngài tiến quân ra Đông Đô, nhưng bị lụt phải trở về đóng quân ở Yên Mô (Ninh Bình). Ngài bị hàng tướng (tướng đã về hàng địch) nhà Mạc là Dương Chấp Nhất đầu độc bằng cách tẩm thuốc độc vào quả dưa dâng lên". Ông mất ngày 20 tháng 5 năm Ất Tỵ (26/6/1545). Linh cữu ngài được đưa về Bái Trang, huyện Tống Sơn (bây giờ là Hà Trung), Thanh Hoá, táng tại núi Thiên Tôn. Để tránh bị các thế lực thù địch quật phá trừ diệt, họ Nguyễn đã giữ bí mật nơi táng ông và sau đó là bà chánh hậu Nguyễn Thị Mai (Triệu Tổ Tĩnh Hoàng hậu). Ông Toại kể giai thoại về việc thiên táng ông bà Triệu Tổ Nguyễn Kim như sau: để giữ bí mật huyệt mộ của ông bà Nguyễn Kim, người ta đã dựng lên một huyền thoại: Ở vùng núi Triệu Tường vốn đã có một long khẩu (miệng rồng). Đến khi vừa đưa quan tài vua Triệu Tổ Nguyễn Kim vào thì bỗng nhiên trời đổ xuống một trận mưa gió sấm sét dữ dội. Người đi đưa tang hoảng sợ chạy tán loạn. Đến khi gió bão đi qua, cơn mưa cũng tạnh mọi người trở lại thì chỉ còn thấy núi đá chi chít, cây cỏ um tùm, không thể nào nhận ra được nơi có long khẩu chứa quan tài của Triệu Tổ ở đâu nữa cả. Về sau có ai hỏi lăng mộ Triệu Tổ Nguyễn Kim an táng nơi đâu, những người có trách nhiệm trả lời: "Ngài được hổ táng, thiên táng nên không thể biết". Khi có tế lễ, họ tộc và các chức sắc nhà Nguyễn cũng chỉ hướng vào vùng núi Triệu Tường mà vọng bái thôi. Ôi, người tài giỏi thời nào cũng thế, chết không yên thân, không mồ yên mả đẹp! Phần kết Rời Gia Miêu ngoại trang, tôi cứ miên man nghĩ về miền địa linh nhân kiệt Thanh Hoá. Quả thực không nơi nào sinh ra lắm người tài làm vua, chúa như mảnh đất "khu Bốn đẩy ra, khu Ba đẩy vào" này. Thanh Hoá là quê hương của vua chúa thời Tiền Lê, Sơ Lê, Lê Trung Hưng, Lê Hoàn, Lê Thái Tổ, Hồ Quý Ly… Xứ Vĩnh Lộc, Thanh Hoá là quê hương của Trịnh Kiểm, người mở đầu cho 12 đời chúa Trịnh 249 năm ròng. Rồi Gia Miêu ngoại trang là quê hương của 9 chúa, 13 vua Vương triều Nguyễn: bắt đầu từ 1558, kết thúc năm 1945, kéo dài 387 năm. Một chặng đường lịch sử dằng dặc .. . Các chúa, vua Nguyễn có nhiều khiếm khuyết trong lịch sử, nhưng họ chính là triều đại đã mở cõi tạo nên dáng hình Tổ Quốc hôm nay. Công lao đó là vô cùng lớn. Đó là điều không thể phủ nhận. Ngay một ông vua nhiều tai tiếng nhất Nguyễn Phúc Ánh, tức vua Gia Long, năm 1802, lên ngôi Hoàng đế cũng đặt niên hiệu là Gia Long (Gia là Gia định, Long là Thăng Long), thể hiện ý thức quyết liệt của mình. Đó là việc thống nhất toàn vẹn đất nước. Lịch sử Vương triều Nguyễn đã tạo nên nhiều biến cố ở Đại Việt. Tất cả đều phát tích từ một vùng thôn quê rất hẻo lánh: Gia Miêu ngoại trang. Đó là sự lạ lùng của lịch sử Ghi chép của nhà văn Ngô Minh (CAND) Xin đính chính ghi chép của nhà văn Ngô MinhHiện tại có 3 làng Gia miêu nhưng không có làng Gia Miêu 3, mà chỉ có Gia miêu 1, Gia Miêu 2 và mới được chia thêm làng Gia miêu. Đền thờ Nguyễn Kim ở thôn Khắc Dũng chứ không phải ở thôn Gia Miêu 3. Theo hiểu bết của tôi về làng Gia Miêu thì trước đây một người họ nguyễn có sinh ra 3 người con và chia ra 3 họ khác nhau đó là: họ Nguyễn Đình, họ Nguyễn Hữu và họ Nguyễn Văn. Một vài hình ảnh về quê hương Đình Gia Miêu Ngoại Trang, xã Hà Long, huyện Hà Tung, tỉnh Thanh Hóa, nơi phát tích nhà Nguyễn. Ảnh: Nguyễn Duy (Chụp năm 1997). Đình Gia Miêu được tôn tạo lại Đình Gia Miêu hiện nay ở bên ngoài và bên trong đình Không cảnh khu Lăng miếu Triệu Tường, trước 1945
