-
Thông báo
-
Nội quy Lý Học Plaza
Nội quy này là bản mở rộng Nội Quy - Quy định của Diễn đàn. Khi tham gia mua bán, các thành viên phải tuân theo những quy định sau: Tiêu đề bài viết: Bao gồm: Chỉ dẫn địa lý, Loại hình Mua/Bán, Thông tin mua bán.
Chỉ dẫn địa lý: Tỉnh/thành nơi mua bán. Hoặc sử dụng định nghĩa có sẵn:TQ: Toàn quốc
HCM: TP Hồ Chí Minh
HN: Hà Nội
[*]Ví dụ: HCM - Bán Vòng tay Hổ Phách Nội dung bài viết: Mô tả chi tiết sản phẩm mua/bán
Bắt buộc phải có thông tin liên lạc, giá Mua/Bán
Bài mới đăng chỉ được phép up sau 03 ngày.
Thời gian up bài cho phép: 01 ngày 01 lần.
Các hành vi vi phạm nội quy này sẽ bị xóa bài hoặc khóa tài khoản mà không cần báo trước.
-
Leaderboard
Popular Content
Showing most liked content on 21/05/2011 in Bài viết
-
Trả lời các câu hỏi trọng tâm của bài 5 : Mục đích của 3 câu hỏi này nói chung chỉ muốn nói lên một điều là Tứ Trụ đã mã hóa mọi bí mật của con người và các mối quan hệ qua lại giữa con người với con người trong cái xã hội mà họ đang sống. Tứ Trụ và các khái niệm về nó thực chất không có gì là huyền bí cả khi mà con người ngày càng tìm thêm được những đặc trưng của nó đại diện cho những lĩnh vực mới của con người. Những điều đến nay còn cho là huyền bí bởi vì chúng ta chưa thể hiểu được những điều đó đã được xây dựng trên nền tảng nào hoặc nó đã đại diện cho những lĩnh vực nào của con người trong cuộc sống. Trải qua mấy nghìn năm con người đã không ngừng nghiên cứu để khám phá (Giải Mã) Tứ Trụ, mục đích giúp đỡ con người có thể biết trước được tương lai của mình để tìm cách sống và làm việc sao cho có lợi nhất. Những kiến thức mà tiền nhân đã tìm ra là vô cùng quý báu đối với chúng ta nhưng đáng tiếc rằng một số người có tính xấu, họ đã lợi dụng vào uy tín của mình để ngụy tạo nhiều tri thức mà các tiền nhân đã để lại, kể cả các tri thức được coi là các quy tắc nền tảng để xây dựng lên môn Tử Bình - Tứ Trụ (như các Ngụy Tạo của các cao thủ Tử Bình mà tôi đã gọi chúng là "Các Tuyệt Chiêu Nổi Tiếng trong Tử Bình"). Cho nên khi học hay nghiên cứu Tứ Trụ chúng ta không nên quá quan trọng coi những khái niệm về Tứ Trụ như những điều huyền bí mà hãy coi chúng chỉ là những khái niệm cụ thể đại diện cho các mặt của con người với cuộc sống của họ trong xã hội mà thôi, đồng thời luôn luôn cảnh giác với những phát ngôn của một số người có uy tín mà thấy không hợp lý, thiếu logic... nhất là nó lại đi ngược với nền tảng xây dựng nên môn Tử Bình - Tứ Trụ. Và tất nhiên hiện nay còn rất nhiều những điều “Huyền Bí“, chúng đang cần sự khám phá (Giải Mã) của các bạn.3 likes
-
Chào tất cả mọi người. Tôi đã nhận lời mời làm giảng viên chính cho lớp học Tứ Trụ sơ cấp và trung cấp bên trang web Nhân Trắc Học. Chương trình dậy theo đúng từng chương của cuốn "Giải Mã Tứ Trụ" của tôi. Có thể vì vậy mà nhiều người đã ghi danh tham gia học (gần 500) nhưng chỉ có 151 người được học. Ðây là một bất đồng của tôi với ban điều hành khi tôi muốn cho tất cả mọi người đã ghi danh đều được học. Ðó là lý do vì sao tôi mở chủ đề này. Nội dung dậy như sau: Nội dung khóa học sơ - trung cấp Sơ cấp : Bài 1 : Vận mệnh và dự đoán vận mệnh Bài 2 : Sáu mươi năm Giáp Tý Bài 3 : Học thuyết Âm Dương và Ngũ Hành Bài 4 : Đặc trưng của Tứ trụ Bài 5 : Đại vận và tiểu vận của Tứ trụ Bài 6 : Thân và mười thần của Tứ trụ Bài 7 : Thiên địa nhân của tứ trụ Bài 8 : Thần sát của tứ trụ Bài 9 : Sơ đồ biểu diễn tứ trụ, tuế vận và tiểu vận Trung cấp : Bài 10 : Thân và vùng tâm Bài 11 : Xác định điểm vượng của các trạng thái Bài 12 : Dụng thần của Tứ Trụ Bài 13 : Dụng thần của một số Tứ Trụ đặc biệt Bài 14 : Điểm hạn của ngũ hành Bài 15 : Sự xấu, tốt của đại vận và lưu niên Bài 16 : Cách tính điểm hạn cho từng năm Bài 17 : Các cách giải hạn cơ bản Bài 18 : Các ví dụ mẫu xây dựng lý thuyết Tôi sẽ cố gắng giải đáp mọi thắc mắc của mọi người về nội dung giảng dậy cũng như mọi trao đổi, tranh luận của mọi người trong chủ đề "Giải đáp thắc mắc" trong mục Tử Bình Bát Tự (ở phía dưới, vì ở đó mọi người mới được viết bài). Thân chào.2 likes
-
Xếp hàng nghe thơ chị nhân thể nặn mấy câu làm quen nhỉ mong rằng chị không đuổi ra khỏi hàng ngũ2 likes
-
Tư Vấn Chữ Ký
Omega and one other liked a post in a topic by Học Trò
Quý anh ký cái khác, tĩnh tâm mà ký, chứ đừng ký vội như sắp đi chữa cháy như thế, bởi nếu xét mọi phương diện, chữ ký và bút tự nói chung không tốt. http://www.lyhocdong...ew=print&size=22 likes -
Chương 5 Thân và mười thần của tứ trụ I – Nhật Can và Thân Trong mỗi tứ trụ, can ngày được gọi là Nhật Can, nó đại diện cho người có tứ trụ đó (hiểu đơn giản nó là ngôi nhà của người có tứ trụ đó). Hành của can ngày được gọi là hành của Thân (Thân còn được gọi là Nhật Chủ) của người có tứ trụ đó (hiểu đơn giản nó là thân thể của người có tứ trụ đó). Qua đó chúng ta có thể so sánh hành của Thân với 4 hành còn lại (sau khi đã xét khả năng tác động giữa các can chi trong tứ trụ với nhau) để xem hành của Thân là mạnh hay yếu (thường được gọi là Thân vượng hay nhược). Đây là một khâu vô cùng quan trọng cho việc dự đoán vận mệnh của con người. II - Mười thần của tứ trụ 1 - Mười thần Nhật Chủ chính là tôi, bản thân tôi, hành của Thân chính là hành của tôi, cho nên quan hệ của nó với các hành khác như sau : a - Cái sinh ra tôi chính là mẹ, mẹ kế người ta gọi là: Chính ấn (1), thiên ấn (2). b - Cái tôi sinh ra là con cái, người ta gọi là : Thực thần (3), thương quan (4) . c - Cái khắc tôi tức là tôi bị khống chế, người ta gọi là : Chính quan (5), thiên quan (6) đều là sếp, cấp trên của tôi. d - Cái tôi khắc là cái bị tôi khống chế, người ta gọi là : Chính tài là tiền hay là vợ của tôi (7), thiên tài là tiền hay là cha của tôi (8). e - Cái ngang tôi là anh chị em, bạn bè, đồng nghiệp, người ta gọi là : Ngang vai, thường gọi tắt là tỷ (9) và kiếp tài, gọi tắt là kiếp (10). Đó chính là mười thần có liên quan với tôi trong tứ trụ. Ví dụ : Nếu Tứ Trụ của tôi có can ngày (tức Nhật Can) là Tân mà Tân mang hành Kim thì Thân của tôi là hành Kim, vì vậy ta có : Mậu (Thổ) sinh cho Tân (tôi) được gọi là chính ấn (vì can dương sinh cho can âm nên gọi là chính), thường được gọi là Ấn. Kỷ (Thổ) sinh cho Tân được gọi là thiên ấn (vì can âm sinh cho can âm nên gọi là thiên), thường được gọi là Kiêu. Tân sinh cho Nhâm (Thủy), vì vậy Nhâm được gọi là Thương Quan và sinh cho Quý (Thủy), vì vậy Quý được gọi là Thực Thần. Bính (Hỏa) khắc Tân, vì vậy Bính được gọi là chính quan, thường được gọi là Quan, Đinh (Hỏa) khắc Tân, vì vậy Đinh được gọi là thiên quan, thường được gọi là Sát. Tân khắc Giáp (Mộc), vì vậy Giáp được gọi là Chính Tài, Tân khắc Ất (Mộc), vì vậy Ất được gọi là Thiên Tài. Tân gặp can Tân được gọi là ngang vai, thường được gọi là Tỷ, Tân gặp Canh thường được gọi là Kiếp. Cách để xác định mười thần của Nhật Chủ trong các Tứ Trụ khác cũng tương tự như vậy. 2 – Tương sinh của 10 thần Ví dụ: Một tứ trụ có Nhật Can (can ngày) là Tân (hay Canh) vì Tân mang hành Kim nên Thân của người này mang hành Kim, thì ta có sơ đồ tương sinh của mười thần như sau: Qua sơ đồ ta thấy sự tương sinh của 10 thần hoàn toàn giống như sự tương sinh của ngũ hành. 3 – Tương khắc của 10 thần Mười thần là tài, quan, ấn, thực, thương….. của các can lộ hay tàng trong các địa chi trong tứ trụ. Mối quan hệ sinh khắc giữa chúng chính là mối quan hệ sinh khắc của ngũ hành. Mười thần nghiêng về phân tích người và sự việc, còn ngũ hành nghiêng về phân tích mức độ khí chất bẩm sinh của con người. Cả hai cái bổ xung cho nhau, không được xem nhẹ bên nào. Ví dụ : Giả sử hành của chính quan của 1 tứ trụ là Mộc, chính quan đại diện cho chức vụ, quyền lực, thi cử,…. , vì vậy khi nó bị hành của thương quan là Kim khắc quá mạnh dễ bị mất chức, mất quyền, thi trượt,…… . Còn theo ngũ hành thì Mộc đại diện cho đầu, mặt, vai, tay, chân, gan, mật, thần kinh,… khi bị Kim khắc quá mạnh thì những bộ phận này dễ bị tổn thương. Trong trường hợp Mộc (hay chính quan) không bị khắc nhưng nếu có quá nhiều Mộc trong tứ trụ thì khi gặp tuế vận (đại vận và lưu niên) có nhiều Mộc hay có nhiều các hóa cục Mộc thì người đó cũng dễ bị các tai họa như vậy. Nếu Tân (hay Canh) là Nhật Can thì ta có sơ đồ tương khắc của 10 thần của nó như sau : Qua sơ đồ trên ta nhận thấy sự tương khắc của mười thần hoàn toàn tương tự như sự tương khắc của ngũ hành (tương khắc cách 1 ngôi). Khi xét các thần trong tứ trụ và giữa tứ trụ với tuế vận ta phải căn cứ vào sự vượng suy của các thần (tức hành của nó), nếu thần nào quá vượng thì cần được xì hơi là tốt (tức là nó cần được sinh cho các thần khác), còn ngược lại nếu sinh hay giúp đỡ thêm cho nó thì dễ có tai họa. Tương tự nếu thần nào quá yếu thì nó cần được sinh hay được phù trợ cho vượng lên và dĩ nhiên nó rất sợ bị khắc. Vậy thì làm thế nào chúng ta có thể biết thần đó là mạnh hay yếu? Muốn biết, chúng ta phải dựa vào bảng sinh vượng tử tuyệt để xem nó có vượng hay nhược ở tuế vận, cũng như xem nó có xuất hiện nhiều hay ít ở trong tứ trụ và ở tuế vận (bởi vì nếu thần đó là nhược nhưng có nhiều thì nó cũng có thể trở thành mạnh). 4 - Tính chất của mười thần . Mười thần trong tứ trụ đại diện cho công năng, chức vụ, quyền lực, tình cảm, tính cách, nghề nghiệp,…..như sau : 1 - Chính quan là cái khắc tôi, đại diện cho quan chức tốt, chính trực trong chính quyền điều hành xã hội, mà con người phải tuân theo pháp luật nhà nước, nói chung chính quan được coi là cát thần, nhất là khi Thân vượng. Công năng của chính quan trong mệnh là bảo vệ tài, áp chế Thân, khống chế tỷ và kiếp. Thân vượng tài nhược thì nên có chính quan để bảo vệ tài. Thân vượng mà ấn nhược thì chính quan sẽ sinh ấn và chế ngự Thân cho bớt vượng. Thân vượng kiếp nhiều thì chính quan sẽ khắc chế kiếp. Trong mệnh chính quan đại diện cho chức vụ, học vị, thi cử, bầu cử, danh dự, …. . Với nam Chính quan còn đại diện cho tình cảm với con gái. Vì nam lấy tài làm vợ, tài sinh quan và sát là con, nên nam lấy quan làm con gái, sát làm con trai (vì âm, dương khác với nhật can là con gái, giống là con trai). Tâm tính của chính quan : chính trực, có tinh thần trách nhiệm, đoan trang nghiêm túc, làm việc có đầu có đuôi. Nhưng dễ bảo thủ cứng nhắc, thậm chí là người không kiên nghị. 2 - Thất sát (thiên quan) là cái khắc tôi, nó thường đại diện cho quan lại xấu trong chính quyền. Trong mệnh thất sát chuyên tấn công lại Thân, cho nên Thân dễ bị tổn thương, khi đó cần có thực thương tới để khắc chế thất sát thì lại trở thành tốt (nghĩa là bắt quan xấu phải phục vụ cho mình “thất sát hóa thành quyền bính“). Nói chung khi Thân nhược thất sát được coi là hung thần. Công năng của thất sát làm tổn hao tài, sinh ấn, công phá Thân, khắc chế tỷ kiếp. Trong mệnh thất sát đại diện cho chức vụ về quân cảnh, hoặc nghề tư pháp, thi cử, bầu cử … Với nam thất sát còn đại diện cho tình cảm với con trai. Tâm tính của thất sát, hào hiệp, năng động, uy nghiêm, nhanh nhẹn ... .Nhưng dễ bị kích động, thậm chí dễ trở thành người ngang ngược, trụy lạc … 3 – Chính ấn là cái sinh ra tôi, khi Thân nhược thường được coi là cát thần, ấn có nghĩa là con dấu, đại diện cho chức vụ, quyền lợi, học hành, nghề nghiệp, học thuật, sự nghiệp, danh dự, địa vị, phúc thọ …. Chính ấn là sao thuộc về học thuật và còn đại diện cho tình cảm của mẹ đẻ. Công năng của chính ấn, sinh Thân, xì hơi quan sát, chống lại thực thương. Tâm tính của chính ấn, thông minh, nhân từ, không tham danh lợi, chịu đựng nhưng ít khi tiến thủ, thậm chí còn chậm chạp, trì trệ.... 4 – Thiên ấn (Kiêu)là cái sinh phù tôi, đại diện cho quyền uy trong nghề nghiệp như nghệ thuật, nghệ sĩ, y học, luật sư, tôn giáo, kỹ thuật, nghề tự do, những thành tích trong dịch vụ.... Nó còn đại diện cho tình cảm của dì ghẻ. Công năng của thiên ấn sinh Thân, xì hơi quan sát để sinh cho Thân, chống lại thực thương . Mệnh có thiên ấn có thể phù trợ cho Thân nhược. Nhưng gặp thực thần là mệnh lao dịch, vất vả. Thiên ấn quá nhiều thì đó là người phúc bạc, bất hạnh, tật bệnh hoặc con cái khó khăn khi đó chỉ có thiên tài mới có thể giải được các hạn này. Người mà tứ trụ có Thân vượng, còn có kiêu, tài và quan tất là người phú quý. Mệnh có thiên ấn lại còn gặp quan sát hỗn tạp (có cả chính quan và thiên quan, không tính Quan và Sát là tạp khí ) là người thắng lợi nhiều mà thất bại cũng lắm. Nói chung khi Thân vượng thiên ấn được coi là hung thần. Tâm tính của thiên ấn, tinh thông tay nghề, phản ứng nhanh nhậy, nhiều tài nghệ, nhưng dễ cô độc, thiếu tính người, thậm chí ích kỷ, ghẻ lạnh... 5 – Ngang vai là ngang tôi (là can có cùng cùng hành và cùng dấu với Nhật Can), gọi tắt là tỷ. Đại diện cho tay chân cấp dưới, bạn bè, đồng nghiệp, cùng phe phái, tranh lợi, đoạt tài, khắc vợ, khắc cha ,… Nữ đại diện cho tình chị em, nam đại biểu cho tình anh em. Công năng của ngang vai có thể giúp Thân khi Thân nhược, cũng như tài nhiều (của cải nhiều) nhờ ngang vai giúp Thân để khỏi mất của. Nhưng Thân vượng lại có ngang vai nhiều mà không bị chế ngự là tay chân cấp dưới không hòa thuận, hoặc kết hôn muộn, tính tình thô bạo, cứng nhắc, cố chấp, không hòa hợp với cộng đồng, khắc cha, khắc vợ, làm nhiều mà không gặp tiền của. Tâm tính của ngang vai, chắc chắn, cương nghị, mạo hiểm, dũng cảm, có chí tiến thủ, nhưng dễ cô độc, ít hòa nhập, thậm chí cô lập, đơn côi. Nói chung khi thân vượng ngang vai được coi là hung thần (vì lúc đó nó tranh đoạt tài với Thân). 6 - Kiếp tài cũng là ngang tôi (là can cùng hành nhưng khác dấu với Nhật Can), gọi tắt là kiếp. Nó đại diện cho tay chân cấp dưới, bạn bè, tranh lợi đoạt tài, khắc vợ, khắc cha, lang thang.... Thân vượng mà có nhiều kiếp cũng giống như ngang vai ở trên. Nữ đại diện cho tình anh em, nam đại diện cho tình chị em.... Công năng của kiếp cũng giống như của ngang vai. Tâm tính của kiếp tài là nhiệt tình, thẳng thắn, ý chí kiên nhẫn, phấn đấu bất khuất, nhưng dễ thiên về mù quáng, thiếu lý trí, thậm chí manh động, liều lĩnh.... 7 - Thực thần là cái mà nhật can sinh ra (cùng dấu với Nhật Can). Đại diện cho phúc thọ, người béo, có lộc. Nữ đại diện cho tình cảm với con gái. Công năng của thực thần làm xì hơi Thân, sinh tài, đối địch với thất sát, làm quan bị tổn thương. Khi gặp sát thì có thể chế phục làm cho Thân được yên ổn không có tai họa, nên nói chung được xem là cát thần. Tâm tính của thực thần, ôn hòa, rộng rãi với mọi người, hiền lành, thân mật, ra vẻ tốt bề ngoài nhưng trong không thực bụng, thậm chí nhút nhát, giả tạo. Can chi đều có thực thần thì phúc lộc dồi dào, nhưng không thích hợp cho người công chức mà thích hợp với những người làm nghề tự do. Mệnh nữ có thực thần là hay khinh rẻ chồng. Thực và sát cùng một trụ là người có dịp nắm quyền bính nhưng dễ bị vất vả, lao khổ, tai ách và ít con. Can có thực thần, chi có ngang vai là chủ về người có thân thích, bạn hữu hoặc tay chân giúp đỡ. Can là thực thần, chi là kiếp tài là chủ về người phúc đức giầu có, khi gặp điều xấu vẫn có lợi. Thực thần có cả kiếp tài, thiên ấn đi kèm là người dễ đoản thọ (?). Người tài nhiều thì diễm phúc ít. Thực thần lâm trường sinh vượng địa hoặc cát thần thì phúc lộc nhiều, phần nhiều là người phúc lộc thọ toàn diện. Thực thần lâm tử, tuyệt, suy thì phúc ít, bạc mệnh. Thực thần lâm mộ địa là người dễ chết yểu (?). 8 – Thương quan cũng là cái nhật can sinh ra (nhưng khác dấu với Nhật Can). Đại diện cho bị mất chức, bỏ học, thôi việc, mất quyền, mất ngôi, không chúng tuyển, không thi đỗ, không lợi cho người nhà và chồng. Nữ đại diện cho tình cảm với con trai. Công năng của thương quan làm xì hơi Thân, sinh tài, đối địch với thất sát, làm thương tổn quan. Sợ nhất là “thương quan gặp quan là họa trăm đường ập đến“. Nói chung thương quan được xem là hung thần, nhất là khi Thân nhược. Tâm tính thông minh, hoạt bát, tài hoa dồi dào, hiếu thắng, nhưng dễ tùy tiện, thiếu sự kiềm chế ràng buộc, thậm chí tự do vô chính phủ.... Người thương quan lộ rõ (lộ và vượng) tâm tính thanh cao hiên ngang, dám chửi mắng cả quỷ thần. Nhật Can vượng thì lại càng hung hăng hơn, loại người này tính xấu. Những người bề trên cũng không dám đụng đến nó, kẻ tiểu nhân thì càng sợ mà lánh cho xa. Nhưng thương quan vượng mà Thân nhược thì tính tình vẫn là thương quan, chỉ có điều không ghê gớm đến như thế. Thương quan trong tứ trụ nếu có Thân vượng thì nó là hỷ dụng thần khi hành đến vận tài phú quý tự nhiên đến. 9 – Chính tài là cái bị Thân khắc (có dấu khác với Nhật Can) là cái nuôi sống tôi. Đại diện cho tài lộc, sản nghiệp, tài vận, tiền lương. Còn đại diện cho vợ cả (với nam). Công năng là sinh quan và sát, xì hơi thực thương, áp chế kiêu thần làm hại chính ấn. Nói chung chính tài được coi là cát thần. Tâm tính cần cù, tiết kịêm, chắc chắn, thật thà, nhưng dễ thiên về cẩu thả, thiếu tính tiến thủ, thậm chí trở thành nhu nhược, không có tài năng.... Người Thân vượng, tài vượng là bậc phú ông trong thiên hạ, nếu có cả chính quan là phú quý song toàn, nam thì được vợ hiền nội trợ tốt. Ngược lại người Thân nhược mà tài vượng thì không những nghèo mà cầu tài rất khó khăn, trong nhà vợ nắm quyền hành. Tài nhiều thường không lợi cho đường học hành, là người dốt nát. Địa chi tàng tài là tài phong phú, tài thấu ra là người khảng khái. Tài có kho (ví dụ : nếu ất là tài thì kho là dần và mão hay tàng trong các chi Thổ) khi gặp xung tất sẽ phát tài (như tài là Ất, Mậu hay Quý tàng trong Thìn khi gặp Tuất ở tuế vận xung Thìn). Thân vượng có chính tài còn gặp thực thần là được vợ hiền giúp đỡ. Chính tài và kiếp tài cùng xuất hiện trong tứ trụ thì trong cuộc đời dễ gặp phải tiểu nhân nên tài dễ bị tổn thất. 10 – Thiên tài cũng là cái bị Thân khắc (nhưng cùng dấu với Nhật Can) cũng là cái nuôi sống tôi. Đại diện cho của riêng, trúng thưởng, phát tài nhanh, đánh bạc, tình cảm với cha. Với nam còn đại diện cho tình cảm với vợ lẽ. Công năng của thiên tài: sinh quan sát, xì hơi thực thương, áp chế kiêu thần, làm hại chính ấn. Nói chung thiên tài được coi là cát thần. Tâm tính của thiên tài, khảng khái, trọng tình cảm, thông minh, nhậy bén, lạc quan, phóng khoáng, nhưng dễ thiên về ba hoa, bề ngoài, thiếu sự kiềm chế, thậm chí là người phù phiếm.... Thiên tài đại diện cho cha hoặc vợ lẽ, hoặc nguồn của cải bằng nghề phụ. Thân vượng, tài vượng, quan vượng thì danh lợi đều có, phú quý song toàn. Thiên tài thấu can thì kỵ nhất gặp tỷ và kiếp, vì như thế vừa khắc cha lại làm tổn hại vợ (với nam). Can chi đều có thiên tài là người xa quê lập nghiệp trở lên giầu có, tình duyên tốt đẹp, của cải nhiều. Thiên tài được lệnh (vượng ở tháng sinh) là cha con hoặc thê thiếp hòa thuận, được của nhờ cha hoặc nhờ vợ, cha và vợ đều sống lâu, vinh hiển (?). Thiên tài lâm mộc dục là người háo sắc phong lưu. Thiên tài lâm mộ địa là cha hoặc vợ dễ chết sớm (?). Các câu hỏi trọng tâm của bài 5 : 1 - Thường thì trong cuộc sống hàng ngày ai ai cũng phải có nhà để sống, vậy thì người ta đã tìm thấy cái gì trong mỗi Tứ Trụ của con người đại diện cho cuộc sống thực tế của người có Tứ Trụ đó ? 2 - Tại sao lại có khái niệm 10 thần, chúng có liên quan gì tới tính chất sinh khắc của ngũ hành hay không ? 3 - 10 thần cũng như ngũ hành đại diện cho những cái gì trong cuộc sống thường ngày của chúng ta ?2 likes
-
