-
Thông báo
-
Nội quy Lý Học Plaza
Nội quy này là bản mở rộng Nội Quy - Quy định của Diễn đàn. Khi tham gia mua bán, các thành viên phải tuân theo những quy định sau: Tiêu đề bài viết: Bao gồm: Chỉ dẫn địa lý, Loại hình Mua/Bán, Thông tin mua bán.
Chỉ dẫn địa lý: Tỉnh/thành nơi mua bán. Hoặc sử dụng định nghĩa có sẵn:TQ: Toàn quốc
HCM: TP Hồ Chí Minh
HN: Hà Nội
[*]Ví dụ: HCM - Bán Vòng tay Hổ Phách Nội dung bài viết: Mô tả chi tiết sản phẩm mua/bán
Bắt buộc phải có thông tin liên lạc, giá Mua/Bán
Bài mới đăng chỉ được phép up sau 03 ngày.
Thời gian up bài cho phép: 01 ngày 01 lần.
Các hành vi vi phạm nội quy này sẽ bị xóa bài hoặc khóa tài khoản mà không cần báo trước.
-
Leaderboard
Popular Content
Showing most liked content on 26/05/2011 in all areas
-
Chào Thầy, và các bạn, Trước hết thành thật cám ơn lời khen của Thầy, và chúc Thầy Vạn Sự Như Ý. Sau khi so sánh lại bảng Sao Trực Niên và Sao Hạn, cả hai chỉ là một. Vì vậy khi Sao Hạn của Nam nhân là La Hầu, Thủy Diệu, Vân Hớn và Thái Âm thì củng chính là năm gặp Kim Lâu. Lạc Việt BQ -- Văn Vương BQ - Trực Niên (Nam) -- Trực Niên (Nử) Cấn (Thân) --- Khôn (Thân) -- La (La Hầu)------- Kế (Kế Đô)------- Chấn --------- Đoài --------- Thổ (Thổ Tú)------ Hỏa (Vân Hớn)---- Khôn (Thê) --- Kiền (Thê) --- Thủy (Thủy Diệu)-- Mộc (Mộc Đức)----- Ly ----------- Khãm --------- Kim (Thái Bạch)--- Nguyệt (Thái Âm)-- Trung -------- Trung -------- Nhật (Thái Dương)- Thổ (Thổ Tú)------ Tốn (Tử) ----- Cấn (Tử) ----- Hỏa (Vân Hớn)----- La (La Hầu)------- Đoài --------- Chấn --------- Kế (Kế Đô)-------- Nhật (TháiDương) - Càn (Súc) ---- Tốn (Súc) ---- Nguyệt (Thái Âm)-- Kim (Thái Bạch)--- Khãm---------- Ly ----------- Mộc (Mộc Đức)----- Thủy (Thủy Diệu)-- Tra khảo thêm các sách thì tìm được phương pháp hóa giải trong sách "Tam Ngương Đại Lược" của tác giả Lê Văn Nhàn, như sau: 1) Trích: Như cô bác ai muốn cất nhà năm đó, mà không được năm cất, thì cũng được vậy, thì cô bác đừng để đòn dông, cặp 2 cây tre hai bên, rồi sắp nóc, đến năm được cất thì để đòn dông lên rồi sắp nóc lại củng được vậy. 2) Trích: Như cất nhà, hay là cưới gả củng vậy, được Năm, Tháng, Ngày, Giờ, sanh Vượng Tướng thì tốt, như con nhà Đông Mạng, được năm Đông Mệnh, Tháng Đông Mệnh, Ngày Đông Mệnh, Giờ Đông Mệnh, và hướng Đông Mệnh củng vậy, khỏi sợ Kim Lâu Khoan Ốc, chư sát, các điều hung thần không dám phạm đến mà hại mình được. Đông Mệnh là Tý, Thìn, Tỵ, Ngọ, Mẹo Tây Mệnh là Sửu, Dần, Mùi, Thân, Tuất, Hợi, Dậu, đây là Năm, Tháng, Ngày, Giờ. Hướng Đông Mạng là Khãm Ly Chấn Tốn, hướng Tây Mạng là Khôn Cấn Càn Đoài.2 likes
-
Sinh Con Năm Nào Thì Tốt ?
hkn and one other liked a post in a topic by Thiên Luân
2 gia đình này nên sinh con Nhâm Thìn thì rất tốt, nên sinh trong 6 tháng đầu năm Âm lịch. Bây giờ chuẩn bị đi là vừa! Chúc hạnh phúc!2 likes -
Chào các bạn, Mấy tuần nay đang nghiên cứu đến 28 cầm tú, tình cờ vấn đề Kim Lâu lại được nhắc tới, nên sẳn thời gian tra khảo các cổ thư Ngọc Hạp Ký tiếng Hán, thì khám phá ra cái nguyên lý của Kim Lâu, nay xin chia sẻ cùng các bạn. Theo các sách thì phương pháp tính Kim Lâu như sau: Kim Lâu bảng khởi chánh Khôn cung Thường phi ngũ thập nhập trung cung Khãm Ly Chấn Đoài vi tứ Kiết Ngộ Càn Khôn Cấn Tốn giai Hung. Cái câu tối nghỉa "Thường phi ngũ thập nhập trung cung" tai hại này đã tạo ra nhiều phương pháp tính toán khác nhau, sai vài năm, đúng vài năm. Thật ra phương pháp tính Kim Lâu căn cứ vào 9 tinh (Nhật, Nguyệt, Kim, Thủy, Mộc, Hỏa, Thổ, La Hầu, và Kế Đô). Cái nghĩa của câu trên thật ra chỉ dẫn cho chúng ta an tuổi hàng chục, khởi từ cung Khôn 10, Đoài 20, Càn 30, Khãm 40, Trung Cung 50, Cấn 60, Chấn 70, Tốn 80, Ly 90, Khôn 100 (Theo Bát Quái Văn Vương). Nếu dùng Hậu Thiên Bát Quái Phối Hà Đồ (Lạc Việt) thì khởi Cấn 10, Chấn 20, Khôn 30, Ly 40, Trung Cung 50, Tốn 60, Đoài 70, Càn 80, Khãm 90, Cấn 100. Theo phương pháp tính như trên ta có bảng như sau: Hậu Thiên Bát Quái Phối Hà Đồ (Lạc Việt) Cấn (Thân) --- 10,19,28,37,46,55,64,73,82,91,100 Chấn --------- 11,20,29,38,47,56,65,74,83,92,101 Khôn (Thê) --- 12,21,30,39,48,57,66,75,84,93,102 Ly ----------- 13,22,31,40,49,58,67,76,85,94,103 Trung -------- 14,23,32,41,50,59,68,77,86,95,104 Tốn (Tử) ----- 15,24,33,42,51,60,69,78,87,96,105 Đoài --------- 16,25,34,43,52,61,70,79,88,97,106 Càn (Súc) ---- 17,26,35,44,53,62,71,80,89,98,107 Khãm---------- 18,27,36,45,54,63,72,81,90,99,108 Hậu Thiên Bát Quái Văn Vương Khôn (Thân) -- 10,19,28,37,46,55,64,73,82,91,100 Đoài --------- 11,20,29,38,47,56,65,74,83,92,101 Kiền (Thê) --- 12,21,30,39,48,57,66,75,84,93,102 Khãm --------- 13,22,31,40,49,58,67,76,85,94,103 Trung -------- 14,23,32,41,50,59,68,77,86,95,104 Cấn (Tử) ----- 15,24,33,42,51,60,69,78,87,96,105 Chấn --------- 16,25,34,43,52,61,70,79,88,97,106 Tốn (Súc) ---- 17,26,35,44,53,62,71,80,89,98,107 Ly ----------- 18,27,36,45,54,63,72,81,90,99,108 Tại sao VinhL cho đây là phương pháp đúng? Sau khi xem qua quyển cổ thư Ngọc Hạp Ký, thì khám phá ra một bảng liệt kê Cửu Tinh Trực Niên như sau: Nam Thổ ------ 11, 20, 29, 38, 47, 56, 65, 74, 83, 92 Thủy ----- 12, 21, 30, 39, 48, 57, 66, 75, 84, 93 Kim ------ 13, 22, 31, 40, 49, 58, 67, 76, 85, 94 Nhật ----- 14, 23, 32, 41, 50, 59, 68, 77, 86, 95 Hỏa ------ 15, 24, 33, 42, 51, 60, 69, 78, 87, 96 Kế ------- 16, 25, 34, 43, 52, 61, 70, 79, 88, 97 Nguyệt --- 17, 26, 35, 44, 53, 62, 71, 80, 89, 98 Mộc ------ 18, 27, 36, 45, 54, 63, 72, 81, 90, 99 La ------- 19, 28, 37, 46, 55, 64, 73, 82, 91, 100 Nử Hỏa ------ 11, 20, 29, 38, 47, 56, 65, 74, 83, 92 Mộc ------ 12, 21, 30, 39, 48, 57, 66, 75, 84, 93 Nguyệt --- 13, 22, 31, 40, 49, 58, 67, 76, 85, 94 Thổ ------ 14, 23, 32, 41, 50, 59, 68, 77, 86, 95 La ------- 15, 24, 33, 42, 51, 60, 69, 78, 87, 96 Nhật ----- 16, 25, 34, 43, 52, 61, 70, 79, 88, 97 Kim ------ 17, 26, 35, 44, 53, 62, 71, 80, 89, 98 Thủy ----- 18, 27, 36, 45, 54, 63, 72, 81, 90, 99 Kế ------- 19, 28, 37, 46, 55, 64, 73, 82, 91, 100 Chúng ta thấy đấy, hoàn toàn phù hợp, không khác một năm giữa bảng 9 Tinh Trực Niên và bảng tuổi Kim Lâu tính theo cách nhập trung cung cho mổi hàng chục. Nay tra xét thêm ta thấy, đối với Nam nhân, thì các năm có tinh trực niên là Thủy Hỏa Nguyệt La, là phạm Kim Lâu, tại sao? La Hầu là Hỏa, Kế Đô là Thổ (Theo Trương Quả Lão Ngủ Tinh Luận Mệnh) Những tuổi không phạm vào Kim Lâu là thuộc về các Sao Thổ, Kim, Nhật, Kế (Thổ), và Mộc (Nam nhân) Theo các sách về Thất Chính Tứ Duy, Nhật Đế Vượng tại Ngọ, như vậy Sinh tại Dần thuộc Dương Mộc. Nguyệt Đế Vượng tại Mùi, Sinh tại Hợi (âm hành đi nghịch), như vậy thuộc Âm Thủy. Nay ta có các hành của các sao không bị Kim Lâu là Thổ, Kim, Mộc, và các hành bị Kim Lâu là Hỏa Thủy. Thổ Sinh Kim, Kim và Kim đồng đạo, Mộc thì bị Kim khắc. Hành Kim đều chiếm ưu thế. Hỏa Khắc Kim, Kim sinh Thủy, hành Kim đều bị hao tổn. Vì vậy các năm có các tinh trực niên là Hỏa Thủy Nguyệt La tức đều là hành Hỏa Thủy thì bị phạm Kim Lâu. Đang lúc nghiên cứu về 28 tú, thì thấy được bảng an bài các tú vào 12 cung địa chi của bác Hà Uyên, sau khi gom 12 cung lại thành 9 cung ta có bảng như sau: 27 Dực Hỏa Xà ----|24 Liễu Thổ Chương --|20 Chủy Hỏa Hầu 28 Chẩn Thủy Dẫn--|25 Tinh Nhật Mã -----|21 Sâm Thủy Viên 01 Giác Mộc Giảo--|26 Trương Nguyệt Lộc-|22 Tỉnh Mộc Hãn 02 Cang Kim Long--|---------------------|23 Quỷ Kim Dương --------------------------------------------------------- 03 Đê Thổ Bức ----|---------------------|17 Vị Thổ Trệ 04 Phòng Nhật Thố-|---------------------|18 Mão Nhật Kê 05 Tâm Nguyệt Hồ--|---------------------|19 Tất Nguyệt Ô --------------------------------------------------------- 06 Vĩ Hỏa Hổ -----|10 Nữ Thổ Lạc -------|13 Thất Hỏa Trư 07 Cơ Thủy Báo ---|11 Hư Nhật Thử ------|14 Bích Thủy Dư 08 Đẩu Mộc Giải --|12 Nguy Nguyệt Yến --|15 Khuê Mộc Lang 09 Ngưu Kim Ngưu -|---------------------|16 Lâu Kim Cẩu Ta thấy 4 cung tứ duy đều có Hỏa Thủy Mộc Kim, 4 cung tứ chính thì có Nhật Thổ Nguyệt. Kim Lâu tức nói về hành Kim, Kim sợ nhất gặp Hỏa, vì vậy khi vào 4 cung tứ duy đều có các sao Hỏa mà bị khắc. Theo VinhL nghỉ, đây có lẻ chính là cơ sở và nguyên lý của phương pháp tính tuổi Kim Lâu. Nay chúng ta đã biết được nguyên lý của Kim Lâu là căn cứ vào 9 Tinh Trực Niên, và 28 Cầm Tú. Cổ nhân nói Năm tốt không bằng ngày tốt, ngày tốt không bằng giờ tốt, vì vậy VinhL nghỉ rằng có thể dùng 28 Nguyệt Cầm, Nhật Cầm và Thời Cầm để hóa giải Niên Cầm và 9 Tinh. Tự biết kiến thức nông cạn, không dám cho là 100% đúng, có gì sai sót mong các tiền bối chỉ dẫn. Kính1 like
-
chào các bác, cháu và bạn gái cháu yêu nhau được 4 năm năm rồi, lúc bạn gái cháu 25 tuổi cháu đã định tổ chức đám cưới nhưng vì gia đình cháu bảo là tuổi cháu( ẤT SỬU-1985) và tuổi bạn gái cháu( Bính Dần-1986) không hợp nhau cả về mệnh lẫn mạng. nên không cho cưới. Nhưng chúng cháu vẫn yêu nhau,đã tham khảo nhiều nơi và cũng giải thích, vận động bố mẹ 2 bên cho cưới và chúng cháu quyết định vẫn cưới, chúng cháu dự định cưới vào năm 2012, các bác xem giúp cháu cưới vào năm đó có được không và sinh con vào năm nào thì tốt ạ, mong các bác giúp cháu để chúng cháu có niềm tin và cơ sở để thuyết phục bố mẹ. Kính mong các bác xem giúp1 like