    1 like
  7. 1 like
  8. 1 like
  9. Sau đây là chương trìng Tứ Trụ trung cấp TUẦN THỨ HAI Phương pháp xác định Thân vượng hay nhược Bài 10 : Thân và vùng tâm Chương 9 : Thân và vùng tâm I – Thân và vùng tâm 1 - Thân Hành và vị trí của can ngày (Nhật Can) được gọi là Nhật Chủ hay Thân, nó đại diện cho người có tứ trụ này. Can ngày chỉ có 1 điểm vượng ở lệnh tháng của bảng sinh vượng tử tuyệt nhưng Nhật Chủ hay Thân lại có điểm vượng của hành của can ngày ở vùng tâm. 2 - Vùng tâm và vùng ngoài Sơ đồ 1 (chỉ để minh họa): Qua sơ đồ này ta thấy can ngày là Kỷ mang hành Thổ nên Nhật Chủ hay Thân của người có tứ trụ này là Thổ. Muốn xem Thân của tứ trụ này là vượng hay nhược (tức là ta phải xem hành Thổ của tứ trụ ở tại vị trí của can ngày là vượng hay nhược so với 4 hành còn lại là Kim, Thủy, Mộc và Hỏa) thì đầu tiên ta phải xem trong tứ trụ này có nhiều can chi mang hành Thổ và chúng có được lệnh hay không cũng như các can chi khác sinh hay khắc với can chi mang hành Thổ này là mạnh hay yếu.... . Sau đó ta phải xét xem độ vượng còn lại của các can chi Thổ này giúp đỡ Nhật Can được nhiều hay ít, dĩ nhiên sự giúp đỡ này phụ thuộc vào khoảng cách xa hay gần của chúng với Nhật Can. Hoàn toàn tương tự khi ta xét độ vượng còn lại của các can chi của các hành khác tác động đến Nhật Can mạnh hay yếu cũng phụ thuộc vào khoảng cách của chúng với Nhật Can như vậy. Cuối cùng ta phải xác định được một vùng mà độ vượng còn lại của các can chi này tác động tới Nhật Can không còn phụ thuộc vào khoảng cách - vùng đó được gọi là Vùng Tâm. Trong vùng tâm ta chỉ việc cộng độ vượng của tất cả các can chi cùng hành với nhau, sau đó ta so sánh Thân (độ vượng của hành của Nhật Can) với các hành khác xem nó là mạnh hay yếu (lớn hơn hay nhỏ hơn). Do vậy nếu ta lấy Nhật Can Kỷ làm tâm điểm thì thấy gần nó nhất có can tháng, can giờ và chi ngày. Ta gọi vùng tâm là vùng hình học phẳng phía trong của chữ V chứa can tháng Canh, can ngày Kỷ, can giờ Đinh và chi ngày Sửu, còn can Nhâm trụ năm và các chi Thân, Tuất và Mão là ở ngoài chữ V (tức ở bên ngoài của vùng tâm). Qua đây chúng ta thấy các can tàng trong các chi của tứ trụ, mặc dù chúng có điểm vượng theo trạng thái của chúng tại lệnh tháng, nhưng các điểm vượng này không được tính trong vùng tâm (mặc dù các thần hay các hành mà các can tàng này đại diện vẫn có trong tứ trụ). 