-
Thông báo
-
Nội quy Lý Học Plaza
Nội quy này là bản mở rộng Nội Quy - Quy định của Diễn đàn. Khi tham gia mua bán, các thành viên phải tuân theo những quy định sau: Tiêu đề bài viết: Bao gồm: Chỉ dẫn địa lý, Loại hình Mua/Bán, Thông tin mua bán.
Chỉ dẫn địa lý: Tỉnh/thành nơi mua bán. Hoặc sử dụng định nghĩa có sẵn:TQ: Toàn quốc
HCM: TP Hồ Chí Minh
HN: Hà Nội
[*]Ví dụ: HCM - Bán Vòng tay Hổ Phách Nội dung bài viết: Mô tả chi tiết sản phẩm mua/bán
Bắt buộc phải có thông tin liên lạc, giá Mua/Bán
Bài mới đăng chỉ được phép up sau 03 ngày.
Thời gian up bài cho phép: 01 ngày 01 lần.
Các hành vi vi phạm nội quy này sẽ bị xóa bài hoặc khóa tài khoản mà không cần báo trước.
-
Leaderboard
Popular Content
Showing most liked content on 18/05/2011 in all areas
-
Chương 5 Thân và mười thần của tứ trụ I – Nhật Can và Thân Trong mỗi tứ trụ, can ngày được gọi là Nhật Can, nó đại diện cho người có tứ trụ đó (hiểu đơn giản nó là ngôi nhà của người có tứ trụ đó). Hành của can ngày được gọi là hành của Thân (Thân còn được gọi là Nhật Chủ) của người có tứ trụ đó (hiểu đơn giản nó là thân thể của người có tứ trụ đó). Qua đó chúng ta có thể so sánh hành của Thân với 4 hành còn lại (sau khi đã xét khả năng tác động giữa các can chi trong tứ trụ với nhau) để xem hành của Thân là mạnh hay yếu (thường được gọi là Thân vượng hay nhược). Đây là một khâu vô cùng quan trọng cho việc dự đoán vận mệnh của con người. II - Mười thần của tứ trụ 1 - Mười thần Nhật Chủ chính là tôi, bản thân tôi, hành của Thân chính là hành của tôi, cho nên quan hệ của nó với các hành khác như sau : a - Cái sinh ra tôi chính là mẹ, mẹ kế người ta gọi là: Chính ấn (1), thiên ấn (2). b - Cái tôi sinh ra là con cái, người ta gọi là : Thực thần (3), thương quan (4) . c - Cái khắc tôi tức là tôi bị khống chế, người ta gọi là : Chính quan (5), thiên quan (6) đều là sếp, cấp trên của tôi. d - Cái tôi khắc là cái bị tôi khống chế, người ta gọi là : Chính tài là tiền hay là vợ của tôi (7), thiên tài là tiền hay là cha của tôi (8). e - Cái ngang tôi là anh chị em, bạn bè, đồng nghiệp, người ta gọi là : Ngang vai, thường gọi tắt là tỷ (9) và kiếp tài, gọi tắt là kiếp (10). Đó chính là mười thần có liên quan với tôi trong tứ trụ. Ví dụ : Nếu Tứ Trụ của tôi có can ngày (tức Nhật Can) là Tân mà Tân mang hành Kim thì Thân của tôi là hành Kim, vì vậy ta có : Mậu (Thổ) sinh cho Tân (tôi) được gọi là chính ấn (vì can dương sinh cho can âm nên gọi là chính), thường được gọi là Ấn. Kỷ (Thổ) sinh cho Tân được gọi là thiên ấn (vì can âm sinh cho can âm nên gọi là thiên), thường được gọi là Kiêu. Tân sinh cho Nhâm (Thủy), vì vậy Nhâm được gọi là Thương Quan và sinh cho Quý (Thủy), vì vậy Quý được gọi là Thực Thần. Bính (Hỏa) khắc Tân, vì vậy Bính được gọi là chính quan, thường được gọi là Quan, Đinh (Hỏa) khắc Tân, vì vậy Đinh được gọi là thiên quan, thường được gọi là Sát. Tân khắc Giáp (Mộc), vì vậy Giáp được gọi là Chính Tài, Tân khắc Ất (Mộc), vì vậy Ất được gọi là Thiên Tài. Tân gặp can Tân được gọi là ngang vai, thường được gọi là Tỷ, Tân gặp Canh thường được gọi là Kiếp. Cách để xác định mười thần của Nhật Chủ trong các Tứ Trụ khác cũng tương tự như vậy. 2 – Tương sinh của 10 thần Ví dụ: Một tứ trụ có Nhật Can (can ngày) là Tân (hay Canh) vì Tân mang hành Kim nên Thân của người này mang hành Kim, thì ta có sơ đồ tương sinh của mười thần như sau: Qua sơ đồ ta thấy sự tương sinh của 10 thần hoàn toàn giống như sự tương sinh của ngũ hành. 3 – Tương khắc của 10 thần Mười thần là tài, quan, ấn, thực, thương….. của các can lộ hay tàng trong các địa chi trong tứ trụ. Mối quan hệ sinh khắc giữa chúng chính là mối quan hệ sinh khắc của ngũ hành. Mười thần nghiêng về phân tích người và sự việc, còn ngũ hành nghiêng về phân tích mức độ khí chất bẩm sinh của con người. Cả hai cái bổ xung cho nhau, không được xem nhẹ bên nào. Ví dụ : Giả sử hành của chính quan của 1 tứ trụ là Mộc, chính quan đại diện cho chức vụ, quyền lực, thi cử,…. , vì vậy khi nó bị hành của thương quan là Kim khắc quá mạnh dễ bị mất chức, mất quyền, thi trượt,…… . Còn theo ngũ hành thì Mộc đại diện cho đầu, mặt, vai, tay, chân, gan, mật, thần kinh,… khi bị Kim khắc quá mạnh thì những bộ phận này dễ bị tổn thương. Trong trường hợp Mộc (hay chính quan) không bị khắc nhưng nếu có quá nhiều Mộc trong tứ trụ thì khi gặp tuế vận (đại vận và lưu niên) có nhiều Mộc hay có nhiều các hóa cục Mộc thì người đó cũng dễ bị các tai họa như vậy. Nếu Tân (hay Canh) là Nhật Can thì ta có sơ đồ tương khắc của 10 thần của nó như sau : Qua sơ đồ trên ta nhận thấy sự tương khắc của mười thần hoàn toàn tương tự như sự tương khắc của ngũ hành (tương khắc cách 1 ngôi). Khi xét các thần trong tứ trụ và giữa tứ trụ với tuế vận ta phải căn cứ vào sự vượng suy của các thần (tức hành của nó), nếu thần nào quá vượng thì cần được xì hơi là tốt (tức là nó cần được sinh cho các thần khác), còn ngược lại nếu sinh hay giúp đỡ thêm cho nó thì dễ có tai họa. Tương tự nếu thần nào quá yếu thì nó cần được sinh hay được phù trợ cho vượng lên và dĩ nhiên nó rất sợ bị khắc. Vậy thì làm thế nào chúng ta có thể biết thần đó là mạnh hay yếu? Muốn biết, chúng ta phải dựa vào bảng sinh vượng tử tuyệt để xem nó có vượng hay nhược ở tuế vận, cũng như xem nó có xuất hiện nhiều hay ít ở trong tứ trụ và ở tuế vận (bởi vì nếu thần đó là nhược nhưng có nhiều thì nó cũng có thể trở thành mạnh). 4 - Tính chất của mười thần . Mười thần trong tứ trụ đại diện cho công năng, chức vụ, quyền lực, tình cảm, tính cách, nghề nghiệp,…..như sau : 1 - Chính quan là cái khắc tôi, đại diện cho quan chức tốt, chính trực trong chính quyền điều hành xã hội, mà con người phải tuân theo pháp luật nhà nước, nói chung chính quan được coi là cát thần, nhất là khi Thân vượng. Công năng của chính quan trong mệnh là bảo vệ tài, áp chế Thân, khống chế tỷ và kiếp. Thân vượng tài nhược thì nên có chính quan để bảo vệ tài. Thân vượng mà ấn nhược thì chính quan sẽ sinh ấn và chế ngự Thân cho bớt vượng. Thân vượng kiếp nhiều thì chính quan sẽ khắc chế kiếp. Trong mệnh chính quan đại diện cho chức vụ, học vị, thi cử, bầu cử, danh dự, …. . Với nam Chính quan còn đại diện cho tình cảm với con gái. Vì nam lấy tài làm vợ, tài sinh quan và sát là con, nên nam lấy quan làm con gái, sát làm con trai (vì âm, dương khác với nhật can là con gái, giống là con trai). Tâm tính của chính quan : chính trực, có tinh thần trách nhiệm, đoan trang nghiêm túc, làm việc có đầu có đuôi. Nhưng dễ bảo thủ cứng nhắc, thậm chí là người không kiên nghị. 2 - Thất sát (thiên quan) là cái khắc tôi, nó thường đại diện cho quan lại xấu trong chính quyền. Trong mệnh thất sát chuyên tấn công lại Thân, cho nên Thân dễ bị tổn thương, khi đó cần có thực thương tới để khắc chế thất sát thì lại trở thành tốt (nghĩa là bắt quan