-
Bị ngăn cản kết hôn vì không hợp tuổi Tôi tuổi Dần và anh tuổi Hợi. Mẹ tôi và mẹ anh đã ra sức ngăn cản chuyện tôi và anh yêu nhau, rồi đưa ra các dẫn chứng vợ chồng kỵ tuổi lấy nhau, người chồng đã mất khi còn rất trẻ. Tôi đau khổ và bối rối vô cùng. From: Xuân Thu Sent: Thursday, November 25, 2010 2:44 PM Kính gửi các anh chị Ban biên tập mục Tâm sự! Tôi viết câu chuyện của tôi với mong muốn duy nhất là có thể chia sẻ lòng mình cả với những người tôi không hề quen biết dù câu chuyện của tôi có lẽ đã thuộc vào đề tài quá cũ. Hơn 4 năm trước đây tôi đã gặp và nhận lời yêu người yêu tôi bây giờ. Tình cảm của chúng tôi đã trải qua rất nhiều sóng gió với hiểu lầm, không liên lạc và xa cách. Nhưng khi gặp lại nhau vào năm ngoái, cả hai chúng tôi đã quyết định quay lại. Chúng tôi là tình yêu đầu đời trong sáng và đã có rất nhiều kỷ niệm vui buồn, những lúc vượt qua khó khăn luôn ở bên nhau. Giờ đây khi cả hai có công việc ổn định và có thể tiến đến hôn nhân thì tình yêu của chúng tôi cũng đang đi đến lúc bế tắc vô cùng chỉ vì một lý do duy nhất: tôi và anh kỵ tuổi nhau. Tôi tuổi Dần và anh tuổi Hợi. Mẹ tôi và mẹ anh đã ra sức ngăn cản chuyện tôi và anh yêu nhau, rồi đưa ra các dẫn chứng vợ chồng kỵ tuổi lấy nhau, người chồng đã mất khi còn rất trẻ. Đọc đến đây có thể rất nhiều người sẽ nói rằng thời buổi nào rồi mà còn coi trọng chuyện tuổi tác trong hôn nhân. Nhưng có thể các anh chị nằm trong số ít không coi trọng chuyện này. Trong khi đó người Việt Nam rất xem trọng chuyện tuổi tác trong hôn nhân. Nếu lấy nhau trong sự ngăn cản quyết liệt của gia đình 2 bên hẳn tôi và anh đều sẽ không thực sự hạnh phúc. Tôi có thể khẳng định chúng tôi yêu nhau rất nhiều và tình yêu đã đủ lớn, đã được thời gian chứng minh. Nhưng tôi cũng không hiểu sao giờ đây tôi đang quyết định không liên lạc với anh để chúng tôi suy nghĩ lại chuyện này. Tôi có cảm nhận rằng tình yêu của tôi sắp ra đi. Tôi đau khổ và bối rối vô cùng. Các anh chị ai đã có kinh nghiệm giải quyết vấn đề này xin hãy chia sẻ cùng tôi. Hiện tại tôi cảm thấy hụt hẫng trong lòng. Rất mong Ban biên tập đăng bài viết này của tôi để tôi có thể tìm ra hướng đi đúng đắn cho bản thân mình. Chân thành cảm ơn anh chị! Thu http://vnexpress.net/GL/Ban-doc-viet/Tam-s...10/11/3BA237EF/ Hai mối tình của tôi đều tan vỡ vì không hợp tuổi Khi cô ấy nghe nói không hợp như vậy thì tinh thần yêu đương tan biến đi đâu mất và xoay 180 độ. Cô ấy nói thôi mình chỉ có duyên phận tới đó, dừng lại là đúng mức rồi. Tôi nghe mà không tin vào tai mình nữa. (Hung) Xem tiếp : http://vnexpress.net/GL/Ban-doc-viet/Tam-s...10/12/3BA23EAB/ Đau khổ khôn nguôi sau mối tình kỵ tuổi Phải chia tay anh, tôi hụt hẫng, đau khổ, mất niềm tin. Hơn một năm đầu tiên tôi đã đi tìm anh, nấp ở một góc nào đó để đợi anh đi làm về, để thấy bóng dáng anh cho đỡ nhớ, cho đến ngày anh có người khác thì tôi không còn đến tìm anh nữa. (Hien) Xem tiếp : http://vnexpress.net/GL/Ban-doc-viet/Tam-s...10/12/3BA23E2C/ -------------------------------------- Bài trả lời của TTNC Lý Học Đông Phương Kính gửi ban biên tập mục Tâm sự và quý bạn đọc, Mấy hôm nay chúng tôi theo dõi mục tâm sự và cảm thấy khá bức xúc vì các vấn đề về tuổi hợp hay không hợp trong hôn nhân. Là những người đã và đang nghiên cứu văn hóa truyền thống, nghiên cứu hệ thống lý học Phương Đông nên chúng tôi cũng muốn có đôi lời chia sẻ với quý bạn đọc.Chúng tôi viết bài này nhằm cung cấp cho quý vị quan tâm một cái nhìn đúng đắn hơn về vấn đề tuổi và tương tác tuổi trong mối quan hệ nam nữ. Trong truyền thống văn hóa Á Đông, lúc cưới vợ gả chồng thì những người có tuổi trong gia đình đều quan tâm đến vấn đề luận tuổi. Nhưng qua thời gian cũng như thăng trầm của lịch sử, ngày nay, việc luận tuổi đã bi thất truyền dẫn tới những quan niệm chưa chính xác, lệch lạc và trở thành một nỗi lo sợ vô lý cho các cặp trai gái yêu nhau muốn tiến đến hôn nhân. Và cũng qua cả ngàn năm nay, sự thất truyền, tam sao thất bản đã dẫn đến những phương pháp luận tuổi không đầu không đuôi, gây ra những cảnh dở khóc dở cười, chia ly vô cớ và đầy nước mắt của những đôi yêu nhau. Phương pháp phổ biến hiện nay đa số các “thầy” xem tuổi đều áp dụng phương pháp cung phy. Có 8 cung phi cho nam (Càn, Đoài, Ly, Chấn, Tốn, Khảm, Cấn, Khôn) và 8 cung phi tương tự cho nữ, kết hợp lại sẽ cho ra 64 trường hợp, hay còn gọi là 64 cặp tương tác (Càn – Đoài, Càn – Khảm, Đoài – Ly, Cấn – Tốn…), và kết quả của 64 cặp sẽ tương ứng với các chữ : Sinh Khí – Diên Niên – Phúc Đức – Phục Vị - Ngũ Quỷ - Tuyệt Mạng – Lục Sát – Họa Hại. Như vậy chỉ có 64 trường hợp tương tác tuổi. Chúng ta thử làm phép tính nhỏ, với nhân loại mấy tỷ người mà chỉ có 64 trường hợp để xem tốt xấu thì xác xuất giống nhau là rất lớn. Cứ 64 cặp thì có 1 cặp giống nhau. Có thể thấy rằng đây là điều thiếu logic. Ngoài ra, còn có phương pháp ít phổ biến hơn, đó là phương pháp Cao Ly Đồ Hình. Phương pháp này lấy 10 thiên can theo tuổi nam phối 12 địa chi theo tuổi nữ, sau đó sẽ có 1 bảng phân loại và định tuổi cát-hung. Nếu ta lấy 6 tỷ người trên thế giới và giả định có 1 tỷ cặp vợ chồng với trung bình có 4 con một cặp (ứng với 6 tỷ), đem chia cho 120 trường hợp thì ta sẽ có: 1000. 000. 000: 120 = Gần 8.300.000 triệu cặp vợ chồng có chung một hoàn cảnh. Chỉ cần 3/ 10 trong số 120 trường hợp phối cung đó chia ly hoặc chết thì ta sẽ có 8.300.000 x 36 = 298. 800. 000 cặp vợ chồng ly tan. Và hơn 1 tỷ trẻ em mồ côi trên thế gian này. Phổ biến nhất hiện nay là tình trạng trong dân gian vẫn lưu giữ và truyền miệng những câu như “Dần Thân Tỵ Hợi” “Tý Ngọ Mão Dậu” “Thìn Tuất Sửu Mùi” là Tứ hành xung, hoặc “Canh cô Mậu Quả”, “gái tuổi Dần”, nhưng người ta quên rằng đằng sau những câu trên là cả 1 hệ thống lý thuyết hoàn chỉnh các mối quan hệ của Thiên can, Địa chi, mạng. Qua các phương pháp trên, các bạn cũng có thể nhận thấy thiếu sự hợp lý và khập khiễng trong phương pháp luận tuổi. Nhưng đáng tiếc là sự coi tuổi khập khiểng này đã tồn tại trên thực tế và ăn vào tiềm thức của các bậc ông bà cha mẹ, làm họ tin một cách mù quáng. Các phương pháp coi tuổi vợ chồng khập khiễng trên từ những vị thầy nửa mùa, chẳng hiểu thấu lý, nên vô tình đã để lứa đôi tan nát. Để thay đổi những quan niệm sai lầm trên, chúng tôi cần thấy phải có một phương pháp hoàn chỉnh, logic, nhằm giúp cho những đôi lứa yêu nhau đến được với nhau. Chính vì vậy chúng tôi, những người làm công việc nghiên cứu tại trung tâm nghiên cứu Lý Học Đông Phương đã tổng hợp, nghiên cứu và kiểm nghiệm để có được một phương pháp luận tuổi đúng đắn, hợp lý và mang tính khái quát cao nhất. Phương pháp này chúng tôi đặt tên là “Luận Tuổi Lạc Việt” với sự điều chỉnh mạng Thủy – Hỏa trong Lạc Thư Hoa Giáp so với Lục Thập Hoa Giáp của Trung Quốc nhằm chứng mính cách so tuổi vợ chồng còn sót lại trong dân gian hiện nay chỉ là những mảnh vụn rời rạc, không hoàn chỉnh dẫn đến những sai lầm tai hại. “Không có tuổi vợ chồng xấu trong tình yêu đôi lứa đích thực” và “yêu nhau cứ lấy” là quan điểm của chúng tôi. Ngoài ra, tương quan vợ chồng chỉ là những điều kiện ban đầu, khi gia đình có con thì tương quan này sẽ thay đổi tốt hoặc xấu phụ thuộc vào tuổi đứa con có hợp với cha mẹ hay không, đặc biệt là con út! Ông bà ta có câu “giàu con út, khó con út” Theo phương pháp này, tương tác giữa người với người xảy ra ở cả 3 yếu tố Thiên can, Địa chi và Mạng thông qua mối quan hệ về ngũ hành sinh khắc và nguyên lý âm dương. Như vậy, để dể hình dùng, ta có thể làm phép tính như sau : 60 tuổi nam phối 60 tuổi nữ, cùng với tuổi của 60 đứa con út có khả năng sinh ra theo tương quan tuổi vợ chồng, Tức là ta sẽ có: 60 x 60 x 60 = 216.000 trường hợp khác nhau. Xác xuất để tinh toán cao hơn nhiều lần so với các phương pháp trên. Ở đây, chúng tôi chưa nói đến các cách cục tốt trong việc phối tuổi vợ chồng và con cái trong gia đình. Nhưng vấn đề không dừng lại ở những con số khô khan và phương pháp lạnh lùng. Phương pháp “Luận tuổi Lạc Việt” còn có tính nhân bản ở chỗ là nó khẳng định một cách hợp lý theo thuyết Âm Dương Ngũ hành về tình yêu nam nữ -"Yêu nhau cứ lấy" và sinh đứa con chính là nguồn hạnh phúc gia đình, dù tuổi cha mẹ có khắc nhau đi chăng nữa. Và một vấn đề chúng tôi cũng muốn chia sẻ với quý bạn đọc, đó là “tuổi tác” là một trong những điều kiện tương tác mang tính căn bản ảnh hưởng đến một hoặc nhiều mối quan hệ giữa người với người, chứ không có nghĩa tuổi tác sẽ quyết định mọi thứ diễn ra xung quanh bạn. Có rất nhiều các yếu tố khác ảnh hưởng đến cuộc sống của mỗi các nhân, mỗi gia đình như : hoàn cảnh gia đình, công việc, thu nhập, tính cách cá nhân… Chính vì vậy khi gặp các vấn đề nan giải trong cuộc sống, các bạn không nên quy hết vào lý do… không hợp tuổi, để rồi có những đáng tiếc xảy ra và xã hội lại tiếp tục duy trì những quan niệm không chính xác về việc xem xét tương quan tuổi giữa người với người! Xin chân thành cám ơn quý báo và quý bạn đọc. Thiên Luân Trung Tâm Nghiên Cứu Lý Học Đông Phương.1 like