3 - Các quy ước trên sơ đồ : a – Tại các góc của các hình chữ nhật trên là vị trí của các can và chi trong tứ trụ. b - Các can chi trong chữ V được coi là ở trong vùng tâm còn các can chi ở ngoài chữ V được xem là ở vùng ngoài. c – Hai can chi được coi là gần với nhau khi chúng không phải đi qua một can chi nào cả. d – Hai can chi bị coi là cách một ngôi với nhau khi chúng phải đi qua 1 can hay 1 chi. e – Hai can chi bị coi là cách 2 ngôi với nhau khi chúng phải đi qua 2 can chi. f – Hai can chi bị coi là cách 3 ngôi với nhau khi chúng phải đi qua 3 can chi. 4 - Khả năng khắc nhau của các can chi trong tứ trụ (Chú ý: Ở phần “Xác định Thân vượng hay nhược” này chỉ xét sự khắc của Ngũ Hành) a - Can và chi cùng trụ khắc với nhau được gọi là khắc trực tiếp. Can hay chi bị khắc trực tiếp bị giảm ½ đv (điểm vượng) của nó và nó không có khả năng nhận được sự sinh của can hay chi cùng trụ cũng như nó không sinh hay khắc được với các can hay chi khác. b - Can hay chi bị khắc gần (tức không cùng trụ) bị giảm 1/3đv của nó và nó không có khả năng nhận được sự sinh cũng như nó không sinh hay khắc được với các can chi khác. c – Nếu can hay chi bị khắc cách 1 ngôi thì nó bị giảm 1/5v của nó, nhưng nó vẫn có khả năng nhận được sự sinh và sinh hay khắc được với các can hay chi khác. d – Nếu can hay chi bị khắc cách 2 ngôi thì nó bị giảm 1/10đv của nó, nhưng nó vẫn có khả năng nhận được sự sinh và sinh hay khắc được với các can hay chi khác. e – Nếu can chi bị khắc cách 3 ngôi thì nó bị giảm 1/20đv của nó, nhưng nó vẫn có khả năng nhận sự sinh và sinh hay khắc được với các can hay chi khác. 5 – Các can hay chi ở trong hay ngoài hợp của tứ trụ sinh hay khắc với nhau a – Nếu các can hay chi trong cùng tổ hợp hóa cục hay không hóa cục thì chúng có thể sinh hay khắc được với các can hay chi cùng trụ với chúng nếu các can hay các chi này không bị hợp (tức là nếu can và chi cùng trụ cùng bị hợp thì chúng không có khả năng sinh hay khắc với nhau). b - Nếu một tổ hợp không hóa cục thì các can hay chi trong cùng tổ hợp vẫn có khả năng khắc với nhau như bình thường. c – Các can hay chi không bị hợp có thể sinh hay khắc được với các can hay các chi cùng trụ với chúng trong tổ hợp. d - Nếu can hay chi trong tổ hợp hóa cục hay không hóa cục bị can hay chi cùng trụ không bị hợp khắc thì nó cũng được xem là bị khắc trực tiếp, nhưng nó vẫn khắc được các can hay chi trong cùng tổ hợp (nếu tổ hợp này không hóa cục). e - Nếu can hay chi ở ngoài tổ hợp bị can hay chi cùng trụ trong tổ hợp hóa cục hay không hóa cục khắc thì nó cũng được xem là bị khắc trực tiếp, nhưng nó vẫn khắc được các can hay các chi khác ngoài tổ hợp như bình thường. f – Nếu can hay chi trong cùng tổ hợp không hóa mà bị can hay chi trong cùng tổ hợp khắc gần thì nó không có khả năng nhận được sự sinh và không sinh hay khắc được với các can hay chi khác trong cùng tổ hợp hay cùng trụ. 6 – Can và chi cùng trụ sinh cho nhau Xem các giả thiết từ 81/ tới 85/ của chương 14. (81/39 - Thân vượng, kiêu ấn ít nhưng kiêu ấn phải là chi của trụ tháng và nó phải ở trạng thái Lộc hay Kình dương của lệnh tháng, nếu can và chi của trụ tháng không bị khắc gần hay chúng không cùng bị hợp thì can tháng có thể sinh cho chi tháng ít nhất 1/5 đv của nó. 82/45 – Nếu can và chi cùng trụ sinh được cho nhau thì can hay chi chủ sinh bị giảm ít nhất 1/10đv của nó chỉ khi nó là Thực Thương (và được lệnh?). 