-
Thông báo
-
Nội quy Lý Học Plaza
Nội quy này là bản mở rộng Nội Quy - Quy định của Diễn đàn. Khi tham gia mua bán, các thành viên phải tuân theo những quy định sau: Tiêu đề bài viết: Bao gồm: Chỉ dẫn địa lý, Loại hình Mua/Bán, Thông tin mua bán.
Chỉ dẫn địa lý: Tỉnh/thành nơi mua bán. Hoặc sử dụng định nghĩa có sẵn:TQ: Toàn quốc
HCM: TP Hồ Chí Minh
HN: Hà Nội
[*]Ví dụ: HCM - Bán Vòng tay Hổ Phách Nội dung bài viết: Mô tả chi tiết sản phẩm mua/bán
Bắt buộc phải có thông tin liên lạc, giá Mua/Bán
Bài mới đăng chỉ được phép up sau 03 ngày.
Thời gian up bài cho phép: 01 ngày 01 lần.
Các hành vi vi phạm nội quy này sẽ bị xóa bài hoặc khóa tài khoản mà không cần báo trước.
-
Leaderboard
Popular Content
Showing most liked content on 25/05/2011 in all areas
-
Nguyên Lý Của Tuổi Kim Lâu
Mục Bản and 2 others liked a post in a topic by VinhL
Chào các bạn, Mấy tuần nay đang nghiên cứu đến 28 cầm tú, tình cờ vấn đề Kim Lâu lại được nhắc tới, nên sẳn thời gian tra khảo các cổ thư Ngọc Hạp Ký tiếng Hán, thì khám phá ra cái nguyên lý của Kim Lâu, nay xin chia sẻ cùng các bạn. Theo các sách thì phương pháp tính Kim Lâu như sau: Kim Lâu bảng khởi chánh Khôn cung Thường phi ngũ thập nhập trung cung Khãm Ly Chấn Đoài vi tứ Kiết Ngộ Càn Khôn Cấn Tốn giai Hung. Cái câu tối nghỉa "Thường phi ngũ thập nhập trung cung" tai hại này đã tạo ra nhiều phương pháp tính toán khác nhau, sai vài năm, đúng vài năm. Thật ra phương pháp tính Kim Lâu căn cứ vào 9 tinh (Nhật, Nguyệt, Kim, Thủy, Mộc, Hỏa, Thổ, La Hầu, và Kế Đô). Cái nghĩa của câu trên thật ra chỉ dẫn cho chúng ta an tuổi hàng chục, khởi từ cung Khôn 10, Đoài 20, Càn 30, Khãm 40, Trung Cung 50, Cấn 60, Chấn 70, Tốn 80, Ly 90, Khôn 100 (Theo Bát Quái Văn Vương). Nếu dùng Hậu Thiên Bát Quái Phối Hà Đồ (Lạc Việt) thì khởi Cấn 10, Chấn 20, Khôn 30, Ly 40, Trung Cung 50, Tốn 60, Đoài 70, Càn 80, Khãm 90, Cấn 100. Theo phương pháp tính như trên ta có bảng như sau: Hậu Thiên Bát Quái Phối Hà Đồ (Lạc Việt) Cấn (Thân) --- 10,19,28,37,46,55,64,73,82,91,100 Chấn --------- 11,20,29,38,47,56,65,74,83,92,101 Khôn (Thê) --- 12,21,30,39,48,57,66,75,84,93,102 Ly ----------- 13,22,31,40,49,58,67,76,85,94,103 Trung -------- 14,23,32,41,50,59,68,77,86,95,104 Tốn (Tử) ----- 15,24,33,42,51,60,69,78,87,96,105 Đoài --------- 16,25,34,43,52,61,70,79,88,97,106 Càn (Súc) ---- 17,26,35,44,53,62,71,80,89,98,107 Khãm---------- 18,27,36,45,54,63,72,81,90,99,108 Hậu Thiên Bát Quái Văn Vương Khôn (Thân) -- 10,19,28,37,46,55,64,73,82,91,100 Đoài --------- 11,20,29,38,47,56,65,74,83,92,101 Kiền (Thê) --- 12,21,30,39,48,57,66,75,84,93,102 Khãm --------- 13,22,31,40,49,58,67,76,85,94,103 Trung -------- 14,23,32,41,50,59,68,77,86,95,104 Cấn (Tử) ----- 15,24,33,42,51,60,69,78,87,96,105 Chấn --------- 16,25,34,43,52,61,70,79,88,97,106 Tốn (Súc) ---- 17,26,35,44,53,62,71,80,89,98,107 Ly ----------- 18,27,36,45,54,63,72,81,90,99,108 Tại sao VinhL cho đây là phương pháp đúng? Sau khi xem qua quyển cổ thư Ngọc Hạp Ký, thì khám phá ra một bảng liệt kê Cửu Tinh Trực Niên như sau: Nam Thổ ------ 11, 20, 29, 38, 47, 56, 65, 74, 83, 92 Thủy ----- 12, 21, 30, 39, 48, 57, 66, 75, 84, 93 Kim ------ 13, 22, 31, 40, 49, 58, 67, 76, 85, 94 Nhật ----- 14, 23, 32, 41, 50, 59, 68, 77, 86, 95 Hỏa ------ 15, 24, 33, 42, 51, 60, 69, 78, 87, 96 Kế ------- 16, 25, 34, 43, 52, 61, 70, 79, 88, 97 Nguyệt --- 17, 26, 35, 44, 53, 62, 71, 80, 89, 98 Mộc ------ 18, 27, 36, 45, 54, 63, 72, 81, 90, 99 La ------- 19, 28, 37, 46, 55, 64, 73, 82, 91, 100 Nử Hỏa ------ 11, 20, 29, 38, 47, 56, 65, 74, 83, 92 Mộc ------ 12, 21, 30, 39, 48, 57, 66, 75, 84, 93 Nguyệt --- 13, 22, 31, 40, 49, 58, 67, 76, 85, 94 Thổ ------ 14, 23, 32, 41, 50, 59, 68, 77, 86, 95 La ------- 15, 24, 33, 42, 51, 60, 69, 78, 87, 96 Nhật ----- 16, 25, 34, 43, 52, 61, 70, 79, 88, 97 Kim ------ 17, 26, 35, 44, 53, 62, 71, 80, 89, 98 Thủy ----- 18, 27, 36, 45, 54, 63, 72, 81, 90, 99 Kế ------- 19, 28, 37, 46, 55, 64, 73, 82, 91, 100 Chúng ta thấy đấy, hoàn toàn phù hợp, không khác một năm giữa bảng 9 Tinh Trực Niên và bảng tuổi Kim Lâu tính theo cách nhập trung cung cho mổi hàng chục. Nay tra xét thêm ta thấy, đối với Nam nhân, thì các năm có tinh trực niên là Thủy Hỏa Nguyệt La, là phạm Kim Lâu, tại sao? La Hầu là Hỏa, Kế Đô là Thổ (Theo Trương Quả Lão Ngủ Tinh Luận Mệnh) Những tuổi không phạm vào Kim Lâu là thuộc về các Sao Thổ, Kim, Nhật, Kế (Thổ), và Mộc (Nam nhân) Theo các sách về Thất Chính Tứ Duy, Nhật Đế Vượng tại Ngọ, như vậy Sinh tại Dần thuộc Dương Mộc. Nguyệt Đế Vượng tại Mùi, Sinh tại Hợi (âm hành đi nghịch), như vậy thuộc Âm Thủy. Nay ta có các hành của các sao không bị Kim Lâu là Thổ, Kim, Mộc, và các hành bị Kim Lâu là Hỏa Thủy. Thổ Sinh Kim, Kim và Kim đồng đạo, Mộc thì bị Kim khắc. Hành Kim đều chiếm ưu thế. Hỏa Khắc Kim, Kim sinh Thủy, hành Kim đều bị hao tổn. Vì vậy các năm có các tinh trực niên là Hỏa Thủy Nguyệt La tức đều là hành Hỏa Thủy thì bị phạm Kim Lâu. Đang lúc nghiên cứu về 28 tú, thì thấy được bảng an bài các tú vào 12 cung địa chi của bác Hà Uyên, sau khi gom 12 cung lại thành 9 cung ta có bảng như sau: 27 Dực Hỏa Xà ----|24 Liễu Thổ Chương --|20 Chủy Hỏa Hầu 28 Chẩn Thủy Dẫn--|25 Tinh Nhật Mã -----|21 Sâm Thủy Viên 01 Giác Mộc Giảo--|26 Trương Nguyệt Lộc-|22 Tỉnh Mộc Hãn 02 Cang Kim Long--|---------------------|23 Quỷ Kim Dương --------------------------------------------------------- 03 Đê Thổ Bức ----|---------------------|17 Vị Thổ Trệ 04 Phòng Nhật Thố-|---------------------|18 Mão Nhật Kê 05 Tâm Nguyệt Hồ--|---------------------|19 Tất Nguyệt Ô --------------------------------------------------------- 06 Vĩ Hỏa Hổ -----|10 Nữ Thổ Lạc -------|13 Thất Hỏa Trư 07 Cơ Thủy Báo ---|11 Hư Nhật Thử ------|14 Bích Thủy Dư 08 Đẩu Mộc Giải --|12 Nguy Nguyệt Yến --|15 Khuê Mộc Lang 09 Ngưu Kim Ngưu -|---------------------|16 Lâu Kim Cẩu Ta thấy 4 cung tứ duy đều có Hỏa Thủy Mộc Kim, 4 cung tứ chính thì có Nhật Thổ Nguyệt. Kim Lâu tức nói về hành Kim, Kim sợ nhất gặp Hỏa, vì vậy khi vào 4 cung tứ duy đều có các sao Hỏa mà bị khắc. Theo VinhL nghỉ, đây có lẻ chính là cơ sở và nguyên lý của phương pháp tính tuổi Kim Lâu. Nay chúng ta đã biết được nguyên lý của Kim Lâu là căn cứ vào 9 Tinh Trực Niên, và 28 Cầm Tú. Cổ nhân nói Năm tốt không bằng ngày tốt, ngày tốt không bằng giờ tốt, vì vậy VinhL nghỉ rằng có thể dùng 28 Nguyệt Cầm, Nhật Cầm và Thời Cầm để hóa giải Niên Cầm và 9 Tinh. Tự biết kiến thức nông cạn, không dám cho là 100% đúng, có gì sai sót mong các tiền bối chỉ dẫn. Kính3 likes -
