-
Thông báo
-
Nội quy Lý Học Plaza
Nội quy này là bản mở rộng Nội Quy - Quy định của Diễn đàn. Khi tham gia mua bán, các thành viên phải tuân theo những quy định sau: Tiêu đề bài viết: Bao gồm: Chỉ dẫn địa lý, Loại hình Mua/Bán, Thông tin mua bán.
Chỉ dẫn địa lý: Tỉnh/thành nơi mua bán. Hoặc sử dụng định nghĩa có sẵn:TQ: Toàn quốc
HCM: TP Hồ Chí Minh
HN: Hà Nội
[*]Ví dụ: HCM - Bán Vòng tay Hổ Phách Nội dung bài viết: Mô tả chi tiết sản phẩm mua/bán
Bắt buộc phải có thông tin liên lạc, giá Mua/Bán
Bài mới đăng chỉ được phép up sau 03 ngày.
Thời gian up bài cho phép: 01 ngày 01 lần.
Các hành vi vi phạm nội quy này sẽ bị xóa bài hoặc khóa tài khoản mà không cần báo trước.
-
Leaderboard
Popular Content
Showing most liked content on 21/05/2011 in all areas
-
Trả lời các câu hỏi trọng tâm của bài 5 : Mục đích của 3 câu hỏi này nói chung chỉ muốn nói lên một điều là Tứ Trụ đã mã hóa mọi bí mật của con người và các mối quan hệ qua lại giữa con người với con người trong cái xã hội mà họ đang sống. Tứ Trụ và các khái niệm về nó thực chất không có gì là huyền bí cả khi mà con người ngày càng tìm thêm được những đặc trưng của nó đại diện cho những lĩnh vực mới của con người. Những điều đến nay còn cho là huyền bí bởi vì chúng ta chưa thể hiểu được những điều đó đã được xây dựng trên nền tảng nào hoặc nó đã đại diện cho những lĩnh vực nào của con người trong cuộc sống. Trải qua mấy nghìn năm con người đã không ngừng nghiên cứu để khám phá (Giải Mã) Tứ Trụ, mục đích giúp đỡ con người có thể biết trước được tương lai của mình để tìm cách sống và làm việc sao cho có lợi nhất. Những kiến thức mà tiền nhân đã tìm ra là vô cùng quý báu đối với chúng ta nhưng đáng tiếc rằng một số người có tính xấu, họ đã lợi dụng vào uy tín của mình để ngụy tạo nhiều tri thức mà các tiền nhân đã để lại, kể cả các tri thức được coi là các quy tắc nền tảng để xây dựng lên môn Tử Bình - Tứ Trụ (như các Ngụy Tạo của các cao thủ Tử Bình mà tôi đã gọi chúng là "Các Tuyệt Chiêu Nổi Tiếng trong Tử Bình"). Cho nên khi học hay nghiên cứu Tứ Trụ chúng ta không nên quá quan trọng coi những khái niệm về Tứ Trụ như những điều huyền bí mà hãy coi chúng chỉ là những khái niệm cụ thể đại diện cho các mặt của con người với cuộc sống của họ trong xã hội mà thôi, đồng thời luôn luôn cảnh giác với những phát ngôn của một số người có uy tín mà thấy không hợp lý, thiếu logic... nhất là nó lại đi ngược với nền tảng xây dựng nên môn Tử Bình - Tứ Trụ. Và tất nhiên hiện nay còn rất nhiều những điều “Huyền Bí“, chúng đang cần sự khám phá (Giải Mã) của các bạn.3 likes
-
Chào tất cả mọi người. Tôi đã nhận lời mời làm giảng viên chính cho lớp học Tứ Trụ sơ cấp và trung cấp bên trang web Nhân Trắc Học. Chương trình dậy theo đúng từng chương của cuốn "Giải Mã Tứ Trụ" của tôi. Có thể vì vậy mà nhiều người đã ghi danh tham gia học (gần 500) nhưng chỉ có 151 người được học. Ðây là một bất đồng của tôi với ban điều hành khi tôi muốn cho tất cả mọi người đã ghi danh đều được học. Ðó là lý do vì sao tôi mở chủ đề này. Nội dung dậy như sau: Nội dung khóa học sơ - trung cấp Sơ cấp : Bài 1 : Vận mệnh và dự đoán vận mệnh Bài 2 : Sáu mươi năm Giáp Tý Bài 3 : Học thuyết Âm Dương và Ngũ Hành Bài 4 : Đặc trưng của Tứ trụ Bài 5 : Đại vận và tiểu vận của Tứ trụ Bài 6 : Thân và mười thần của Tứ trụ Bài 7 : Thiên địa nhân của tứ trụ Bài 8 : Thần sát của tứ trụ Bài 9 : Sơ đồ biểu diễn tứ trụ, tuế vận và tiểu vận Trung cấp : Bài 10 : Thân và vùng tâm Bài 11 : Xác định điểm vượng của các trạng thái Bài 12 : Dụng thần của Tứ Trụ Bài 13 : Dụng thần của một số Tứ Trụ đặc biệt Bài 14 : Điểm hạn của ngũ hành Bài 15 : Sự xấu, tốt của đại vận và lưu niên Bài 16 : Cách tính điểm hạn cho từng năm Bài 17 : Các cách giải hạn cơ bản Bài 18 : Các ví dụ mẫu xây dựng lý thuyết Tôi sẽ cố gắng giải đáp mọi thắc mắc của mọi người về nội dung giảng dậy cũng như mọi trao đổi, tranh luận của mọi người trong chủ đề "Giải đáp thắc mắc" trong mục Tử Bình Bát Tự (ở phía dưới, vì ở đó mọi người mới được viết bài). Thân chào.2 likes
-
Xếp hàng nghe thơ chị nhân thể nặn mấy câu làm quen nhỉ mong rằng chị không đuổi ra khỏi hàng ngũ2 likes
-
Tư Vấn Chữ Ký
Omega and one other liked a post in a topic by Học Trò
Quý anh ký cái khác, tĩnh tâm mà ký, chứ đừng ký vội như sắp đi chữa cháy như thế, bởi nếu xét mọi phương diện, chữ ký và bút tự nói chung không tốt. http://www.lyhocdong...ew=print&size=22 likes -
Chương 5 Thân và mười thần của tứ trụ I – Nhật Can và Thân Trong mỗi tứ trụ, can ngày được gọi là Nhật Can, nó đại diện cho người có tứ trụ đó (hiểu đơn giản nó là ngôi nhà của người có tứ trụ đó). Hành của can ngày được gọi là hành của Thân (Thân còn được gọi là Nhật Chủ) của người có tứ trụ đó (hiểu đơn giản nó là thân thể của người có tứ trụ đó). Qua đó chúng ta có thể so sánh hành của Thân với 4 hành còn lại (sau khi đã xét khả năng tác động giữa các can chi trong tứ trụ với nhau) để xem hành của Thân là mạnh hay yếu (thường được gọi là Thân vượng hay nhược). Đây là một khâu vô cùng quan trọng cho việc dự đoán vận mệnh của con người. II - Mười thần của tứ trụ 1 - Mười thần Nhật Chủ chính là tôi, bản thân tôi, hành của Thân chính là hành của tôi, cho nên quan hệ của nó với các hành khác như sau : a - Cái sinh ra tôi chính là mẹ, mẹ kế người ta gọi là: Chính ấn (1), thiên ấn (2). b - Cái tôi sinh ra là con cái, người ta gọi là : Thực thần (3), thương quan (4) . c - Cái khắc tôi tức là tôi bị khống chế, người ta gọi là : Chính quan (5), thiên quan (6) đều là sếp, cấp trên của tôi. d - Cái tôi khắc là cái bị tôi khống chế, người ta gọi là : Chính tài là tiền hay là vợ của tôi (7), thiên tài là tiền hay là cha của tôi (8). e - Cái ngang tôi là anh chị em, bạn bè, đồng nghiệp, người ta gọi là : Ngang vai, thường gọi tắt là tỷ (9) và kiếp tài, gọi tắt là kiếp (10). Đó chính là mười thần có liên quan với tôi trong tứ trụ. Ví dụ : Nếu Tứ Trụ của tôi có can ngày (tức Nhật Can) là Tân mà Tân mang hành Kim thì Thân của tôi là hành Kim, vì vậy ta có : Mậu (Thổ) sinh cho Tân (tôi) được gọi là chính ấn (vì can dương sinh cho can âm nên gọi là chính), thường được gọi là Ấn. Kỷ (Thổ) sinh cho Tân được gọi là thiên ấn (vì can âm sinh cho can âm nên gọi là thiên), thường được gọi là Kiêu. Tân sinh cho Nhâm (Thủy), vì vậy Nhâm được gọi là Thương Quan và sinh cho Quý (Thủy), vì vậy Quý được gọi là Thực Thần. Bính (Hỏa) khắc Tân, vì vậy Bính được gọi là chính quan, thường được gọi là Quan, Đinh (Hỏa) khắc Tân, vì vậy Đinh được gọi là thiên quan, thường được gọi là Sát. Tân khắc Giáp (Mộc), vì vậy Giáp được gọi là Chính Tài, Tân khắc Ất (Mộc), vì vậy Ất được gọi là Thiên Tài. Tân gặp can Tân được gọi là ngang vai, thường được gọi là Tỷ, Tân gặp Canh thường được gọi là Kiếp. Cách để xác định mười thần của Nhật Chủ trong các Tứ Trụ khác cũng tương tự như vậy. 2 – Tương sinh của 10 thần Ví dụ: Một tứ trụ có Nhật Can (can ngày) là Tân (hay Canh) vì Tân mang hành Kim nên Thân của người này mang hành Kim, thì ta có sơ đồ tương sinh của mười thần như sau: Qua sơ đồ ta thấy sự tương sinh của 10 thần hoàn toàn giống như sự tương sinh của ngũ hành. 3 – Tương khắc của 10 thần Mười thần là tài, quan, ấn, thực, thương….. của các can lộ hay tàng trong các địa chi trong tứ trụ. Mối quan hệ sinh khắc giữa chúng chính là mối quan hệ sinh khắc của ngũ hành. Mười thần nghiêng về phân tích người và sự việc, còn ngũ hành nghiêng về phân tích mức độ khí chất bẩm sinh của con người. Cả hai cái bổ xung cho nhau, không được xem nhẹ bên nào. Ví dụ : Giả sử hành của chính quan của 1 tứ trụ là Mộc, chính quan đại diện cho chức vụ, quyền lực, thi cử,…. , vì vậy khi nó bị hành của thương quan là Kim khắc quá mạnh dễ bị mất chức, mất quyền, thi trượt,…… . Còn theo ngũ hành thì Mộc đại diện cho đầu, mặt, vai, tay, chân, gan, mật, thần kinh,… khi bị Kim khắc quá mạnh thì những bộ phận này dễ bị tổn thương. Trong trường hợp Mộc (hay chính quan) không bị khắc nhưng nếu có quá nhiều Mộc trong tứ trụ thì khi gặp tuế vận (đại vận và lưu niên) có nhiều Mộc hay có nhiều các hóa cục Mộc thì người đó cũng dễ bị các tai họa như vậy. Nếu Tân (hay Canh) là Nhật Can thì ta có sơ đồ tương khắc của 10 thần của nó như sau : Qua sơ đồ trên ta nhận thấy sự tương khắc của mười thần hoàn toàn tương tự như sự tương khắc của ngũ hành (tương khắc cách 1 ngôi). Khi xét các thần trong tứ trụ và giữa tứ trụ với tuế vận ta phải căn cứ vào sự vượng suy của các thần (tức hành của nó), nếu thần nào quá vượng thì cần được xì hơi là tốt (tức là nó cần được sinh cho các thần khác), còn ngược lại nếu sinh hay giúp đỡ thêm cho nó thì dễ có tai họa. Tương tự nếu thần nào quá yếu thì nó cần được sinh hay được phù trợ cho vượng lên và dĩ nhiên nó rất sợ bị khắc. Vậy thì làm thế nào chúng ta có thể biết thần đó là mạnh hay yếu? Muốn biết, chúng ta phải dựa vào bảng sinh vượng tử tuyệt để xem nó có vượng hay nhược ở tuế vận, cũng như xem nó có xuất hiện nhiều hay ít ở trong tứ trụ và ở tuế vận (bởi vì nếu thần đó là nhược nhưng có nhiều thì nó cũng có thể trở thành mạnh). 4 - Tính chất của mười thần . Mười thần trong tứ trụ đại diện cho công năng, chức vụ, quyền lực, tình cảm, tính cách, nghề nghiệp,…..như sau : 1 - Chính quan là cái khắc tôi, đại diện cho quan chức tốt, chính trực trong chính quyền điều hành xã hội, mà con người phải tuân theo pháp luật nhà nước, nói chung chính quan được coi là cát thần, nhất là khi Thân vượng. Công năng của chính quan trong mệnh là bảo vệ tài, áp chế Thân, khống chế tỷ và kiếp. Thân vượng tài nhược thì nên có chính quan để bảo vệ tài. Thân vượng mà ấn nhược thì chính quan sẽ sinh ấn và chế ngự Thân cho bớt vượng. Thân vượng kiếp nhiều thì chính quan sẽ khắc chế kiếp. Trong mệnh chính quan đại diện cho chức vụ, học vị, thi cử, bầu cử, danh dự, …. . Với nam Chính quan còn đại diện cho tình cảm với con gái. Vì nam lấy tài làm vợ, tài sinh quan và sát là con, nên nam lấy quan làm con gái, sát làm con trai (vì âm, dương khác với nhật can là con gái, giống là con trai). Tâm tính của chính quan : chính trực, có tinh thần trách nhiệm, đoan trang nghiêm túc, làm việc có đầu có đuôi. Nhưng dễ bảo thủ cứng nhắc, thậm chí là người không kiên nghị. 2 - Thất sát (thiên quan) là cái khắc tôi, nó thường đại diện cho quan lại xấu trong chính quyền. Trong mệnh thất sát chuyên tấn công lại Thân, cho nên Thân dễ bị tổn thương, khi đó cần có thực thương tới để khắc chế thất sát thì lại trở thành tốt (nghĩa là bắt quan xấu phải phục vụ cho mình “thất sát hóa thành quyền bính“). Nói chung khi Thân nhược thất sát được coi là hung thần. Công năng của thất sát làm tổn hao tài, sinh ấn, công phá Thân, khắc chế tỷ kiếp. Trong mệnh thất sát đại diện cho chức vụ về quân cảnh, hoặc nghề tư pháp, thi cử, bầu cử … Với nam thất sát còn đại diện cho tình cảm với con trai. Tâm tính của thất sát, hào hiệp, năng động, uy nghiêm, nhanh nhẹn ... .Nhưng dễ bị kích động, thậm chí dễ trở thành người ngang ngược, trụy lạc … 3 – Chính ấn là cái sinh ra tôi, khi Thân nhược thường được coi là cát thần, ấn có nghĩa là con dấu, đại diện cho chức vụ, quyền lợi, học hành, nghề nghiệp, học thuật, sự nghiệp, danh dự, địa vị, phúc thọ …. Chính ấn là sao thuộc về học thuật và còn đại diện cho tình cảm của mẹ đẻ. Công năng của chính ấn, sinh Thân, xì hơi quan sát, chống lại thực thương. Tâm tính của chính ấn, thông minh, nhân từ, không tham danh lợi, chịu đựng nhưng ít khi tiến thủ, thậm chí còn chậm chạp, trì trệ.... 4 – Thiên ấn (Kiêu)là cái sinh phù tôi, đại diện cho quyền uy trong nghề nghiệp như nghệ thuật, nghệ sĩ, y học, luật sư, tôn giáo, kỹ thuật, nghề tự do, những thành tích trong dịch vụ.... Nó còn đại diện cho tình cảm của dì ghẻ. Công năng của thiên ấn sinh Thân, xì hơi quan sát để sinh cho Thân, chống lại thực thương . Mệnh có thiên ấn có thể phù trợ cho Thân nhược. Nhưng gặp thực thần là mệnh lao dịch, vất vả. Thiên ấn quá nhiều thì đó là người phúc bạc, bất hạnh, tật bệnh hoặc con cái khó khăn khi đó chỉ có thiên tài mới có thể giải được các hạn này. Người mà tứ trụ có Thân vượng, còn có kiêu, tài và quan tất là người phú quý. Mệnh có thiên ấn lại còn gặp quan sát hỗn tạp (có cả chính quan và thiên quan, không tính Quan và Sát là tạp khí ) là người thắng lợi nhiều mà thất bại cũng lắm. Nói chung khi Thân vượng thiên ấn được coi là hung thần. Tâm tính của thiên ấn, tinh thông tay nghề, phản ứng nhanh nhậy, nhiều tài nghệ, nhưng dễ cô độc, thiếu tính người, thậm chí ích kỷ, ghẻ lạnh... 5 – Ngang vai là ngang tôi (là can có cùng cùng hành và cùng dấu với Nhật Can), gọi tắt là tỷ. Đại diện cho tay chân cấp dưới, bạn bè, đồng nghiệp, cùng phe phái, tranh lợi, đoạt tài, khắc vợ, khắc cha ,… Nữ đại diện cho tình chị em, nam đại biểu cho tình anh em. Công năng của ngang vai có thể giúp Thân khi Thân nhược, cũng như tài nhiều (của cải nhiều) nhờ ngang vai giúp Thân để khỏi mất của. Nhưng Thân vượng lại có ngang vai nhiều mà không bị chế ngự là tay chân cấp dưới không hòa thuận, hoặc kết hôn muộn, tính tình thô bạo, cứng nhắc, cố chấp, không hòa hợp với cộng đồng, khắc cha, khắc vợ, làm nhiều mà không gặp tiền của. Tâm tính của ngang vai, chắc chắn, cương nghị, mạo hiểm, dũng cảm, có chí tiến thủ, nhưng dễ cô độc, ít hòa nhập, thậm chí cô lập, đơn côi. Nói chung khi thân vượng ngang vai được coi là hung thần (vì lúc đó nó tranh đoạt tài với Thân). 6 - Kiếp tài cũng là ngang tôi (là can cùng hành nhưng khác dấu với Nhật Can), gọi tắt là kiếp. Nó đại diện cho tay chân cấp dưới, bạn bè, tranh lợi đoạt tài, khắc vợ, khắc cha, lang thang.... Thân vượng mà có nhiều kiếp cũng giống như ngang vai ở trên. Nữ đại diện cho tình anh em, nam đại diện cho tình chị em.... Công năng của kiếp cũng giống như của ngang vai. Tâm tính của kiếp tài là nhiệt tình, thẳng thắn, ý chí kiên nhẫn, phấn đấu bất khuất, nhưng dễ thiên về mù quáng, thiếu lý trí, thậm chí manh động, liều lĩnh.... 7 - Thực thần là cái mà nhật can sinh ra (cùng dấu với Nhật Can). Đại diện cho phúc thọ, người béo, có lộc. Nữ đại diện cho tình cảm với con gái. Công năng của thực thần làm xì hơi Thân, sinh tài, đối địch với thất sát, làm quan bị tổn thương. Khi gặp sát thì có thể chế phục làm cho Thân được yên ổn không có tai họa, nên nói chung được xem là cát thần. Tâm tính của thực thần, ôn hòa, rộng rãi với mọi người, hiền lành, thân mật, ra vẻ tốt bề ngoài nhưng trong không thực bụng, thậm chí nhút nhát, giả tạo. Can chi đều có thực thần thì phúc lộc dồi dào, nhưng không thích hợp cho người công chức mà thích hợp với những người làm nghề tự do. Mệnh nữ có thực thần là hay khinh rẻ chồng. Thực và sát cùng một trụ là người có dịp nắm quyền bính nhưng dễ bị vất vả, lao khổ, tai ách và ít con. Can có thực thần, chi có ngang vai là chủ về người có thân thích, bạn hữu hoặc tay chân giúp đỡ. Can là thực thần, chi là kiếp tài là chủ về người phúc đức giầu có, khi gặp điều xấu vẫn có lợi. Thực thần có cả kiếp tài, thiên ấn đi kèm là người dễ đoản thọ (?). Người tài nhiều thì diễm phúc ít. Thực thần lâm trường sinh vượng địa hoặc cát thần thì phúc lộc nhiều, phần nhiều là người phúc lộc thọ toàn diện. Thực thần lâm tử, tuyệt, suy thì phúc ít, bạc mệnh. Thực thần lâm mộ địa là người dễ chết yểu (?). 8 – Thương quan cũng là cái nhật can sinh ra (nhưng khác dấu với Nhật Can). Đại diện cho bị mất chức, bỏ học, thôi việc, mất quyền, mất ngôi, không chúng tuyển, không thi đỗ, không lợi cho người nhà và chồng. Nữ đại diện cho tình cảm với con trai. Công năng của thương quan làm xì hơi Thân, sinh tài, đối địch với thất sát, làm thương tổn quan. Sợ nhất là “thương quan gặp quan là họa trăm đường ập đến“. Nói chung thương quan được xem là hung thần, nhất là khi Thân nhược. Tâm tính thông minh, hoạt bát, tài hoa dồi dào, hiếu thắng, nhưng dễ tùy tiện, thiếu sự kiềm chế ràng buộc, thậm chí tự do vô chính phủ.... Người thương quan lộ rõ (lộ và vượng) tâm tính thanh cao hiên ngang, dám chửi mắng cả quỷ thần. Nhật Can vượng thì lại càng hung hăng hơn, loại người này tính xấu. Những người bề trên cũng không dám đụng đến nó, kẻ tiểu nhân thì càng sợ mà lánh cho xa. Nhưng thương quan vượng mà Thân nhược thì tính tình vẫn là thương quan, chỉ có điều không ghê gớm đến như thế. Thương quan trong tứ trụ nếu có Thân vượng thì nó là hỷ dụng thần khi hành đến vận tài phú quý tự nhiên đến. 9 – Chính tài là cái bị Thân khắc (có dấu khác với Nhật Can) là cái nuôi sống tôi. Đại diện cho tài lộc, sản nghiệp, tài vận, tiền lương. Còn đại diện cho vợ cả (với nam). Công năng là sinh quan và sát, xì hơi thực thương, áp chế kiêu thần làm hại chính ấn. Nói chung chính tài được coi là cát thần. Tâm tính cần cù, tiết kịêm, chắc chắn, thật thà, nhưng dễ thiên về cẩu thả, thiếu tính tiến thủ, thậm chí trở thành nhu nhược, không có tài năng.... Người Thân vượng, tài vượng là bậc phú ông trong thiên hạ, nếu có cả chính quan là phú quý song toàn, nam thì được vợ hiền nội trợ tốt. Ngược lại người Thân nhược mà tài vượng thì không những nghèo mà cầu tài rất khó khăn, trong nhà vợ nắm quyền hành. Tài nhiều thường không lợi cho đường học hành, là người dốt nát. Địa chi tàng tài là tài phong phú, tài thấu ra là người khảng khái. Tài có kho (ví dụ : nếu ất là tài thì kho là dần và mão hay tàng trong các chi Thổ) khi gặp xung tất sẽ phát tài (như tài là Ất, Mậu hay Quý tàng trong Thìn khi gặp Tuất ở tuế vận xung Thìn). Thân vượng có chính tài còn gặp thực thần là được vợ hiền giúp đỡ. Chính tài và kiếp tài cùng xuất hiện trong tứ trụ thì trong cuộc đời dễ gặp phải tiểu nhân nên tài dễ bị tổn thất. 10 – Thiên tài cũng là cái bị Thân khắc (nhưng cùng dấu với Nhật Can) cũng là cái nuôi sống tôi. Đại diện cho của riêng, trúng thưởng, phát tài nhanh, đánh bạc, tình cảm với cha. Với nam còn đại diện cho tình cảm với vợ lẽ. Công năng của thiên tài: sinh quan sát, xì hơi thực thương, áp chế kiêu thần, làm hại chính ấn. Nói chung thiên tài được coi là cát thần. Tâm tính của thiên tài, khảng khái, trọng tình cảm, thông minh, nhậy bén, lạc quan, phóng khoáng, nhưng dễ thiên về ba hoa, bề ngoài, thiếu sự kiềm chế, thậm chí là người phù phiếm.... Thiên tài đại diện cho cha hoặc vợ lẽ, hoặc nguồn của cải bằng nghề phụ. Thân vượng, tài vượng, quan vượng thì danh lợi đều có, phú quý song toàn. Thiên tài thấu can thì kỵ nhất gặp tỷ và kiếp, vì như thế vừa khắc cha lại làm tổn hại vợ (với nam). Can chi đều có thiên tài là người xa quê lập nghiệp trở lên giầu có, tình duyên tốt đẹp, của cải nhiều. Thiên tài được lệnh (vượng ở tháng sinh) là cha con hoặc thê thiếp hòa thuận, được của nhờ cha hoặc nhờ vợ, cha và vợ đều sống lâu, vinh hiển (?). Thiên tài lâm mộc dục là người háo sắc phong lưu. Thiên tài lâm mộ địa là cha hoặc vợ dễ chết sớm (?). Các câu hỏi trọng tâm của bài 5 : 1 - Thường thì trong cuộc sống hàng ngày ai ai cũng phải có nhà để sống, vậy thì người ta đã tìm thấy cái gì trong mỗi Tứ Trụ của con người đại diện cho cuộc sống thực tế của người có Tứ Trụ đó ? 2 - Tại sao lại có khái niệm 10 thần, chúng có liên quan gì tới tính chất sinh khắc của ngũ hành hay không ? 3 - 10 thần cũng như ngũ hành đại diện cho những cái gì trong cuộc sống thường ngày của chúng ta ?2 likes