83/ - Can và chi cùng trụ không có khả năng sinh hay khắc với nhau nếu chúng cùng bị hợp. 84/ - Các can hay chi trong tổ hợp không hóa luôn luôn khắc được các can hay chi trong cùng tổ hợp. 85/ – Nếu can và chi cùng trụ không cùng bị hợp và can hay chi này không bị khắc gần thì chúng có thể sinh cho nhau 1/3đv của chúng chỉ khi can (hay chi) chủ sinh có can (hay chi) bên cạnh cùng hành (bất kể can (hay chi) bên cạnh này bị khắc gần hay trực tiếp cũng như kể cả hành cũ và hành mới mà nó hóa cục) và ½ đv nếu can (hay chi) bên cạnh mang hành sinh cho nó (bất kể can (hay chi) bên cạnh này bị khắc gần hay trực tiếp cũng như kể cả hành cũ và hành mới mà nó hóa cục)). 7 - Sơ đồ : A - Sơ đồ 1 bên trên: a - Mão (mộc) ở trụ giờ bị can tháng Canh (kim) khắc cách 2 ngôi nên Mão bị giảm 1/10đv của nó nhưng nó có khả năng nhận được sự sinh hay sinh và khắc được với các can hay chi khác. b – Sửu (thổ) ở trụ ngày bị Mão ở trụ giờ khắc gần (vì Mão và Sửu không bị hợp), vì vậy Sửu bị giảm 1/3đv của nó và nó không có khả năng nhận được sự sinh của can cùng trụ cũng như nó không sinh hay khắc được với các can chi khác. c - Nếu can giờ là Mậu hay Kỷ thì nó bị Mão khắc trực tiếp (vì cùng trụ) nên Mậu hay Kỷ bị giảm ½ đv của nó (vì cùng trụ nên lực khắc là mạnh nhất) và Mậu hay Kỷ không có khả năng khắc các can hay chi khác. d - Tuất ở chi tháng và Kỷ ở can ngày bị Mão khắc cách 1 ngôi nên Tuất và Kỷ bị giảm 1/5 đv của chúng, nhưng Tuất và Kỷ vẫn có khả năng sinh hay khắc với can hay chi khác như bình thường. e - Nếu Tuất là chi ở trụ năm và Kỷ là can ở trụ tháng thì chúng bị Mão trụ giờ khắc cách 2 ngôi, vì vậy Tuất và Kỷ bị giảm 1/10 đv của nó, nhưng Tuất và Kỷ vẫn có khả năng sinh hay khắc với các can hay chi khác như bình thường. f - Nếu Kỷ là can ở trụ năm thì bị Mão trụ giờ khắc cách 3 ngôi nên Kỷ bị giảm 1/20 đv của nó và Kỷ vẫn có khả năng sinh và khắc với các can hay chi khác như bình thường. g - Thân trụ năm có Tuất bên cạnh sinh cho, vì vậy Thân sinh được ½ đv của nó cho Nhâm cùng trụ. h - Tuất trụ tháng có Sửu bên cạnh cùng hành, vì vậy Tuất sinh được 1/3 đv của nó cho Canh cùng tru. B - Sơ đồ 2 (chỉ để minh họa): a - Ất trụ giờ sinh cho Bính trụ ngày, vì vậy Bính trụ ngày sinh ½ đv của nó cho Ngọ cùng trụ đã hóa thành Thổ. b - Thân và Giáp trụ năm cùng bị hợp hay Thân trụ năm bị Ti trụ tháng khắc gần, vì vậy Thân không khắc được Giáp cùng trụ. c - Tị và Kỷ trụ tháng cùng bị hợp, vì vậy Tị không sinh được 1/3đv của nó cho Kỷ cùng trụ, mặc dù Tị có Ngọ cùng hành bên cạnh (mặc dù Ngọ đã hóa Thổ cục) hay Kỷ bị Giáp khắc gần, vì vậy nó không thể nhận được sự sinh của Tị cùng trụ. d - Nếu Giáp ở trong hợp bị Thân cùng trụ khắc trực tiếp (nếu Thân không bị hợp) thì nó vẫn khắc được Kỷ trong cùng tổ hợp với nó. e - Mùi (hoặc các chi khác đã hóa Thổ) trụ giờ bị khắc trực tiếp bởi Ất cùng trụ, vì vậy Mùi bị giảm ½ đv của nó. 8 - Điểm vượng trong vùng tâm của các can chi Trên sơ đồ 1 có các mũi tên đi từ can năm, chi năm, chi tháng và chi giờ vào vùng tâm có các con số 2/5 và 1/2, chúng có nghĩa là điểm vượng còn lại của các can chi này (sau khi đã tính sự sinh hay khắc của chúng với các can chi khác trong tứ trụ) vào được vùng tâm phải bị giảm 2/5 đv hay ½ đv của chúng (các hệ số giảm này được xác định qua các ví dụ trong thực tế). 