Chi oi, chi kiem tra lai la so xem. Chi la nu thi tich vao o nu. Hinh nhu chi tich nham o Nam thi phai. E thay ls cua chi ghi 'duong nam'. Hj,chj lay dung cac bac moj gjaj chuan dc chu.hj. E k bjt j ca, thay ls cua chj la nen noj thuj. K dug xjn moj ng bo wa.hj1 like
-
tuyetminhnguyen thử để ý lá số giờ Mão thì anh chị em đông và có anh chị em dị bào, ngoài ra còn có người chết lưu thai. Với lại theo cảm nhận riêng của mình thì người có tang hổ khốc hư hỏa đà thì khó có cách nói chuyện như bạn này lắm. Lúc trước mình có xem lá số của 1 người sinh 1984 Thái Âm miếu ngộ Triệt Đà cuộc đời vất vả và hay bệnh nạn lắm, nếu tuyetminhnguyen có hứng thì tôi sẽ gửi bạn lá số người này để trao đổi thêm kinh nghiệm.1 like
-
Mệnh và tật là những điều bênh tật hay tai nạn sẽ xảy ra trong suốt cuộc đời . Có tuần thì giảm đi coi như phỏng nhẹ .1 like
-
tướng sợ triệt hơn tuần , bệnh bại tinh nhiều trong cung mệnh chứng tỏ bé nầy lúc sanh ra sanh khó ,có tang ai trong họ trong năm sanh ra ,nếu không sanh ra rồi cũng khó nuôi cho đến lớn , trong khoảng thời gian lớn lên có thể bị tai nạn té ngã có liên quan ở mặt đầu tay chân / cung phúc và phụ mẫu có tuần và hao ,số nầy phải sớm xa cha hay mẹ ,lớn lên cũng phải ly tổ mà sống ,họ hàng càng sa sút , nếu có thể làm con nuôi họ khác thì tốt hơn ,nếu bé khó nuôi nhờ người khác đặt tên hay nhạn làm con nuôi .1 like
-
Tốt nhât thì nên để 2014 Giáp Ngọ hãy sinh, công việc của cha mẹ sẽ thuận lợi hơn so với sinh Nhâm Thìn 2012 hoặc Quý Tỵ 2013!! Thân mến!1 like
-
1 like
-
Viết bài bằng tiếng Việt có dấu nhé!!!1 like
-
Quán vắng!
Thích Đủ Thứ liked a post in a topic by Thiên Sứ
J. Rogers: Nhân dân tệ là “kênh đầu tư an toàn nhất” Thứ ba, 24/05/2011, 08:59(GMT+7) VIT - Hãng thông tấn Reuters ngày 23/5 đưa tin, ông trùm đầu tư Jim Rogers cho rằng, nếu đồng USD tăng, ông sẽ bán tháo số tài sản USD mà ông đang nắm gữ, bởi vì đồng USD đã mất đi ngôi vị tiền tệ dự trữ toàn cầu. Cũng theo ông này, đồng Nhân dân tệ là “kênh đầu tư an toàn nhất”. Đồng USD sẽ trở thành “thảm họa” trong dài hạn bởi do Mỹ đang có vị thế quốc gia mắc nợ nhiều nhất thế giới và các chính sách tiền tệ của Chủ tịch Fed Ben S. Bernanke. Đây là nhận xét của Jim Rogers, chủ tịch quỹ Rogers Holdings, khi ông phát biểu tại 1 hội nghị ở Edinburgh. Ảnh minh họa “Tình hình ngày càng tồi tệ hơn và tôi mong đợi nhìn thấy những vấn đề nghiêm trọng ở Mỹ. Chủ tịch Bernanke không hiểu nền kinh tế, ông ta không hiểu vấn đề tài chính mà chỉ biết in tiền và chúng ta không thể tăng gấp 4 lần lượng tiền in trong cuộc suy thoái lần tới”, Rogers phát biểu. Nợ chính phủ của Mỹ hiện lên đến 93% GDP so với mức 60% GDP trước khủng hoảng tài chính và ước tính sẽ còn tăng nữa trong vài năm tới. Đồng USD mất giá so với tất cả 16 ngoại tệ lớn trong rổ tiền tệ vào năm ngoái và hiện sụt giảm 7% so với euro kể từ đầu năm 2011 đến nay. “Tôi nghĩ rằng khủng hoảng tiền tệ sẽ diễn biến xấu hơn vào mùa thu năm nay, và nghiêm trọng hơn vào năm 2013”, Roger nói. Ông Rogers cũng cho biết thêm, hàng hóa đang tồn tại “bong bóng khổng lồ”, nhưng bong bóng vẫn sẽ duy trì rất lâu. Ông kiến nghị trong thời gian ngắn nên cảnh giác với vàng. “Đừng đầu tư tất cả số tiền vào USD. Nếu mỗi cá nhân đều không đánh giá tốt về nó, bao gồm cả tôi, thì đồng USD đã đến thời cơ tăng giá. Chỉ cần nó tăng, tôi sẽ bán tháo toàn bộ số USD này, đem tiền đầu tư vào loại tiền tệ khác”. Ông dự đoán, trong vài năm tới, đồng Nhân dân tệ sẽ đi lên, “cho dù không có nhân tố người thao túng, tỷ giá đồng Nhân dân tệ vẫn luôn quá thấp”. Ông vẫn coi trọng tiền tệ của một số quốc gia theo mô hình tài nguyên chẳng hạn như Canada và Úc. Ngoài ra, ông Rogers cũng cảnh báo thêm, “thị trường trái phiếu Mỹ đã tăng giá 30 năm qua. Theo quan điểm của tôi, xu hướng này sắp kết thúc”. Roger chỉ mua trái phiếu chính phủ bởi vì 95% thị trường kỳ vọng loại trái phiếu này sẽ giảm. Cũng theo ông Rogers, việc cung ứng hàng hóa bao gồm thực phẩm, dầu mỏ và khoáng sản sẽ tiếp tục sụt giảm, cộng thêm nhu cầu của các nền kinh tế mới nổi tăng sẽ tiếp tục thúc đẩy giá hàng hóa trước năm 2018 - 2020 sẽ từ từ đi lên. Ông đự đoán, trong 10 năm tới, vàng sẽ tăng dần theo tình hình tích cực của thị trường cổ phiếu, nhưng do tất cả các loại tiền tệ mất giá, nên giá cả các loại tài sản cũng sẽ tăng lên. Theo Reuters Tin dịch ========================================= Mùa thu năm nay tương ứng với tháng 8 Việt lịch mà "Lời tiên tri 2011 " đã xác đinh. Như vậy, cho thấy dù xuất phát từ hai phương pháp khác nhau, nhưng cùng có một kết quả. Một của Lý học Đông phương và một của nhà kinh tế hàng đầu thế giới. Nhưng có điều rằng: Nhà kinh tế hàng đầu của Hoa Kỳ đã nhận định sai. Khủng hoảng sẽ rất tồi tệ và là một hệ lụy lâu dài trên nền kinh tế toàn cầu, chứ không phải chỉ riêng năm 2013 là đỉnh điểm và sau đó là phát triển trở lại như ông ta nói. Đây là lời tiên tri của tôi dành riêng cho bài viết này. Xin để chứng nghiệm.1 like -
Câu hỏi bổ xung: “Chương 9: can chi tổng luận Âm dương thuận nghịch chi thuyết, “lạc thư” lưu hành chi dụng, kỳ lý tín hữu chi dã, kỳ pháp bất khả chấp nhất. Nguyên chú: Âm dương sinh tử, dương thuận âm nghịch, lý ấy phát xuất từ “lạc thư”. Ngũ hành lưu hành trong trời đất lấy đó mà làm dụng, tất nhiên cái lý ấy có thể tin được, còn như giáp mộc tử ở chi ngọ, ngọ hỏa tiết khí giáp mộc, lý lẻ tất nhiên là như thế, (7 -) nhưng ất mộc tử ở chi hợi, hợi tàng nhâm thủy sinh ất mộc tức con được mẹ sinh, hà cớ vì sao lại tử? Thế cho nên đại phàm luận đoán tứ trụ trước tiên phải nên am tường cái can chi khinh trọng, cái sinh ta và cái ta sinh ra sao, lý lẻ âm dương tiêu tức như thế nào sau đó mới có thể dự đoán họa phúc cát hung vận số. Bằng như cứ chấp nê vào cái thuyết sinh tử bại tuyệt, tất suy đoán sai lầm lớn vậy. Nhâm thị viết: Cái thuyết âm dương thuận nghịch, lý phát xuất từ “lạc thư”, hai cái khí này lưu hành trong trời đất làm dụng, chẳng qua dương khí tính hay tụ, nên lấy tiến làm thối, âm khí tính hay tán, nên lấy thối làm tiến. …………………………….. Như ngũ hành can dương sinh ra ở nơi sinh phương, thịnh ở bản phương, suy ở tiết phương, tuyệt nơi khắc phương, lý ấy tất nhiên là như vậy; còn ngũ hành can âm sinh ra ở tiết phương, tử ở sinh phương, lý ấy thật trái với tự nhiên vậy. Lại còn nói là “Đất tý ngọ cung không thể sinh kim sinh mộc; Đất hợi dần không thể diệt hỏa diệt mộc”. Cổ nhân thủ cách, đinh gặp dậu lấy tài luận, ất gặp ngọ, kỷ gặp dậu, thìn gặp tý, quý gặp mão lấy thực thần tiết khí luận, toàn không lấy trường sinh luận. Ất gặp hợi, quý gặp thân lấy ấn luận, không nên luận tử. Lại như kỷ gặp dần tàng can bính hỏa, tân gặp tỵ tàng can mậu thổ, cũng đồng ấn luận, không nên luận tử. ( 8-) Từ đó cho thấy, âm dương đồng sinh đồng tử là điều dể hiểu, bằng như cố chấp âm dương thuận nghịch, dương sinh âm tử, âm sinh dương tử lấy đó mà luận mệnh, rất có thể sai lầm lớn vậy. Cho nên, “chương Tri Mệnh” có nói “thuận nghịch chi cơ tu lý hội” là như vậy đó.