-
Mới đầu bác QN đăng ảnh avata hình thủ lĩnh al-Qaeda Biladen, với bộ râu rậm rạp, gần đây bác QN đổi ảnh tên rậm râu sâu mắt này thành 1 anh lính thông tin Mỹ xịn. Như vậy, không cần reo quẻ đã đoán ra tung tích của Biladen đã bị lộ tẩy và đang bị Mỹ theo dõi bằng lính biệt kích thông qua máy bộ đàm. Gần đây bác QN đăng ảnh Avata là con hổ vồ mồi. Vậy là Biladen bị úp sọt, thực tế chứng minh rất rõ ràng hành tung của Biladen như thế nào thì bác QN đã biết trước như thế. Qua 3 lần đổi Avata, chúng ta thấy bác QN đã đoán trúng phóc về sự lẩn trốn, sự thông tin nơi sống và cái chết của Biladen. Mời quý vị và các bạn tiếp tục chăm chú theo dõi Avata của bác QN để biết sự thể Biladen sẽ đi về đâu. Như vậy cả nhà đỡ phải reo quẻ đoán mò làm gì khi Cao nhân kiêm cao thủ kiêm Cao cả kiêm Cao.... đã đoán biết mọi chuyện trước như thế nào. Câu chuyện của tôi đến đây là hết, hạ hồi phân giải thế nào, mời quý vị độc giả tiếp tục theo dõi hồi sau do bác QN viết sẽ rõ.1 like
-
Vậy thì chịu rồi, làm sao xem được khi giờ sinh không xác định rõ. Anh nên hỏi lại mẹ và người thân khoảng thời gian nào chính xác. Còn nếu không đành nhờ tới các môn khác vậy1 like
-
1 like
-
Công dụng của rau răm, rau mùi Những loại rau mà chúng ta thường dùng trong các bữa ăn là rau răm, rau mùi, ngò gai đều có công dụng chữa bệnh rất hay. Rau răm Theo lương y Vũ Quốc Trung, rau răm có vị cay, tính ấm, thường được dùng chữa đau bụng do hàn (lạnh), chữa rắn cắn, chàm ghẻ, mụn, kích thích tiêu hóa, kém ăn, và cả làm dịu bớt cơn hưng phấn tình dục. Chẳng hạn như: để chữa chứng tiêu hóa kém, mỗi ngày dùng 15-20g cả thân và lá của rau răm (rau còn tươi), rửa sạch, vắt lấy nước cốt uống. Để chữa rắn cắn (tình trạng nhẹ) thì lấy khoảng 20 ngọn rau răm đem giã nát, vắt lấy nước cốt uống, bã còn lại dùng đắp vào chỗ rắn cắn, trước khi đến bệnh viện khám. Rau răm, ngò gai, và rau mùi (ngò ta) - Ảnh: K.Vy Rau mùi Rau mùi còn được gọi là ngò ta, có vị cay, tính ấm, giúp tiêu hóa thức ăn, trị phong tà, kiết lỵ, thông đại tiểu tiện, trị các chứng đậu, sởi khó mọc, phá mụn độc... Ứng dụng thực tế như: để chữa tình trạng kiết lỵ, ta lấy một vốc hạt mùi đem sao vàng, tán nhỏ, mỗi lần dùng 7-8g bột này pha với nước, ngày uống 2 lần. Nếu lỵ ra máu thì uống với nước đường; lỵ có đàm thì uống với nước gừng, ngày cũng uống 2 lần như thế. Còn để trị chứng loét niêm mạc lưỡi, dùng kết hợp rau mùi với rau húng chanh đem ngâm cả hai với nước muối pha loãng, rồi lấy ra nhai kỹ, nuốt lấy nước (nuốt từ từ và nhớ bỏ xác). Ngò gai Còn gọi là ngò tây, mùi tàu. Theo đông y, mùi tàu có vị the, tính ấm, mùi thơm hơi hắc, thanh uế, kích thích tiêu hóa, mạnh tỳ vị... Để chữa chứng đầy bụng, ăn không tiêu, dùng ngò gai 50g, kết hợp với một ít gừng tươi. Ngò gai cắt đoạn, gừng thì đập dập. Cho 2 thứ vào nồi đất cùng 300-400 ml nước, nấu còn lại còn phân nửa, chia làm 2 lần uống cách nhau 3-4 giờ trong ngày. Để chữa sốt nhẹ do cảm, dùng ngò gai 30g, thịt bò tươi 50g, cùng vài lát gừng tươi, đem nấu chín, dùng nóng. Khánh Vy1 like
-
Khốc -Hư1 like
-
Vui lòng lấy lá số của lyhocdongphuong đây là qui định của diễn đàn ;sau đó cháu nên đặt những câu hỏi cụ thể mình muốn biết ,hỏi chung chung cả cuộc đời thì không ai có thời giờ xem hết .1 like
-
Bị hấp dẫn bởi lời bình này của Thiên Việt, nên có hứng độn quẻ.MU có thắng không? Cảnh - Đại an: Trận này MU phòng thủ nhiều hơn tấn công. MU sẽ ghi bàn thắng vào cuối hiệp 1 hoặc cuối trận. KQ: thắng 1 - 01 like
-
Một là giờ Mão , 1 là giờ Dậu lẽ nào giờ sinh của bạn cha mẹ bạn lại nhớ lộn tới 6 canh giờ? Hay cứ phải lá số tốt mới là lá số của bạn. Tai ngọc, ấn đường tê giác húc, mắt phượng, mũi rồng theo ý bạn thì quá tốt rồi xem số làm chi nữa, sau này ắt sẽ làm to.1 like
-
1 like
-
1 like
-
ĐẬU NỮ VỆ - “Người đàn bà viết văn ở Đèo Ngang” - đòi kiện VTV tới cùng ĐAN HOÀNG 18.5.2011-20:20 NVTPHCM- Đói, rét, nghèo, cô độc, con nhỏ… Ngay cả một người bạn để tâm sự sẻ chia cũng không có. Người góa phụ sống bằng nghề bán cá ở chân Đèo Ngang trút cả vào trang viết. “Nếu không đầu óc tôi sẽ nổ tung”. Khách lạ ở VietNamNet Đầu giờ sáng, một giọng nói oang oang phía ngoài cửa tòa soạn khiến toàn thể biên tập viên, phóng viên của báo phải ngửng lên nhìn. Người đàn bà trông dáng vẻ lam lũ quê mùa, hai bên vai khệ nệ mang vác hai bao tải, tóc bết mồ hôi xuống khuôn mặt xạm đen đứng giữa cửa. Không giảm âm lượng khi bước vào phòng, chị nói: tôi muốn tìm phóng viên. "Báo cáo các anh chị, tôi là người đàn bà nghèo viết văn ở chân Đèo Ngang. Tôi lặn lội từ Quảng Bình ra đây mong muốn được gặp các anh chị" "Ồ... người đàn bà bán cá, bắt ốc và viết văn dưới chân Đèo Ngang, tôi đã nghe nhiều và cũng đã đọc vài tác phẩm của chị". Một biên tập viên hồ hởi. Vẫn tiếp tục làm điếc tai cả phòng, người phụ nữ hạ hai chiếc bao tải xuống, hào hứng lôi ra những tập sách, truyện ngắn và và mời gọi mọi người đến để chị tặng sách; vừa oang oang giới thiệu: "Cuộc đời tôi viết đến bao cuốn sách cũng chẳng hết, chuyện này tôi viết trong cuốn này, vụ này tôi đúc kết lại trong chuyện kia..." Bao tải còn lại có những túi lạc củ mà chị nói 'quà quê từ Quảng Bình' mang ra cho. Sách kèm lạc. Ấn tượng đầu tiên của tôi về chị, nhà văn chân đất Đậu Nữ Vệ như thế. Chị tìm đến với chúng tôi về vụ kiện tụng xung quanh quyền tác giả của chị về một kịch bản phim truyền hình. Thực ra vụ việc không mới, kéo dài đã 5 -6 năm. Bản thân chị và đối tượng kiện tụng: Trung tâm sản xuất phim truyền hình Việt Nam (VFC) đã từng ngồi làm việc ở những cơ quan chức năng, chị đã đưa đơn kiện ra tòa án với '29 lần ra Hà Nội, ăn chực nằm chờ ở các vườn hoa công viên để chờ gặp thẩm phán' như chị nói, nhưng xem ra vụ việc lùng nhùng chẳng ai biết đến hồi nào kết thúc. Sư nói sư phải, vãi nói vãi hay một thời gian đã ồn ào trên báo chí. Xen giữa những trình bày gấp gáp, lủng củng của người phụ nữ, điều làm cho tôi tò mò hơn cả là cuộc đời người đàn bà bán cá viết văn đã từng làm bao người cầm bút xúc động này. "Nếu không viết được ra, chắc tôi phát điên" Người đàn bà này có thể coi là điển hình của những thân phận phụ nữ bất hạnh, đâu đó vẫn gặp ở những vùng quê nghèo với một motip khá phổ biến: Năm 1965, Mỹ bắn phá dữ dội vào Lạch Roòn, Đậu Nữ Vệ 10 tuổi bỏ học theo cha làm giao liên chuyên chở bộ đội và vũ khí qua cửa sông Loan. 7 năm làm giao liên, hai lần hai cha con được làm lễ truy điệu sống. Mối tình đầu không đến được tới đích, một cuộc hôn nhân không hạnh phúc cùng người chồng ốm yếu vì ảnh hưởng chất độc màu da cam, và những đứa con thừa hưởng chất độc ấy. Những thước phim cuộc đời vừa bi tráng, vừa đau khổ nhưng không kém lãng mạn ấy sau này lại chính là chất liệu để người đàn bà ấy - khi bị dồn vào những giây phút bĩ cực nhất cuộc đời - hồi tưởng lại để vừa xót xa, vừa an ủi viết. Sống với nhau được 9 năm, người chồng mất. Đậu Nữ Vệ khi ấy là y tá trình độ sơ cấp của Bệnh viện Hà Lan (Quảng Trị) buộc phải về hưu non, ôm hai con thơ ra chân Đèo Ngang dựng lều ở, mẹ con bán cá, bắt ốc đắp đổi qua ngày. "Lúc đó là năm 1993, Đèo Ngang còn hoang vu lắm, cả đoạn đường dài chỉ có mỗi ba mẹ con tôi, vắng vẻ hiu hắt, buồn rợn người", bà Vệ nhớ lại, vẫn giọng nói oang oang ngay cả khi kể về những ngày tháng cùng cực. Đói, rét, nghèo, cô độc, con nhỏ... Ngay cả một người bạn để tâm sự sẻ chia cũng không có, và bà viết. "Nếu không đầu óc tôi sẽ nổ tung". Bà viết ra bất cứ điều gì có trong đầu, những buồn vui ngày thường, những câu chuyện bà lượm lặt ... hay những thống khổ không thể chia sẻ với ai. Ngay bên hai thúng cá tanh nồng đầy ruồi nhặng, hay đang xắn quần bắt ốc, nấu cơm.., lúc nào bà cũng có bút trong người. Khi một dòng văn thoáng chạy qua đầu, bà viết ra ngay vào bất kỳ đâu: bờ tường, sườn thúng, lòng bàn tay, thậm chí kéo quần lên viết vào đùi hay bắp chân; để rồi đêm về lại cặm cụi chắp vá xâu chuỗi những câu chữ vụn vặt thành tác phẩm. Thuyền tình ngược bến- tiểu thuyết đầu tay của nhà văn Đậu Nữ Vệ về một cô gái có mối tình đẹp nhưng rồi dang dở, sau đó bị làm nhục và phải kết hôn với người mình không yêu... Câu chuyện thấm nước mắt tác giả qua những câu chữ khiến bao độc giả xúc động. Những lá thư động viên chia sẻ gửi về túp lều xác xơ bốn bề lộng gió ở chân Đèo Ngang đã tiếp thêm nghị lực sống cho người đàn bà cô độc nghèo khổ. Bà Vệ kể, qua bao đêm ngày cặm cụi, tác phẩm đầu tay cũng dần hình thành, chắp ghép từ các mảnh giấy học trò. Bà Vệ ôm tập bản thảo đến Sở Văn hóa - Thông tin tỉnh Quảng Trị. Dựng chiếc