-
Trả lời các câu hỏi trọng tâm và bài tập của Bài 5: 1 - Vì sao người ta phải đưa ra khái niệm Ðại Vận và xác định nó kéo dài đúng 10 năm cũng như khái niệm Tiểu Vận và xác định nó chỉ kéo dài đúng 1 năm ? Theo tôi thì Tiểu vận mới chính là tuổi thật của người có Tứ Trụ đó, còn lưu niên mới đúng là tuổi giả (tức một năm bất kỳ cần dự đoán), vì thường có mấy người nào sinh đúng vào ngày giao lệnh của tháng Dần (khoảng mùng 4 hay 5 tháng 2 dương lịch). Do vậy muốn dự đoán vận mệnh của con người thì thông tin Tiểu vận, tức tuổi thật này bắt buộc phải có là hợp lý. Như vậy thì tại mỗi năm (lưu niên) thường xuất hiện 2 Tiểu vận. Tiểu vận đầu tính từ giao lệnh của tháng Dần tới ngày sinh nhật của người đó. Tiểu vận thứ 2 bắt đầu từ ngày sinh nhật cho đến hết năm, tức tới giao lệnh của tháng Dần của năm sau. Giả sử muốn xác định 2 Tiểu vận tại năm 1995 của một người sinh năm 1963 ta lần lượt các bước: 1 - Ðầu tiên ta lấy 1995 trừ đi 1963 còn 32. Ðây chính là tuổi tính theo dương lịch của người này vào năm 1995. 2 – Giả sử can chi của trụ giờ của người này là Bính Tý chẳng hạn thì: a - Nếu tính theo chiều thuận của bảng nạp âm 60 năm Giáp Tý (với nam sinh năm dương và nữ sinh năm âm) thì Tiểu vận đầu tiên ngay sau Bính Tý là Ðinh Sửu. Ðinh Sửu được gọi là Tiểu vận 1, còn tiểu vận thứ 2 là Mậu Dần... cứ tính tiếp như vậy tới tiểu vận thứ 32 là Mậu Thân. Tiểu vận Mậu Thân chính là tiểu vận thứ nhất được tính từ ngày giao lệnh của tháng Dần năm 1995 tới ngày sinh nhật của người này ở năm 1995. Tiểu vận thứ hai là Kỷ Dậu (bắt đầu từ ngày sinh nhật tới ngày giao lệnh của tháng Dần năm sau). Ðây chính là 2 Tiểu vận của năm (lưu niên) 1995 của người có Tứ Trụ này. b - Nếu tính theo chiều nghịch của bảng nạp âm 60 năm Giáp Tý (với nam sinh năm Âm và nữ sinh năm Dương) thì ngay trước Bính Tý là Ất Hợi. Tiểu vận Ất Hợi được gọi là Tiểu vận 1, tiểu vận 2 là Giáp Tuất,... tiểu vận thứ 32 là Giáp Thìn và Tiểu vận thứ 33 là Quý Mão. Do vậy Tiểu vận Giáp Thìn là Tiểu vận đầu còn Tiểu vận Quý Mão là Tiểu vận thứ hai của năm (lưu niên) 1995 của người có Tứ Trụ này. Theo tôi đại vận kéo dài đúng 10 năm có thể vì có 10 Thiên can nên mỗi đại vận phải xuất hiện đủ 10 can này tức mỗi can đại diện cho 1 năm của đại vận. Ðiều này đúng như theo phương pháp của cụ Thiệu là lấy can đại vận làm trọng chứ không theo các sách Tử Bình của các cổ nhân khác lấy chi làm trọng. Còn vì sao đại vận không bắt đầu từ khi mới sinh như Tiểu vận thì xin nhờ mọi người trả lời giúp tôi. 2 – Xác định các đại vận và thời gian của chúng qua các ví dụ sau: a – Nam sinh ngày 7/8/1963 lúc 2,00’ a.m. Tứ Trụ : Quý Mão - Kỷ Mùi – ngày Nhâm Ngọ - Tân Sửu Các đại vận và thời gian của chúng: Mậu Ngọ... Ðinh Tị...Bính Thìn.. Ất Mão...Giáp Dần..Quý Sửu...Nhâm Tý .....10...........20...........30............40............50............60..............0 1/8/1973......8/83.......8/93..........8/03.........8/13.........8/23...........8/33 b – Nữ sinh ngày 21/6/1960 lúc 20,59’. Tứ trụ : Canh Tý – Nhâm Ngọ- ngày Canh Thìn – Bính Tuất Các đại vận và thời gian của chúng: Tân Tị......Canh Thìn....Kỷ Mão...Mậu Dần... Ðinh Sửu...Bính Tý.. ...Ất Hợi ....5..............15.............25.............35..............45............55.............65 1/10/1965....10/75........10/85.......12/95..........12/05........12/15........12/25 c – Nam sinh ngày 14/13/1956 (tức 14/1/1957 dương lịch) lúc 17,00’. Tứ trụ : Bính Thân – Tân Sửu – ngày Bính Tuất – Ðinh Dậu Các đại vận và thời gian của chúng: Nhâm Dần...Quý Mão...Giáp Thìn... Ất Tị...Bính Ngọ...Ðinh Mùi...Mậu Thân .......7...............17.............27...........37.........47.............57............67 8/12/1963......12/73........12/83........12/93....12/03.........12/13.......12/23 d - Nữ sinh ngày 17/5/1986 lúc 7,00’a.m. Tứ trụ : Bính Dần – Quý Tị - ngày Tân Dậu – Nhâm Thìn Các đại vận và thời gian của chúng: Nhâm Thìn...Tân Mão..Canh Dần...Kỷ Mùi...Mậu Tý... Ðinh Hợi...Bính Tuất ........4.............14............24...........34...........44............54............64 ..1/2/1990.......2/00.........2/10.........2/20........2/30.......2/40...........2/50 e - Nữ sinh ngày 30/10/1991 lúc 12,58’a.m. Tứ trụ : Tân Mùi - Mậu Tuất – ngày Quý Dậu - Mậu Ngọ Các đại vận và thời gian của chúng: Kỷ Hợi.......Canh Tý...Tân Sửu...Nhâm Dần...Quý Mão...Giáp Thìn....Ất Tị .....3...............13...........23.............33..............43..............53...........63 28/9/1994......9/04........9/14.........9/24.............9/34...........9/44.........9/542 likes
-
Bài 5 : Đại vận và tiểu vận của Tứ Trụ Chương 4 Đại vận và tiểu vận của Tứ Trụ Chỉ dựa vào Tứ Trụ liệu đã đủ để dự đoán vận mệnh của con người hay không? Hoàn toàn chưa đủ, muốn dự đoán có độ chính xác cao, người ta cần phải biết đại vận và tiểu vận của Tứ Trụ đó. Vậy thì đại vận và tiểu vận là gì ? Và cách xác định chúng như thế nào? I – Cách xác định đại vận 1 - Đại vận Từ xa xưa cho tới ngày nay, mỗi người đều cảm thấy rằng cuộc đời thường không thuận buồm xuôi gió, mà có những khoảng thời gian tốt, xấu, may và rủi khác nhau. Người thì sự may mắn dồn dập đến từ khi vẫn còn trẻ, có người thì ở tuổi trung niên, lại có người chỉ đến khi đã về già, sự sui sẻo cũng vậy, ở mỗi người mỗi khác. Từ thực tế khách quan này mà người ta đã tìm ra cách xác định các khoảng thời gian may rủi khác nhau đó cho các Tứ Trụ là 10 năm và chúng được gọi là các đại vận. Cách xác định các đại vận hoàn toàn phụ thuộc vào tháng sinh của người đó như sau : a – Nam sinh năm dương và nữ sinh năm âm Người mà can năm sinh của người đó là dương đối với nam như Giáp, Bính, Mậu, Canh, Nhâm và can năm sinh của người đó là âm đối với nữ như Ất, Đinh, Kỷ, Tân, Quý thì được tính theo chiều thuận của bảng nạp âm, bắt đầu can chi ngay sau lệnh tháng làm đại vận đầu tiên, tiếp theo là đại vận thứ 2,... Ví dụ : Nam sinh vào năm Mậu Tý tháng Mậu Ngọ thì người này có can năm là Mậu tức là can dương nên đại vận đầu tiên phải tính theo chiều thuận theo bảng nạp âm là Kỷ Mùi, đại vận sau là Canh Thân, Tân Dậu,... Ví dụ : Nữ sinh vào các năm Quý Sửu tháng Mậu Ngọ thì người này có can năm là Quý tức là can âm nên đại vận đầu tiên cũng tính theo chiều thuận như ví dụ trên là Kỷ Mùi, đại vận thứ hai là Canh Thân, Tân Dậu,... b – Nam sinh năm âm và nữ sinh năm dương Người mà can năm sinh là âm đối với nam như Ất, Đinh, Kỷ, Tân, Quý và người mà can năm sinh là dương đối với nữ như Giáp, Bính, Mậu, Canh, Nhâm thì phải tính ngược lại đối với bảng nạp âm, bắt đầu can chi ngay trước lệnh tháng làm đại vận đầu tiên, sau là đại vận thứ hai,... Ví dụ : Nam sinh vào năm Quý Dậu tháng Mậu Ngọ, vì can năm của người này là Quý tức là can âm nên đại vận đầu tiên phải tính ngược theo bảng nạp âm ngay trước lệnh tháng là Đinh Tị, đại vận thứ hai là Bính Thìn, Ất Mão ,.... Ví dụ : Nữ sinh vào năm Mậu Thân, tháng Mậu Ngọ vì can năm là Canh tức là can dương nên đại vận đầu tiên phải tính ngược với bảng nạp âm là Đinh Tỵ, sau là Bính Thìn, Ất Mão,.... II - Thời gian bắt đầu đại vận 1 - Nam sinh năm dương và nữ sinh năm âm Vậy thì khi nào các đại vận sẽ bắt đầu ? Phải chăng tất cả mọi người là như nhau? Hoàn toàn không phải như vậy, nó phụ thuộc hoàn toàn vào ngày sinh của người đó so với ngày giao lệnh (tức là ngày thay đổi từ tháng này sang tháng khác của lịch Can Chi) của tháng trước hoặc tháng sau so với tháng sinh của người đó (lệnh ở đây nghĩa là chi của 1 tháng mang hành gì thì hành đó sẽ nắm lệnh trong tháng đó). Đối với nam sinh năm dương và nữ sinh năm âm, ta tính theo chiều thuận của bảng nạp âm từ ngày sinh đến ngày giao lệnh của tháng sau (theo lịch Can Chi) xem được bao nhiêu ngày, và bao nhiêu giờ. Sau đó cứ 3 ngày quy đổi là 1 năm, thừa 1 ngày được tính thêm là 4 tháng, thừa 2 ngày được tính thêm là 8 tháng, cứ thừa 1 tiếng được tính thêm là 5 ngày còn cứ thiếu 1 tiếng thì phải trừ đi 5 ngày. Cộng tất cả lại sẽ được bao nhiêu năm, tháng, ngày thì đó chính là sau khi sinh được từng đó thời gian sẽ bước vào đại vận đầu tiên. Ví dụ : Nam sinh ngày 12/2/1976 lúc 3,01’ có tứ trụ: Bính Thìn - Canh Dần - ngày Giáp Ngọ - Bính Dần Ta thấy đây là nam sinh năm dương nên tính theo chiều thuận từ ngày sinh 12/2 lúc 3,01´ a.m. đến giao lệnh của tháng sau là ngày 5/3 lúc 18,48´ (tính tròn là 19,00’), thì được 22 ngày (vì đây là năm nhuận nên tháng 2 có 29 ngày ) và thêm 16 tiếng. 22 ngày quy đổi được 7 năm 4 tháng (vì thừa 1 ngày đổi thành 4 tháng), còn 16 tiếng quy đổi thành 2 tháng và 20 ngày (16.5 ngày = 80 ngày). Tổng cộng được tất cả là 7 năm 6 tháng và 20 ngày. Tức là sau khi sinh ra được 7 năm 6 tháng và 20 ngày thì người này bắt đầu bước vào đại vận đầu tiên. Chính xác ngày 2/9 năm1983 người này bắt đầu bước vào đại vận Tân Mão (từ 2/9/1983 đến 2/9/1993). Từ ngày 2/9 năm 1993 bắt đầu đại vận thứ 2 là Nhâm Thìn (2/9/93 đến 2/9/03). Các đại vận sau tính tương tự theo đúng chiều thuận của bảng nạp âm. Mỗi đại vận chỉ kéo dài đúng 10 năm. Có thể biểu diễn các đại vận và thời gian của chúng như sau : Năm 1983 bắt đầu đại vận trừ đi năm sinh là năm 1976 được 7 năm, tức là khi 7 tuổi người này bắt đầu bước vào đại vận Tân Mão và được tính chính xác đến tháng 9 của năm 1983 . Nữ sinh vào năm âm cũng tính theo chiều thuận như vậy. 2 - Nữ sinh năm dương và nam sinh năm âm Đối với nữ sinh vào năm dương và nam sinh vào năm âm thì chúng ta tính theo chiều nghịch từ ngày sinh đến ngày giao lệnh của tháng trước liền với tháng sinh xem được bao nhiêu ngày, bao nhiêu giờ và cũng quy đổi như trên ta sẽ biết được khi nào bắt đầu đại vận đầu tiên. Ví dụ : Nữ sinh ngày 12/3/1952 lúc 22,00’ có tứ trụ: Nhâm Thìn - Quý Mão - ngày Đinh Tị - Tân Hợi Vì là nữ sinh vào năm có can là Nhâm tức can dương nên ta phải tính từ ngày sinh ngược lại tới ngày giao lệnh của tháng trước (tức là tính theo chiều ngược). Cụ thể ta tính từ ngày sinh 12/3 lúc 22,00´ đến đến ngày giao lệnh của tháng trước là ngày 5/3 lúc 23,00´ ta được 7 ngày quy đổi được 2 năm 4 tháng và từ 22,00’ đến 23,00’ là thiếu 1 tiếng tức phải trừ đi 5 ngày (Chú ý: Nếu giờ giao lệnh là 21.00' thì ta phải cộng thêm 5 ngày). Ta quy đổi được 2 năm 3 tháng và 25 ngày. Vậy thì người này ngày 7 tháng 7 năm 1954 bắt đầu bước vào đại vận đầu tiên là Nhâm Dần và các đại vận sau tính theo chiều ngược của bảng nạp âm như sau : Đối với nam sinh năm Âm cũng tính theo chiều ngược như vậy. II – Cách xác định Tiểu Vận 1 – Tiểu vận Tiểu vận hoàn toàn phụ thuộc vào trụ giờ và thời gian của nó chỉ kéo dài đúng 1 năm (có thể gọi đây là tuổi ảo). a – Nam sinh năm dương và nứ sinh năm âm Nam sinh năm dương và nữ sinh năm âm thì tính thuận theo bảng nạp âm bắt đầu can chi ngay sau trụ giờ làm tiểu vận đầu tiên, tiếp là tiểu vận thứ hai.... Tiểu vận khác với đại vận là thời gian chỉ kéo dài 1 năm. Thời gian của tiểu vận đầu tiên bắt đầu tính ngay từ ngày và giờ sinh tại năm sinh của người đó cho đến đúng ngày và giờ đó của năm sau, sau đó mới sang tiểu vận thứ hai,... Ví dụ là nam như trên sinh ngày 12/2/1976 lúc 3,01’am là năm Bính Thìn (1976), giờ sinh là Bính Dần (3,01’am) vì sinh năm dương nên tiểu vận đầu tiên tính theo chiều thuận của bảng nạp âm. Tức là từ 3,01’a.m. của ngày sinh 12/2/1976 đến 3,01’a.m. ngày 12/2/1977 là tiểu vận đầu tiên Đinh Mão, tiếp từ ngày 12/2/1977 đến ngày 12/2/1978 là tiểu vận thứ hai Mậu Thìn.... Nếu là nữ sinh vào năm âm cũng tính theo chiều thuận như vậy. b – Nam sinh năm âm và nữ sinh năm dương Nam sinh năm âm và nữ sinh năm dương thì tính theo chiều ngược của bảng nạp âm, bắt đầu can chi ngay trước can chi của trụ giờ làm tiểu vận đầu tiên, sau là tiểu vận thứ hai,..... Ví dụ trên nếu là nữ thì phải tính tiểu vận ngược với bảng nạp âm. Cụ thể là từ 3,01’a.m. của ngày sinh 12/2/1976 đến 3,01’am ngày 12/2/1977 người nữ này có tiểu vận đầu tiên là Ất Sửu, tiếp từ ngày 12/2/1977 đến 12/2/1978 là tiểu vận Giáp Tý, cứ thế tính các tiểu vận tiếp theo theo chiều ngược của bảng nạp âm. Nếu là nam mà sinh vào năm âm cũng tính theo chiều ngược như vậy. 2 – Tính chất của tiểu vận Can, chi và nạp âm của tiểu vận chỉ có khả năng hình, xung, khắc, hại, hợp đối với can, chi và nạp âm của đại vận và lưu niên nhưng chúng không có khả năng tác động đến các can, chi và nạp âm trong tứ trụ và ngược lại. Các câu hỏi trọng tâm và bài tập của Bài 5: (Chú ý: Tất cả các Tứ Trụ được xác định trong cuốn sách hay trong chương trình của lớp học này đều được xác định theo Lịch Vạn Niên của Trung Quốc tức giao lệnh lấy theo giờ Bắc Kinh). 1 - Vì sao người ta phải đưa ra khái niệm Ðại Vận và xác định nó kéo dài đúng 10 năm cũng như khái niệm Tiểu Vận và xác định nó chỉ kéo dài đúng 1 năm ? 2 – Xác định các đại vận và thời gian của chúng qua các ví dụ sau: a – Nam sinh ngày 7/8/1963 lúc 2,00’ a.m. b – Nữ sinh ngày 21/6/1960 lúc 20,59’. c – Nam sinh ngày 14/13/1956 (tức 14/1/1957 dương lịch) lúc 17,00’. d - Nữ sinh ngày 17/5/1986 lúc 7,00’a.m. e - Nữ sinh ngày 30/10/1991 lúc 12,58’a.m.2 likes
-
Trả lời các câu hỏi trọng tâm của Bài 4: 1 – Vì sao có sự khác nhau về giờ (60’) khi xác định lệnh tháng giữa lịch Trung Quốc theo giờ Bắc Kinh với lịch Việt Nam theo giờ Hà Nội? Ðiều này tôi mới biết qua một nick ở trang web Lý Số VN thì phải, vì vậy tôi chưa có thời gian để kiểm tra chúng qua các ví dụ trong thực tế xem theo lịch nào thì đúng. Theo tôi về logic thì lệnh tháng cũng như thời điểm giao thừa phải là các điểm cố định trên quỹ đạo của trái đất quay quanh mặt trời. Do vậy chúng phải trùng với tất cả các múi giờ khi qua các vị trí đó (xét hình chiếu của các múi giờ lên quỹ đạo của trái đất). Từ đây suy ra rằng giờ giao lệnh của các múi giờ phải giống nhau chứ không thể lệch nhau như vậy được (một điều dễ hiểu là chả nhẽ tết của Việt Nam theo giờ Hà Nội và tết của Trung Quốc theo giờ Bắc Kinh cũng như của tất cả các nước trên thế giới cùng diễn ra tại một thời điểm hay sao?). 2 – Xác định Tứ Trụ theo giờ, ngày, tháng và năm sinh của một số người sau đây (xác định Tứ Trụ theo cả 2 loại lịch như đã nói ở trên): a - 26/3/1961 lúc 0,59’ a.m. Tứ trụ : Tân Sửu – Tân Mão – ngày Mậu Ngọ - Nhâm Tý (theo lịch TQ). ............Tân Sửu – Tân Mão – ngày Mậu Ngọ - Nhâm Tý (theo lịch VN). b – 3/13/1959 (tức 3/1/1960 dương lịch) lúc 1,01’ a.m. Tứ trụ : Kỷ Hợi – Ðinh Sửu – ngày Canh Dần - Ðinh Sửu (theo lịch TQ). ............Kỷ Hợi – Ðinh Sửu – ngày Canh Dần - Bính Tý (theo lịch VN). c – 5/3/1968 lúc 22,00’. Tứ trụ : Mậu Thân – Ất Mão – ngày Giáp Tuất - Ất Hợi (theo lịch TQ). ............Mậu Thân – Ất Mão – ngày Giáp Tuất - Ất Hợi (theo lịch VN). d – 7/7/2002 lúc 21,00’. Tứ trụ : Nhâm Ngọ - Ðinh Mùi - ngày Bính Tý - Kỷ Hợi (theo lịch TQ). ............Nhâm Ngọ - Ðinh Mùi - ngày Bính Tý - Mậu Tuất (theo lịch VN). e - 25/9/1990 lúc 12,59’ a.m. Tứ trụ : Canh Ngọ - Ất Dậu – ngày Quý Tị - Mậu Ngọ (theo lịch TQ). ............Canh Ngọ - Ất Dậu – ngày Quý Tị - Mậu Ngọ (theo lịch VN).2 likes
-
Xin đăng lại câu 3 và 4 ở trên lại cho rõ: 3 - Cách xác định Trụ ngày - Tức ngày sinh Trong một năm có các ngày 1/3, 30/4, 29/6, 28/8, 27/10, 26/12 và ngày 24/2 của năm sau có các can chi giống nhau. Cho nên chúng ta thấy can chi của ngày 24/2 và ngày 1/3 trong cùng một năm dương lịch là khác nhau bởi vì thường chúng chỉ cách nhau 5 ngày, còn đối với năm nhuận chúng cách nhau 6 ngày (bởi vì tháng 2 có ngày 29). Dựa vào yếu tố này nếu biết trước can chi của 1 ngày bất kỳ của 1 năm thì qua bảng 60 năm Giáp Tý chúng ta có thể tính được can chi của ngày 1/3 của năm đó, sau đó chúng ta tính được can chi của ngày 24/2 cùng năm và nó chính là can chi của ngày 1/3 của năm trước liền với năm đó. Cứ như vậy ta có thể biết được can chi ngày 1/3 của tất cả các năm (chú ý tháng 2 của năm 1900 mặc dù là năm nhuận nhưng nó chỉ có 28 ngày). Ví dụ : Ngày 14/7/1968 theo lịch can chi có can chi là gì? Ngày 1/3 của năm 1968 tra theo bảng là ngày Canh Ngọ. Vậy ngày 29/6/1968 cũng là ngày Canh Ngọ (ta chọn nó bởi vì nó gần nhất với ngày cần phải tìm), từ ngày 29/6 đến 14/7 cách nhau đúng 15 ngày, vì vậy theo bảng nạp âm 60 năm Giáp Tý, ngày Canh Ngọ (29/6) sau 15 ngày sẽ đến ngày Ất Dậu (14/7) . Đến đây ta có trụ thứ ba, đó là trụ ngày . Bảng tra can chi của ngày 1/3 trong các năm từ 1889 đến năm 2008 Dấu * trong bảng là năm nhuận, tức tháng 2 của các năm đó có 29 ngày. 4 – Cách xác định Trụ giờ - Tức giờ sinh Theo lịch Can Chi này họ đã xác định giờ đầu tiên trong một ngày của lịch Can Chi luôn luôn là giờ Tý và các giờ sau tuân theo thứ tự như sau : Tức là cứ 120 phút (hai tiếng) tương ứng với một giờ của lịch can chi. Ví dụ : 23 giờ 18 phút ngày 16/5 thuộc về ngày nào của lịch can chi? Theo lịch can chi thì từ 23,00’ ngày 16/5 trở đi thuộc về ngày hôm sau, tức là phải thuộc ngày 17/5. Khi đã biết Địa chi của giờ rồi thì hàng Can của nó hoàn toàn phụ thuộc vào Can của trụ ngày như sau : Các ngày có can là Giáp và Kỷ có các giờ lần lượt là : Giáp Tý, Ất Sửu, Bính Dần, Đinh Mão, Mậu Thì , ............. , Ất Hợi (các can tuân theo quy luật vòng tròn như đã nói ở trên) . Các can ngày là Ất và Canh có các giờ lần lượt: Bính Tý,.............., Đinh Hợi. Các................... Bính và Tân...........................: Mậu Tý,..............., Kỷ Hợi. Các ...................Đinh –Nhâm .........................: Canh Tý,.............., Tân Hợi. Các ...................Mậu – Quý ...........................: Nhâm Tý,............., Quý Hợi. Ví dụ : Các can của giờ Mão và Ngọ của ngày Đinh Dậu theo lịch can chi là gì ? Can của ngày Đinh theo như trên ta có các giờ lần lượt là : Canh Tý, Tân Sửu, Nhâm Dần, Quý Mão, Giáp Thìn, Ất Tỵ, Bính Ngọ, Đinh Mùi, ..... Vì vậy can của giờ Mão là Quý Mão và giờ Ngọ là Bính Ngọ. Đến đây ta có trụ thứ tư, đó là trụ giờ2 likes
-