xấu phải phục vụ cho mình “thất sát hóa thành quyền bính“). Nói chung khi Thân nhược thất sát được coi là hung thần. Công năng của thất sát làm tổn hao tài, sinh ấn, công phá Thân, khắc chế tỷ kiếp. Trong mệnh thất sát đại diện cho chức vụ về quân cảnh, hoặc nghề tư pháp, thi cử, bầu cử … Với nam thất sát còn đại diện cho tình cảm với con trai. Tâm tính của thất sát, hào hiệp, năng động, uy nghiêm, nhanh nhẹn ... .Nhưng dễ bị kích động, thậm chí dễ trở thành người ngang ngược, trụy lạc … 3 – Chính ấn là cái sinh ra tôi, khi Thân nhược thường được coi là cát thần, ấn có nghĩa là con dấu, đại diện cho chức vụ, quyền lợi, học hành, nghề nghiệp, học thuật, sự nghiệp, danh dự, địa vị, phúc thọ …. Chính ấn là sao thuộc về học thuật và còn đại diện cho tình cảm của mẹ đẻ. Công năng của chính ấn, sinh Thân, xì hơi quan sát, chống lại thực thương. Tâm tính của chính ấn, thông minh, nhân từ, không tham danh lợi, chịu đựng nhưng ít khi tiến thủ, thậm chí còn chậm chạp, trì trệ.... 4 – Thiên ấn (Kiêu)là cái sinh phù tôi, đại diện cho quyền uy trong nghề nghiệp như nghệ thuật, nghệ sĩ, y học, luật sư, tôn giáo, kỹ thuật, nghề tự do, những thành tích trong dịch vụ.... Nó còn đại diện cho tình cảm của dì ghẻ. Công năng của thiên ấn sinh Thân, xì hơi quan sát để sinh cho Thân, chống lại thực thương . Mệnh có thiên ấn có thể phù trợ cho Thân nhược. Nhưng gặp thực thần là mệnh lao dịch, vất vả. Thiên ấn quá nhiều thì đó là người phúc bạc, bất hạnh, tật bệnh hoặc con cái khó khăn khi đó chỉ có thiên tài mới có thể giải được các hạn này. Người mà tứ trụ có Thân vượng, còn có kiêu, tài và quan tất là người phú quý. Mệnh có thiên ấn lại còn gặp quan sát hỗn tạp (có cả chính quan và thiên quan, không tính Quan và Sát là tạp khí ) là người thắng lợi nhiều mà thất bại cũng lắm. Nói chung khi Thân vượng thiên ấn được coi là hung thần. Tâm tính của thiên ấn, tinh thông tay nghề, phản ứng nhanh nhậy, nhiều tài nghệ, nhưng dễ cô độc, thiếu tính người, thậm chí ích kỷ, ghẻ lạnh... 5 – Ngang vai là ngang tôi (là can có cùng cùng hành và cùng dấu với Nhật Can), gọi tắt là tỷ. Đại diện cho tay chân cấp dưới, bạn bè, đồng nghiệp, cùng phe phái, tranh lợi, đoạt tài, khắc vợ, khắc cha ,… Nữ đại diện cho tình chị em, nam đại biểu cho tình anh em. Công năng của ngang vai có thể giúp Thân khi Thân nhược, cũng như tài nhiều (của cải nhiều) nhờ ngang vai giúp Thân để khỏi mất của. Nhưng Thân vượng lại có ngang vai nhiều mà không bị chế ngự là tay chân cấp dưới không hòa thuận, hoặc kết hôn muộn, tính tình thô bạo, cứng nhắc, cố chấp, không hòa hợp với cộng đồng, khắc cha, khắc vợ, làm nhiều mà không gặp tiền của. Tâm tính của ngang vai, chắc chắn, cương nghị, mạo hiểm, dũng cảm, có chí tiến thủ, nhưng dễ cô độc, ít hòa nhập, thậm chí cô lập, đơn côi. Nói chung khi thân vượng ngang vai được coi là hung thần (vì lúc đó nó tranh đoạt tài với Thân). 6 - Kiếp tài cũng là ngang tôi (là can cùng hành nhưng khác dấu với Nhật Can), gọi tắt là kiếp. Nó đại diện cho tay chân cấp dưới, bạn bè, tranh lợi đoạt tài, khắc vợ, khắc cha, lang thang.... Thân vượng mà có nhiều kiếp cũng giống như ngang vai ở trên. Nữ đại diện cho tình anh em, nam đại diện cho tình chị em.... Công năng của kiếp cũng giống như của ngang vai. Tâm tính của kiếp tài là nhiệt tình, thẳng thắn, ý chí kiên nhẫn, phấn đấu bất khuất, nhưng dễ thiên về mù quáng, thiếu lý trí, thậm chí manh động, liều lĩnh.... 7 - Thực thần là cái mà nhật can sinh ra (cùng dấu với Nhật Can). Đại diện cho phúc thọ, người béo, có lộc. Nữ đại diện cho tình cảm với con gái. Công năng của thực thần làm xì hơi Thân, sinh tài, đối địch với thất sát, làm quan bị tổn thương. Khi gặp sát thì có thể chế phục làm cho Thân được yên ổn không có tai họa, nên nói chung được xem là cát thần. Tâm tính của thực thần, ôn hòa, rộng rãi với mọi người, hiền lành, thân mật, ra vẻ tốt bề ngoài nhưng trong không thực bụng, thậm chí nhút nhát, giả tạo. Can chi đều có thực thần thì phúc lộc dồi dào, nhưng không thích hợp cho người công chức mà thích hợp với những người làm nghề tự do. Mệnh nữ có thực thần là hay khinh rẻ chồng. Thực và sát cùng một trụ là người có dịp nắm quyền bính nhưng dễ bị vất vả, lao khổ, tai ách và ít con. Can có thực thần, chi có ngang vai là chủ về người có thân thích, bạn hữu hoặc tay chân giúp đỡ. Can là thực thần, chi là kiếp tài là chủ về người phúc đức giầu có, khi gặp điều xấu vẫn có lợi. Thực thần có cả kiếp tài, thiên ấn đi kèm là người dễ đoản thọ (?). Người tài nhiều thì diễm phúc ít. Thực thần lâm trường sinh vượng địa hoặc cát thần thì phúc lộc nhiều, phần nhiều là người phúc lộc thọ toàn diện. Thực thần lâm tử, tuyệt, suy thì phúc ít, bạc mệnh. Thực thần lâm mộ địa là người dễ chết yểu (?). 8 – Thương quan cũng là cái nhật can sinh ra (nhưng khác dấu với Nhật Can). Đại diện cho bị mất chức, bỏ học, thôi việc, mất quyền, mất ngôi, không chúng tuyển, không thi đỗ, không lợi cho người nhà và chồng. Nữ đại diện cho tình cảm với con trai. Công năng của thương quan làm xì hơi Thân, sinh tài, đối địch với thất sát, làm thương tổn quan. Sợ nhất là “thương quan gặp quan là họa trăm đường ập đến“. Nói chung thương quan được xem là hung thần, nhất là khi Thân nhược. Tâm tính thông minh, hoạt bát, tài hoa dồi dào, hiếu thắng, nhưng dễ tùy tiện, thiếu sự kiềm chế ràng buộc, thậm chí tự do vô chính phủ.... Người thương quan lộ rõ (lộ và vượng) tâm tính thanh cao hiên ngang, dám chửi mắng cả quỷ thần. Nhật Can vượng thì lại càng hung hăng hơn, loại người này tính xấu. Những người bề trên cũng không dám đụng đến nó, kẻ tiểu nhân thì càng sợ mà lánh cho xa. Nhưng thương quan vượng mà Thân nhược thì tính tình vẫn là thương quan, chỉ có điều không ghê gớm đến như thế. Thương quan trong tứ trụ nếu có Thân vượng thì nó là hỷ dụng thần khi hành đến vận tài phú quý tự nhiên đến. 9 – Chính tài là cái bị Thân khắc (có dấu khác với Nhật Can) là cái nuôi sống tôi. Đại diện cho tài lộc, sản nghiệp, tài vận, tiền lương. Còn đại diện cho vợ cả (với nam). Công năng là sinh quan và sát, xì hơi thực thương, áp chế kiêu thần làm hại chính ấn. Nói chung chính tài được coi là cát thần. Tâm tính cần cù, tiết kịêm, chắc chắn, thật thà, nhưng dễ thiên về cẩu thả, thiếu tính tiến thủ, thậm chí trở thành nhu nhược, không có tài năng.... Người Thân vượng, tài vượng là bậc phú ông trong thiên hạ, nếu có cả chính quan là phú quý song toàn, nam thì được vợ hiền nội trợ tốt. Ngược lại người Thân nhược mà tài vượng thì không những nghèo mà cầu tài rất khó khăn, trong nhà vợ nắm quyền hành. Tài nhiều thường không lợi cho đường học hành, là người dốt nát. Địa chi tàng tài là tài phong phú, tài thấu ra là người khảng khái. Tài có kho (ví dụ : nếu ất là tài thì kho là dần và mão hay tàng trong các chi Thổ) khi gặp xung tất sẽ phát tài (như tài là Ất, Mậu hay Quý tàng trong Thìn khi gặp Tuất ở tuế vận xung Thìn). Thân vượng có chính tài còn gặp thực thần là được vợ hiền giúp đỡ. Chính tài và kiếp tài cùng xuất hiện trong tứ trụ thì trong cuộc đời dễ gặp phải tiểu nhân nên tài dễ bị tổn thất. 10 – Thiên tài cũng là cái bị Thân khắc (nhưng cùng dấu với Nhật Can) cũng là cái nuôi sống tôi. Đại diện cho của riêng, trúng thưởng, phát tài nhanh, đánh bạc, tình cảm với cha. Với nam còn đại diện cho tình cảm với vợ lẽ. Công năng của thiên tài: sinh quan sát, xì hơi thực thương, áp chế kiêu thần, làm hại chính ấn. Nói chung thiên tài được coi là cát thần. Tâm tính của thiên tài, khảng khái, trọng tình cảm, thông minh, nhậy bén, lạc quan, phóng khoáng, nhưng dễ thiên về ba hoa, bề ngoài, thiếu sự kiềm chế, thậm chí là người phù phiếm.... Thiên tài đại diện cho cha hoặc vợ lẽ, hoặc nguồn của cải bằng nghề phụ. Thân vượng, tài vượng, quan vượng thì danh lợi đều có, phú quý song toàn. Thiên tài thấu can thì kỵ nhất gặp tỷ và kiếp, vì như thế vừa khắc cha lại làm tổn hại vợ (với nam). Can chi đều có thiên tài là người xa quê lập nghiệp trở lên giầu có, tình duyên tốt đẹp, của cải nhiều. Thiên tài được lệnh (vượng ở tháng sinh) là cha con hoặc thê thiếp hòa thuận, được của nhờ cha hoặc nhờ vợ, cha và vợ đều sống lâu, vinh hiển (?). Thiên tài lâm mộc dục là người háo sắc phong lưu. Thiên tài lâm mộ địa là cha hoặc vợ dễ chết sớm (?). Các câu hỏi trọng tâm của bài 5 : 1 - Thường thì trong cuộc sống hàng ngày ai ai cũng phải có nhà để sống, vậy thì người ta đã tìm thấy cái gì trong mỗi Tứ Trụ của con người đại diện cho cuộc sống thực tế của người có Tứ Trụ đó ? 2 - Tại sao lại có khái niệm 10 thần, chúng có liên quan gì tới tính chất sinh khắc của ngũ hành hay không ? 3 - 10 thần cũng như ngũ hành đại diện cho những cái gì trong cuộc sống thường ngày của chúng ta ?3 likes
-
Thưa tất cả cô bác, anh chị em trong diễn đàn. Đã lâu không vào thăm lại diễn đàn, bữa nay cháu xin gừi lời hỏi thăm sức khỏe tới tất cả mọi người và cám ơn riêng tới bác Haithienha, cô Việt Hà cùng với lòng khâm phục sâu sắc. Cháu không pót lá số vì không xin xem lá số mà chỉ muốn thông báo tin mừng với mọi người là cháu sắp sinh, con trai, tình trạng 2 mẹ con khỏe mạnh. Giữa tháng 7 này cháu sinh và chắc là sẽ sinh mổ giống cháu gái đầu. Mong mẹ tròn con vuông và yên ổn. Cám ơn cô Việt Hà đã xem giúp từ cách đây 2 năm rằng nếu sinh đúng vào tháng này năm 2011 sẽ là con trai. Thật lòng cháu khâm phục cô quá, giá ở gần cháu xin phép được tới thăm và cám ơn cô thật nhiều. Cám ơn bac haithienha đã chẩn đoán cháu mang thai đúng vào tháng 9/2010, cũng không thể nào bày tỏ hết sự cảm kích của cháu. Với các bạn đang mong có bé, mình có lá số tử vi mà cung tử khá xấu, Vũ Phá tại Tỵ, thường được giải lá khó có con, chỉ sinh con gái 1 bề... nhưng hy vọng làm nhiều điều tốt sẽ được ông tời trông lại. Mong tất cả các bạn sẽ được may mắn như mình. Một lần nữa cháu xin chào và cảm ơn anh chị em trong diễn đàn. Chúc mọi người vui, khỏe và tiếp tục nghiên cứu tử vi sâu sắc hơn.2 likes
-
LINH TRANG TRẢ LỜI PHỎNG VẤN http-~~-//www.youtube.com/watch?v=0tsNLxO35Os1 like
-
Tôi trích riêng đoạn này của anh Logical để quí vị và anh chị em thấy rõ cách tư duy của giới tự nhận là đang sở hữu tri thức khoa học hiện đại nhìn nhận về lý học. Tôi cũng cần xác định rằng: Đây không phải cách tư duy của riêng anh Logical, mà là của khá đông những người người nghiên cứu khoa học có kiến thức trung bình - tương đương tiến sĩ, phó giáo sư...Bởi tôi đã tiếp xúc với cách lập luận này. Ngay trong trang web của chúng ta, cũng không ít bài trích dẫn liên quan đến sự nhìn nhận tương tự của họ. Tôi đã nhiều lần cho rằng: Do sự tự tin thái quá vào kiến thức khoa học hiện đại - một thứ "Mê tín thời thượng" - nên họ có một phương pháp tư duy bị bó hẹp - rất hẹp - trong giới hạn trí thức và sự kiêu ngạo của họ: Tất cả cái gì ngoài kiến thức khoa học được công nhận - mà họ cho là đang nắm những gia trị của nó thì đều không đáng quan tâm. Họ cần phải hiểu rằng: Sự dự báo của Lý học Đông phương - nói chung - không phải là lối chơi xấp ngửa, để họ thống kê với xác xuất 50 %. Để hiểu được điều này, không cần phải giáo sư tiến sĩ, mà chỉ cần hết phổ thông trung học. Với kiểu lý luận của phương pháp lý luận cổ diển: Xin lỗi. Nếu có 4000 người dự đoán và tỷ lệ trúng rơi vào số ít - thí dụ chỉ 1 người đoán đội A thắng, còn lại cho hai trường hợp B/C thì các anh nghĩ sao?Họ chỉ nói đến sự dự đoán bóng đá của những người hâm mộ môn này, theo thói quen trực quan mà họ nhận thức được. Họ không cần đếm xỉa đến phương pháp dự đoán của Lý học nói chung. Lý học có phương pháp dự báo và là hệ qyủa của một lý thuyết thể hiện ở phương pháp luận liên quan đến lý thuyết đó, chứ không phải một thứ dự báo do tổng hợp nhận thức trực quan những thông tin về sự kiện đó. Bởi vậy, cho dù dự báo của Lý học 10 lần và chỉ đúng 2 một cách chí tiết và chính xác - tức là tỷ lệ chỉ là 20% thì một tư duy khoa học thật sự phải nghiên cứu một cách nghiêm túc. Bởi vì 80% sai kia có thể rơi vào trạng thái tâm lý và hoàn cảnh người dự báo. Huống chi thực tế trải hàng ngàn năm qua - nếu không có một hiểu quả cao thì nó không thể tồn tại hàng ngàn năm cho tới bây giờ. Trên thực tế ông Thiệu Vĩ Hoa đã tổng kết trong cuốn Chu Dịch và dự đoán học là trên 67%. Bởi vậy, đối với tôi, cách thể hiện họ chỉ là thứ kiêu ngạo và tự mãn - những họ không tự nhận thức được điều đó và họ cứ tưởng rằng họ luôn luôn đúng. Cái gì khác với họ là sai. Anh Logical là một trường hợp như vậy, ngay từ lúc mới đăng nhập đã có đề nghị tham gia diễn đàn học thuật và tất nhiên - chỉ nhìn qua giong văn của anh này tôi đạ thấy anh ta không đủ đăng cấp ít nhất về phương pháp tư duy để tham gia. Nên tôi đã im lăng . Đến nay thì đúng như Langtucodoc viết. Vào trước những năm 2000 - khi tôi xác định Kinh Dịch và thuyết Âm Dương Ngũ hành là của Việt tộc mà hậu duệ chính là người Việt Nam hiện nay, tôi biết là cả thế giới sẽ phản đối. Vài người thể hiện như anh Logical không là cái nghĩa lý gì.1 like
-
Năm nay chắc có bạn trai vào tháng 08-09 al sẽ gặp được người đó ,nhưng nên lập gia đình muộn hơn thì mới tốt , chồng là người ăn chơi sành điệu ,nhậu nhẹt khá ,ăn nói hơi khách sáo .1 like
-
Năm 27t chưa muốn cưới vợ thì năm 30t sẽ cưới vợ ,vợ dạng người trung bình ,dáng người trung bình không ốm cũng không qua mập , tánh tình chất phát , hơi chậm chạp và nhận thức kém vợ chồng khắc khẩu nhẹ ; số được hưởng của bên nội để lại khá nhiều nhưng càng dần về sau thì hao hụt phá tán bớt đi , thiếu thời công danh như bọt bèo ,về trung vận mới có sự nghiệp ổn định rất khá giả ,trong họ nhiều người chết non và ly tán nhất là những người nữ ,nếu có thể đi xa lập nghiệp thì càng tốt .1 like
-
Cụ Hồ Là Ai?