xe đạp ruồi bâu và đôi sọt vẫn tanh mùi cá vào một góc sân, bà túm lấy một người đàn ông (sau này mới biết là ông Nguyễn Hữu Cử ở Tạo chí Cửa Việt) tha thiết: "Anh ơi cho em hỏi, em có một tiểu thuyết, muốn gởi thì gởi cho ai?" "Tiểu thuyết gì? Cô ở đâu, làm gì mà viết tiểu thuyết?" "Em làm y tá ở Bệnh viện Hà Lan". Người đàn ông hết nhìn thúng cá và chiếc xe đạp, lại nhìn người đàn bà quần ống thấp ông cao, tất tưởi trước mặt ông hỏi lại: "Tiểu thuyết hay tiểu phẩm?" "Dạ, tiểu thuyết". "Cô học trường viết văn nào?" "Em học... chỉ nửa lớp 4". Trước sự tha thiết của người đàn bà, thêm những người tò mò xúm lại nhìn ngó, ông Cử miễn cưỡng nhận lời đọc tập bản thảo. Đúng hẹn, 10 ngày sau ông Cử hồ hởi thông báo bản thảo của bà có thể in được, nhưng tác giả phải trả 400 nghìn công biên tập. Số tiền quá lớn vào thời điểm đó (1992), đặc biệt với góa phụ đơn độc. Vét hết vốn liếng được 200 nghìn đồng đem nộp trước. Chị vào bệnh viện gánh nước thuê, chạy vạy thêm được 200 ngàn nữa trả cho người biên tập. Biên tập xong đến đánh máy, xin giấy phép thêm 340 nghìn nữa, người đàn bà gồng mình lên chạy vạy xuôi ngược với niềm hy vọng tràn trề. Nhưng... "cần 6 triệu đồng in ấn". Nhà văn bán cá bật khóc. Ghét nhất bọn "xin lửa" Trở lại quãng đời người đàn bà góa dắt con nhỏ ra Đèo Ngang dựng lều. Đói, rét, cô độc vẫn chưa phải là nỗi niềm lớn nhất mà "sợ và ghét nhất là bọn xin lửa". Hiểu sự ngơ ngác của người nghe, chị vội giải thích: thì một thân đàn bà sống giữa nơi hoang vắng, nhà thủng tứ bề, lại bên cạnh đường, sao tránh được những con mắt dòm ngó. Từ sáng trưa hay nửa đêm, căn lều lúc nào cũng có người tìm đến "xin lửa". Từ gã tài xế đường dài đỗ xe lại, ông buôn gà chở hàng đi qua, đến những người có gia đình vợ con gần đó cũng qua lại ỡm ờ. "Có lúc tức quá, mình để cả bao diêm sẵn đó, ai thích hút thuốc lấy lửa cứ tự lấy. Nhưng họ lại đút túi luôn cả diêm, rồi lại quay lại "xin lửa". Một ngày lên xuống châm lửa cả chục lần". Ỡm ờ không được, ngọt nhạt không xong, cợt nhả thô lỗ không đạt được mục đích, những gã đàn ông hiện nguyên hình là các con thú đực bỉ ổi. Chúng giật tung vách liếp, ném gạch đá vào căn lều vốn đã xác xơ; thậm chí đổ phân và rác rưởi xuống giếng nước của người phụ nữ và hai đứa trẻ. Dù đã đi qua chiến tranh và mọi giông gió cuộc đời, nhưng người đàn bà ấy vẫn không thể cầm được những giọt nước mắt đau hận. Và viết... Giữa những ong ve bướm lượn, một người đàn ông phần nào hiểu được gia cảnh và nỗi khổ của người góa phụ, trân trọng những trang giấy của chị. Ông đồng ý cho chị vay 5 triệu đồng để in ấn, với điều kiện: vợ ông đang ốm sắp mất, sau khi vợ qua đời, người đàn bà góa sẽ là vợ ông. Chết đuối vớ được cọc, góa phụ nhận lời. Tiểu thuyết đầu tay cuối cùng cũng được ra đời, người đàn bà bán cá khóc như mưa. Thuyền tình ngược bến của chị xuôi đến độc giả, mang đến bao sự động viên cho chị, cùng một số tiền kha khá để chị trang trải. Nhưng hợp đồng tình yêu của chị lại rẽ sang hướng khác, người vợ khỏe mạnh lại, chị trả lại 5 triệu đồng, rẽ cuộc đời sang trang khác. Nhà biên kịch nhảy dù và 'ân oán' nghệ thuật Có được sự mở đầu suôn sẻ, người đàn bà bán cá tiếp tục viết. Chị viết khỏe, liên tục, đầy tự tin xông vào đủ thể loại: truyện ngắn, truyện vừa, tiểu thuyết, truyện cười, thơ... Tính đến nay nhà văn đặc biệt này đã cho ra đời 8 cuốn sách. Những câu chữ vẫn phảng phất mùi tanh của cá, mùi mồ hôi cay mặn, những ngôn từ hay mẩu chuyện nơi bến cá, góc chợ; xồng xộc nồng nồng mùi vị cuộc sống. Như một nhà phê bình nhận xét: tác giả để nguyên quần xắn móng lợn, xông thẳng vào văn chương. Cuộc sống ổn định dần, nơi chị sống có điện. Ba mẹ con cũng dành dụm được tiền mua tivi xem. Những lúc rảnh ngồi xem phim truyền hình, bà bán cá chép miệng: truyện phim thế này mình hoàn toàn viết được. Và chị viết thật... Một lần, thấy thiếu tướng Phạm Hồng Thanh- Cục trưởng Cục Tư tưởng Văn hoá - Tổng cục Chính trị, Bộ Quốc phòng (nay là trung tướng, Phó Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị - Bộ Quốc phòng) phát biểu trên tivi 'bằng giọng Quảng Bình'. Chị đánh liều gửi kịch bản tới chỗ ông đọc. Thật bất ngờ, vài tháng sau, chị nhận được giấy mời tham gia Trại sáng tác Quân đội tại Đồ Sơn - Hải Phòng. Bán tivi và chiếc máy bơm nước, hai tài sản giá trị nhất trong nhà, chị hồ hởi lên đường. Hàng ngày bằng cách hỏi han tiếp xúc, xem cách viết của các nhà biên kịch chuyên nghiệp, như cách dùng từ của chị: "ăn cắp" nghề. Chị loay hoay viết, 'bỏ qua giai đoạn kịch bản văn học, viết thẳng kịch bản truyền hình'. Chính ở đây, chị gặp được những nhà văn, nhà biên kịch sau này chắp mối lương duyên cho chị đến với Trung tâm sản xuất phim truyền hình. Năm 2006, VTV chiếu bộ phim "Miền quê thức tỉnh" (kịch bản phim gốc của Đậu Nữ Vệ là "Điều không thể mất") dài 18 tập. Sau bao nhiêu bươn chải vật lộn, người đàn bà bán cá mừng rơi nước mắt đón chờ tác phẩm của mình. Nhưng khi xem phần giới thiệu, tác giả kịch bản lại là... tên khác, Bùi Vệ Nữ. Chị khóc. Đạo diễn Khải Hưng khi đó vẫn là Giám đốc của VFC gửi công văn vào Hội văn học nghệ thuật Quảng Bình xin lỗi tác giả. Đại diện VFC và nhà văn Đậu Nữ Vệ cũng đã cùng nhau lên Bộ Văn hóa - Thể thao - Du lịch làm việc, nhưng vụ việc cũng chẳng đi đến đâu. "Chỉ những người trong hoàn cảnh mình, có khổ sở sôi từng giọt nước mắt, dày vò mấy tháng trời mới ra được một tập kịch bản, mới hiểu hết sự thất vọng của tôi, và biết vì sao tôi phải kiện", vẫn cái giọng oang oang, cười đấy mà buồn được ngay. Giới văn đàn đưa ra nhiều bình luận, người bênh vực bà bán cá kiên trì; kẻ chép miệng thương những nhà biên kịch VFC 'làm ơn mắc oán'. Những người đã có lúc vừa xót xa vừa cảm phục người đàn bà vươn lên số phận, đã cùng chăm chút những dòng kịch bản đầu tiên cho chị, sau đó thành 'bên bị' trong vụ kiện tụng kéo dài. Nếu trước đây chính sự chất phác của bà nông dân bán cá kéo những đôi tay đến, bây giờ cũng lại chính sự chất phác ấy mang phiền phức đến cho chị. Những phát ngôn kiểu "tôi sẵn sàng bán cả cái Đèo Ngang để theo kiện" khiến nhiều người vừa thương vừa e ngại nhà văn bán cá. Sau khi oang oang ở VietNamNet hồi lâu, chị lại ôm hai bao tải sách và lạc lên xe ôm "đến nhiều nơi khác", không quên dặn đi dặn lại: Tối nay tôi sẽ mua mảnh chiếu ngủ ở bụi tre trước cửa Tòa án Nhân dân Quận Ba Đình để gặp bằng được chánh án. Các anh chị cần gặp tôi cứ ra đó. Đêm ấy, vừa đọc mấy cuốn sách của chị, vừa lắng nghe bên ngoài mưa rơi như trút, tôi tự nhủ người đàn bà đang ngủ ngoài bụi tre thế nào. Sáng hôm sau gọi điện hỏi thăm, chị bảo: ướt một chút thôi. Rất thành tâm, tôi khuyên: hay chị bỏ cuộc đi, kiện tụng thế này biết đi đến đâu, đã nghèo lại thêm khổ, để thời gian và công sức đó viết tác phẩm khác. Chị giãy nảy: không! chị không bỏ cuộc đâu. Buổi chiều trước khi lên xe về Quảng Bình, chị gọi điện chào, tôi nhắc lại lời khuyên. Chị trịnh trọng tuyên bố: Chị không bỏ cuộc, chị sẽ kiện VTV tới cùng! Theo Tuanvietnam1 like
-
1 like
-
Chị lấy thêm lá số giờ Ngọ nữa để xác định giờ sinh. Với lá số này thì người cao vừa tầm, mặt hơi tròn bầu, người yếu ớt yểu điệu nụ cười có duyên, da xanh hay hơi vàng vọt. Hay bị đau yếu bệnh thường xuyên. Có bệnh về khí huyết hay đau nhức xương gân hệ tiêu hóa kém, cũng thường bị đau nhức đầu...1 like
-
Chúng tôi tính theo lạc thư hoa giáp, đổi 2 mạng Thủy - Hỏa so với các sách trên thị trường. Kỷ Mùi, Nhâm Thìn mạng hỏa!1 like
-
Chị cho kích thước nhà, khoảng cách các phòng trong nhà, TL sẽ đưa ra phương án cho chị với điều kiện có các con số cụ thể, vì phải vẽ lại. Chị sửa chữa như thế nào thì tùy chị và gia đình sắp xếp. Bếp nhà chị phải bố trí lại thì mới cải thiện được nhiều mặt. Thân mến.1 like
-
ntpt vẫn nghĩ bạn sinh giờ Hợi. Tham Lang là người đa tình, thích iu và thích được yêu, có chút ham chơi, ham vui, và có hơi tham TT có sách Tử Vi Chỉ Nam của Song An Đỗ Văn Lưu? hay sách Tử vi tổng hợp của Nguyễn phát Lộc, đọc đi sẽ tìm được cách văn chương trong lá số giờ Hợi Sách ghi: Ở đây liệt kê các sao chỉ năng khiếu khoa giáo, về mặt năng khiếu củ ngành giáo dục phải nói giỏi và học giỏi Thái tuế: chỉ sự nói nhiều, khả năng biện luận, khuynh hướng đấu lý Thiên Hình: chỉ khả năng phân tích sắc bén, sự sáng sủa của tư duy và của lối nói, lối viết, sự tinh vi của lý luận. Ứng cho nghề chính trị còn có thêm 1 số sao khác như: Phục binh: có Thái Tuế đi kèm thường bị búa rỉu của dư luận hoặc sử dụng dư luận để đập lại đối thủ hay địch thủ. Khốc-Hư đắc địa: thì có xu hướng chính trị có triển vọng, ngôn ngữ có đắc dụng và hiệu quả, có khí phách và có tác dụng xách động. .... Tự đọc và tìm hiểu thêm đi nhé. Đồng Cự là người hay cãi chày cãi cối, tới phút cuối luôn đuối lý... Bố mẹ Vũ - Tướng - Lộc - Mã là kinh doanh và giàu có... TT tự xem lại. Hiện giờ ntpt rất bận. Nếu thêm câu hỏi sẽ charge giá gấp đôi kỳ vừa rồi. Ok?? ;)1 like
-