Bài 4 : Đặc trưng của Tứ trụ Chương 3 Đặc trưng của tứ trụ I - Tứ trụ Mỗi người khi sinh ra đều có 4 thông tin là năm, tháng, ngày và giờ sinh. 4 thông tin này khi chuyển sang lịch can chi được gọi là tứ trụ . Tứ trụ này quyết định vận mệnh của người đó . Lịch Can Chi không giống với dương lịch hay âm lịch mà chúng ta vẫn thường sử dụng, nên ở đây thống nhất mọi thông tin về lịch phải dùng dương lịch để tính toán cho tiện lợi và tháng 1 dương lịch được gọi là tháng 13 của năm trước đó. 1 – Cách xác định Trụ năm - Tức năm sinh Theo bảng nạp âm 60 năm Giáp Tý thì năm nay 2008 là năm Mậu Tý, năm 2009 là năm Kỷ Sửu,........ . Các năm trước đây hay sau này cứ theo bảng này tra là ra hết. Nhưng năm của lịch Can Chi thường bắt đầu vào ngày 4/2 hoặc ngày 5/2 dương lịch, khác với dương lịch bắt đầu vào ngày 1/1, và càng khác so với Âm lịch tính năm mới theo lịch mặt Trăng. Muốn xác định chính xác năm mới hay các tháng theo lịch Can Chi bạn đọc phải tra theo bảng xác định lệnh tháng phía dưới. Bảng này xác định tháng, ngày, giờ và chính xác tới phút bắt đầu năm mới cũng như tháng mới (lệnh tháng) của lịch Can Chi từ năm 1898 đến năm 2018 (phần này được trích ra từ cuốn sách Lịch Vạn Niên) Bảng xác định lệnh tháng của lịch Can Chi . (Từ năm 1898 đến năm 2018 theo giờ Bắc Kinh) …………………………………………………… (Chú ý: Bảng xác định lệnh tháng này của Trung Quốc nên nó được tính theo giờ Bắc Kinh, còn “Ngày giờ Sóc (New Moons) và Tiết khí (Minor Solar Terms) từ 1000 đến 2999“ trên Google là của Việt Nam theo giờ Hà Nội nên giờ giao lệnh ít hơn của Trung Quốc 60’. Hiện giờ tôi chưa biết xác định lệnh tháng theo giờ Bắc Kinh hay Hà Nội là đúng. Phải chăng căn cứ theo múi giờ quốc tế thì cứ ít hơn múi giờ Bắc Kinh bao nhiêu múi thì lệnh tháng phải giảm đi từng ấy tiếng, cũng như cứ nhiều hơn múi giờ Bắc Kinh bao nhiêu múi thì phải cộng thêm từng ấy tiếng theo bảng xác định lệnh tháng ở trên ?) . Ví dụ : Ngày 4/2 /1968 theo lịch can chi thuộc năm nào? Nó vẫn thuộc năm Đinh Mùi (1967) nhưng tới 2,08’ (1,08’ theo giờ Hà Nội) ngày 05/2/1968 nó mới thuộc năm Mậu Thân (1968). Ví dụ : Lúc 7,59’ngày 04/2/1969 dương lịch thuộc năm nào của lịch can chi ?. Đã thuộc năm Kỷ Dậu (1969) ,còn trước 7,59’ vẫn thuộc năm Mậu Thân (1968) . Qua đây chúng ta thấy theo lịch Can Chi thì năm mới được tính chính xác tới phút khi trái đất quay hết một vòng xung quanh mặt trời (không như chúng ta thường tính lúc 0,00’ của đêm giao thừa). Nghĩa là chúng ta đã có một trụ đầu tiên, đó là trụ năm (tức năm sinh). 2 – Cách xác định Trụ tháng - Tức tháng sinh (lệnh tháng) Theo lịch Can Chi thì tháng đầu tiên của một năm luôn luôn là tháng Dần sau đó là tháng Mão, Thìn, Tị, Ngọ, Mùi, Thân, Dậu, Tuất và Hợi. Tháng trong lịch can chi được xác định khác với dương lịch. Muốn xác định chính xác tháng sinh (lệnh tháng) theo lịch can chi bắt buộc bạn đọc phải tra theo bảng xác định lệnh tháng ở trên. Ví dụ : Ngày 07/10/1968 thuộc tháng nào của lịch can chi? Tra bảng ta thấy nó thuộc tháng Dậu, còn từ ngày 08/10/1968 nó mới sang tháng Tuất. Khi đã biết địa chi của một tháng thì cách xác định can của tháng đó hoàn toàn phụ thuộc vào can của năm đó như sau: Các năm có can là Giáp và Kỷ thì các tháng của năm đó lần lượt là : Bính Dần, Đinh Mão, Mậu Thìn, Kỷ Tị, ...... Đinh Hợi (tức là các can chi phải tuân theo đúng quy luật của vòng tròn đã nói ở trên). Các năm Ất và Canh các tháng là : Mậu Dần, Kỷ Mão, .........., Kỷ Hợi. Các năm Bính và Tân ------------- : Canh Dần,........................., Tân Hợi. Các năm Đinh và Nhâm ----------- : Nhâm Dần, ......................, Quý Hợi. Các năm Mậu và Quý ------------- : Giáp Dần, ........................, Ất Hợi. Bảng tra can tháng theo can năm Ví dụ : Can của tháng Thìn của năm 1968 là gì? Tra theo bảng xác định lệnh tháng thì năm 1968 là năm Mậu Thân, vì vậy nó thuộc năm tra theo các can Mậu và Quý. Các tháng của nó lần lượt là : Giáp Dần, Ất Mão, Bính Thìn, Đinh Tị, ........ Do vậy tháng Thìn là Bính Thìn. Đến đây ta có trụ thứ hai, đó là trụ tháng. 3 - Cách xác định Trụ ngày - Tức ngày sinh Trong một năm có các ngày 1/3, 30/4, 29/6, 28/8, 27/10, 26/12 và ngày 24/2 của năm sau có các can chi giống nhau. Cho nên chúng ta thấy can chi của ngày 24/2 và ngày 1/3 trong cùng một năm dương lịch là khác nhau bởi vì thường chúng chỉ cách nhau 5 ngày, còn đối với năm nhuận chúng cách nhau 6 ngày (bởi vì tháng 2 có ngày 29). Dựa vào yếu tố này nếu biết trước can chi của 1 ngày bất kỳ của 1 năm thì qua bảng 60 năm Giáp Tý chúng ta có thể tính được can chi của ngày 1/3 của năm đó, sau đó chúng ta tính được can chi của ngày 24/2 cùng năm và nó chính là can chi của ngày 1/3 của năm trước liền với năm đó. Cứ như vậy ta có thể biết được can chi ngày 1/3 của tất cả các năm (chú ý tháng 2 của năm 1900 mặc dù là năm nhuận nhưng nó chỉ có 28 ngày). Ví dụ : Ngày 14/7/1968 theo lịch can chi có can chi là gì? Ngày 1/3 của năm 1968 tra theo bảng là ngày Canh Ngọ. Vậy ngày 29/6/1968 cũng là ngày Canh Ngọ (ta chọn nó bởi vì nó gần nhất với ngày cần phải tìm), từ ngày 29/6 đến 14/7 cách nhau đúng 15 ngày, vì vậy theo bảng nạp âm 60 năm Giáp Tý, ngày Canh Ngọ (29/6) sau 15 ngày sẽ đến ngày Ất Dậu (14/7) . Đến đây ta có trụ thứ ba, đó là trụ ngày . Bảng tra can chi của ngày 1/3 trong các năm từ 1889 đến năm 2008 1889 – Bính Tý.............1929 - Ất Tị................1969 - Ất Hợi 1890 – Tân Tị...............1930 – Canh Tuất........1970 – Canh Thìn 1891 – Bính Tuất..........1931 - Ất Mão................1971 - Ất Dậu 1892 – Nhâm Thìn *......1932 – Tân Dậu *.............1972 – Tân Mão * 1893 – Đinh Dậu............1933 – Bính Dần.........1973 – Bính Thân 1894 – Nhâm Dần.........1934 – Tân Mùi............1974 – Tân Sửu 1895 – Đinh Mùi...........1935 – Bính Tý...........1975 - Bính Ngọ 1896 – Quý Sửu *........1936 – Nhâm Ngọ *..........1976 – Nhâm Tý * 1897 - Mậu Ngọ............1937 – Đinh Hợi......1977 – Đinh Tị 1898 – Quý Hợi............1938 – Nhâm Thìn.....1978 – Nhâm Tuất 1899 – Mậu Thìn...........1939 – Đinh Dậu......1979 – Đinh Mão 1900 – Quý Dậu............1940 – Quý Mão *.......1980 – Quý Dậu * 1901 - Mậu Dần............1941 - Mậu Thân......1981 – Mậu Dần 1902 – Quý Mùi............1942 – Quý Sửu.......1982 – Quý Mùi 1903 - Mậu Tý.............1943 - Mậu Ngọ.......1983 - Mậu Tý 1904 – Giáp Ngọ *.........1944 – Giáp Tý *.....1984 – Giáp Ngọ * 1905 - Kỷ Hợi.............1945 - Kỷ Tị..............1985 - Kỷ Hợi 1906 – Giáp Thìn..........1946 – Giáp Tuất.....1986 – Giáp Thìn 1907 - Kỷ Dậu.............1947 - Kỷ Mão...........1987 - Kỷ Dậu 1908 - Ất Ngọ *...........1948 - Ất Dậu *.........1988 - Ất Mão * 1909 – Canh Thân..........1949 – Canh Dần......1989 – Canh Thân 1910 - Ất Sửu.............1950 - Ất Mùi...........1990 - Ất Sửu 1911 – Canh Ngọ...........1951 – Canh Tý..........1991 – Canh Ngọ 1912 – Bính Tý *..........1952 – Bính Ngọ *....1992 – Bính Tý * 1913 – Tân Tị................1953 – Tân Hợi.......1993 – Tân Tị 1914 – Bính Tuất..........1954 – Bính Thìn.....1994 – Bính Tuất 1915 – Tân Mão..............1955 – Tân Dậu.........1995 – Tân Mão 1916 – Đinh Dậu *.........1956 – Đinh Mão *....1996 – Đinh Dậu * 1917 – Nhâm Dần...........1957 – Nhâm Thân.....1997 – Nhâm Dần 1918 – Đinh Mùi...........1958 – Đinh Sửu......1998 – Đinh Mùi 1919 – Nhâm Tý............1959 – Nhâm Ngọ......1999 – Nhâm Tý 1920 - Mậu Ngọ *..........1960 - Mậu Tý *..........2000 - Mậu Ngọ * 1921 – Quý Hợi............1961 – Quý Tị.............2001 – Quý Hợi 1922 - Mậu Thìn...........1962 - Mậu Tuất.......2002 - Mậu Thìn 1923 – Quý Dậu..............1963 – Quý Mão..........2003 – Quý Dậu 1924 - Kỷ Mão *.............1964 – Kỷ Dậu *.......2..004 - Kỷ Mão * 1925 – Giáp Thân..........1965 - Giáp Dần.......2005 – Giáp Thân 1926 - Kỷ Sửu...............1966 - Kỷ Mùi...........2006 – Kỷ Sửu 1927 – Giáp Ngọ............1967 – Giáp Tý..........2007 – Giáp Ngọ 1928 – Canh Tý *............1968 – Canh Ngọ *.....2008 – Canh Tý * Dấu * trong bảng là năm nhuận, tức tháng 2 của các năm đó có 29 ngày. 4 – Cách xác định Trụ giờ - Tức giờ sinh Theo lịch Can Chi này họ đã xác định giờ đầu tiên trong một ngày của lịch Can Chi luôn luôn là giờ Tý và các giờ sau tuân theo thứ tự như sau : Từ 23 giờ đến 1 giờ là giờ Tý . Từ 11 giờ đến 13 giờ là giờ Ngọ: Từ 1 --------3 ------------ Sửu Từ 13 --------15 ---------- Mùi Từ 3 ---------5 ----------- Dần Từ 15 ------- 17 ---------- Thân Từ 5 ---------7 ----------- Mão Từ 17 --------19 -----------Dậu Từ 7 ---------9 ----------- Thìn Từ 19 --------21 -----------Tuất Từ 9 --------11 ----------- Tị Từ 21 --------23 ----------Hợi Tức là cứ 120 phút (hai tiếng) tương ứng với một giờ của lịch can chi. Ví dụ : 23 giờ 18 phút ngày 16/5 thuộc về ngày nào của lịch can chi? Theo lịch can chi thì từ 23,00’ ngày 16/5 trở đi thuộc về ngày hôm sau, tức là phải thuộc ngày 17/5. Khi đã biết Địa chi của giờ rồi thì hàng Can của nó hoàn toàn phụ thuộc vào Can của trụ ngày như sau : Các ngày có can là Giáp và Kỷ có các giờ lần lượt là : Giáp Tý, Ất Sửu, Bính Dần, Đinh Mão, Mậu Thì , ............. , Ất Hợi (các can tuân theo quy luật vòng tròn như đã nói ở trên) . Các can ngày là Ất và Canh có các giờ lần lượt: Bính Tý,.............., Đinh Hợi. Các................... Bính và Tân............................. : Mậu Tý,..............., Kỷ Hợi. Các ...................Đinh –Nhâm ........................... : Canh Tý,.............., Tân Hợi. Các ...................Mậu – Quý ............................. : Nhâm Tý,............., Quý Hợi. Ví dụ : Các can của giờ Mão và Ngọ của ngày Đinh Dậu theo lịch can chi là gì ? Can của ngày Đinh theo như trên ta có các giờ lần lượt là : Canh Tý, Tân Sửu, Nhâm Dần, Quý Mão, Giáp Thìn, Ất Tỵ, Bính Ngọ, Đinh Mùi, ..... Vì vậy can của giờ Mão là Quý Mão và giờ Ngọ là Bính Ngọ. Đến đây ta có trụ thứ tư, đó là trụ giờ Chúng ta đã có đủ bốn trụ của một người. Ví dụ 1 : Một người sinh ngày 12/11/1965, lúc 8,00 am, có tứ trụ : Năm Ất Tị - tháng Đinh Hợi - ngày Canh Ngọ - giờ Canh Thìn. Ví dụ 2 : Nữ sinh ngày 5/2/1968 lúc 2,07’ có tứ trụ: Đinh Mùi - Quý Sửu - ngày Ất Tị - Đinh Hợi. Ví dụ 3 : Nữ sinh ngày 5/2/1968 lúc 2,08’ có tứ trụ : Mậu Thân - Giáp Dần - ngày Ất Tị - Đinh Hợi. Qua ví dụ 2 và 3 chúng ta thấy hơn nhau 1 phút là sang năm khác, tháng khác và tứ trụ sẽ khác nhau. Cho nên giờ và phút để xác định lệnh tháng là vô cùng quan trọng trong việc xác định tứ trụ. Nếu theo cách xác định mặt trời ở đúng đỉnh đầu tại địa điểm nơi người đó được sinh là 12,00’ thì cách xác định giờ sinh ở bảng trên chỉ đúng với những người được sinh ở vị trí đúng giữa múi giờ đó, còn những người được sinh trong cùng một múi giờ mà ở càng xa điềm giữa của múi giờ đó về hai bên thì sai số về phút càng lớn (có thể từ -60’ tới +60’). Cho nên trong các trường hợp này tốt nhất là lấy cả hai tứ trụ để dự đoán. Đến khi trong thực tế xẩy ra các sự kiện phù hợp với tứ trụ nào thì tứ trụ đó mới được xem là chính xác cho người đó. Bảng tra can giờ theo can ngày Theo tôi chỉ khi nào con người xác định được trụ thứ 5, tức trụ phút này thì môn dự đoán theo Tứ Trụ mới thật sự là hoàn hảo. Bởi vì như chúng ta thấy bốn trụ không có tính đối xứng mà trụ ngày phải ở giữa và mỗi bên phải có hai trụ mới hợp lý. Hơn nữa chúng ta thấy cách xác định trụ tháng và trụ giờ giống nhau bởi đơn vị 12 (12 tháng, 12 giờ), còn cách xác định trụ năm và trụ ngày giống nhau bởi đơn vị 60 (tuân theo bảng nạp âm 60 năm Giáp Tý) thì không có lý do gì để không sử dụng trụ phút cũng được xác định theo đơn vị 60 (cứ hai phút bình thường được tính thành một phút theo lịch Can Chi và nó cũng tuân theo bảng nạp âm 60 năm Giáp Tý). Theo sự suy luận của tôi thì cách xác định phút nó cũng giống như cách xác định năm và ngày của lịch can chi, nhưng chúng ta không biết Họ đã dựa vào nền tảng nào để xác định chúng. Bởi vậy muốn xác định phút theo lịch can chi, chúng ta phải có một vài ví dụ của những cặp sinh đôi chỉ cách nhau vài phút. Dùng phương pháp suy luận ngược, chúng ta dựa vào những sự kiện lớn đã phát sinh ra của các cặp sinh đôi này như tai nạn, ốm đau, ... , nhất là cái chết của họ và nếu chúng ta sử dụng phương pháp tính điểm hạn này để tính các điểm hạn thì may ra có thể xác định được chính xác can chi của phút sinh của mỗi người này. Sau đó các phút khác sẽ được xác định theo bảng nạp âm 60 năm Giáp Tý, hoàn toàn tương tự như xác định năm và ngày. Các câu hỏi trọng tâm của Bài 4: 1 – Vì sao có sự khác nhau về giờ (60’) khi xác định lệnh tháng giữa lịch Trung Quốc theo giờ Bắc Kinh với lịch Việt Nam theo giờ Hà Nội? 2 – Xác định Tứ Trụ theo giờ, ngày, tháng và năm sinh của một số người sau đây (xác định Tứ Trụ theo cả 2 loại lịch như đã nói ở trên): a - 26/3/1961 lúc 0,59’ a.m. b – 3/13/1959 (tức 3/1/1960 dương lịch) lúc 1,01’ a.m. c – 5/3/1968 lúc 22,00’. d – 7/7/2002 lúc 21,00’. e - 25/9/1990 lúc 12,59’ a.m.2 likes
-
Bài để tham khảo Sau đây là một bằng chứng để chứng minh ý tưởng các Lỗ Trắng và Lỗ Đen M cùng với quy luật tuần hoàn của chúng mà tôi đưa ra ở trên đang tồn tại trong vũ trụ bao la: Vietnam.net đưa tin: "Vũ trụ ra đời trước vụ nổ Big Bang? Cập nhật lúc 01/12/2010 08:00:00 AM (GMT+7) Hai nhà khoa học uy tín trên thế giới cho biết, họ vừa phát hiện bằng chứng cho thấy vũ trụ đã tồn tại trước vụ nổ Big Bang. Tuyên bố này đang gây chấn động giới khoa học toàn thế giới. Một bản đồ của bức xạ nền vũ trụ (CMB) trong vũ trụ với những hình tròn có thể biểu hiện các sự kiện diễn ra trước vụ nổ Big Bang. Ảnh: Daily Mail. Tờ Daily Mail đưa tin, khám phá gây tranh cãi về sự ra đời của vũ trụ được Roger Penrose - nhà khoa học, vị giáo sư đáng kính của Đại học Oxford (Anh) và giáo sư Vahe Gurzadyan từ Đại học quốc gia Yerevan (Armenia) cho đăng tải trực tuyến trên trang web arXiv.org. Theo hai chuyên gia này, vũ trụ không phải khởi phát từ vụ nổ Big Bang mà là một chu kỳ của những cái được đặt tên là aeon. Hầu hết các nhà khoa học tin rằng, vũ trụ được tạo ra trong vụ nổ Big Bang cách đây khoảng 13,7 tỉ năm. Các ngôi sao và thiên hà bắt đầu hình thành khoảng 300 triệu năm sau đó. Mặt Trời của chúng ta được sinh ra khoảng 5 tỉ năm trước, trong khi sự sống đầu tiên xuất hiện trên Trái đất cách đây gần 3,7 tỉ năm. Bức xạ nền vi sóng vũ trụ (CMB) cũng được đông đảo giới chuyên môn nhận định ra đời 300 triệu năm sau vụ nổ Big Bang và hiện đã bị làm lạnh tới khoảng -270 độ C. Tuy nhiên, hai giáo sư Penrose và Gurzadyan chỉ ra rằng, bằng chứng mà Chương trình Thăm dò vi sóng bất đẳng hướng Wilkinson của Cơ quan hàng không vũ trụ Mỹ (NASA) thu được trong CMB lại cho thấy: các dấu vết trong nền bức xạ có tuổi đời cao hơn vụ nổ Big Bang. Họ nói đã khám phá được 12 ví dụ về các vòng tròn đồng tâm như trên trong CMB. Một vài trong số đó có năm vòng, đồng nghĩa với việc đối tượng đã trải qua năm sự kiện vô cùng lớn trong lịch sử của nó. Các vòng tròn xuất hiện quanh những cụm thiên hà có biến thể trong bức xạ nền thấp một cách kỳ lạ. Nghiên cứu dường như đã loại bỏ giả thuyết "lạm phát" được đông đảo chấp nhận về nguồn gốc của vũ trụ, rằng nó bắt đầu được hình thành nhờ vụ nổ Big Bang và sẽ tiếp tục mở rộng tới một thời điểm trong tương lai khi quá trình đó chấm dứt. Penrose và Gurzadyan tin rằng, các vòng tròn là dấu vết của những sóng hấp dẫn vô cùng mạnh mẽ khởi phát từ các vụ va chạm lỗ đen siêu lớn trong một aeon trước đó, trước vụ nổ lớn cuối cùng. Điều này có nghĩa là, các chu kỳ vũ trụ thông qua các aeon nằm dưới sự chi phối của những vụ nổ lớn và va chạm lỗ đen siêu lớn. Giáo sư Penrose bày tỏ, lý thuyết mới của ông về "vũ trụ tuần hoàn bảo giác" có nghĩa rằng, các lỗ đen cuối cùng sẽ phá hủy mọi vật chất trong vũ trụ. Theo lý thuyết của ông, khi các lỗ đen hoàn thành tất cả những việc này thì còn lại trong vũ trụ sẽ chỉ là năng lượng, vốn sau đó sẽ kích hoạt một vụ nổ Big Bang mới và aeon mới. Giáo sư Penrose phát biểu với hãng thông tấn BBC: "Trong giả thuyết mà tôi đưa ra, chúng ta có một sự mở rộng theo cấp số nhân nhưng không thuộc aeon của chúng ta - Tôi sử dụng thuật ngữ để mô tả [giai đoạn] từ vụ nổ Big Bang của chúng ta cho đến tương lai xa. Tôi cho rằng, aeon này là một trong hàng loạt sự việc, nơi tương lai xa của các aeon trước bằng cách nào đó trở thành vụ nổ Big Bang của aeon chúng ta". * Thanh Bình" .2 likes
-
Trưa nay Wild đã cùng Chipchip đến khoa Phỏng bệnh viện Chợ rẫy, mục đích của chuyến đi: Trao tặng số tiền còn lại của Quỹ cho một số hoàn cảnh khó khăn. Dự chi cho chương trình thăm viếng hôm nay mỗi trường hợp sẽ được hổ trợ 500.000 đ. và sử dụng hết số tiền còn lại trong Quỹ. Wild đã gặp gỡ và tặng cho năm hoàn cảnh bức bách ngặt nghèo quê xa, và chịu cùng một tai nạn PHỎNG từ Xăng, dầu lửa, Điện, Gaz, và một trường hợp là acid thật nặng nề. Nạn nhân là thanh niên người Campuchea vừa tròn 18 tuổi. Mời các ACE xem hình ảnh chuyến đi. Một phụ nữ 25 tuổi phỏng xăng (người dân tộc) quê tại Lâm Đồng. Một phụ nữ 38 tuổi phỏng dầu lửa (người dân tộc) quê tại Lâm hà, Chi lại đang mang thai 3 tháng. . Một thanh niên 23 tuổi phỏng Điện quê An Giang Anh Trần Dục 45 tuổi tai nạn đào đất bị sụp Đá đè gây tổn thương cột sống. Và trường hợp sau cùng thanh niên 18 tuổi bị bạn xấu Tạt acid trong lúc ngủ. Người thân duy nhất bên cạnh lại không nói được tiếng Viêt, cuộc trao đổi hoàn toàn khó khăn, Anh ta đã dùng đt của mình gọi cho một người phiên dịch, phía bên kia cho biết nạn nhân là người Campuchea 18 tuổi bị bạn ghét và tạt trong lúc ngủ tại nhà, và không có tang chứng gì để tố cáo chính quyền. Anh ta hoàn toàn bất động và không hay biết gì khi Wild dùng máy ảnh ghi nhận lại hình ảnh này. Anh ta nói một từ gì đó để diễn tả đau và cần được giúp đỡ. Trường hợp này rất cần sự quan tâm của cộng đồng và của ACE. Trong số năm trường hợp chỉ có ba người viết biên nhận cho Wild, sẽ scan lên sau. Nạn nhân người campuchea không biết tiếng viêt. và người mẹ anh thanh niên phỏng điện không biết chữ.1 like
-
Tình xưa xin hảy quên tôi Vòng tay đã khép bờ môi nhạt màu Người đi tôi ở nơi đâu Tìm ai những tưởng có nhau suốt đời Nhưng đời sao quá cơ cầu Ai quên, ai nhớ, cái sầu cũng tôi. HC 21/05/111 like
-
Thiên tai tăng nặng.... ===================== Malaysia lở đất, chôn vùi hàng chục trẻ mồ côi Tuổi Trẻ – 1 giờ 58 phút trước TTO - Ít nhất ba trẻ em thiệt mạng và hơn 20 em khác bị chôn vùi trong một nhà mở tại Malaysia đã bị chôn vùi trong một vụ lở đất xảy ra vào chiều nay 21-5 tại Malaysia, hãng tin BBC cho biết. CNN cho biết cơn mưa lớn kéo dài hai ngày đã đổ xuống quận Hulu Langat ở bang Selangor, thuộc miền trung Malaysia, tạo nên một đợt lở đất lúc 14g30 (giờ địa phương, 13g30 giờ Việt Nam) ngày 21-5. Nạn nhân hầu hết đều là các em mồ côi và nhân viên tại một nhà mở ở quận này. Lúc xảy ra vụ tai nạn, trong nhà mở có gần 50 em đang sinh hoạt. AP dẫn nguồn tin cảnh sát rằng đã tìm được hai thi thể cho đến nay. Sáu em khác may mắn được cứu thoát khỏi đống đổ nát, nhưng đang trong tình trạng nguy cấp, đã được dân làng và lính cứu hỏa chuyển đến bệnh viện. Hơn 100 nhân viên cứu hộ và cảnh sát đã được huy động vào cuộc. Giám đốc sở cảnh sát bang Selangor Datuk Tun Hisan Tun Hamzah phát biểu tại một cuộc họp báo: "Theo chúng tôi được biết thì có hai vụ lở đất xảy ra đồng thời tại ngôi nhà mở này. Tất cả các nạn nhân không có thời gian để chạy thoát". TẤN KHOA1 like
-
Đêm khua vang vắng một tiếng gà Giật mình rơi lệ thẹn quê xa Trời Nam con gió la đà lá Một nỗi niềm riêng ta còn ta (Cảm hứng đêm khua)1 like
-
Mảnh tình xưa ai làm tan vỡ. Chiến tranh qua đất bỗng hóa hoang tàn Người ra đi xây những giấc mộng vàng Đem tình cũ chôn vào trong dĩ vãng. Hôm nay máu chảy về tim Nhớ người xưa cũ em tìm bóng ai.1 like
-
Nếu năm nay may mắn thì tháng 7 sẽ có việc làm / còn không thì năm nay phải ngồi nhà xơi nước1 like