“. Qua đoạn này tác giả (hình như là Từ Lạc Ngô) và người bình chú là Nhâm Thiết Tiều (tức Nhâm Thị) đã khẳng định Ất không thể ở trạng thái Tử trong bảng Sinh Vượng Tử Tuyệt được mà nó phải Ðồng Sinh Ðồng Tử với can Dương là Giáp, tức Ất cũng phải ở trạng thái Trường sinh như Giáp. Vậy thì theo bạn nội dung các câu 7 và 8 có đúng hay sai ? Vì sao ?1 like
-
Tuổi Đinh Tỵ 1977 mạng Sa Trung Thổ Tuổi Quý Hợi 1983 mạng Thiên THượng Hỏa Đây là cách tính theo Lạc Thư Hoa Giáp, ko phải cách tính của sách TQ hiện nay ngoài thị trường. nếu sinh con 2014, 2015 thì mạng mẹ khắc con, xấu. Các mạng khác trong Lạc Thư Hoa Giáp ko thay đổi, chỉ thay đổi 2 mạng Thủy - Hỏa thành Hỏa - Thủy.1 like
-
Đây là dấu hiệu điềm lành, phần âm động và chở che nhắc nhở chúng ta nên thường xuyên chăm sóc các cụ và huynh đệ.1 like
-
Cảm ơn anh Lãn Miên về bài viết. Từ rất lâu tôi đã xác định: "Chừng nào còn dạy học sinh Việt Nam "Thời Hùng Vương chỉ là liên minh 15 bộ lạc" với những người dân "Ở trần đóng khố" thì sẽ không bao giờ có một cuộc cải cách giáo dục thành công ở Việt Nam.1 like
-
Có mỗi một chữ A nặng Ạ Trẻ sơ sinh khóc ra tiếng đầu tiên là A. Người mẹ Việt Nam từ hàng vạn năm trước dù biết chữ, hay ở “vùng sâu vùng xa” không biết chữ, thì vẫn dạy cho con tiếng giao tiếp đầu tiên khi nó còn được ẵm trên tay, còn lâu mới bắt đầu biết tập nói, đã hiểu tiếng giao tiếp đầu tiên mẹ dạy là Ạ, tức A nặng Ạ. Đó là một tiếng giao tiếp vô cùng lễ phép “con ạ cụ đi, Ạ cụ Ạ !). Vậy mà chữ A ấy cũng là chữ đầu tiên trong bảng Anphabet của ngôn ngữ Latin, sau thành quốc tế, để tra từ điển. Nhưng A nặng Ạ của mẹ Việt Nam dạy con khi mới ra đời tiếng giao tiếp được biết đầu tiên là Ạ, nó hàm nghĩa lễ phép, hàm nghĩa đồng thuận, lại hàm nghĩa nhắc nhớ ơn, Mẹ là người “mang Nặng đẻ đau”, nên mới có “nặng Ạ” chứ không thì đã dùng dấu khác hay từ khác làm từ giao tiếp đầu tiên dạy trẻ sơ sinh rồi.Tiếc rằng bộ Giáo Dục Đào Tạo Việt Nam đã tốn công sức, thời gian và tiền bạc cho dự án hàng mấy năm trời, có mời cả cố vấn nước ngoài, để “cải cách sách giáo khoa tiếng Việt lớp Một” là “dạy bắt đầu bằng chữ E”. Từ Ạ ấy mới sinh ra những từ giao tiếp lễ phép khác nữa, rồi dần dần lớn lên nó mới thành các từ giao tiếp bỗ bã hơn để cho người lớn dùng với nhau, đều là nghĩa đồng thuận hay khẳng định. Tiến trình ấy là như sau: Ạ=Dạ=Dã 也=Nhá=Nhé=Nghe=À Nghe. Tiếng Nhật Bản dùng từ “Nhé” cũng đặt cuối câu và cũng nghĩa như vậy, mà họ phát âm cứng hơn chút là “Nê”, rồi nữa, Nê=Hề=Hầy=Hày ( có phải đúng là cái lõi giữa là Hề và Hầy thì nó đang dùng trong tiếng Việt, còn Nê và Hày thì vẫn đang dùng trong tiếng Nhật đấy thôi. Bởi vì người Việt Nam là dân Giữa Chỗ= Giao Chỉ, là trung tâm văn hóa của đại tộc Việt thời cổ đại, mà thời cổ đại ấy Giữa Chỗ = Giao Chỉ nó nằm ở nam sông Dương Tử). Cũng do tiếng giao tiếp lễ phép này của người Việt Nam mà có từ “Nho Nhã”, Nho là do QT vo cụm từ “Vuông Chữ Nho Nhỏ” thành còn lõi giữa là “Chữ Nho”, Vuông Chữ = Vựa Chữ = Văn Tự của người Việt chính là “Vuông Chữ Nho Nhỏ” = Chữ Nho, có chữ nho rồi học giả mới dùng chữ nho làm công cụ để tổng kết tư tưởng của người Việt thành một cái Đạo gọi là Đạo Nho, người tổng kết ấy là ông Khổng Tử. Có chữ Nho trước rồi mới có Đạo, gọi theo nó là Đạo Nho, cũng như nói “có thực mới vực được đạo”, phải có cái công cụ trước rồi nó mới thành đạo, con người ta phải làm cái việc tốt trước thì mới trở thành người tốt. Khi nêu Qui Tắc Tạo Từ Việt gọi tắt là QT, Tôi chưa từng biết xưa có ông Hứa Thận viết cuốn sách Thuyết Văn Giải Tự. Tình cờ đọc trên mạng, bắt gặp Mạng http://zh.wikipedia.org/wiki/說文解字 tôi mới được biết Hứa Thận ( Hứa Thận 許 慎 sinh năm 58, mất năm 147, người Nhữ Nam tỉnh Hà Nam Trung Quốc, thời Đông Hán có làm công chức, nổi danh “Ngũ Kinh vô song Hứa Thúc Trọng五 經 無 雙 許 叔 重”. Ông viết cuốn “Thuyết văn giải tự 說 文 解 字” trong vòng 21 năm, hoàn thành năm 100) được coi là người làm từ điển đầu tiên của Trung Quốc. Và đọc mới chỉ Lời nói đầu của Hứa Thận viết, ngắn có một trang, đã thấy rõ nhiều điều về Lạc Việt thời tiền sử. Đúng là nhờ đọc mạng, đúng như tôi đã dẫn theo QT là: Mẹ=Mẫu=Nhau=Máu=Mạng=Mắt=Bắt=Biết (có ngôn ngữ nào dẫn khái niệm ra được như vậy không?), nhờ có mạng internet tôi mới biết chứ không tôi cũng mù tịt. Văn Hứa Thận viết , Hán ngữ hiện đại phải dịch. Mỗi chữ Hứa Thận giải thích đều là bằng câu trả lời khẳng định bằng tiếng Ạ rất lễ phép như của học trò vậy (mặc dù ông ấy đang là thầy dạy cho người ta biết cách đọc đúng chữ nho, mà hóa ra hầu hết toàn là âm Việt như người Việt Nam nói ngày nay. Vậy mà gần hai ngàn năm sau học giả Đào Duy Anh của Việt Nam lại nói: “Từ Hán Việt là do các ông đồ Việt Nam chọn ra khoảng hơn hai trăm cái âm Việt Nam để dùng đọc chữ Hán cho dễ phát âm” ). Ví dụ trong sách Hứa Thận giải thích nghĩa chữ và hướng dẫn cách phát âm đúng khi đọc như sau: -(Chữ Việt 越 nghĩa là gì?) - Đò 度 Ạ 也 ! (nguyên văn Độ 度 Dã 也 ! -( Đọc như thế nào? ) - Vương 王 Phiệ 伐 =(thiết)= Việt 越 ( Rõ ràng là thời cách nay gần 2000 năm, Hứa Thận ở Hà Nam thuộc Trung Nguyên mà phát âm thì như người Việt Nam vẫn nói ngày nay. QT “lướt” tôi nêu, không biết để hẹn mà lại gặp, cũng trùng hợp với qui tắc “thiết” của Hứa Thận. Bởi vì dẫn theo QT thì Lưỡi=Liền=Liếm=Lát=Lướt=Lướt-Thướt=Thiết, một lát cắt thì nó cũng liền ngọt như tà áo dài lướt -thướt hay như một “thiết diện” của Hán ngữ, nghĩa là liền thành một tiếng. Hán ngữ mà theo cách đọc “thiết” như Hứa Thận hướng dẫn thì sẽ đọc như sau: Váng 王 Fá 