nguoivosu liked a post in a topic by Làng xưa
Thử tìm lời giải cho câu hỏi: Cụ Hồ là ai? Ngô Trần Đức Cụ Hồ là ai? Đây là một câu hỏi được giới nghiên cứu trong và ngoài nước nêu lên từ lâu, đã có nhiều lời giải khác nhau, đến nay vẫn tiếp tục có thêm những kiến giải mới. Điều đó cho thấy Hồ Chí Minh quả là một nhân vật đa dạng, phong phú, hấp dẫn, có khả năng sống với nhiều thời đại. Vậy Cụ Hồ là ai? Là dân tộc chủ nghĩa hay quốc tế chủ nghĩa? Là người mácxít hay người theo đạo Khổng? Là cộng hòa, cộng sản hay xã hội dân chủ? Chủ nghĩa cộng sản với Hồ Chí Minh là mục đích hay là phương tiện? v.v.. I. Lược qua một vài ý kiến tiêu biểu Ph. Devillers trong lời Tựa cho cuốn “Hô Chi Minh à Paris 1917-1923” của Thu Trang- Gaspard, có nêu câu hỏi: Tại Đại hội Tours, Nguyễn Ái Quốc tin theo Luận cương của Lênin, bỏ phiếu tán thành gia nhập Quốc Tế 3, nhưng ông đã phải là người mácxít chưa? Ông có tin vào sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân, một giai cấp lúc đó còn hết sức nhỏ bé về số lượng ở Đông Dương? Ông có tin vào học thuyết đấu tranh giai cấp và sự cần thiết phải xây dựng một nền chuyên chính vô sản hay chưa? Tại sao lúc nào ông cũng chỉ tập trung vào vấn đề thuộc địa, đặt nó lên trên tất cả các vấn đề khác? “Ông tin vào lời kêu gọi “vô sản toàn thế giới liên hiệp lại”, bởi đối với ông, việc giải phóng đất nước bị chinh phục chỉ có thể tiến hành bằng bạo lực chứ không thể bằng những cải cách rụt rè. Vậy, cần làm rõ: sự lựa chọn đó xuất phát từ niềm tin trong hệ tư tưỏng, từ sự ngả theo hệ lý luận mácxit một cách sâu sắc hay chỉ là từ một nhu cầu thực tế? Nếu cách xử sự của Pháp khác đi thì phải chăng Người vẫn chỉ có một sự lựa chọn đó?”[1]. Alain Ruscio trong bài “Chân dung một người bônsêvich vàng”[2] cũng nêu một câu hỏi: Nguyễn Ái Quốc có thật sự muốn trở thành một đảng viên Xã hội không? Để trả lời, ông dẫn Trần Dân Tiên : Tôi vào Đảng Xã hội Pháp “ chỉ vì đấy là tổ chức duy nhất ở Pháp bênh vực nước tôi, là tổ chức duy nhất theo đuổi lý tưởng cao quý của Đại cách mạng Pháp: Tự do, Bình đẳng, Bác ái”. Theo Ruscio, nghiã là Nguyễn Ái Quốc chỉ nhắc đến lý tưởng cộng hoà Pháp chứ không phải đến truyền thống chủ nghĩa xã hội Pháp hay Cách mạng tháng Mười Nga? Tác phẩm chính trị đầu tiên mà Nguyễn dịch ra tiếng Việt không phải là“Tuyên ngôn Đảng Cộng sản” của Mác - Enghen hay “Chủ nghĩa đế quốc, giai đoạn tột cùng của chủ nghĩa tư bản” của Lênin, mà là “Tinh thần pháp luật” của Montesquieu! Cũng theo Ruscio, nguờì ta không tìm thấy một dấu hiệu nào cho biết dự kiến chính trị của Nguyễn Ái Quốc vào thời đó rằng sau khi giành được độc lập sẽ xây dựng An Nam thành một nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa! Pierre Brocheux, một sử gia Pháp đã hơn 50 năm nghiên cứu về Hồ Chí Minh, lại đưa ra một nhận định: “Hồ Chí Minh là một người theo đạo Khổng, ông ưa các giải pháp ôn hoà hơn là cực đoan”. Hồ Chí Minh đã lên án các cuộc đánh người, giết người trong Cải Cách Ruộng Đất, và gọi như thế là hành xử theo lối bọn đế quốc, là hành vi tội phạm, là tội ác! Theo Brocheux, Hồ Chí Minh có một lần viết về vụ Trăm hoa đua nở ở Trung Quốc, có gọi các nhà văn - như Đinh Linh - là phái hữu; nhưng ông không hề nhắc tới tên của bất cứ văn nghệ sĩ, trí thức nào của Viêt Nam.[3] GS Nhật Bản Yoshiharu Tsuboi (Đại học Waseda) trong tham luận tại Hội thảo Việt Nam học lần thứ ba, nêu vấn đề: “Có lẽ giá trị mà Hồ Chí Minh coi trọng nhất trong suốt cuộc đời mình là những giá trị của nền cộng hoà mà cơ sở lý luận của nó là Tự do, Bình đẳng, Bác ái”.Theo ông, tinh thần cộng hoà Pháp mang tính lý tưởng rất cao, nó không quan tâm đến con người đó là ai, sinh ra ở đâu, trong gia đình, dòng họ nào,…vấn đề quan trọng là giá trị của bản thân con người đó có đủ khả năng suy nghĩ một cách lý tính hay không? Nền cộng hoà được xây dựng bởi những cá nhân, theo quan điểm giá trị mới về con người, rất khác với quan niệm của Nho giáo. Hồ Chí Minh là nhà chính trị duy nhất ở châu Á đã nhận thức được một cách đúng đắn tinh thần của nền cộng hòa Pháp và đã cố gắng đưa nó vào Việt Nam. Khi đã trở thành người cộng sản, Hồ Chí Minh vẫn ưu tiên đấu tranh cho độc lập dân tộc, cho mục tiêu Độc lập, Tự do, Hạnh phúc. Ông phân tich: - Độc lập mà Hồ Chí Minh muốn là một nhà nước có chủ quyền, theo quan niệm cận đại, xây dựng một chế độ Dân chủ Cộng hòa, xây dựng con người mới gánh vác công việc quốc gia. - Tự do không đơn thuần chỉ là quyền tự do định đoạt chính sách đối nội, đối ngoại của một nhà nước độc lập, mà là quyền tự do của mỗi người dân được hưởng với khả năng và trách nhiệm của mình, của một chủ thể xây dựng nền cộng hòa. - Hạnh phúc nghĩa là mỗi người đều có quyền mưu cầu hạnh phúc cho riêng mình và phải biết chủ động tích cực đấu tranh để giành lấy hạnh phúc. Như vậy, theo ông về mặt này, ông Hồ không phải là người cộng sản chính thống theo quan điểm Mác –Lênin. Cho nên, nếu chỉ lấy ý thức hệ Mác-Lênin để lý giải cụ Hồ là không đầy đủ, do còn thiếu cái nền văn hoá - tư tưởng phương Tây, do không nắm được “tinh thần cộng hoà”, mà vẫn đóng khung trong cách nhìn “đấu tranh giai cấp”. Bản thân ông Hồ, để nhận viện trợ của phe xã hội chủ nghĩa cho cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc Việt Nam, ông đã phải phát ngôn và hành động như một người cộng sản, đó là do thúc ép của hoàn cảnh lịch sử, mà ông không có sự lựa chọn nào khác! Ngoài ra, có một vài học giả Việt Nam, gần đây cũng đưa ra những nhận định riêng của mình về Hồ Chí Minh . Có người cho rằng Hồ Chí Minh chỉ khoác áo cộng sản chứ không phải là người cộng sản, ông là người xã hội dân chủ từ gốc rễ. GS Hoàng Ngọc Hiến, phát biểu trong một hội thảo, cho rằng sự tiếp nhận chủ nghĩa Mác ở Hồ Chí Minh là một quá