-
Công việc lúc nào cũng bấp bênh, sự nghiệp khó mà có được bước đột phá / Tiền tài tụ tán thất thường, có thể kiếm tiền nhanh, dễ dàng nhưng cũng sẽ tiêu tán ngay sau đó / Nên muộn lập gia đình, vợ dáng người cao gầy, khuôn mặt hơi dài, da hơi xanh xao1 like
-
Nói chuyên với thần phật là luôn được phù trợ1 like
-
Bí mật của những đốm xoay Quay trở lại với bức tranh Đàn lợn. Sau khi đã có cơ sở để xác định hình trăng lưỡi liềm kia là biểu hiện tính duy Âm Dương ta có cơ sở thể lập luận rằng hình ảnh lợn mẹ với 2 hình trăng lưỡi liềm đối nghịch nhau chính là mô tả 2 trạng thái duy Âm và duy Dương của hai bộ phận mông và đầu lợn mẹ, còn phần giữa là đốm xoáy Âm Dương cân bằng. Phần xoáy màu xanh (màu lạnh) mang Âm tính còn phần xoáy màu đỏ (màu nóng) mang Dương tính. Quả đúng như vậy hãy nhìn đốm xoáy ở phần mông _ phần duy Âm. Phần màu đỏ của đốm xoáy này bị che khuất đi một phần, nghĩa là phần Dương ít hơn phần Âm, chứng tỏ đốm xoáy này mang tính Âm là tính trội hay còn gọi là duy Âm. Giờ hãy xét đến những đốm xoáy trên thân lợn con. Lợn mẹ có 2 đốm xoáy thì tất nhiên lợn con phải có 2 đốm xoáy, đó gọi là tính di truyền. Tuy nhiên hãy để ý kỹ 2 đốm xoáy trên thân lợn con, đó là 2 vòng xoáy theo chiều ngược nhau trong khi lợn mẹ cả 2 xoáy đều giống nhau và cùng chiều xoay. Điều này có nghĩa rằng 1 đốm là di truyền từ mẹ còn đốm kia là di truyền từ cha. Tức là 2 đốm xoáy trên thân lơn con là biểu tượng cho 2 đặc tính di truyền từ cha và mẹ. Đốm xoáy trên thân lợn con Giờ hãy thử đi tìm cha của những chú lợn này xem. Đầu tiên là vào google sau đó gõ từ khóa “Đàn lợn tranh Đông Hồ”, bạn sẽ tìm được 2 bức tranh giống nhau nhưng lại ngược nhau. Một bức lợn mẹ quay mặt sang bên phải còn một bức lợn mẹ quay mặt sang bên trái. Nghĩa là một bức là Dương bản còn bức kia là Âm bản. Bức lợn mẹ quay mặt về bên phải (bên Dương) nghĩa là duy Dương, là bức Dương bản. Đàn lợn Âm bản Nếu bạn sử dụng công cụ Mirror trong photoshop với trục đối xứng theo chiều thẳng đứng để đảo ngược bức Dương bản thì bạn sẽ được bức Âm bản với hình lợn mẹ quay đầu về bên trái (duy Âm). Và lúc này phần đầu lợn mẹ sẽ chuyển sang duy Âm còn phần mông sẽ chuyển sang duy Dương, tức là Âm Dương chuyển hóa. Đồng thời chiều xoay của đốm xoáy Âm Dương cũng thay đổi. Giờ hãy lấy 2 cá thể nòng nọc ở 2 bức tranh để so sánh với 2 đốm xoáy trên thân lợn con: - Ở bức dương bản nòng nọc có chiều xoáy là : của kí tự Dương (hình số "6") - Ở bức âm bản nòn nọc có chiều xoáy là : tương đương với kí tự Âm (hình số "6" ngược) Vậy là chiều xoay của đốm xoáy đã thay đôi ở 2 bức tranh. Còn với những đốm xoáy của lợn con thì ở cả 2 bức đều giống nhau bởi vì cùng có giòng máu như nhau, cùng một cha mẹ sinh ra (hai đốm xoáy mang tính di truyền của đốm xoáy Âm bản Bố và đốm xoáy Dương bản Mẹ). Ngoài ra phân tích kĩ hai đốm xoáy trên thân lợn con với ký tự Dương và Âm ta cũng sẽ thấy có điểm tương đồng (Ảnh trên) Giờ hãy xét riêng biểu tượng đốm xoáy Âm Dương ở giữa trên thân lợn mẹ. Nếu chỉ xét ở trong phạm vi 1 bức tranh (trên phạm vi 1 đối tượng là mẹ hoặc bố) thì nó chỉ là mang nghĩa Âm Dương cân bằng về màu sắc. Nhưng nếu xét ở phạm vi 2 bức tranh (trên phạm vi cả bố và mẹ) thì nó lại mang nghĩa Âm Dương đối lập về chiều xoay, tượng trưng cho 2 cá thể khác nhau, thể hiện qua sơ đồ sau: Qua đây cũng chứng tỏ một quy luật trong thuyết Âm Dương là : trong Âm có Dương và trong Dương có Âm, vạn vật trong vũ trụ đều hàm chứa Âm Dương nhưng tùy theo duy Âm hay duy Dương mà tính Dương hay tính Âm trong nó làm tính chủ. Đó chính là sự biến hóa vô cùng của 2 yêu tố Âm Dương. Hai yếu tố Âm Dương luôn luôn chuyển hóa làm cho vũ trụ luôn động và vạn vật sinh tồn. Sơ đồ gen Vậy là 2 đốm xoáy trên thân lợn con tượng trưng cho 2 dốm xoáy trên thân lợn mẹ Dương bản và lợn bố Âm bản. Từ đây có thể xây dựng một sơ đồ hình thành mã gen Nòng Nọc cho 2 cá thể lợn bố và lợn mẹ. Trong đó ký hiệu vòng tròn rỗng O là Âm, vòng tròn đặc ● là Dương Diễn giải: Đốm xoáy Dương bản có cả Âm O và Dương ●, nhưng vì hình đầu lợn mẹ quay về bên phải (duy Dương) nên gen của nó mang Dương tính nhiều hơn và có mã gen là O● tức Âm của Dương hay Thiếu Dương. Tương tự đốm xoáy Âm bản có mã gen là ●O tức Dương của Âm hay Thiếu Ấm. (Còn tiếp..) Mục Đồng NGUYỄN NAM ANH Nguồn : http://namanh2x.blogspot.com Tranh Chọi gà - tìm về Kinh Dịch thật sự Để tìm hiểu sâu hơn về ý nghĩa của xoáy tròn trên hai bức tranh Đàn lợn âm bản và dương bản chúng ta phải tìm về vị thủy tổ của dân tộc ta, vị vua đầu tiên của dân tộc Việt. Đó là Kinh Dương Vương , cha đẻ của Lạc Long Quân. Theo truyền thuyết thì Kinh Dương Vương là con trai của vua Đế Minh, Đế Minh là cháu 3 đời của Thần Nông dòng mặt trời Viêm Đế. Tức Đế Minh, Kinh Dương Vương và Lạc Long Quân đều thuộc dòng dõi mặt trời. Điều này thể hiện rất rõ trên mặt Trống Đồng của dân tộc Lạc Việt, ở chính giữa mặt trống bao giờ cũng là hình mặt trời với nhiều tia sáng tỏa ra các hướng. Tranh Chọi gà Trong tranh Đông Hồ cũng có một bức tranh vẽ hình mặt trời tỏa sáng, đó là bức tranh Chọi gà. Đây là một bức tranh có bố cục hài hòa và rất cân xứng, thể hiện bằng hình ảnh hai con gà trống đang trong tư thế đối chọi nhau. Bạn có thấy hình mặt trời vẽ cách điệu cho phần cánh của gà và những chiếc lông tỏa ra xung quanh không. Nó giống như một hình tròn bị che lấp đi một nửa vậy. Nhìn kỹ sẽ thấy phần mặt trời ló rạng có hình tương tự như hình cong lưỡi liềm nhưng ở dưới thì to còn ở trên thì thon nhọn. Hình ảnh này có nhiều điểm tương đồng với hình nòng nọc uốn cong hơn là hình lưỡi liềm hay hình trăng khuyết. tương đương Còn các “tia sáng” thì cũng uốn cong theo chiều ngược lại: Tương đương Vậy là ở đây lại có một ẩn ý thông qua các hình cong. Giờ hãy vận dụng những gì đã khám phá được và Nguyên lý Âm Dương để diễn giải bức tranh này. Từ hình ảnh cánh gà và các đường cong ta có thể suy ra được tính Âm Dương của nó: Với gà trống quay mặt về bên phải: hình cánh gà này tương đương với O chồng lên ●, duy Dương thành O● Với gà trống quay mặt về bên trái: Hình cánh gà tương ứng với ● chồng lên O , duy Âm thành ●O Giờ hãy chú ý đến cái chân gà: Hai con gà này chỉ đứng trên có một chân, mỗi chân đều có 4 ngón và một cái cựa cong nhọn. Các cụ nhà ta vẽ gà có cánh hình mặt trời tỏa sáng đứng trên một chân có 4 ngón, bên cạnh lại minh họa hình một cây hoa nhỏ phải chăng có ẩn ý gì. Cái cây tượng trưng cho sự sống thực vật sinh sôi nảy nở, mặt trời tượng trưng cho năng lượng, nhờ có mặt trời chiếu sáng thì cây cối mới tổng hợp được năng lượng và phát triển. Vậy đây ắt hẳn phải là một bức tranh nói về việc hình thành sự sống từ thủa sơ khai của vũ trụ, khi mà mặt trời tỏa những tia sáng đầu tiên khai sáng vũ trụ. (Gà trống vẫn được coi là linh vật tượng trưng cho thần mặt trời thường thấy ở những nền văn minh nông nghiệp thờ mặt trời. Hình ảnh mặt trời được gắn với gà trống là rất phù hợp vì gà trống và mặt trời cùng là Dương, hơn nữa gà trống có cái mào đỏ là màu nóng, khiến ta liên tưởng đến hình ảnh mặt trời đỏ rực. Mặt trời tương đương với Càn 3 hào Dương ở đây cũng có 3 Dương là 2 gà trống và 1 mặt trời hoàn chỉnh ghép lại từ 2 mặt trời khuyết. Đuôi gà cũng được chia làm 3 đường cong tương đương với 3 hào dương.) Trong Kinh Dịch có một câu là : “Thái Cực sinh Lưỡng Nghi , Lưỡng Nghi sinh Tứ Tượng , Tứ Tượng sinh Bát Quái”. Thái Cực ở đây nghĩa là điểm cùng cực, là thời điểm vũ trụ chưa hình thành, chưa có gì để phân biệt. Lưỡng Nghi ở đây là 2 nguyên tố khởi đầu có sự phân biệt đó là Âm và Dương. Nhưng có một điều nữa Kinh Dịch cũng có nói là trong Âm có Dương và trong Dương có Âm nghĩa là 2 Lưỡng Nghi này phải có cả Âm Dương trong nó. Hãy so sánh với hình 2 cánh gà mặt trời ta sẽ thấy có sự tương đồng: Cánh gà bên phải có cả Âm lẫn Dương nhưng vì gà quay mặt về bên trái_duy Âm_nên Âm sẽ là tính chủ tức ●O. Cánh gà bên trái có cả Âm Dương nhưng vì gà quay mặt về bên phải_duy Dương_nên Dương sẽ là tính chủ tức O● . Đây chính là kí hiệu mã gen của 2 lưỡng nghi Âm và Dương mà ta đã xác định được từ phần trước (xem sơ đồ hình thành mã gen). Hai Lưỡng Nghi này kết hợp với nhau tạo ra Tứ Tượng. (quá trình này tương tự như quá trình lai ghep 2 tính trạng trội của 2 cá thể sẽ thu được 4 mã gen khác nhau). Tứ Tượng ở đây được điễn tả bằng 4 ngón chân của gà, vì thế mà gà chỉ đứng trên có 1 chân. Bốn ngón chân này nhân 2 lần (2 gà) theo duy Âm và duy Dương sẽ có được 8 quái đúng như trong Kinh Dịch. Sơ đồ lai ghép như sau: Tứ Tượng Dương (chân bên trái có cựa cong theo chiều duy Dương) sinh ra 4 quái duy Dương là: Tứ Tượng Âm (chân bên phải có cựa cong theo chiều duy Âm) sinh ra 4 quái duy Âm là: Từ đây có thể đi đến kết luận là bức tranh Chọi gà chính là một sơ đồ từ Thái Cực à Lưỡng Nghi à Tứ Tượng à Bát Quái Thái Cực ở đây quy ước là một hình tròn rỗng không có gì được ghép lại từ 2 hình mặt trời khuyết. (ảnh) Từ sơ đồ mã hóa quá trình khởi nguyên vũ trụ dưới dạng hình ảnh này ta có thể diễn giải quá trình hình thành vũ trụ như sau: Đầu tiên vũ trụ chỉ có duy nhất một thứ là Thái Cực không có gì phân biệt với nó nên cũng không có chuyển động. Không có vận tốc nên cũng không có thời gian và không không gian. Đó là thời điểm tuyệt đối |O|. rồi sau đó mầm Dương xuất hiện ●, mầm Dương này động đối nghịch với cái tĩnh OO và ● tức Nòng và Nọc (trong khi Kinh Dịch coi Lưỡng Nghi chỉ có một thuộc tính) của Thái Cực , tương tác với Thái Cực để tạo ra 2 lưỡng nghi chứa đựng tính chất của cả Lưỡng Nghi Âm lấy tính Âm O làm chủ. Lưỡng Nghi Dương lấy tính Dương ● làm chủ. 2 Lưỡng Nghi này lại tương tác với nhau để tạo ra Tứ Tượng Tứ Tượng ơ đây chính là 4 tượng của 4 nguyên tố khởi đầu để hình thành nên sự sống. Lưu ý là tượng đại diện của 4 nguyên tố chứ không phải là 4 nguyên tố, bao gồm: - Nước – Thủy, - Ánh Sáng – Lửa (Hỏa), - Đất – Thổ, - Không khí_gió - Kim. Phân Tứ Tượng làm 2 nhánh duy Âm và duy Dương ta được 8 quái. ……… Cứ như vậy vạn vật trong vũ trụ được hình thành sinh sôi này nở và phát triển để tạo nên thế giới đa dạng như ngày này. Tất cả mọi thứ đều chứa đựng trong nó 2 nhân tố cơ bản là Âm và Dương hay O và ●. Giống như mã nhị phân trong máy tính là 0 và 1 dùng để mã hóa những đối tượng từ ký tự đến hình ảnh, âm thanh, video đến đồ họa 3D… và mô phỏng các đối tượng tương tác với nhau gọi là thực tế ảo. Và nếu như có một chiếc máy tính có khả năng lưu trữ và tốc độ sử lí khổng lồ thì nó có thể mô phỏng cả vũ trụ này chỉ với 2 mã 0 và 1 ~ Âm và Dương. Bức tranh này mô tả quá trình mới hình thành 4 nguyên tố chính nên chưa có màu xanh, toàn bộ bức tranh chỉ là màu đỏ và vàng , đen trên nền trắng. Như vậy hình tròn đốm xoáy trên thân lợn mẹ trong tranh Đàn lợn không thể coi là Thái Cực được mà chỉ có thể coi đó là một biểu tượng Âm Dương thuần túy hoặc hình ảnh bọc trứng trong truyền thuyết Bọc trăm trứng của Tổ mẫu Âu Cơ. Điều đó cũng cho thấy hình tượng bánh chuưng bánh dầy không phải là biểu tượng cho triết lí trời tròn đất vuông được. Mà bánh dầy hình tròn có màu trắng tinh khiết chính là biểu tượng cho Thái Cực còn bánh chưng là tượng trưng cho Tứ Tượng , cho 4 nguyên tố chính khởi đầu hình thành sự sống là: - Gió (khí) : gạo nếp trắng (Kim) - Nước : Nước có trong bánh sau khi luộc (Thủy) - Lửa (ánh sáng) : Thịt nạc đỏ (Hỏa) - Đất : Đỗ xanh màu vàng (Thổ) Bốn nguyên tố này vận động và tương tác với nhau để tạo nên sự sống chính là màu xanh của lá rong bao bọc bên ngoài. Đúng là một hình ảnh tuyệt vời tượng trưng cho triết lí Âm Dương và để giải thích sự vận động của vũ trụ tạo nên sự sống. Đó chính là cốt lõi của Văn hóa Việt, mang đậm nét của nền văn minh nông nghiệp coi trọng tự nhiên và sự xung túc phồn thực. Là sản phẩm của một nền văn minh đã đạt tới một trình độ phát triển cao có thể hiểu thấu được quy luật vũ trụ và đúc kết lại thành một triết lí sống tối ưu là hòa mình với vũ trụ. Con người nơi đây sống giản dị và hồn hậu, sống gần gũi gắn bó với thiên nhiên và muông thú, trọng tình cảm và những giá trị tinh thần. (Còn tiếp...) Mục Đồng NGUYỄN NAM ANH Nguồn: http://namanh2x.blogspot.com1 like
-
Tìm hiểu ý nghĩa những hình vẽ trên mặt trống đồng Ngọc Lũ ( Việt Nam Văn Minh Sử - Lê Văn Siêu ) Lời nói đầu : Theo sự phân loại của Hê-gơ, và bản tổng kê của các nhà khảo cổ tại miền Bắc, trong sách Thời Đại Đồng Thau, những trống đồng loại 1 phát hiện ở Việt Nam khoảng trên 70 chiếc. Số lượng tìm thấy đã hơn bất cứ một miền nào khác. Mặc dầu tướng Mã Viện đời Đông Hán khi qua đánh Giao Chỉ, đã tịch thu không biết bao nhiêu trống nữa, để đúc con ngựa kiểu mà chơi, và đúc cái cột đồng khắc chữ “Đồng Trụ chiết Giao Chỉ diệt“. Những trống loại 1 đã thấy khá nhiều tại Thanh Hoá để có thể đoán chắc rằng Thanh Hoá là nơi sản xuất và những trống cùng loại thấy ở các nơi khác (Hà Đông, Hà Nam, Hà Nội, Hải Phòng, Hoà Bình, Cao Bằng, Lào Cai, Sơn Tây, Bắc Ninh, Hải Dương, Nam Định, Nghệ An) là những trống được kịp thời giấu đi. Đó là những trống có thể đoán được là của các tù trưởng đã thuê lò Thanh Hoá đúc. Đó là những vật biểu tượng quyền uy của tù trưởng. The Dong Son bronze drums Trong những di vật quý giá này , trống thuộc loại vừa kể, thuộc loại đẹp nhất, vẫn là trống tìm thấy năm 1902 ở Ngọc Lũ ( tỉnh Hà Nam ) hiện để tại viện bảo tàng lịch sử ở Hà Nội. Các nhà khảo cổ có tinh thần khoa học mới, khi nghiên cứu về những di vật ấy chắc sẽ hứa hẹn nhiều khám phá về kỹ thuật, niên đại, tương quan tạo tác, tương quan sản xuất, xã hội, cả về trình độ tiến hoá mỹ thuật của dân tộc. Chúng tôi nghiên cứu lịch sử, không bị ước thức bởi những mô thức, nên tự thấy được rộng tay đóng góp một phần tìm tòi thuộc về nội dung những hình vẽ. Tất nhiên không thiếu gì nhà khoa học mới mỉm cười cho là tưởng tượng, nhưng tìm hiểu ý nghĩa của một hình vẽ củ không có lời chú giải của tác giả bên cạnh, mà chẳng dùng tưởng tượng thì dùng cái gì ? Người ta đã tưởng tượng đây là bộ lạc thờ thần mặt trời, mặt trăng, hay thờ chim vật tổ. Nhưng có tinh thần khoa học nào cấm người khác không được có tưởng tượng khác, nhất là khi tưởng tượng này có thể hữu lý, dễ đúng hơn ? Huống chi chúng tôi có ở đây khá đủ những căn cứ của nền cổ học phương Đông mà dường như nhiều nhà khoa học mới vì lẽ nào đó không để ý tới khiến sự nhìn vào di sản văn hoá cũ ở Đông phương, mà thuần bắng con mắt Tây phương, thì có thể sẽ quên những khía cạnh quan trọng ở nột dung chăng ? Chính vì ngại chuyện ấy mà chúng tôi có bản viết này, riêng đề cập tới hình vẽ trên mặt trống đồng Ngọc Lũ, ước mong cho rằng nó sẽ là chìa khoá để mở nhiều những kho tàng khác có thể có trên những mặt trống khác. Chúng tôi không nói tới hình vẽ ở tang trống vì nó có giá trị trang trí nhiều hơn là thực tiễn. Trống đồng Ngọc Lũ Kể từ ngày cái trống này được moi ra khỏi chổ chôn giấu đến nay, những hình vẽ trên mặt trồng vẫn là một thách đố đối với các nhà khảo cổ học, cũng như với nhân dân Việt Nam muốn tìm hiểu nó định nói cái gì ? Chúng tôi rất kính phục và cảm ơn các nhà khảo cổ Tây phương nhất là ở trường Viễn Đông Bác Cổ Pháp, để rất nhiều năm tháng và tâm tư cùng đem những sử học, mày mò, khảo sát, suy luận và giả thiết. Các vị ấy đã viết nên cả những bộ sách lớn khiến trống đồng trở thành một vật nổi tiếng trên Thế Giới. Nhờ các vị mà rất đông những nhà học giả của nước chúng tôi khi đề cập đến di sản văn hoá này cũng đã khiến được cho quần chúng bình dân biết đại khái rằng ngày xưa các bộ lạc của tổ tiên mình thờ vật tổ là con chinh tên là Lạc, thờ thần mặt trời ( vì hình vẽ ở trung tâm mặt trời loé ra nhiều tia sáng),lại có những hình người đội mũ cánh chim, mặc áo xòe ra như lông cánh chim, rồi có cả mắt chim ở đầu mũi thuyền, đầu mũi tên, trên mái chèo, bánh lái thuyền, … Nhiều vị xác quyết rằng bộ lạc cổ xưa này sau đó di cư đến các hải đảo Thái Bình Dương, nên có liên hệ bà con với bộ lạc Dayak ở Bornéo, còn có hình thuyền giống như trên trống dùng vào dịp tang lễ. Nhiều vị khác còn thêm tại miền Bắc có bộ lạc hay hoá trang cái đầu thành đầu chim trong lễ nghi cúng kiếng theo điệu trống đồng. Trống vốn không biết nói, cũng không biết thế nào mà dám cãi. Thôi thà tuỳ người ta nhớ được một tiền tích nào ở đâu thì sẵn ghép cho nó những nội dung khác nhau. Ra sao nó cũng phải chịu. Chúng tôi chỉ trộm nghĩ rằng, trống đồng xưa chỉ tù trưởng mới được phép có, nó như một ấn ngọc tỷ, biểu tượng uy quyền của vị Hoàng Đế, người ta chả nên lầm mà hiểu nó như một sản phẩm công nghệ để trao đổi trong phiên chợ, và hiểu những hình vẽ là để cho vui mắt người mua dùng. Việc cần là tìm cái ý tiên khởi của người xưa gởi gắm vào hình vẽ và nếu có thể được thì tìm hiểu xem hình vẽ đó để làm gì ? Tạm coi là hình mặt trời ở giữa mặt trống, nhưng sao lại 14 tia sáng mà không hơn, không kém ? Sao lại chỉ có 18 con chim ? Sao lại có 6 con gà, 10 con hươu ? Rồi 8 con gà 10 con hươu nữa ? Nếu làm cho đẹp sao không làm đều nhau ? Có lẽ chăng đây là cái trống của người tù trưởng quản lãnh 14 vị tù trưởng nhỏ khác mà tiếng trống đánh lên thì 14 nơi kia đều phải nghe ? Hoặc đây là một đám rước và người ta hoá trang chăng ? Nhưng đâu là đầu, đâu là cuối đám rước ? Và sao lại có người giã gạo ? Người ngồi nhà sàn ? Tài ba và nhiệm vụ của tù trưởng Một tù trưởng hẳn phải có nhiều đám dân đến hỏi những việc thuộc đời sống hằng ngày của họ. Ông phải có hiểu biết gì hơn họ và chỉ bảo họ ra sao ? Chẳng hạn, có đám hỏi đêm nay có thể đi săn được không ? Liệu có trăng không ? Trăng lên vào chặp tối hay gần sáng ? Ngày mai nước có lên không ? Có thể cho thuyền ra khơi đánh cá được không ? Mùa này nên ở nhà hay đi hái trái ? Đã nên giả gạo để ủ làm rượu dùng vào ngày lễ nào đó chưa ? …… Ông tù trưởng phải có nhiệm vụ biết ngày giờ, sáng tối, trăng tròn trăng khuyết, tiết trời nóng lạnh, mưa gió, con nước, tình hình muôn thú, cũng như những dịp lễ lạt phải chuẩn bị trước. Sự tích lũy kinh nghiệm của nhiều đời tù trưởng đã phải được ghi lại, cũng như phải có gì để mà ghi lại, để mà làm việc và hướng dẫn quần chúng. (còn nữa)1 like
-