9 - Điểm vượng của bảng sinh vượng tử tuyệt Để dự đoán chính xác độ vượng hay suy của các trạng thái của can chi trong tứ trụ theo lệnh tháng, chúng ta không thể ước lượng chính xác độ vượng hay suy của chúng (may ra có một số người có khả năng này mà thôi). Bởi vì chính khó khăn này mà tôi đã tìm cách sử dụng các con số để đặc trưng cho độ vượng hay suy của các trạng thái trong bảng sinh vượng tử tuyệt. Vậy thì phải chọn các con số như thế nào để diễn tả được chính xác các trạng thái vượng suy của chúng ? Chúng ta thấy không gì đẹp bằng lấy số 10 đặc trưng cho trạng thái Đế vượng, số 9 cho trạng thái Lâm quan, số 8 cho Quan đới, số 7 cho Mộc dục, số 6 cho Trường sinh, số 5 cho Suy và Bệnh, số 3 cho Tử, Mộ và Tuyệt, số 4 cho Thai và Dưỡng. Các số đặc trưng cho các trạng thái từ trường sinh đến đế vượng là hợp lý nhưng các trạng thái gần nhau từ suy, bệnh đến thai, dưỡng có số điểm bằng nhau là chưa hợp lý. Các trạng thái có số điểm bằng nhau này cần phải được kiểm nghiệm qua các ví dụ trong thực tế để điều chỉnh chúng cho đến khi chúng chính xác. Vậy thì làm cách nào bây giờ ? Ví dụ nào là đáng tin cậy để có thể xác định được chúng ? Theo như tôi biết cụ Thiệu Vĩ Hoa là cháu nội đời thứ 29 (?) của cụ Thiệu Khang Tiết một nhà dịch học nổi tiếng của Trung Quốc và bây giờ cụ Thiệu Vĩ Hoa cũng đang là một nhà dịch học nổi tiếng. Vậy thì các ví dụ của cụ không đáng tin cậy sao? Để xác định một ví dụ có Thân vượng hay Thân nhược, cụ Thiệu Vĩ Hoa đã không những chỉ dùng tài năng bẩm sinh của mình mà còn sử dụng kinh nghiệm của cả 29 đời mệnh học gia truyền của dòng họ cụ nữa. Cho nên tôi đã không ngần ngại lấy các ví dụ của cụ để xác định chính xác các con số đặc trưng cho các trạng thái của bảng sinh vượng tử tuyệt. Nhưng đáng tiếc rằng mặc dù cụ có diễn đạt các cách để xác định Thân vượng hay nhược trong các ví dụ của cụ, chúng ta cũng không có mấy ai nắm được nó vững vàng. Cánh để xác định của cụ chỉ là phán đoán các thông tin trong tứ trụ rồi theo kinh nghiệm để kết luận Thân vượng hay nhược, cho nên chúng ta khó mà có được khả năng như cụ. Do vậy ở đây tôi chỉ cần lấy các kết quả mà cụ đã kết luận Thân vượng hay nhược trong các ví dụ của cụ là quý báu nắm rồi (trong sách cụ có nói đến phương pháp xác định Thân vượng hay Thân nhược nhưng tôi thấy phương pháp đó không có nhiều giá trị áp dụng trong thực tế). 