Trả lời các câu hỏi trọng tâm và bài tập của Bài 5: 1 - Vì sao người ta phải đưa ra khái niệm Ðại Vận và xác định nó kéo dài đúng 10 năm cũng như khái niệm Tiểu Vận và xác định nó chỉ kéo dài đúng 1 năm ? Theo tôi thì Tiểu vận mới chính là tuổi thật của người có Tứ Trụ đó, còn lưu niên mới đúng là tuổi giả (tức một năm bất kỳ cần dự đoán), vì thường có mấy người nào sinh đúng vào ngày giao lệnh của tháng Dần (khoảng mùng 4 hay 5 tháng 2 dương lịch). Do vậy muốn dự đoán vận mệnh của con người thì thông tin Tiểu vận, tức tuổi thật này bắt buộc phải có là hợp lý. Như vậy thì tại mỗi năm (lưu niên) thường xuất hiện 2 Tiểu vận. Tiểu vận đầu tính từ giao lệnh của tháng Dần tới ngày sinh nhật của người đó. Tiểu vận thứ 2 bắt đầu từ ngày sinh nhật cho đến hết năm, tức tới giao lệnh của tháng Dần của năm sau. Giả sử muốn xác định 2 Tiểu vận tại năm 1995 của một người sinh năm 1963 ta lần lượt các bước: 1 - Ðầu tiên ta lấy 1995 trừ đi 1963 còn 32. Ðây chính là tuổi tính theo dương lịch của người này vào năm 1995. 2 – Giả sử can chi của trụ giờ của người này là Bính Tý chẳng hạn thì: a - Nếu tính theo chiều thuận của bảng nạp âm 60 năm Giáp Tý (với nam sinh năm dương và nữ sinh năm âm) thì Tiểu vận đầu tiên ngay sau Bính Tý là Ðinh Sửu. Ðinh Sửu được gọi là Tiểu vận 1, còn tiểu vận thứ 2 là Mậu Dần... cứ tính tiếp như vậy tới tiểu vận thứ 32 là Mậu Thân. Tiểu vận Mậu Thân chính là tiểu vận thứ nhất được tính từ ngày giao lệnh của tháng Dần năm 1995 tới ngày sinh nhật của người này ở năm 1995. Tiểu vận thứ hai là Kỷ Dậu (bắt đầu từ ngày sinh nhật tới ngày giao lệnh của tháng Dần năm sau). Ðây chính là 2 Tiểu vận của năm (lưu niên) 1995 của người có Tứ Trụ này. b - Nếu tính theo chiều nghịch của bảng nạp âm 60 năm Giáp Tý (với nam sinh năm Âm và nữ sinh năm Dương) thì ngay trước Bính Tý là Ất Hợi. Tiểu vận Ất Hợi được gọi là Tiểu vận 1, tiểu vận 2 là Giáp Tuất,... tiểu vận thứ 32 là Giáp Thìn và Tiểu vận thứ 33 là Quý Mão. Do vậy Tiểu vận Giáp Thìn là Tiểu vận đầu còn Tiểu vận Quý Mão là Tiểu vận thứ hai của năm (lưu niên) 1995 của người có Tứ Trụ này. Theo tôi đại vận kéo dài đúng 10 năm có thể vì có 10 Thiên can nên mỗi đại vận phải xuất hiện đủ 10 can này tức mỗi can đại diện cho 1 năm của đại vận. Ðiều này đúng như theo phương pháp của cụ Thiệu là lấy can đại vận làm trọng chứ không theo các sách Tử Bình của các cổ nhân khác lấy chi làm trọng. Còn vì sao đại vận không bắt đầu từ khi mới sinh như Tiểu vận thì xin nhờ mọi người trả lời giúp tôi. 2 – Xác định các đại vận và thời gian của chúng qua các ví dụ sau: a – Nam sinh ngày 7/8/1963 lúc 2,00’ a.m. Tứ Trụ : Quý Mão - Kỷ Mùi – ngày Nhâm Ngọ - Tân Sửu Các đại vận và thời gian của chúng: Mậu Ngọ... Ðinh Tị...Bính Thìn.. Ất Mão...Giáp Dần..Quý Sửu...Nhâm Tý .....10...........20...........30............40............50............60..............0 1/8/1973......8/83.......8/93..........8/03.........8/13.........8/23...........8/33 b – Nữ sinh ngày 21/6/1960 lúc 20,59’. Tứ trụ : Canh Tý – Nhâm Ngọ- ngày Canh Thìn – Bính Tuất Các đại vận và thời gian của chúng: Tân Tị......Canh Thìn....Kỷ Mão...Mậu Dần... Ðinh Sửu...Bính Tý.. ...Ất Hợi ....5..............15.............25.............35..............45............55.............65 1/10/1965....10/75........10/85.......12/95..........12/05........12/15........12/25 c – Nam sinh ngày 14/13/1956 (tức 14/1/1957 dương lịch) lúc 17,00’. Tứ trụ : Bính Thân – Tân Sửu – ngày Bính Tuất – Ðinh Dậu Các đại vận và thời gian của chúng: Nhâm Dần...Quý Mão...Giáp Thìn... Ất Tị...Bính Ngọ...Ðinh Mùi...Mậu Thân .......7...............17.............27...........37.........47.............57............67 8/12/1963......12/73........12/83........12/93....12/03.........12/13.......12/23 d - Nữ sinh ngày 17/5/1986 lúc 7,00’a.m. Tứ trụ : Bính Dần – Quý Tị - ngày Tân Dậu – Nhâm Thìn Các đại vận và thời gian của chúng: Nhâm Thìn...Tân Mão..Canh Dần...Kỷ Mùi...Mậu Tý... Ðinh Hợi...Bính Tuất ........4.............14............24...........34...........44............54............64 ..1/2/1990.......2/00.........2/10.........2/20........2/30.......2/40...........2/50 e - Nữ sinh ngày 30/10/1991 lúc 12,58’a.m. Tứ trụ : Tân Mùi - Mậu Tuất – ngày Quý Dậu - Mậu Ngọ Các đại vận và thời gian của chúng: Kỷ Hợi.......Canh Tý...Tân Sửu...Nhâm Dần...Quý Mão...Giáp Thìn....Ất Tị .....3...............13...........23.............33..............43..............53...........63 28/9/1994......9/04........9/14.........9/24.............9/34...........9/44.........9/542 likes
-
Bài 5 : Đại vận và tiểu vận của Tứ Trụ Chương 4 Đại vận và tiểu vận của Tứ Trụ Chỉ dựa vào Tứ Trụ liệu đã đủ để dự đoán vận mệnh của con người hay không? Hoàn toàn chưa đủ, muốn dự đoán có độ chính xác cao, người ta cần phải biết đại vận và tiểu vận của Tứ Trụ đó. Vậy thì đại vận và tiểu vận là gì ? Và cách xác định chúng như thế nào? I – Cách xác định đại vận 1 - Đại vận Từ xa xưa cho tới ngày nay, mỗi người đều cảm thấy rằng cuộc đời thường không thuận buồm xuôi gió, mà có những khoảng thời gian tốt, xấu, may và rủi khác nhau. Người thì sự may mắn dồn dập đến từ khi vẫn còn trẻ, có người thì ở tuổi trung niên, lại có người chỉ đến khi đã về già, sự sui sẻo cũng vậy, ở mỗi người mỗi khác. Từ thực tế khách quan này mà người ta đã tìm ra cách xác định các khoảng thời gian may rủi khác nhau đó cho các Tứ Trụ là 10 năm và chúng được gọi là các đại vận. Cách xác định các đại vận hoàn toàn phụ thuộc vào tháng sinh của người đó như sau : a – Nam sinh năm dương và nữ sinh năm âm Người mà can năm sinh của người đó là dương đối với nam như Giáp, Bính, Mậu, Canh, Nhâm và can năm sinh của người đó là âm đối với nữ như Ất, Đinh, Kỷ, Tân, Quý thì được tính theo chiều thuận của bảng nạp âm, bắt đầu can chi ngay sau lệnh tháng làm đại vận đầu tiên, tiếp theo là đại vận thứ 2,... Ví dụ : Nam sinh vào năm Mậu Tý tháng Mậu Ngọ thì người này có can năm là Mậu tức là can dương nên đại vận đầu tiên phải tính theo chiều thuận theo bảng nạp âm là Kỷ Mùi, đại vận sau là Canh Thân, Tân Dậu,... Ví dụ : Nữ sinh vào các năm Quý Sửu tháng Mậu Ngọ thì người này có can năm là Quý tức là can âm nên đại vận đầu tiên cũng tính theo chiều thuận như ví dụ trên là Kỷ Mùi, đại vận thứ hai là Canh Thân, Tân Dậu,... b – Nam sinh năm âm và nữ sinh năm dương Người mà can năm sinh là âm đối với nam như Ất, Đinh, Kỷ, Tân, Quý và người mà can năm sinh là dương đối với nữ như Giáp, Bính, Mậu, Canh, Nhâm thì phải tính ngược lại đối với bảng nạp âm, bắt đầu can chi ngay trước lệnh tháng làm đại vận đầu tiên, sau là đại vận thứ hai,... Ví dụ : Nam sinh vào năm Quý Dậu tháng Mậu Ngọ, vì can năm của người này là Quý tức là can âm nên đại vận đầu tiên phải tính ngược theo bảng nạp âm ngay trước lệnh tháng là Đinh Tị, đại vận thứ hai là Bính Thìn, Ất Mão ,.... Ví dụ : Nữ sinh vào năm Mậu Thân, tháng Mậu Ngọ vì can năm là Canh tức là can dương nên đại vận đầu tiên phải tính ngược với bảng nạp âm là Đinh Tỵ, sau là Bính Thìn, Ất Mão,.... II - Thời gian bắt đầu đại vận 1 - Nam sinh năm dương và nữ sinh năm âm Vậy thì khi nào các đại vận sẽ bắt đầu ? Phải chăng tất cả mọi người là như nhau? Hoàn toàn không phải như vậy, nó phụ thuộc hoàn toàn vào ngày sinh của người đó so với ngày giao lệnh (tức là ngày thay đổi từ tháng này sang tháng khác của lịch Can Chi) của tháng trước hoặc tháng sau so với tháng sinh của người đó (lệnh ở đây nghĩa là chi của 1 tháng mang hành gì thì hành đó sẽ nắm lệnh trong tháng đó). Đối với nam sinh năm dương và nữ sinh năm âm, ta tính theo chiều thuận của bảng nạp âm từ ngày sinh đến ngày giao lệnh của tháng sau (theo lịch Can Chi) xem được bao nhiêu ngày, và bao nhiêu giờ. Sau đó cứ 3 ngày quy đổi là 1 năm, thừa 1 ngày được tính thêm là 4 tháng, thừa 2 ngày được tính thêm là 8 tháng, cứ thừa 1 tiếng được tính thêm là 5 ngày còn cứ thiếu 1 tiếng thì phải trừ đi 5 ngày. Cộng tất cả lại sẽ được bao nhiêu năm, tháng, ngày thì đó chính là sau khi sinh được từng đó thời gian sẽ bước vào đại vận đầu tiên. Ví dụ : Nam sinh ngày 12/2/1976 lúc 3,01’ có tứ trụ: Bính Thìn - Canh Dần - ngày Giáp Ngọ - Bính Dần Ta thấy đây là nam sinh năm dương nên tính theo chiều thuận từ ngày sinh 12/2 lúc 3,01´ a.m. đến giao lệnh của tháng sau là ngày 5/3 lúc 18,48´ (tính tròn là 19,00’), thì được 22 ngày (vì đây là năm nhuận nên tháng 2 có 29 ngày ) và thêm 16 tiếng. 22 ngày quy đổi được 7 năm 4 tháng (vì thừa 1 ngày đổi thành 4 tháng), còn 16 tiếng quy đổi thành 2 tháng và 20 ngày (16.5 ngày = 80 ngày). Tổng cộng được tất cả là 7 năm 6 tháng và 20 ngày. Tức là sau khi sinh ra được 7 năm 6 tháng và 20 ngày thì người này bắt đầu bước vào đại vận đầu tiên. Chính xác ngày 2/9 năm1983 người này bắt đầu bước vào đại vận Tân Mão (từ 2/9/1983 đến 2/9/1993). Từ ngày 2/9 năm 1993 bắt đầu đại vận thứ 2 là Nhâm Thìn (2/9/93 đến 2/9/03). Các đại vận sau tính tương tự theo đúng chiều thuận của bảng nạp âm. Mỗi đại vận chỉ kéo dài đúng 10 năm. Có thể biểu diễn các đại vận và thời gian của chúng như sau : Năm 1983 bắt đầu đại vận trừ đi năm sinh là năm 1976 được 7 năm, tức là khi 7 tuổi người này bắt đầu bước vào đại vận Tân Mão và được tính chính xác đến tháng 9 của năm 1983 . Nữ sinh vào năm âm cũng tính theo chiều thuận như vậy. 2 - Nữ sinh năm dương và nam sinh năm âm Đối với nữ sinh vào năm dương và nam sinh vào năm âm thì chúng ta tính theo chiều nghịch từ ngày sinh đến ngày giao lệnh của tháng trước liền với tháng sinh xem được bao nhiêu ngày, bao nhiêu giờ và cũng quy đổi như trên ta sẽ biết được khi nào bắt đầu đại vận đầu tiên. Ví dụ : Nữ sinh ngày 12/3/1952 lúc 22,00’ có tứ trụ: Nhâm Thìn - Quý Mão - ngày Đinh Tị - Tân Hợi Vì là nữ sinh vào năm có can là Nhâm tức can dương nên ta phải tính từ ngày sinh ngược lại tới ngày giao lệnh của tháng trước (tức là tính theo chiều ngược). Cụ thể ta tính từ ngày sinh 12/3 lúc 22,00´ đến đến ngày giao lệnh của tháng trước là ngày 5/3 lúc 23,00´ ta được 7 ngày quy đổi được 2 năm 4 tháng và từ 22,00’ đến 23,00’ là thiếu 1 tiếng tức phải trừ đi 5 ngày (Chú ý: Nếu giờ giao lệnh là 21.00' thì ta phải cộng thêm 5 ngày). Ta quy đổi được 2 năm 3 tháng và 25 ngày. Vậy thì người này ngày 7 tháng 7 năm 1954 bắt đầu bước vào đại vận đầu tiên là Nhâm Dần và các đại vận sau tính theo chiều ngược của bảng nạp âm như sau : Đối với nam sinh năm Âm cũng tính theo chiều ngược như vậy. II – Cách xác định Tiểu Vận 1 – Tiểu vận Tiểu vận hoàn toàn phụ thuộc vào trụ giờ và thời gian của nó chỉ kéo dài đúng 1 năm (có thể gọi đây là tuổi ảo). a – Nam sinh năm dương và nứ sinh năm âm Nam sinh năm dương và nữ sinh năm âm thì tính thuận theo bảng nạp âm bắt đầu can chi ngay sau trụ giờ làm tiểu vận đầu tiên, tiếp là tiểu vận thứ hai.... Tiểu vận khác với đại vận là thời gian chỉ kéo dài 1 năm. Thời gian của tiểu vận đầu tiên bắt đầu tính ngay từ ngày và giờ sinh tại năm sinh của người đó cho đến đúng ngày và giờ đó của năm sau, sau đó mới sang tiểu vận thứ hai,... Ví dụ là nam như trên sinh ngày 12/2/1976 lúc 3,01’am là năm Bính Thìn (1976), giờ sinh là Bính Dần (3,01’am) vì sinh năm dương nên tiểu vận đầu tiên tính theo chiều thuận của bảng nạp âm. Tức là từ 3,01’a.m. của ngày sinh 12/2/1976 đến 3,01’a.m. ngày 12/2/1977 là tiểu vận đầu tiên Đinh Mão, tiếp từ ngày 12/2/1977 đến ngày 12/2/1978 là tiểu vận thứ hai Mậu Thìn.... Nếu là nữ sinh vào năm âm cũng tính theo chiều thuận như vậy. b – Nam sinh năm âm và nữ sinh năm dương Nam sinh năm âm và nữ sinh năm dương thì tính theo chiều ngược của bảng nạp âm, bắt đầu can chi ngay trước can chi của trụ giờ làm tiểu vận đầu tiên, sau là tiểu vận thứ hai,..... Ví dụ trên nếu là nữ thì phải tính tiểu vận ngược với bảng nạp âm. Cụ thể là từ 3,01’a.m. của ngày sinh 12/2/1976 đến 3,01’am ngày 12/2/1977 người nữ này có tiểu vận đầu tiên là Ất Sửu, tiếp từ ngày 12/2/1977 đến 12/2/1978 là tiểu vận Giáp Tý, cứ thế tính các tiểu vận tiếp theo theo chiều ngược của bảng nạp âm. Nếu là nam mà sinh vào năm âm cũng tính theo chiều ngược như vậy. 2 – Tính chất của tiểu vận Can, chi và nạp âm của tiểu vận chỉ có khả năng hình, xung, khắc, hại, hợp đối với can, chi và nạp âm của đại vận và lưu niên nhưng chúng không có khả năng tác động đến các can, chi và nạp âm trong tứ trụ và ngược lại. Các câu hỏi trọng tâm và bài tập của Bài 5: (Chú ý: Tất cả các Tứ Trụ được xác định trong cuốn sách hay trong chương trình của lớp học này đều được xác định theo Lịch Vạn Niên của Trung Quốc tức giao lệnh lấy theo giờ Bắc Kinh). 1 - Vì sao người ta phải đưa ra khái niệm Ðại Vận và xác định nó kéo dài đúng 10 năm cũng như khái niệm Tiểu Vận và xác định nó chỉ kéo dài đúng 1 năm ? 2 – Xác định các đại vận và thời gian của chúng qua các ví dụ sau: a – Nam sinh ngày 7/8/1963 lúc 2,00’ a.m. b – Nữ sinh ngày 21/6/1960 lúc 20,59’. c – Nam sinh ngày 14/13/1956 (tức 14/1/1957 dương lịch) lúc 17,00’. d - Nữ sinh ngày 17/5/1986 lúc 7,00’a.m. e - Nữ sinh ngày 30/10/1991 lúc 12,58’a.m.2 likes
-
Trả lời các câu hỏi trọng tâm của Bài 4: 1 – Vì sao có sự khác nhau về giờ (60’) khi xác định lệnh tháng giữa lịch Trung Quốc theo giờ Bắc Kinh với lịch Việt Nam theo giờ Hà Nội? Ðiều này tôi mới biết qua một nick ở trang web Lý Số VN thì phải, vì vậy tôi chưa có thời gian để kiểm tra chúng qua các ví dụ trong thực tế xem theo lịch nào thì đúng. Theo tôi về logic thì lệnh tháng cũng như thời điểm giao thừa phải là các điểm cố định trên quỹ đạo của trái đất quay quanh mặt trời. Do vậy chúng phải trùng với tất cả các múi giờ khi qua các vị trí đó (xét hình chiếu của các múi giờ lên quỹ đạo của trái đất). Từ đây suy ra rằng giờ giao lệnh của các múi giờ phải giống nhau chứ không thể lệch nhau như vậy được (một điều dễ hiểu là chả nhẽ tết của Việt Nam theo giờ Hà Nội và tết của Trung Quốc theo giờ Bắc Kinh cũng như của tất cả các nước trên thế giới cùng diễn ra tại một thời điểm hay sao?). 2 – Xác định Tứ Trụ theo giờ, ngày, tháng và năm sinh của một số người sau đây (xác định Tứ Trụ theo cả 2 loại lịch như đã nói ở trên): a - 26/3/1961 lúc 0,59’ a.m. Tứ trụ : Tân Sửu – Tân Mão – ngày Mậu Ngọ - Nhâm Tý (theo lịch TQ). ............Tân Sửu – Tân Mão – ngày Mậu Ngọ - Nhâm Tý (theo lịch VN). b – 3/13/1959 (tức 3/1/1960 dương lịch) lúc 1,01’ a.m. Tứ trụ : Kỷ Hợi – Ðinh Sửu – ngày Canh Dần - Ðinh Sửu (theo lịch TQ). ............Kỷ Hợi – Ðinh Sửu – ngày Canh Dần - Bính Tý (theo lịch VN). c – 5/3/1968 lúc 22,00’. Tứ trụ : Mậu Thân – Ất Mão – ngày Giáp Tuất - Ất Hợi (theo lịch TQ). ............Mậu Thân – Ất Mão – ngày Giáp Tuất - Ất Hợi (theo lịch VN). d – 7/7/2002 lúc 21,00’. Tứ trụ : Nhâm Ngọ - Ðinh Mùi - ngày Bính Tý - Kỷ Hợi (theo lịch TQ). ............Nhâm Ngọ - Ðinh Mùi - ngày Bính Tý - Mậu Tuất (theo lịch VN). e - 25/9/1990 lúc 12,59’ a.m. Tứ trụ : Canh Ngọ - Ất Dậu – ngày Quý Tị - Mậu Ngọ (theo lịch TQ). ............Canh Ngọ - Ất Dậu – ngày Quý Tị - Mậu Ngọ (theo lịch VN).2 likes
-
Xin đăng lại câu 3 và 4 ở trên lại cho rõ: 3 - Cách xác định Trụ ngày - Tức ngày sinh Trong một năm có các ngày 1/3, 30/4, 29/6, 28/8, 27/10, 26/12 và ngày 24/2 của năm sau có các can chi giống nhau. Cho nên chúng ta thấy can chi của ngày 24/2 và ngày 1/3 trong cùng một năm dương lịch là khác nhau bởi vì thường chúng chỉ cách nhau 5 ngày, còn đối với năm nhuận chúng cách nhau 6 ngày (bởi vì tháng 2 có ngày 29). Dựa vào yếu tố này nếu biết trước can chi của 1 ngày bất kỳ của 1 năm thì qua bảng 60 năm Giáp Tý chúng ta có thể tính được can chi của ngày 1/3 của năm đó, sau đó chúng ta tính được can chi của ngày 24/2 cùng năm và nó chính là can chi của ngày 1/3 của năm trước liền với năm đó. Cứ như vậy ta có thể biết được can chi ngày 1/3 của tất cả các năm (chú ý tháng 2 của năm 1900 mặc dù là năm nhuận nhưng nó chỉ có 28 ngày). Ví dụ : Ngày 14/7/1968 theo lịch can chi có can chi là gì? Ngày 1/3 của năm 1968 tra theo bảng là ngày Canh Ngọ. Vậy ngày 29/6/1968 cũng là ngày Canh Ngọ (ta chọn nó bởi vì nó gần nhất với ngày cần phải tìm), từ ngày 29/6 đến 14/7 cách nhau đúng 15 ngày, vì vậy theo bảng nạp âm 60 năm Giáp Tý, ngày Canh Ngọ (29/6) sau 15 ngày sẽ đến ngày Ất Dậu (14/7) . Đến đây ta có trụ thứ ba, đó là trụ ngày . Bảng tra can chi của ngày 1/3 trong các năm từ 1889 đến năm 2008 Dấu * trong bảng là năm nhuận, tức tháng 2 của các năm đó có 29 ngày. 4 – Cách xác định Trụ giờ - Tức giờ sinh Theo lịch Can Chi này họ đã xác định giờ đầu tiên trong một ngày của lịch Can Chi luôn luôn là giờ Tý và các giờ sau tuân theo thứ tự như sau : Tức là cứ 120 phút (hai tiếng) tương ứng với một giờ của lịch can chi. Ví dụ : 23 giờ 18 phút ngày 16/5 thuộc về ngày nào của lịch can chi? Theo lịch can chi thì từ 23,00’ ngày 16/5 trở đi thuộc về ngày hôm sau, tức là phải thuộc ngày 17/5. Khi đã biết Địa chi của giờ rồi thì hàng Can của nó hoàn toàn phụ thuộc vào Can của trụ ngày như sau : Các ngày có can là Giáp và Kỷ có các giờ lần lượt là : Giáp Tý, Ất Sửu, Bính Dần, Đinh Mão, Mậu Thì , ............. , Ất Hợi (các can tuân theo quy luật vòng tròn như đã nói ở trên) . Các can ngày là Ất và Canh có các giờ lần lượt: Bính Tý,.............., Đinh Hợi. Các................... Bính và Tân...........................: Mậu Tý,..............., Kỷ Hợi. Các ...................Đinh –Nhâm .........................: Canh Tý,.............., Tân Hợi. Các ...................Mậu – Quý ...........................: Nhâm Tý,............., Quý Hợi. Ví dụ : Các can của giờ Mão và Ngọ của ngày Đinh Dậu theo lịch can chi là gì ? Can của ngày Đinh theo như trên ta có các giờ lần lượt là : Canh Tý, Tân Sửu, Nhâm Dần, Quý Mão, Giáp Thìn, Ất Tỵ, Bính Ngọ, Đinh Mùi, ..... Vì vậy can của giờ Mão là Quý Mão và giờ Ngọ là Bính Ngọ. Đến đây ta có trụ thứ tư, đó là trụ giờ2 likes
-
Bài 4 : Đặc trưng của Tứ trụ Chương 3 Đặc trưng của tứ trụ I - Tứ trụ Mỗi người khi sinh ra đều có 4 thông tin là năm, tháng, ngày và giờ sinh. 4 thông tin này khi chuyển sang lịch can chi được gọi là tứ trụ . Tứ trụ này quyết định vận mệnh của người đó . Lịch Can Chi không giống với dương lịch hay âm lịch mà chúng ta vẫn thường sử dụng, nên ở đây thống nhất mọi thông tin về lịch phải dùng dương lịch để tính toán cho tiện lợi và tháng 1 dương lịch được gọi là tháng 13 của năm trước đó. 1 – Cách xác định Trụ năm - Tức năm sinh Theo bảng nạp âm 60 năm Giáp Tý thì năm nay 2008 là năm Mậu Tý, năm 2009 là năm Kỷ Sửu,........ . Các năm trước đây hay sau này cứ theo bảng này tra là ra hết. Nhưng năm của lịch Can Chi thường bắt đầu vào ngày 4/2 hoặc ngày 5/2 dương lịch, khác với dương lịch bắt đầu vào ngày 1/1, và càng khác so với Âm lịch tính năm mới theo lịch mặt Trăng. Muốn xác định chính xác năm mới hay các tháng theo lịch Can Chi bạn đọc phải tra theo bảng xác định lệnh tháng phía dưới. Bảng này xác định tháng, ngày, giờ và chính xác tới phút bắt đầu năm mới cũng như tháng mới (lệnh tháng) của lịch Can Chi từ năm 1898 đến năm 2018 (phần này được trích ra từ cuốn sách Lịch Vạn Niên) Bảng xác định lệnh tháng của lịch Can Chi . (Từ năm 1898 đến năm 2018 theo giờ Bắc Kinh) …………………………………………………… (Chú ý: Bảng xác định lệnh tháng này của Trung Quốc nên nó được tính theo giờ Bắc Kinh, còn “Ngày giờ Sóc (New Moons) và Tiết khí (Minor Solar Terms) từ 1000 đến 2999“ trên Google là của Việt Nam theo giờ Hà Nội nên giờ giao lệnh ít hơn của Trung Quốc 60’. Hiện giờ tôi chưa biết xác định lệnh tháng theo giờ Bắc Kinh hay Hà Nội là đúng. Phải chăng căn cứ theo múi giờ quốc tế thì cứ ít hơn múi giờ Bắc Kinh bao nhiêu múi thì lệnh tháng phải giảm đi từng ấy tiếng, cũng như cứ nhiều hơn múi giờ Bắc Kinh bao nhiêu múi thì phải cộng thêm từng ấy tiếng theo bảng xác định lệnh tháng ở trên ?) . Ví dụ : Ngày 4/2 /1968 theo lịch can chi thuộc năm nào? Nó vẫn thuộc năm Đinh Mùi (1967) nhưng tới 2,08’ (1,08’ theo giờ Hà Nội) ngày 05/2/1968 nó mới thuộc năm Mậu Thân (1968). Ví dụ : Lúc 7,59’ngày 04/2/1969 dương lịch thuộc năm nào của lịch can chi ?. Đã thuộc năm Kỷ Dậu (1969) ,còn trước 7,59’ vẫn thuộc năm Mậu Thân (1968) . Qua đây chúng ta thấy theo lịch Can Chi thì năm mới được tính chính xác tới phút khi trái đất quay hết một vòng xung quanh mặt trời (không như chúng ta thường tính lúc 0,00’ của đêm giao thừa). Nghĩa là chúng ta đã có một trụ đầu tiên, đó là trụ năm (tức năm sinh). 2 – Cách xác định Trụ tháng - Tức tháng sinh (lệnh tháng) Theo lịch Can Chi thì tháng đầu tiên của một năm luôn luôn là tháng Dần sau đó là tháng Mão, Thìn, Tị, Ngọ, Mùi, Thân, Dậu, Tuất và Hợi. Tháng trong lịch can chi được xác định khác với dương lịch. Muốn xác định chính xác tháng sinh (lệnh tháng) theo lịch can chi bắt buộc bạn đọc phải tra theo bảng xác định lệnh tháng ở trên. Ví dụ : Ngày 07/10/1968 thuộc tháng nào của lịch can chi? Tra bảng ta thấy nó thuộc tháng Dậu, còn từ ngày 08/10/1968 nó mới sang tháng Tuất. Khi đã biết địa chi của một tháng thì cách xác định can của tháng đó hoàn toàn phụ thuộc vào can của năm đó như sau: Các năm có can là Giáp và Kỷ thì các tháng của năm đó lần lượt là : Bính Dần, Đinh Mão, Mậu Thìn, Kỷ Tị, ...... Đinh Hợi (tức là các can chi phải tuân theo đúng quy luật của vòng tròn đã nói ở trên). Các năm Ất và Canh các tháng là : Mậu Dần, Kỷ Mão, .........., Kỷ Hợi. Các năm Bính và Tân ------------- : Canh Dần,........................., Tân Hợi. Các năm Đinh và Nhâm ----------- : Nhâm Dần, ......................, Quý Hợi. Các năm Mậu và Quý ------------- : Giáp Dần, ........................, Ất Hợi. Bảng tra can tháng theo can năm Ví dụ : Can của tháng Thìn của năm 1968 là gì? Tra theo bảng xác định lệnh tháng thì năm 1968 là năm Mậu Thân, vì vậy nó thuộc năm tra theo các can Mậu và Quý. Các tháng của nó lần lượt là : Giáp Dần, Ất Mão, Bính Thìn, Đinh Tị, ........ Do vậy tháng Thìn là Bính Thìn. Đến đây ta có trụ thứ hai, đó là trụ tháng. 3 - Cách xác định Trụ ngày - Tức ngày sinh Trong một năm có các ngày 1/3, 30/4, 29/6, 28/8, 27/10, 26/12 và ngày 24/2 của năm sau có các can chi giống nhau. Cho nên chúng ta thấy can chi của ngày 24/2 và ngày 1/3 trong cùng một năm dương lịch là khác nhau bởi vì thường chúng chỉ cách nhau 5 ngày, còn đối với năm nhuận chúng cách nhau 6 ngày (bởi vì tháng 2 có ngày 29). Dựa vào yếu tố này nếu biết trước can chi của 1 ngày bất kỳ của 1 năm thì qua bảng 60 năm Giáp Tý chúng ta có thể tính được can chi của ngày 1/3 của năm đó, sau đó chúng ta tính được can chi của ngày 24/2 cùng năm và nó chính là can chi của ngày 1/3 của năm trước liền với năm đó. Cứ như vậy ta có thể biết được can chi ngày 1/3 của tất cả các năm (chú ý tháng 2 của năm 1900 mặc dù là năm nhuận nhưng nó chỉ có 28 ngày). Ví dụ : Ngày 14/7/1968 theo lịch can chi có can chi là gì? Ngày 1/3 của năm 1968 tra theo bảng là ngày Canh Ngọ. Vậy ngày 29/6/1968 cũng là ngày Canh Ngọ (ta chọn nó bởi vì nó gần nhất với ngày cần phải tìm), từ ngày 29/6 đến 14/7 cách nhau đúng 15 ngày, vì vậy theo bảng nạp âm 60 năm Giáp Tý, ngày Canh Ngọ (29/6) sau 15 ngày sẽ đến ngày Ất Dậu (14/7) . Đến đây ta có trụ thứ ba, đó là trụ ngày . Bảng tra can chi của ngày 1/3 trong các năm từ 1889 đến năm 2008 1889 – Bính Tý.............1929 - Ất Tị................1969 - Ất Hợi 1890 – Tân Tị...............1930 – Canh Tuất........1970 – Canh Thìn 1891 – Bính Tuất..........1931 - Ất Mão................1971 - Ất Dậu 1892 – Nhâm Thìn *......1932 – Tân Dậu *.............1972 – Tân Mão * 1893 – Đinh Dậu............1933 – Bính Dần.........1973 – Bính Thân 1894 – Nhâm Dần.........1934 – Tân Mùi............1974 – Tân Sửu 1895 – Đinh Mùi...........1935 – Bính Tý...........1975 - Bính Ngọ 1896 – Quý Sửu *........1936 – Nhâm Ngọ *..........1976 – Nhâm Tý * 1897 - Mậu Ngọ............1937 – Đinh Hợi......1977 – Đinh Tị 1898 – Quý Hợi............1938 – Nhâm Thìn.....1978 – Nhâm Tuất 1899 – Mậu Thìn...........1939 – Đinh Dậu......1979 – Đinh Mão 1900 – Quý Dậu............1940 – Quý Mão *.......1980 – Quý Dậu * 1901 - Mậu Dần............1941 - Mậu Thân......1981 – Mậu Dần 1902 – Quý Mùi............1942 – Quý Sửu.......1982 – Quý Mùi 1903 - Mậu Tý.............1943 - Mậu Ngọ.......1983 - Mậu Tý 1904 – Giáp Ngọ *.........1944 – Giáp Tý *.....1984 – Giáp Ngọ * 1905 - Kỷ Hợi.............1945 - Kỷ Tị..............1985 - Kỷ Hợi 1906 – Giáp Thìn..........1946 – Giáp Tuất.....1986 – Giáp Thìn 1907 - Kỷ Dậu.............1947 - Kỷ Mão...........1987 - Kỷ Dậu 1908 - Ất Ngọ *...........1948 - Ất Dậu *.........1988 - Ất Mão * 1909 – Canh Thân..........1949 – Canh Dần......1989 – Canh Thân 1910 - Ất Sửu.............1950 - Ất Mùi...........1990 - Ất Sửu 1911 – Canh Ngọ...........1951 – Canh Tý..........1991 – Canh Ngọ 1912 – Bính Tý *..........1952 – Bính Ngọ *....1992 – Bính Tý * 1913 – Tân Tị................1953 – Tân Hợi.......1993 – Tân Tị 1914 – Bính Tuất..........1954 – Bính Thìn.....1994 – Bính Tuất 1915 – Tân Mão..............1955 – Tân Dậu.........1995 – Tân Mão 1916 – Đinh Dậu *.........1956 – Đinh Mão *....1996 – Đinh Dậu * 1917 – Nhâm Dần...........1957 – Nhâm Thân.....1997 – Nhâm Dần 1918 – Đinh Mùi...........1958 – Đinh Sửu......1998 – Đinh Mùi 1919 – Nhâm Tý............1959 – Nhâm Ngọ......1999 – Nhâm Tý 1920 - Mậu Ngọ *..........1960 - Mậu Tý *..........2000 - Mậu Ngọ * 1921 – Quý Hợi............1961 – Quý Tị.............2001 – Quý Hợi 1922 - Mậu Thìn...........1962 - Mậu Tuất.......2002 - Mậu Thìn 1923 – Quý Dậu..............1963 – Quý Mão..........2003 – Quý Dậu 1924 - Kỷ Mão *.............1964 – Kỷ Dậu *.......2..004 - Kỷ Mão * 1925 – Giáp Thân..........1965 - Giáp Dần.......2005 – Giáp Thân 1926 - Kỷ Sửu...............1966 - Kỷ Mùi...........2006 – Kỷ Sửu 1927 – Giáp Ngọ............1967 – Giáp Tý..........2007 – Giáp Ngọ 1928 – Canh Tý *............1968 – Canh Ngọ *.....2008 – Canh Tý * Dấu * trong bảng là năm nhuận, tức tháng 2 của các năm đó có 29 ngày. 4 – Cách xác định Trụ giờ - Tức giờ sinh Theo lịch Can Chi này họ đã xác định giờ đầu tiên trong một ngày của lịch Can Chi luôn luôn là giờ Tý và các giờ sau tuân theo thứ tự như sau : Từ 23 giờ đến 1 giờ là giờ Tý . Từ 11 giờ đến 13 giờ là giờ Ngọ: Từ 1 --------3 ------------ Sửu Từ 13 --------15 ---------- Mùi Từ 3 ---------5 ----------- Dần Từ 15 ------- 17 ---------- Thân Từ 5 ---------7 ----------- Mão Từ 17 --------19 -----------Dậu Từ 7 ---------9 ----------- Thìn Từ 19 --------21 -----------Tuất Từ 9 --------11 ----------- Tị Từ 21 --------23 ----------Hợi Tức là cứ 120 phút (hai tiếng) tương ứng với một giờ của lịch can chi. Ví dụ : 23 giờ 18 phút ngày 16/5 thuộc về ngày nào của lịch can chi? Theo lịch can chi thì từ 23,00’ ngày 16/5 trở đi thuộc về ngày hôm sau, tức là phải thuộc ngày 17/5. Khi đã biết Địa chi của giờ rồi thì hàng Can của nó hoàn toàn phụ thuộc vào Can của trụ ngày như sau : Các ngày có can là Giáp và Kỷ có các giờ lần lượt là : Giáp Tý, Ất Sửu, Bính Dần, Đinh Mão, Mậu Thì , ............. , Ất Hợi (các can tuân theo quy luật vòng tròn như đã nói ở trên) . Các can ngày là Ất và Canh có các giờ lần lượt: Bính Tý,.............., Đinh Hợi. Các................... Bính và Tân............................. : Mậu Tý,..............., Kỷ Hợi. Các ...................Đinh –Nhâm ........................... : Canh Tý,.............., Tân Hợi. Các ...................Mậu – Quý ............................. : Nhâm Tý,............., Quý Hợi. Ví dụ : Các can của giờ Mão và Ngọ của ngày Đinh Dậu theo lịch can chi là gì ? Can của ngày Đinh theo như trên ta có các giờ lần lượt là : Canh Tý, Tân Sửu, Nhâm Dần, Quý Mão, Giáp Thìn, Ất Tỵ, Bính Ngọ, Đinh Mùi, ..... Vì vậy can của giờ Mão là Quý Mão và giờ Ngọ là Bính Ngọ. Đến đây ta có trụ thứ tư, đó là trụ giờ Chúng ta đã có đủ bốn trụ của một người. Ví dụ 1 : Một người sinh ngày 12/11/1965, lúc 8,00 am, có tứ trụ : Năm Ất Tị - tháng Đinh Hợi - ngày Canh Ngọ - giờ Canh Thìn. Ví dụ 2 : Nữ sinh ngày 5/2/1968 lúc 2,07’ có tứ trụ: Đinh Mùi - Quý Sửu - ngày Ất Tị - Đinh Hợi. Ví dụ 3 : Nữ sinh ngày 5/2/1968 lúc 2,08’ có tứ trụ : Mậu Thân - Giáp Dần - ngày Ất Tị - Đinh Hợi. Qua ví dụ 2 và 3 chúng ta thấy hơn nhau 1 phút là sang năm khác, tháng khác và tứ trụ sẽ khác nhau. Cho nên giờ và phút để xác định lệnh tháng là vô cùng quan trọng trong việc xác định tứ trụ. Nếu theo cách xác định mặt trời ở đúng đỉnh đầu tại địa điểm nơi người đó được sinh là 12,00’ thì cách xác định giờ sinh ở bảng trên chỉ đúng với những người được sinh ở vị trí đúng giữa múi giờ đó, còn những người được sinh trong cùng một múi giờ mà ở càng xa điềm giữa của múi giờ đó về hai bên thì sai số về phút càng lớn (có thể từ -60’ tới +60’). Cho nên trong các trường hợp này tốt nhất là lấy cả hai tứ trụ để dự đoán. Đến khi trong thực tế xẩy ra các sự kiện phù hợp với tứ trụ nào thì tứ trụ đó mới được xem là chính xác cho người đó. Bảng tra can giờ theo can ngày Theo tôi chỉ khi nào con người xác định được trụ thứ 5, tức trụ phút này thì môn dự đoán theo Tứ Trụ mới thật sự là hoàn hảo. Bởi vì như chúng ta thấy bốn trụ không có tính đối xứng mà trụ ngày phải ở giữa và mỗi bên phải có hai trụ mới hợp lý. Hơn nữa chúng ta thấy cách xác định trụ tháng và trụ giờ giống nhau bởi đơn vị 12 (12 tháng, 12 giờ), còn cách xác định trụ năm và trụ ngày giống nhau bởi đơn vị 60 (tuân theo bảng nạp âm 60 năm Giáp Tý) thì không có lý do gì để không sử dụng trụ phút cũng được xác định theo đơn vị 60 (cứ hai phút bình thường được tính thành một phút theo lịch Can Chi và nó cũng tuân theo bảng nạp âm 60 năm Giáp Tý). Theo sự suy luận của tôi thì cách xác định phút nó cũng giống như cách xác định năm và ngày của lịch can chi, nhưng chúng ta không biết Họ đã dựa vào nền tảng nào để xác định chúng. Bởi vậy muốn xác định phút theo lịch can chi, chúng ta phải có một vài ví dụ của những cặp sinh đôi chỉ cách nhau vài phút. Dùng phương pháp suy luận ngược, chúng ta dựa vào những sự kiện lớn đã phát sinh ra của các cặp sinh đôi này như tai nạn, ốm đau, ... , nhất là cái chết của họ và nếu chúng ta sử dụng phương pháp tính điểm hạn này để tính các điểm hạn thì may ra có thể xác định được chính xác can chi của phút sinh của mỗi người này. Sau đó các phút khác sẽ được xác định theo bảng nạp âm 60 năm Giáp Tý, hoàn toàn tương tự như xác định năm và ngày. Các câu hỏi trọng tâm của Bài 4: 1 – Vì sao có sự khác nhau về giờ (60’) khi xác định lệnh tháng giữa lịch Trung Quốc theo giờ Bắc Kinh với lịch Việt Nam theo giờ Hà Nội? 2 – Xác định Tứ Trụ theo giờ, ngày, tháng và năm sinh của một số người sau đây (xác định Tứ Trụ theo cả 2 loại lịch như đã nói ở trên): a - 26/3/1961 lúc 0,59’ a.m. b – 3/13/1959 (tức 3/1/1960 dương lịch) lúc 1,01’ a.m. c – 5/3/1968 lúc 22,00’. d – 7/7/2002 lúc 21,00’. e - 25/9/1990 lúc 12,59’ a.m.2 likes
-
Bài để tham khảo Sau đây là một bằng chứng để chứng minh ý tưởng các Lỗ Trắng và Lỗ Đen M cùng với quy luật tuần hoàn của chúng mà tôi đưa ra ở trên đang tồn tại trong vũ trụ bao la: Vietnam.net đưa tin: "Vũ trụ ra đời trước vụ nổ Big Bang? Cập nhật lúc 01/12/2010 08:00:00 AM (GMT+7) Hai nhà khoa học uy tín trên thế giới cho biết, họ vừa phát hiện bằng chứng cho thấy vũ trụ đã tồn tại trước vụ nổ Big Bang. Tuyên bố này đang gây chấn động giới khoa học toàn thế giới. Một bản đồ của bức xạ nền vũ trụ (CMB) trong vũ trụ với những hình tròn có thể biểu hiện các sự kiện diễn ra trước vụ nổ Big Bang. Ảnh: Daily Mail. Tờ Daily Mail đưa tin, khám phá gây tranh cãi về sự ra đời của vũ trụ được Roger Penrose - nhà khoa học, vị giáo sư đáng kính của Đại học Oxford (Anh) và giáo sư Vahe Gurzadyan từ Đại học quốc gia Yerevan (Armenia) cho đăng tải trực tuyến trên trang web arXiv.org. Theo hai chuyên gia này, vũ trụ không phải khởi phát từ vụ nổ Big Bang mà là một chu kỳ của những cái được đặt tên là aeon. Hầu hết các nhà khoa học tin rằng, vũ trụ được tạo ra trong vụ nổ Big Bang cách đây khoảng 13,7 tỉ năm. Các ngôi sao và thiên hà bắt đầu hình thành khoảng 300 triệu năm sau đó. Mặt Trời của chúng ta được sinh ra khoảng 5 tỉ năm trước, trong khi sự sống đầu tiên xuất hiện trên Trái đất cách đây gần 3,7 tỉ năm. Bức xạ nền vi sóng vũ trụ (CMB) cũng được đông đảo giới chuyên môn nhận định ra đời 300 triệu năm sau vụ nổ Big Bang và hiện đã bị làm lạnh tới khoảng -270 độ C. Tuy nhiên, hai giáo sư Penrose và Gurzadyan chỉ ra rằng, bằng chứng mà Chương trình Thăm dò vi sóng bất đẳng hướng Wilkinson của Cơ quan hàng không vũ trụ Mỹ (NASA) thu được trong CMB lại cho thấy: các dấu vết trong nền bức xạ có tuổi đời cao hơn vụ nổ Big Bang. Họ nói đã khám phá được 12 ví dụ về các vòng tròn đồng tâm như trên trong CMB. Một vài trong số đó có năm vòng, đồng nghĩa với việc đối tượng đã trải qua năm sự kiện vô cùng lớn trong lịch sử của nó. Các vòng tròn xuất hiện quanh những cụm thiên hà có biến thể trong bức xạ nền thấp một cách kỳ lạ. Nghiên cứu dường như đã loại bỏ giả thuyết "lạm phát" được đông đảo chấp nhận về nguồn gốc của vũ trụ, rằng nó bắt đầu được hình thành nhờ vụ nổ Big Bang và sẽ tiếp tục mở rộng tới một thời điểm trong tương lai khi quá trình đó chấm dứt. Penrose và Gurzadyan tin rằng, các vòng tròn là dấu vết của những sóng hấp dẫn vô cùng mạnh mẽ khởi phát từ các vụ va chạm lỗ đen siêu lớn trong một aeon trước đó, trước vụ nổ lớn cuối cùng. Điều này có nghĩa là, các chu kỳ vũ trụ thông qua các aeon nằm dưới sự chi phối của những vụ nổ lớn và va chạm lỗ đen siêu lớn. Giáo sư Penrose bày tỏ, lý thuyết mới của ông về "vũ trụ tuần hoàn bảo giác" có nghĩa rằng, các lỗ đen cuối cùng sẽ phá hủy mọi vật chất trong vũ trụ. Theo lý thuyết của ông, khi các lỗ đen hoàn thành tất cả những việc này thì còn lại trong vũ trụ sẽ chỉ là năng lượng, vốn sau đó sẽ kích hoạt một vụ nổ Big Bang mới và aeon mới. Giáo sư Penrose phát biểu với hãng thông tấn BBC: "Trong giả thuyết mà tôi đưa ra, chúng ta có một sự mở rộng theo cấp số nhân nhưng không thuộc aeon của chúng ta - Tôi sử dụng thuật ngữ để mô tả [giai đoạn] từ vụ nổ Big Bang của chúng ta cho đến tương lai xa. Tôi cho rằng, aeon này là một trong hàng loạt sự việc, nơi tương lai xa của các aeon trước bằng cách nào đó trở thành vụ nổ Big Bang của aeon chúng ta". * Thanh Bình" .2 likes
-
Linh -xương-đà-vũ là cách tai nạn chết đuối ,nằm ở cung tài có phải là đang đi dạo trên cầu thấy có người rớt bó bạc xuống sông ,thấy tiếc của phóng xuông sông lượm bạc mà bị chết đuối ? cái này phải suy nghĩ lại đã xem có hợp lý hay không ,đừng tin vội !!!1 like
-
Anh lập topic riêng nhé, no mà ls của anh chắc có nhiều bác cao thủ xem rồi. VCD đắc nhị không ko phải tam không1 like
-
Đêm khua vang vắng một tiếng gà Giật mình rơi lệ thẹn quê xa Trời Nam con gió la đà lá Một nỗi niềm riêng ta còn ta (Cảm hứng đêm khua)1 like
-
Mảnh tình xưa ai làm tan vỡ. Chiến tranh qua đất bỗng hóa hoang tàn Người ra đi xây những giấc mộng vàng Đem tình cũ chôn vào trong dĩ vãng. Hôm nay máu chảy về tim Nhớ người xưa cũ em tìm bóng ai.1 like
-
Người ta không thích cưới mình thì nói thế nào chẳng để phục vụ mục đích từ hôn. Không nhẽ lại bảo chúng mình không hợp nhau? vậy cái gì không hợp? nói ra thì sẽ bị phủ nhận bằng sự thích nghi và chia sẻ. Không nhẽ lại bảo là bố mẹ cấm? thế thì hỏi thăm bố mẹ mà bị phủ nhận thì ê mặt lắm. Không nhẽ bảo là hết yêu? ủa tàn nhẫn thế sao, mới yêu mà đã hết yêu, làm người ai làm thế, làm thế thì thành sở khanh à? Năm nay đổi tình, quên hắn đi, năm sau cưới vội rồi, đừng buồn.1 like
-
1 like
-
1 like
-
Công việc lúc nào cũng bấp bênh, sự nghiệp khó mà có được bước đột phá / Tiền tài tụ tán thất thường, có thể kiếm tiền nhanh, dễ dàng nhưng cũng sẽ tiêu tán ngay sau đó / Nên muộn lập gia đình, vợ dáng người cao gầy, khuôn mặt hơi dài, da hơi xanh xao1 like
-
Nói chuyên với thần phật là luôn được phù trợ1 like
-
Và cười còn làm cho con người ta gần gủi nhau hơn, xóa mọi khoảng cách ! nhất là khi đến cơ quan công quyền được công bậc ban cho nụ cười thì hơn viên PLUZZZZz sủi !!!!1 like
-
Tìm hiểu ý nghĩa những hình vẽ trên mặt trống đồng Ngọc Lũ ( Việt Nam Văn Minh Sử - Lê Văn Siêu ) Lời nói đầu : Theo sự phân loại của Hê-gơ, và bản tổng kê của các nhà khảo cổ tại miền Bắc, trong sách Thời Đại Đồng Thau, những trống đồng loại 1 phát hiện ở Việt Nam khoảng trên 70 chiếc. Số lượng tìm thấy đã hơn bất cứ một miền nào khác. Mặc dầu tướng Mã Viện đời Đông Hán khi qua đánh Giao Chỉ, đã tịch thu không biết bao nhiêu trống nữa, để đúc con ngựa kiểu mà chơi, và đúc cái cột đồng khắc chữ “Đồng Trụ chiết Giao Chỉ diệt“. Những trống loại 1 đã thấy khá nhiều tại Thanh Hoá để có thể đoán chắc rằng Thanh Hoá là nơi sản xuất và những trống cùng loại thấy ở các nơi khác (Hà Đông, Hà Nam, Hà Nội, Hải Phòng, Hoà Bình, Cao Bằng, Lào Cai, Sơn Tây, Bắc Ninh, Hải Dương, Nam Định, Nghệ An) là những trống được kịp thời giấu đi. Đó là những trống có thể đoán được là của các tù trưởng đã thuê lò Thanh Hoá đúc. Đó là những vật biểu tượng quyền uy của tù trưởng. The Dong Son bronze drums Trong những di vật quý giá này , trống thuộc loại vừa kể, thuộc loại đẹp nhất, vẫn là trống tìm thấy năm 1902 ở Ngọc Lũ ( tỉnh Hà Nam ) hiện để tại viện bảo tàng lịch sử ở Hà Nội. Các nhà khảo cổ có tinh thần khoa học mới, khi nghiên cứu về những di vật ấy chắc sẽ hứa hẹn nhiều khám phá về kỹ thuật, niên đại, tương quan tạo tác, tương quan sản xuất, xã hội, cả về trình độ tiến hoá mỹ thuật của dân tộc. Chúng tôi nghiên cứu lịch sử, không bị ước thức bởi những mô thức, nên tự thấy được rộng tay đóng góp một phần tìm tòi thuộc về nội dung những hình vẽ. Tất nhiên không thiếu gì nhà khoa học mới mỉm cười cho là tưởng tượng, nhưng tìm hiểu ý nghĩa của một hình vẽ củ không có lời chú giải của tác giả bên cạnh, mà chẳng dùng tưởng tượng thì dùng cái gì ? Người ta đã tưởng tượng đây là bộ lạc thờ thần mặt trời, mặt trăng, hay thờ chim vật tổ. Nhưng có tinh thần khoa học nào cấm người khác không được có tưởng tượng khác, nhất là khi tưởng tượng này có thể hữu lý, dễ đúng hơn ? Huống chi chúng tôi có ở đây khá đủ những căn cứ của nền cổ học phương Đông mà dường như nhiều nhà khoa học mới vì lẽ nào đó không để ý tới khiến sự nhìn vào di sản văn hoá cũ ở Đông phương, mà thuần bắng con mắt Tây phương, thì có thể sẽ quên những khía cạnh quan trọng ở nột dung chăng ? Chính vì ngại chuyện ấy mà chúng tôi có bản viết này, riêng đề cập tới hình vẽ trên mặt trống đồng Ngọc Lũ, ước mong cho rằng nó sẽ là chìa khoá để mở nhiều những kho tàng khác có thể có trên những mặt trống khác. Chúng tôi không nói tới hình vẽ ở tang trống vì nó có giá trị trang trí nhiều hơn là thực tiễn. Trống đồng Ngọc Lũ Kể từ ngày cái trống này được moi ra khỏi chổ chôn giấu đến nay, những hình vẽ trên mặt trồng vẫn là một thách đố đối với các nhà khảo cổ học, cũng như với nhân dân Việt Nam muốn tìm hiểu nó định nói cái gì ? Chúng tôi rất kính phục và cảm ơn các nhà khảo cổ Tây phương nhất là ở trường Viễn Đông Bác Cổ Pháp, để rất nhiều năm tháng và tâm tư cùng đem những sử học, mày mò, khảo sát, suy luận và giả thiết. Các vị ấy đã viết nên cả những bộ sách lớn khiến trống đồng trở thành một vật nổi tiếng trên Thế Giới. Nhờ các vị mà rất đông những nhà học giả của nước chúng tôi khi đề cập đến di sản văn hoá này cũng đã khiến được cho quần chúng bình dân biết đại khái rằng ngày xưa các bộ lạc của tổ tiên mình thờ vật tổ là con chinh tên là Lạc, thờ thần mặt trời ( vì hình vẽ ở trung tâm mặt trời loé ra nhiều tia sáng),lại có những hình người đội mũ cánh chim, mặc áo xòe ra như lông cánh chim, rồi có cả mắt chim ở đầu mũi thuyền, đầu mũi tên, trên mái chèo, bánh lái thuyền, … Nhiều vị xác quyết rằng bộ lạc cổ xưa này sau đó di cư đến các hải đảo Thái Bình Dương, nên có liên hệ bà con với bộ lạc Dayak ở Bornéo, còn có hình thuyền giống như trên trống dùng vào dịp tang lễ. Nhiều vị khác còn thêm tại miền Bắc có bộ lạc hay hoá trang cái đầu thành đầu chim trong lễ nghi cúng kiếng theo điệu trống đồng. Trống vốn không biết nói, cũng không biết thế nào mà dám cãi. Thôi thà tuỳ người ta nhớ được một tiền tích nào ở đâu thì sẵn ghép cho nó những nội dung khác nhau. Ra sao nó cũng phải chịu. Chúng tôi chỉ trộm nghĩ rằng, trống đồng xưa chỉ tù trưởng mới được phép có, nó như một ấn ngọc tỷ, biểu tượng uy quyền của vị Hoàng Đế, người ta chả nên lầm mà hiểu nó như một sản phẩm công nghệ để trao đổi trong phiên chợ, và hiểu những hình vẽ là để cho vui mắt người mua dùng. Việc cần là tìm cái ý tiên khởi của người xưa gởi gắm vào hình vẽ và nếu có thể được thì tìm hiểu xem hình vẽ đó để làm gì ? Tạm coi là hình mặt trời ở giữa mặt trống, nhưng sao lại 14 tia sáng mà không hơn, không kém ? Sao lại chỉ có 18 con chim ? Sao lại có 6 con gà, 10 con hươu ? Rồi 8 con gà 10 con hươu nữa ? Nếu làm cho đẹp sao không làm đều nhau ? Có lẽ chăng đây là cái trống của người tù trưởng quản lãnh 14 vị tù trưởng nhỏ khác mà tiếng trống đánh lên thì 14 nơi kia đều phải nghe ? Hoặc đây là một đám rước và người ta hoá trang chăng ? Nhưng đâu là đầu, đâu là cuối đám rước ? Và sao lại có người giã gạo ? Người ngồi nhà sàn ? Tài ba và nhiệm vụ của tù trưởng Một tù trưởng hẳn phải có nhiều đám dân đến hỏi những việc thuộc đời sống hằng ngày của họ. Ông phải có hiểu biết gì hơn họ và chỉ bảo họ ra sao ? Chẳng hạn, có đám hỏi đêm nay có thể đi săn được không ? Liệu có trăng không ? Trăng lên vào chặp tối hay gần sáng ? Ngày mai nước có lên không ? Có thể cho thuyền ra khơi đánh cá được không ? Mùa này nên ở nhà hay đi hái trái ? Đã nên giả gạo để ủ làm rượu dùng vào ngày lễ nào đó chưa ? …… Ông tù trưởng phải có nhiệm vụ biết ngày giờ, sáng tối, trăng tròn trăng khuyết, tiết trời nóng lạnh, mưa gió, con nước, tình hình muôn thú, cũng như những dịp lễ lạt phải chuẩn bị trước. Sự tích lũy kinh nghiệm của nhiều đời tù trưởng đã phải được ghi lại, cũng như phải có gì để mà ghi lại, để mà làm việc và hướng dẫn quần chúng. (còn nữa)1 like
-