伐=(thiết)=Vá, trật, sao thành Việt được, đó là nếu cách nay 2000 năm, còn ngày nay Hán ngữ hiện đại đọc Việt là “Yuê”, cũng trật nốt. Việt nghĩa là Đò thì đúng quá còn gì, người Việt đã đò qua sông Trường Giang để khai thá vùng Trung Nguyên thời cổ đại. -(Chữ Thương 商 nghĩa là gì?) - Cùng 從 ngoài 外 biết 知 trong 內 Ạ 也 ! (nguyên văn Tùng 從 Ngoại 外 Tr i知 Nội 內 Dã也 !). Đúng là như vậy Thương 傷là “nhìn ngoài biết trong”, mẹ thương con chỉ nhìn ngoài mà biết con đói hay nó hay thèm cái gì. Thương 商 nhân thì cũng là nhìn ngoài (chợ) mà biết trong (nhà) phải làm gì để đem ra bán. Cả hai chữ Thương 傷,商 ấy đều là của người Việt Nam, vì nó là do “Thấy thấu Xương”=(lướt)=“Thương” - (Đọc như thế nào?) - Thí 式 Dương 陽=(thiết)= Thương ( QT “lướt” của tôi nêu là “nghĩa”= “nghĩa” nên không còn cần giải thích, vì như “Thấy thấu Xương” thì nó đã chính bằng “Thương” rồi. Qui tắc “thiết”của Hứa Thận là chỉ để hướng dẫn đọc đúng âm, mươn hai chữ lấy âm để “thiết”, là chỉ mượn âm chữ, đừng để ý đến nghĩa hai chữ đó, nghĩa thì phải theo phần giải thích, tức phần trà lời cho câu (Chữ… nghĩa là gì?), thực ra câu này không có, nên tôi để trong ngoặc đơn. Cứ vậy mà tra từng chữ theo Hứa Thận giải nghĩa và hướng dẫn đọc thì vô cùng nhiều, và toàn là Việt cả, cả nghĩa lần âm đọc. Nên chi chỉ đọc vài đoạn trong Lời nói đầu cúa sách Hứa Thận, cũng đã thấy lấp lóe lịch sử Việt ( Phần trong ngoặc đơn là tôi phân tích tại chỗ ngay, để bạn đọc dễ theo dõi) : Thời cổ đại, họ Phục Hy trị lý thiên hạ, nhìn hình trời, coi địa lý, quan sát hình tượng chim thú và mạch lý đất đai, gần thì lấy phép tự thân, xa thi lấy ở vật khác, trên cơ sở đó mà sáng tác ra Dịch và Bát Quái, dùng bói tượng để coi cát hung của người. Đến thời đại họ Thần Nông, dùng cách thắt gút dây thừng để ghi sự việc nhằm trị lý xã hội, quản lý sự vụ đương thời, các ngành nghề trong xã hội và các sự việc phức tạp càng ngày càng nhiều, phát sinh nhiều việc chưa rõ ràng…Khi đã sáng tạo ra chữ viêt, Vua sử dụng công cụ văn tự để càng tiện ban ơn trạch cho dân, còn thần dân thì dùng chữ để mà biết sống cho có đức chứ không phải tự thị rằng biết dùng công cụ là chữ rồi thì dựa nó để mà kiếm chác tước lộc. Chữ tạo ra thuở ban sơ là dựa vào vật mà vẽ ra hình thể vì vậy gọi là “văn” ( Kẻ=Vẽ=Viết=Văn. Đúng là có động tay làm trước rồi nó mới ra hình), sau đó mới xuất hiện các hợp thể là chữ “hội ý”, chữ “hình thanh” để tăng số lượng chữ, những thể sau đó thì gọi là “tự”. Gọi là “tự” vì nó được sinh ra ở “văn” ( Vuông=Vựa=Văn; Chửa=Chứa=Chữ=Trữ=Trự=Tự. Đúng là có cái vật để chứa là cái Vựa=Văn rồi thì mới có vật cần chứa ở trong nó là cái đang được Chửa, mà Chửa=Chữ=Tự, người ta còn đi cầu Tự để mong có con, Chửa chính là chỉ cái thai, còn người mẹ đang “mang thai” thì gọi là đang “có Chửa”, tức đang “có Tự” hay là đang tự có, những chữ “Tự” này viết khác nhau nhưng cái âm Việt thì vẫn giữ nguyên từ 5000 năm trước như vậy,Tự là do Chửa=Chữ=Tự là cái Chồi để làm ra con Người, nên con người là do cái Tế lớn dần dần lên mà sinh ra, sinh ra rồi ai cũng có cái Tên là một Từ gọi lên thành một Tiếng và kèm theo là Tự được viết bẵng Chữ. Và có Vựa rồi mới có vật Chứa ở trong tức Chửa chứ không phải là “mất bò rồi mới lo làm chuồng”, Vuông=Chuồng=Chứa=Vựa=Văn. Cái Vuông Chứa chính là Vựa Chữ, mà Vựa Chữ=Văn Tự, chữ vuông cũng chính là chữ của người Việt ! dù về sau được người Hán kế thừa, đổi hành văn theo ngữ pháp Hán vì vậy gọi nó là Hán Tự. Hành văn trong sách Thuyết Văn GiảiTự của Hứa Thận viết năm 100, cách nay gần hai ngàn năm, như trong phần “ Lời nói đầu” này, Hán ngữ hiện đại phải “dịch” mới ra, gọi là dịch từ cổ văn, vì chữ thì vẫn vậy nhưng hành văn thì không hoàn toàn như ngữ pháp Hán ngữ hiện đại. Nhưng trong sách này Hứa Thận còn nói đến cái còn “Cổ Văn” hơn, đó là “thứ chữ trong vách nhà Khổng Tử mà thời đó chỉ có Khổng Tử và các học sĩ của Khổng Tử là mới đọc hiểu được mà thôi”. Mà đời sau, tức đương thời của Hứa Thận, Hứa Thận còn nói trong sách này rằng: “Lắm kẻ ngu muội chẳng hiểu gì còn nói rằng thứ chữ đó chẳng qua là do các học sĩ của Khổng Tử ngụy tạo ra mà thôi , để làm cho các sách Kinh, do Khổng Tử biên soạn, mang vẻ huyền bí”). Đem văn tự viết trên ống tre ( vậy thời cổ đại kẻ sáng tạo ra chữ phải là của cư dân Việt ở phương nam mới có tre lớn chứ ở bắc Hoàng Hà của người Hán làm gì có tre?), viết trên lụa, gọi là “Thư”. Thư nghĩa là viết việc giống như sự của nó. Văn tự trải qua những năm tháng dài thời Ngũ Đế, Tam Vương có sửa đổi bút họa: Có tạo thêm dị thể, vì vậy tại 72 đời Vua tế thiên phong thiền ở Thái Sơn có lưu chữ khắc trên đá, thể chữ đều không giống nhau. Thời Xuân Thu sách Kinh do Khổng Tử soạn, rồi sách Tả Truyện do được tặng đều viết bằng Cổ Văn. Các học giả thời đó vẫn thông hiểu hình thể và ý nghĩa của Cổ Văn. Về sau đến thời Chiến Quốc thì cục diện là bảy nước hùng cứ các phương, đơn vị đo đạc đồng điền khác nhau, qui cách xe cộ cũng khác nhau, chế độ pháp lệnh khác nhau, quần áo mũ mão cũng qui định khác nhau, lời nói cũng phương âm khác nhau, chữ viết cũng khác nhau. ( Bởi vậy đến tận ngày nay Trung Quốc vẫn tồn tại bảy phương ngữ lớn khác biệt nhau, đủ thấy “ngàn năm bia miệng vẫn còn trơ trơ”). Lỗ Cống Vương 鲁 恭 王khi phá hủy nhà Không Tử, vô ý lấy được các cổ tịch. Cùng thời, một số quận huyện và nước chư hầu cũng khai quật được từ dưới đất lên rất nhiều bảo đỉnh và khí vật đời xưa, minh văn trên đó đều là Cổ Văn đời trước. Những tư liệu Cổ Văn đó đều tương tự nhau, tuy nói rằng không thể tái hiện được toàn mạo, nhưng cũng cho biết được đại khái tình trạng lưu hành rộng rãi Cổ Văn thời Tiên Tần. Người đời không biết, cực lực phủ định, thị hủy Cổ Văn, cho rằng Cổ Văn này là do người hiếu kỳ cố ý cải biên văn tự hiện hành mà viết ra, bịa ra chuyện đào được trong vách nhà Khổng Tử, ngụy tạo ra thứ chữ không thể đọc hiểu nổi; cho rằng Cổ Văn là ngụy biến chính tự, quấy loạn thường qui; cho rằng những người ủng hộ Cổ Văn đã mượn đó để làm cho có vẻ huyền diệu ở đời. Tần Thủy Hoàng tiêu diệt lục quốc, muốn thống nhất thành một chế độ, phế bỏ mọi văn tự không giống chữ của nước Tần . Lý Tư 李 斯 được cử ra phụ trách qui phạm văn tự. Bọn họ đều dùng thể chữ Đại Triện, có một số chữ bị giản hóa và sửa đổi thành ra thể chữ mà người ta gọi là Tiểu Triện. Lúc này Tần Thủy Hoàng đốt hết Kinh Thư, trừ diệt cổ tịch… thế là sản sinh ra Lệ Thư làm cho cách viết giản dị hơn, thể chữ Cổ Văn từ đó bị đình tuyệt. Pháp lệnh nhà Hán qui định học sinh sau 17 tuổi được bắt đầu ứng khảo, người thuộc lòng viết đọc thông thạo 9 nghìn Hán tự thì mới được làm Thư sử tiểu lại. Tiếp đó thi thư pháp cả 8 thể chữ. Sau khi thi ở quận xong chuyển lên trung ương, thái sử lệnh tái khảo thí. Người đạt thành tích tối ưu thì được làm thư ký Sở khu mật, công văn của quan sứ, Tần chương, văn tự mà viết không chính xác thì bị kiểm cử, trách phạt. Điều lệnh ấy đến nay tuy vẫn tồn tại nhưng khảo hạch thì bỏ, công phu với văn tự không được giảng tập nên hiện tượng sĩ tử không thông Hán tự xuất hiện kể cũng lâu rồi….1 like