Chuyển tủ lạnh về phia góc cầu thang chổ tivi. Trước cửa bếp nên treo một bức manh. Cửa chổ tủ chén cần xây gờ hay dán đá granic cao cở 4cm. Đúng thật là khi ở với các cụ rất khó sửa nhà theo phong thuỷ. Cũng làm gö-bậu cửa ö? toilet phòng ngủ phía sau trên tầng 2. Làm gö cửa ra bancong trên tầng thö, tuy nhiên bàn thö vẫn ỏ vị trí mộ. Vài góp ý cö bản cho bạn. Nếu thuyết phục đựöc song thân đồng ý thì hãy tính tiếp.Thân mến !!!1 like
-
Chụp ảnh đưa lên mà còn không tin thì chịu. Ông Dư Quang Châu là người thật chứ không phải là nick trên mạng ảo.Với lại chuyện này từ lâu các thuật sĩ Yoga Ấn Độ làm từ hàng ngàn năm trước rồi. Các phủ thủy Việt ngày xưa còn cho cả chân vào hai lưỡi cày đi như đi giầy vậy. Vào những năm 60, khoa học cho rằng: Các phù thủy dùng một chất cách nhiệt bôi vào trong lưỡi cày nên không bị phỏng để lừa bịp thiên hạ. Ngày ấy các trò này bị dẹp hết. Các thày phù thủy lên phương tiện thông tin đại chúng thừa nhận là chỉ bịp. Theo tôi, một tư duy khoa học nghiêm túc phải thừa nhận thực tại khách quan để tìm hiểu bản chất vấn đề.1 like
-
Câu hỏi bổ xung: “Chương 9: can chi tổng luận Âm dương thuận nghịch chi thuyết, “lạc thư” lưu hành chi dụng, kỳ lý tín hữu chi dã, kỳ pháp bất khả chấp nhất. Nguyên chú: Âm dương sinh tử, dương thuận âm nghịch, lý ấy phát xuất từ “lạc thư”. Ngũ hành lưu hành trong trời đất lấy đó mà làm dụng, tất nhiên cái lý ấy có thể tin được, còn như giáp mộc tử ở chi ngọ, ngọ hỏa tiết khí giáp mộc, lý lẻ tất nhiên là như thế, (7 -) nhưng ất mộc tử ở chi hợi, hợi tàng nhâm thủy sinh ất mộc tức con được mẹ sinh, hà cớ vì sao lại tử? Thế cho nên đại phàm luận đoán tứ trụ trước tiên phải nên am tường cái can chi khinh trọng, cái sinh ta và cái ta sinh ra sao, lý lẻ âm dương tiêu tức như thế nào sau đó mới có thể dự đoán họa phúc cát hung vận số. Bằng như cứ chấp nê vào cái thuyết sinh tử bại tuyệt, tất suy đoán sai lầm lớn vậy. Nhâm thị viết: Cái thuyết âm dương thuận nghịch, lý phát xuất từ “lạc thư”, hai cái khí này lưu hành trong trời đất làm dụng, chẳng qua dương khí tính hay tụ, nên lấy tiến làm thối, âm khí tính hay tán, nên lấy thối làm tiến. …………………………….. Như ngũ hành can dương sinh ra ở nơi sinh phương, thịnh ở bản phương, suy ở tiết phương, tuyệt nơi khắc phương, lý ấy tất nhiên là như vậy; còn ngũ hành can âm sinh ra ở tiết phương, tử ở sinh phương, lý ấy thật trái với tự nhiên vậy. Lại còn nói là “Đất tý ngọ cung không thể sinh kim sinh mộc; Đất hợi dần không thể diệt hỏa diệt mộc”. Cổ nhân thủ cách, đinh gặp dậu lấy tài luận, ất gặp ngọ, kỷ gặp dậu, thìn gặp tý, quý gặp mão lấy thực thần tiết khí luận, toàn không lấy trường sinh luận. Ất gặp hợi, quý gặp thân lấy ấn luận, không nên luận tử. Lại như kỷ gặp dần tàng can bính hỏa, tân gặp tỵ tàng can mậu thổ, cũng đồng ấn luận, không nên luận tử. ( 8-) Từ đó cho thấy, âm dương đồng sinh đồng tử là điều dể hiểu, bằng như cố chấp âm dương thuận nghịch, dương sinh âm tử, âm sinh dương tử lấy đó mà luận mệnh, rất có thể sai lầm lớn vậy. Cho nên, “chương Tri Mệnh” có nói “thuận nghịch chi cơ tu lý hội” là như vậy đó.“. Qua đoạn này tác giả (hình như là Từ Lạc Ngô) và người bình chú là Nhâm Thiết Tiều (tức Nhâm Thị) đã khẳng định Ất không thể ở trạng thái Tử trong bảng Sinh Vượng Tử Tuyệt được mà nó phải Ðồng Sinh Ðồng Tử với can Dương là Giáp, tức Ất cũng phải ở trạng thái Trường sinh như Giáp. Vậy thì theo bạn nội dung các câu 7 và 8 có đúng hay sai ? Vì sao ?1 like
-
Ngôi mộ khổng lồ và những cuộc an táng rùng rợn lúc nửa đêm Thứ hai, 23 Tháng 5 2011 06:46 (GDVN) - Ông mở túi nilon và bảo: “Hôm nay chỉ có 5 cháu thôi. Ngày nào nhiều thì có hơn chục cháu, ngày ít cũng 3-4 cháu”. Thang lang ở vùng quê ven biển, thuộc tỉnh Nam Định, tôi được chứng kiến hai ngôi mộ khổng lồ quái dị, và cuộc an táng rùng rợn, do một người đàn ông thực hiện, tiễn đưa những sinh linh bé bỏng về trời. Giữa cánh đồng xã Nghĩa Thắng (Nghĩa Hưng, Nam Định), có hai ngôi mộ sơn màu vàng, mái đỏ. Người dân quanh vùng, người đi làm đồng thường tránh xa, không dám lại gần hai ngôi mộ đó. Theo người dân trong vùng, ngày nào hai ngôi mộ cũng tiếp nhận vài hài nhi. Người đàn ông râu tóc bạc phơ, sau khi làm lễ tiễn đưa các lĩnh hồn về trời, vào lúc nửa đêm, ông rước các hài nhi xấu số về mộ. Hai ngôi mộ táng hài nhi khổng lồ giữa cánh đồng. Người dân trong vùng nhìn thấy ông già đó lại tránh rất xa. Họ kinh sợ việc làm quái đản của ông, sợ những hồn ma hài nhi xấu số.Tò mò với câu chuyện rùng rợn này, tôi tìm gặp ông Vũ Bao.Bóng tối sầm sập đến, con ngõ vào nhà ông già quái dị này vắng tanh, cảm giác rờn rợn.Tôi bước vào ngôi nhà lớp ngói tuềnh toàng. Ông lão tóc trắng toát, râu dài ngang ngực trắng như cước ngồi bất động trên ghế. Thi thoảng ông nhấp ngụm trà. Tôi cất tiếng “chào cụ”. Ông lão vuốt râu cười hiền lành: “Cậu cứ gọi tớ là anh cũng được, chưa lên chức cụ đâu”. Hóa ra, ông Bao mới 60 tuổi. Dáng ông vâm váp, nước da đỏ như da gà chọi, nhưng râu tóc thì lại trắng xóa.Tôi ngồi uống nước, trò chuyện cùng ông về cái công việc đặc biệt và kỳ quái này. Ông Bao lấy hài nhi. Ông Vũ Bao vốn làm nghề đi biển như bao người dân khác ở vùng đất giáp biển. Ông nổi tiếng với tài câu cá vược.Không hiểu có phải ông có duyên với người chết hay không, mà thường xuyên câu được… xác chết. Mỗi lần gặp xác chết, ông không hề sợ, mà vớt xác, rồi an táng cho người xấu số cẩn thận. Thế rồi, ở đâu có xác chết trôi, người dân, chính quyền gọi ông làm giúp. Ông làm việc kinh dị này miễn phí.Nơi ông ở là vùng theo đạo. Cha xứ gọi ông về giáo xứ và giao cho làm trùm kẻ liệt, tức làm công việc khâm liệm cho con chiên.Cách đây 5 năm, đi câu cá ở bờ sông Tiêu, một bịch nilon dính lưỡi. Kéo bịch nilon đen xì lên, mở ra, thì ông lạnh cả người: cả chục hài nhi đỏ hỏn. Có đứa chưa thành hình hài, có đứa đủ cả tay chân, mặt mũi. Nơi làm lễ an táng hài nhi. Người theo đạo cấm phá thai, nên thấy cảnh đó, ông rụng rời tay chân. Ông cặm cụi làm đúng thủ tục mai táng như nhà thờ làm, cầu Chúa ban phước cho linh hồn các hài nhi về nơi cực lạc. Làm lễ xong, ông đem các bé ra nghĩa địa chôn.Việc phát hiện bọc thai nhi to tướng cứ ám ảnh ông mãi. Một ngày, ông làm chuyến điều tra dọc con sông cạnh nhà. Đi ngược lên phía thượng nguồn, ông nhặt được vô số túi nilon đen chứa hài nhi. Con sông dẫn đến thị trấn Đông Bình. Ông phục kích tại đây, thì phát hiện một người đàn bà ném những túi đen xuống sông vào chiều tối.Người đàn bà này vốn là bác sĩ, đã về hưu, mở phòng sản tư, chuyên môn nạo hút thai. Mỗi ngày, bà gom hài nhi lại, rồi ném xuống sông Tiêu.Nghĩ đến cảnh các hài nhi làm mồi cho cá, chuột bọ, chó mèo, lòng ông đau quặn. Thế là, từ đó, ông nảy sinh ý tưởng lạ: Làm tang ma cho các linh hồn bé bỏng, để các linh hồn tội nghiệp được siêu thoát.Hài nhi ít tháng tuổi được gói trong những túi nilon nhỏ. Ông liên hệ với các bệnh viện, các phòng sản tư trong huyện, đề nghị họ cung cấp hài nhi cho ông để ông làm tang ma. Lúc đầu, các phòng khám, bệnh viện hoài nghi, từ chối, nhưng rồi, họ hiểu việc làm của ông, và cũng tốt cho họ, nên họ đồng ý. Cứ chiều xuống, họ lại mang hài nhi đến cho ông làm lễ an táng.Ông làm lễ rửa tội, xức nước thánh và đặt tên cho các sinh linh theo họ Vũ của ông. Xong xuôi, ông cho các cháu vào chiếc tiểu sành, chờ đêm xuống mang ra nghĩa địa chôn.Việc chôn cất hài nhi ra mả rất tốn diện tích, vì cứ vài ngày lại mọc thêm ngôi mộ, nên bị nhân dân phản đối. Vì thế, ông đã xây hẳn hai ngôi mộ to để chứa hài nhi vào trong đó.Đang trò chuyện, thì tiếng chó sủa râm ran, rồi tiếng xe máy đỗ ở ngõ. Ông Bao bảo: “Người ta mang hài nhi đến đó”.Tôi ra ngoài sân ngó xem, thì tiếng xe máy đã xa dần.Xức nước thánh. Ông Bao mở chiếc hòm tôn như hòm thư trên cây nhãn trước nhà, lấy ra một bọc nilon màu đen. Ông mở túi nilon và bảo: “Hôm nay chỉ có 5 cháu thôi. Ngày nào nhiều thì có hơn chục cháu, ngày ít cũng 3-4 cháu”.Ông mang túi đựng hài nhi ra chái nhà, là lối đi giữa nhà và bếp. Tại đây, có một bàn thờ với khói hương, tượng thánh giá và vô số hài nhi đã được làm lễ rửa tội và “nhập quan”.Ông Bao thắp hương lầm rầm khấn vái. Ông đặt các hài nhi ra mặt bàn, đặt tên cho các con, rồi đọc kinh thánh giúp các linh hồn siêu thoát. Ông nói chuyện với các con mình: “Con người sinh ra từ cát bụi, chết lại trở về với cát bụi. Các con không một lần được nhìn thấy mặt trời, nhưng Chúa thấu hiểu nỗi đau nên sẽ bù đắp cho các con vào kiếp khác. Các con hãy siêu thoát và đừng oán hận những người trần gian, vì họ cũng có nhiều nỗi buồn khó nói. Cha mong các con được thanh thản nơi thiên đường và phù hộ cho những người cha, người mẹ lầm lỗi, phải nuốt nước mắt, rứt ruột rứt gan từ bỏ các con”. Đọc kinh thánh, trò chuyện xong, ông làm lễ rửa tội bằng cách xức dầu thánh lên các hài nhi. Ông đặt 5 hài nhi vào 5 chiếc tiểu sành. Hài nhi to đặt vào tiểu to, hài nhi nhỏ đặt vào tiểu nhỏ. Những chiếc tiểu do ông đặt ở cơ sở làm gốm, giống hệt các bát hương. Dán kín nắp tiểu sành bằng xi măng. Ông trộn ximăng cho nhuyễn, rồi dùng ximăng gắn chặt nắp với tiểu. Ông dùng bút lông đánh số bằng mực đỏ lên các tiểu sành. Hài nhi nhập quan cuối cùng trong ngày hôm đó mang số 3.155. Điều đó có nghĩa, đã có 3.155 hài nhi được ông Bao làm lễ rửa tội, xức dầu thánh và an táng chu đáo.Xong xuôi, ông Bao đựng các “quan tài” nhỏ xíu vào bị, rồi mang ra ngôi mộ ở cánh đồng. Tôi lẽo đẽo theo ông trong cảnh nhập nhoạng, với cảm giác rờn rợn.Bình thường, lúc nửa đêm, khi dân làng ngủ hết, ông mới đem hài nhi ra mộ, để người dân đỡ sợ. Nhưng hôm nay, có nhà báo, nên ông mang sớm để tôi được chứng kiến.