Người Trung Hoa cho rằng nền thiên văn của họ bắt đầu với Phục Hi, khoảng 2850 năm trước kỷ nguyên Tây lịch. Đến đời Hoàng Đế ( 2657 – 2557 ) ta đã thấy họ dùng cách tính năm tháng theo chu kỳ lục thập hoa giáp ( chu kỳ 12 năm ). Hán thư Nghệ Văn Chí có ghi : “Hoàng Đế ngũ gia lịch tam thập quyển”. Cháu ba đời Hoàng Đế là Chuyên Húc (2545 – 2485 ) rất có nhiều về thiên văn. Trúc Thư Ký Niên viết : Sau khi lên ngôi được 13 năm, vua bắt đầu làm lịch số, và tính toán vị trí các sao trên trời. Xuân Thu Tả Truyện cũng ghi nhận rằng đời vua Chuyên Húc đã có những quan coi về lịch, về nhị phân (xuân phân, thu phân) và nhị chí (đông chí, hạ chí) và đoán được các ngày đầu mùa ( Xuân Thu Chiêu Công năm XVII ). Đời vua Nghiêu ( 2356-2255) đã biết vị trí nhị thập bát tú, nhật nguyệt ngũ tinh, đã định năm là 365 ngày, đã biết đặt tháng nhuận. Riêng dòng tù trưởng Giao Chỉ, một mình hùng cứ một cõi trời nam, thì tính năm 354 ngày với 6 tháng đủ, 6 tháng thiếu trong một năm, cho đúng với tuần trăng và khí tiết, mà đến ngày nay, âm lịch từ Trung Hoa in đem qua bán, cũng tính theo như thế. Nếu cần tính sổ vay mượn, thì có lẽ người Trung Hoa đã thiếu nợ của ta vậy. Lịch in vào sách và lịch khắc trên mặt trống : “Hoàng Đế ngũ gia lịch tam thập tam quyển”. Thật đã rõ: người Trung Hoa in lịch trên sách và lịch 365 ngày. Người giao Chỉ khắc lịch vào mặt trống đồng và lịch 354 ngày. Người Trung Hoa dùng Thiên Can, Địa Chi tính năm tháng ngày theo chu kỳ thập lục hoa giáp. Người Giao Chỉ tính chu kỳ 18 năm và những bội số của 18 ấy. Tỉ như 180 là gồm 3 lần lục thập hoa giáp (180=3x60) . Kết quả vẫn như nhau vậy . Riêng việc có một sáng kiến sắp xếp ngày tháng năm của quyển lịch cho tiện dụng hàng vạn năm thì đã thật là một sáng chế không kém cõi về khoa học, hợp lý, nhất là khi chúng ta được biết chưa thấy dẫn nước nào có một quyển lịch như vậy (Âm lịch hay Dương lịch ). Đi sâu vào chi tiết : Hướng tiến chung : Tất cả các hình vẽ chim, gà, hươu, người, đều tiến theo một hướng trong vòng tròn, từ trái qua phải, thuận theo chiều quay của Trái Đất đối với người quan sát, day mặt về hướng Bắc ( ngược chiều quay của kim đồng hồ ). Bởi lịch này là nguyệt lịch nên đặt tất cả theo chiều quay chung ấy. Đặt đúng khởi điểm của lịch ở cuối con gà trong dòng 6 con như đã nói, thì phương tí ngọ (bắc nam) chếch qua tia cuối bên tay trái của 14 tia ở trung tâm. Ấy là tiết đông chí nhất dương sinh, ngày đầu năm thiến văn, các loại vật đông miên bừng tỉnh dậy và mầm của cây cối cũng bắt đầu đội vỏ đâm lên.Ta gặp trên đường thẳng vạch từ trung tâm ra vòng thứ nhất, hình vẽ của những gì như người ở trong nhà sàn vừa tỉnh dậy. Còn kéo thẳng đường ấy ngược lên phái Nam , là thái dương cư ngọ, ấy là ngày hạ chí, trời nóng nực. Ta gặp hình vẽ của những gì như người làm việc đồng án vắng nhà. Phương mẹo dậu : Từ Tây sang Đông hới chếch lên, không vuông góc với Nam Bắc, ta gặp ở 2 đầu trên đường thẳng vạch tại vòng tròn thứ nhất, hai cái hình giống nhau, cùng khum tròn với 2 cột 2 bên, ở giữa một bệ như bệ thờ. Ấy là Xuân phân, Thu phân, khí trời mát mẻ, mọi người phải lo làm việc tế lễ. Bốn ngày thuộc nhị phân nhị chí này chính là 4 cái mốc thời gian cho người ta căn cứ để làm lịch. (Tóm lượt đoạn viết về ghi chú trong sách Vân Đài Loại Ngữ của Lê Quý Đôn : Không những bóng mặt trời khác ở những ngày nhị phân nhị chí, cả ngày dài ngày ngắn cũng khác nhau. Cả mặt trời mọc, lặn của những ngày nhị phân nhị chí cũng vào những thời khắc khác nhau). Chúng ta không còn những dụng cụ của người Giao Chỉ đã dùng để đo thời gian, nhưng chắc chắn phải có, thì khi chiêm nghiệm mới biết được có những gì khác nhị phân nhĩ chí, để người ta dùng nó như những cái mốc thời gian mà làm lịch. Phương tí ngọ và phương mão dậu với chòm sao bắt đẩu : Trên mặt trống đã có những phương Bắc Nam Đông Tây như vừa nói, thì trống tất nhiên phải được đặt theo phương hướng ấy trước mặt tù trưởng. Do đó ngoài công dụng làm lịch, trống còn là một địa bàn cho một bộ tộc, khi đã định cư, để tìm ra phương hướng đi và về trung tâm định cư của mình, dù bằng đuờng thuỷ hay đường bộ. Trên hình thuyền, ở tang trống, có vẽ cái trống không thể hiểu là phẩm vật đem bán vì chỉ có một cái và lại đặt như thế. Đó là “ cái bàn biết phương hướng “đi về. Người đứng trên cầm cái gì như cung tên nhưng không nhắm để bắn gì cả, đó là công cụ xem sao mà xoay hướng thuyền. Bốn ngày thuộc nhị phân nhị chí này chính là 4 cái mốc thời gian cho người ta căn cứ để làm lịch. (Tóm lượt đoạn viết về ghi chú trong sách Vân Đài Loại Ngữ của Lê Quý Đôn : Không những bóng mặt trời khác ở những ngày nhị phân nhị chí, cả ngày dài ngày ngắn cũng khác nhau. Cả mặt trời mọc, lặn của những ngày nhị phân nhị chí cũng vào những thời khắc khác nhau). Chúng ta không còn những dụng cụ của người Giao Chỉ đã dùng để đo thời gian, nhưng chắc chắn phải có, thì khi chiêm nghiệm mới biết được có những gì khác nhị phân nhĩ chí, để người ta dùng nó như những cái mốc thời gian mà làm lịch. Phương tí ngọ và phương mão dậu với chòm sao bắt đẩu : Trên mặt trống đã có những phương Bắc Nam Đông Tây như vừa nói, thì trống tất nhiên phải được đặt theo phương hướng ấy trước mặt tù trưởng. Do đó ngoài công dụng làm lịch, trống còn là một địa bàn cho một bộ tộc, khi đã định cư, để tìm ra phương hướng đi và về trung tâm định cư của mình, dù bằng đuờng thuỷ hay đường bộ. Trên hình thuyền, ở tang trống, có vẽ cái trống không thể hiểu là phẩm vật đem bán vì chỉ có một cái và lại đặt như thế. Đó là “ cái bàn biết phương hướng “đi về. Người đứng trên cầm cái gì như cung tên nhưng không nhắm để bắn gì cả, đó là công cụ xem sao mà xoay hướng thuyền. Bốn ngày thuộc nhị phân nhị chí này chính là 4 cái mốc thời gian cho người ta căn cứ để làm lịch. (Tóm lượt đoạn viết về ghi chú trong sách Vân Đài Loại Ngữ của Lê Quý Đôn : Không những bóng mặt trời khác ở những ngày nhị phân nhị chí, cả ngày dài ngày ngắn cũng khác nhau. Cả mặt trời mọc, lặn của những ngày nhị phân nhị chí cũng vào những thời khắc khác nhau). Chúng ta không còn những dụng cụ của người Giao Chỉ đã dùng để đo thời gian, nhưng chắc chắn phải có, thì khi chiêm nghiệm mới biết được có những gì khác nhị phân nhĩ chí, để người ta dùng nó như những cái mốc thời gian mà làm lịch. Phương tí ngọ và phương mão dậu với chòm sao bắt đẩu : Trên mặt trống đã có những phương Bắc Nam Đông Tây như vừa nói, thì trống tất nhiên phải được đặt theo phương hướng ấy trước mặt tù trưởng. Do đó ngoài công dụng làm lịch, trống còn là một địa bàn cho một bộ tộc, khi đã định cư, để tìm ra phương hướng đi và về trung tâm định cư của mình, dù bằng đuờng thuỷ hay đường bộ. Trên hình thuyền, ở tang trống, có vẽ cái trống không thể hiểu là phẩm vật đem bán vì chỉ có một cái và lại đặt như thế. Đó là “ cái bàn biết phương hướng “đi về. Người đứng trên cầm cái gì như cung tên nhưng không nhắm để bắn gì cả, đó là công cụ xem sao mà xoay hướng thuyền. ] Bốn ngày thuộc nhị phân nhị chí này chính là 4 cái mốc thời gian cho người ta căn cứ để làm lịch. [/url][/size][/font] (Tóm lượt đoạn viết về ghi chú trong sách Vân Đài Loại Ngữ của Lê Quý Đôn : Không những bóng mặt trời khác ở những ngày nhị phân nhị chí, cả ngày dài ngày ngắn cũng khác nhau. Cả mặt trời mọc, lặn của những ngày nhị phân nhị chí cũng vào những thời khắc khác nhau). [/url][/size][/font] Chúng ta không còn những dụng cụ của người Giao Chỉ đã dùng để đo thời gian, nhưng chắc chắn phải có, thì khi chiêm nghiệm mới biết được có những gì khác nhị phân nhĩ chí, để người ta dùng nó như những cái mốc thời gian mà làm lịch. [/url][/size][/font] Phương tí ngọ và phương mão dậu với chòm sao bắt đẩu : [/url][/b][/size][/font] Trên mặt trống đã có những phương Bắc Nam Đông Tây như vừa nói, thì trống tất nhiên phải được đặt theo phương hướng ấy trước mặt tù trưởng. Do đó ngoài công dụng làm lịch, trống còn là một địa bàn cho một bộ tộc, khi đã định cư, để tìm ra phương hướng đi và về trung tâm định cư của mình, dù bằng đuờng thuỷ hay đường bộ. Trên hình thuyền, ở tang trống, có vẽ cái trống không thể hiểu là phẩm vật đem bán vì chỉ có một cái và lại đặt như thế. Đó là “ cái bàn biết phương hướng “đi về. Người đứng trên cầm cái gì như cung tên nhưng không nhắm để bắn gì cả, đó là công cụ xem sao mà xoay hướng thuyền. file:///C:/DOCUME%7E1/ANHTAM%7E1/LOCALS%7E1/Temp/msohtml1/01/clip_image001.jpg Hình thuyền trên thân trống đồng Ngọc Lũ. Các hướng Đông Tây được ước định theo chiều xoay của kim đồng hồ. Đó là khi người ta quan niệm Trái Đất đứng yên một chỗ, chỉ mặt trời mọc đằng Đông , lặn đằng Tây. Nhưng khi người ta chiêm nghiệm và quan niệm Mặt Trời đứng nguyên vị và Trái Đất chạy xung quanh Mặt Trời theo quỹ đạo thực của nó, thì phương hướng lại được ước định như sau : Bốn ngày thuộc nhị phân nhị chí này chính là 4 cái mốc thời gian cho người ta căn cứ để làm lịch. (Tóm lượt đoạn viết về ghi chú trong sách Vân Đài Loại Ngữ của Lê Quý Đôn : Không những bóng mặt trời khác ở những ngày nhị phân nhị chí, cả ngày dài ngày ngắn cũng khác nhau. Cả mặt trời mọc, lặn của những ngày nhị phân nhị chí cũng vào những thời khắc khác nhau). Chúng ta không còn những dụng cụ của người Giao Chỉ đã dùng để đo thời gian, nhưng chắc chắn phải có, thì khi chiêm nghiệm mới biết được có những gì khác nhị phân nhĩ chí, để người ta dùng nó như những cái mốc thời gian mà làm lịch. Phương tí ngọ và phương mão dậu với chòm sao bắt đẩu : Trên mặt trống đã có những phương Bắc Nam Đông Tây như vừa nói, thì trống tất nhiên phải được đặt theo phương hướng ấy trước mặt tù trưởng. Do đó ngoài công dụng làm lịch, trống còn là một địa bàn cho một bộ tộc, khi đã định cư, để tìm ra phương hướng đi và về trung tâm định cư của mình, dù bằng đuờng thuỷ hay đường bộ. Trên hình thuyền, ở tang trống, có vẽ cái trống không thể hiểu là phẩm vật đem bán vì chỉ có một cái và lại đặt như thế. Đó là “ cái bàn biết phương hướng “đi về. Người đứng trên cầm cái gì như cung tên nhưng không nhắm để bắn gì cả, đó là công cụ xem sao mà xoay hướng thuyền. file:///C:/DOCUME%7E1/ANHTAM%7E1/LOCALS%7E1/Temp/msohtml1/01/clip_image001.jpg Hình thuyền trên thân trống đồng Ngọc Lũ. Các hướng Đông Tây được ước định theo chiều xoay của kim đồng hồ. Đó là khi người ta quan niệm Trái Đất đứng yên một chỗ, chỉ mặt trời mọc đằng Đông , lặn đằng Tây. Nhưng khi người ta chiêm nghiệm và quan niệm Mặt Trời đứng nguyên vị và Trái Đất chạy xung quanh Mặt Trời theo quỹ đạo thực của nó, thì phương hướng lại được ước định như sau : Bốn ngày thuộc nhị phân nhị chí này chính là 4 cái mốc thời gian cho người ta căn cứ để làm lịch. (Tóm lượt đoạn viết về ghi chú trong sách Vân Đài Loại Ngữ của Lê Quý Đôn : Không những bóng mặt trời khác ở những ngày nhị phân nhị chí, cả ngày dài ngày ngắn cũng khác nhau. Cả mặt trời mọc, lặn của những ngày nhị phân nhị chí cũng vào những thời khắc khác nhau). Chúng ta không còn những dụng cụ của người Giao Chỉ đã dùng để đo thời gian, nhưng chắc chắn phải có, thì khi chiêm nghiệm mới biết được có những gì khác nhị phân nhĩ chí, để người ta dùng nó như những cái mốc thời gian mà làm lịch. Phương tí ngọ và phương mão dậu với chòm sao bắt đẩu : Trên mặt trống đã có những phương Bắc Nam Đông Tây như vừa nói, thì trống tất nhiên phải được đặt theo phương hướng ấy trước mặt tù trưởng. Do đó ngoài công dụng làm lịch, trống còn là một địa bàn cho một bộ tộc, khi đã định cư, để tìm ra phương hướng đi và về trung tâm định cư của mình, dù bằng đuờng thuỷ hay đường bộ. Trên hình thuyền, ở tang trống, có vẽ cái trống không thể hiểu là phẩm vật đem bán vì chỉ có một cái và lại đặt như thế. Đó là “ cái bàn biết phương hướng “đi về. Người đứng trên cầm cái gì như cung tên nhưng không nhắm để bắn gì cả, đó là công cụ xem sao mà xoay hướng thuyền. file:///C:/DOCUME%7E1/ANHTAM%7E1/LOCALS%7E1/Temp/msohtml1/01/clip_image001.jpg Hình thuyền trên thân trống đồng Ngọc Lũ. Các hướng Đông Tây được ước định theo chiều xoay của kim đồng hồ. Đó là khi người ta quan niệm Trái Đất đứng yên một chỗ, chỉ mặt trời mọc đằng Đông , lặn đằng Tây. Nhưng khi người ta chiêm nghiệm và quan niệm Mặt Trời đứng nguyên vị và Trái Đất chạy xung quanh Mặt Trời theo quỹ đạo thực của nó, thì phương hướng lại được ước định như sau : file:///C:/DOCUME%7E1/ANHTAM%7E1/LOCALS%7E1/Temp/msohtml1/01/clip_image002.jpg Vì vậy, trên mặt trống đồng ta thấy : Vì vậy, trên mặt trống đồng ta thấy : file:///C:/DOCUME%7E1/ANHTAM%7E1/LOCALS%7E1/Temp/msohtml1/01/clip_image001.jpg Vấn đề hướng Đông Tây, theo sử gia Hy Lạp Hérodote, ở thế kỷ V trước CN, khi tiếp xúc với các tu sĩ Ai Cập, ông được các vị này cho biết trải qua 341 thế hệ thiên vương Ai Cập ( tính ra 11 ngàn năm ) đã có 4 lần mặt trời mọc và lặn ở phương khác nhau. 2 lần nó đã mọc ở phía nó lặn bây giờ và 2 lần nó đã lặn ớ phía nó mọc bây giờ. (còn nữa)1 like
-
LỜI TIÊN TRI 2011 Đại ý: Thế giới sẽ khủng hoảng kinh tế. Lần này ảnh hưởng tới đời sống hạ tầng xã hội.......Bắt đầu nặng từ tháng 8 Việt lịch. ================================== Tổng thống Mỹ B.Obama Mỹ có thể sẽ rơi vào cuộc khủng hoảng tài chính tồi tệ Thứ hai, 16/05/2011, 10:48(GMT+7) VIT - Nước Mỹ có thể sẽ rơi vào một cuộc khủng hoảng tài chính và kinh tế còn tồi tệ hơn cả cuộc suy thoái trong giai đoạn 2008-2009. Tổng thống Mỹ Barack Obama cảnh báo, nước Mỹ sẽ rơi vào một cuộc khủng hoảng tài chính và kinh tế còn tồi tệ hơn cả cuộc suy thoái trong giai đoạn 2008-2009, nếu Quốc hội không nâng hạn mức nợ và các nhà đầu tư mất niềm tin vào thị trường nước này. Trong bài phát biểu trên kênh truyền hình CBS News, ông Obama nhắc lại rằng, Đảng Cộng hòa không nên quyết định nâng trần nợ với việc cắt giảm chi tiêu như là một biện pháp giảm thâm hụt. Ông nói: “Nếu nhà đầu tư trên toàn thế giới cho rằng niềm tin và mức độ tín nhiệm của Mỹ không được củng cố, nếu họ nghĩ rằng Mỹ có thể không thể thanh toán được nợ, thì điều này có thể sẽ khiến hệ thống tài chính sụp đổ”. “Chúng ta có thể rơi vào một cuộc suy thoái tồi tệ hơn, một cuộc khủng hoảng tài chính tồi tệ hơn so với trước đây”. Hiện Nhà Trắng và Đảng Cộng hòa thuộc Quốc hội đang bế tắc trong cuộc tranh luận về thâm hụt ngân sách và trần nợ. Bộ Tài chính Mỹ dự kiến, nợ công của Mỹ sẽ đạt tới giới hạn là 14.300 tỷ USD vào ngày hôm nay. Điều này khiến Mỹ không thể tiếp cận được tới các thị trường trái phiếu. Bộ này cũng cho biết, Mỹ có khả năng trì hoãn nguy cơ vỡ nợ đến ngày 2/8 bằng cách dùng các nguồn tiền khác để trang trải cho các hoạt động chi tiêu. Tổng thống Obama cam kết giảm thâm hụt, nhưng khuyến khích kết hợp với việc nâng giới hạn nợ. Theo ông, việc nâng giới hạn nợ sẽ được thực hiện, tuy nhiên, Mỹ cũng cần thận trọng trong việc cắt giảm thâm hụt. Một báo cáo từ tổ chức nghiên cứu Third Way, dự kiến được công bố vào hôm nay, sẽ cho thấy sự ủng hộ của nhóm chuyên gia này đối với cảnh báo của Tổng thống Barack Obama. Tổ chức này cho biết, Mỹ có thể sẽ lại rơi vào suy thoái nếu Washington không có hành động để nâng giới hạn trần nợ. Hậu quả có thể dẫn tới khoảng 640.000 việc làm biến mất, thị trường chứng khoán sụt giảm và hoạt động cho vay bị siết chặt. Phó Tổng thống Mỹ Joe Biden đang chủ trì các cuộc đàm phán giữa Nhà Trắng và các nhà lập pháp về cách thức cắt giảm thâm hụt ngân sách và nâng trần nợ. Ông cho biết, hai bên đã đạt được một số tiến triển nhưng vẫn còn quá sớm để lạc quan về thỏa thuận cuối cùng sẽ đạt được. Theo Reuters Tin dịch ================================== http://diendan.lyhocdongphuong.org.vn/bai-viet/7290-nhung-diem-bao/page__pid__125779__st__100#entry1257791 like
-
LỜI TIÊN TRI 2011 Đại ý: sau tháng Ba Việt lịch, sự hỗn loạn tại trung tâm các đại lục địa sẽ giảm đi, nhưng lại xuất hiện ở nơi khác...... =========================================== Biên giới Israel dậy sóng bạo lực 16/05/2011 10:06 (TNO) Israel đã bắn vào người biểu tình ở biên giới với lãnh thổ Palestine, Syria và Li-băng khiến ít nhất 12 người chết và hàng chục người khác bị thương trong hôm 15.5, theo AFP. Trong một vụ biểu tình lớn, hàng ngàn người ủng hộ Palestine từ Syria đã tiến vào cao nguyên Golan, theo Israel. Trong hôm 15.5, những người Palestine đã tổ chức kỷ niệm ngày Nakba hay còn gọi là Ngày thảm họa, từ của họ dùng để chỉ ngày thành lập nhà nước Israel vào năm 1948. Hàng trăm ngàn người Palestine đã phải rời bỏ nhà cửa sau khi Israel tuyên bố lập quốc. Người biểu tình tại biên giới Israel - Li-băng - Ảnh: AFP Phản ứng trước tình trạng bạo lực hôm 15.5, Thủ tướng Israel Benjamin Netanyahu nói ông hy vọng “sự ổn định và thanh bình sẽ nhanh chóng quay trở lại song chúng tôi kiên quyết bảo vệ chủ quyền và biên giới của mình”. Đụng độ đã xảy ra tại 4 khu vực biên giới hoặc trạm kiểm soát khác nhau - tại khu Erez ở Gaza, tại cửa khẩu gần thành phố Ramallah thuộc Bờ Tây, trên cao nguyên Golan và biên giới với Li-băng. Theo BBC, các cuộc biểu tình trong ngày Nakba đã được truyền thêm cảm hứng từ các cuộc nổi dậy ở Trung Đông và Bắc Phi trong thời gian qua. Đụng độ tại cửa khẩu Qalandiya kéo dài trong nhiều giờ với hàng chục người Palestine bị thương. Người biểu tình đã ném đá vào lực lượng an ninh Israel, và lực lượng này đáp trả bằng hơi cay và đạn cao su, theo BBC. Tại cao nguyên Golan, quân đội Israel cho biết họ chỉ bắn cảnh cáo với số đông người biểu tình đang tìm cách phá vỡ rào chắn biên giới gần ngôi làng Majdal Shams. Tuy nhiên, các tường thuật cho biết, có ít nhất hai người thiệt mạng và hàng chục người bị thương tại đây. Binh sĩ Israel triển khai trên cao nguyên Golan - Ảnh: AFP Chuẩn tướng Yoav Mordechai nói binh sĩ Israel vẫn đang tìm cách kiểm soát đám đông và hàng chục người biểu tình đã băng qua biên giới. Quân đội Israel đã cô lập làng Majdal Shams và lùng sục từng ngôi nhà để tìm kiếm những người xâm nhập. Israel chiếm cao nguyên Golan từ tay Syria trong giai đoạn cuối của cuộc chiến 6 ngày vào năm 1967. Tại biên giới Israel - Li-băng, số đông người biểu tình đã tiến về các cửa khẩu. Hàng chục chiếc xe buýt đã chở người biểu tình đến biên giới trong cuộc tuần hành có tên “Tuần hành vì sự trở về của Palestine”. Quân đội Li-băng đã bắn chỉ thiên để giải tán người biểu tình. Tướng Mordechai nói binh sĩ Israel đã nổ súng khi người biểu tình bắt đầu phá hoại hàng rào biên giới. Các quan chức quân đội Li-băng cho biết, có 10 người đã thiệt mạng và một số khác bị thương. Trước diễn biến bạo lực này, Tổng thư ký Liên Hiệp Quốc Ban Ki-moon đã kêu gọi Israel và thế giới Ả Rập phải thể hiện “tối đa trách nhiệm để tránh một cuộc chiến mới”. Trong khi đó, Tổng thống Iran Mahmoud Ahmadinejad đã gọi nhà nước Israel là một “tế bào ung thư” và cần phải loại bỏ, theo AFP. Sơn Duân1 like
-
Xuất hiện video tuyên bố bin Laden vẫn còn sống - Suaramedia trích tuyên bố của một lãnh đạo Pakistan cho biết, trùm khủng bố Osama bin Laden vẫn còn sống và sống khỏe mạnh. Theo lời tư lệnh Wali Rahman - một chỉ huy của tổ chức Mujahideen ở Pakistan, thì Sheikh Osama bin Laden vẫn còn sống và tình trạng sức khỏe rất tốt. Video Wali Rahman tuyên bố thông tin trên được đăng tải trên một diễn đàn Ansar của người Hồi giáo và được BBC từ Ả Rập trích dẫn lại. Ông nói: "Mặc dù tôi không gặp trực tiếp Sheikh Osama, nhưng tôi có thể xác nhận rằng Sheikh Osama bin Laden vẫn còn sống và trong tình trạng tốt". Video nói tr vẫn chưa được xác minh. Trong video là cảnh một người đàn ông trông giống bin Laden bị thương ở chân và tay và đang được hai người khác giúp đỡ băng bó và không hề có vết thương trên trán. Địa điểm quay giống như trong một khu rừng. Xem Video Trước đó, hôm 2/5, không lâu sau tuyên bố của Tổng thống Obama về cái chết của trùm khủng bố, một đại diện cấp cao của Lực lượng Taliban thuộc nhóm "Tehrik-e-e Taliban Pakistan" ở Pakistan đã xuất hiện trên kênh truyền hình "Geo - TV" tuyên bố rằng bin Laden thực sự vẫn còn sống và cho rằng thông tin mà Mỹ đã đưa ra là tin "giả".Chính quyền của Tổng thống Obama cũng hai lần lên tiếng đính chính các thông tin sai lệch có liên quan tới cái chết của bin Laden. Những thông tin này cho rằng "quá vội vàng" khi tin bin Laden đã chết trong tình trạng không có vũ trang và dùng người vợ trẻ làm lá chắn. Cũng có tin nói rằng người vợ này vẫn còn sống, chỉ bị bắn vào chân. Tổng thống Obama đã từ chối công bố ảnh chụp thi thể của bin Laden sau khi chết vì cho rằng những hình ảnh này quá "khủng khiếp". Nguyễn Hường (Tổng hợp)1 like
-
Quán vắng!