trình, phải nghiên cứu quá trình đó để xem Hồ Chí Minh đã tiếp biến chủ nghĩa Mác như thế nào? Theo GS Hiến, Nguyễn Ái Quốc từng ở chung với Phan Văn Trường khoảng 6 tháng, đó là Trường Đại học của Cụ Hồ! mà ông Trường lại là một người xã hội từ đầu đến chân! Tuy không nói thẳng ra, nhưng người nghe đều hiểu ý của ông: Hồ Chí Minh là một người xã hội dân chủ hơn là một người cộng sản. Còn có thể dẫn thêm một vài ý kiến khác nữa, nhưng trên đây là mấy lập luận tiêu biểu. Vậy Hồ Chí Minh là ai? Cộng sản hay Dân tộc? người yêu nước hay chiến sĩ quốc tế? Cộng hòa, Cộng sản hay Xã hội dân chủ? Theo chủ nghĩa Mác hay theo đạo Khổng, v.v.. II. Thử tìm lời giải cho câu hỏi: Cụ Hồ là ai ? Để trả lời câu hỏi này một cách rõ ràng, theo tôi, không thể chỉ dựa vào một, hai yếu tố nào đó một cách tách biệt để lập luận, lý giải, rồi khẳng định Cụ Hồ là ai. Theo thiển ý, phải đặt mỗi yếu tố đó trong tổng thể cuộc đời Hồ Chí Minh, nhân cách Hồ Chí Minh, văn hoá Hồ Chí Minh, phương pháp hành xử Hồ Chí Minh,…mới hiểu đúng được thực chất con người Hồ Chí Minh, tư tưởng Hồ Chí Minh. Một nhà báo Mỹ, từ rất sớm đã đưa ra nhận xét: “Hồ Chí Minh là một trong số những nhân vật lạ lùng nhất của thời đại chúng ta: một chút Gandhi, một chút Lênin,…nhưng hoàn toàn Việt Nam”[4]. Đây là một gợi ý cần được tham khảo. Hồ Chí Minh là người Việt Nam nhất trong những người Việt Nam, là sự kết tinh những giá trị tiêu biểu nhất của văn hoá - lịch sử - đất nước và con người Việt Nam. Do đó, muốn hiểu được Hồ Chí Minh, phải bắt đầu từ hiểu văn hoá và con người Việt Nam. Đó là một nền văn hoá khoan dung, cởi mở, có khả năng dung hoá, tích hợp những yếu tố tích cực, tiến bộ từ ngoài vào, không chút hẹp hòi, kỳ thị, miễn là nó không đi ngược lại với bản chất nhân văn của văn hoá Việt Nam. Vì vậy, văn hoá Việt Nam sớm có hiện tượng “tam giáo đồng nguyên”. Con người nông dân Việt Nam ngày xưa vốn rất thực tế, họ có thể vừa thờ Thần, thờ Phật lại vừa thờ cả ma quỷ (thần cây đa, ma cây gạo, cú cáo cây đề), không hoàn toàn tin, nhưng để nó không trở thành kẻ thù của mình, không làm hại mình, đơn giản vậy thôi. Cũng nên coi đó là một nét khôn ngoan trong phương pháp xử thế của người Việt xưa mà ta cần xem xét. Khi còn ở trong nước, Nuyễn Tất Thành đã được hấp thụ một nền Quốc học và Khổng học khá cơ bản, đủ sức tạo cho anh một bản lĩnh văn hoá vững vàng để có thể “hòa nhi bất đồng”. Ra nước ngoài, anh Thành có điều kiện đi nhiều, hiểu rộng, biết nhiều ngoại ngữ, đến được nhiều nước, làm nhiều nghề, tiếp xúc với nhiều vĩ nhân,…nghĩa là có cơ hội tiếp xúc với nhiều nền văn hoá, gia nhập nhiều tổ chức, vào nhiều hội, đoàn (Công đoàn lao động hải ngoại ở Anh, các Hội du lịch, Hội nghệ thuật và khoa học, Câu lạc bộ Faubourg ở Pháp, Đảng Xã hội. Sau khi đã vào Đảng Cộng sản rồi, vẫn tham gia Hội Nhân quyền, rồi cả Hội Tam điểm, đến với chủ nghĩa Mác rồi vẫn đến với chủ nghĩa Tôn Dật Tiên,…) để học cách tổ chức, khảo sát các cơ chế chính trị - xã hội,…nhằm chắt lọc lấy cái hay, cái tốt, cái thích hợp, phục vụ cho sự nghiệp cứu nước, giải phóng dân tộc và xây dựng nước Việt Nam độc lập trong tương lai. Do vậy, Hồ Chí Minh được coi là biểu tượng của sự tích hợp văn hoá Đông-Tây. Nói tích hợp nghĩa là biết tiếp thu có chọn lọc những giá trị từ bên ngoài nhưng vẫn giữ được bản sắc riêng bên cạnh sự thâu hoá những giá trị chung của nhân loại. Cho nên không có gì lạ khi thấy trong văn hoá Hồ Chí Minh chứa đựng những yếu tố tích cực của tinh thần cộng hoà Pháp, dân chủ và nhân quyền Mỹ, tinh thần trọng đạo đức của Khổng giáo, đức từ bi, cứu khổ, cứu nạn của Phật, lòng nhân ái của Chúa, phép biện chứng của Mác, tinh thần cách mạng của Lênin, chủ thuyết Tam Dân của Tôn Dật Tiên, v.v..mà vẫn hoàn toàn Việt Nam. Như ta đã thấy: khi còn ở Pháp hay Nga, Nguyễn Ái Quốc có thể mặc Âu phục, đội mũ phớt, thắt cravate, viết báo, đọc diễn văn với một văn phong rất “Tây”, nhưng khi về Trung Quốc lại giản dị trong bộ quân phục Bát lộ quân; sang Thái Lan, ở chùa, khoác áo cà sa; về đến Chỉ Thôn (Vân Nam) lại sẵn sàng viết và đọc văn tế cầu hồn cho những kiều bào ta bị bom Nhật sát hại: Nam mô bồ tát đế tôn, Tiếp dẫn linh hồn về Mạc tư khoa! Người chiến thắng là người không “chấp nê”, mà có tinh thần “phá chấp”, biết thích ứng trước tình hình thực tế mà không để đánh mất mình - đúng như Hồ Chí Minh đã từng trả lời khi có người hỏi: ông là ai? -Tôi vẫn là tôi ngày trước, một người yêu nước.Vận dụng phương pháp trên vào tìm hiểu Cụ Hồ là ai, chúng tôi thử từng bước lý giải những vấn đề đang đặt ra. 1. Hồ Chí Minh có phải là người suốt đời theo lý tưởng cộng hoà? Trở lại ý kiến của GS Nhật Bản Tsuboi cho rằng “giá trị mà Hồ Chí Minh coi trọng suốt đời mình là tinh thần cộng hoà, mà cơ sở của nó là Tự do, Bình đẳng, Bác ái”, liệu có phải hoàn toàn như vậy không? Đúng là trên hành trình đi ra với văn hoá nhân loại, Hồ Chí Minh chịu ảnh hưởng của văn hoá Pháp trước tiên và có lẽ nó cũng để lại những dấu ấn sâu đậm trong nội dung và phong cách văn hoá của Cụ Hồ. Tại Pháp, Hồ Chí Minh đã tiếp thu lý tưởng nhân quyền, dân quyền và pháp quyền của các nhà Khai sáng Pháp, vận dụng nó vào cuộc đấu tranh, phê phán chế độ thực dân, đòi các quyền ấy cho nhân dân các nước thuộc địa. Yêu sách 8 điểm, lời mở đầu Tuyên ngôn Độc lập 1945, bản Hiến pháp đầu tiên năm 1946,…đều in dấu ảnh hưởng các giá trị của nền cộng hoà Pháp, nó đã trở thành một phần trong mục tiêu mà Hồ Chí Minh theo đuổi – nhưng đó có phải là cái đích duy nhất và mục tiêu cuối cùng của ông hay không, thì vẫn cần phải bàn thêm . Theo tôi, cái giá trị lớn nhất mà Hồ Chí Minh theo đuổi suốt đời, như chính Người đã tuyên bố là “Độc lập cho Tổ quốc tôi, tự do cho đồng bào tôi, đó là tất cả những gì tôi muốn, đó là tất