10 – Điểm vượng vùng tâm của các hành Khi các trạng thái của bảng sinh vượng tử tuyệt có điểm vượng thì chúng chính là điểm vượng của các can chi trong tứ trụ tại lệnh tháng. Khi đó chúng ta tính toán xem sau khi các can chi trong tứ trụ sinh và xung khắc nhau chúng còn lại bao nhiêu điểm vượng, khi chúng vào trong vùng tâm còn lại bao nhiêu điểm vượng, các điểm vượng này chính là các điểm vượng trong vùng tâm của các can chi đó. Ở vùng tâm này ta chỉ còn việc cộng tất cả các điểm vượng của các can chi cùng một hành với nhau, tổng số đó chính là điểm vượng trong vùng tâm của hành đó. 11 – Các trường hợp ngoại lệ Kiêu ấn có thể sinh được 50%đv của nó cho Thân trong các trường hợp sau: Xem các giả thiết từ 193/ tới 194/ của chương 14. (193/95 – Nếu Thân nhược nhưng can ngày được lệnh và điểm vượng của Thân lớn hơn điểm vượng của Tài, Quan-Sát và Thực-Thương thì Kiêu-Ấn có thể sinh được 50%đv của nó cho Thân. 194/(47a;98) – Nếu Thân nhược nhưng điểm vượng vùng tâm của kiêu ấn lớn hơn điểm vượng vùng tâm của thực thương và tài tinh và can ngày được lệnh (nếu can ngày không được lệnh thì điểm vượng vùng tâm của Thân không nhỏ hơn điểm vượng trong vùng tâm của tài tinh và quan sát) thì kiêu ấn sinh được 50%đv của nó cho Thân.). 12 – Thân vượng hay nhược a - Nếu điểm vượng vùng tâm của Thân lớn hơn điểm vượng vùng tâm của Thực Thương, Tài và Quan Sát ít nhất 1đv (điểm vượng) thì Thân của tứ trụ đó được gọi là Thân vượng còn ngược lại được gọi là Thân nhược (không có Thân trung bình?). b - Thân được gọi là hơi vượng khi Thân chỉ nhiều hơn hỷ dụng thần số 1 ( nghĩa là nó là 1 hành trong các hành là hỷ dụng thần có điểm vượng lớn nhất trong vùng tâm) từ 1đv tới 1,5đv. 13 - Các ký hiệu và quy ước a – Theo thứ tự, hành tài tinh được viết đầu tiên, sau đến quan sát, kiêu ấn, Thân (tức tỷ kiếp), cuối cùng mới là thực thương. Ví dụ : Nếu Thân là kim thì thứ tự các hành được diễn tả như sau : b – Nếu các can chi lộ trong tứ trụ có cùng hành thì chúng được gọi là can chi của hành đó. Ví dụ : Nếu Kiêu ấn thuộc hành mộc mà trong tứ trụ có 1 Giáp và 2 Mão thì chúng được gọi 3 can chi của kiêu ấn. Nếu chúng chỉ là các can tàng phụ trong tứ trụ thì chúng không được tính là can chi Kiêu Ấn nhưng Kiêu Ấn vẫn được xem là có trong tứ trụ. c - Dấu #, nó nghĩa là trong tứ trụ không có can chi thuộc hành đó (kể cả can tàng phụ của hành đó). d - Dấu #4,2, nó nghĩa là trong tứ trụ không có can chi thuộc hành đó nhưng nó có can tàng phụ của hành đó và điểm vượng cao nhất của các can tàng phụ này là 4,2. e - Số – 1, nó nghĩa là điểm hạn của hành làm dụng thần và nó được viết phía trên hành của nó, tương tự với các điểm hạn của các hành khác cũng viết phía trên hành của chúng như vậy. f – Điểm vượng vùng tâm của các hành được ghi phía dưới tên của các hành của chúng. l - Trong phần tính điểm vượng vùng tâm, các điểm vượng của các can chi khi vào tới vùng tâm trên các sơ đồ được khoanh tròn, nhưng từ tuần thứ 3 trở đi chỉ có các điểm hạn trên các sơ đồ mới được khoanh tròn. m – Tháng 1 dương lịch được gọi là tháng 13 của năm cũ theo lịch can chi. Bài này tôi không đưa ra các câu hỏi trọng tâm, vì vậy ai không hiểu hay thấy không hợp lý ở phần nào thì cứ hỏi, tôi sẽ trả lời.