+Achau+ liked a post in a topic by Thiên Sứ
Sự tự tin của quân đội Trung Quốc Tác giả: Rukmani Gupta Tuanvietnam.vn Bài đã được xuất bản.: 15/05/2011 06:00 GMT+7 Sách trắng quốc phòng Trung Quốc gần đây nhất cho thấy việc sẵn sàng sử dụng một quân đội đang được hiện đại họa để giải quyết các tranh chấp ngoại giao. Tháng 10 năm ngoái, Chủ tịch Hồ Cẩm Đào nói với Uỷ ban trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc rằng, nước này vẫn đang trong một giai đoạn "cơ hội chiến lược". Gần sáu tháng sau đó, điều này được sự nhất trí cao từ các nhà hoạch định quân sự khi thể hiện rõ ràng qua sách trắng quốc phòng. Sách trắng nhấn mạnh tầm quan trọng từ sức mạnh kinh tế đang trỗi dậy của Trung Quốc và dĩ nhiên không thiếu những lời thanh phiền về việc Mỹ bán vũ khí cho Đài Loan, việc Mỹ dính dáng vào châu Á - Thái Bình Dương và quyết định củng cố các liên minh quân sự của mình trong khu vực. Tuy nhiên, sách đưa ra đánh giá hết sức lạc quan về sức mạnh quốc gia chính là "kinh tế". Cũng không hẳn Trung Quốc không ý thức đầy đủ về những nguy cơ bắt nguồn từ tăng trưởng. Nhưng cũng không hề thấy ngạc nhiên khi Trung Quốc cảm thấy tự tin hơn bao giờ hết sau thành công vượt bậc về mặt kinh tế trong bối cảnh kinh tế toàn cầu suy giảm trong những năm gần đây. Sách trắng mới nhất lập luận rằng, "sức mạnh toàn diện của Trung Quốc đã bước sang một giai đoạn mới". Tuy nhiên, khác với cuốn sách trước, vốn chỉ đơn giản nhấn mạnh rằng, Trung Quốc "sẽ không tìm kiếm bá quyền hoặc tham gia mở rộng quân sự... bất kể phát triển thế nào". Tài liệu mới nhất nói rõ ràng hơn rằng: "Trung Quốc sẽ không bao giờ tìm kiếm bá quyền, cho dù phát triển kinh tế ra sao". Ảnh: Diplomat Cho dù có những khẳng định rõ ràng như vậy, Trung Quốc vẫn có sự tự tin mạnh mẽ khi đối mặt với những hoài nghi gia tăng về chính họ. Sách trắng nhấn mạnh: "các động thái can thiệp và chống lại Trung Quốc từ bên ngoài và gây áp lực với Trung Quốc xảy ra khi họ tìm kiếm cách bảo vệ quyền và lợi ích trên vùng lãnh thổ, vùng biển rộng lớn". Trước mắt, sách trắng đưa ra bốn sứ mệnh lớn với quốc phòng Trung Quốc: - Bảo vệ chủ quyền quốc gia, an ninh và lợi ích phát triển quốc gia. - Đảm bảo duy trì ổn định và hài hòa xã hội; - Đẩy mạnh hiện đại hóa quốc phòng và các lực lượng vũ trang; - Duy trì hòa bình và ổn định thế giới. Mặc dù không xuất hiện nhiều điểm mới mẻ, nhưng ở đây có những sự khác biệt thú vị trong tài liệu mới nhất so với các sách trắng trước đây. Ví dụ, về vấn bảo vệ lợi ích an ninh đất nước, không gian mạng lần đầu tiên được xem xét như một trọng điểm quốc phòng. Với việc tạo lập một hệ thống hoạt động chung được coi như đặc điểm chính của hiện đại hóa quân đội Trung Quốc (PLA), sách trắng lần này nhấn mạnh đến phát triển công nghệ thông tin. Tài liệu cũng khẳng định, Trung Quốc đã có thành tựu đáng kể trong phát triển cơ sở hạ tầng thông tin trong các lực lượng vũ trang, với tổng chiều dài "mạng lưới cáp quang truyền thông quốc phòng đã có sự tăng trưởng lớn". Theo sách trắng, PLA đã có tiến bộ lớn trong công cuộc hiện đại hóa và những gì họ mô tả là "thông tin hóa" các lực lượng của mình. Trong các năm trước, việc xây dựng các khả năng chiến đấu mới để thắng thế tỏng các cuộc chiến tranh địa phương - và tăng cường hỏa lực, tính linh động, khả năng bảo vệ và hỗ trợ cần thiết - được nhấn mạnh. Tài liệu mới nhất còn nhấn mạnh rằng, PLA đã phát triển những loại hình mới trong các lực lượng chiến đấu, tối ưu hóa tổ chức và cơ cấu, đẩy mạnh mã số hóa và nâng cấp vũ khí chiến đấu, triển khai những nền tảng vũ khí mới. Về tình hình cụ thể của các lực lượng, sự chuyển dịch của không quân PLA được cho là tập trung vào phòng không và tên lửa, việc đào tạo trong môi trường điện từ và những tình huống chiến thuật phức tạp được thực hiện. Với Hải quân PLA, tài liệu nhấn mạnh, việc hiện đại hóa lực lượng dường như liên quan tới yêu cầu "chiến lược phòng thủ ngoài khơi". Nhưng có lẽ là để khiêu khích các đối thủ của Trung Quốc, không có chi tiết chính xác về chiến lược này. Dù sao cũng có một điều rõ ràng là, PLA đang hướng tới những hconj lựa hậu cần mới để đảm bảo cho các sứ mệnh hàng hải mở rộng, trong khi tiếp tục đầu tư vào hệ thống hỗ trợ trên bờ. Với Lực lượng Nhị pháo PLA - trực tiếp dưới sự chỉ huy và kiểm soát của Quân ủy Trung ương và được xem là lực lượng nòng cốt cho răn đe chiến lược được gia tăng bốn khả năng gồm: phản ứng nhanh, thâm nhập, tấn công chính xác và gây tổn thất. Vậy làm thế nào để báo cáo tin rằng, các nỗ lực hiện đại hóa đang diễn ra? Một lần nữa, đánh giá đưa ra khác lạc quan. Ví dụ, báo cáo nói rằng đã có sự "tham gia đáng kể các khả năng của PLQ trong các hoạt động diễn tập tầm xa, liên khu vực, các chiến dịch hộ tống ở những vùng biển xa và những môi trường chiến trường phức tạp". Để né tránh những âm thanh báo động từ bên ngoài, lần đầu tiên, sách trắng giới thiệu một phần riêng biệt mang tên "Xây dựng lòng tin quân sự", tập trung vào sự tham gia của Trung Quốc trong các cuộc tham vấn chiến lược, những biện pháp xây dựng lòng tin ở các khu vực biên giới, hợp tác về an ninh hàng hải, tham gia các cơ chế an ninh khu vực và trao đổi quân sự. Đây không phải là lần đầu tiên những thông tin như vậy đưa ra trong một cuốn sách trắng, nhưng lần này, nó được trình bày một cách toàn diện. Vậy những gì có thể rút ra từ sách trắng mới nhất? Có lẽ quan trọng nhất, một lần nữa cần nhấn mạnh rằng, Trung Quốc đang ngày một tự tin về sức mạnh kinh tế và quân sự của mình, và thấy trước một môi trường quốc tế có lợi cho sự phát triển các tài sản vô hình và hữu hình của họ. Thái hai, đó là các khả năng trình diễn lực lượng, cùng với việc làm rõ sự tham gia của Trung Quốc trong các sứ mệnh LHQ, về vai trò "xây dựng" của họ trong an ninh khu vực và chỉ ra rằng, mục tiêu quốc phòng là "duy trì hòa bình và ổn định thế giới, với tư tưởng ngày càng sẵn ssangf đảm nhận một vai trò lãnh đạo trong các công việc toàn cầu. Thứ ba, tài liệu dường như nhấn mạnh quyền lực của đảng cầm quyền với các lực lượng vũ trang. Cuối cùng là đề cập cụ thể mang tên "Hệ thống luật pháp quân sự", nhấn mạnh tầm quan trọng của các hiệp ước quốc tế và các đạo luật nội địa liên quan với các lực lượng vũ trang Trung Quốc. Bất luận thế nào, báo cáo vẫn để lại ấn tượng rằng, Trung Quốc sẽ ngày càng dựa vào sức mạnh quân sự và kinh tế để giải quyết những tranh chấp ngoại giao. Và, thật mỉa mai, trong khi nỗ lực tăng cường lòng tin thông qua sự minh bạch hơn thì cuối cùng, Trung Quốc lại chỉ có thể đem lại một cái nhìn rõ ràng hơn về chính họ vốn khiến những nước khác lo lắng. * Rukmani Gupta là một chuyên gia nghiên cứu tại Viện Nghiên cứu và Phân tích Quốc phòng ở New Delhi. Thụy Phương (Theo diplomat) ================================================ Người Trung Quốc thì lúc nào mà chẳng tự tin. Ngay khi mới thành lập 1949 họ đã giải phóng Tây Tạng, 4 năm sau bụp Hoa Kỳ tại mặt trân Cao Ly, hơn 10 năm sau chiến với Ấn Độ tại Hymalaya, gần 20 năm sau tranh chấp biên giới với Liên Xô siêu cường bậc nhất nhì thế giới bấy giờ. Ấy là vào lúc kinh tế còn èo uột, vũ khí so với Hoa Kỳ và Liên xô cùng thời đại còn thuộc loại lạc hậu. Huống chi bi wờ có cả tên lửa đạn đạo, vệ tính nhân tạo, máy bay tàng hình, lại mới tậu cái tàu sân bay nữa mới ghê chứ. Họ tự tin cũng phải. Chỉ có mỗi cái khác nhau là thời thế không như trước.1 like -
Thiên tai tăng nặng....... ====================== Lũ lụt ở Mỹ và hạn hán ở châu Âu đang đe dọa ngành nông nghiệp toàn cầu Thứ 5, 12/05/2011, 13:59 Lũ lụt có thể khiến Mỹ phải trì hoãn hoặc hủy bỏ kế hoạch trồng 1,2 triệu hécta lúa trong khi hạn hán ở châu Âu có thể làm giảm sản lượng 1 triệu tấn lúa mì. Ngành nông nghiệp thế giới đang bị đe dọa bởi thiên tai khắp nơi, từ Trung Quốc đến Mỹ và châu Âu. Tại Mỹ, lũ lụt nghiêm trọng nhất kể những năm 20 của thế kỷ trước đã làm ngập 3 triệu acre (mẫu Anh) đất nông nghiệp của nước này. Nước lũ có nguy cơ làm chậm, thậm chí là hủy bỏ kế hoạch trồng 1,2 triệu hécta lúa ở bang Arkansas, nơi chiếm 10% tổng diện tích đất trồng lúa của nước xuất khẩu gạo lớn thứ ba trên thế giới. Trong khi đó ở châu Âu, nước trồng lúa mì lớn nhất là Pháp và nước láng giềng Đức đang đối mặt với hạn hán nghiêm trọng. Ba Lan và Anh cũng bị đe dọa. Bộ Nông nghiệp Pháp cho biết các vùng trồng lúa mì ở nước này đang đối mặt với nắng nóng nhất chỉ sau các đợt nóng lịch sử hồi năm 1900 và 1953. Hội đồng Ngũ cốc Quốc tế cho rằng, sản lượng lúa mì châu Âu niên vụ 2011/12 có thể giảm hơn 1 triệu tấn xuống còn 134 triệu tấn do hạn hán lan rộng. Dự kiến đến nửa cuối tháng 5, tình trạng mới được cải thiện. Ở Trung Quốc, hạn hán hồi tháng 2 cũng đe dọa sản lượng lúa mì nghiêm trọng. Giới phân tích lo ngại, thiên tai ở nhiều nơi trong năm nay có thể khiến giá lúa mì tăng mạnh như từng xảy ra trong năm ngoái vì hạn hán Nga và Ukraina, là khởi đầu của làn sóng gia tăng giá lương thực. Phương Thảo Theo Reuters, Bloomberg1 like
-
LỜI TIÊN TRI 2011 Khủng hoảng kinh tế toàn cầu năm 2011 sẽ ảnh hưởng tới cuộc sống hạ tầng xã hội..... ================================================================================ Đồng USD “trói chân” dầu mỏ, dầu mỏ “trói chân” toàn cầu Thứ bảy, 14/05/2011, 09:06(GMT+7) VIT - Mỹ đang dùng đồng USD yếu để kích thích nền kinh tế nội địa, trước khi Mỹ xác nhận nền kinh tế đã khôi phục bình thường, đồng USD ắt sẽ tiếp tục yếu đi. Điều đáng chú ý là, do tính chất đặc thù của đồng USD, cách làm này của Mỹ có thể nói đã “trói chân” toàn cầu. Bởi vì dầu mỏ dùng USD để thanh toán, khi đồng USD “trói chân” dầu mỏ, dầu mỏ liền “trói chân” toàn cầu. Ảnh minh họa Từ ngày 25/4 đến ngày 3/5, biểu đồ dạng nến của tỷ giá EUR/USD đi theo hình chữ “/”, nhìn chung đi lên, nhưng khi đạt lên ngưỡng 1,4900 vấp phải một lực cản mạnh mẽ. Tỷ giá hôm 26/4 đóng cửa 1,4552, đứng mức 1,4579. Vào ngày 27/4, do Cục dự trữ liên bang Mỹ FED liên tục duy trì chính sách nới lỏng tiền tệ, nên tỷ giá tăng vọt lên ngưỡng 1,4650. Cũng trong ngày hôm đó, thị trường đã đón chào cuộc họp của Ủy ban thị trường mở liên bang FOMC thuộc FED vốn mong đợi từ lâu. Nhưng hội nghị lần này vẫn chưa cứu được đồng USD. Kết quả cuộc họp cho thấy, FED sẽ giữ nguyên không thay đổi mức lãi suất cơ bản 0,25%, và dự đoán trong bối cảnh nền kinh tế có tỷ lệ sử dụng nguồn vốn khá thấp, dự báo lạm phát ổn định, lãi suất cơ bản sẽ vẫn ở mức siêu thấp trong một thời gian khá dài. Chủ tịch FED B. Bernanke cho hay, sau khi FED tung ra chương trình thu mua trái phiếu trị giá 600 tỷ USD QE2, quy mô nới lỏng vẫn sẽ theo đà ổn định, đồng thời tiếp tục dùng lợi nhuận chứng khoán đáo hạn để tái đầu tư. Quyết định vừa mới được ban bố, chắc chắn sẽ có nhiều nhà đầu tư lo lắng về cảnh ngộ của đồng USD. Tình trạng hiện nay cho thấy, đồng USD yếu dường như là việc đã định, trừ phi chính sách tiền tệ của FED bắt đầu bình thường hóa. Nhưng hiện giờ hầu như không có khả năng này. Bởi vì Mỹ đang dùng đồng USD yếu để kích thích nền kinh tế, trước khi Mỹ xác nhận kinh tế đã khôi phục bình thường, đồng USD chắc tiếp tục suy yếu. Điều đáng chú ý là, do tính chất đặc thù của đồng USD, biện pháp của Mỹ có thể nói đã “trói chân” toàn cầu. Bởi vì dầu mỏ dùng đồng USD để thanh toán, khi đồng USD “trói chân” dầu mỏ, dầu mỏ liền “trói chân” toàn cầu. Từ khi Trung Đông và Bắc Phi bắt đầu bất ổn chính trị đến nay, giá dầu không ngừng tăng lên, còn đồng USD lại liên tục yếu đi. Kinh tế Mỹ cần đồng USD yếu để kích thích, một khi đồng USD yếu, giá dầu và giá vàng sẽ tăng, dẫn đến lạm phát, tiền tệ của các nước khác cũng sẽ “bị tăng giá”, các nước buộc phải áp dụng biện pháp đối phó, nâng giá luôn là một phương pháp thường dùng nhất. Nhưng những nước đã nâng lãi suất do lợi tức tăng sẽ lại không ngừng thu hút vốn của thị trường nên khiến đồng USD càng yếu hơn.Các nhà kinh tế lo ngại, việc giá năng lượng tiếp tục tăng cao sẽ gây ảnh hưởng lớn nền kinh tế thế giới đang bắt đầu hồi phục. Theo quy luật, mỗi xu giá dầu tăng khiến cho người tiêu dùng mất thêm hơn một tỷ USD một năm. Nếu như giá dầu tiếp tục tăng, người tiêu dùng sẽ phải thắt lưng buộc bụng. Trường hợp tình trạng giá cao kéo dài, ảnh hưởng của nó sẽ rất nghiêm trọng. Mỗi cơn sốc dầu trong 40 năm qua đều đẩy kinh tế thế giới vào khủng hoảng. Nariman Behravesh, nhà kinh tế cấp cao tại IHS Global Insight cho biết, cứ mỗi 10 USD một thùng dầu tăng lên thì tăng trưởng kinh tế sẽ giảm 0,002% sau một năm và 1% sau hơn 2 năm. Tất nhiên, đồng USD yếu sẽ chỉ “tạm thời”, nhưng thời gian “tạm thời” này hơi dài. Bởi vì thương mại quốc tế, dầu mỏ, vàng đều dùng USD để thanh toán, Mỹ vẫn là cường quốc số 1 thế giới, đồng USD vẫn không thể bị thay thế. Chỉ cần kinh tế Mỹ phục hồi, tiền tệ bắt đầu bình thường hóa, thì những người “từ bỏ” đồng USD hiện giờ sẽ quay trở lại nắm giữ USD. Suy cho cùng, do vị thế đặc biệt của đồng USD, nên lợi nhuận là thứ theo đuổi duy nhất của thị trường. Theo CFN Tin dịch ================================================================================ Hy Lạp sẽ vỡ nợ đầu tiên tại Eurozone Thứ bảy, 14/05/2011, 14:15(GMT+7) VIT - Ngày càng nhiều nhà đầu tư cho rằng, Hy Lạp sẽ là thành viên đầu tiên của khu vực eurozone bị vỡ nợ. Ảnh minh họa 3 quốc gia thành viên khu vực đồng EUR là Hy Lạp, Ireland và Bồ Đào Nha sẽ cần tới 256 tỷ EUR (366 tỷ USD) viện trợ khẩn cấp để tránh vỡ nợ. Các nước này đều có thể xảy ra tình trạng nợ công vượt quá kích thước nền kinh tế trong năm nay. Ủy ban châu Âu (EC) cho biết, nợ công của Hy Lạp đã lên mức cao nhất trong lịch sử của khu vực là 143% GDP vào năm ngoái, và có thể sẽ nhảy lên 158% GDP trong năm nay và 166% GDP vào năm 2012. Dự báo của EC cũng cho thấy, nợ của Bồ Đào Nha sẽ vượt qua tổng sản lượng kinh tế lần đầu tiên trong năm nay, tăng tới 101,7% GDP, trong khi nợ của Ireland sẽ lên tới 112% GDP. Chi phí đi vay tăng vọt khiến cả 3 quốc gia này đều phải đóng cửa thị trường tài chính, và ngày càng nhiều nhà đầu tư cho rằng, Hy Lạp sẽ là thành viên Eurozone đầu tiên bị vỡ nợ. Ông Olli Rehn, Cao ủy phụ trách vấn đề kinh tế và tiền tệ EU cho rằng: “Hy Lạp đang đối mặt với tình trạng rất nghiêm trọng, bởi tăng trưởng kinh tế của nước này yếu hơn so với dự đoán. Hy Lạp cần đưa ra các biện pháp bổ sung thống nhất tài chính để giảm bớt gánh nặng nợ nần.” EC đã nâng dự báo thâm hụt ngân sách của cả 3 nước và dự đoán rằng, nền kinh tế của cả Hy Lạp và Bồ Đào Nha “co” lại trong năm nay bởi các biện pháp thắt chặt sẽ kìm hãm tăng trưởng, yếu tố cần thiết để hạn chế thâm hụt. Sau hơn một năm áp dụng các biện pháp thắt chặt tài chính, thâm hụt của Hy Lạp vẫn ở mức 10,5% GDP và được dự báo sẽ giảm xuống 9,5% GDP trong năm nay và 9,3% trong năm tới, vẫn còn rất xa mục tiêu đặt ra của EU là 3%. Thâm hụt ngân sách của Ireland lên mức kỉ lục trong lịch sử của khu vực Eurzone, lên tới hơn 32% GDP trong năm ngoái, và được dự đoán sẽ giảm xuống 10,5% trong năm nay. Bồ Đào Nha sẽ có mức thâm hụt 5,8% GDP trong năm nay. Năm ngoái, kinh tế Hy Lạp tăng trưởng 4,5% và được dự báo sẽ ở mức 3,5% trong năm nay. Theo Bloomberg Tin dịch1 like
-
Trả lời các câu hỏi trọng tâm Bài 3 : ( Ðây chỉ là điều giải thích qua trình độ hiểu biết về Vật Lý thiên văn của riêng tôi tại thời điểm này, có gì chưa đầy đủ xin mọi người đóng góp thêm). (Câu hỏi 2 và 3 của Bài 1). 2 – Theo bạn khái niện Lỗ đen và Lỗ trắng để giải thích sự tồn tại vĩnh hằng của Vũ Trụ có tính thuyết phục (hợp lý) hay không? 3 – Âm Dương Ngũ Hành là các tiên đề trong mệnh học Ðông Phương có hợp lý không? Tạm thời chúng ta hãy suy nghĩ thật đơn giản là khi các ngôi sao như mặt trời của chúng ta đang không ngừng đốt cháy nhiên liệu của nó để tạo ra ánh sáng (là một dạng của năng lượng) thì dĩ nhiên đến một lúc nào đó số nhiên liệu dùng để cháy của nó rồi phải hết. Khi đó mặt trời hết cháy, hết chiếu sáng là một điều ai cũng có thể tin được. Vậy thì thử hỏi với thời gian là vô tận thì tại sao tới bây giờ vẫn còn ti tỷ ngôi sao (như mặt trời) vẫn còn cháy tỏa ánh sáng vào vũ trụ rộng mênh mông mà hàng đêm chúng ta vẫn nhìn thấy ? Ðể trả lời câu hỏi này thì dĩ nhiên chúng ta phải đặt vấn đề là nếu có một nơi phát ra năng lượng (như ánh sáng) thì phải có một nơi thu (hút) năng lượng lại (kể cả ánh sáng), để mà rồi lại tạo ra mặt trời mới hợp lý được chứ. Mà một vật thể thu (hút) được cả ánh sáng thì làm sao chúng ta có thể nhìn thấy được nó. Chính lý do này mà người ta không nhìn thấy nó nhưng người ta có thể xác định được nó là có thực và đang tồn tại trong vũ trụ thông qua lực hấp dẫn của nó qua các vật thể (trong đó có các ngôi sao) đang quay quanh nó theo các quỹ đạo khác nhau. Chính vì vậy mà người ta gọi vật thể này là Lỗ đen. Chúng ta suy luận tiếp, về logic thì không có vật thể nào có thể Hút được mọi vật mãi mãi, cũng như không thể có mặt trời nào cháy được mãi mãi. Do vậy để giải quyết điều này thì người ta phải đưa ra khái niện Lỗ trắng là một vật thể Phun ra vật chất và năng lượng. Dĩ nhiên là Lỗ đen và Lỗ trắng phải cùng là một vật thể chứ không thể là hai vật thể khác nhau được. Ðể giải thích vì sao Lỗ trắng lại xuất hiện thì chúng ta cứ nghĩ đơn giản là nó Hút (ăn) mãi rồi thì nó phải Bội Thực (tức quá lo) nên Phun ra để bảo toàn Mạng sống của nó nếu không thì Vỡ Bụng mà chết mất, có vậy thôi. Trong cái bụng Bội Thực của nó mọi thứ vật chất và năng lượng (như ánh sáng) hòa lần với nhau trở thành một nồi Súp chất lỏng, khi Phun ra dĩ nhiên sẽ có cả khối lượng (vật chất) và năng lượng. Một phần khối lượng (vật chất) đặc biệt có thể cháy đã tạo ra các ngôi sao. Hiện tại các nhà Vật Lý có đưa ra lý thuyết “Ðường hầm lượng tử“ gì đó, nói rằng vật chất bị Lỗ đen Hút sẽ chạy qua một đường hầm để tới đầu bên kia thì được Phun ra nhờ Lỗ trắng. Theo tôi điều này vô lý bởi vì nếu như vậy thì chúng ta sẽ nhìn thấy Lỗ trắng này luôn Phun ra vật chất từ một điểm cố định trong vũ trụ. Nếu đúng như vậy thì làm sao người ta giải thích được mọi vật thể trong vũ trụ hiện đang giãn nở ra theo hướng càng xa nhau hơn theo mọi hướng chứ không phải xuất phát từ một điểm nào đó trong vũ trụ mà chỉ bay theo một hướng. Một bản đồ của bức xạ nền vũ trụ (CMB) trong vũ trụ với những hình tròn có thể biểu hiện các sự kiện diễn ra trước vụ nổ Big Bang. Ảnh: Daily Mail. Mỗi vòng tròn đồng tâm trên bản đồ bức xạ nền vũ trụ (CMB) ở trên có thể hiểu là nó tương ứng với một lần Lỗ đen biến thành Lỗ trắng. 