cả những gì tôi hiểu”. Điều quan trọng ấy rất tiếc lại không có trong bảng giá trị của nền cộng hoà Pháp. Đó cũng là điều mà trong khi đàm phán, tranh luận với chính giới Pháp năm 1946, Cụ đã chủ động bổ sung vào. Hồ Chí Minh có lần nói: “Người Việt và người Pháp cùng tin tưởng vào đạo đức: Tự do, Bình đẳng, Bác ái, Độc lập”[5]. Thêm Độc lập vào để ràng buộc họ: “Nước Pháp muốn độc lập, không có lý gì lại muốn nước Việt Nam không độc lập?” GS Tsuboi đã lý giải khẩu hiệu Tự do, Bình đẳng, Bác ái rất đúng với tinh thần phương Tây, nhưng lại không thật đúng theo quan niệm của Hồ Chí Minh. Tự do theo tinh thần cộng hoà Pháp trước hết là tự do cá nhân, vì tiền đề của nền cộng hòa Pháp được xây dựng trên quan điểm giá trị về con người cá nhân, nhất là quyền tự do cá nhân. Còn Hồ Chí Minh, trước hết vẫn là sản phẩm của nền văn hoá Việt Nam, văn hoá Phương Đông, vốn đề cao tinh thần cộng đồng, luôn đặt quốc gia, dân tộc lên trên cá nhân. Tự do theo tinh thần Hồ Chí Minh trước hết vẫn là tự do của toàn dân tộc chứ chưa phải là tự do cá nhân, là giải phóng cho dân tộc thoát khỏi ách nô lệ thực dân, được làm chủ đất nước, làm chủ vận mệnh của mình (chứ chưa lấy giải phóng tự do cá nhân làm mục tiêu). Bình đẳng hiểu theo tinh thần cộng hoà là chống lại mọi sự phân biệt đối xử về dân tộc, màu da, giới tinh,…Mỗi cá nhân sinh ra đều có giá trị như nhau, như Tuyên ngôn Độc lập 1776 của nước Mỹ mà Hồ Chí Minh đã trích dẫn: ‘Tất cả mọi người sinh ra đều có quyền bình đẳng” và coi đó là quyền tự nhiên của con người: bình đẳng về nghĩa vụ và quyền lợi, về nhân phẩm, về cơ hội, nhất là bình đẳng trước pháp luật. Bình đẳng là một khái niệm không xa lạ với Hồ Chí Minh vì nó vốn là một lý tưởng, một ước mơ ngàn đời của nhân dân lao động Việt Nam về một xã hội công bằng, không còn áp bức bất công, không còn cách biệt giầu, nghèo… Tuy nhiên, quan niệm của Hồ Chí Minh về bình đẳng cũng có nội dung khác với phương Tây: nếu tinh thần cộng hoà coi trọng quyền bình đẳng giữa các cá nhân thì Hồ Chí Minh lại nâng nó lên thành quyền bình đẳng giữa các dân tộc. Từ Tuyên ngôn Độc lập Mỹ, Hồ Chí Minh suy ra: “Tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do”. Bác ái (fraternité: có lẽ phải dịch là Hữu ái mới phù hợp, vì gốc của nó là từ frère, fraternel, nghĩa là tình anh em, tình đồng đội. Bác ái (philanthropie) có nghĩa quá rộng, nó đòi hỏi một tình cảm xuyên dân tộc, xuyên giai cấp, theo kiểu thuyết kiêm ái của Mặc tử, hay lòng bác ái của Chúa : phải yêu cả kẻ thù của mình!). Hữu ái gần với Hồ Chí Minh hơn, ông vốn từng là môn đệ của Khổng giáo, sớm thấm nhuần tinh thần “tứ hải giai huynh đệ”, nên Hồ Chí Minh thường quen gọi những ngưòi lao động, các dân tộc bị áp bức là anh em. (hỡi anh em ở các thuộc địa!, các dân tộc anh em, các nước anh em, vừa là đồng chí, vừa là anh em,…) Tóm lại, Hồ Chí Minh nhận thức Tự do, Bình đẳng, Bác ái qua lăng kính của người dân bị áp bức châu Á chứ không theo tinh thần cách mạng tư sản Pháp, nên ông chỉ coi đó là những yếu tố cần chứ chưa đủ. Vì vậy, không thể coi những giá trị của nền cộng hoà Pháp là mục tiêu theo đuổi suốt đời của Hồ Chí Minh . 2. Hồ Chí Minh có phải chỉ thuần túy là người theo chủ nghĩa dân tộc? a. Hồ Chí Minh trước hết là một người yêu nước nồng nhiệt Điều này đã được khẳng định trong danh xưng của Cụ: Hồ Chí Minh trước sau vẫn là Nguyễn Ái Quốc= một người yêu nước. Năm 1960, vào lúc thịnh thời của chủ nghĩa xã hội, trong bài “Con đường dẫn tôi đến chủ nghĩa Lênin”, Hồ Chí Minh đã viết: “Lúc đầu chính là chủ nghĩa yêu nước chứ chưa phải chủ nghĩa cộng sản đã đưa tôi tin theo Lênin, tin theo Quốc tế Thứ ba. Từng bước một, trong cuộc đấu tranh, vừa nghiên cứu lý luận Mác-Lênin vừa làm công tác thực tế, dần dần tôi hiểu được rằng chỉ có chủ nghĩa Xã hội, chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng được các dân tộc bị áp bức và những người lao động trên thế giới khỏi ách nô lệ”. Như vậy, Cụ Hồ đã nói rõ về con đường cách mạng của mình là từ chủ nghĩa yêu nước đến với chủ nghĩa Mác-Lênin. Do đó, trả lời câu hỏi Cụ Hồ là ai, phải nhận thức được sứ mệnh kép đó, chứ không nên tách bạch một cách cực đoan, siêu hình: hoặc chỉ là người này (theo chủ nghĩa dân tộc) hoặc chỉ là người kia (theo chủ nghĩa quốc tế), chỉ là người mácxit hay chỉ là người theo đạo Khổng. Hồ Chí Minh chịu ảnh hưởng của nhiều nền văn hóa, nên không thể quy bộ mặt tinh thần của ông vào một dạng đơn nhất nào. Tuy nhiên, trong sự đa dạng đó, vẫn cần thiết phải xác định đâu là mặt chủ thể trong nhân cách của Hồ Chí Minh. Là người nô lệ mất nước, ra đi tim đường cứu nước, khát vọng cháy bỏng mà chàng thanh niên Nguyễn Tất Thành mang theo là khát vọng giải phóng dân tộc và canh tân đất nước. Sau này, Hồ Chí Minh đã nói một câu thống thiết: “Tôi chỉ có một ham muốn, ham muốn tột bậc là lo làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành”. Yêu nước đã trở thành lẽ sống, thành tiêu chuẩn chân lý để ông xét đoán con người và việc đời. Trước sự phân liệt của Đảng Xã hội ở Đại hội Tours, có người hỏi: anh sẽ bỏ phiếu cho Quốc tế nào? -Thế Quốc tế nào bênh vực các dân tộc thuộc địa? Được trả lời là Quốc tế 3, anh quyết định bỏ phiếu tán thành gia nhập Quốc tế 3. Đó không phải là một quyết định cảm tính, mà là theo lý tưởng, theo mục tiêu cứu nước của anh. Vì sao có thể nói như vậy? Trong 10 năm đầu, Nguyễn Tất Thành đã đi khắp thế giới, hướng đến mọi chân trời để tìm đường thực hiện lý tưởng, nhưng không có bàn tay thân thiện nào chìa ra với anh, vì vào hai thập niên đầu thế kỷ XX, vấn đề giải phóng các dân tộc thuộc địa vẫn còn là một vấn đề quá mới, quá lớn đối với thế giới, ngay Mác và Enghen trước đó cũng chưa đưa ra được câu trả lời thật rõ ràng, còn các Đảng Xã hội Quốc