Đi qua nghĩa địa u tịch của xứ đạo Quần Vinh thì đến hai ngôi mộ khổng lồ. Hai ngôi mộ nằm giữa ruộng, tách biệt hẳn với nghĩa địa. Hôm đó mưa to, nước lớn ngập ruộng, tràn cả vào trong mộ, khiến các tiểu sành nổi lềnh bềnh. May mà ông Bao trát kín miệng tiểu sành bằng ximăng nên nước không ngấm vào được. Ông bảo, đang làm thì hết tiền, nên chưa trát kỹ được tường, lại chưa có cửa, nên mưa to là mộ ngập nước. Ông dùng chậu tát hết nước trong mộ, rồi đặt một số tiểu sành vào trong. Dù ngôi mộ mới xây dựng, nhưng tôi thấy có đến cả ngàn hài nhi trong hai ngôi mộ này. Theo tính toán của ông Bao, phải vài chục ngàn hài nhi mới lấp đầy được hai ngôi mộ.Sau khi nhập các hài nhi vào mộ, ông Bao ngồi bên thành mộ “nói chuyện” với các linh hồn. Tôi thấy ông nói chuyện, khuyên bảo, cười đùa cứ như với người vô hình trước mặt.Ông Bao khẳng định, ông nghe được tiếng nói chuyện, tiếng cười đùa râm ran của bọn trẻ! Bọn trẻ cũng nghe được những lời ông nói. Có đêm, đang ngủ, bọn trẻ cười đùa, khóc lóc, trèo lên bụng, lên ngực, ngoáy mũi, giật râu không cho ông ngủ!Chuyện ông Bao kể, chẳng hiểu có tin được không. Không rõ ông đang ở thế giới thực hay mộng nữa. Hầu như ngày nào, ông cũng ra mộ trò chuyện với mấy ngàn đứa con của ông. Tiếng chuông xứ đạo gọi con chiên vang vọng. Màn đêm bao phủ khắp nơi. Bỏ lại ông già râu tóc trắng xóa ngồi trò chuyện với các linh hồn bên mộ, tôi như chạy trốn hỏi một hiện thực nhói lòng.Việc làm của ông thật kỳ lạ. Nhưng tôi tin rằng, nếu ai một lần nhìn thấy ngôi mộ khổng lồ với hàng ngàn hài nhi chồng chất, sẽ biết sợ, biết trân trọng sự sống. Trần Bình Thủy1 like
-
Bài 7 : Thiên địa nhân của tứ trụ Chương 6 Thiên địa nhân của tứ trụ I – Thiên địa nhân Các Can và Chi trong tứ trụ tượng trưng cho khí âm dương của ngũ hành của trời và đất. Thiên tức là thiên can chủ về trời, là Thiên nguyên (tức là các nguyên nhân này do ông trời quyết định – tức bởi 10 vật thể lớn nhất trong hệ mặt trời gây ra). Chúng chính là các can đã lộ ra trong tứ trụ của từng người. Địa tức là địa chi chủ về xã hội mà con người đang sống trên mặt đất, là Địa nguyên. Nhân tức là con người được tạo ra trong trời và đất, do vậy trong mỗi địa chi của tứ trụ có chứa từ 1 đến 3 can, đó chính là các thần đặc trưng cho khả năng chủ quan của người có tứ trụ, là Nhân nguyên. Sự dự đoán tổng hợp của tam nguyên (Thiên Địa Nhân) là một thể thống nhất trong mệnh lý học, nó có một ý nghĩa vô cùng quan trọng bởi vì nó có thể chỉ ra toàn bộ tiền đồ, cát, hung, họa, phúc ....của cả một đời người. Nếu kết hợp tứ trụ với tướng tay và tướng mặt để dự đoán thì điều dự đoán có thể đạt đến sự chính xác, chi tiết đến kỳ diệu. II – Thiên nguyên Thiên nguyên trong tứ trụ chính là các can của trụ năm, tháng và giờ, đó là ba thần. Đối với tứ trụ có một tổ hợp trong sáng và đẹp thì ba thần này thường sẽ là : Thực hay Thương sinh Tài, Tài sinh Quan hoặc Sát, Quan hay Sát sinh Ấn, Thực thần chế Sát, Thương quan hợp Sát, Thương quan hoặc Thực thần mang Ấn, Tài Quan Ấn đều có... Những tổ hợp này thường là các yếu tố báo hiệu những mệnh phú quý. 1 – Ngũ hợp của thiên can Vì các thiên can là khí của ngũ hành nên chúng có hai tính chất tương sinh và tương khắc với nhau (như đã nói ở trên) ngoài ra chúng còn có các tính chất hợp và biến đổi để tạo ra các hóa cục. Thiên can chỉ có thể hợp với nhau khi chúng ở gần nhau. Gần ở đây có nghĩa là can trụ năm với can trụ tháng, can trụ tháng với can trụ ngày, can trụ ngày với can trụ giờ, các can trong tứ trụ với can đại vận và lưu niên, can đại vận và can lưu niên với can tiểu vận. 2 – Tính chất của ngũ hợp Giáp hợp với Kỷ, tức là hợp với người hay sự việc là sự hợp trung chính. Ất hợp với Canh, tức là hợp với người hay sự việc là hợp nhân nghĩa. Bính hợp với Tân, tức là hợp với người hay sự việc là sự hợp có uy lực để chế ngự. Đinh hợp với Nhâm, tức là hợp với người hay sự việc là sự hợp dâm loạn. Mậu hợp với Quý, tức là hợp với người hay sự việc là sự hợp vô tình. 5 tổ hợp này được gọi là ngũ hợp. 3 - Thiên can hợp với nhau có thể hóa cục Giáp hợp với Kỷ có thể hóa được thành Thổ. Ất hợp với Canh có thể hóa được thành Kim. Bính hợp với Tân có thể hóa được thành Thủy. Đinh hợp với Nhâm có thể hóa được thành Mộc. Mậu hợp với Quý có thể hóa được thành Hỏa. Các hóa cục này có khả năng sinh, phù hay khắc chế Thân. 4 – Quy tắc hợp và hóa của các thiên can trong tứ trụ Các thiên can trong tứ trụ hợp được với nhau chỉ khi chúng ở gần nhau. Cần phân biệt hai trường hợp, các can hợp với nhau hóa được hay chỉ hợp mà không hóa. a – Can ngày chỉ hợp được với can tháng và can giờ. Nếu can ngày chỉ hợp với can tháng hay can giờ thì chúng không thể hóa được cục nếu trong tứ trụ xuất hiện hành quan-sát của hóa cục này (nghĩa là hành khắc hành của hóa cục này, kể cả hành quan-sát này chỉ có các can tàng phụ (?)) mặc dù có hành của chi tháng hay hành của hóa cục của chi tháng là hành dẫn hóa, còn nếu 2 can hợp với 1 can thì ngũ hợp này không bao giờ có thể hóa được cục. b – Ngũ hợp của can trụ năm với can trụ tháng có thể hóa cục chỉ khi hành của chi tháng hay hành hóa cục của chi tháng là hành dẫn hóa hay còn được gọi là thần dẫn (nó giống như chất xúc tác trong các phản ứng hóa học). Ví dụ : Mậu ở trụ năm hợp với Quý ở trụ tháng hóa thành Hỏa cục chỉ khi chi tháng (chi của trụ tháng) là Tị, Ngọ (vì hành của Tị và Ngọ là Hỏa) hay chi tháng đã hóa thành Hỏa cục, vì vậy các chi Tị, Ngọ hay Hỏa cục ở chi của trụ tháng được gọi là các thần dẫn cho các hóa cục của các thiên can. 5 – Quy tắc hợp và hóa của các can giữa tứ trụ, tuế vận và tiểu vận a – Ngũ hợp chỉ có 2 can 1 - Ngũ hợp của các can trong tứ trụ (kể cả can ngày bởi vì khi nó hợp với tuế vận, nó được xem như các can khác và nó không làm cho hành của Thân thay đổi khi nó hóa thành các hành khác nếu hành của Thân chỉ có can ngày) với can đại vận hóa cục chỉ khi hành của chi tháng hay chi đại vận (mặc dù các chi này đã hóa cục có hành khác với hành của các chi này) cũng như hành của hóa cục của chi tháng hay chi đại vận (nếu chúng hóa cục) có khả năng dẫn hóa cho ngũ hợp này (nghĩa là hành của thần dẫn giống với hành của ngũ hợp này). 2 - Ngũ hợp của can trong tứ trụ với can lưu niên hóa cục...nó tương tự như câu trên khi thay đại vận thành lưu niên, chỉ có khác là hành của chi lưu niên cũng có khả năng dẫn hóa nếu chi lưu niên là động (khi nó bị xung, khắc hay hợp hóa cục hay không hóa cục bởi các chi khác). 3 – Ngũ hợp của can đại vận với can tiểu vận hóa cục.... nó tương tự như can trong tứ trụ hợp với can đại vận nhưng có thêm chi tiểu vận (nghĩa là hành của chi tiểu vận) cũng có khả năng dẫn hóa như chi đại vận nếu nó là động (tức là nó bị xung, khắc hay hợp hóa cục hay không hóa cục bởi các chi khác). 4 - Can lưu niên hợp với can tiểu vận hóa cục tương tự như can trong tứ trụ hợp với can lưu niên hóa cục nhưng có thêm chi tiểu vận cũng có khả năng dẫn hóa như chi đại vận nếu nó là đông (tức là nó bị xung, khắc hay hợp hóa cục hay không hóa cục bởi các chi khác. 5 – Can đại vận hợp với can lưu niên hóa cục chỉ khi hành của các chi trụ tháng, đại vận hay lưu niên (riêng chi lưu niên phải động) cũng như hóa cục của các chi này (nếu chúng hóa cục) là thần dẫn. b – Ngũ hợp có từ 3 can trở lên Các ngũ hợp này được gọi là tranh hợp nên chúng không có khả năng hóa cục. Do vậy các can của chúng luôn luôn khắc nhau nếu là tranh hợp giả và không khắc được nhau nếu là tranh hợp thật. 1 - Tranh hợp thật của thiên can chỉ xẩy ra khi có 2 can giống nhau có hành là chủ khắc ở tuế vận hợp với can tiểu vận hay hợp với 1 hay nhiều can giống nhau trong tứ trụ hoặc hợp với can tiểu vận và các can giống với can tiểu vận ở trong Tứ Trụ. 2 - 2 can là chủ khắc giống nhau ở trong tứ trụ hợp với 1 can của tuế vận hay 2 can của tuế vận nếu chúng giống nhau. Giải thích về tranh hợp thật của thiên can giống như tranh hợp thật của địa chi (xem phía dưới). Khi các thiên can hợp với nhau hóa cục có hành mới thì ta phải lấy hành mới này để luận, như vậy thì hành cũ của các can trong hóa cục này đã hoàn toàn mất đi tác dụng của chúng, còn nếu chúng hợp với nhau mà không hóa thì chỉ có các can trong tổ hợp mới có khả năng tác dụng được với nhau nhưng chúng không có khả năng tác dụng với các can khác ngoài tổ hợp này (trừ các chi cùng trụ với chúng sẽ nói sau). III - Địa nguyên Các địa chi trong tứ trụ là địa nguyên. Địa nguyên đại diện cho xã hội của con người nên rất phức tạp. Đủ thứ phát sinh trong cái xã hội này, như đâm, chém, giết nhau... người ta gọi là xung, khắc. Tụ tập thành từng nhóm, từng hội thành các đảng phái, tôn giáo... khác nhau người ta gọi là hội, hợp. Người này lừa đảo, hãm hại người kia người ta gọi là hình, hại. Tự mình làm khổ mình người ta gọi là tự hình,…..Sự hình, xung, khắc, hại, hội và hợp của các địa chi có ảnh hưởng rất lớn đối với Thân. Giữa các địa chi với nhau các sách cổ chỉ nói đến hình, xung, khắc, hóa, hội, hợp và hại mà không nói đến sự tương sinh (phải chăng địa chi không có khả năng sinh cho nhau (?)). Tôi đã chứng minh được thiên can và địa chi trong cùng trụ có thể sinh cho nhau và một ví dụ có thể chứng minh được các thiên can cũng có thể sinh được cho nhau (?) (xem ví dụ số 148). 