Người Trung Hoa cho rằng nền thiên văn của họ bắt đầu với Phục Hi, khoảng 2850 năm trước kỷ nguyên Tây lịch. Đến đời Hoàng Đế ( 2657 – 2557 ) ta đã thấy họ dùng cách tính năm tháng theo chu kỳ lục thập hoa giáp ( chu kỳ 12 năm ). Hán thư Nghệ Văn Chí có ghi : “Hoàng Đế ngũ gia lịch tam thập quyển”. Cháu ba đời Hoàng Đế là Chuyên Húc (2545 – 2485 ) rất có nhiều về thiên văn. Trúc Thư Ký Niên viết : Sau khi lên ngôi được 13 năm, vua bắt đầu làm lịch số, và tính toán vị trí các sao trên trời. Xuân Thu Tả Truyện cũng ghi nhận rằng đời vua Chuyên Húc đã có những quan coi về lịch, về nhị phân (xuân phân, thu phân) và nhị chí (đông chí, hạ chí) và đoán được các ngày đầu mùa ( Xuân Thu Chiêu Công năm XVII ). Đời vua Nghiêu ( 2356-2255) đã biết vị trí nhị thập bát tú, nhật nguyệt ngũ tinh, đã định năm là 365 ngày, đã biết đặt tháng nhuận. Riêng dòng tù trưởng Giao Chỉ, một mình hùng cứ một cõi trời nam, thì tính năm 354 ngày với 6 tháng đủ, 6 tháng thiếu trong một năm, cho đúng với tuần trăng và khí tiết, mà đến ngày nay, âm lịch từ Trung Hoa in đem qua bán, cũng tính theo như thế. Nếu cần tính sổ vay mượn, thì có lẽ người Trung Hoa đã thiếu nợ của ta vậy. Lịch in vào sách và lịch khắc trên mặt trống : “Hoàng Đế ngũ gia lịch tam thập tam quyển”. Thật đã rõ: người Trung Hoa in lịch trên sách và lịch 365 ngày. Người giao Chỉ khắc lịch vào mặt trống đồng và lịch 354 ngày. Người Trung Hoa dùng Thiên Can, Địa Chi tính năm tháng ngày theo chu kỳ thập lục hoa giáp. Người Giao Chỉ tính chu kỳ 18 năm và những bội số của 18 ấy. Tỉ như 180 là gồm 3 lần lục thập hoa giáp (180=3x60) . Kết quả vẫn như nhau vậy . Riêng việc có một sáng kiến sắp xếp ngày tháng năm của quyển lịch cho tiện dụng hàng vạn năm thì đã thật là một sáng chế không kém cõi về khoa học, hợp lý, nhất là khi chúng ta được biết chưa thấy dẫn nước nào có một quyển lịch như vậy (Âm lịch hay Dương lịch ). Đi sâu vào chi tiết : Hướng tiến chung : Tất cả các hình vẽ chim, gà, hươu, người, đều tiến theo một hướng trong vòng tròn, từ trái qua phải, thuận theo chiều quay của Trái Đất đối với người quan sát, day mặt về hướng Bắc ( ngược chiều quay của kim đồng hồ ). Bởi lịch này là nguyệt lịch nên đặt tất cả theo chiều quay chung ấy. Đặt đúng khởi điểm của lịch ở cuối con gà trong dòng 6 con như đã nói, thì phương tí ngọ (bắc nam) chếch qua tia cuối bên tay trái của 14 tia ở trung tâm. Ấy là tiết đông chí nhất dương sinh, ngày đầu năm thiến văn, các loại vật đông miên bừng tỉnh dậy và mầm của cây cối cũng bắt đầu đội vỏ đâm lên.Ta gặp trên đường thẳng vạch từ trung tâm ra vòng thứ nhất, hình vẽ của những gì như người ở trong nhà sàn vừa tỉnh dậy. Còn kéo thẳng đường ấy ngược lên phái Nam , là thái dương cư ngọ, ấy là ngày hạ chí, trời nóng nực. Ta gặp hình vẽ của những gì như người làm việc đồng án vắng nhà. Phương mẹo dậu : Từ Tây sang Đông hới chếch lên, không vuông góc với Nam Bắc, ta gặp ở 2 đầu trên đường thẳng vạch tại vòng tròn thứ nhất, hai cái hình giống nhau, cùng khum tròn với 2 cột 2 bên, ở giữa một bệ như bệ thờ. Ấy là Xuân phân, Thu phân, khí trời mát mẻ, mọi người phải lo làm việc tế lễ. Bốn ngày thuộc nhị phân nhị chí này chính là 4 cái mốc thời gian cho người ta căn cứ để làm lịch. (Tóm lượt đoạn viết về ghi chú trong sách Vân Đài Loại Ngữ của Lê Quý Đôn : Không những bóng mặt trời khác ở những ngày nhị phân nhị chí, cả ngày dài ngày ngắn cũng khác nhau. Cả mặt trời mọc, lặn của những ngày nhị phân nhị chí cũng vào những thời khắc khác nhau). Chúng ta không còn những dụng cụ của người Giao Chỉ đã dùng để đo thời gian, nhưng chắc chắn phải có, thì khi chiêm nghiệm mới biết được có những gì khác nhị phân nhĩ chí, để người ta dùng nó như những cái mốc thời gian mà làm lịch. Phương tí ngọ và phương mão dậu với chòm sao bắt đẩu : Trên mặt trống đã có những phương Bắc Nam Đông Tây như vừa nói, thì trống tất nhiên phải được đặt theo phương hướng ấy trước mặt tù trưởng. Do đó ngoài công dụng làm lịch, trống còn là một địa bàn cho một bộ tộc, khi đã định cư, để tìm ra phương hướng đi và về trung tâm định cư của mình, dù bằng đuờng thuỷ hay đường bộ. Trên hình thuyền, ở tang trống, có vẽ cái trống không thể hiểu là phẩm vật đem bán vì chỉ có một cái và lại đặt như thế. Đó là “ cái bàn biết phương hướng “đi về. Người đứng trên cầm cái gì như cung tên nhưng không nhắm để bắn gì cả, đó là công cụ xem sao mà xoay hướng thuyền. Bốn ngày thuộc nhị phân nhị chí này chính là 4 cái mốc thời gian cho người ta căn cứ để làm lịch. (Tóm lượt đoạn viết về ghi chú trong sách Vân Đài Loại Ngữ của Lê Quý Đôn : Không những bóng mặt trời khác ở những ngày nhị phân nhị chí, cả ngày dài ngày ngắn cũng khác nhau. Cả mặt trời mọc, lặn của những ngày nhị phân nhị chí cũng vào những thời khắc khác nhau). Chúng ta không còn những dụng cụ của người Giao Chỉ đã dùng để đo thời gian, nhưng chắc chắn phải có, thì khi chiêm nghiệm mới biết được có những gì khác nhị phân nhĩ chí, để người ta dùng nó như những cái mốc thời gian mà làm lịch. Phương tí ngọ và phương mão dậu với chòm sao bắt đẩu : Trên mặt trống đã có những phương Bắc Nam Đông Tây như vừa nói, thì trống tất nhiên phải được đặt theo phương hướng ấy trước mặt tù trưởng. Do đó ngoài công dụng làm lịch, trống còn là một địa bàn cho một bộ tộc, khi đã định cư, để tìm ra phương hướng đi và về trung tâm định cư của mình, dù bằng đuờng thuỷ hay đường bộ. Trên hình thuyền, ở tang trống, có vẽ cái trống không thể hiểu là phẩm vật đem bán vì chỉ có một cái và lại đặt như thế. Đó là “ cái bàn biết phương hướng “đi về. Người đứng trên cầm cái gì như cung tên nhưng không nhắm để bắn gì cả, đó là công cụ xem sao mà xoay hướng thuyền. Bốn ngày thuộc nhị phân nhị chí này chính là 4 cái mốc thời gian cho người ta căn cứ để làm lịch. (Tóm lượt đoạn viết về ghi chú trong sách Vân Đài Loại Ngữ của Lê Quý Đôn : Không những bóng mặt trời khác ở những ngày nhị phân nhị chí, cả ngày dài ngày ngắn cũng khác nhau. Cả mặt trời mọc, lặn của những ngày nhị phân nhị chí cũng vào những thời khắc khác nhau). Chúng ta không còn những dụng cụ của người Giao Chỉ đã dùng để đo thời gian, nhưng chắc chắn phải có, thì khi chiêm nghiệm mới biết được có những gì khác nhị phân nhĩ chí, để người ta dùng nó như những cái mốc thời gian mà làm lịch. Phương tí ngọ và phương mão dậu với chòm sao bắt đẩu : Trên mặt trống đã có những phương Bắc Nam Đông Tây như vừa nói, thì trống tất nhiên phải được đặt theo phương hướng ấy trước mặt tù trưởng. Do đó ngoài công dụng làm lịch, trống còn là một địa bàn cho một bộ tộc, khi đã định cư, để tìm ra phương hướng đi và về trung tâm định cư của mình, dù bằng đuờng thuỷ hay đường bộ. Trên hình thuyền, ở tang trống, có vẽ cái trống không thể hiểu là phẩm vật đem bán vì chỉ có một cái và lại đặt như thế. Đó là “ cái bàn biết phương hướng “đi về. Người đứng trên cầm cái gì như cung tên nhưng không nhắm để bắn gì cả, đó là công cụ xem sao mà xoay hướng thuyền. ] Bốn ngày thuộc nhị phân nhị chí này chính là 4 cái mốc thời gian cho người ta căn cứ để làm lịch. [/url][/size][/font] (Tóm lượt đoạn viết về ghi chú trong sách Vân Đài Loại Ngữ của Lê Quý Đôn : Không những bóng mặt trời khác ở những ngày nhị phân nhị chí, cả ngày dài ngày ngắn cũng khác nhau. Cả mặt trời mọc, lặn của những ngày nhị phân nhị chí cũng vào những thời khắc khác nhau). [/url][/size][/font] Chúng ta không còn những dụng cụ của người Giao Chỉ đã dùng để đo thời gian, nhưng chắc chắn phải có, thì khi chiêm nghiệm mới biết được có những gì khác nhị phân nhĩ chí, để người ta dùng nó như những cái mốc thời gian mà làm lịch. [/url][/size][/font] Phương tí ngọ và phương mão dậu với chòm sao bắt đẩu : [/url][/b][/size][/font] Trên mặt trống đã có những phương Bắc Nam Đông Tây như vừa nói, thì trống tất nhiên phải được đặt theo phương hướng ấy trước mặt tù trưởng. Do đó ngoài công dụng làm lịch, trống còn là một địa bàn cho một bộ tộc, khi đã định cư, để tìm ra phương hướng đi và về trung tâm định cư của mình, dù bằng đuờng thuỷ hay đường bộ. Trên hình thuyền, ở tang trống, có vẽ cái trống không thể hiểu là phẩm vật đem bán vì chỉ có một cái và lại đặt như thế. Đó là “ cái bàn biết phương hướng “đi về. Người đứng trên cầm cái gì như cung tên nhưng không nhắm để bắn gì cả, đó là công cụ xem sao mà xoay hướng thuyền. file:///C:/DOCUME%7E1/ANHTAM%7E1/LOCALS%7E1/Temp/msohtml1/01/clip_image001.jpg Hình thuyền trên thân trống đồng Ngọc Lũ. Các hướng Đông Tây được ước định theo chiều xoay của kim đồng hồ. Đó là khi người ta quan niệm Trái Đất đứng yên một chỗ, chỉ mặt trời mọc đằng Đông , lặn đằng Tây. Nhưng khi người ta chiêm nghiệm và quan niệm Mặt Trời đứng nguyên vị và Trái Đất chạy xung quanh Mặt Trời theo quỹ đạo thực của nó, thì phương hướng lại được ước định như sau : Bốn ngày thuộc nhị phân nhị chí này chính là 4 cái mốc thời gian cho người ta căn cứ để làm lịch. (Tóm lượt đoạn viết về ghi chú trong sách Vân Đài Loại Ngữ của Lê Quý Đôn : Không những bóng mặt trời khác ở những ngày nhị phân nhị chí, cả ngày dài ngày ngắn cũng khác nhau. Cả mặt trời mọc, lặn của những ngày nhị phân nhị chí cũng vào những thời khắc khác nhau). Chúng ta không còn những dụng cụ của người Giao Chỉ đã dùng để đo thời gian, nhưng chắc chắn phải có, thì khi chiêm nghiệm mới biết được có những gì khác nhị phân nhĩ chí, để người ta dùng nó như những cái mốc thời gian mà làm lịch. Phương tí ngọ và phương mão dậu với chòm sao bắt đẩu : Trên mặt trống đã có những phương Bắc Nam Đông Tây như vừa nói, thì trống tất nhiên phải được đặt theo phương hướng ấy trước mặt tù trưởng. Do đó ngoài công dụng làm lịch, trống còn là một địa bàn cho một bộ tộc, khi đã định cư, để tìm ra phương hướng đi và về trung tâm định cư của mình, dù bằng đuờng thuỷ hay đường bộ. Trên hình thuyền, ở tang trống, có vẽ cái trống không thể hiểu là phẩm vật đem bán vì chỉ có một cái và lại đặt như thế. Đó là “ cái bàn biết phương hướng “đi về. Người đứng trên cầm cái gì như cung tên nhưng không nhắm để bắn gì cả, đó là công cụ xem sao mà xoay hướng thuyền. file:///C:/DOCUME%7E1/ANHTAM%7E1/LOCALS%7E1/Temp/msohtml1/01/clip_image001.jpg Hình thuyền trên thân trống đồng Ngọc Lũ. Các hướng Đông Tây được ước định theo chiều xoay của kim đồng hồ. Đó là khi người ta quan niệm Trái Đất đứng yên một chỗ, chỉ mặt trời mọc đằng Đông , lặn đằng Tây. Nhưng khi người ta chiêm nghiệm và quan niệm Mặt Trời đứng nguyên vị và Trái Đất chạy xung quanh Mặt Trời theo quỹ đạo thực của nó, thì phương hướng lại được ước định như sau : Bốn ngày thuộc nhị phân nhị chí này chính là 4 cái mốc thời gian cho người ta căn cứ để làm lịch. (Tóm lượt đoạn viết về ghi chú trong sách Vân Đài Loại Ngữ của Lê Quý Đôn : Không những bóng mặt trời khác ở những ngày nhị phân nhị chí, cả ngày dài ngày ngắn cũng khác nhau. Cả mặt trời mọc, lặn của những ngày nhị phân nhị chí cũng vào những thời khắc khác nhau). Chúng ta không còn những dụng cụ của người Giao Chỉ đã dùng để đo thời gian, nhưng chắc chắn phải có, thì khi chiêm nghiệm mới biết được có những gì khác nhị phân nhĩ chí, để người ta dùng nó như những cái mốc thời gian mà làm lịch. Phương tí ngọ và phương mão dậu với chòm sao bắt đẩu : Trên mặt trống đã có những phương Bắc Nam Đông Tây như vừa nói, thì trống tất nhiên phải được đặt theo phương hướng ấy trước mặt tù trưởng. Do đó ngoài công dụng làm lịch, trống còn là một địa bàn cho một bộ tộc, khi đã định cư, để tìm ra phương hướng đi và về trung tâm định cư của mình, dù bằng đuờng thuỷ hay đường bộ. Trên hình thuyền, ở tang trống, có vẽ cái trống không thể hiểu là phẩm vật đem bán vì chỉ có một cái và lại đặt như thế. Đó là “ cái bàn biết phương hướng “đi về. Người đứng trên cầm cái gì như cung tên nhưng không nhắm để bắn gì cả, đó là công cụ xem sao mà xoay hướng thuyền. file:///C:/DOCUME%7E1/ANHTAM%7E1/LOCALS%7E1/Temp/msohtml1/01/clip_image001.jpg Hình thuyền trên thân trống đồng Ngọc Lũ. Các hướng Đông Tây được ước định theo chiều xoay của kim đồng hồ. Đó là khi người ta quan niệm Trái Đất đứng yên một chỗ, chỉ mặt trời mọc đằng Đông , lặn đằng Tây. Nhưng khi người ta chiêm nghiệm và quan niệm Mặt Trời đứng nguyên vị và Trái Đất chạy xung quanh Mặt Trời theo quỹ đạo thực của nó, thì phương hướng lại được ước định như sau : file:///C:/DOCUME%7E1/ANHTAM%7E1/LOCALS%7E1/Temp/msohtml1/01/clip_image002.jpg Vì vậy, trên mặt trống đồng ta thấy : Vì vậy, trên mặt trống đồng ta thấy : file:///C:/DOCUME%7E1/ANHTAM%7E1/LOCALS%7E1/Temp/msohtml1/01/clip_image001.jpg Vấn đề hướng Đông Tây, theo sử gia Hy Lạp Hérodote, ở thế kỷ V trước CN, khi tiếp xúc với các tu sĩ Ai Cập, ông được các vị này cho biết trải qua 341 thế hệ thiên vương Ai Cập ( tính ra 11 ngàn năm ) đã có 4 lần mặt trời mọc và lặn ở phương khác nhau. 2 lần nó đã mọc ở phía nó lặn bây giờ và 2 lần nó đã lặn ớ phía nó mọc bây giờ. (còn nữa)1 like
-
Hihi, ở Gò Đống Đa, có sương người hán, thế mà mấy thằng Đông Ngô không sang nhận là đất của nó đi nhẩy, có khi vừa nhận song thì đã bị vỡ mồm Thống kê Đông Ngô có mấy vụ chơi nước ta như sau Quả đầu tiền có thể nói đến là vụ móng trâu, móng bò, 4 cái móng, mua giá đắt hơn 1 con trâu Vụ 2 có thể kể đến là mua hết gốc trà đắng ở nước ta, may 1 số gia đình ko bán, nên VN mình giờ mới có trà đắng để mà dùng Vụ mua hết rắn, cua, ốc, ếch, làm cho lúa nước ta bị sâu bọ rất nhiều, thuốc trừ sâu khi đó bán rất chạy, mà sức khỏe người VN thì ảnh hưởng nghiêm trọng Vụ thả ốc bưu vàng cũng là 1 ví dụ Vụ bán thuốc chuột, trong đó kích thích chuột đẻ nhiều hơn, mà chó và mèo thì chết gần hết ở các xóm làng ngoài bắc Gần đây là vụ gỗ xưa, mua với giá cao, sau đó đưa ngược lại VN, rồi ko mua nữa Chuẩn bị có thể phanh phui vụ vàng giả Vụ mía đường ồ ạt vào nước ta, làm cho các công ty mía đường điêu đứng Vụ trứng gà giả, hehe vụ này mới biết ..... Ôi nhiều quá, nhiều quá Đúng là chú Đông Ngô chơi nước mình quá thâm, cứ ầm thầm thi thoảng chơi 1 quả thế này thì sống sao nổi1 like
-
LỜI TIÊN TRI 2011 Đại ý: Thế giới sẽ khủng hoảng kinh tế. Lần này ảnh hưởng tới đời sống hạ tầng xã hội.......Bắt đầu nặng từ tháng 8 Việt lịch. ================================== Tổng thống Mỹ B.Obama Mỹ có thể sẽ rơi vào cuộc khủng hoảng tài chính tồi tệ Thứ hai, 16/05/2011, 10:48(GMT+7) VIT - Nước Mỹ có thể sẽ rơi vào một cuộc khủng hoảng tài chính và kinh tế còn tồi tệ hơn cả cuộc suy thoái trong giai đoạn 2008-2009. Tổng thống Mỹ Barack Obama cảnh báo, nước Mỹ sẽ rơi vào một cuộc khủng hoảng tài chính và kinh tế còn tồi tệ hơn cả cuộc suy thoái trong giai đoạn 2008-2009, nếu Quốc hội không nâng hạn mức nợ và các nhà đầu tư mất niềm tin vào thị trường nước này. Trong bài phát biểu trên kênh truyền hình CBS News, ông Obama nhắc lại rằng, Đảng Cộng hòa không nên quyết định nâng trần nợ với việc cắt giảm chi tiêu như là một biện pháp giảm thâm hụt. Ông nói: “Nếu nhà đầu tư trên toàn thế giới cho rằng niềm tin và mức độ tín nhiệm của Mỹ không được củng cố, nếu họ nghĩ rằng Mỹ có thể không thể thanh toán được nợ, thì điều này có thể sẽ khiến hệ thống tài chính sụp đổ”. “Chúng ta có thể rơi vào một cuộc suy thoái tồi tệ hơn, một cuộc khủng hoảng tài chính tồi tệ hơn so với trước đây”. Hiện Nhà Trắng và Đảng Cộng hòa thuộc Quốc hội đang bế tắc trong cuộc tranh luận về thâm hụt ngân sách và trần nợ. Bộ Tài chính Mỹ dự kiến, nợ công của Mỹ sẽ đạt tới giới hạn là 14.300 tỷ USD vào ngày hôm nay. Điều này khiến Mỹ không thể tiếp cận được tới các thị trường trái phiếu. Bộ này cũng cho biết, Mỹ có khả năng trì hoãn nguy cơ vỡ nợ đến ngày 2/8 bằng cách dùng các nguồn tiền khác để trang trải cho các hoạt động chi tiêu. Tổng thống Obama cam kết giảm thâm hụt, nhưng khuyến khích kết hợp với việc nâng giới hạn nợ. Theo ông, việc nâng giới hạn nợ sẽ được thực hiện, tuy nhiên, Mỹ cũng cần thận trọng trong việc cắt giảm thâm hụt. Một báo cáo từ tổ chức nghiên cứu Third Way, dự kiến được công bố vào hôm nay, sẽ cho thấy sự ủng hộ của nhóm chuyên gia này đối với cảnh báo của Tổng thống Barack Obama. Tổ chức này cho biết, Mỹ có thể sẽ lại rơi vào suy thoái nếu Washington không có hành động để nâng giới hạn trần nợ. Hậu quả có thể dẫn tới khoảng 640.000 việc làm biến mất, thị trường chứng khoán sụt giảm và hoạt động cho vay bị siết chặt. Phó Tổng thống Mỹ Joe Biden đang chủ trì các cuộc đàm phán giữa Nhà Trắng và các nhà lập pháp về cách thức cắt giảm thâm hụt ngân sách và nâng trần nợ. Ông cho biết, hai bên đã đạt được một số tiến triển nhưng vẫn còn quá sớm để lạc quan về thỏa thuận cuối cùng sẽ đạt được. Theo Reuters Tin dịch ================================== http://diendan.lyhocdongphuong.org.vn/bai-viet/7290-nhung-diem-bao/page__pid__125779__st__100#entry1257791 like
-
Thiên tai tăng nặng....... ======================= Động đất mạnh ngoài khơi Papua New Guinea, có cảnh báo sóng thần Thứ Hai, 16/05/2011 - 07:14 (Dân trí) - Papua New Guinea đã ban bố cảnh báo sóng thần cục bộ sau khi một trận động đất mạnh xảy ra ngoài khơi bờ biển nước này sáng nay. Chưa có thông tin về thiệt hại về người và vật chất ở đây, trong khi ngay trước đó là động đất ở Solomon. Papua New Guinea nằm trên vành đai lửa, thường xuyên xảy ra động đất. Trận động đất mạnh 6,5 độ richter xảy ra lúc 4h37 phút (giờ địa phương), cách Arawa, thủ phủ tỉnh Bougainville 122 km về phía tây, ở độ sâu 43km - Cơ quan khảo sát Địa chất Mỹ cho biết. Trung tâm Cảnh báo Sóng thần Thái Bình Dương khẳng định không có đe doạ về một trận sóng thần quy mô lớn với sức tàn phá mạnh, nhưng Cơ quan khảo sát Địa chất Mỹ nói trận động đất với cường độ mạnh như vậy có thể gây sóng thần dọc khu vực bờ biển trong bán kính 100km quanh tâm chấn. Theo ông Bill Yomba, một quan chức của Trung tâm Thảm hoạ Quốc gia Papua New Guinea, hiện chưa nhận được tin tức về thiệt hại sau trận động đất mạnh này. Trong khi đó, Trung tâm mạng lưới động đất Bắc Kinh cho biết sáng sớm nay, lúc 2h37 phút (giờ Bắc Kinh), một trận động đất mạnh 6,3 độ richter đã làm rung chuyển quần đảo Solomon. Động đất có tâm chấn ở độ sâu 40km. Nhật Mai Theo AP, Xinhua1 like
-
Xuất hiện video tuyên bố bin Laden vẫn còn sống - Suaramedia trích tuyên bố của một lãnh đạo Pakistan cho biết, trùm khủng bố Osama bin Laden vẫn còn sống và sống khỏe mạnh. Theo lời tư lệnh Wali Rahman - một chỉ huy của tổ chức Mujahideen ở Pakistan, thì Sheikh Osama bin Laden vẫn còn sống và tình trạng sức khỏe rất tốt. Video Wali Rahman tuyên bố thông tin trên được đăng tải trên một diễn đàn Ansar của người Hồi giáo và được BBC từ Ả Rập trích dẫn lại. Ông nói: "Mặc dù tôi không gặp trực tiếp Sheikh Osama, nhưng tôi có thể xác nhận rằng Sheikh Osama bin Laden vẫn còn sống và trong tình trạng tốt". Video nói tr vẫn chưa được xác minh. Trong video là cảnh một người đàn ông trông giống bin Laden bị thương ở chân và tay và đang được hai người khác giúp đỡ băng bó và không hề có vết thương trên trán. Địa điểm quay giống như trong một khu rừng. Xem Video Trước đó, hôm 2/5, không lâu sau tuyên bố của Tổng thống Obama về cái chết của trùm khủng bố, một đại diện cấp cao của Lực lượng Taliban thuộc nhóm "Tehrik-e-e Taliban Pakistan" ở Pakistan đã xuất hiện trên kênh truyền hình "Geo - TV" tuyên bố rằng bin Laden thực sự vẫn còn sống và cho rằng thông tin mà Mỹ đã đưa ra là tin "giả".Chính quyền của Tổng thống Obama cũng hai lần lên tiếng đính chính các thông tin sai lệch có liên quan tới cái chết của bin Laden. Những thông tin này cho rằng "quá vội vàng" khi tin bin Laden đã chết trong tình trạng không có vũ trang và dùng người vợ trẻ làm lá chắn. Cũng có tin nói rằng người vợ này vẫn còn sống, chỉ bị bắn vào chân. Tổng thống Obama đã từ chối công bố ảnh chụp thi thể của bin Laden sau khi chết vì cho rằng những hình ảnh này quá "khủng khiếp". Nguyễn Hường (Tổng hợp)1 like
-
Quán vắng!