tế 2 lại chưa vượt qua được tâm lý dân tộc hẹp hòi, vì lợi ích quốc gia, họ vẫn ủng hộ chính sách thuộc địa của nhà nước tư bản. Mặt khác, cũng do cuộc đấu tranh giải phóng của các dân tộc thuộc địa chưa phát triển mạnh mẽ, thực tiễn thời đại chưa hé ra được lời giải đáp rõ ràng. Chỉ sau thắng lợi của Cách mạng tháng 10 Nga, với sự thành lập Quốc tế 3 và Luận cương về vấn đề dân tộc và thuộc địa của Lênin được công bố, tiếp theo là Đại hội Ba-cu, nêu cao tinh thần đoàn kết anh em giữa các dân tộc phương Đông với giai cấp vô sản phương Tây, rồi cùng với kinh nghiệm thực tiễn hoạt động và đấu tranh của bản thân, Nguyễn Ái Quốc mới dần dần đi tới được nhận thức rằng: “Muốn cứu nước, giải phóng dân tộc, không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản”[6]. Do đó, Nguyễn Ái Quốc đã từ chủ nghĩa yêu nước đến với chủ nghĩa quốc tế. Tuy nhiên, trong cái song đề đó, vẫn phải thấy mặt chính, mặt chủ thể của nó, đó là mặt nào? Có người nêu thắc mắc: tại sao Nguyễn Ái Quốc lúc nào cũng chỉ đề cập đến vấn đề thuộc địa mà ít hoặc không đề cập đến những vấn đề nóng bỏng khác trong phong trào cộng sản quốc tế lúc bấy giờ, vậy ông là người cộng sản theo chủ nghĩa quốc tế hay thuần túy chỉ là người theo chủ nghĩa dân tộc? Thử hỏi, một người dân mất nước, đang đi tìm đường cứu nước làm sao lại không nói nhiều về vấn đề thuộc địa khi từng ngày, từng giờ chủ nghĩa thực dân đang gieo tai họa, đau khổ lên cuộc sống của đồng bào mình, tại sao lại không đề cao chủ nghĩa yêu nước và tinh thần dân tộc, vốn là “động lực vĩ đại và duy nhất” của họ? Hãy nghe ý kiến của một người cộng sản phương Tây, ông Ch. Fourniau: “Vấn đề duy nhất đặt ra là cần hiểu rõ tại sao và như thế nào mà một người dân thuộc địa tất nhiên phải theo chủ nghĩa dân tộc? và tại sao lại tìm được ở chủ nghĩa cộng sản như là con đường duy nhất để thực hiện độc lập cho Tổ quốc mình?”[7]Tất nhiên, chủ nghĩa dân tộc và “dân tộc chủ nghĩa” là hai khái niệm khác nhau. J. Jaurès - lãnh tụ hàng đầu của Đảng Xã hội Pháp, từng nói đại ý: Một ít chủ nghĩa yêu nước thì đưa ta xa rời chủ nghĩa quốc tế, rất nhiều chủ nghĩa yêu nước thì đưa ta vào trung tâm của chủ nghĩa quốc tế. Nguyễn Ái Quốc-Hồ Chí Minh chinh là biểu tượng cao đẹp của tinh thần đó. b. Hồ Chí Minh đồng thời là một chiến sĩ quốc tế trong sáng Từ người yêu nước trở thành người cộng sản, được tiếp nhận phương pháp làm việc biện chứng, trí tuệ của Nguyễn Ái Quốc được nâng cao thêm, tầm nhìn thời đại được mở rộng hơn, bạn bè, đồng chí trở nên đông đảo hơn, sự ủng hộ và giúp đỡ quốc tế cũng ngày càng to lớn và hiệu quả hơn, triển vọng thắng lợi của sự nghiệp đấu tranh giải phóng của Việt Nam cũng trở nên sáng sủa hơn. Sau khi trở thành người cộng sản, cùng với các thành viên khác gốc thuộc địa, Nguyễn Aí Quốc đã kiến nghị với Đảng Cộng sản Pháp lập ra Ban nghiên cứu Thuộc địa, xuất bản báo Le Paria, tham gia sáng lập Hội liên hiệp Thuộc địa, kiến nghị với báo L’Humanité mở chuyên mục thường xuyên về vấn đề thuộc địa. Tên tuổi Nguyễn Áí Quốc trên các bài báo dần dần trở nên quen thuộc với các dân tộc bị áp bức đang đấu tranh chống chủ nghĩa thực dân. Nguyễn Áí Quốc trở thành người cộng sản đồng thời cũng trở thành một chiến sĩ quốc tế chân chính. Ông không chỉ quan tâm đến số phận các dân tộc Đông Dương mà còn quan tâm tới số phận của tất cả những “người cùng khổ” trên trái đất: ủng hộ nền độc lập của nhân dân Airơlen, bênh vực quyền lợi của người Mỹ da đen, lên án tội ác của chủ nghĩa thực dân gây ra ở Đahômây, Angiêri, Mađagaxca,… Có thể nói, Nguyễn Ái Quốc là người có công lớn trong việc đấu tranh, bảo vệ, phát triển và hiện thực hoá học thuyết Lênin về cách mạng thuộc địa bằng thắng lợi của cách mạng giải phóng dân tôc của Việt Nam và thắng lợi của phong trào giải phóng dân tôc trên thế giới trong thế kỷ XX. Chính Đảng Cộng sản Pháp đã đánh giá rất cao những cống hiến của Nguyễn Ái Quốc vào đường lối của Đảng Pháp trong vấn đề thuộc địa: “Nguyễn Ái Quốc đã có đóng góp quan trọng vào việc hình thành truyền thống chống chủ nghĩa thực dân, một truyền thống làm vẻ vang cho Đảng Cộng sản Pháp…Vậy thì hẳn rằng Người phải được coi là một trong những người thầy của Đảng Cộng sản Pháp về những vấn đề thuộc địa”[8]. 3. Hồ Chí Minh phải chăng là một người xã hội dân chủ? Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh là người yêu nước và chiến sĩ quốc tế, điều đó không ai có thể phủ nhận, nhưng liệu ông có phải là người xã hội dân chủ? Hiện nay, khi mô hình chủ nghĩa xã hội dân chủ Thụy Điển đang được ca ngợi, có một số người lại cho rằng Hồ Chí Minh không phải là cộng sản, mà về thực chất ông là người xã hội dân chủ từ trong gốc rễ! a. Trước hết, cần nhìn lại xem có khi nào Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh phủ nhận danh hiệu người cộng sản của mình không? Trong gần 50 năm làm người cộng sản, khi thuận lợi, lúc khó khăn, dù chi là người thợ ảnh bình thường hay đã là vị chủ tịch nước, khi bị giam hãm chốn ngục tù hay đã lên tới tuyệt đỉnh vinh quang,…Hồ Chí Minh lúc nào cũng tỏ rõ là người cộng sản thuỷ chung, thắng không kiêu, khó không nản, chưa từng thấy khi nào ông phủ nhận danh hiệu cộng sản của mình. Tháng 8 năm 1944, được Trương Phát Khuê trả lại tự do sau hơn một năm cầm tù, trước khi rời Liễu Châu, Hồ Chí Minh nói thẳng với Trương: “Tôi là một người cộng sản, nhưng điều tôi quan tâm hiện nay là Tự do, Độc lập của Việt Nam chứ không phải là chủ nghĩa cộng sản. Tôi có một lời đảm bảo đặc biệt với ông rằng: chủ nghĩa cộng sản sẽ chưa được thực hiện ở Việt Nam trong vòng 50 năm tới”[9]. Giữa năm 1946, ở Paris, một nhà báo cánh hữu muốn làm giảm thiện cảm của những người Pháp không ưa chủ nghĩa cộng sản đối với Hồ Chí Minh, đã đưa ra một câu hỏi: “Thưa