1 - Lục hợp của địa chi Tý....hợp với Sửu có thể hóa thành Thổ cục. Ngọ...........Mùi..................Thổ cục. Dần...........Hợi..................Mộc cục. Mão...........Tuất.................Hỏa cục. Thìn..........Dậu..................Kim cục. Tị............Thân.................Thủy cục. Sáu tổ hợp trên được gọi là lục hợp chỉ có khi các chi của chúng ở gần nhau (gần của địa chi tương tự như gần của thiên can). Lục hợp chủ yếu đại diện cho quan hệ vợ chồng hay giữa nam với nữ. 2 – Tam hợp của địa chi Thân Tý Thìn hợp với nhau có thể hóa thành Thủy cục. Hợi..Mão Mùi ..........................................Mộc cục. Dần..Ngọ Tuất..........................................Hỏa cục. Tị..Dậu Sửu............................................Kim cục. Tam hợp không cần các chi của chúng phải gần nhau. Tam hợp chủ yếu đại diện cho các tổ chức, đoàn thể, đảng phái chính trị.... 3 - Các bán hợp của địa chi Thân bán hợp với Tý hay Tý bán hợp với Thìn có thể hóa thành Thủy cục. Hợi......................Mão hay Mão............Mùi.......................Mộc cục. Dần......................Ngọ hay Ngọ............Tuất......................Hỏa cục. Tị.........................Dậu hay Dậu............Sửu.......................Kim cục. Bán hợp chỉ có khi các chi của chúng ở gần nhau. Bán hợp chủ yếu đại diện cho các tổ chức nhỏ phi chính trị. Trong tứ trụ có lục hợp, tam hợp hay bán hợp là chủ về người đó có dung nhan đẹp, tính cách thanh lịch, thần khí ổn định, yêu cuộc sống, lòng dạ thẳng thắn, linh lợi, thông minh hoạt bát (xét về hợp). Nếu các tổ hợp này hóa thành (cục) hỷ dụng thần là tốt (trừ chúng gây ra Đại Chiến), còn hóa thành kỵ thần là xấu (xét về hành của hóa cục). 4 – Tam hội của địa chi Tam hội của Dần Mão Thìn..về phương Đông có thể hóa thành Mộc cục. Tam.............Tị Ngọ Mùi....về phương nam..có thể hóa thành Hỏa cục. Tam.............Thân Dậu Tuất.về phương Tây..có thể hóa thành Kim cục. Tam.............Hợi Tý Sửu....về phương Bắc..có thể hóa thành Thủy cục. Tam hội không cần các chi của chúng phải gần nhau. Tam hội chủ yếu đại diện cho các tổ chức tôn giáo. Vì khí của tam hội cục sẽ hội tụ về một phương (tôn thờ một vị thánh), cho nên khí âm dương ngũ hành của nó là vượng nhất, sau đó mới đến tam hợp, bán hợp rồi mới đến lục hợp. Các sách cổ thường nói trong tứ trụ có từ 3 tổ hợp trở lên thường là người có tài đối với nam, còn là dâm loạn đối với nữ (thời nay câu này là sai với nữ). 5 - Lục xung của địa chi Tý....với..Ngọ...là tương xung Mão........Dậu................ Dần........Thân............... Tị...........Hợi................ Thìn.......Tuất............... Sửu.........Mùi................ Trong đó: Tý với Ngọ, Tị với Hợi là sự xung-khắc của Thủy với Hỏa. Dần với Thân, Mão với Dậu là sự xung-khắc của Kim với Mộc. Duy chỉ có thìn với Tuất và Sửu với Mùi là giống nhau về hành, vì vậy chỉ nói đến xung không nói đến khắc. Trong đó: Các lực xung-khắc của Tý với Ngọ và Dậu với Mão là các lực xung-khắc mạnh nhất, vì chúng đại diện cho các lực xung-khắc chính phương là Đông (Mão) với Tây (Dậu) và Nam (Ngọ) với Bắc (Tý). Sau đó mới đến lực xung-khắc của Dần với Thân và Tị với Hợi vì phương xung-khắc của nó không đúng chính phương, cuối cùng mới là lực xung của Thìn với Tuất và Sửu với Mùi. 6 – Tương hại của địa chi a - Tý.....và...Mùi...hại với nhau, tức là Tý....hại...Mùi, .Mùi...hại...Tý b - Sửu...............Ngọ........................Sửu.........Ngọ, .Ngọ.........Sửu c - Dần.................Tị...........................Dần...........Tị,.....Tị..........Dần d - Mão................Thìn.......................Mão.........Thìn, Thìn........Mão e - Thân...............Hợi........................Thân........Hợi,..Hợi.........Thân f - Dậu.................Tuất.......................Dậu ........Tuất,.Tuất........Dậu Lục hại trên được sinh ra từ lục hợp : Ví dụ 1: Lục hợp (gia đình) của Ngọ với Sửu bị phá tan khi có Tý đến xung Ngọ, vì vậy Tý đã hại Mùi (làm cho gia đình của Ngọ với Mùi bị tan vỡ). Ví dụ 2 : Lục hợp của Tý với Sửu có thể bị phá tan khi có Mùi đến xung Sửu, vì vậy Mùi đã hại Tý (làm cho gia đình của Tý với Sửu có thể bị tan vỡ)..... Người gặp các hại trên, sợ nhất ở trụ ngày và trụ giờ. Thường đối với người như vậy thì về già hay bị tàn tật hoặc không có nơi nương tựa. Nếu còn gặp Kình dương thì không chúng phải mũi tên, hòn đạn cũng dễ gặp phải hổ (?). Hình, tự hình và hại nói chung là xấu nhưng nếu bị hợp hóa cục, hoặc bị khắc có thể giải được, còn bị xung (kể cả thổ) thì chỉ giảm đi một phần. 7 – Tương hình của địa chi Tý hình Mão, Mão hình Tý là hình phạt do vô lễ mà dẫn đến. Dần hình Tị, Tị hình Thân, Thân hình Dần là hình phạt do đặc quuyền đặc lợi dẫn đến. Sửu hình Mùi, Mùi hình Tuất, Tuất hình Sửu là hình phạt do cậy quyền cậy thế gây lên . Tương hình chủ yếu được gây ra từ tam hợp, nó nghĩa là những người trong cùng hay khác các đoàn thể, đảng phái chính trị lừa đảo, hãm hại nhau. 8 - Tự hình của địa chi Thìn tự hình Thìn, Dậu tự hình Dậu, Ngọ tự hình Ngọ, Hợi tự hình Hợi là do tự mình gây lên. Các sách cổ có viết: “Tự hình sợ nhất là năm và tháng lại có thêm sát thì nhất định bị tổn thương, hoặc không bị giam cầm thì cũng bị chết cháy, hay gặp nạn binh đao mất đầu “. 9 - Tứ hình của địa chi Thìn, Ngọ, Dậu, Hợi được gọi là tứ hình. Trong tứ trụ phải có ít nhất 3 chi khác nhau của tứ hình và đến năm có thái tuế là chi thứ 4 thiếu thì tứ hình này mới được coi là xấu, còn ngoài ra cho dù tứ trụ với tuế vận có đủ tứ hình cũng không có tác dụng gì cả. 10 - Tứ trự hình của địa chi Tứ Tự Hình là phải có ít nhất 4 chi giống nhau của Tự Hình là Thìn, Dậu, Ngọ hay Hợi. (Cách giải cứu cho tất cả các loại hình, tự hình và hại này là giống nhau.) 11 – Quy tắc hợp và hóa của các địa chi trong tứ trụ Ta gọi các tổ hợp của các can chi trong tứ trụ chưa có tuế vận vẫn hóa được cục là hóa cục có từ khi mới sinh. a - Các bán hợp hay lục hợp của các địa chi trong tứ trụ hợp được với nhau chỉ khi 2 chi này phải ở gần nhau trong tứ trụ, trừ tam hợp và tam hội. Các bán hợp, lục hợp, tam hợp hay tam hội hóa thành cục chỉ khi trong tứ trụ hay ở tuế vận có thần dẫn. Các thần dẫn cho các tổ hợp của các địa chi hóa cục chính là các can lộ trong tứ trụ hay ở tuế vận cũng như các hóa cục của thiên can có hành giống với hành của hóa cục mà các tổ hợp của các địa chi đó sẽ hóa thành (chú ý can tiểu vận chỉ dẫn hóa được cho tổ hợp của chi tiểu vận). Ví dụ: Trong tứ trụ có Tý trụ năm và Sửu trụ tháng ở gần nhau, vì vậy chúng có thể hợp được với nhau và tổ hợp này được gọi là lục hợp, nhưng lục hợp này hóa được Thổ cục chỉ khi có thần dẫn là các can lộ xuất hiện trong tứ trụ hay ở tuế vận như Mậu, Kỷ hoặc các Thổ cục của các can (nếu gặp Tý hay Sửu ở tuế vận thì Thổ cục này được xem là mạnh hơn). b - Nếu bán hợp hay lục hợp có 3 chi liền nhau mà 2 chi bên ngoài giống nhau hợp với chi ở giữa thì được coi là tranh hợp nên không thể hóa cục được (trừ khi 1 liên kết của chúng bị phá). c - Nếu bán hợp hay lục hợp có 3 chi liền nhau trong đó 2 có chi liền nhau là giống nhau thì chỉ có chi ở gần chi thứ 3 mới có thể hợp với nó và hóa cục. 12 – Quy tắc hợp và hóa giữa các địa chi giữa Tứ Trụ với tuế vận và tiểu vận a - Tất cả các tổ hợp của các địa chi giữa tứ trụ, tuế vận và tiểu vận có thể hợp được với nhau và hóa cục nếu có thần dẫn. b – Các chi trong tứ trụ hợp với chi đại vận hay thái tuế (được xem như hợp gần) nhưng chúng không thể hợp trực tiếp được với chi tiểu vận. c – Chi tiểu vận chỉ hợp được với chi đại vận và thái tuế (cũng được xem là hợp gần) hay nó cùng với các chi giống nó ở trong tứ trụ hợp với các chi tuế vận thì can tiểu vận cũng có thể làm thần dẫn cho tổ hợp này hóa cục, nhưng chi tiểu vận không thể hợp trực tiếp được với các chi trong tứ trụ. f – Địa chi tranh hợp thật : 1 - Nếu chỉ có 2 chi giống nhau mang hành chủ khắc cùng ở trong tứ trụ hợp với chi đại vận hay thái tuế hoặc hợp với cả chi đại vận và thái tuế (nếu chúng giống nhau) thì tổ hợp này được gọi là tranh hợp thật nên chúng không thể hóa được cục. 2 – Nếu chi đại vận và thái tuế giống nhau có hành là chủ khắc hợp với chi tiểu vận hay hợp với một hay với nhiều chi giống nhau trong Tứ Trụ cũng như hợp với chi tiểu vận và các chi trong Tứ Trụ giống với chi tiểu vận thì tổ hợp này cũng được gọi là tranh hợp thật nên nó cũng không thể hóa được cục. Giải thích : Nếu trong tứ trụ có 2 Thìn hợp với Tý ở đại vận hay thái tuế thì 2 Thìn là Thổ khắc được Tý là Thủy nên 2 Thìn mang hành chủ khắc, còn chi Tý mang hành bị khắc. Hiểu đơn giản như 2 ông làm sao lấy chung một bà bao giờ đâu. Nhưng 2 Tý trong tứ trụ hợp với Thìn ở đại vận hay Thìn thái tuế vẫn có thể hóa Thủy được (nếu có thần dẫn), vì thực tế có nhiều bà vẫn lấy chung 1 ông. Vì sao 2 chi chủ khắc này phải cùng ở tuế vận hay cùng ở trong Tứ Trụ ? Bởi vì chỉ có như vậy thì thế lực của chúng mới tương đương với nhau để cho cuộc chiến mới không phân thắng bại, chính vì vậy mà chúng mới không có thì giờ rảnh để hợp với cô gái kia hòng tạo ra được sản phẩm (hóa cục). 