2 - Bạn có biết người Ðông Phương (các thầy thuốc Ðông y) đã dùng học thuyết Âm Dương Ngũ Hành này vào chữa bệnh cho con người từ bao giờ ? Cổ nhất có bộ y thư “Hoàng Đế Nội Kinh Tố Vấn“ cách đây khoảng 3 đến 4 nghìn năm. “Định mệnh có thật hay không Phần 18 Thứ ba 20/05/2008 12:00:00 (GMT +7) Tác giả: Nguyễn Vũ Tuấn Anh Nguồn: Trung tâm nghiên cứu Lý học Đông Phương * Chú thích: Hoàng Đế-có niên đại ước tính hơn 3000 năm trước CN. “Trên thực tế, Hoàng Đế nội kinh trong lịch sư Trung Quốc đối với văn hoá Hán học có ảnh hưởng sâu sắc không thể mất đi, nó cấu thành một truyền thống văn hoá Trung Hoa. Nếu như truyền thống văn hoá thiếu khuyết phần này, chúng ta không thể tưởng tượng tình cảnh của nó vô lý đến mức nào. Thậm chí ở Trung Quốc cổ đại, người ta còn đem Hoàng Đế Nội Kinh với Đạo Đức kinh của Lão Tử, Nam Hoa kinh của Trang Tử, Chu Dịch ra so sánh với nhau, mọi người không chỉ xem nó là một cuốn sách ý học bình thường. Người xưa xem Hoàng Đế Nội Kinh là: “Thượng cùng ở Trời hạ cực ở Đất, xa xét vạn vật, gần nắm bản thân, biến đối khó lường”. cơ hồ như mọi việc trời đất không gì là không bao lấy”.(**) ** Chú thích: Trích dẫn trong “Hoàng Đế nội kinh và suy đoán vận khí”. Đàm Hiền Mậu biên soan. Nxb Văn Hoá Thông Tin 1998 Trong cuốn “Hoàng Đế nội kinh tố vấn” hoàn toàn sử dụng phương pháp luận của thuyết Âm dương Ngũ hành. Để chứng tỏ điều này, xin bạn đọc xem đoạn sau đây trong phần Lục Nguyên chính kỷ đại luận: “ Trước lập năm ấy, lấy tỏ khí ấy, số của vận hành của Kim, Mộc, Thuỷ, Hoả, Thổ. Là lạnh, nóng khô, ẩm gió, hoả đến ngự thì đạo trời có thể thấy, dân khí có thể điều, Âm dương co duỗi, gần mà không cảm, có thể đếm số ấy”. Bạn đọc có thể tìm thấy dấu ấn của Thuyết Âm dương Ngũ hành và phương pháp luận của nó trong khắp cuốn sách, tự thân nội dung của nó đã chứng tỏ thuyết Âm dương Ngũ hành đã được ứng dụng từ thời Hoàng Đế (khoảng 3.000 năm tr.C.N). Nhưng các nhà nghiên cứu hiện đại lại cho rằng: Cuốn Hoàng đế nội kinh tố vấn ra đời vào thời Xuân Thu Chiến Quốc (?!). Đoạn sau đây được trích trong cuốn “Hoàng Đế Nội Kinh và suy đoán vận khí” (sách đã dẫn). “Hoàng Đế nội kinh được viết thành sách vào khoảng thời kỳ Xuân thu Chiến Quốc, nên trong sách tư tưởng chỉ là chủ nghĩa duy vật cổ đại, xuất phát từ quan niệm chỉnh thể và tổng kết của người xưa qua kinh nghiệm phong phú đấu tranh với bệnh tật, xây dựng nền cơ sở lý luận của y học Trung Quốc”. Như vậy, qua các đoạn trích dẫn trên bạn đọc cũng nhận thấy rằng: Nội dung của cuốn “Hoàng Đế nội kinh tố vấn” là sự ứng dụng của thuyết Âm dương và Ngũ hành đã có từ thời Hoàng Đế, tức là trước thời vua Đại Vũ phát hiện ra Lạc thư trên lưng rùa ghi dấu ấn của Ngũ hành hơn 1.000 năm. Các nhà nghiên cứu đã đặt thời điểm xuất hiện của cuốn sách này vào thời Xuân thu Chiến Quốc, tức là sau đó hơn 2000 năm so với thời điểm nội dung của nó (?). Và vấn đề cũng không dừng lại ở đây.“. 3 - Tại sao lại chỉ có 5 hành ? Bạn có thể Phát Minh ra hành thứ 6 được không (cùng với câu 3 của Bài 1) ? Tôi phải công nhận Âm Dương Ngũ Hành là các tiên đề trong cái Vũ Trụ này bởi vì tôi không thể tìm được hành thứ 6 và theo tôi Âm Dương - “Là cặp phạm trù đối lập“ - một khái niệm đặc trưng của vật chất, còn Ngũ Hành đại diện cho 5 dạng vật chất cấu tạo nên Vũ Trụ này.1 like
-
Bài 3 : Học thuyết Âm Dương và Ngũ Hành Chương 2 Học thuyết Âm Dương và Ngũ Hành (Theo tôi trong toán học có các tiên đề thì Âm Dương Ngũ Hành chính là các tiên đề trong mệnh lý học Ðông Phương - xem phần II và III của Phụ Lục). Thiên Sứ đã viết trên trang web vietlyso.com: “ ...Chúng ta thấy trong nền văn minh Đông phương cổ đại đã tồn tại những lời tiên tri đầy huyền bí nói về số phận từng con người, của cả một thành phố, cả những quốc gia hay thậm chí của cả thế giới. Những phương pháp bói toán, tiên tri phổ biến của nền văn minh này hầu hết đều có phương pháp luận của nó. Thật kỳ lạ thay ! Có một hệ thống lý thuyết vũ trụ - nền tảng của những phương pháp luận cho những lời bói toán huyền bí ấy - lại không coi sự khởi nguyên của vũ trụ bắt đầu từ ý thức của Đức Chúa Trời mà chính là thuyết Âm Dương Ngũ Hành...“. Học thuyết Âm Dương - Ngũ Hành mà phương pháp tính điểm hạn của cuốn sách này áp dụng sẽ cho mọi người biết Định Mệnh là có thật (tức con người hay vạn vật đều có Số Mệnh), nhưng Số Mệnh này không phải do Đức Chúa Trời quyết định mà là do Âm Dương Ngũ Hành quyết định. Chính vì vậy không có lý do gì mà con người lại không thể lấy chính âm dương ngũ hành để khống chế lại chúng để thay đổi định mệnh, nhằm mục đích mang lại lợi ích cho con người (xem ví dụ 27 và 150). I - Học thuyết Âm Dương Khái niệm Âm và Dương như mọi người hiểu đơn giản là hai trạng thái luôn đối lập nhau như có bên phải thì phải có bên trái, tốt với xấu, trắng với đen, giống đực với giống cái, cứng với mềm... Họ đã xác định âm và dương cho các can và chi như sau: Các thiên can có dấu dương là Giáp, Bính, Mậu, Canh, Nhâm. Các địa chi ............................Tý, Dần, Thìn, Ngọ, Thân, Tuất. Các thiên can có dấu âm là Ất, Đinh, Kỷ, Tân, Quý. Các địa chi .................... Sửu, Mão, Tị, Mùi, Dậu, Hợi. Còn hiểu theo sách mệnh học cổ truyền của Phương Đông thì sự hình thành, biến hóa và phát triển của vạn vật đều do sự vận động của hai khí Âm và Dương. Vì mặc dù Âm và Dương là hai mặt đối lập với nhau nhưng chúng lại có sự thống nhất với nhau. Chính sự thống nhất này sau đó mới có thể có sự biến hóa để thành vạn vật. Như âm đến cùng cực thì sinh dương, dương đến cùng cực thì sinh âm.... (Ðể hiểu rõ hơn về Học thuyết Âm Dương và Ngũ Hành xin độc giả xem phần III của Phụ Lục – Âm Dương Ngũ Hành là các tiên đề trong mệnh học Ðông Phương). Ví dụ : Trong thực tế có thể coi năng lượng và khối lượng là hai trạng thái âm và dương của vật chất (tương tự như nước dưới sự tác động của nhiệt độ nó ở 3 trạng thái là rắn, lỏng và hơi, trong đó trạng thái rắn và lỏng được xem là 1 trạng thái) mà ngày nay các nhà vật lý đã biến được khối lượng thành năng lượng và trong thời gian tới nhờ cỗ máy LHC ở Thụy Sĩ các nhà vật lý sẽ thành công trong việc biến năng lượng thành khối lượng theo đúng phương trình mà năng lượng và khối lượng chuyển hóa cho nhau của nhà bác học thiên tài Albert Einstein: E = mc² ( trong đó E là năng lượng, m là khối lượng, c là vận tốc ánh sáng). Chính có phương trình nổi tiếng này mà câu đầu tiên của Kinh Thánh “ Ban đầu Đức Chúa Trời đã (dùng sức mạnh vô biên của mình) dựng nên trời đất (vũ trụ trong đó có trái đất) “ (Sáng - thế Ký 1 : 1) đã đúng trên quan điểm khoa học. Vậy đã có cuốn sách nào cổ hơn cuốn Kinh Thánh nói đến sự hình thành vũ trụ và trái đất của chúng ta từ năng lượng như vậy. II - Học thuyết Ngũ Hành 1 – Ngũ hành Chúng ta thấy hầu như mọi hiện tượng đã và đang diễn ra xung quanh chúng ta đều tuân theo một quy luật của vòng tròn khép kín. Ví dụ : Con người cũng như loài động vật cùng với loài thực vật tạo thành một quy trình khép kín như : Cây cung cấp ô xy, hoa quả rau xanh, củ, hạt …cho người và động vật , còn người và động vật cung cấp CO 2, phân…..cho loài thực vật. Ngay cả sự sống và cái chết của mọi sinh vật cũng tuân theo quy luật của vòng tròn khép kín này. Ví dụ : Con người được đầu thai sau đó được sinh ra lớn lên, trưởng thành, già rồi chết, sau đó xác chết bị phân hủy thành các thành phần của đất nuôi cho cây phát triển. Một phần thực vật này được con người ăn tạo thành các thai nhi và các thai nhi này lại phát triển .….. Để diễn tả các quy luật này cũng như mọi quy luật trong vũ trụ Họ đã đưa ra 5 hành, tức là 5 loại nguyên tố (vật chất) cơ bản đã cấu tạo nên mọi vật có trong trái đất và vũ trụ như sau : 1 - Kim đặc trưng cho kim loại. 2 - Thủy đặc trưng cho nước. 3 - Mộc đặc trưng cho loài thực vật. 4 - Hỏa đặc trưng cho lửa. 5 - Thổ đặc trưng cho đất . 2 – Tính chất tương sinh của ngũ hành a - Tính chất tương sinh . Theo sách cổ thì Kim sinh cho Thủy, Thủy sinh cho Mộc, Mộc sinh cho Hỏa, Hỏa sinh cho Thổ, Thổ sinh cho Kim rồi lại nặp lại vòng tuần hoàn Kim sinh cho Thủy,......... . Ở đây chỉ có Kim sinh Thủy là có vẻ vô lý (bởi vì chúng ta đang sống trong môi trường nhiệt độ thấp nên không thấy khi Kim ở nhiệt độ cao cũng sẽ chẩy thành nước - chất lỏng (một dạng của nước, phải thừa nhận)). Sơ đồ tương sinh của ngũ hành : b – Tính chất phản sinh : Như Kim sinh ra Thủy, nó nghĩa là Kim loại bị nung nóng sẽ chẩy thành nước, nhưng nước nhiều thì Kim không những không sinh được cho Thủy mà còn bị chìm xuống, vì vậy nó được gọi là phản sinh (phải thừa nhận). Thủy sinh Mộc, nó nghĩa là không có nước thực vật làm sao mà sống để lớn lên được, nhưng nước nhiều quá cây bị úng lụt mà chết cũng gọi là phản sinh. Mộc sinh Hỏa, nó nghĩa là gỗ làm cho lửa cháy to hơn, nhưng hỏa mạnh quá sẽ làm cho Mộc ra tro, vì vậy nó cũng được gọi là phản sinh. Hỏa sinh Thổ, nó nghĩa là Hỏa cháy thành tro tàn là Thổ đất, nhưng Thổ nhiều sẽ làm cho Hỏa tắt; vì vậy nó cũng được gọi là phản sinh. Thổ sinh Kim, nó nghĩa là quặng trong đất khi bị nung sẽ chẩy ra kim loại, nhưng nếu có Kim quá nhiều thì Thổ bị đè ép không thể sinh cho Kim được, vì vậy nó cũng được gọi là phản sinh (phải thừa nhận). 3 – Tính chất tương khắc của ngũ hành a – Tính chất tương khắc : Như Kim khắc được Mộc, Mộc khắc được Thổ, Thổ khắc được Thủy, Thủy khắc được Hỏa, Hỏa khắc được Kim, rồi lại nặp lại vòng tuần hoàn Kim khắc Mộc,..... Sơ đồ tương khắc của ngũ hành Qua sơ đồ ta thấy tính chất tương khắc của ngũ hành là cách 1 ngôi so với tính chất tương sinh . b – Tính chất phản khắc : Như Kim khắc Mộc, kiếm, dao chặt đứt được cây, nếu kim loại mềm yếu mà cây cứng như Lim, Sến …thì dao, kiếm sẽ bị mẻ, gẫy tức là bị phản khắc. Mộc khắc Thổ (Thổ là đất), cây mọc lên tất đất sẽ bị bạc mầu, nhưng đất cứng quá cây không đâm được rễ xuống đất tất dễ chết cũng gọi là phản khắc. Thổ khắc Thủy, đất có thể đắp thành đê, đập để trặn được nước, nhưng nước nhiều quá đất sẽ bị trôi dạt (vỡ đê), tức là bị phản khắc. Thủy khắc Hỏa, nước có thể dập tắt được lửa, nhưng lửa quá mạnh mà nước thì ít tất sẽ bị bốc hơi, cũng là bị phản khắc. Hỏa khắc Kim, hỏa làm cho sắt nóng chẩy, nhưng sắt nhiều quá mà lửa nhỏ tất dễ bị tắt, cũng gọi là phản khắc. III - Đại diện của ngũ hành và can chi 1 – Ngũ hành đại diện cho các mùa a - Mộc đại diện cho mùa Xuân b - Hỏa đại diện cho mùa Hạ c – Kim đại diện cho mùa Thu d - Thủy đại diện cho mùa Đông 2 – Can chi đại diện cho các hành Giáp, Ât, Dần, Mão đại diện cho hành Mộc Bính, Đinh, Tị, Ngọ đại diện cho hành Hỏa Mậu, Kỷ, Thìn, Tuất, Sửu, Mùi đại diện cho hành Thổ Canh, Tân, Thân, Dậu đại diện cho hành Kim Nhâm, Quý, Hợi, Tý đại diện cho hành Thủy 3 – Can chi đại diện cho mầu sắc Giáp , Ât , Dần và Mão là Mộc đại diện cho mầu xanh. Bính, Đinh, Tị và Ngọ là Hỏa đại diện cho mầu đỏ. Mậu, Kỷ, Thìn, Tuất, Sửu và Mùi là Thổ đại diện cho mầu vàng. Canh, Tân, Thân và Dậu là Kim đại diện cho mầu trắng. Nhâm, Quý, Hợi và Tý là Thủy đại diện cho mầu đen 4 – Can chi đại diện cho các bộ phận trong cơ thể con người Giáp, Ât, Dần, Mão (Mộc) đại diện cho các bộ phận trong cơ thể con người là gan, mật, thần kinh, đầu, vai, tay, ngón tay ……. Bính, Đinh, Tị, Ngọ (Hỏa) đại diện cho các bộ phận tim, máu, ruột non, trán, răng, lưỡi, mặt, yết hầu, mắt …… Mậu, Kỷ, Thìn, Tuất, Sửu, Mùi (Thổ) đại diện cho dạ dầy, lá lách, ruột già, gan, bụng, ngực, tỳ vị, sườn …… Canh, Tân, Thân, Dậu (Kim) đại diện cho phổi, máu, ruột già, gân, bắp, ngực, khí quản ……... Nhâm, Quý, Hợi, Tý (Thủy) đại diện cho thận, bàng quang, đầu, bắp chân, bàn chân, tiểu liệu, âm hộ, tử cung, hệ thống tiêu hóa, …….. 5 - Can chi và ngũ hành đại diện cho các phương. Sơ đồ của các can, chi và ngũ hành đại diện cho các phương như sau: Giáp, Ât, Dần và Mão là Mộc đại diện cho phương Đông. Bính, Đinh, Tị và Ngọ là Hỏa đại diện cho phương Nam. Mậu và Kỷ không ở phương nào cả mà đại diện cho trung tâm. Thìn đại diện cho phương Đông Nam. Tuất đại diện cho phương Tây Bắc. Sửu đại diện cho phương Đông Bắc. Mùi đại diện cho phương Tây Nam. Canh, Tân, Thân và Dậu là Kim đại diện cho phương Tây. Nhâm, Quý, Hợi và Tý là Thủy đại diện cho phương Bắc. 6 – Can chi đại diện cho nghề nghiệp Giáp, Ât, Dần và Mão là Mộc đại diện cho các nghề sơn lâm, chế biến gỗ, giấy, sách báo, làm vườn, trồng cây cảnh, phục trang, dệt, đóng thuyền …… Bính, Đinh, Tị và Ngọ là Hỏa đại diện cho các nghề thuốc súng, nhiệt năng, quang học, đèn chiếu sáng, xăng dầu, cao su (xăm lốp ,dây đai ,nhựa cây), các sản phẩm đồ điện, vật tư hóa học, luyện kim, nhựa đường ….. Mậu, Kỷ, Thìn, Tuất, Sửu và Mùi là Thổ đại diện cho các nghề chăn nuôi , nông nghệp, khai khẩn đồi núi, giao dịch về đất đai, buôn bán địa ốc, phân bón, thức ăn gia súc, khoáng vật, đất đá, gạch ngói, xi măng, đồ gốm, đồ cổ, xây dựng, ….. Canh, Tân, Thân và Dậu là Kim đại diện cho các nghề vàng bạc, châu báu, khoáng sản, kim loại, máy móc, thiết bị nghiên cứu hóa học, thủy tinh, các công cụ giao thông …… . Nhâm, Quý, Hợi và Tý là Thủy đại diện cho các nghề nước giải khát, hoa quả, đồ trang sức mỹ nghệ, hóa phẩm mỹ dụng, giao thông vận tải, vận chuyển hàng hóa, chăn nuôi thủy sản, mậu dịch, du lịch, khách sạn, buôn bán ,…. Người Trung Quốc từ xa xưa đã dùng lịch Can Chi để xác định các mốc thời gian trong cuộc sống hàng ngày. Từ đó tại thời điểm của mỗi người khi sinh ra được xác định bởi bốn thông tin của lịch Can Chi. Đó chính là bốn tổ hợp can chi của năm, tháng, ngày và giờ sinh mà chúng được gọi là Tứ Trụ hay mệnh của người đó. Ví như một cái nhà được xây dựng lên bởi bốn cái cột, nếu bốn cái cột này đều nhau và vững chắc, nghĩa là các hành Kim, Thủy, Mộc, Hỏa và Thổ trong tứ trụ là tương đối bằng nhau thì người đó cả cuộc đời thường là thuận lợi, còn nếu bốn cột không điều nhau, tức ngũ hành quá thiên lệch, tất dễ đổ nhà - cuộc đời dễ gặp tai họa. Cách đây ba bốn nghìn năm con người đã biết sử dụng lý thuyết này để phòng và chữa bệnh. Ví dụ những ai trong mệnh (tứ trụ) mà ngũ hành thiếu Mộc mà lại cần Mộc, thì đầu tiên cần đặt tên mang hành Mộc và nên sống ở về phía Đông so với nơi mình được sinh ra, vì đó là phương Mộc rất vượng (tức là Mộc nhiều). Sau khi trưởng thành cũng nên làm những nghề liên quan đến hành Mộc, thêm nữa nên mặc quần áo mang hành Mộc (xanh). Nếu làm như vậy thì sẽ có một phần Mộc được bổ xung cho tứ trụ. Còn khi bị bệnh do hành Mộc thiếu thì thầy thuốc sẽ căn cứ vào sự thiếu nhiều Mộc hay ít để bốc thuốc mang hành Mộc cho phù hợp với sự thiếu Mộc đó. Được như vậy cuộc đời người đó thường gặp thuận lợi rất nhiều hay dễ khỏi bệnh. Các hành khác cũng suy luận tương tự như vậy. IV - Lệnh tháng và các trạng thái A - Lệnh tháng Một điều tối quan trọng trong môn Tứ Trụ là chi của tháng sinh được gọi là lệnh tháng, vì nó quyết định sự vượng suy của mọi can và chi trong tứ trụ, cũng như độ mạnh yếu giữa 5 hành với nhau. Tại sao lệnh tháng lại quan trọng đến như vậy? Kim, Mộc, Thủy, Hỏa và Thổ trong tứ trụ có liên quan với tháng sinh như thế nào? Theo môn Tứ Trụ thì vào các tháng mùa hè hành Hỏa là mạnh nhất (hay vượng nhất) so với các hành khác, vì vậy ai được sinh ra vào mùa hè mà trong tứ trụ lại có nhiều can và chi là Bính, Đinh, Tỵ, Ngọ thì dĩ nhiên hành Hỏa quá vượng còn các hành khác thì lại quá yếu. Những người như vậy thường nhẹ thì ốm đau bệnh tật liên miên, nặng thì đoản thọ ......Các mùa khác cũng tương tự như vậy. Như mùa đông giá lạnh thì hành Thủy là vượng nhất, mùa xuân thì hành Mộc là vượng nhất, mùa thu thì hành Kim là vượng nhất. Nhưng giả sử sinh vào mùa hè, hỏa là vượng nhất nhưng tứ trụ lại ít can chi hành hỏa hoặc có can chi hành Thủy như Nhâm, Quý, Tý, Hợi thì không xấu. Nghĩa là căn cứ theo lệnh tháng để biết độ vượng suy của các can chi trong tứ trụ, sau đó tổng hợp xem độ lớn giữa các hành chênh lệch nhau như thế nào, từ đây mới có thể dự đoán được vận mệnh của con người. B - Các trạng thái Để giải quyết vấn đề này người ta đã xác định trạng thái vượng suy của các can chi theo các tháng trong một năm theo bảng sinh vượng tử tuyệt cũng như ý nghĩa của các trạng thái đó như sau: 1 - Trường sinh có nghĩa là vật hay con người mới sinh ra từ 0 đến 5 tuổi. 2 - Mộc dục chỉ vật hay con người đã bắt đầu phát triển xong vẫn còn yếu đuối, như trẻ em mới đi học tiểu học và trung học từ 5 đến 16 tuổi . 3 – Quan đới chỉ vật hay con người đã trưởng thành , như trẻ em đang ở tuổi thanh niên đang học đại học hay nghiên cứu sinh từ 16 đến 30 tuổi . 4 - Lâm quan chỉ vật hay sự nghiệp và sức khỏe của con người đã đạt tới sự hoàn thiện, vững chắc, như con người đang ở tuổi trung niên từ 30 đến 45 tuổi. Ngoài ra lâm quan còn là trạng thái Lộc của Nhật Chủ (nó nghĩa là đó là nơi quy tụ bổng lộc hay sự may mắn do vua, cấp trên... hay do ông trời, các thần linh, tổ tiên.... phù hộ, giúp đỡ cho). 5 – Đế vượng chỉ vật hay con người đã đạt tới giai đoạn cực thịnh như công đã thành danh đã toại, như con người ở lứa tuổi 45 đến 60. Ngoài ra đế vượng còn là trạng thái Kình Dương của Nhật Chủ (nó nghĩa là khi con người đã đạt tởi đỉnh cao của quyền lực, hay danh vọng thì dễ kiêu căng, hống hách, lạm dụng quyền lực...vì vậy người đó dễ bị tai họa như tù tội, phá sản, bại quan, bệnh tật, tai nạn, chết ...). 6 – Suy chỉ vật hay con người đã qua thời kỳ cực thịnh thì tất phải đến thời kỳ suy yếu đi, như con người ở lứa tuổi 60 đến 70. 7 - Bệnh chỉ vật hay con người đã đến thời kỳ hỏng hóc hay bệnh tật, như con người ở lứa tuổi 70 trở ra. 8 - Tử chỉ vật hay người bị hỏng hay chết. 9 - Mộ chỉ vật hay người mang vất đi hay chôn xuống đất đắp đất nên thành cái mộ (chỉ còn lại linh hồn) . 10 - Tuyệt chỉ vật hay người bị phân hủy thành đất . 11 – Thai chỉ vật hay con người đang được hình thành từ một số yếu tố vật chất nào đó, như linh hồn đã thụ khí thành thai nhi trong bụng mẹ . 12 - Dưỡng là chỉ vật hay người đang trong thời gian chế tạo, nắp ráp để đến khi nào hoàn thiện thì mới xuất xưởng được, như thai nhi phải đủ 9 tháng 10 ngày mới ra đời thành con người. Bảng sinh vượng tử tuyệt Qua bảng này ta thấy 5 can và 6 chi dương cũng như 5 can và 6 chi âm có cùng hành nhưng độ vượng suy của chúng theo các tháng trong một năm là khác nhau. Như Giáp và Dần là Mộc, chúng ở trạng thái trường sinh trong tháng Hợi, trạng thái Mộc dục trong tháng Tý, ....... trạng thái Mộ trong tháng Mùi, ......... . Nhưng Ất và Mão cũng là Mộc nhưng chúng ở trạng thái tử trong tháng Hợi, trạng thái Bệnh trong tháng Tý,....... trạng thái Đế vượng trong tháng Dần,...... . Từ bảng sinh vượng tử tuyệt này người ta đã gọi các trạng thái theo tháng sinh (thường được gọi là theo lệnh tháng) từ Trường sinh tới Đế vượng là vượng (thường được gọi là được lệnh), còn các trạng thái từ Suy đến Dưỡng là suy nhược, hưu tù... (thường được gọi là thất lệnh). Ví dụ: Giáp hay Dần trong tứ trụ mà sinh vào các tháng từ Hợi tới Mão là được lệnh (vượng), còn sinh vào các tháng từ Thìn đến Tuất là thất lệnh (suy nhược, hưu tù). Ví dụ: Ất hay Mão trong tứ trụ sinh vào các tháng từ Dần đến Ngọ là được lệnh (vượng), còn sinh vào các tháng từ Mùi đến Sửu là thất lệnh (suy nhược, hưu tù). Các can chi khác cũng xác định tương tự như vậy. Các câu hỏi trọng tâm : 1 – Câu hỏi 2 và 3 của Bài 2. 2 - Bạn có biết người Ðông Phương (các thầy thuốc Ðông y) đã dùng học thuyết Âm Dương Ngũ Hành này vào chữa bệnh cho con người từ bao giờ ? 3 - Tại sao lại chỉ có 5 hành ? Bạn có thể Phát Minh ra hành thứ 6 được không ?1 like