    1 like
  10. Thiên Đồng lưu ý: Nói theo ngôn ngữ khoa học thì - Một trong những điều kiện cần và đủ của thời tiết Đại Lễ chính là : " Từ mùng 1 tháng 8 đến hết 20 tháng 8 Việt lịch năm Canh Dần, không có một cơn bão nào vào biển Đông của Việt Nam (Nên nhớ đây là mùa bão). Hãy xem kỹ lại topic " Lạc Việt độn toán và thời tiết đại lễ 1000 năm Thăng Long ") Một nửa thế giới này trực quan khoa học và một nửa tìn vào Thượng Đế. Cần lưu ý điều này. Thượng Đế thì siêu hình, khoa học thì chưa đạt đến chân lý cuối cùng.Mọi sự nghiêng lệch đều sai lầm trong nghiên cưu Lý học.
    1 like
  11. Không có năm nào tốt hơn đâu, ko thì đợi đến 2018, 2019 cho mẹ già già tí rồi sinh!
    1 like
  12. Đồng Tháp_5/2011 Viếng cụ Nguyễn Sinh Sắc Trong bóng tối, Thầy trò đang đi trên miền sáng
    1 like
  13. 1 like
  14. 1 like
  15. Ai cũng buồn vì có cung số nào đó của mình ko đẹp, nhưng thực sự không ai có đủ 12 cung số đẹp huy hoàng cả Ai cũng buồn vì mình không mau nổi tiếng và tài năng, nhưng nhìn những ngôi sao đương đại thì hiện nay mấy đĩa CD các bé hát hò đó đã lớn, vậy họ có còn được hâm mộ như lúc còn bé không? Ở VN mọi người có nhiều nổi tiếng đương đại để mọi người chiêm nghiệm, ko tiện nêu ra, nhỡ họ đọc xong lại kéo đổ diễn đàn thì khổ nhiều người. Trên thế giới có thể kể ra vài người đình đám có thể nêu vô tư vì nhiều khả năng họ chẳng biết mình nói gì về họ (toàn sự thật thôi mà) Michael Jackson sống là thế, chết là thế, có ai muốn như anh? Võ sĩ thép Mike Tison đến già mà vẫn có kẻ muốn thách đấu để 1 lần đứng trên đầu người vô địch một thời. Ai muốn được như anh không? Vua bóng đá PeLe chưa bao giờ đoán được đội vô địch, dù ở vòng trung kết. Buồn nhỉ. Thần đồng bóng đá Maradona nghiện ma túy đến độ lấy đầu con gái ra để thề là không nghiện hút mà vẫn hút hít v.v... Rất nhiều người tài đều chỉ có 1 thời và nếu không có sự điều chỉnh bản thân thì sẽ không có con đường tốt trong tương lai. Xem số là để biết ứng xử sao cho hợp lẽ đời và không hổ thẹn với lương tâm. Chứ không phải là để cải số hay thay đổi số phận hay làm sai đi lịch sử. Nếu trước kia tầu Titanic không chìm (trước đó đã có tiên đoán đến chuyện này và nêu đích danh cái tên Titanic) thì ngày nay nó đã ngao du khắp nơi với hàng ngàn lượt khách. Và người ta sẽ không thể tìm ra Vi khuẩn có thể phân hủy Thép (Thép cứng hơn Sắt do đã được bổ xung nhiều hợp chất tăng cứng Si, C, N, Ni...) Cái gì cũng có nguyên do sinh tồn của nó, cái chết của sinh vật này là sự sống của sinh vật khác. Giữa sinh và diệt là ranh giới mong manh.
    1 like