-
Tư Vấn Chữ Ký
Omega liked a post in a topic by Học Trò
Chữ ký ko nên móc nghéo xoáy ốc ngay từ đầu như thế, chẳng khác nào vừa bước vào việc đã gặp sự vòng vo cần gỡ rối. Nét bút nên đều, không nên mờ tỏ như vậy, Nét gạch cũng nên gạch 1 nét cho dứt điểm.Tựu chung, chữ ký to như vậy là đủ rồi, nhưng tổng quan nét chữ ký chưa cho thấy sự bền vững trong sự nghiệp và có thể phải làm lại cuộc đời ít nhất 1 lần. Lá số cũng cho thấy điều như thế. Nét chữ, nét người. Quý anh tự biết chữ xấu quá thì nên dần sửa chữa. Xét lá số, năm nay tuy gặp nhiều sóng gió nhưng vẫn vững tay chèo, năm sau không bị suy sụp về kinh tế thì cũng bị suy sụp về tình cảm vợ chồng con cái.1 like -
Bài 7 : Thiên địa nhân của tứ trụ Chương 6 Thiên địa nhân của tứ trụ I – Thiên địa nhân Các Can và Chi trong tứ trụ tượng trưng cho khí âm dương của ngũ hành của trời và đất. Thiên tức là thiên can chủ về trời, là Thiên nguyên (tức là các nguyên nhân này do ông trời quyết định – tức bởi 10 vật thể lớn nhất trong hệ mặt trời gây ra). Chúng chính là các can đã lộ ra trong tứ trụ của từng người. Địa tức là địa chi chủ về xã hội mà con người đang sống trên mặt đất, là Địa nguyên. Nhân tức là con người được tạo ra trong trời và đất, do vậy trong mỗi địa chi của tứ trụ có chứa từ 1 đến 3 can, đó chính là các thần đặc trưng cho khả năng chủ quan của người có tứ trụ, là Nhân nguyên. Sự dự đoán tổng hợp của tam nguyên (Thiên Địa Nhân) là một thể thống nhất trong mệnh lý học, nó có một ý nghĩa vô cùng quan trọng bởi vì nó có thể chỉ ra toàn bộ tiền đồ, cát, hung, họa, phúc ....của cả một đời người. Nếu kết hợp tứ trụ với tướng tay và tướng mặt để dự đoán thì điều dự đoán có thể đạt đến sự chính xác, chi tiết đến kỳ diệu. II – Thiên nguyên Thiên nguyên trong tứ trụ chính là các can của trụ năm, tháng và giờ, đó là ba thần. Đối với tứ trụ có một tổ hợp trong sáng và đẹp thì ba thần này thường sẽ là : Thực hay Thương sinh Tài, Tài sinh Quan hoặc Sát, Quan hay Sát sinh Ấn, Thực thần chế Sát, Thương quan hợp Sát, Thương quan hoặc Thực thần mang Ấn, Tài Quan Ấn đều có... Những tổ hợp này thường là các yếu tố báo hiệu những mệnh phú quý. 1 – Ngũ hợp của thiên can Vì các thiên can là khí của ngũ hành nên chúng có hai tính chất tương sinh và tương khắc với nhau (như đã nói ở trên) ngoài ra chúng còn có các tính chất hợp và biến đổi để tạo ra các hóa cục. Thiên can chỉ có thể hợp với nhau khi chúng ở gần nhau. Gần ở đây có nghĩa là can trụ năm với can trụ tháng, can trụ tháng với can trụ ngày, can trụ ngày với can trụ giờ, các can trong tứ trụ với can đại vận và lưu niên, can đại vận và can lưu niên với can tiểu vận. 2 – Tính chất của ngũ hợp Giáp hợp với Kỷ, tức là hợp với người hay sự việc là sự hợp trung chính. Ất hợp với Canh, tức là hợp với người hay sự việc là hợp nhân nghĩa. Bính hợp với Tân, tức là hợp với người hay sự việc là sự hợp có uy lực để chế ngự. Đinh hợp với Nhâm, tức là hợp với người hay sự việc là sự hợp dâm loạn. Mậu hợp với Quý, tức là hợp với người hay sự việc là sự hợp vô tình. 5 tổ hợp này được gọi là ngũ hợp. 3 - Thiên can hợp với nhau có thể hóa cục Giáp hợp với Kỷ có thể hóa được thành Thổ. Ất hợp với Canh có thể hóa được thành Kim. Bính hợp với Tân có thể hóa được thành Thủy. Đinh hợp với Nhâm có thể hóa được thành Mộc. Mậu hợp với Quý có thể hóa được thành Hỏa. Các hóa cục này có khả năng sinh, phù hay khắc chế Thân. 4 – Quy tắc hợp và hóa của các thiên can trong tứ trụ Các thiên can trong tứ trụ hợp được với nhau chỉ khi chúng ở gần nhau. Cần phân biệt hai trường hợp, các can hợp với nhau hóa được hay chỉ hợp mà không hóa. a – Can ngày chỉ hợp được với can tháng và can giờ. Nếu can ngày chỉ hợp với can tháng hay can giờ thì chúng không thể hóa được cục nếu trong tứ trụ xuất hiện hành quan-sát của hóa cục này (nghĩa là hành khắc hành của hóa cục này, kể cả hành quan-sát này chỉ có các can tàng phụ (?)) mặc dù có hành của chi tháng hay hành của hóa cục của chi tháng là hành dẫn hóa, còn nếu 2 can hợp với 1 can thì ngũ hợp này không bao giờ có thể hóa được cục. b – Ngũ hợp của can trụ năm với can trụ tháng có thể hóa cục chỉ khi hành của chi tháng hay hành hóa cục của chi tháng là hành dẫn hóa hay còn được gọi là thần dẫn (nó giống như chất xúc tác trong các phản ứng hóa học). Ví dụ : Mậu ở trụ năm hợp với Quý ở trụ tháng hóa thành Hỏa cục chỉ khi chi tháng (chi của trụ tháng) là Tị, Ngọ (vì hành của Tị và Ngọ là Hỏa) hay chi tháng đã hóa thành Hỏa cục, vì vậy các chi Tị, Ngọ hay Hỏa cục ở chi của trụ tháng được gọi là các thần dẫn cho các hóa cục của các thiên can. 5 – Quy tắc hợp và hóa của các can giữa tứ trụ, tuế vận và tiểu vận a – Ngũ hợp chỉ có 2 can 1 - Ngũ hợp của các can trong tứ trụ (kể cả can ngày bởi vì khi nó hợp với tuế vận, nó được xem như các can khác và nó không làm cho hành của Thân thay đổi khi nó hóa thành các hành khác nếu hành của Thân chỉ có can ngày) với can đại vận hóa cục chỉ khi hành của chi tháng hay chi đại vận (mặc dù các chi này đã hóa cục có hành khác với hành của các chi này) cũng như hành của hóa cục của chi tháng hay chi đại vận (nếu chúng hóa cục) có khả năng dẫn hóa cho ngũ hợp này (nghĩa là hành của thần dẫn giống với hành của ngũ hợp này). 2 - Ngũ hợp của can trong tứ trụ với can lưu niên hóa cục...nó tương tự như câu trên khi thay đại vận thành lưu niên, chỉ có khác là hành của chi lưu niên cũng có khả năng dẫn hóa nếu chi lưu niên là động (khi nó bị xung, khắc hay hợp hóa cục hay không hóa cục bởi các chi khác). 3 – Ngũ hợp của can đại vận với can tiểu vận hóa cục.... nó tương tự như can trong tứ trụ hợp với can đại vận nhưng có thêm chi tiểu vận (nghĩa là hành của chi tiểu vận) cũng có khả năng dẫn hóa như chi đại vận nếu nó là động (tức là nó bị xung, khắc hay hợp hóa cục hay không hóa cục bởi các chi khác). 