+Achau+ liked a post in a topic by Thiên Sứ
Sự tự tin của quân đội Trung Quốc Tác giả: Rukmani Gupta Tuanvietnam.vn Bài đã được xuất bản.: 15/05/2011 06:00 GMT+7 Sách trắng quốc phòng Trung Quốc gần đây nhất cho thấy việc sẵn sàng sử dụng một quân đội đang được hiện đại họa để giải quyết các tranh chấp ngoại giao. Tháng 10 năm ngoái, Chủ tịch Hồ Cẩm Đào nói với Uỷ ban trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc rằng, nước này vẫn đang trong một giai đoạn "cơ hội chiến lược". Gần sáu tháng sau đó, điều này được sự nhất trí cao từ các nhà hoạch định quân sự khi thể hiện rõ ràng qua sách trắng quốc phòng. Sách trắng nhấn mạnh tầm quan trọng từ sức mạnh kinh tế đang trỗi dậy của Trung Quốc và dĩ nhiên không thiếu những lời thanh phiền về việc Mỹ bán vũ khí cho Đài Loan, việc Mỹ dính dáng vào châu Á - Thái Bình Dương và quyết định củng cố các liên minh quân sự của mình trong khu vực. Tuy nhiên, sách đưa ra đánh giá hết sức lạc quan về sức mạnh quốc gia chính là "kinh tế". Cũng không hẳn Trung Quốc không ý thức đầy đủ về những nguy cơ bắt nguồn từ tăng trưởng. Nhưng cũng không hề thấy ngạc nhiên khi Trung Quốc cảm thấy tự tin hơn bao giờ hết sau thành công vượt bậc về mặt kinh tế trong bối cảnh kinh tế toàn cầu suy giảm trong những năm gần đây. Sách trắng mới nhất lập luận rằng, "sức mạnh toàn diện của Trung Quốc đã bước sang một giai đoạn mới". Tuy nhiên, khác với cuốn sách trước, vốn chỉ đơn giản nhấn mạnh rằng, Trung Quốc "sẽ không tìm kiếm bá quyền hoặc tham gia mở rộng quân sự... bất kể phát triển thế nào". Tài liệu mới nhất nói rõ ràng hơn rằng: "Trung Quốc sẽ không bao giờ tìm kiếm bá quyền, cho dù phát triển kinh tế ra sao". Ảnh: Diplomat Cho dù có những khẳng định rõ ràng như vậy, Trung Quốc vẫn có sự tự tin mạnh mẽ khi đối mặt với những hoài nghi gia tăng về chính họ. Sách trắng nhấn mạnh: "các động thái can thiệp và chống lại Trung Quốc từ bên ngoài và gây áp lực với Trung Quốc xảy ra khi họ tìm kiếm cách bảo vệ quyền và lợi ích trên vùng lãnh thổ, vùng biển rộng lớn". Trước mắt, sách trắng đưa ra bốn sứ mệnh lớn với quốc phòng Trung Quốc: - Bảo vệ chủ quyền quốc gia, an ninh và lợi ích phát triển quốc gia. - Đảm bảo duy trì ổn định và hài hòa xã hội; - Đẩy mạnh hiện đại hóa quốc phòng và các lực lượng vũ trang; - Duy trì hòa bình và ổn định thế giới. Mặc dù không xuất hiện nhiều điểm mới mẻ, nhưng ở đây có những sự khác biệt thú vị trong tài liệu mới nhất so với các sách trắng trước đây. Ví dụ, về vấn bảo vệ lợi ích an ninh đất nước, không gian mạng lần đầu tiên được xem xét như một trọng điểm quốc phòng. Với việc tạo lập một hệ thống hoạt động chung được coi như đặc điểm chính của hiện đại hóa quân đội Trung Quốc (PLA), sách trắng lần này nhấn mạnh đến phát triển công nghệ thông tin. Tài liệu cũng khẳng định, Trung Quốc đã có thành tựu đáng kể trong phát triển cơ sở hạ tầng thông tin trong các lực lượng vũ trang, với tổng chiều dài "mạng lưới cáp quang truyền thông quốc phòng đã có sự tăng trưởng lớn". Theo sách trắng, PLA đã có tiến bộ lớn trong công cuộc hiện đại hóa và những gì họ mô tả là "thông tin hóa" các lực lượng của mình. Trong các năm trước, việc xây dựng các khả năng chiến đấu mới để thắng thế tỏng các cuộc chiến tranh địa phương - và tăng cường hỏa lực, tính linh động, khả năng bảo vệ và hỗ trợ cần thiết - được nhấn mạnh. Tài liệu mới nhất còn nhấn mạnh rằng, PLA đã phát triển những loại hình mới trong các lực lượng chiến đấu, tối ưu hóa tổ chức và cơ cấu, đẩy mạnh mã số hóa và nâng cấp vũ khí chiến đấu, triển khai những nền tảng vũ khí mới. Về tình hình cụ thể của các lực lượng, sự chuyển dịch của không quân PLA được cho là tập trung vào phòng không và tên lửa, việc đào tạo trong môi trường điện từ và những tình huống chiến thuật phức tạp được thực hiện. Với Hải quân PLA, tài liệu nhấn mạnh, việc hiện đại hóa lực lượng dường như liên quan tới yêu cầu "chiến lược phòng thủ ngoài khơi". Nhưng có lẽ là để khiêu khích các đối thủ của Trung Quốc, không có chi tiết chính xác về chiến lược này. Dù sao cũng có một điều rõ ràng là, PLA đang hướng tới những hconj lựa hậu cần mới để đảm bảo cho các sứ mệnh hàng hải mở rộng, trong khi tiếp tục đầu tư vào hệ thống hỗ trợ trên bờ. Với Lực lượng Nhị pháo PLA - trực tiếp dưới sự chỉ huy và kiểm soát của Quân ủy Trung ương và được xem là lực lượng nòng cốt cho răn đe chiến lược được gia tăng bốn khả năng gồm: phản ứng nhanh, thâm nhập, tấn công chính xác và gây tổn thất. Vậy làm thế nào để báo cáo tin rằng, các nỗ lực hiện đại hóa đang diễn ra? Một lần nữa, đánh giá đưa ra khác lạc quan. Ví dụ, báo cáo nói rằng đã có sự "tham gia đáng kể các khả năng của PLQ trong các hoạt động diễn tập tầm xa, liên khu vực, các chiến dịch hộ tống ở những vùng biển xa và những môi trường chiến trường phức tạp". Để né tránh những âm thanh báo động từ bên ngoài, lần đầu tiên, sách trắng giới thiệu một phần riêng biệt mang tên "Xây dựng lòng tin quân sự", tập trung vào sự tham gia của Trung Quốc trong các cuộc tham vấn chiến lược, những biện pháp xây dựng lòng tin ở các khu vực biên giới, hợp tác về an ninh hàng hải, tham gia các cơ chế an ninh khu vực và trao đổi quân sự. Đây không phải là lần đầu tiên những thông tin như vậy đưa ra trong một cuốn sách trắng, nhưng lần này, nó được trình bày một cách toàn diện. Vậy những gì có thể rút ra từ sách trắng mới nhất? Có lẽ quan trọng nhất, một lần nữa cần nhấn mạnh rằng, Trung Quốc đang ngày một tự tin về sức mạnh kinh tế và quân sự của mình, và thấy trước một môi trường quốc tế có lợi cho sự phát triển các tài sản vô hình và hữu hình của họ. Thái hai, đó là các khả năng trình diễn lực lượng, cùng với việc làm rõ sự tham gia của Trung Quốc trong các sứ mệnh LHQ, về vai trò "xây dựng" của họ trong an ninh khu vực và chỉ ra rằng, mục tiêu quốc phòng là "duy trì hòa bình và ổn định thế giới, với tư tưởng ngày càng sẵn ssangf đảm nhận một vai trò lãnh đạo trong các công việc toàn cầu. Thứ ba, tài liệu dường như nhấn mạnh quyền lực của đảng cầm quyền với các lực lượng vũ trang. Cuối cùng là đề cập cụ thể mang tên "Hệ thống luật pháp quân sự", nhấn mạnh tầm quan trọng của các hiệp ước quốc tế và các đạo luật nội địa liên quan với các lực lượng vũ trang Trung Quốc. Bất luận thế nào, báo cáo vẫn để lại ấn tượng rằng, Trung Quốc sẽ ngày càng dựa vào sức mạnh quân sự và kinh tế để giải quyết những tranh chấp ngoại giao. Và, thật mỉa mai, trong khi nỗ lực tăng cường lòng tin thông qua sự minh bạch hơn thì cuối cùng, Trung Quốc lại chỉ có thể đem lại một cái nhìn rõ ràng hơn về chính họ vốn khiến những nước khác lo lắng. * Rukmani Gupta là một chuyên gia nghiên cứu tại Viện Nghiên cứu và Phân tích Quốc phòng ở New Delhi. Thụy Phương (Theo diplomat) ================================================ Người Trung Quốc thì lúc nào mà chẳng tự tin. Ngay khi mới thành lập 1949 họ đã giải phóng Tây Tạng, 4 năm sau bụp Hoa Kỳ tại mặt trân Cao Ly, hơn 10 năm sau chiến với Ấn Độ tại Hymalaya, gần 20 năm sau tranh chấp biên giới với Liên Xô siêu cường bậc nhất nhì thế giới bấy giờ. Ấy là vào lúc kinh tế còn èo uột, vũ khí so với Hoa Kỳ và Liên xô cùng thời đại còn thuộc loại lạc hậu. Huống chi bi wờ có cả tên lửa đạn đạo, vệ tính nhân tạo, máy bay tàng hình, lại mới tậu cái tàu sân bay nữa mới ghê chứ. Họ tự tin cũng phải. Chỉ có mỗi cái khác nhau là thời thế không như trước.1 like -
Thiên tai tăng nặng.......... ========================= Mỹ lần đầu tiên mở đập cứu các thành phố dọc Mississippi khỏi lũ Chủ Nhật, 15/05/2011 - 09:04 (Dân trí) - Lần đầu tiên kể từ khi được xây cách đây 38 năm, cổng thoát lũ Morganza ở Louisiana chiều qua đã được quân đội Mỹ mở ra trong nỗ lực bảo vệ các thành phố lớn dọc sông Mississippi khỏi bị nhận chìm trong nước lũ. Dân Mỹ khốn đốn vì lũ lụt Đập thoát lũ Morganza được xây năm 1973 để kiểm soát lũ lụt. Hôm qua, công binh Mỹ đã bắt đầu mở một phần các cổng thoát lũ để giảm bớt tác động luồng nước của sông Mississippi có thể gây thiệt hại cho các thành phố quan trọng của tiểu bang Louisiana. Chỉ huy lực lượng công binh Mỹ nói việc mở cổng sẽ diễn ra từ từ để con người và động vật hoang dã có thời giờ rút khỏi vùng sẽ bị ngập nước.Công việc mở cửa đập thoát lũ Morganza không phải việc đơn giản. Từ lúc quyết định cho mở cổng cho đến khi thực sự mở cổng phải trải qua một quá trình nhiều bước. Có tất cả 125 cổng cho nên các quân nhân công binh mở trước một hai cổng để xem luồng nước đi ra sao. Sau khi mở cổng, 25.000 người và 11.000 cấu trúc sẽ bị ảnh hưởng trong tuần lễ sắp tới. Nước thoát ra sẽ tràn ngập gần 5.000 km vuông đất đai. Nhưng nếu không mở cổng để lái dòng nước sông Mississippi đang dâng cao, nước sẽ nhận chìm hai thành phố lớn nhất của Louisiana là Baton Rouge và New Orleans. Đập thoát lũ Morganza được xây năm 1973 để kiểm soát lũ lụt, là một thành phần của mạng lưới chống lũ lụt được xây dựng trong hang chục năm, sau khi có nạn lụt tai hại năm 1927 làm hơn 1.000 người thiệt mạng. Trận bão Katrina năm 2005 gây lụt lội và nhiều thiệt hại cho New Orleans, buộc hàng vạn người phải rời thành phố. Cho đến nay, New Orleans vẫn chưa trở lại như cũ, do đó nếu bị lụt lần nữa là cả một tai họa to lớn. Mực nước dâng cao ở vùng hạ nguồn sông Mississippi có thể gây rối cho hoạt động dầu khí trong khu vực và làm tê liệt hoạt động hàng hải của New Orleans, cảng lớn thứ 6 của Mỹ. Dù nước đã được lái sang hướng khác nhờ con đập Morganza, nước lụt từ sông Mississippi vẫn có thể gây trở ngại cho sinh hoạt năng lượng và hàng hải. Một số giới chức nói rằng đây là “trận lụt của thế kỷ”. Những phần đất ở thượng nguồn đã bị lụt lội, gây hư hại cho nhà cửa, mùa màng và thiệt hại cho hoạt động kinh doanh. Ngành bảo hiểm Mỹ nói rằng những thiên tai trong mùa Xuân năm nay, kể cả trận lụt này và những cơn bão xoáy kinh hoàng hồi tháng trước, đã gây thiệt hại kinh tế tới 5 tỷ USD. Trong lúc nước Sông Mississippi tiếp tục dâng cao trên đường chảy ra Vịnh Mexico, các giới chức nói rằng những hồ nuôi cá basa ở tiểu bang Mississippi có thể bị ngập lụt, gây nguy hại cho công nghiệp trị giá 200 triệu mỗi năm. Hà Khoa Theo Reuters, AP1 like
-
Thiên tai tăng nặng..... Hiện tượng động đất ở ba địa điểm cùng một lúc như thông tin dưới đây - đã được Thanhphuc xác định trước: http://diendan.lyhoc...ng/page__st__60 =====================================================Động đất xảy ra ở nhiều nơi trên thế giới 14/05/2011 12:45 (TNO) Sáng nay 14.5, một trận động đất mạnh 5,7 độ richter đã làm rung chuyển đảo Java thuộc Indonesia, theo Cơ quan khảo sát địa chấn Mỹ. AFP đưa tin, trận động đất xảy ra lúc 4 giờ 43 phút sáng nay (giờ địa phương, cùng giờ VN). Một số nơi trên thế giới đã hứng chịu nhiều trận động đất vào sáng nay 14.5 (giờ VN) - Ảnh: AFP Cùng ngày, tại Nhật Bản, một trận động đất mạnh 6,2 độ richter đã xảy ra gần bờ biển Honshu vào lúc 8 giờ 35 phút sáng (giờ địa phương, tức 6 giờ 35 phút, giờ VN). Cơ quan khảo sát địa chất Mỹ cho hay, trận động đất này có tâm chấn nằm ở độ sâu 37,6km. Không có cảnh báo sóng thần được đưa ra. Trước đó, tại Costa Rica, lúc 16 giờ 47 phút chiều 13.5, (giờ địa phương, tức 5 giờ 47 phút, sáng nay 14.5, giờ VN), một trận động đất đã làm rung chuyển một vùng cách thủ đô San Jose khoảng 25km. Reuters dẫn thông tin từ Cơ quan khảo sát địa chất Mỹ, trận động đất này có cường độ 6 độ richter. Đối với cả 3 trận động đất kể trên, hiện chưa có thông tin thiệt hại gì về người và của. Vài ngày trước đó, hai trận động đất xảy ra liên tiếp ở Tây Ban Nha đã làm 8 người thiệt mạng. Huỳnh Thiềm1 like
-
Trả lời các câu hỏi trọng tâm Bài 3 : ( Ðây chỉ là điều giải thích qua trình độ hiểu biết về Vật Lý thiên văn của riêng tôi tại thời điểm này, có gì chưa đầy đủ xin mọi người đóng góp thêm). (Câu hỏi 2 và 3 của Bài 1). 2 – Theo bạn khái niện Lỗ đen và Lỗ trắng để giải thích sự tồn tại vĩnh hằng của Vũ Trụ có tính thuyết phục (hợp lý) hay không? 3 – Âm Dương Ngũ Hành là các tiên đề trong mệnh học Ðông Phương có hợp lý không? Tạm thời chúng ta hãy suy nghĩ thật đơn giản là khi các ngôi sao như mặt trời của chúng ta đang không ngừng đốt cháy nhiên liệu của nó để tạo ra ánh sáng (là một dạng của năng lượng) thì dĩ nhiên đến một lúc nào đó số nhiên liệu dùng để cháy của nó rồi phải hết. Khi đó mặt trời hết cháy, hết chiếu sáng là một điều ai cũng có thể tin được. Vậy thì thử hỏi với thời gian là vô tận thì tại sao tới bây giờ vẫn còn ti tỷ ngôi sao (như mặt trời) vẫn còn cháy tỏa ánh sáng vào vũ trụ rộng mênh mông mà hàng đêm chúng ta vẫn nhìn thấy ? Ðể trả lời câu hỏi này thì dĩ nhiên chúng ta phải đặt vấn đề là nếu có một nơi phát ra năng lượng (như ánh sáng) thì phải có một nơi thu (hút) năng lượng lại (kể cả ánh sáng), để mà rồi lại tạo ra mặt trời mới hợp lý được chứ. Mà một vật thể thu (hút) được cả ánh sáng thì làm sao chúng ta có thể nhìn thấy được nó. Chính lý do này mà người ta không nhìn thấy nó nhưng người ta có thể xác định được nó là có thực và đang tồn tại trong vũ trụ thông qua lực hấp dẫn của nó qua các vật thể (trong đó có các ngôi sao) đang quay quanh nó theo các quỹ đạo khác nhau. Chính vì vậy mà người ta gọi vật thể này là Lỗ đen. Chúng ta suy luận tiếp, về logic thì không có vật thể nào có thể Hút được mọi vật mãi mãi, cũng như không thể có mặt trời nào cháy được mãi mãi. Do vậy để giải quyết điều này thì người ta phải đưa ra khái niện Lỗ trắng là một vật thể Phun ra vật chất và năng lượng. Dĩ nhiên là Lỗ đen và Lỗ trắng phải cùng là một vật thể chứ không thể là hai vật thể khác nhau được. Ðể giải thích vì sao Lỗ trắng lại xuất hiện thì chúng ta cứ nghĩ đơn giản là nó Hút (ăn) mãi rồi thì nó phải Bội Thực (tức quá lo) nên Phun ra để bảo toàn Mạng sống của nó nếu không thì Vỡ Bụng mà chết mất, có vậy thôi. Trong cái bụng Bội Thực của nó mọi thứ vật chất và năng lượng (như ánh sáng) hòa lần với nhau trở thành một nồi Súp chất lỏng, khi Phun ra dĩ nhiên sẽ có cả khối lượng (vật chất) và năng lượng. Một phần khối lượng (vật chất) đặc biệt có thể cháy đã tạo ra các ngôi sao. Hiện tại các nhà Vật Lý có đưa ra lý thuyết “Ðường hầm lượng tử“ gì đó, nói rằng vật chất bị Lỗ đen Hút sẽ chạy qua một đường hầm để tới đầu bên kia thì được Phun ra nhờ Lỗ trắng. Theo tôi điều này vô lý bởi vì nếu như vậy thì chúng ta sẽ nhìn thấy Lỗ trắng này luôn Phun ra vật chất từ một điểm cố định trong vũ trụ. Nếu đúng như vậy thì làm sao người ta giải thích được mọi vật thể trong vũ trụ hiện đang giãn nở ra theo hướng càng xa nhau hơn theo mọi hướng chứ không phải xuất phát từ một điểm nào đó trong vũ trụ mà chỉ bay theo một hướng. Một bản đồ của bức xạ nền vũ trụ (CMB) trong vũ trụ với những hình tròn có thể biểu hiện các sự kiện diễn ra trước vụ nổ Big Bang. Ảnh: Daily Mail. Mỗi vòng tròn đồng tâm trên bản đồ bức xạ nền vũ trụ (CMB) ở trên có thể hiểu là nó tương ứng với một lần Lỗ đen biến thành Lỗ trắng. 2 - Bạn có biết người Ðông Phương (các thầy thuốc Ðông y) đã dùng học thuyết Âm Dương Ngũ Hành này vào chữa bệnh cho con người từ bao giờ ? Cổ nhất có bộ y thư “Hoàng Đế Nội Kinh Tố Vấn“ cách đây khoảng 3 đến 4 nghìn năm. “Định mệnh có thật hay không Phần 18 Thứ ba 20/05/2008 12:00:00 (GMT +7) Tác giả: Nguyễn Vũ Tuấn Anh Nguồn: Trung tâm nghiên cứu Lý học Đông Phương * Chú thích: Hoàng Đế-có niên đại ước tính hơn 3000 năm trước CN. “Trên thực tế, Hoàng Đế nội kinh trong lịch sư Trung Quốc đối với văn hoá Hán học có ảnh hưởng sâu sắc không thể mất đi, nó cấu thành một truyền thống văn hoá Trung Hoa. Nếu như truyền thống văn hoá thiếu khuyết phần này, chúng ta không thể tưởng tượng tình cảnh của nó vô lý đến mức nào. Thậm chí ở Trung Quốc cổ đại, người ta còn đem Hoàng Đế Nội Kinh với Đạo Đức kinh của Lão Tử, Nam Hoa kinh của Trang Tử, Chu Dịch ra so sánh với nhau, mọi người không chỉ xem nó là một cuốn sách ý học bình thường. Người xưa xem Hoàng Đế Nội Kinh là: “Thượng cùng ở Trời hạ cực ở Đất, xa xét vạn vật, gần nắm bản thân, biến đối khó lường”. cơ hồ như mọi việc trời đất không gì là không bao lấy”.(**) ** Chú thích: Trích dẫn trong “Hoàng Đế nội kinh và suy đoán vận khí”. Đàm Hiền Mậu biên soan. Nxb Văn Hoá Thông Tin 1998 Trong cuốn “Hoàng Đế nội kinh tố vấn” hoàn toàn sử dụng phương pháp luận của thuyết Âm dương Ngũ hành. Để chứng tỏ điều này, xin bạn đọc xem đoạn sau đây trong phần Lục Nguyên chính kỷ đại luận: “ Trước lập năm ấy, lấy tỏ khí ấy, số của vận hành của Kim, Mộc, Thuỷ, Hoả, Thổ. Là lạnh, nóng khô, ẩm gió, hoả đến ngự thì đạo trời có thể thấy, dân khí có thể điều, Âm dương co duỗi, gần mà không cảm, có thể đếm số ấy”. Bạn đọc có thể tìm thấy dấu ấn của Thuyết Âm dương Ngũ hành và phương pháp luận của nó trong khắp cuốn sách, tự thân nội dung của nó đã chứng tỏ thuyết Âm dương Ngũ hành đã được ứng dụng từ thời Hoàng Đế (khoảng 3.000 năm tr.C.N). Nhưng các nhà nghiên cứu hiện đại lại cho rằng: Cuốn Hoàng đế nội kinh tố vấn ra đời vào thời Xuân Thu Chiến Quốc (?!). Đoạn sau đây được trích trong cuốn “Hoàng Đế Nội Kinh và suy đoán vận khí” (sách đã dẫn). “Hoàng Đế nội kinh được viết thành sách vào khoảng thời kỳ Xuân thu Chiến Quốc, nên trong sách tư tưởng chỉ là chủ nghĩa duy vật cổ đại, xuất phát từ quan niệm chỉnh thể và tổng kết của người xưa qua kinh nghiệm phong phú đấu tranh với bệnh tật, xây dựng nền cơ sở lý luận của y học Trung Quốc”. Như vậy, qua các đoạn trích dẫn trên bạn đọc cũng nhận thấy rằng: Nội dung của cuốn “Hoàng Đế nội kinh tố vấn” là sự ứng dụng của thuyết Âm dương và Ngũ hành đã có từ thời Hoàng Đế, tức là trước thời vua Đại Vũ phát hiện ra Lạc thư trên lưng rùa ghi dấu ấn của Ngũ hành hơn 1.000 năm. Các nhà nghiên cứu đã đặt thời điểm xuất hiện của cuốn sách này vào thời Xuân thu Chiến Quốc, tức là sau đó hơn 2000 năm so với thời điểm nội dung của nó (?). Và vấn đề cũng không dừng lại ở đây.“. 3 - Tại sao lại chỉ có 5 hành ? Bạn có thể Phát Minh ra hành thứ 6 được không (cùng với câu 3 của Bài 1) ? Tôi phải công nhận Âm Dương Ngũ Hành là các tiên đề trong cái Vũ Trụ này bởi vì tôi không thể tìm được hành thứ 6 và theo tôi Âm Dương - “Là cặp phạm trù đối lập“ - một khái niệm đặc trưng của vật chất, còn Ngũ Hành đại diện cho 5 dạng vật chất cấu tạo nên Vũ Trụ này.1 like
-
Bài 3 : Học thuyết Âm Dương và Ngũ Hành Chương 2 Học thuyết Âm Dương và Ngũ Hành (Theo tôi trong toán học có các tiên đề thì Âm Dương Ngũ Hành chính là các tiên đề trong mệnh lý học Ðông Phương - xem phần II và III của Phụ Lục). Thiên Sứ đã viết trên trang web vietlyso.com: “ ...Chúng ta thấy trong nền văn minh Đông phương cổ đại đã tồn tại những lời tiên tri đầy huyền bí nói về số phận từng con người, của cả một thành phố, cả những quốc gia hay thậm chí của cả thế giới. Những phương pháp bói toán, tiên tri phổ biến của nền văn minh này hầu hết đều có phương pháp luận của nó. Thật kỳ lạ thay ! Có một hệ thống lý thuyết vũ trụ - nền tảng của những phương pháp luận cho những lời bói toán huyền bí ấy - lại không coi sự khởi nguyên của vũ trụ bắt đầu từ ý thức của Đức Chúa Trời mà chính là thuyết Âm Dương Ngũ Hành...“. Học thuyết Âm Dương - Ngũ Hành mà phương pháp tính điểm hạn của cuốn sách này áp dụng sẽ cho mọi người biết Định Mệnh là có thật (tức con người hay vạn vật đều có Số Mệnh), nhưng Số Mệnh này không phải do Đức Chúa Trời quyết định mà là do Âm Dương Ngũ Hành quyết định. Chính vì vậy không có lý do gì mà con người lại không thể lấy chính âm dương ngũ hành để khống chế lại chúng để thay đổi định mệnh, nhằm mục đích mang lại lợi ích cho con người (xem ví dụ 27 và 150). I - Học thuyết Âm Dương Khái niệm Âm và Dương như mọi người hiểu đơn giản là hai trạng thái luôn đối lập nhau như có bên phải thì phải có bên trái, tốt với xấu, trắng với đen, giống đực với giống cái, cứng với mềm... Họ đã xác định âm và dương cho các can và chi như sau: Các thiên can có dấu dương là Giáp, Bính, Mậu, Canh, Nhâm. Các địa chi ............................Tý, Dần, Thìn, Ngọ, Thân, Tuất. Các thiên can có dấu âm là Ất, Đinh, Kỷ, Tân, Quý. Các địa chi .................... Sửu, Mão, Tị, Mùi, Dậu, Hợi. Còn hiểu theo sách mệnh học cổ truyền của Phương Đông thì sự hình thành, biến hóa và phát triển của vạn vật đều do sự vận động của hai khí Âm và Dương. Vì mặc dù Âm và Dương là hai mặt đối lập với nhau nhưng chúng lại có sự thống nhất với nhau. Chính sự thống nhất này sau đó mới có thể có sự biến hóa để thành vạn vật. Như âm đến cùng cực thì sinh dương, dương đến cùng cực thì sinh âm.... (Ðể hiểu rõ hơn về Học thuyết Âm Dương và Ngũ Hành xin độc giả xem phần III của Phụ Lục – Âm Dương Ngũ Hành là các tiên đề trong mệnh học Ðông Phương). Ví dụ : Trong thực tế có thể coi năng lượng và khối lượng là hai trạng thái âm và dương của vật chất (tương tự như nước dưới sự tác động của nhiệt độ nó ở 3 trạng thái là rắn, lỏng và hơi, trong đó trạng thái rắn và lỏng được xem là 1 trạng thái) mà ngày nay các nhà vật lý đã biến được khối lượng thành năng lượng và trong thời gian tới nhờ cỗ máy LHC ở Thụy Sĩ các nhà vật lý sẽ thành công trong việc biến năng lượng thành khối lượng theo đúng phương trình mà năng lượng và khối lượng chuyển hóa cho nhau của nhà bác học thiên tài Albert Einstein: E = mc² ( trong đó E là năng lượng, m là khối lượng, c là vận tốc ánh sáng). Chính có phương trình nổi tiếng này mà câu đầu tiên của Kinh Thánh “ Ban đầu Đức Chúa Trời đã (dùng sức mạnh vô biên của mình) dựng nên trời đất (vũ trụ trong đó có trái đất) “ (Sáng - thế Ký 1 : 1) đã đúng trên quan điểm khoa học. Vậy đã có cuốn sách nào cổ hơn cuốn Kinh Thánh nói đến sự hình thành vũ trụ và trái đất của chúng ta từ năng lượng như vậy. II - Học thuyết Ngũ Hành 1 – Ngũ hành Chúng ta thấy hầu như mọi hiện tượng đã và đang diễn ra xung quanh chúng ta đều tuân theo một quy luật của vòng tròn khép kín. Ví dụ : Con người cũng như loài động vật cùng với loài thực vật tạo thành một quy trình khép kín như : Cây cung cấp ô xy, hoa quả rau xanh, củ, hạt …cho người và động vật , còn người và động vật cung cấp CO 2, phân…..cho loài thực vật. Ngay cả sự sống và cái chết của mọi sinh vật cũng tuân theo quy luật của vòng tròn khép kín này. Ví dụ : Con người được đầu thai sau đó được sinh ra lớn lên, trưởng thành, già rồi chết, sau đó xác chết bị phân hủy thành các thành phần của đất nuôi cho cây phát triển. Một phần thực vật này được con người ăn tạo thành các thai nhi và các thai nhi này lại phát triển .