-
Trả lời các câu hỏi trọng tâm bài 2: 1 – Theo bạn, cách đây 3 đến 4 nghìn năm con người của chúng ta đã biết đến hệ mặt trời có 9 hành tinh hay chưa? Nếu không kể đến các nền văn hóa văn minh đã bị mất tích thì chỉ còn lại các nền văn minh ở trình độ “Ở Trần Ðóng Khố“ thì làm sao biết được đủ 10 vật thể lớn này.(Mặt trời, mặt Trăng và 8 hành tinh). 2 – Cách giải thích vì sao có 10 thiên Can và 12 địa Chi này liệu có thỏa mãn tính tò mò của bạn không? Cách giải thích này đã có tính chất khoa học (duy vật) hay nó vẫn còn mang nặng tính chất huyền bí (duy tâm) ? Bạn có cách nào giải thích khác không? Ở đây tôi chỉ nghĩ đơn giản là các cụ “Ở Trần Ðóng Khố“ của Ðất Việt chúng ta đây 3 đến 4 nghìn năm đã tiếp nhận được những tri thức của những người thuộc một nền văn minh khác (mà tôi dự đoán là của một nền văn minh ngoài hành tinh của chúng ta) tặng chúng ta. Chính vì trình độ hiểu biết về Vật Lý thiên văn học quá thấp nên các cổ nhân của chúng ta chỉ có thể hiểu và diễn đạt như các từ Thiên Can và Ðịa Chi theo nghĩa đen của nó mà thôi. Ở đây tôi đã giải thích nghĩa đen của các từ này sang nghĩa bóng (chứ không hề tuyên truyền Kinh Kót như một vài người nói). Các sách cổ của Tầu đã giải thích 10 Thiên Can và 12 Ðịa Chi này hoàn toàn khác, các bạn có thể xem trong các sách Tử Bình của họ. 3 - Có một cao thủ về dịch lý bên Lý Học Ðông Phương cho rằng có 4 mùa trên trái đất là do quỹ đạo của trái đất quay quanh mặt trời theo hình elip. Theo bạn điều này có đúng hay sai, vì sao? Cách giải thích đơn giản hơn là: Nếu 4 mùa trên trái đất do quỹ đạo của Trái đất quay quanh mặt trời theo hình elip tạo ra thì mùa của Bắc bán cầu và Nam bán cầu phải luôn luôn giống nhau, nhưng thực tế thì chúng lại luôn luôn ngược nhau. Do vậy lý thuyết này không đúng đối với Trái đất của chúng ta (nó chỉ đúng ở các hành tinh khác khi mặt phẳng Hoàng Ðạo và Xích Ðạo của hành tinh đó trùng nhau). 4 - Bạn thử kể ra các lực tương tác mà bạn biết của 10 vật thể được đưa ra ở trên lên con người nói riêng và các vật thể khác trên mặt đất nói chung là gì? Như lực hấp dẫn, lực điện từ trường (như của Mặt Trời)…. 5 - Giả sử có 2 người cùng sinh ra tại một thời điểm của thời gian (cứ giả sử thời điểm họ sinh ra được tính chính xác tới 1/tỷ giây hay cứ cho là tuyệt đối - tức không có sự sai lệch về thời gian) thì họ có cùng sinh ra tại 1 vị trí trong không gian của vũ trụ hay không ? 2 người sinh ra thời gian có thể trùng nhau nhưng vị trí không thể trùng nhau được (khác nhau ít nhất về vị trí là 2 bà mẹ nằm trên 1 giường để đẻ). Hy vọng mọi người đóng góp ý kiến để các câu trả lời này được chính xác và đầy đủ hơn.1 like
-
Ðể tiện cho việc học và nghiên cứu của mọi người, tôi đăng các bài viết mang tính chất tham khảo vào đây. Trận chiến Ha-ma-ghê-đôn và ngày tận thế (các đoạn trích trong cuốn “Hãy chú ý đến Lời Tiên Tri của Ða-Ni-Ên!” của Liên Hiệp Thánh Kinh Hội NW). Theo Kinh Thánh thì lịch sử loài người bị hủy diệt sau khi xuất hiện đủ 7 cường quốc. 7 cường quốc này ngày nay người ta đã xác định (?) như sau: “1 – Ê-díp-tô (thủ phủ chính là vùng Ägypt bây giờ) bắt đầu từ ? 2 – A-si-ri (…vùng Syri bây giờ) bắt đầu từ ? 3 – Ba-by-lôn (….vùng Irak bây giờ) bắt đầu từ 607 trước công nguyên (TCN) 4 – Mê-đi Phe-rơ-sơ (…vùng Iran bây giờ) bắt đầu từ 539 TCN 5 – Hy Lạp bắt đầu từ 331 TCN 6 - La-Mã (….vùng Itali bây giờ) bắt đầu từ 30 TCN 7 - Anh-Mỹ bắt đầu từ 1763 sau công nguyên”. Nếu như các câu giải mã trên là đúng thì ngày nay chúng ta đang ở trong giai đoạn cuối cùng của cuốn Kinh Thánh. Ngày tận thế của thế giới được mô tả trong cuốn Kinh Thánh qua bức tượng trong giấc chiêm bao của vua Nê-bu-cát-nết-sa (thuộc cường quốc Ba-by-ôn mặc dù ông ta không nhớ lại được giấc mơ đó) được nhà tiên tri Đa-ni-ên giải nghĩa cho chính ông vua đó như sau: “Hỡi vua, vua nhìn xem này có một pho tượng lớn. Pho tượng đó to lớn và rực rỡ lạ thường, nó đứng trước mặt vua và hình dạng dữ tợn. Đầu pho tượng bằng vàng ròng, ngực và cách tay bằng bạc, bụng và vế bằng đồng, ống chân bằng sắt và bàn chân thì một phần bằng sắt còn một phần bằng đất sét. Vua nhìn pho tượng cho đến khi có một hòn đá chẳng phải tay đục ra, đến đập vào bàn chân bằng sắt và đất sét của tượng, và làm cho tan nát. Bấy giờ sắt, đất sét, đồng, bạc, vàng đều cùng nhau tan nát cả, trở nên như rơm rác bay trên sân đạp lúa mùa hạ, phải gió lùa đi, chẳng tìm nơi nào cho chúng nó, nhưng hòn đã đập vào pho tượng thì hóa ra một hòn núi lớn và đầy khắp đất“: - Đa-ni-ên 2:31-35. Và Đê-ni-ên đã giải thích…..Tóm tắt thì ngày nay chúng ta hiểu như sau: Cái đầu bằng vàng đại diện cho cường quốc của ông vua này (thuộc cường quốc Ba-by-lôn). Phần bạc đại diện cho cường quốc Mê-đi Phe-rơ-sơ. Phần đồng cho cường quốc Hy Lạp. Phần sắt cho cường quốc La Mã và phần sắt lẫn đất sét cho cường quốc Anh Mỹ. Đa-ni-ên giải thích tiếp cho vua Nê-bu-cát-nết-sa: “Còn như vua đã thấy bàn chân và ngón chân nửa bằng đất sét nửa bằng sắt, ấy là một nước sẽ phải phân chia, nhưng trong nước đó có sức mạnh của sắt, theo như vua thấy sắt lộn với đất sét. Những ngón chân nửa sắt nửa đất sét , nước đó cũng nửa mạnh nửa giòn. Vua đã thấy sắt lộn với đất sét, ấy là chúng lộn với nhau bởi giống loài người, song không dính liền nhau, cũng như sắt không ăn với đất sét“. – Đa-ni-ên 2:41-43. Điều này cho chúng ta thấy vào thời kỳ cuối cùng này thế giới bị phân chia ra thành các nước có các thể chế chính trị khác nhau và luôn luôn muốn thôn tính nhau….. như ngày nay. Còn hòn đá đập vào chân bức tượng làm cho bức tượng vỡ tan tành thì theo tôi hiểu đơn giản là đó là sự va chạm giữa thiên thạch với trái đất dẫn đến ngày tận thế của thế giới mà Kinh Thánh gọi là trận chiến Ha-ma-ghê-đôn của Đức chúa trời để lập lên một thiên đường trên trái đất chỉ cho những người tôn thờ chúa. Vậy thì khi nào trận chiến này sẽ xẩy ra. Trong các trang của Kinh Thánh còn lại mà các sự kiện chưa thấy xuất hiện trên thế giới có câu đáng chú ý là: ““Những tin tức từ phương bắc và phương đông sẽ tới làm cho người bối rối, người sẽ giận lắm mà đi đến để tàn phá và hủy diệt nhiều người. Người sẽ đặt các trại của cung mình ở khoảng giữa biển cùng núi vinh hiển và thánh. Song người sẽ đến sự cuối cùng mình, và chẳng có ai đến giúp đỡ người cả”. – Đa-ni-ên 11:44,45.” (Nói chung giải mã các câu trong Kinh Thánh cũng như các câu trong sấm Trạng Trình là giống nhau đều tùy theo ý của người giải, chỉ có khác là các bản Kinh Thánh gốc cách đây trên 2000 năm đã được tìm thấy gần đây khi so với các bản ngày nay thì các ý chính hầu như không thay đổi còn sấm Trạng Trình của ta thì chưa tìm được bản gốc hoặc gần gốc và dĩ nhiên người ta sẽ đặt ra câu hỏi nếu không có Mô Li Phê bản gốc đi để nhằm ý đồ gì đó thì cần gì phải cất dấu các bản gốc kỹ đến như vậy). “Vào thời Đa-ni-ên thì “biển“ là Địa Trung Hải và “núi“ thánh là Si-ôn từng là nơi có đền thờ của Đức Chúa Trời (thuộc đất Israel bây giờ). Còn “Những tin tức từ phương bắc và phương đông sẽ tới làm cho người bối rối…“ là những tin tức gì và “người“ ở đây là ai?” Các câu có liên quan: ”Đức Chúa Trời nói với Sa-tan “Ta sẽ…đặt những móc trong hàm ngươi, khiến ngươi ra“ và “Ta sẽ …khiến ngươi đến từ phía cực bắc, và đem ngươi lên trên các núi của Y-sơ-ra-ên“. – Ê-xê-chi-ên 38:4;39:2.” Ở đây tôi chỉ mang máng hình dung ra các sự kiện chính có thể xẩy ra như sau: Càng ngày Nga và Trung Quốc sẽ quan tâm hơn nữa tới Iran (bởi vì họ thấy TT. Obama quá hiền mà), bằng cách bán cho Iran nhiều hệ thống tên lửa hịên đại để Iran “phòng thủ“ trước sự đe dọa của Mỹ và phương tây. Trong khi Iran tuyên bố không chế tạo vũ khí hạt nhân nhưng lại tuyên bố “xóa sổ Israel trên bản đồ thế giới“ mà rõ ràng Iran biết Israel đã có vũ khí hạt nhân từ lâu rồi. Chiến tranh giữa Israel và Iral sẽ xẩy ra và dĩ nhiên Mỹ sẽ nhảy vào giúp Israel, sự hủy diệt ở Iral là có thể và khi đó Putin sẽ bị móc sắt lôi ra từ phía cực bắc và Trung Quốc từ phương Đông quyết định cứu Iral (đã có ý đồ tuyên chiến với Mỹ từ lâu rồi). Thế là đại chiến 3 nổ ra đã hủy diệt loài người. Dĩ nhiên ở dưới nghĩa địa thì mới có Thiên Đường của Đức Chúa Trời cho những ai tôn thờ chúa và địa ngục cho những người còn lại. Vì vậy nguyên nhân tận thế của thế giới có thể không phải do sự va chạm của thiên thạch với trái đất mà là vũ khí hạt nhân. Tôi phải nói các điều này ra chỉ hy vọng Thiên Cơ đã bị lộ thì hiện tượng sẽ không xẩy ra như vậy nữa (nếu nó đúng là Thiên Cơ) bởi vì con người khi đã biết trước nó thì họ sẽ biết phải làm gì có lợi cho chính bản thân họ, nếu không chả nhẽ họ toàn là những người đánh bom “liều chết“ như các chiến binh của Bin-Laden hay sao? Hy vọng có ai dịch giúp bài viết này ra tiếng Anh để gửi tới tất cả các trang web trên thế giới, nếu không e rằng sẽ quá muộn. Các bài sau trích trong cuốn "Giải Mã Tứ Trụ", phần Phụ Lục. II - Những điều cần biết về Vũ Trụ A - Lỗ đen, lỗ trắng và sự hình thành của chúng 1 - Các phân tích định lượng dẫn đến việc tiên đoán một ngôi sao (như mặt trời) có khối lượng ít nhất gấp ba lần (?) khối lượng Mặt Trời của chúng ta, tại thời điểm cuối cùng trong quá trình tiến hóa (tức khi mặt trời không còn khả năng cháy) thì hầu như chắc chắn nó sẽ co lại tới một kích thước tới hạn cần thiết để xảy ra suy sập hấp dẫn, và một lỗ đen được tạo thành. 2 - Lỗ đen là một vùng trong không gian có trường hấp dẫn lớn đến mức lực hấp dẫn của nó không để cho bất cứ một dạng vật chất nào, kể cả ánh sáng thoát ra khỏi mặt biên của nó (Chân Trời Sự Kiện, tức ranh giới mà mọi vật, kể cả ánh sáng không thể thắng được lực hấp dẫn của Lỗ Đen để có thể quay trở lại vũ trụ). 3 - Các lỗ đen siêu lớn có thể có khối lượng gấp hàng triệu, hàng tỷ lần khối lượng Mặt Trời. Chúng có thể được hình thành khi có một số lớn các ngôi sao bị nén chặt trong một vùng không gian tương đối nhỏ, hoặc khi có một số lượng lớn các ngôi sao rơi vào một lỗ đen ban đầu, hoặc khi có sự hợp nhất của các lỗ đen nhỏ hơn. 4 – Cũng giống như những Lỗ Đen chỉ được hình thành từ những Mặt Trời chết (chúng không còn cháy) có khối lượng đủ lớn thì một Lỗ Trắng (phun ra vật chất) cũng chỉ được tạo ra khi một Lỗ Đen lớn tới mức độ M. Lỗ Đen có khả năng lớn tới mức M được gọi là Lỗ Đen M (có thể nó phải hút nhiều hơn số lượng các Lỗ Đen đang khống chế khoảng 170 tỷ Thiên Hà mà hiện nay chúng ta đã phát hiện trong Vũ Trụ). B - Hệ mặt trời, thiên hà và siêu thiên hà 1 - Một hệ mặt trời thường chỉ có một mặt trời và các vệ tinh bay xung quanh nó theo các quỹ đạo khác nhau (như hệ mặt trời của chúng ta có 8 hành tinh). 2 – Các mặt trời (tức hệ mặt trời) trong vũ trụ thường quần tụ gần nhau tạo thành từng đám được gọi là các thiên hà (như hệ mặt trời của chúng ta nằm trong thiên hà Miky Way - còn gọi là Ngân Hà - có khoảng 300 tỷ mặi trời). 3 - Các kính thiên văn hiện đại ngày nay đã cung cấp bằng chứng cho thấy có khoảng một trăm bảy mươi tỷ thiên hà trong vũ trụ. Trong đó các thiên hà cũng quần tụ gần nhau tạo thành những đám có số lượng khác nhau (khoảng vài chục hay vài trăm và thậm trí tới vài nghìn) và người ta đã gọi chúng là các siêu thiên hà. 4 - Tại tâm của mỗi thiên hà hay mỗi siêu thiên hà có một lỗ đen siêu lớn, cùng với thời gian nó dần tiêu diệt (hút) các mặt trời và các thiên hà vệ tinh xung quanh bằng lực thủy triều (?) và cướp lấy khối lượng của chúng. III - Âm Dương và Ngũ Hành là các tiên đề trong mệnh lý học Đông Phương (?) A – Các tiên đề trong mệnh lý học Đông Phương (?) Mệnh học Đông Phương cũng tương tự như trong toán học nó phải được xây dựng trên một số tiên đề. Do vậy qua lăng kính Vật Lý, tôi thừa nhận Âm Dương và Ngũ Hành là các tiên đề xuất phát từ 2 khái niệm cơ bản trong Vật Lý Học hiện đại là Lỗ Đen và Lỗ Trắng như sau: Trong vật lý thiên văn, một Lỗ Trắng là một thiên thể giả định phóng ra vật chất, ngược lại với nó là một Lỗ Đen vốn hút mọi vật chất kể cả ánh sáng. Tôi xin trình bầy từng bước quan điểm này như sau: 1 – Qua định luật vạn vật hấp dẫn cổ điển của Newton mà loài người đã biết đến sự tồn tại của hệ mặt trời bởi sự tương tác hấp dẫn của mặt trời với 8 hành tinh trong hệ mặt trời của chúng ta không thể tách rời nhau qua vài tỷ năm. 2 – Các mặt trời ở gần nhau đã tạo thành Thiên Hà (hay Ngân Hà khoảng 300 tỷ mặt trời). Vậy thì chắc chắn phải có một lực hấp dẫn nào đó đã giữ chúng tồn tại gần với nhau qua bao tỷ năm như vậy, nếu không thì chúng đã trôi nổi trong vũ trụ giống như nếu không có lực hấp dẫn giữa mặt trời với 8 hành tinh trong hệ mặt trời của chúng ta thì hệ mặt trời của chúng ta đã không thể tồn tại tới ngày nay. Qua sự giúp đỡ của các kính thiên văn hiện đại người ta dự đoán có vật thể bí ẩn đã hấp dẫn giữ các mặt trời lại để tạo thành Thiên Hà và vật thể bí ẩn này người ta gọi là Lỗ Đen. Từ đây chúng ta có thể suy ra trong mỗi trung tâm của mỗi Thiên Hà phải có một Lỗ Đen là một điều hợp lý. 3 – Giống như các Thiên Hà, tâm của mỗi siêu Thiên Hà cũng phải tồn tại một Lỗ Đen rất lớn để giữ các Thiên Hà không bị tản mát trong vũ trụ bao la. Vậy thì các Lỗ Đen chỉ có một nhiệm vụ hút mọi vật, kể cả ánh sáng khi chúng không may đi qua “Chân Trời Sự Kiện“. Nếu chỉ có các Lỗ Đen thì vũ trụ ngày nay chắc rằng chỉ còn là một mầu đen bởi vì tất cả mọi vật đều bị Lỗ Đen nuốt hết nếu chúng ta thừa nhận thời gian là vô tận. Để giải quyết mâu thuẫn này, người ta bắt buộc phải đưa ra khái niệm về Lỗ Trắng. Mặc dù người ta không thể nhìn thấy các Lỗ Đen mà chỉ dự đoán được sự tồn tại chúng qua lực tương tác của chúng với các vật xung quanh còn các Lỗ trắng thì người ta có thể nhìn thấy được chúng nhưng tại sao người ta lại chưa phát hiện được chúng trong vũ trụ? Vậy thì Lỗ Đen và Lỗ Trắng là hai vật thể khác nhau hay không? Theo tôi chúng chỉ là một bởi vì chả có vật nào như Lỗ Đen cứ hút mãi và cũng chả có vật nào như Lỗ Trắng cứ phun mãi. Điều này có thể giải thích là khi một Lỗ Đen hút mãi tới một mức độ nào đó thì nó sẽ tới một giá trị tới hạn M và khi đó nó phải phun ra để trở về trạng thái (Lỗ Đen) bình thường của nó (các Lỗ Đen này được gọi là Lỗ Đen M). Các vật bị nó phun ra không thể bay theo chiều đó vào vũ trụ mãi được mà chúng chỉ bay tới một giới hạn nào đó thì chúng phải dừng lại bởi lực hấp dẫn của các Lỗ Đen M đã khống chế chúng (ngày nay người ta nhận thấy vũ trụ đang giãn nở ngày càng nhanh chứng tỏ tàn dư của Lỗ Trắng chưa kết thúc). Lỗ Trắng và Lỗ Đen M của nó cũng như các vật thể bị Lỗ Đen M này khống chế đã tạo thành một Vũ Trụ Nhỏ (bởi vì ai mà biết được trong Vũ Trụ có bao nhiêu Lỗ Đen M?) tồn tại với thời gian vô tận. Từ mô hình Vũ Trụ Nhỏ này mà tôi đã suy luận rằng Thái Cực chỉ là một khái niệm để mô tả tại thời điểm khi mà Lỗ Đen M bắt đầu trở thành Lỗ Trắng. Còn Âm Dương và Ngũ Hành là các tiên đề trong mệnh học Đông Phương của cái Vũ Trụ Nhỏ này, trong đó Âm và Dương là nói đến cặp phạm trù đối lập, theo cách hiểu đơn giản nhất. B – Tiên đề Âm Dương Người ta có thể ứng dụng các tiên đề Âm và Dương để giải thích các khái niệm cơ bản trong cái Vũ Trụ Nhỏ này mà tôi tạm thời phân chúng thành 3 dạng : Đơn tính, lưỡng tính và vô tính. 1 - Đơn tính (có nghĩa là chỉ cần một trong 2 phạm trù đối lập của Âm và Dương có thể sinh sản được). Đây chính là các trường hợp mà Âm và Dương đại diện cho các cặp phạm trù đối lập có thể chuyển hóa cho nhau mà trong thực tế người ta đã biến khối lượng thành năng lượng (bom nguyên tử) và năng lượng biến thành khối lượng theo đúng phương trình năng lượng và khối lượng có thể chuyển hóa cho nhau của nhà bác học thiên tài Albert Einstein: E = mc² ( trong đó E là năng lượng , m là khối lượng, c là vận tốc ánh sáng). Nếu ta quy ước gọi khối lượng (m) mang phạm trù Dương thì năng lượng (E) sẽ mang phạm trù Âm Hiện giờ qua cỗ máy Large Hadron Collider (Máy gia tốc hạt lớn - gọi tắt là LHC) các nhà Vật Lý đang đi tìm “Hạt của Chúa” (tức một dạng “hạt” cụ thể mà các nhà Vật Lý gọi là hạt Higgs) đã đóng vai trò trong việc chuyển năng lượng thành khối lượng. Ngay cả khái niệm bên phải và bên trái cũng có thể xếp vào loại này bởi vì nếu một người khi đi mãi về phía tay phải thì sau khi đi vòng quanh quanh trái đất, người đó dĩ nhiên sẽ tới bên trái của đối tượng làm mốc xuất phát lúc trước. Tương tự như bên trên và bên dưới cũng có tính chất này nếu chúng ta thừa nhận mọi điểm trên mặt đất đều có một trục từ trường ảo như trục từ trường bắc nam của trái đất. Nếu như vậy thì bất kỳ vật nào đi lên phía trên mãi mãi rồi sẽ phải trở về mặt đất ở một điểm bên đối diện của trái đất và rồi nó nó đi theo trục của trái đất tại điểm đó sẽ đến bên dưới của đối tượng làm mốc mà từ đó nó đã bắt đầu đi lên phía trên. Lỗ Đen và Lỗ Trắng cũng là một cặp phạm trù đối lập của Âm và Dương. Chúng có thể chuyển hóa cho nhau, đó chính là cuộc đời của các Vũ Trụ Nhỏ đang tồn tại mà ngày nay chúng ta vẫn đang nhìn thấy bằng mắt thường. 2 – Lưỡng tính (có nghĩa là phải có sự kết hợp cả hai phạm trù đối lập của Âm và Dương mới sinh sản được). Đây chính là các trường hợp Âm và Dương được áp dụng cho các cặp phạm trù đối lập không thể chuyển hóa được cho nhau mà chúng muốn tồn tại và phát triển phải có sự tác động của cả hai phạm trù đối lập này. Một trong các ví dụ hiển nhiên là con người hay động vật. Âm và Dương ở đây được đại diện cho giống đực và giống cái. Chính có sự tác động giữa hai đối tượng này mà con người và động vật mới có thể tồn tại tới ngày nay. Âm và Dương còn có thể đại diện cho cả động vật và thực vật bởi vì phải có sự tác động của cả 2 đối tượng này thì chúng mới có thể cùng tồn tại và phát triển tới ngày nay (xem giải thích ở dưới). 3 - Vô tính (có nghĩa đây là các dạng phạm trù đối lập của Âm và Dương không có khả năng sinh sản) : Đây là các trường hợp mà Âm và Dương không thể chuyển hóa và tác động được với nhau. Một trong các ví dụ này là các khái niệm như đen và trắng; tốt và xấu; …… C – Tiên đề Ngũ Hành Ngũ hành là Thủy, Mộc, Hỏa, Thổ và Kim. Chúng có các tính chất tương sinh như Thủy sinh Mộc, Mộc sinh Hỏa, Hỏa sinh Thổ, Thổ sinh Kim, Kim sinh Thủy và rồi Thủy lại sinh cho Mộc… .Và tính chất tương khắc như Thủy khắc Hỏa, Hỏa khắc Kim, Kim khắc Mộc, Mộc khắc Thổ, Thổ khắc Thủy và rồi Thủy lại khắc Hỏa….. Người ta đã ứng dụng các tiên đề này để mô tả gần như mọi quy luật phát triển của thế giới tự nhiên đều tuân theo quy luật của một vòng tròn khép kín. 1 - Các ví dụ về quy luật của vòng tròn khép kín : a - Chu kỳ Sinh Thành Lão Tử của con người và động thực vật (chúng đều được sinh ra, trưởng thành, suy yếu, chết rồi lại được đầu thai để sinh ra…). b - Chu kỳ của động vật và thực vật (động vật ăn rau, hoa quả, thu O2 và thải ra phân, khí CO2 , còn thực vật thì ngược lại. Rõ ràng chúng đã tạo ra quy luật của một vòng tròn khép kín). c – Chu kỳ của nước biển nóng do mặt trời chiếu đã bốc hơi lên cao, được gió thổi vào đất liền, khi tới độ cao đủ lạnh, hơi nước ngưng tụ thành nước rơi xuống chẩy thành các dòng sông ra biển và rồi chúng lại bốc hơi…..1 like