3 - Nếu 4 chi hợp với 1 chi, trong đó chỉ có 2 chi giống nhau ở trong tứ trụ hợp với chi ở đại vận hay thái tuế là tranh hợp thật thì tổ hợp của 5 chi này không hóa cục được (?) (ví dụ 155). 4 - Nếu có từ 3 chi giống nhau trở lên (trừ câu 2) là chủ khắc hợp với 1 hay nhiều chi giống nhau thì không phải là tranh hợp thật nên vẫn có thể hóa cục (?) (xem ví dụ 165). Giải thích : Bởi vì khi 2 thằng đàn ông đánh nhau thì thằng thứ 3 được tự do có thể “hợp” với cô gái đó..., vì vậy cả 3 thằng này đều có cơ hội để “hợp” được với cô gái đó tạo ra… (điều này khác với thiên can, vì người trần mắt thịt khác với các vị thần ở trên trời chăng ?) 13 - Thiên Khắc Địa Xung A - Thiên khắc địa xung Có 3 loại thiên khắc địa xung (TKĐX): 1 – TKĐK và TKĐX có chi không phải là Thổ. 2 – TKĐX có chi là Thổ. 3 – TKĐK* và TKĐX* có chi là Thìn và Tý chỉ khi các chi của chúng ở gần nhau. TKĐK là trong 1 trụ có cả can và chi đều là chủ khắc, còn TKĐX thì trong 1 trụ chỉ có can chủ khắc còn chi chỉ là chủ xung. B – Các can và chi là chủ xung hay chủ khắc 1 - Các can chủ khắc, nó nghĩa là can đó phải khắc được can khác như : Giáp....khắc...Mậu..............Ất......khắc....Kỷ Bính...............Canh.............Đinh............Tân Mậu................Nhâm.............Kỷ..............Quý Canh ..............Giáp.............Tân..............Ất Nhâm...............Bính.............Quý.............Đinh. 2 - Các chi chủ khắc, nó nghĩa là chi đó phải khắc được chi khác như: Tý.....khắc....Ngọ Dậu..............Mão Hợi...............Tị Thân..............Dần Thìn..............Tý 3 - Các chi chủ xung, nó nghĩa là chi đó chỉ xung được chi khác như : Ngọ....xung....Tý................Thìn....xung.....Tuất Mão...............Dậu...............Tuất.............Thìn Tị...................Hợi...............Sửu..............Mùi Dần...............Thân..............Mùi..............Sửu Tý...................Thìn. Ta thấy số trường hợp TKĐX nhiều hơn TKĐK, do vậy ở đây chúng ta gọi chung hai loại này là TKĐX và ở đây quy ước nói trụ nào trước cũng được vì lực của TKÐX được tính cả 2 chiều. Ví dụ : 1 - Trụ Giáp Tý TKĐK với trụ Mậu Ngọ bởi vì trụ Giáp Tý có Giáp khắc Mậu và Tý khắc Ngọ. 2 - Trụ Giáp Ngọ TKĐX với trụ Mậu Tý bởi vì trụ Giáp Ngọ chỉ có Giáp khắc Mậu còn Ngọ chỉ xung Tý. 3 - Trụ Giáp Thìn TKĐX với Mậu Tuất bởi vì trụ Giáp Thìn chỉ có Giáp khắc Mậu còn Thìn chỉ xung Tuất. 14 – Thời gian của các trụ trong tứ trụ mang vận hạn Trụ năm mang vận hạn từ khi mới sinh đến tròn 15 tuổi. Trụ tháng mang vận hạn từ 15 tuổi đến tròn 30 tuổi. Trụ ngày mang vận hạn từ 30 tuổi đến tròn 45 tuổi. Trụ giờ mang vận hạn từ 45 tuổi tới tròn 65 tuổi. Từ 65 tuổi trở đi trụ năm mang vận hạn (hay là ở cả 4 trụ ?). Nếu lưu niên và trụ đang mang vận hạn TKĐX với nhau thì điểm hạn của tất cả các lực xung hay khắc vào trụ này đều phải tăng gấp đôi, trừ can chủ khắc của nó ở lưu niên nhược ở tuế vận. Xem các giả thiết từ số 166/ tới 168/ ở chương 14. IV - Nhân nguyên Địa chi tàng chứa từ 1 đến 3 can, các can tàng này được gọi là Nhân nguyên (các nguyên nhân của người). Các can tàng này chính là 10 thần, là các thần nắm sự việc,.... chúng đại diện cho các yếu tố chủ quan của người có tứ trụ. Do vậy chúng ta rất khó dự đoán được các yếu tố này khi nào sẽ phát sinh và biểu hiện ra bên ngoài. Thiên can đã lộ ra trong tứ trụ (can năm, can tháng và can giờ) cũng có các đặc tính như vậy nhưng vì nó đã lộ ra ngoài nên dễ nhận biết được để dự đoán. 1 – Các can tàng trong địa chi Quý....................tàng trong Tý...........Kỷ, Tân và Quý.....tàng trong Sửu Giáp, Bính và Mậu ..............Dần..........Ất....................................Mão Mậu, Quý và Ất..................Thìn.........Bính, Canh và Mậu................Tị Đinh và Kỷ.........................Ngọ..........Kỷ, Ất và Đinh.....................Mùi Canh, Nhâm và Mậu...........Thân.........Tân...................................Dậu Mậu, Đinh và Tân................Tuất.........Nhâm và Giáp........................Hợi Chú ý : Can tàng có cùng hành với hành của địa chi mà nó tàng được gọi là can tàng bản khí hay chính khí (bởi vì nó có lực mạnh hơn các lực của các can tàng khác trong địa chi đó) còn các can tàng khác trong địa chi này (nếu có) được gọi là can tàng phụ. Ví dụ 1 : Tị tàng chứa các can Bính, Mậu và Canh trong đó Bính là can tàng mang bản khí hay khí chính (tức là hành Hỏa là hành chính của Tị), vì vậy Bính có lực mạnh hơn lực của Mậu và Canh chỉ mang hành là tạp khí hay khí phụ là Thổ và Kim. Mậu và Canh được gọi là can tàng phụ. Ví dụ 2 : Dậu chỉ có chứa 1 can tàng Tân là bản khí, không có tạp khí. Các câu hỏi trọng tâm của Bài 7: Cuốn Trích Thiên Tủy được dịch bởi vnn1269 có đoạn như sau : (Các bạn có thể đọc toàn bộ 9 chương đầu của cuốn Trích Thiên Tủy trong mục Trao đổi về Tứ Trụ bên trang web Lý Số Việt Nam.) “Chương 8 : Địa Chi ................................................ Chi thần chích dĩ xung vi trọng, hình dữ xuyên hề động bất động Nguyên chú: Xung tức tương khắc, cùng tứ khố huynh đệ gặp xung, do đó mà động; đến như tương hình tương hại, là do có tương sinh tương hợp mà tồn tại, vì vậy mà nói xung động và xung bất động có cái lý lẽ khác nhau. Nhâm thị viết : ……………………….. Cái nghĩa của việc tương hình thật không lấy chi làm nhất định, như : (1 -) hợi hình hợi, thìn hình thìn, dậu hình dậu, ngọ hình ngọ, gọi là tự hình, vốn là địa chi gặp địa chi, cùng đồng khí cớ sao lại tương hình? (2 -) Tý hình mão mão hình tý, vốn là tương sinh, dần thân tương hình tất gặp xung sao còn lại đi tương hình? (3 -) Tuất hình mùi, mùi hình sửu đều ngũ hành thuộc thổ khí thì không thể nào tương hình được. (4 - )Dần hình tỵ cũng là tương sinh, dần thân tương hình, tất gặp xung hà tất lại còn tương hình hay sao? (5 -) Lại còn nói tý mão nhất hình, dần tỵ thân nhị hình, sửu tuất mùi tam hình, gọi là tam hình, lại còn có tự hình, đều là ngụy luận hẵng nên vứt bỏ. (6 -) Xuyên tức là hại, lục hại là do lục hợp mà có, tức xung thần hợp với ta, gọi là lục hại, như tý hợp sửu mà gặp mùi xung, sửu hợp tý mà gặp ngọ xung. Cho nên nói tý mùi tương hại, chẳng không tương khắc, sửu ngọ dần hợi tương hại, đều là tương sinh, cớ sao lại tương hại? vả lại tương hình, tương hại vốn đã không lấy chi đủ làm bằng chứng, thật lầm lỗi lớn, đến như tương phá cũng như thế cả, không tương hại tức tương hình, lỗi lầm do không thuộc ở kinh, nên tước bỏ vậy“. Theo bạn thì cách lý luận của cao thủ Tử Bình Nhâm Thị qua 6 câu tôi đã đánh dấu ở trên có đúng hay không ? Vì sao ?1 like
-
Nấu ăn có ngon? thích ở nhà hơn ra ngoài đường?1 like
-
Chân tay có bị gảy hay trật khớp ,mắt cận nặng không ?1 like
-
Chị em không thuận ,tháng thấp hay dồ ?1 like
-
2 Tuổi này có vấn đề gì đâu nhỉ? Tính theo Lạc Thư Hoa Giáp thì tuổi Bính Dần mạng Thủy (theo sách TQ là mạng hỏa). Ất mộc bính hỏa, mạng chồng Kim sinh vợ Thủy... chẳng thấy khắc nhau chỗ nào. Cứ cưới nhau và sinh con năm Giáp Ngọ 2014, con út năm Mậu Tuất 2018!1 like
-
Tướng mạo người chồng của chị có phải dáng người nở nang, da trắng hồng, tiếng nói to, tóc xoăn hay bạc sớm, làm trong công quyền, có chức vị? Trong gia đình, chị là người nắm quyền chi phối tất cả?1 like
-
Sức khỏe năm nầy kém hay bệnh .Miếng đất khó lòng mà bán được trong năm nay Gia đạo vẫn còn nhiều chuyện rắc rối hơn năm rồi1 like
-
vậy thì tôi chịu thua thấy cả 2 giờ nầy không có gì để xác định giờ nào cả ,xem kỹ lại giờ hay ngày tháng sanh có sai không ?1 like
-
Với 2 giờ trên ;hình dạng thì giống nhau nhưng cả 2 cung bào đệ thì không thấy có nhiều anh chị em như cô đã kể nên tôi chưa dám xác nhận là giờ nào đúng cả . con cái cô có sanh cháu nào sanh đôi ? hay là có sanh mỗ bỏ mấy đứa ?1 like