4 - Can lưu niên hợp với can tiểu vận hóa cục tương tự như can trong tứ trụ hợp với can lưu niên hóa cục nhưng có thêm chi tiểu vận cũng có khả năng dẫn hóa như chi đại vận nếu nó là đông (tức là nó bị xung, khắc hay hợp hóa cục hay không hóa cục bởi các chi khác. 5 – Can đại vận hợp với can lưu niên hóa cục chỉ khi hành của các chi trụ tháng, đại vận hay lưu niên (riêng chi lưu niên phải động) cũng như hóa cục của các chi này (nếu chúng hóa cục) là thần dẫn. b – Ngũ hợp có từ 3 can trở lên Các ngũ hợp này được gọi là tranh hợp nên chúng không có khả năng hóa cục. Do vậy các can của chúng luôn luôn khắc nhau nếu là tranh hợp giả và không khắc được nhau nếu là tranh hợp thật. 1 - Tranh hợp thật của thiên can chỉ xẩy ra khi có 2 can giống nhau có hành là chủ khắc ở tuế vận hợp với can tiểu vận hay hợp với 1 hay nhiều can giống nhau trong tứ trụ hoặc hợp với can tiểu vận và các can giống với can tiểu vận ở trong Tứ Trụ. 2 - 2 can là chủ khắc giống nhau ở trong tứ trụ hợp với 1 can của tuế vận hay 2 can của tuế vận nếu chúng giống nhau. Giải thích về tranh hợp thật của thiên can giống như tranh hợp thật của địa chi (xem phía dưới). Khi các thiên can hợp với nhau hóa cục có hành mới thì ta phải lấy hành mới này để luận, như vậy thì hành cũ của các can trong hóa cục này đã hoàn toàn mất đi tác dụng của chúng, còn nếu chúng hợp với nhau mà không hóa thì chỉ có các can trong tổ hợp mới có khả năng tác dụng được với nhau nhưng chúng không có khả năng tác dụng với các can khác ngoài tổ hợp này (trừ các chi cùng trụ với chúng sẽ nói sau). III - Địa nguyên Các địa chi trong tứ trụ là địa nguyên. Địa nguyên đại diện cho xã hội của con người nên rất phức tạp. Đủ thứ phát sinh trong cái xã hội này, như đâm, chém, giết nhau... người ta gọi là xung, khắc. Tụ tập thành từng nhóm, từng hội thành các đảng phái, tôn giáo... khác nhau người ta gọi là hội, hợp. Người này lừa đảo, hãm hại người kia người ta gọi là hình, hại. Tự mình làm khổ mình người ta gọi là tự hình,…..Sự hình, xung, khắc, hại, hội và hợp của các địa chi có ảnh hưởng rất lớn đối với Thân. Giữa các địa chi với nhau các sách cổ chỉ nói đến hình, xung, khắc, hóa, hội, hợp và hại mà không nói đến sự tương sinh (phải chăng địa chi không có khả năng sinh cho nhau (?)). Tôi đã chứng minh được thiên can và địa chi trong cùng trụ có thể sinh cho nhau và một ví dụ có thể chứng minh được các thiên can cũng có thể sinh được cho nhau (?) (xem ví dụ số 148). 1 - Lục hợp của địa chi Tý....hợp với Sửu có thể hóa thành Thổ cục. Ngọ...........Mùi..................Thổ cục. Dần...........Hợi..................Mộc cục. Mão...........Tuất.................Hỏa cục. Thìn..........Dậu..................Kim cục. Tị............Thân.................Thủy cục. Sáu tổ hợp trên được gọi là lục hợp chỉ có khi các chi của chúng ở gần nhau (gần của địa chi tương tự như gần của thiên can). Lục hợp chủ yếu đại diện cho quan hệ vợ chồng hay giữa nam với nữ. 2 – Tam hợp của địa chi Thân Tý Thìn hợp với nhau có thể hóa thành Thủy cục. Hợi..Mão Mùi ..........................................Mộc cục. Dần..Ngọ Tuất..........................................Hỏa cục. Tị..Dậu Sửu............................................Kim cục. Tam hợp không cần các chi của chúng phải gần nhau. Tam hợp chủ yếu đại diện cho các tổ chức, đoàn thể, đảng phái chính trị.... 3 - Các bán hợp của địa chi Thân bán hợp với Tý hay Tý bán hợp với Thìn có thể hóa thành Thủy cục. Hợi......................Mão hay Mão............Mùi.......................Mộc cục. Dần......................Ngọ hay Ngọ............Tuất......................Hỏa cục. Tị.........................Dậu hay Dậu............Sửu.......................Kim cục. Bán hợp chỉ có khi các chi của chúng ở gần nhau. Bán hợp chủ yếu đại diện cho các tổ chức nhỏ phi chính trị. Trong tứ trụ có lục hợp, tam hợp hay bán hợp là chủ về người đó có dung nhan đẹp, tính cách thanh lịch, thần khí ổn định, yêu cuộc sống, lòng dạ thẳng thắn, linh lợi, thông minh hoạt bát (xét về hợp). Nếu các tổ hợp này hóa thành (cục) hỷ dụng thần là tốt (trừ chúng gây ra Đại Chiến), còn hóa thành kỵ thần là xấu (xét về hành của hóa cục). 4 – Tam hội của địa chi Tam hội của Dần Mão Thìn..về phương Đông có thể hóa thành Mộc cục. Tam.............Tị Ngọ Mùi....về phương nam..có thể hóa thành Hỏa cục. Tam.............Thân Dậu Tuất.về phương Tây..có thể hóa thành Kim cục. Tam.............Hợi Tý Sửu....về phương Bắc..có thể hóa thành Thủy cục. Tam hội không cần các chi của chúng phải gần nhau. Tam hội chủ yếu đại diện cho các tổ chức tôn giáo. Vì khí của tam hội cục sẽ hội tụ về một phương (tôn thờ một vị thánh), cho nên khí âm dương ngũ hành của nó là vượng nhất, sau đó mới đến tam hợp, bán hợp rồi mới đến lục hợp. Các sách cổ thường nói trong tứ trụ có từ 3 tổ hợp trở lên thường là người có tài đối với nam, còn là dâm loạn đối với nữ (thời nay câu này là sai với nữ). 5 - Lục xung của địa chi Tý....với..Ngọ...là tương xung Mão........Dậu................ Dần........Thân............... Tị...........Hợi................ Thìn.......Tuất............... Sửu.........Mùi................ Trong đó: Tý với Ngọ, Tị với Hợi là sự xung-khắc của Thủy với Hỏa. Dần với Thân, Mão với Dậu là sự xung-khắc của Kim với Mộc. Duy chỉ có thìn với Tuất và Sửu với Mùi là giống nhau về hành, vì vậy chỉ nói đến xung không nói đến khắc. Trong đó: Các lực xung-khắc của Tý với Ngọ và Dậu với Mão là các lực xung-khắc mạnh nhất, vì chúng đại diện cho các lực xung-khắc chính phương là Đông (Mão) với Tây (Dậu) và Nam (Ngọ) với Bắc (Tý). Sau đó mới đến lực xung-khắc của Dần với Thân và Tị với Hợi vì phương xung-khắc của nó không đúng chính phương, cuối cùng mới là lực xung của Thìn với Tuất và Sửu với Mùi. 6 – Tương hại của địa chi a - Tý.....và...Mùi...hại với nhau, tức là Tý....hại...Mùi, .Mùi...hại...Tý b - Sửu...............Ngọ........................Sửu.........Ngọ, .Ngọ.........Sửu c - Dần.................Tị...........................Dần...........Tị,.....Tị..........Dần d - Mão................Thìn.......................Mão.........Thìn, Thìn........Mão e - Thân...............Hợi........................Thân........Hợi,..Hợi.........Thân f - Dậu.................Tuất.......................Dậu ........Tuất,.Tuất........Dậu Lục hại trên được sinh ra từ lục hợp : Ví dụ 1: Lục hợp (gia đình) của Ngọ với Sửu bị phá tan khi có Tý đến xung Ngọ, vì vậy Tý đã hại Mùi (làm cho gia đình của Ngọ với Mùi bị tan vỡ). Ví dụ 2 : Lục hợp của Tý với Sửu có thể bị phá tan khi có Mùi đến xung Sửu, vì vậy Mùi đã hại Tý (làm cho gia đình của Tý với Sửu có thể bị tan vỡ)..... Người gặp các hại trên, sợ nhất ở trụ ngày và trụ giờ. Thường đối với người như vậy thì về già hay bị tàn tật hoặc không có nơi nương tựa. Nếu còn gặp Kình dương thì không chúng phải mũi tên, hòn đạn cũng dễ gặp phải hổ (?). Hình, tự hình và hại nói chung là xấu nhưng nếu bị hợp hóa cục, hoặc bị khắc có thể giải được, còn bị xung (kể cả thổ) thì chỉ giảm đi một phần. 7 – Tương hình của địa chi Tý hình Mão, Mão hình Tý là hình phạt do vô lễ mà dẫn đến. Dần hình Tị, Tị hình Thân, Thân hình Dần là hình phạt do đặc quuyền đặc lợi dẫn đến. Sửu hình Mùi, Mùi hình Tuất, Tuất hình Sửu là hình phạt do cậy quyền cậy thế gây lên . Tương hình chủ yếu được gây ra từ tam hợp, nó nghĩa là những người trong cùng hay khác các đoàn thể, đảng phái chính trị lừa đảo, hãm hại nhau. 8 - Tự hình của địa chi Thìn tự hình Thìn, Dậu tự hình Dậu, Ngọ tự hình Ngọ, Hợi tự hình Hợi là do tự mình gây lên. Các sách cổ có viết: “Tự hình sợ nhất là năm và tháng lại có thêm sát thì nhất định bị tổn thương, hoặc không bị giam cầm thì cũng bị chết cháy, hay gặp nạn binh đao mất đầu “. 9 - Tứ hình của địa chi Thìn, Ngọ, Dậu, Hợi được gọi là tứ hình. Trong tứ trụ phải có ít nhất 3 chi khác nhau của tứ hình và đến năm có thái tuế là chi thứ 4 thiếu thì tứ hình này mới được coi là xấu, còn ngoài ra cho dù tứ trụ với tuế vận có đủ tứ hình cũng không có tác dụng gì cả. 10 - Tứ trự hình của địa chi Tứ Tự Hình là phải có ít nhất 4 chi giống nhau của Tự Hình là Thìn, Dậu, Ngọ hay Hợi. (Cách giải cứu cho tất cả các loại hình, tự hình và hại này là giống nhau.) 11 – Quy tắc hợp và hóa của các địa chi trong tứ trụ Ta gọi các tổ hợp của các can chi trong tứ trụ chưa có tuế vận vẫn hóa được cục là hóa cục có từ khi mới sinh. a - Các bán hợp hay lục hợp của các địa chi trong tứ trụ hợp được với nhau chỉ khi 2 chi này phải ở gần nhau trong tứ trụ, trừ tam hợp và tam hội. Các bán hợp, lục hợp, tam hợp hay tam hội hóa thành cục chỉ khi trong tứ trụ hay ở tuế vận có thần dẫn. Các thần dẫn cho các tổ hợp của các địa chi hóa cục chính là các can lộ trong tứ trụ hay ở tuế vận cũng như các hóa cục của thiên can có hành giống với hành của hóa cục mà các tổ hợp của các địa chi đó sẽ hóa thành (chú ý can tiểu vận chỉ dẫn hóa được cho tổ hợp của chi tiểu vận). Ví dụ: Trong tứ trụ có Tý trụ năm và Sửu trụ tháng ở gần nhau, vì vậy chúng có thể hợp được với nhau và tổ hợp này được gọi là lục hợp, nhưng lục hợp này hóa được Thổ cục chỉ khi có thần dẫn là các can lộ xuất hiện trong tứ trụ hay ở tuế vận như Mậu, Kỷ hoặc các Thổ cục của các can (nếu gặp Tý hay Sửu ở tuế vận thì Thổ cục này được xem là mạnh hơn). b - Nếu bán hợp hay lục hợp có 3 chi liền nhau mà 2 chi bên ngoài giống nhau hợp với chi ở giữa thì được coi là tranh hợp nên không thể hóa cục được (trừ khi 1 liên kết của chúng bị phá). c - Nếu bán hợp hay lục hợp có 3 chi liền nhau trong đó 2 có chi liền nhau là giống nhau thì chỉ có chi ở gần chi thứ 3 mới có thể hợp với nó và hóa cục. 12 – Quy tắc hợp và hóa giữa các địa chi giữa Tứ Trụ với tuế vận và tiểu vận a - Tất cả các tổ hợp của các địa chi giữa tứ trụ, tuế vận và tiểu vận có thể hợp được với nhau và hóa cục nếu có thần dẫn. b – Các chi trong tứ trụ hợp với chi đại vận hay thái tuế (được xem như hợp gần) nhưng chúng không thể hợp trực tiếp được với chi tiểu vận. c – Chi tiểu vận chỉ hợp được với chi đại vận và thái tuế (cũng được xem là hợp gần) hay nó cùng với các chi giống nó ở trong tứ trụ hợp với các chi tuế vận thì can tiểu vận cũng có thể làm thần dẫn cho tổ hợp này hóa cục, nhưng chi tiểu vận không thể hợp trực tiếp được với các chi trong tứ trụ. f – Địa chi tranh hợp thật : 1 - Nếu chỉ có 2 chi giống nhau mang hành chủ khắc cùng ở trong tứ trụ hợp với chi đại vận hay thái tuế hoặc hợp với cả chi đại vận và thái tuế (nếu chúng giống nhau) thì tổ hợp này được gọi là tranh hợp thật nên chúng không thể hóa được cục. 2 – Nếu chi đại vận và thái tuế giống nhau có hành là chủ khắc hợp với chi tiểu vận hay hợp với một hay với nhiều chi giống nhau trong Tứ Trụ cũng như hợp với chi tiểu vận và các chi trong Tứ Trụ giống với chi tiểu vận thì tổ hợp này cũng được gọi là tranh hợp thật nên nó cũng không thể hóa được cục. Giải thích : Nếu trong tứ trụ có 2 Thìn hợp với Tý ở đại vận hay thái tuế thì 2 Thìn là Thổ khắc được Tý là Thủy nên 2 Thìn mang hành chủ khắc, còn chi Tý mang hành bị khắc. Hiểu đơn giản như 2 ông làm sao lấy chung một bà bao giờ đâu. Nhưng 2 Tý trong tứ trụ hợp với Thìn ở đại vận hay Thìn thái tuế vẫn có thể hóa Thủy được (nếu có thần dẫn), vì thực tế có nhiều bà vẫn lấy chung 1 ông. Vì sao 2 chi chủ khắc này phải cùng ở tuế vận hay cùng ở trong Tứ Trụ ? Bởi vì chỉ có như vậy thì thế lực của chúng mới tương đương với nhau để cho cuộc chiến mới không phân thắng bại, chính vì vậy mà chúng mới không có thì giờ rảnh để hợp với cô gái kia hòng tạo ra được sản phẩm (hóa cục). 3 - Nếu 4 chi hợp với 1 chi, trong đó chỉ có 2 chi giống nhau ở trong tứ trụ hợp với chi ở đại vận hay thái tuế là tranh hợp thật thì tổ hợp của 5 chi này không hóa cục được (?) (ví dụ 155). 4 - Nếu có từ 3 chi giống nhau trở lên (trừ câu 2) là chủ khắc hợp với 1 hay nhiều chi giống nhau thì không phải là tranh hợp thật nên vẫn có thể hóa cục (?) (xem ví dụ 165). Giải thích : Bởi vì khi 2 thằng đàn ông đánh nhau thì thằng thứ 3 được tự do có thể “hợp” với cô gái đó..., vì vậy cả 3 thằng này đều có cơ hội để “hợp” được với cô gái đó tạo ra… (điều này khác với thiên can, vì người trần mắt thịt khác với các vị thần ở trên trời chăng ?) 13 - Thiên Khắc Địa Xung A - Thiên khắc địa xung Có 3 loại thiên khắc địa xung (TKĐX): 1 – TKĐK và TKĐX có chi không phải là Thổ. 2 – TKĐX có chi là Thổ. 3 – TKĐK* và TKĐX* có chi là Thìn và Tý chỉ khi các chi của chúng ở gần nhau. TKĐK là trong 1 trụ có cả can và chi đều là chủ khắc, còn TKĐX thì trong 1 trụ chỉ có can chủ khắc còn chi chỉ là chủ xung. B – Các can và chi là chủ xung hay chủ khắc 1 - Các can chủ khắc, nó nghĩa là can đó phải khắc được can khác như : Giáp....khắc...Mậu..............