-
Bài 2 : Sáu Mươi Năm Giáp Tý Tuần thứ nhất Chương 1 Bảng Nạp Âm 60 năm Giáp Tý Ta thấy có 60 tổ hợp của hai chữ. Các chữ đầu của các tổ hợp này được gọi là các Thiên Can, còn các chữ sau được gọi là các Địa Chi. Các tổ hợp 2 chữ này đã được tìm thấy từ thế kỷ 16 trước công nguyên ở Trung Quốc. Các Thiên Can này đã được dùng làm các đế hiệu của vua nhà Thương như Thành Thương có tên là Thiên Ất, con trai của ngài gọi là Đại Đinh, Trung Bính, Trung Nhâm, cháu có tên là Đại Giáp,...... 1 – Thiên Can Nhìn vào bảng này ta thấy ngay 10 từ đầu của các tổ hợp là, Giáp, Ất, Bính, Đinh, Mậu, Kỷ, Canh, Tân, Nhâm, Quý được lặp đi lặp lại theo một thứ tự nhất định. 10 từ này được gọi là 10 thiên can, gọi tắt là 10 can. Thiên ở đây có nghĩa là trời, còn Can ở đây có thể hiểu là cánh. Do vậy ta có thể hiểu đây là 10 thiên thần có cách sống ở trên trời (tức 10 can này là ở trên trời). Vậy thì 10 thiên thần này có liên quan gì với 9 hành tinh và mặt trời ở trong hệ mặt trời mà chúng ta đã biết ? Phải chăng Họ (ý nói những người thuộc nền văn minh ngoài hành tinh của chúnh ta) đã lấy chính 10 thiên thần này để ứng với 10 vật thể chính trong hệ mặt trời của chúng ta ? Sơ đồ vị trí, kích thước và thứ tự các quỹ đạo của 9 hành tinh trong hệ mặt trời của chúng ta : Theo như sự suy luận của tôi nếu như tính đến sự tác động của các vật thể lớn trong hệ mặt trời của chúng ta tới con người thì không thể không tính đến mặt trăng. Bởi vì mặt trăng có đường kính 3476 km lại ở rất gần chúng ta (chỉ cách chúng ta 0,38 triệu km), còn hành tinh Pluto đường kính chỉ có 3100 km ở vị trí xa lắc xa lơ tận vòng ngoài cùng của hệ mặt trời, cách chúng ta và cũng có thể coi xa hơn mặt trăng 5.796 triệu km. Do vậy sự tác động vào con người của mặt trăng chắc chắn sẽ cao hơn nhiều lần của hành tinh Pluto và dĩ nhiên để chọn vật thể thứ 10 trong hệ mặt trời có tác động mạnh nhất đến con người thì phải chọn mặt trăng mà bỏ hành tinh Pluto. 2 - Địa Chi Tương tự ta cũng thấy 12 chữ sau của các tổ hợp là : Tý, Sửu, Dần, Mão, Thìn, Tỵ, Ngọ, Mùi, Thân, Dậu, Tuất, Hợi cũng được lặp đi lặp lại theo một thứ tự nhất định. Mười hai từ này được gọi là 12 địa chi, gọi tắt là 12 chi. Địa có nghĩa là đất, nghĩa là ở trên mặt đất hoặc ở dưới mặt đất, còn Chi có nghĩa là chân, ý nói tới các loài vật có chân. Do vậy ta hiểu đây là 12 con vật đang sống trên trái đất đó là: Nhưng tại sao lại có đến 12 con vật là 10 có phải là đẹp hơn không? Chắc là lúc đó Họ đã biết rất rõ trái đất ở trong hệ mặt trời của chúng ta có mặt phẳng xích đạo nghiêng với mặt phẳng hoàng đạo cho nên sẽ phải xẩy ra bốn mùa trên trái đất mà chúng ta quen gọi là Xuân, Hạ, Thu, Đông. Mỗi mùa này Họ lại chia nhỏ ra làm ba phần để xác định đầu mùa, giữa mùa và cuối mùa, vì vậy phải có 12 địa chi là vậy. 12 địa chi này xác định các vị trí mà trái đất đã quay được một vòng xung quanh mặt trời, chúng ta gọi chúng là 12 tháng của một năm. Chúng ta biết mặt phẳng hoàng đạo và mặt phẳng xích đạo lệch nhau 23,5 độ, đó chính là nguyên nhân tạo ra 4 mùa trên trái đất. Sau 60 năm tổ hợp can chi lại quay trở lại tổ hợp ban đầu là Giáp Tý, cho nên mới có tên gọi là 60 năm Giáp Tý. II - Bảng nạp âm 60 năm Giáp Tý Nghĩa của các tổ hợp can chi trên được người Trung Quốc gọi là nạp âm. Cho đến nay ngay cả các nhà mệnh học nổi tiếng Trung Quốc cũng không hiểu được dựa trên nền tảng nào mà những người ngoài hành tinh của chúng ta đã nạp âm cho các tổ hợp can chi này. Rất nhiều người đã cố công giải thích, nhưng đến nay vẫn chưa có ai đưa ra được lời giải thích có tính thuyết phục cả. Do vậy trong thời gian này chúng ta tạm thời thừa nhận và sử dụng chúng vào trong các ví dụ thực tế để xem xét khả năng đúng hay sai của chúng. (Trang 272, cuốn Dự Ðoán Theo Tứ Trụ - in năm 2002, cụ Thiệu Vĩ Hoa đã viết: “Trong bảng sáu mươi năm Giáp Tý, căn cứ theo nguyên tắc gì để nạp âm ngũ hành? Người xưa tuy có bàn đến nhưng không có căn cứ rõ ràng và cũng chưa bàn được minh bạch, do đó vẫn là huyền bí khó hiểu. Bảng 60 năm Giáp Tý biến hóa vô cùng, cho đến nay đối với giới học thuật của Trung Quốc đó vẫn còn là một bí ẩn”. Ðây chính là một trong các bằng chứng để chứng minh rằng bảng nạp âm sáu mươi năm Giáp Tý không phải do người Trung Quốc phát minh ra.). Tóm tắt các ý chính của các nạp âm tác động với nhau gây lên tốt và xấu (Qua một số sách mà các cổ nhân để lại) 1 – Giáp Tý, Ất Sửu – Kim đáy biển : ? 2 – Bính Dần, Đinh Mão - Lửa trong lò : ? 3 - Mậu Thìn, Kỷ Tị - Gỗ rừng xanh : ? 4 – Canh Ngọ, Tân Mùi - Đất ven đường : Gặp gỗ rừng là mệnh quý. Gặp Kim là mệnh phú quý. 5 – Nhâm Thân, Quý Dậu – Kim lưỡi kiếm : Chỉ sợ lửa trong lò và lửa sấm sét 6 – Giáp Tuất, Ất Hợi - Lửa đỉnh núi : Là mệnh quý hiển nếu có thêm Mộc và Hỏa. Sợ Thủy nhất là gặp nước biển tương khắc thì hung thần tới nơi. 7 – Bính Tý, Đinh Sửu - Nước khe núi : Gặp Kim rất tốt, nhất là kim trong cát và kim lưỡi kiếm. Mệnh gặp nước suối cực quý. Sợ Thổ và Hỏa. 8 - Mậu Dần, Kỷ Mão - Đất trên tường : Gặp Thủy và Thổ là quý hiển trừ nước biển và lửa sấm sét. 9 – Canh Thìn, Tân Tị - Kim giá đèn : Thích Hỏa nhất là Ất Tị, thích Thủy nhất là Ất Dậu, Quý Tị, đó là các mệnh quý. Sợ Mộc khắc trừ khi gặp Hỏa yếu (chắc là lửa của ngọn đèn). 10 – Nhâm Ngọ, Quý Mùi - Gỗ liễu : Nó , thích Thủy và gặp đất mái nhà là tốt trừ nước biển. Nó gặp gỗ lựu cực xấu và gặp Hỏa dễ chết yểu. 11 – Giáp Thân, Ất Dậu - Nước ngầm : Gặp Kim trong cát hay Kim trang sức rất tốt, gặp Thủy và Mộc cũng tốt. Nếu trụ năm giờ đều có Thủy và tháng ngày đều có Mộc là mệnh cực quý. 12 – Bính Tuất, Đinh Hợi - Đất mái nhà : Cần có Mộc làm khung và Kim trang hoàng cực quý, Kim quý nhất là nhũ kim và kim lưỡi kiếm. Sợ gặp Hỏa trừ lửa mặt trời lại là mệnh phú quý. 13 - Mậu Tý, Kỷ Sửu - Lửa sấm sét : Gặp Thổ, Thủy hay Mộc có thể tốt hoặc không có hại. 14 – Canh Dần, Tân Mão - Gỗ tùng : Sợ lửa lò, nước biển. Gặp Kim đại quý .Trụ tháng ngày và giờ đều có Nhâm, Quý, Hợi và Tý là mệnh cực quý. 15 – Nhâm Thìn, Quý Tị - Nước sông : Gặp Kim là tốt gặp Thủy là xấu (dễ vỡ đê). Gặp đất mái nhà hay đất trên tường khó tránh khỏi tai họa cần có Kim để giải cứu. Gặp lửa đèn, lửa trên núi cực quý ngoài ra đều xấu. 16 – Giáp Ngọ, Ất Mùi – Kim trong cát : Nó là mệnh thiếu niên phú quý nếu gặp lửa trên núi, lửa dưới núi hay lửa đèn (để luyện nó thành vật dụng) nhưng nó cần gặp Mộc (để kiềm chế nếu Kim quá vượng) và Thủy như nước khe núi, nước suối và nước mưa (để khống chế Hỏa nếu Hỏa vượng). Nó sợ nước sông, nước biển, đất ven đường, đất dịch chuyển và cát trong đất (bởi vì nó dễ bị vùi chôn). 17 – Bính Thân, Đinh Dậu - Lửa dưới núi : Gặp Thổ và Mộc rất tốt, không thích lửa mặt trời, lửa sấm sét và lửa đèn. 18 - Mậu Tuất, Kỷ Hợi - Gỗ đồng bằng : Sợ nhất gặp kim lưỡi kiếm, thích Thủy, Thổ và Mộc. Sinh mùa Đông trong mệnh lại gặp Dần và Mão là mệnh quý. 19 – Canh Tý , Tân Sửu - Đất trên tường : Có Mộc là mệnh quý, gặp Thủy cũng quý trừ nước biển. Kim chỉ thích nhũ kim. Sợ Hỏa sẽ cháy nhà (vì tường này là tường của nhà được làm bằng rơm với đất bùn). 20 – Nhâm Dần, Quý Mão – Nhũ kim : Gặp đất trên thành, đất trên tường mới tốt như gặp Mậu Dần, riêng Quý Mão gặp Kỷ Mão đều là mệnh quý hiển. 21 – Giáp Thìn, Ất Tị - Lửa đèn : Nó là mệnh rất quý nếu nó gặp Mộc và Thủy như nước ngầm, nước khe núi và nước sông (dầu để thắp đèn) hay Kim lưỡi kiếm. Nó sợ gặp lửa mặt trời (đèn là vô dụng), lửa sấm sét (làm tắt đèn) và đất trừ đất mái nhà. 22 – Bính Ngọ, Đinh Mùi - Nước mưa : Sợ đất trên tường, đất mái nhà, đất trên thành, đất ven đường và đất dịch chuyển. 23 - Mậu Thân, Kỷ Dậu - Đất dịch chuyển : Nó thích nước tĩnh như nước ngầm, nước mưa và nước sông. Nó sợ nước biển, lửa trên núi và lửa dưới núi, gặp lửa sấm sét phải dùng Thủy để hóa giải lại là mệnh quý. 24 – Canh Tuất, Tân Hợi – Kim trang sức : Nó sợ gặp Hỏa, gặp Thủy cũng quý trừ nước biển, nó thích cát trong đất. 25 – Nhâm Tý, Quý Sửu - Gỗ dâu : Gặp cát trong đất, đất ven đường, đất dịch chuyển, nước ngầm, nước khe núi, nước sông đều tốt. Gặp gỗ tùng, gỗ liễu, gỗ rừng xanh đều quý. Sợ gỗ đồng bằng và gỗ lựu. 26 – Giáp Dần, Ất Mão - Nước suối : Gặp Kim rất tốt. Sợ gặp Thổ và Mộc trừ gỗ cây dâu là mệnh cực quý. 27 – Bính Thìn, Đinh Tị - Cát trong đất : Gặp Kim và Thủy là quý cũng như lửa mặt trời, gỗ dâu, liễu, ngoài ra các loại Mộc, Hỏa khác đều không tốt. 28 - Mậu Ngọ, Kỷ Mùi - Lửa mặt trời : Thích gặp Thủy, Mộc và Kim. Chỉ thích lửa đèn còn các loại lửa khác đều tương khắc. Thích gặp Thổ có thêm Kim và Mộc là mệnh quý. Lửa mặt trời đơn độc với Thủy là xấu. 29 – Canh Thân, Tân Dậu - Gỗ lựu : Gặp Thổ, Thủy, Mộc, Kim có thể thành tốt trừ nước biển sẽ bần cùng bệnh tật. Lửa mặt trời và lửa sấm sét có thể tốt nhưng cũng có thể xấu. Sinh tháng, năm, ngày hoặc giờ có Hỏa hoặc gặp gỗ liễu là mệnh quý. 30 – Nhâm Tuất, Quý Hợi - Nước biển : Gặp các loại nước cực tốt, nhất là Nhâm Thìn cực phú quý. Thích lửa mặt trời, kim đáy biển, gỗ dâu, gỗ liễu, đất dịch chuyển, đất trên tường, đất ven đường ngoài ra đều xấu nhất là lửa sấm sét. Các câu hỏi trọng tâm : 1 – Theo bạn, cách đây 3 đến 4 nghìn năm con người của chúng ta đã biết đến hệ mặt trời có 9 hành tinh hay chưa? 2 – Cách giải thích vì sao có 10 can và 12 chi liệu có thỏa mãn tính tò mò của bạn không? Cách giải thích này đã có tính chất khoa học (duy vật) hay nó vẫn còn mang nặng tính chất huyền bí (duy tâm) ? Bạn có cách nào giải thích khác không? 3 - Có một cao thủ về dịch lý bên Lý Học Ðông Phương cho rằng có 4 mùa trên trái đất là do quỹ đạo của trái đất quay quanh mặt trời theo hình elip. Theo bạn điều này có đúng hay sai, vì sao? 4 - Bạn thử kể ra các lực tương tác mà bạn biết của 10 vật thể được đưa ra ở trên lên con người nói riêng và các vật thể khác trên mặt đất nói chung là gì? 5 - Giả sử có 2 người cùng sinh ra tại một thời điểm của thời gian (cứ giả sử thời điểm họ sinh ra được tính chính xác tới 1/tỷ giây hay cứ cho là tuyệt đối - tức không có sự sai lệch về thời gian) thì họ có cùng sinh ra tại 1 vị trí trong không gian của vũ trụ hay không ?1 like
-
Cô vừa nhận được từ Văn phòng Trung tâm số tiền 200.000 đ (hai trăm ngàn) của Crescent dành cho từ thiện.1 like
-
Dạ, LD xin cám ơn BQT và Cô Wild đã cảm thông. Việc phụ trách trao tặng đồng bào hoạn nạn ở Miền Trung, xin TT và BQT hoạch định một kế hoạch trước. Vì sự việc có bán kính rộng, nhiều đồng bào gặp nạn, không phải là một vài cá nhân đơn lẻ. LeDien cũng đang nghĩ cách để trao tặng quà của TT đến với bà con một cách tốt nhất. Xin các ACE có ý gì hay, mong đề xuất. LeDien1 like
-
Rất thông cảm cho quyết định của LeDien, nhiều cái khó nhưng nơi nào KHÓ hơn, chúng ta có trách nhiệm hổ trợ. Wild cũng đã lường trước việc này nên quyết định chuyển số tiền còn lại trong quỹ Từ Thiện để giúp cho bão lũ miền trung. Khi đạt đến con số kha khá, LeDien phụ trách việc này trao tay đến đồng bào hoạn nạn.1 like
-
Kính gửi Cô WildKính Gửi Sư Phụ Thiên Sứ. Số tiền này LeDien chưa gửi đi được. Phàm việc gì cũng vậy: "Hết trong nhà mới ra ngoài đường". Nay bão lũ miền Trung tàn phá dữ dội, tài chính LeDien lại có hạn nên xin được chưa ủng hộ trường hợp của Bạn người Campuchia, thay vào đó LD xin ủng hộ đồng bào miền Trung quê nhà. Thành thật xin lỗi Bạn Hun Kon. Xin lỗi BQT đã kỳ vọng. LeDien1 like
-
Sáng nay gặp lại vợ chồng Ông Trần Dục, giữ lời hứa Wild hổ trợ thêm 500.000 đ (năm trăm ngàn) để mua thuốc giảm đau vì không có toa bảo hiểm. Đây là trường hợp cậu trai 21 tuổi bị bướu trong não, quê ở Kontum, sau giai đoạn giải phẩu gia đình đã không còn tiền để về quê, Cậu và gia đình nằm ngoài hành lang sống lay lắt nhờ sự hảo tâm của những người chung quanh. Wild cũng đã trao tặng 500.000 đ (năm trăm ngàn) Trường hợp này, cũng 21 tuổi cùng bệnh bướu trong não quê Phú Yên, hoàn cảnh của cậu sau khi xạ trị gia đình cũng không còn tiền để truyền dịch, gây nên tình trạng ăn uống gì cũng không dung nạp do hóa chất nóng bức, tình trạng sức khỏe sụt giảm rất nhanh. Cha mẹ cũng bỏ quê vào chăm sóc mà chỉ có một suất cơm từ bếp ăn từ thiện. Giấy xác nhận:1 like
-
Đã nhận được 300.000 đ(ba trăm ngàn) của smooly_girl.1 like
-
Hic... :( Thứ lỗi cho Crescent,...nếu là mình, chắc Crescent chẳng thiết gì nữa... nói chi đến tai và mắt là những giác quan giúp cảm nhận những gì xung quanh rõ và nhanh nhất..... sẽ rất khó khăn để vượt qua...không biết Hun Kon có vượt qua được không? Hay lại tiềm tàng những nguy cơ đau lòng khác... .... Ôi nhân-quả , nghiệp chướng :lol: ... Crescent xin góp 200 (sẽ chuyển theo cách cũ), mong gia đình e vượt qua khó khăn lúc này. Chân thành cảm ơn cô Wild và Chip1 like
-
Chiều qua Wild nhận được sự đóng góp của 2 nhà hảo tâm ngoài Diễn Đàn là Bạn Hiếu Biberian và Bạn Phương sau khi xem topic này. Mỗi người 500.000 đ (Hiếu) 500.000 đ(Phương) = 1.000.000 đ (một triệu đông) Ghi nhận tấm lòng của 2 bạn. Sự đồng cảm này làm cho nỗi bất hạnh trong cuộc sống sẽ nhẹ nhàng hơn.1 like
-
Chị ơi, cô Wild đề nghị chuyển công tác ko phải vì vất vả, trở ngại. Cô Wild bị choáng và hụt hẫng về tinh thần vì sự tàn nhẫn của con người. Con người thù hằn gây ra nỗi đau cho đồng loại của mình, chứ ko phải do thiên tai hay tai họa từ trên trời rơi xuống.1 like
-
Cô wild cố gắng cô nhé Công việc này ai cũng biết là vất vả và sẽ gặp nhiều trở ngại nhưng không ai tưởng tượng ra rằng cô phải nghe những lời chửi bới, và phải chứng kiến những cảnh thương tâm thế này. Công sức của cô chúng cháu hiểu hết Cháu xin chia sẻ với cô Cháu xin ủng hộ 300.000 đồng cho trường hợp này Sáng mai cháu sẽ chuyển vào tài khoản của cô nhé1 like
-
Sáng nay từ name card để lại có người nhà của Hun Kon (tên người thanh niên campuchea) điện thoại đến cám ơn Wild với lời lẽ tương đối rõ và dễ nghe, dịp này Wild hỏi thâm được tình hình của cháu và nguyên nhân. Anh ta nói" nhà nghèo lắm, không có cửa nên bị hại trong lúc ngủ. Địa chỉ là một huyện nhỏ bên camp cách biên giới vn mấy chục cây số, người gây ra là một trong số bạn bè của nạn nhân, biết nhưng không chứng cứ, tại hiện trường còn để lại can 4 lít. Chính quyền cũng không can thiệp gì, sau khi bị cháy gia đình đưa đến bv địa phương nhưng họ không có khả năng cứu chữa vì sẽ chết. Hết sức cố gắng gia đình chuyển qua vn chữa để được tình trạng như hôm nay nhờ rất nhiều vào lòng hảo tâm của cá nhân thiện nguyện truyền nhau thông tin này. Hiện nay nguyện vọng cháu mong được chữa trị đôi mắt để còn được nhìn thấy không làm khổ người thân và kiếm sống cho mình. Điều này có hy vọng nếu cháu có tiền để cứu vãn đôi mắt. Còn một lần phẩu thuật cho lỗ tai vì vẫn còn mủ trong đó gây đau nhức. Wild thật sự xúc động, chưa hoàn toàn trở lại trạng thái bình tâm khi chứng kiến nỗi đau vượt xa sức tưởng tượng của mình. Tâm nguyện của Wild muốn có điều kiện để trở lại thăm cháu. Có lẽ cũng chờ đợi sự góp sức của ACE.1 like
-
Kính gửi Cô Wild Cô chuyển giúp LeDien 500.000vn đến trường hợp Anh Bạn người Campuchia. Không mong gì hơn, chỉ mong giúp một ít vật chất. ____________________ LeDien1 like
-
Wild sẽ chuyển giúp Kim Phong sau khi nhận được.1 like
-
Kính gửi chị Wildlavender, - Chị có thể gửi dùm em 500.000 ( năm trăm nghìn) cho chị quê ở Lâm Đồng được không ạ ? Em sẽ chuyển tiền vào TK cho chị vào ngày mai.1 like
-
Cô wild kính mến.Cháu thật sự cũng bị sốc khi nhìn thấy hình ảnh anh thanh nien Campuchia bị tạt axít cháu không dàm nhìn lâu hình ảnh đó, kinh khủng.Đó là cháu mới chỉ nhìn qua hình chụp thôi chứ nếu nhìn trực tiếp, quả thật cháu không dám.Từ đó cháu cũng hiểu rằng việc làm của cô thật đáng quý, rất trân trọng. Mong cô tiếp tục công việc này, cô nhé. Chúc cô mạnh khỏe và hạnh phúc.1 like
-
Sau việc này Wildlavender bị xốc nặng. Chị đề nghị chuyển giao công việc từ thiện cho người khác, khi chứng kiến hậu quả của sự tàn nhẫn đến tận cùng. Tôi cố gắng khuyến khích chị Wildlavender tiếp tục công việc. Nhưng đó là lúc chưa nhìn thấy hình ảnh này. Thật tình tôi cũng xốc quá! Qúa khủng khiếp.1 like