….. Để diễn tả các quy luật này cũng như mọi quy luật trong vũ trụ Họ đã đưa ra 5 hành, tức là 5 loại nguyên tố (vật chất) cơ bản đã cấu tạo nên mọi vật có trong trái đất và vũ trụ như sau : 1 - Kim đặc trưng cho kim loại. 2 - Thủy đặc trưng cho nước. 3 - Mộc đặc trưng cho loài thực vật. 4 - Hỏa đặc trưng cho lửa. 5 - Thổ đặc trưng cho đất . 2 – Tính chất tương sinh của ngũ hành a - Tính chất tương sinh . Theo sách cổ thì Kim sinh cho Thủy, Thủy sinh cho Mộc, Mộc sinh cho Hỏa, Hỏa sinh cho Thổ, Thổ sinh cho Kim rồi lại nặp lại vòng tuần hoàn Kim sinh cho Thủy,......... . Ở đây chỉ có Kim sinh Thủy là có vẻ vô lý (bởi vì chúng ta đang sống trong môi trường nhiệt độ thấp nên không thấy khi Kim ở nhiệt độ cao cũng sẽ chẩy thành nước - chất lỏng (một dạng của nước, phải thừa nhận)). Sơ đồ tương sinh của ngũ hành : b – Tính chất phản sinh : Như Kim sinh ra Thủy, nó nghĩa là Kim loại bị nung nóng sẽ chẩy thành nước, nhưng nước nhiều thì Kim không những không sinh được cho Thủy mà còn bị chìm xuống, vì vậy nó được gọi là phản sinh (phải thừa nhận). Thủy sinh Mộc, nó nghĩa là không có nước thực vật làm sao mà sống để lớn lên được, nhưng nước nhiều quá cây bị úng lụt mà chết cũng gọi là phản sinh. Mộc sinh Hỏa, nó nghĩa là gỗ làm cho lửa cháy to hơn, nhưng hỏa mạnh quá sẽ làm cho Mộc ra tro, vì vậy nó cũng được gọi là phản sinh. Hỏa sinh Thổ, nó nghĩa là Hỏa cháy thành tro tàn là Thổ đất, nhưng Thổ nhiều sẽ làm cho Hỏa tắt; vì vậy nó cũng được gọi là phản sinh. Thổ sinh Kim, nó nghĩa là quặng trong đất khi bị nung sẽ chẩy ra kim loại, nhưng nếu có Kim quá nhiều thì Thổ bị đè ép không thể sinh cho Kim được, vì vậy nó cũng được gọi là phản sinh (phải thừa nhận). 3 – Tính chất tương khắc của ngũ hành a – Tính chất tương khắc : Như Kim khắc được Mộc, Mộc khắc được Thổ, Thổ khắc được Thủy, Thủy khắc được Hỏa, Hỏa khắc được Kim, rồi lại nặp lại vòng tuần hoàn Kim khắc Mộc,..... Sơ đồ tương khắc của ngũ hành Qua sơ đồ ta thấy tính chất tương khắc của ngũ hành là cách 1 ngôi so với tính chất tương sinh . b – Tính chất phản khắc : Như Kim khắc Mộc, kiếm, dao chặt đứt được cây, nếu kim loại mềm yếu mà cây cứng như Lim, Sến …thì dao, kiếm sẽ bị mẻ, gẫy tức là bị phản khắc. Mộc khắc Thổ (Thổ là đất), cây mọc lên tất đất sẽ bị bạc mầu, nhưng đất cứng quá cây không đâm được rễ xuống đất tất dễ chết cũng gọi là phản khắc. Thổ khắc Thủy, đất có thể đắp thành đê, đập để trặn được nước, nhưng nước nhiều quá đất sẽ bị trôi dạt (vỡ đê), tức là bị phản khắc. Thủy khắc Hỏa, nước có thể dập tắt được lửa, nhưng lửa quá mạnh mà nước thì ít tất sẽ bị bốc hơi, cũng là bị phản khắc. Hỏa khắc Kim, hỏa làm cho sắt nóng chẩy, nhưng sắt nhiều quá mà lửa nhỏ tất dễ bị tắt, cũng gọi là phản khắc. III - Đại diện của ngũ hành và can chi 1 – Ngũ hành đại diện cho các mùa a - Mộc đại diện cho mùa Xuân b - Hỏa đại diện cho mùa Hạ c – Kim đại diện cho mùa Thu d - Thủy đại diện cho mùa Đông 2 – Can chi đại diện cho các hành Giáp, Ât, Dần, Mão đại diện cho hành Mộc Bính, Đinh, Tị, Ngọ đại diện cho hành Hỏa Mậu, Kỷ, Thìn, Tuất, Sửu, Mùi đại diện cho hành Thổ Canh, Tân, Thân, Dậu đại diện cho hành Kim Nhâm, Quý, Hợi, Tý đại diện cho hành Thủy 3 – Can chi đại diện cho mầu sắc Giáp , Ât , Dần và Mão là Mộc đại diện cho mầu xanh. Bính, Đinh, Tị và Ngọ là Hỏa đại diện cho mầu đỏ. Mậu, Kỷ, Thìn, Tuất, Sửu và Mùi là Thổ đại diện cho mầu vàng. Canh, Tân, Thân và Dậu là Kim đại diện cho mầu trắng. Nhâm, Quý, Hợi và Tý là Thủy đại diện cho mầu đen 4 – Can chi đại diện cho các bộ phận trong cơ thể con người Giáp, Ât, Dần, Mão (Mộc) đại diện cho các bộ phận trong cơ thể con người là gan, mật, thần kinh, đầu, vai, tay, ngón tay ……. Bính, Đinh, Tị, Ngọ (Hỏa) đại diện cho các bộ phận tim, máu, ruột non, trán, răng, lưỡi, mặt, yết hầu, mắt …… Mậu, Kỷ, Thìn, Tuất, Sửu, Mùi (Thổ) đại diện cho dạ dầy, lá lách, ruột già, gan, bụng, ngực, tỳ vị, sườn …… Canh, Tân, Thân, Dậu (Kim) đại diện cho phổi, máu, ruột già, gân, bắp, ngực, khí quản ……... Nhâm, Quý, Hợi, Tý (Thủy) đại diện cho thận, bàng quang, đầu, bắp chân, bàn chân, tiểu liệu, âm hộ, tử cung, hệ thống tiêu hóa, …….. 5 - Can chi và ngũ hành đại diện cho các phương. Sơ đồ của các can, chi và ngũ hành đại diện cho các phương như sau: Giáp, Ât, Dần và Mão là Mộc đại diện cho phương Đông. Bính, Đinh, Tị và Ngọ là Hỏa đại diện cho phương Nam. Mậu và Kỷ không ở phương nào cả mà đại diện cho trung tâm. Thìn đại diện cho phương Đông Nam. Tuất đại diện cho phương Tây Bắc. Sửu đại diện cho phương Đông Bắc. Mùi đại diện cho phương Tây Nam. Canh, Tân, Thân và Dậu là Kim đại diện cho phương Tây. Nhâm, Quý, Hợi và Tý là Thủy đại diện cho phương Bắc. 6 – Can chi đại diện cho nghề nghiệp Giáp, Ât, Dần và Mão là Mộc đại diện cho các nghề sơn lâm, chế biến gỗ, giấy, sách báo, làm vườn, trồng cây cảnh, phục trang, dệt, đóng thuyền …… Bính, Đinh, Tị và Ngọ là Hỏa đại diện cho các nghề thuốc súng, nhiệt năng, quang học, đèn chiếu sáng, xăng dầu, cao su (xăm lốp ,dây đai ,nhựa cây), các sản phẩm đồ điện, vật tư hóa học, luyện kim, nhựa đường ….. Mậu, Kỷ, Thìn, Tuất, Sửu và Mùi là Thổ đại diện cho các nghề chăn nuôi , nông nghệp, khai khẩn đồi núi, giao dịch về đất đai, buôn bán địa ốc, phân bón, thức ăn gia súc, khoáng vật, đất đá, gạch ngói, xi măng, đồ gốm, đồ cổ, xây dựng, ….. Canh, Tân, Thân và Dậu là Kim đại diện cho các nghề vàng bạc, châu báu, khoáng sản, kim loại, máy móc, thiết bị nghiên cứu hóa học, thủy tinh, các công cụ giao thông …… . Nhâm, Quý, Hợi và Tý là Thủy đại diện cho các nghề nước giải khát, hoa quả, đồ trang sức mỹ nghệ, hóa phẩm mỹ dụng, giao thông vận tải, vận chuyển hàng hóa, chăn nuôi thủy sản, mậu dịch, du lịch, khách sạn, buôn bán ,…. Người Trung Quốc từ xa xưa đã dùng lịch Can Chi để xác định các mốc thời gian trong cuộc sống hàng ngày. Từ đó tại thời điểm của mỗi người khi sinh ra được xác định bởi bốn thông tin của lịch Can Chi. Đó chính là bốn tổ hợp can chi của năm, tháng, ngày và giờ sinh mà chúng được gọi là Tứ Trụ hay mệnh của người đó. Ví như một cái nhà được xây dựng lên bởi bốn cái cột, nếu bốn cái cột này đều nhau và vững chắc, nghĩa là các hành Kim, Thủy, Mộc, Hỏa và Thổ trong tứ trụ là tương đối bằng nhau thì người đó cả cuộc đời thường là thuận lợi, còn nếu bốn cột không điều nhau, tức ngũ hành quá thiên lệch, tất dễ đổ nhà - cuộc đời dễ gặp tai họa. Cách đây ba bốn nghìn năm con người đã biết sử dụng lý thuyết này để phòng và chữa bệnh. Ví dụ những ai trong mệnh (tứ trụ) mà ngũ hành thiếu Mộc mà lại cần Mộc, thì đầu tiên cần đặt tên mang hành Mộc và nên sống ở về phía Đông so với nơi mình được sinh ra, vì đó là phương Mộc rất vượng (tức là Mộc nhiều). Sau khi trưởng thành cũng nên làm những nghề liên quan đến hành Mộc, thêm nữa nên mặc quần áo mang hành Mộc (xanh). Nếu làm như vậy thì sẽ có một phần Mộc được bổ xung cho tứ trụ. Còn khi bị bệnh do hành Mộc thiếu thì thầy thuốc sẽ căn cứ vào sự thiếu nhiều Mộc hay ít để bốc thuốc mang hành Mộc cho phù hợp với sự thiếu Mộc đó. Được như vậy cuộc đời người đó thường gặp thuận lợi rất nhiều hay dễ khỏi bệnh. Các hành khác cũng suy luận tương tự như vậy. IV - Lệnh tháng và các trạng thái A - Lệnh tháng Một điều tối quan trọng trong môn Tứ Trụ là chi của tháng sinh được gọi là lệnh tháng, vì nó quyết định sự vượng suy của mọi can và chi trong tứ trụ, cũng như độ mạnh yếu giữa 5 hành với nhau. Tại sao lệnh tháng lại quan trọng đến như vậy? Kim, Mộc, Thủy, Hỏa và Thổ trong tứ trụ có liên quan với tháng sinh như thế nào? Theo môn Tứ Trụ thì vào các tháng mùa hè hành Hỏa là mạnh nhất (hay vượng nhất) so với các hành khác, vì vậy ai được sinh ra vào mùa hè mà trong tứ trụ lại có nhiều can và chi là Bính, Đinh, Tỵ, Ngọ thì dĩ nhiên hành Hỏa quá vượng còn các hành khác thì lại quá yếu. Những người như vậy thường nhẹ thì ốm đau bệnh tật liên miên, nặng thì đoản thọ ......Các mùa khác cũng tương tự như vậy. Như mùa đông giá lạnh thì hành Thủy là vượng nhất, mùa xuân thì hành Mộc là vượng nhất, mùa thu thì hành Kim là vượng nhất. Nhưng giả sử sinh vào mùa hè, hỏa là vượng nhất nhưng tứ trụ lại ít can chi hành hỏa hoặc có can chi hành Thủy như Nhâm, Quý, Tý, Hợi thì không xấu. Nghĩa là căn cứ theo lệnh tháng để biết độ vượng suy của các can chi trong tứ trụ, sau đó tổng hợp xem độ lớn giữa các hành chênh lệch nhau như thế nào, từ đây mới có thể dự đoán được vận mệnh của con người. B - Các trạng thái Để giải quyết vấn đề này người ta đã xác định trạng thái vượng suy của các can chi theo các tháng trong một năm theo bảng sinh vượng tử tuyệt cũng như ý nghĩa của các trạng thái đó như sau: 1 - Trường sinh có nghĩa là vật hay con người mới sinh ra từ 0 đến 5 tuổi. 2 - Mộc dục chỉ vật hay con người đã bắt đầu phát triển xong vẫn còn yếu đuối, như trẻ em mới đi học tiểu học và trung học từ 5 đến 16 tuổi . 3 – Quan đới chỉ vật hay con người đã trưởng thành , như trẻ em đang ở tuổi thanh niên đang học đại học hay nghiên cứu sinh từ 16 đến 30 tuổi . 4 - Lâm quan chỉ vật hay sự nghiệp và sức khỏe của con người đã đạt tới sự hoàn thiện, vững chắc, như con người đang ở tuổi trung niên từ 30 đến 45 tuổi. Ngoài ra lâm quan còn là trạng thái Lộc của Nhật Chủ (nó nghĩa là đó là nơi quy tụ bổng lộc hay sự may mắn do vua, cấp trên... hay do ông trời, các thần linh, tổ tiên.... phù hộ, giúp đỡ cho). 5 – Đế vượng chỉ vật hay con người đã đạt tới giai đoạn cực thịnh như công đã thành danh đã toại, như con người ở lứa tuổi 45 đến 60. Ngoài ra đế vượng còn là trạng thái Kình Dương của Nhật Chủ (nó nghĩa là khi con người đã đạt tởi đỉnh cao của quyền lực, hay danh vọng thì dễ kiêu căng, hống hách, lạm dụng quyền lực...vì vậy người đó dễ bị tai họa như tù tội, phá sản, bại quan, bệnh tật, tai nạn, chết ...). 6 – Suy chỉ vật hay con người đã qua thời kỳ cực thịnh thì tất phải đến thời kỳ suy yếu đi, như con người ở lứa tuổi 60 đến 70. 7 - Bệnh chỉ vật hay con người đã đến thời kỳ hỏng hóc hay bệnh tật, như con người ở lứa tuổi 70 trở ra. 8 - Tử chỉ vật hay người bị hỏng hay chết. 9 - Mộ chỉ vật hay người mang vất đi hay chôn xuống đất đắp đất nên thành cái mộ (chỉ còn lại linh hồn) . 10 - Tuyệt chỉ vật hay người bị phân hủy thành đất . 11 – Thai chỉ vật hay con người đang được hình thành từ một số yếu tố vật chất nào đó, như linh hồn đã thụ khí thành thai nhi trong bụng mẹ . 12 - Dưỡng là chỉ vật hay người đang trong thời gian chế tạo, nắp ráp để đến khi nào hoàn thiện thì mới xuất xưởng được, như thai nhi phải đủ 9 tháng 10 ngày mới ra đời thành con người. Bảng sinh vượng tử tuyệt Qua bảng này ta thấy 5 can và 6 chi dương cũng như 5 can và 6 chi âm có cùng hành nhưng độ vượng suy của chúng theo các tháng trong một năm là khác nhau. Như Giáp và Dần là Mộc, chúng ở trạng thái trường sinh trong tháng Hợi, trạng thái Mộc dục trong tháng Tý, ....... trạng thái Mộ trong tháng Mùi, ......... . Nhưng Ất và Mão cũng là Mộc nhưng chúng ở trạng thái tử trong tháng Hợi, trạng thái Bệnh trong tháng Tý,....... trạng thái Đế vượng trong tháng Dần,...... . Từ bảng sinh vượng tử tuyệt này người ta đã gọi các trạng thái theo tháng sinh (thường được gọi là theo lệnh tháng) từ Trường sinh tới Đế vượng là vượng (thường được gọi là được lệnh), còn các trạng thái từ Suy đến Dưỡng là suy nhược, hưu tù... (thường được gọi là thất lệnh). Ví dụ: Giáp hay Dần trong tứ trụ mà sinh vào các tháng từ Hợi tới Mão là được lệnh (vượng), còn sinh vào các tháng từ Thìn đến Tuất là thất lệnh (suy nhược, hưu tù). Ví dụ: Ất hay Mão trong tứ trụ sinh vào các tháng từ Dần đến Ngọ là được lệnh (vượng), còn sinh vào các tháng từ Mùi đến Sửu là thất lệnh (suy nhược, hưu tù). Các can chi khác cũng xác định tương tự như vậy. Các câu hỏi trọng tâm : 1 – Câu hỏi 2 và 3 của Bài 2. 2 - Bạn có biết người Ðông Phương (các thầy thuốc Ðông y) đã dùng học thuyết Âm Dương Ngũ Hành này vào chữa bệnh cho con người từ bao giờ ? 3 - Tại sao lại chỉ có 5 hành ? Bạn có thể Phát Minh ra hành thứ 6 được không ?1 like
-
Trả lời các câu hỏi trọng tâm bài 1: 1 - Bạn hãy thử chứng minh học thuyết Âm Dương Ngũ Hành cùng với bảng Nạp Âm sáu mươi năm Giáp Tý (hoàn toàn theo nhận thức đã có của bạn không dựa theo nội dung bài viết trên) là do người Trung Quốc nói riêng hay của người trên trái đất chúng ta nói chung phát minh ra chứ không phải do những người thuộc nền văn minh ngoài trái đất tặng. Nếu muốn chứng minh được Học thuyết Âm Dương Ngũ Hành là của người Trung Quốc phát minh ra thì phải trả lời được ít nhất các câu hỏi sau: a - Dựa trên nền tảng nào người Trung Quốc đã nạp âm cho các tổ hợp của bảng 60 năm Giáp Tý ? b - Dựa trên nền tảng nào người Trung Quốc xác định bắt đầu khởi của năm Giáp Tý và ngày Giáp Tý ? Trang 272, cuốn Dự Ðoán Theo Tứ Trụ - in năm 2002, cụ Thiệu Vĩ Hoa đã viết: “Trong bảng sáu mươi năm Giáp Tý, căn cứ theo nguyên tắc gì để nạp âm ngũ hành? Người xưa tuy có bàn đến nhưng không có căn cứ rõ ràng và cũng chưa bàn được minh bạch, do đó vẫn là huyền bí khó hiểu. Bảng 60 năm Giáp Tý biến hóa vô cùng, cho đến nay đối với giới học thuật của Trung Quốc đó vẫn còn là một bí ẩn”. Ðây chính là một trong các bằng chứng để chứng minh rằng bảng nạp âm sáu mươi năm Giáp Tý không phải do người Trung Quốc phát minh ra. Mọi người rõ ràng biết tác giả của cuốn sách này còn sống và bản dịch tiếng Việt này đã được dịch từ nguyên bản tiếng Tầu của cụ Thiệu (trên mạng tiếng Tầu cũng có) vây mà nick oaihuong trong chủ đề: “Giải đáp các thắc mắc về nội dung khóa học Tứ Trụ sơ cấp và trung cấp“ đã viết: “… nhưng mà em nói bác nghe, coi chừng sách in năm 2002 là sách giả đó bác, dạo sau này nhiều người viết vô sách của Thiệu VH, rồi cho là của Thiệu VHoa để bán, vì ông TVH nổi tiếng quá, người ta ăn ké.... em thì em nửa tin nửa ngờ ghê lắm...“. Thật tình không hiểu nổi oaihuong là người như thế nào nữa. Chả nhẽ coi cô ta như được sinh ra và sống trong Rừng Già ở châu Phi vừa mới về Việt Nam chăng ? Mọi người đều biết rằng người Tầu có một lòng tự hào dân tộc rất cao. Một trong các cái tự hào nhất của họ là Kinh Dịch, Học thuyết Âm Dương Ngũ Hành, Bảng nạp âm 60 năm Giáp Tý…. Chính vì vậy trong lịch sử mấy nghìn năm qua họ đã dùng mọi cách có thể được, kể cả các cách đê hèn nhất để chứng minh cho thế giới thế giới biết rằng các tinh hoa này là của chính họ phát minh ra. Vậy mà oaihuong viết tiếp: “….còn cụ Thiệu đó không phải là người duy nhất để mà mình phải tin là ông ta nói cái gì cũng đúng, nên ông ta thắc mắc em cũng thấy là ... xạo.“. Ðến đây thì mọi người đã thừa hiểu mục đích mà oaihuong muốn viết là cố tình nói xằng, nói bậy, nói lấy được, nói không có một chút suy nghĩ gì cả. Ðiều này càng khẳng định ý của tôi đưa ra ở trên là đúng. Nhưng không nhẽ người ta chỉ đưa cô ta từ Rừng Già châu Phi về Việt Nam để nhằm mục đích này hay sao ? Chắc còn nhiều mục đích khác nữa. Chúng ta chờ đợi chút nữa rồi sẽ biết.. Chủ đề ĐÃ QUA BAO NHIÊU NGÀY ??? của Tuvinut trong mục Thiên văn Lịch pháp bên lyso.vn. “Thời điểm Mở Lịch là thời điểm thất tinh thẳng hàng trong thái dương hệ . Thất tinh là Mặt trời ,trái đất ,và các hành tinh Kim ,Mộc ,Thủy ,Hỏa,Thổ . Từ năm đầu tiên Giáp Tý ấy ,đến nay 2011 tân mão là năm thứ 10 155 928 năm. Tức từ đó đến nay ,Trái đất đang quay quanh Mặt trời vòng thứ 10 155 928 . Nếu coi ngày Giáp Tý ,ngày đông chí là ngày Mở Lịch của Năm Giáp Tý đầu tiên ấy, thì tính đến nay ,đến ngày 22-12-2010,ngày ất hợi ,là bao nhiêu Ngày ???. Tức trái đất đã tự quay quanh mình bao nhiêu vòng ??? Xin dành câu hỏi này cho Nhà Lịch PĐ và các quý vị . Tvn tính nhưng bị lệch khoảng hai chục ngày“. Vuivui đã viết (chủ đề: “Câu hỏi về âm dương ngũ hành“ của buiram trong mục Tử Vi bên tuvilyso.net): “Không có gì là khó khăn cả. Cũng chẳng phải lý luận sâu xa. Thiên can và địa chi là thước đo thời gian, khi phối can với chi lập thành lục thập hoa giáp, theo lẽ, phải lấy giáp tý khời đầu của bằng này. Vấn đề là dựa vào đâu mà người ta định năm giáp tý. Bởi vì vòng thời gian cứ 60 năm lại quay lại từ đầu. Phân biệt âm dương mỗi năm, nếu cứ bình thường thì chẳng ai để ý, năm nào cũng nhưu năm nào. Âm dương không phân biệt. Nhưng vào lý học đông phương, theo lịch pháp cũng như bói toán thì rất quan trọng. Phân biệt can chi là phân biệt âm dương, phân biệt (giáp – ất) cũng là phân biệt âm dương, do đó mà định ra phép tắc. Người xưa hiểu rõ điều này, nên lấy thiên văn làm gốc, nền tảng của sự phân chia. Chứ không hàm hồ, tùy tiện mà phân biệt. Bởi vậy, cách duy nhất, cũng là thường lý, lại khoa học nhất – mặc dù thời ấy, chẳng ai biết khoa học là cái quái gì cả – là dựa vào quan sát thiên văn, lấy những thể hiện đặc biệt của thiên văn, lại có tính chu kỳ, với bội số vừa đúng bằng 60 năm. Vì thế, theo quan sát thiên văn của người xưa, cùng với tính toán chu kỳ lặp lại của dấu hiệu thiên văn đúng bằng n – số nguyên lần – lần 60 – lục thập hoa giáp – mà thấy rằng có một thời điểm, quan sát được 5 hành tinh thủy, hỏa, thổ, kim, mộc nằm cùng trên một đường thẳng với mặt trời và mặt trăng. Người ta gọi thời điểm này là thời điểm "thất tinh hợp bích". Lấy đó làm gốc "tọa độ" thời gian của hệ lục thập hoa giáp, nên gọi năm đó là năm giáp tý, tháng có hiện tượng thất tinh hợp bích là tháng giáp tý, ngày giáp tý và giờ giáp tý. Việc xác định Năm đầu tiên của hệ lịch này tùy theo mục tiêu của lịch pháp, của mỗi môn học mà người ta dùng các phép tính toán khác nhau. Như phép Thái Ất thì tính năm giáp tý đầu tiên cách nay là 10 155 358 năm – đến năm 1 441 dương lịch. Theo phép nguyên vận hội thế thì cỡ một vạn 8 trăm năm, như họ Thiệu cho rằng: Trời mở ra ở hội tý (10 800 năm đầu tiên) Đất thành ở hội sửu (10 800 năm tiếp theo), Người được sinh ra ở hội dần – nên mới nói Dần là nơi vạn vật sinh ra, do âm dương giao hóa mà thành (10 800 năm thứ ba), ... mà chúng ta hiện nay đang ở hội ngọ ! Đơn giản chỉ có vậy. Nhưng cho thấy, âm dương phân biệt là quan trọng ! Người học lý học hay tử vi, bói toán, cần nắm được lý này và phải ngộ được âm dương là phân biệt thì mới có thể tu tập được. Thân ái.“ Nếu chứng minh thì mất nhiều thì giờ, cho nên ở đây tôi chỉ nói vắt tắt. Theo một sách nào đó của người Tầu thì thời điểm Mở Lịch là thời điểm mà 7 hành tinh trong hệ mặt trời là: Mặt trời ,trái đất ,và các hành tinh Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ nằm thẳng hàng trong thái dương hệ. Người ta gọi thời điểm này là thời điểm "thất tinh hợp bích". Chính tại thời điểm đó người ta đã xác định đó là năm Giáp Tý, rồi tháng Giáp Tý, ngày Giáp Tý và giờ Giáp Tý. Họ còn tính chính xác năm đó cách ngày nay (từ năm… ?) là 10 155 358 năm, thế mới Khủng chứ. Nếu cứ cho số liệu này là của người ngoài hành tinh cho chúng ta biết cách đây 3 đến 4 nghìn năm thì chúng ta vẫn chả thể tin được nữa là người Tầu mới cách đây 1000 năm mà tính được. Thử hỏi với trình độ khoa thiên văn học hiện đại ngày nay có tính ngược lại được tại năm đó 7 hành tinh này đã nằm thẳng hàng trong hệ mặt trời được hay không ? Một điều đơn giản mà ai cũng biết qua bao triệu năm với sự tác động của các vật thể trong hệ mặt trời và các vật thể trong vũ trụ xâm nhập vào hệ mặt trời của chúng ta chả nhẽ không làm cho một năm của trái đất của chúng ta xê dịch đi chút nào mà luôn luôn chính xác là 365,2425... ngày hay sao ? “….dựa vào quan sát thiên văn, lấy những thể hiện đặc biệt của thiên văn, lại có tính chu kỳ, với bội số vừa đúng bằng 60 năm. Vì thế, theo quan sát thiên văn của người xưa, cùng với tính toán chu kỳ lặp lại của dấu hiệu thiên văn đúng bằng n – số nguyên lần – lần 60 – lục thập hoa giáp – mà thấy rằng có một thời điểm, quan sát được 5 hành tinh thủy, hỏa, thổ, kim, mộc nằm cùng trên một đường thẳng với mặt trời và mặt trăng…..“ mà anh Vuivui đưa ra thì càng vô lý. Qua Wikinews tiếng Việt: Quỹ đạo của Sao Kim, tuy là hình elip như quỹ đạo của các hành tinh khác, nhưng tương đối tròn – độ lệch tâm của quỹ đạo này gần như 0. Sao Kim quay một vòng xung quanh Mặt Trời trên quỹ đạo này mất khoảng 225 ngày. Một năm Sao Kim, do đó, dài bằng 225 ngày của Trái Đất. Quỹ đạo của Sao Thủy là một hình elip rất hẹp, bán kính của trục chính là 70 triệu km trong khi bán kính của trục phụ chỉ có 46 triệu km. Vận tốc quỹ đạo của Sao Thủy rất cao vì ảnh hưởng trọng lực của Mặt Trời. Sao Thủy quay một vòng chung quanh Mặt Trời vào khoảng 88 ngày – một năm Sao Thủy, do đó, dài bằng 88 ngày của Trái Đất. Khoảng cách trung bình của Sao Hỏa từ Mặt trời là khoảng 230.000.000 km (1.5 AU) và chu kỳ quỹ đạo của nó là 687 (Earth) ngày. Ngày năng lượng mặt trời (hoặc sol ) trên sao Hỏa chỉ hơi dài hơn một ngày Trái đất: 24 giờ, 39 phút, và 35,244 giây. Một năm sao Hỏa bằng 1,8809 Earth năm, hoặc 1 năm, 320 ngày, và 18,2 giờ. Chúng ta có thể làm một vài phép tính đơn giản như sau: Theo đơn vị ngày của trái đất thì 60 năm trái đất có 365,2425.60 = 21 914,55 ngày. Số ngày này tương đương với sao Kim quay được 21 914,55 : 225 = 97,398 vòng quanh mặt trời (tức năm của sao Kim). Rõ ràng kết thúc năm thứ 60 của trái đất thì sao Kim mới quay được 0,398 vòng của nó, nghĩa là nó chưa trở về vị trí thẳng hàng với 7 hành tinh lúc đầu. Các hành tinh khác cũng tính hoàn toàn tương tự như vậy. ::::::::::::::::::::::::::::::::::::::::::::::::::::::::::::::::::::::::::::::::::::::::::::::: 2 – Theo bạn khái niện Lỗ đen và Lỗ trắng để giải thích sự tồn tại vĩnh hằng của Vũ Trụ có tính thuyết phục (hợp lý) hay không? 3 – Âm Dương Ngũ Hành là các tiên đề trong mệnh học Ðông Phương có hợp lý không? 2 câu hỏi này sẽ trả lời trong Bài 3.1 like