Ất......khắc....Kỷ Bính...............Canh.............Đinh............Tân Mậu................Nhâm.............Kỷ..............Quý Canh ..............Giáp.............Tân..............Ất Nhâm...............Bính.............Quý.............Đinh. 2 - Các chi chủ khắc, nó nghĩa là chi đó phải khắc được chi khác như: Tý.....khắc....Ngọ Dậu..............Mão Hợi...............Tị Thân..............Dần Thìn..............Tý 3 - Các chi chủ xung, nó nghĩa là chi đó chỉ xung được chi khác như : Ngọ....xung....Tý................Thìn....xung.....Tuất Mão...............Dậu...............Tuất.............Thìn Tị...................Hợi...............Sửu..............Mùi Dần...............Thân..............Mùi..............Sửu Tý...................Thìn. Ta thấy số trường hợp TKĐX nhiều hơn TKĐK, do vậy ở đây chúng ta gọi chung hai loại này là TKĐX và ở đây quy ước nói trụ nào trước cũng được vì lực của TKÐX được tính cả 2 chiều. Ví dụ : 1 - Trụ Giáp Tý TKĐK với trụ Mậu Ngọ bởi vì trụ Giáp Tý có Giáp khắc Mậu và Tý khắc Ngọ. 2 - Trụ Giáp Ngọ TKĐX với trụ Mậu Tý bởi vì trụ Giáp Ngọ chỉ có Giáp khắc Mậu còn Ngọ chỉ xung Tý. 3 - Trụ Giáp Thìn TKĐX với Mậu Tuất bởi vì trụ Giáp Thìn chỉ có Giáp khắc Mậu còn Thìn chỉ xung Tuất. 14 – Thời gian của các trụ trong tứ trụ mang vận hạn Trụ năm mang vận hạn từ khi mới sinh đến tròn 15 tuổi. Trụ tháng mang vận hạn từ 15 tuổi đến tròn 30 tuổi. Trụ ngày mang vận hạn từ 30 tuổi đến tròn 45 tuổi. Trụ giờ mang vận hạn từ 45 tuổi tới tròn 65 tuổi. Từ 65 tuổi trở đi trụ năm mang vận hạn (hay là ở cả 4 trụ ?). Nếu lưu niên và trụ đang mang vận hạn TKĐX với nhau thì điểm hạn của tất cả các lực xung hay khắc vào trụ này đều phải tăng gấp đôi, trừ can chủ khắc của nó ở lưu niên nhược ở tuế vận. Xem các giả thiết từ số 166/ tới 168/ ở chương 14. IV - Nhân nguyên Địa chi tàng chứa từ 1 đến 3 can, các can tàng này được gọi là Nhân nguyên (các nguyên nhân của người). Các can tàng này chính là 10 thần, là các thần nắm sự việc,.... chúng đại diện cho các yếu tố chủ quan của người có tứ trụ. Do vậy chúng ta rất khó dự đoán được các yếu tố này khi nào sẽ phát sinh và biểu hiện ra bên ngoài. Thiên can đã lộ ra trong tứ trụ (can năm, can tháng và can giờ) cũng có các đặc tính như vậy nhưng vì nó đã lộ ra ngoài nên dễ nhận biết được để dự đoán. 1 – Các can tàng trong địa chi Quý....................tàng trong Tý...........Kỷ, Tân và Quý.....tàng trong Sửu Giáp, Bính và Mậu ..............Dần..........Ất....................................Mão Mậu, Quý và Ất..................Thìn.........Bính, Canh và Mậu................Tị Đinh và Kỷ.........................Ngọ..........Kỷ, Ất và Đinh.....................Mùi Canh, Nhâm và Mậu...........Thân.........Tân...................................Dậu Mậu, Đinh và Tân................Tuất.........Nhâm và Giáp........................Hợi Chú ý : Can tàng có cùng hành với hành của địa chi mà nó tàng được gọi là can tàng bản khí hay chính khí (bởi vì nó có lực mạnh hơn các lực của các can tàng khác trong địa chi đó) còn các can tàng khác trong địa chi này (nếu có) được gọi là can tàng phụ. Ví dụ 1 : Tị tàng chứa các can Bính, Mậu và Canh trong đó Bính là can tàng mang bản khí hay khí chính (tức là hành Hỏa là hành chính của Tị), vì vậy Bính có lực mạnh hơn lực của Mậu và Canh chỉ mang hành là tạp khí hay khí phụ là Thổ và Kim. Mậu và Canh được gọi là can tàng phụ. Ví dụ 2 : Dậu chỉ có chứa 1 can tàng Tân là bản khí, không có tạp khí. Các câu hỏi trọng tâm của Bài 7: Cuốn Trích Thiên Tủy được dịch bởi vnn1269 có đoạn như sau : (Các bạn có thể đọc toàn bộ 9 chương đầu của cuốn Trích Thiên Tủy trong mục Trao đổi về Tứ Trụ bên trang web Lý Số Việt Nam.) “Chương 8 : Địa Chi ................................................ Chi thần chích dĩ xung vi trọng, hình dữ xuyên hề động bất động Nguyên chú: Xung tức tương khắc, cùng tứ khố huynh đệ gặp xung, do đó mà động; đến như tương hình tương hại, là do có tương sinh tương hợp mà tồn tại, vì vậy mà nói xung động và xung bất động có cái lý lẽ khác nhau. Nhâm thị viết : ……………………….. Cái nghĩa của việc tương hình thật không lấy chi làm nhất định, như : (1 -) hợi hình hợi, thìn hình thìn, dậu hình dậu, ngọ hình ngọ, gọi là tự hình, vốn là địa chi gặp địa chi, cùng đồng khí cớ sao lại tương hình? (2 -) Tý hình mão mão hình tý, vốn là tương sinh, dần thân tương hình tất gặp xung sao còn lại đi tương hình? (3 -) Tuất hình mùi, mùi hình sửu đều ngũ hành thuộc thổ khí thì không thể nào tương hình được. (4 - )Dần hình tỵ cũng là tương sinh, dần thân tương hình, tất gặp xung hà tất lại còn tương hình hay sao? (5 -) Lại còn nói tý mão nhất hình, dần tỵ thân nhị hình, sửu tuất mùi tam hình, gọi là tam hình, lại còn có tự hình, đều là ngụy luận hẵng nên vứt bỏ. (6 -) Xuyên tức là hại, lục hại là do lục hợp mà có, tức xung thần hợp với ta, gọi là lục hại, như tý hợp sửu mà gặp mùi xung, sửu hợp tý mà gặp ngọ xung. Cho nên nói tý mùi tương hại, chẳng không tương khắc, sửu ngọ dần hợi tương hại, đều là tương sinh, cớ sao lại tương hại? vả lại tương hình, tương hại vốn đã không lấy chi đủ làm bằng chứng, thật lầm lỗi lớn, đến như tương phá cũng như thế cả, không tương hại tức tương hình, lỗi lầm do không thuộc ở kinh, nên tước bỏ vậy“. Theo bạn thì cách lý luận của cao thủ Tử Bình Nhâm Thị qua 6 câu tôi đã đánh dấu ở trên có đúng hay không ? Vì sao ?1 like
-
Linh -xương-đà-vũ là cách tai nạn chết đuối ,nằm ở cung tài có phải là đang đi dạo trên cầu thấy có người rớt bó bạc xuống sông ,thấy tiếc của phóng xuông sông lượm bạc mà bị chết đuối ? cái này phải suy nghĩ lại đã xem có hợp lý hay không ,đừng tin vội !!!1 like
-
Năm 18 lưu hạn tại cung quan nhé: thai phục vượng tướng: trên có link rồi, khỏi nói tam thai bát tọa thiên khôi hóa khoa thiên hỉ: đang hứng chí Nội tướng ngoại binh: hic, thế bị bao vây ép chẹt, bị ai rình à hứng trọn bộ Không kiếp kị cô quả... Bảo Đào hoa đi với thiên không là tử tế, chưa chắc đâu. Mệnh thân có đủ bộ Đào Hồng Không Kị Cô Quả đấy, bộ này chủ Bé cái nhầm, nhìn qua tưởng là Kim Trọng, bản chất là Mã Giám Sinh1 like
-
"Mặc người mưa Sở mây Tần Riêng mình PHẢI giữ cho lần đầu tiên! " For reference: http://cuocsongviet.com.vn/index.asp?act=show&mabv=23071 like