-
Bài 2 có một vài sai sót, nay xin đăng lại. Thành thật xin lỗi mọi người.1 like
-
Các bài giảng cho khóa học Tứ Trụ sơ cấp Bài 1: Vận mệnh và dự đoán vận mệnh Trích cuốn “Có một Ðấng Tạo Hóa quan tâm đến bạn không?“ của Liên Hiệp Thánh Kinh Hội NW: “Vào năm 1905, tức là 40 năm trước năm 1945, Einstein đã tiên đoán có một quan hệ giữa vật chất và năng lượng. Nhiều người biết phương trình E = mc² (trong đó E là năng lượng, m là khối lượng, c là vận tốc ánh sáng) của ông. Chẳng bao lâu sau khi quan hệ đó được Einstein công thức hóa thì các nhà bác học có thể giải thích được là làm sao mặt trời tiếp tục chiếu sáng hàng tỷ năm. Trong mặt trời có những phản ứng nhiệt hạch liên tục. Bằng cách này, mỗi giây, mặt trời biến khoảng 564 triệu tấn hyđro thành 560 triệu tấn heli. Ðiều này có nghĩa là cứ trong mỗi giây có khoảng 4 triệu tấn vật chất đã biến đổi thành năng lượng mặt trời mà một phần tỏa xuống mặt đất bảo toàn sự sống. Ðiều đáng chú ý là quá trình có thể đổi ngược lại. Cuốn The World Book Encyclopedia giải thích : “Năng lượng đổi thành vật chất khi những hạt bên trong nguyên tử va chạm nhau ở tốc độ cao tạo ra các hạt mới nặng hơn“. Các nhà khoa học đã thực nghiệm được điều này trong một phạm vi giới hạn, dùng máy khổng lồ gọi là máy gia tốc hạt, trong đó những hạt bên trong nguyên tử va chạm nhau ở vận tốc cực cao, để tạo ra vật chất. Nhà vật lý học đoạt giải thưởng Nobel, tiến sĩ Carlo Rubbia giải thích: “Chúng tôi đã tái tạo một trong các phép lạ về vũ trụ - biến năng lượng thành vật chất““. ………………………….. “Hãy ngước mắt lên cao mà xem: Ai đã tạo ra các vật này? Ấy là Ðấng khiến các cơ-binh ra theo số nó, và đặt tên hết thẩy, chẳng một vật nào thiếu, vì sức-mạnh Ngài lớn lắm, và quyền-năng Ngài rất cao (Ê-sai 40:26). Vâng, Kinh-thánh nói rằng một nguồn năng lượng vô biên - Ðấng Tạo Hóa – đã hình thành vũ trụ vật chất. Ðiều này hoàn toàn phù hợp với kỹ thuật tân tiến“. Qua 2 đoạn trích trên cho chúng ta thấy rằng câu đầu tiên của Kinh-thánh: “Ban đầu Ðức Chúa Trời dựng nên trời đất“ (Sáng-thế Ký 1:1) có thể được hiểu chính xác là : Ban đầu Ðức Chúa Trời đã dùng sức mạnh vô biên của mình để dựng nên vũ trụ trong đó có mặt trời và trái đất của chúng ta. Cho nên khi các ngôi sao (như mặt trời của chúng ta) cháy mãi hết nhiên liệu rồi sẽ phải tắt thì ở trong một môi trường đặc biệt nào đó như Hố Trắng chẳng hạn sẽ phun ra vật chất (tham khảo chủ đề “Những điều cần biết về Vũ Trụ học“ trong mục “Lý Học Ðông Phương“ tại trang web này), trong đó xuất hiên các ngôi sao mới. Chính điều này có thể chứng minh được vì sao trên bầu trời của chúng ta tới nay vẫn tồn tại ti tỷ các ngôi sao tỏa ánh sáng - năng lượng - vào vũ trụ rộng bao la trong khi thời gian là vô tận. “Nhà địa chất học nổi tiếng Wallac Pratt bình luận : “Nếu có ai yêu cầu tôi, với tư cách là một nhà địa chất học, giải nghĩa cách vắn tắt các tư tưởng tân thời của chúng ta về nguồn gốc của trái đất và sự phát triển của sự sống trên đó cho những người mộc mạc, quê mùa như các chi phái mà sách Sáng-thế Ký được viết cho, thì tôi không thể làm gì hay hơn là theo sát phần lớn lối diễn tả và ngôn ngữ trong chương một của Sáng-thế Ký“. Môi-se là người viết quyển đầu tiên của Kinh Thánh là Sáng-thế Ký khoảng năm 1513 TCN (vì cuốn Kinh Thánh là một bộ gồm 66 cuốn sách nhỏ được viết trong một khoảng thời gian hơn 1.500 năm từ 1513 TCN đến khoảng năm 80 SCN - có khoảng 40 người đã tham gia viết). Ông Wallac Pratt cũng nhận xét rằng thứ tự các biến cố mô tả trong sách Sáng-thế Ký: Nguồn gốc của đại dương, việc đất trồi lên, sự xuất hiện các loài sống dưới biển, chim chóc và các động vật hữu nhũ, thực chất là thứ tự của các giai đoạn chính yếu của thời đại địa chất. Chúng ta thử xem xét: Cách đây 3500 năm, làm sao Môi-se biết được thứ tự chính xác như thế nếu như tin tức đó không phải bắt nguồn từ Ðấng Thiết Kế (Ðức Chúa Trời)“. Ðể phù hợp với khoa học chúng ta thừa nhận rằng Môi-se vào thời gian đó chỉ là người “Ở Trần Ðóng Khố“ trong một xã hội còn rất lạc hậu trên trái đất của chúng ta đã ghi chép lại những tri thức mà các vị khách thuộc một nền văn minh ngoài trái đất ghé thăm chúng ta (có thể gọi họ là các sứ giả của Ðức Chúa Trời) truyền đạt cho. Chính vì vậy mà ngôn ngữ diễn đạt rất mộc mạc, đơn sơ, hầu như Môi-se và những người tham gia viết Kinh-thánh chỉ diễn đạt được các tri thức của Họ theo nghĩa đen mà thôi, vì vậy mới có nhiều sai sót. Ðó là lý do vì sao có sự kiện Galileo bị đưa lên ngọn lửa của giàn thiêu. Một điều quan trọng nữa là cuốn Kinh-thánh không những đã nói tới nguồn gốc hình thành, sự kiến tạo địa chất của trái đất và sự phát triển của sự sống trên trái đất mà cuốn Kinh-thánh còn dự đoán các sự kiện đã và chưa xẩy ra. Ðó là dự đoán sự xuất hiện của 7 cường quốc trên trái đất trước khi trái đất bị hủy diệt bởi sự va chạm với thiên thạch. Phần này xin mời các học viên đọc chủ đề: “Trận chiến Ha-ma-ghê-đôn và ngày tận thế“ trong mục “Dự Báo và Chứng Nghiệm“ tại trang web này. Ðiều này đủ cho chúng ta nhận thấy rằng cuốn Kinh-thánh không chỉ dừng lại ở mục đích truyền bá về hệ tư tưởng, đạo đức mà nó còn dự đoán vận mệnh của trái đất của chúng ta. Vận mệnh trái đất, Họ (tức người ngoài hành tinh của chúng ta) còn dự đoán được, vậy thì vận mệnh của con người chúng ta Họ không dự đoán được sao? Cho nên theo tôi học thuyết Âm Dương Ngũ Hành và bảng Nạp Âm sáu mươi năm Giáp Tý đã xuất hiện trên trái đất của chúng ta khoảng 3 đến 4 nghìn năm hoàn toàn phù hợp với khoảng thời gian xuất hiện cuốn Kinh-thánh cũng là món quà mà những vị khách này đã viếng thăm và tặng chúng ta. Ðây chính là lý do mà tôi đã nghiêm túc nghiên cứu môn Tử Bình qua lăng kính của Vật Lý học. Ở bài 1 này tôi không đòi hỏi mọi người phải tin rằng con người nói riêng hay vạn vật nói chung có vận mệnh và dự đoán được vận mệnh… mà tôi khuyên mọi người chưa nên tin bất cứ cái gì ngay được. Mọi cái cứ từ từ nghiên cứu xem sao đã, chỉ đến khi có được sự suy luận có lý cộng thêm các ví dụ trong thực tế kiểm nghiệm lý luận đó đúng thì mới có thể tin được mà thôi. Các câu hỏi trọng tâm: 1 - Bạn hãy thử chứng minh học thuyết Âm Dương Ngũ Hành cùng với bảng Nạp Âm sáu mươi năm Giáp Tý (hoàn toàn theo nhận thức đã có của bạn không dựa theo nội dung bài viết trên) là do người Trung Quốc nói riêng hay của người trên trái đất chúng ta nói chung phát minh ra chứ không phải do những người thuộc nền văn minh ngoài trái đất tặng. 2 – Theo bạn khái niện Lỗ đen và Lỗ trắng để giải thích sự tồn tại vĩnh hằng của Vũ Trụ có tính thuyết phục (hợp lý) hay không? 3 – Âm Dương Ngũ Hành là các tiên đề trong mệnh học Ðông Phương có hợp lý không? Sau đây xin mời các học viên cùng tôi khám phá các bí ẩn của thuyết Âm Dương Ngũ Hành và bảng Nạp Âm sáu mươi năm Giáp Tý qua con mắt của các nhà Vật Lý học xem chúng thuộc lĩnh vực Duy Vật hay Duy Tâm1 like
-
Cô vừa nhận được từ Văn phòng Trung tâm số tiền 200.000 đ (hai trăm ngàn) của Crescent dành cho từ thiện.1 like
-
Dạ, LD xin cám ơn BQT và Cô Wild đã cảm thông. Việc phụ trách trao tặng đồng bào hoạn nạn ở Miền Trung, xin TT và BQT hoạch định một kế hoạch trước. Vì sự việc có bán kính rộng, nhiều đồng bào gặp nạn, không phải là một vài cá nhân đơn lẻ. LeDien cũng đang nghĩ cách để trao tặng quà của TT đến với bà con một cách tốt nhất. Xin các ACE có ý gì hay, mong đề xuất. LeDien1 like
-
Rất thông cảm cho quyết định của LeDien, nhiều cái khó nhưng nơi nào KHÓ hơn, chúng ta có trách nhiệm hổ trợ. Wild cũng đã lường trước việc này nên quyết định chuyển số tiền còn lại trong quỹ Từ Thiện để giúp cho bão lũ miền trung. Khi đạt đến con số kha khá, LeDien phụ trách việc này trao tay đến đồng bào hoạn nạn.1 like
-
Vẫn còn đau ngực mỗi khi nuốt, luôn đưa đôi tay 5 ngón lành lặn trấn giữ vùng đau nhiều. Hôm nay cậu đã khóc khi biết chúng tôi trở lại thăm và nói được 2 từ cám ơn thật khó khăn. Người nhà muốn chúng tôi trao tiền tận tay cậu. Biết số tiền nhỏ nhoi và tấm lòng chia sẽ của ACE có làm nỗi đau lắng lại ?1 like
-
Sáng nay thứ bảy ngày 3/10, Wild đã trở lại Khoa Phỏng để chuyển giao số tiền 5.000.000 đ(năm triệu đồng) từ Quỹ Từ Thiện Diễn đàn dành tặng cho nạn nhân 18 t bị phỏng Acid. Wild cũng hẹn gặp được người phiên dịch cho nạn nhân, qua lời dịch thuật cậu ấy nói được 2 từ cám ơn, nhưng khó khăn vì phần dưới cằm bị díu thịt và chỉ nuốt được thức ăn ở tư thế nằm. Nhìn đôi tay còn chút lành lặn, thấy xót xa cho sự tàn phá hôm nay. Dưới đây là hình ảnh chuyến đi. Người nhà đã đưa cho Wild hình ảnh lúc chưa bị nạn, (mặc áo đỏ) Tiếp theo người nữ điều dưỡng tại khoa lại hướng dẫn Wild đến thăm 3 hoàn cảnh cần giúp đờ, nạn nhân quê ở Quảng ngãi cũng phỏng nặng và đôi chân đã bị hoại tử. Bs đã chỉ định cưa chân để cứu anh ta. Hiện nay không còn tiền để tiếp tục điều trị và nhờ vào suất cơm từ thiện của Bv. Wild đã chi tặng cho trường hợp này 500.000 đ(năm trăm ngàn đồng)1 like
-
Hic... :( Thứ lỗi cho Crescent,...nếu là mình, chắc Crescent chẳng thiết gì nữa... nói chi đến tai và mắt là những giác quan giúp cảm nhận những gì xung quanh rõ và nhanh nhất..... sẽ rất khó khăn để vượt qua...không biết Hun Kon có vượt qua được không? Hay lại tiềm tàng những nguy cơ đau lòng khác... .... Ôi nhân-quả , nghiệp chướng :lol: ... Crescent xin góp 200 (sẽ chuyển theo cách cũ), mong gia đình e vượt qua khó khăn lúc này. Chân thành cảm ơn cô Wild và Chip1 like
-
1 like
-
Dù ít nhiều, Wild cũng sẽ đến thăm lại trường hợp này và chuyển giao số tiền đóng góp của ACE hảo tâm đến nạn nhân Hun kon và người phụ nữ dân tộc do kimphong gởi tặng.1 like
-
Wildlavender thân mến. Tôi sẽ giúp người này khòi bị nhiễm trùng và mủ còn trong cơ thể. Tôi đang ở Hanoi. Nhưng sẽ về sớm để giúp họ. Tôi giúp anh này 500. 000 VND. Nếu tôi chưa kịp về, W cứ ứng trước, tôi sẽ thanh toán. hoặc bảo bà xã tôi đưa. Cầu chúc những điều kỳ lạ sẽ đến với anh ta.1 like
-
Nhìn hình LeDien nghĩ là sắp xuất viện. Như vậy là số tiền LeDien chuyển cũng có ý nghĩa góp chút ít vào việc chạy chữa cho Bạn ấy. Cám ơn Cô Wild về thông tin trên.1 like
-
Sáng nay từ name card để lại có người nhà của Hun Kon (tên người thanh niên campuchea) điện thoại đến cám ơn Wild với lời lẽ tương đối rõ và dễ nghe, dịp này Wild hỏi thâm được tình hình của cháu và nguyên nhân. Anh ta nói" nhà nghèo lắm, không có cửa nên bị hại trong lúc ngủ. Địa chỉ là một huyện nhỏ bên camp cách biên giới vn mấy chục cây số, người gây ra là một trong số bạn bè của nạn nhân, biết nhưng không chứng cứ, tại hiện trường còn để lại can 4 lít. Chính quyền cũng không can thiệp gì, sau khi bị cháy gia đình đưa đến bv địa phương nhưng họ không có khả năng cứu chữa vì sẽ chết. Hết sức cố gắng gia đình chuyển qua vn chữa để được tình trạng như hôm nay nhờ rất nhiều vào lòng hảo tâm của cá nhân thiện nguyện truyền nhau thông tin này. Hiện nay nguyện vọng cháu mong được chữa trị đôi mắt để còn được nhìn thấy không làm khổ người thân và kiếm sống cho mình. Điều này có hy vọng nếu cháu có tiền để cứu vãn đôi mắt. Còn một lần phẩu thuật cho lỗ tai vì vẫn còn mủ trong đó gây đau nhức. Wild thật sự xúc động, chưa hoàn toàn trở lại trạng thái bình tâm khi chứng kiến nỗi đau vượt xa sức tưởng tượng của mình. Tâm nguyện của Wild muốn có điều kiện để trở lại thăm cháu. Có lẽ cũng chờ đợi sự góp sức của ACE.1 like
-
Kính gửi Cô Wild Cô chuyển giúp LeDien 500.000vn đến trường hợp Anh Bạn người Campuchia. Không mong gì hơn, chỉ mong giúp một ít vật chất. ____________________ LeDien1 like
-
Wild sẽ chuyển giúp Kim Phong sau khi nhận được.1 like
-
Khi thấy trường hợp bỏng bằng axit, chip cảm thấy nghẹn lòng. Tại sao con người có thể hành động như vậy đối với đồng loại của mình. Khuôn mặt bị biến dạng, xấu xí cũng ko ghê sợ bằng sự nhẫn tâm của con người -dối với -dồng loại của mình 18 tuổi, chưa đi hết 1/3 cuộc đời mà em -dã phải gánh chịu những cơn đau tột cùng về thể xác và tinh thần. Thật khủng khiếp !1 like
-
Thật quá khủng khiếp! Mong Cô Wild vượt qua và cố gắng hơn nữa trong công tác từ thiện. Giá mà LeDien giúp đựoc Cô một tay. Chúc Cô sức khỏe.1 like
-
Mời quan các bạn tham khảo quan điểm của ông TTrumetin về cung VCD: "Cung VCD và Tuần Triệt án ngữ Ngoại trừ trường hợp cung VCD có hung tinh đắc địa độc thủ thì không nên có Tuần Triệt án ngữ, còn tất cả các trường hợp cung VCD đều rất cần có Tuần hoặc Triệt án ngữ tại bản cung để câu hút được chính tinh về, để ngăn chặn các ảnh hưởng xấu xa do hung tinh lạc hãm đóng tại cung VCD hoặc chiếu về cung VCD. Nếu gặp Triệt tại Thân Dậu, Tuần tại Thìn Tí hoặc Dần Mão thì càng hay (Triệt đáo Kim cung, Tuần lâm Hỏa địa hoặc Mộc vị thì bất kỵ Sát Tinh bại điều tai ương sở tác). Chú ý rằng cung VCD gặp Tuần án ngữ tốt đẹp hơn cung VCD gặp Triệt, gặp Triệt cũng chỉ đưa đến sự tốt đẹp của cung VCD ở mức độ kha khá trong trường hợp có chính tinh sáng sủa xung chiếu và nhiều trung tinh sáng sủa hội chiếu. Nếu không có Tuần hoặc Triệt đóng tại cung VCD thì hiệu quả ảnh hưởng của chính tinh xung chiếu yếu đi, và cho dù cung VCD có nhiều sao sáng sủa hội chiếu cũng không thể coi là rực rỡ được, tốt lắm thì sự tốt đẹp cũng chỉ ở mức độ trung bình khá mà thôi. Khi có Tuần hoặc Triệt tại cung VCD thì mặc dầu ban đầu tuy gặp khó khăn trở ngại nhưng về sau lại thuận lợi hơn, tốt đẹp hơn. Tuần Triệt ở đây còn có tác dụng ngăn trở các sao xấu, nếu có, chiếu về cung VCD, và giải cứu được trường hợp phi yểu tác bần nếu VCD tại cung Mệnh. Trường hợp Tuần Triệt án ngữ đồng cung thì thông thuờng ta có thể giải đoán là cung VCD này không tốt cũng không xấu, tốt xấu chỉ nằm khoảng ở mức độ trung bình mà thôi. Trong trường hợp này ta gần như không cần quá chú trọng lắm đến các sao hội chiếu vì ảnh hưởng gia giảm của các sao này tuy vẫn có nhưng hầu như không nhiều vì Tuần ngăn các sao tốt chiếu tới là chủ yếu, còn Triệt thì ngăn cản các hung tinh chiếu tới trong khi các sao tại bản cung thì bị cả Tuần lẫn Triệt vây trảm. Cần chú ý có một số sao kỵ gặp Tuần Triệt như Tướng Quân nếu đóng tại cung VCD mà gặp Tuần Triệt thì dễ đưa đến tai họa bất ngờ nếu rơi vào trường hợp bị đương đầu. Đặc biệt nếu VCD tại Tứ Mộ thì lại rất cần Tuần Triệt án ngữ. Trường hợp đặc biệt Mệnh VCD có Tuần hoặc Triệt thủ, có hai trong ba sao là Tuần, Triệt, Thiên Không chiếu thì gọi là VCD đắc tam không, nếu mệnh Hỏa hoặc Kim thì phú quí khả kỳ (được hưởng phú quí trong một giai đọan, bởi vì tính chất của các sao Không trong trường hợp này tuy đưa đến tốt đẹp nhưng không toàn vẹn, chỉ hưởng tốt đẹp trong một giai đọan mà thôi). Đắc Tam Không là Tuần Không, Triệt Không và Thiên Không. Không tính sao Địa Không. Cần một thủ, hai sao chiếu. Trong trường hợp đắc tam không này ta không lấy chính tinh xung chiếu làm tọa thủ. VCD đắc tam không mà không có Tuần Triệt án ngữ thì là cách Kiến Không. Mệnh VCD đắc tam không thì mệnh Hỏa đẹp hơn Mệnh Kim, còn các Mệnh khác thì không hưởng mấy (không giàu có nhưng nhìn chung thì cuộc sống không đến nổi xấu, cuộc sống cũng được tạm đủ hoặc kha khá). Phú có câu: Mệnh VCD đắc Tam Không phú quí khả kỳ Mệnh VCD hoán ngộ Tam Không hữu Song Lộc, phú quí khả kỳ Trường hợp VCD đắc tam không, nếu có hung tinh lạc hãm hay đắc địa tọa thủ tại cung VCD thì cũng chỉ làm xấu một chút mà thôi, ta không đáng lo ngại lắm về họa của các sao này gây ra Trường hợp vô chính diệu mà không có Tuần Triệt án ngữ, lại có sao Thiên Không thủ là cách ngộ Không, là người quyền biến khôn ngoan nhưng cuộc đời thăng trầm cực khổ. Nếu lại gặp thêm các sao Không khác ở các cung hội chiếu thì lại thông thường càng xấu hơn, cuộc đời sẽ thăng trầm cực khổ nếu không bị chết yểu. Nhìn chung trường hợp VCD mà lấy chính tinh xung chiếu làm tọa thủ thì cho dù có được chính tinh sáng sủa xung chiếu, được Tuần Triệt án ngữ cũng chỉ đưa đến sự tốt đẹp của cung đó cũng chỉ là mức độ khá là tối đa mà thôi, chứ không thể nào rực rỡ như có chính tinh sáng sủa tọa thủ được. Còn nếu gặp chính tinh lạc hãm xung chiếu hoặc có nhiều sao xấu hội tụ mà lại không có Tuần Triệt án ngữ cứu nguy thì rơi vào cách phi yểu tác bần. Nếu có hung tinh lạc hãm khác hành bản Mệnh tọa thủ thì càng nguy hiểm hơn. Cung VCD mà có sát tinh hãm địa thủ thì rất xấu, dễ lâm vào trường hợp phi yểu tác bần (rõ nét nhất cho những người có hành bản Mệnh bị hành của hung tinh khắc) Ngọai trừ có Tuần Triệt án ngữ cứu nguy hoặc có nhiều cát tinh cứu giải như Quan Phúc, Quang Quí tọa thủ tại bản cung là tốt nhất…. VCD có hung tinh đắc địa độc thủ Hung tinh đắc địa này phải là hành Hỏa hoặc hành Kim mới được coi là rơi vào trường hợp này. Trong trường hợp này thì ta chọn hung tinh này làm nòng cốt cho cung VCD, không lấy chính tinh xung chiếu để giải đoán. Một số tác giả cho rằng hao bại tinh đắc địa có thể làm nòng cốt cho cung VCD như Tang Môn (Mộc), Song Hao (Thủy), Khốc Hư (Thủy) nhưng theo thiển ý thì không chính xác. Thứ tự mức độ tốt có thể sắp xếp như sau: Bạch Hổ đắc địa tốt nhất, tại Thân Dậu tốt đẹp hơn tại Dần Mão Kình Đà đắc địa, Kình đẹp hơn Đà Không Kiếp đắc (Tỵ Hợi đẹp hơn Dần Thân), Hỏa Linh đắc Đặc biệt Thái Tuế (hành Hỏa) cũng được dự phần vào trong cách này với điều kiện không gặp Tuần hoặc Triệt và phải rơi vào cung Mệnh hoặc Thân VCD Một vài ghi nhận về vị trí của hung tinh đắc địa Không Kiếp hành Hỏa miếu địa tại Tỵ Hợi, đắc tại Dần Thân Hỏa Linh hành Hỏa đắc địa tại cung ban ngày từ Dần tới Ngọ Kình Đà hành Kim đới Hỏa, đắc địa tại Thìn Tuất Sửu Mùi Bạch Hổ hành Kim đắc địa tại Dần Mão, Thân Dậu Hung Tinh đắc địa phải là hành Kim và Hỏa mới có tác dụng mạnh và bản Mệnh phải đồng hành với hung tinh này thì mới hưởng tốt đẹp trọn vẹn. Các Mệnh khác thì hưởng yếu hơn, ta có thể tạm đánh giá thì chỉ nằm trong mức độ trung bình. Trong tất cả các trường hợp trên thì ngoại trừ Bạch Hổ và Thái Tuế còn có tác dụng tốt lâu dài về sau, còn lại các trường hợp khác thì tuy làm cho cung VCD được sáng sủa rực rỡ nhưng chỉ là một giai đoạn mà thôi, không có tác dụng tốt lâu dài.Mọi sự xấu tốt đều đến nhanh. Không Kiếp phát huy tính chất lên bất ngờ nhanh chóng nhất nhưng cũng đưa đến suy bại nhanh nhất trong toàn bộ các hung tinh vừa kể. Nếu Mệnh VCD có hung tinh đắc địa độc thủ nhưng bị Tuần Triệt án ngữ thì không đúng cách đã nói ở trên, trong trường hợp này ta luận giải như trường hợp lấy chính tinh xung chiếu làm tọa thủ, với Tuần Triệt án ngữ tại cung. Cung VCD có Nhật Nguyệt xung chiếu hoặc Nhật Nguyệt sáng sủa tam hợp chiếu (Nhật Mão, Nguyệt Mùi) : Trường hợp nếu có đủ bộ Âm Dương sáng sủa tại Mão và Mùi Hợi chiếu hoặc Âm Dương đồng cung xung chiếu đến cung VCD thì ta lại chọn bộ Âm Dương này làm nòng cốt cho cung VCD, chứ không lấy các chính tinh xung chiếu bởi vì qui luật của Nhật Nguyệt là chiếu đẹp hơn tọa thủ. Trong trường hợp nay ta có thể đoán rắng cung VCD này trước tuy có gặp trục trặc trắc trở nhưng về sau thì khá tốt. Tốt xấu hơn thì phải căn cứ vào sự tụ tập của các sao khác. Nếu có Tuần hoặc Triệt án ngữ tại cung VCD thì cung VCD này càng trở nên tốt đẹp bội phần, gặp Tuần tốt hơn gặp Triệt. Gặp Triệt thì chỉ kha khá thêm một chút mà thôi. Trường hợp Nhật Mão Nguyệt Mùi thì cần phải không bị sao nào làm giảm sức sáng, ví dụ như cần phải không có Tuần Triệt án ngữ Nhật Nguyệt, hoặc Hóa Kỵ đóng đồng cung làm giảm sức sáng của Nhật hoặc Nguyệt. Nếu một sao bị Tuần hoặc Triệt án ngữ hoặc bị Hóa Kỵ đồng cung, nghĩa là bị giảm sức sáng thi sẽ đưa đến mức độ tốt giảm đi rất nhiều, cung VCD trong trường hợp nay chỉ tốt ở mức độ trên trung bình một chút mà thôi. Nếu Nhật Nguyệt được các phụ tinh làm tăng sức sáng như Xương Khúc Đào Hồng thì lại càng tốt đẹp bội phần. Trường hợp có Nhật Nguyệt Sửu Mùi chiếu thì nếu Nhật Nguyệt bị Tuần hoặc Triệt tại cung thì càng tốt, có Hóa Kỵ đồng cung với Nhật Nguyệt thì càng tốt hơn. Chú ý rằng chỉ rơi vào hai trường hợp này thì ta mới sử dụng bộ Nhật Nguyệt, còn tất cả các trường hợp khác thì nếu có Âm Dương chiếu ta cũng lấy chính tinh xung chiếu làm tọa thủ." Ở dưới là đoạn đính chính của tác giả: "Thân chào anh thienkhoitimvui, Mấy ngày nay cũng hơi rảnh rỗi chút đỉnh, vào tuvilyso đọc chơi một chút thì phát hiện ra trong thời gian dài vắng mặt vừa qua, trang tử vi đã xuất hiện rất nhiều khuôn mặt mới, trong đó có sự xuất hiện của anh, và anh đã đóng góp chỉnh lại một số những gì tôi đã viết, trong đó có nhiều điều rất có giá trị. Mong rằng anh khi có thời gian rảnh rỗi tiếp tục xem xét lại và cho ý kiến phê bình thẳng thắn những đúng sai hoặc thiếu sót trong đó. Mọi đánh giá của anh tôi đều hoan nghênh. Thật ra trong toàn bộ những bài đã viết, tôi đều kêu gọi sự đóng góp, nhưng ý kiến đưa ra chưa được nhiều. Một loạt bài tôi đăng trước khi tạm ngừng tham gia diễn đàn đều có những sai sót trong đó, và bản thân tôi cũng biết nhưng không thể sửa chữa được, và ắt hẳn trong đó cũng có những sai sót mà tôi không biết. Tôi nói ngay trong cả bài VCD, VCD đắc tam không trong bài tôi nêu theo quan điểm của tôi là Tuần, Triệt và Địa Không, không tính sao Thiên Không nhưng lại chưa sửa chữa, hoặc phi yểu tắc bần thì lại ghi là phi yểu tác bần, lằng nhằng thì đánh là lăng nhăng, VCD hoan ngộ Tam Không thì lại ghi là VCD hoán ngộ Tam Không, Song Hao Hỏa thì lại ghi là Thủy (bản thân tôi quan niệm Song Hao hành Hỏa), Tuần tại Tỵ Ngọ thì lại ghi là Tuần tại Thìn Tí. Riêng về Thái Tuế thì cần bổ xung một chút, ví dụ như hạn VCD có Thái Tuế cũng áp dụng...."1 like