Chủ tịch, Ngài có phải là cộng sản không?”CT Hồ Chí Minh bình thản đi tới lẵng hoa bày trên bàn, rút ra từng bông lần lượt đem tặng cho những người có mặt, trước hết là cho chị em phụ nữ, và nói rằng: “Tôi là người cộng sản như thế này này”(Je suis communiste comme ça!). Hồ Chí Minh hiểu thâm ý của nhà báo Pháp khi đưa ra câu hỏi không thân thiện nói trên, nghĩa là muốn mượn hình ảnh người cộng sản đang bị bêu xấu trong các tấm áp phich xuất hiện trên đường phố Paris thời bấy giờ để hạ uy tín của Hồ Chí Minh. Nhưng cử chỉ văn hoá trang nhã, lịch thiệp của ông đã cho các quan khách thấy hình ảnh một người cộng sản khác- một người cộng sản Việt Nam lịch thiệp, nhân ái, nhân văn. Trước khi qua đời, Người đã dặn lại trong Di Chúc một điều có liên quan đến trách nhiệm đảng viên cộng sản của mình: “Đảng ta là đảng cầm quyền,…phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người đày tớ thật trung thành của nhân dân”. Hồ Chí Minh đi theo chủ nghĩa cộng sản, nhưng hiểu rất rõ việc thực hiện lý tưởng cộng sản là một quá trình lịch sử lâu dài, chỉ khi nào đạt tới trình độ phát triển rất cao về kinh tế, văn hóa, xã hội và con người mới có điều kiện thực hiện. Đối với Việt Nam, Người khẳng định lý tưởng đó còn quá xa, chưa thể thực hiện được trong vòng 50 năm tới; còn đối với thế giới, thì Người cũng nói khi trả lời các nhà báo Pháp năm 1946 tại Paris, qua một sự so sánh: “Tất cả mọi người đều có quyền nghiên cứu một chủ nghĩa. Riêng tôi, tôi đã nghiên cứu chủ nghĩa Các Mác. Cách đây 2000 năm, Đức chúa Giêxu đã nói là chúng ta phải yêu mến các kẻ thù của ta. Điều đó đến bây giờ vẫn chưa thực hiện được. Còn đến bao giờ chủ nghĩa Các Mác thực hiện thì tôi không thể trả lời được”.[10] Như đã thấy: Hồ Chí Minh là một nhà chính trị tỉnh táo và trung thực. b. Vậy Hồ Chí Minh là ai? Cần thấy rằng con đường cách mạng của Nguyễn Tất Thành khi ở Pháp đã phát triển qua nhiều chặng. Khi mới chân ướt chân ráo tới Paris cuối năm 1911, trung thành với chiến lược canh tân của Phan Châu Trinh (có thể có sự gợi ý và giúp đỡ của cụ Phan), anh Thành đã viết đơn xin vào Trường Thuộc địa với hy vọng tranh thủ nâng cao học vấn để trở về giúp đồng bào. Năm 1919, cùng với Phan Châu Trinh và Phan Văn Trường, anh đưa Yêu sách 8 điểm gửi Hội nghị Hòa bình Versailles, thí điểm dùng luật pháp tư sản và biện pháp kiến nghị hòa bình để đòi các quyền dân chủ tối thiểu cho nhân dân Việt Nam. Chắc không ai cho anh là người theo chủ nghĩa cải lương ! Trước khi trở thành người cộng sản, Nguyễn Ái Quốc đã từng tham gia Đảng Xã hội Pháp Quốc Tế 2. Dù đã có cuộc chia tay ở Đại hội Tours, ông vẫn duy trì quan hệ tốt đẹp với nhiều lãnh tụ và đảng viên Xã hội - những người một thời đã dìu dắt, giúp đỡ ông trong buổi đầu chập chững khi ông mới bước vào hoạt động chính trị trên đất Pháp. Chắc cũng không ai vì điều này mà cho ông là người xã hội dân chủ từ gốc rễ? Hay là, do cách ứng xử ôn hòa của ông: biết tiến biết lui, biết liên minh, đối thoại, kiên trì giải pháp hòa bình trong nhiều vấn đề quốc gia và quốc tế, mà có thể khiến người ta nhìn nhận ông như là một người xã hội dân chủ chăng? Giải đáp vấn đề này, cần nhắc lại một nguyên lý đơn giản: Chủ nghĩa Mác-Lênin, cũng như mọi chủ thuyết chính trị hay tôn giáo khác, như Phật giáo, Nho giáo khi được du nhập vào Việt Nam, ít nhiều cũng bị khúc xạ bởi truyền thống văn hoá, tư tưởng, đạo đức, lối sống ,…của dân tộc Việt Nam - một dân tộc có truyền thống nghìn năm văn hiến. Gia nhập hàng ngũ mácxít, đương nhiên Nguyễn Ái Quốc chấp nhận học thuyết đấu tranh giai cấp của Mác. Nhưng xuất phát từ thực tế xã hội và văn hoá truyền thống Việt Nam, ông không coi đấu tranh giai cấp là động lực duy nhất, càng không tuyệt đối hoá nó, mà có sự điều chỉnh cho phù hợp với thực tế Việt Nam. Lý luận Mác-Lênin nhấn mạnh đấu tranh giai cấp và chuyên chính vô sản, nhưng Nguyễn Ái Quốc lại cho rằng: “Cuộc đấu tranh giai cấp (ở Việt Nam ) không diễn ra giống như ở phương Tây”.“Chủ nghĩa dân tộc là một động lực lớn của đất nước…Người ta không thể làm gì được cho người An Nam nếu như không dựa trên cái động lực vĩ đại và duy nhất trong đời sống xã hội của họ”[11]. Trong những năm đầu kháng chiến chống Pháp, Hồ Chí Minh đã có lần phê phán những biểu hiện giáo điều, tả khuynh của một số người mới từ nước ngoài về: “Nghe người ta nói giai cấp đấu tranh, mình cũng đề ra khẩu hiệu giai cấp đấu tranh mà không xét hoàn cảnh nước mình như thế nào để làm cho đúng”[12]. “Trong lúc cần toàn dân đoàn kết mà chủ trương giai cấp đấu tranh là một điều ngu ngốc”[13]. Về chính quyền, Hồ Chí Minh không tuyên bố xây dựng nhà nước chuyên chính vô sản mà chủ trương thành lập nhà nước dân chủ cộng hòa, tiêu biểu cho khối đại đoàn kết toàn dân. Là người cộng sản, đương nhiên về nguyên tắc, Hồ Chí Minh thừa nhận học thuyết về sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân. Nhưng khi Nguyễn Ái Quốc bước vào hoạt động chính trị đầu thập niên 20 thế kỷ trước, thì giai cấp công nhân Việt Nam mới đang trên đường hình thành, số lượng còn nhỏ bé, càng chưa thể có giai cấp công nhân công nghiệp và cũng chưa thực sự xuất hiện trên vũ đài lịch sử như một lực lượng chính trị. Khi đó, Nguyễn Ái Quốc đã từng viết một số bài về phong trào công nhân Ấn Độ, Trung Quốc, Nhật Bản, Thổ Nhĩ Kỳ,…mà chưa có điều kiện bàn nhiều về sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân Việt Nam khi nó chưa thật sự trưởng thành. Từ sau cách mạng tháng Tám, rồi bước vào cuộc kháng chiến chống Pháp, thì Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Chỉ có giai cấp công nhân lãnh đạo thì kháng chiến mới thắng lợi, kiến quốc mới thành công”[14]. Những điều trình bày trên cho thấy Hồ Chí Minh hoàn toàn không có gì giống với các quan điểm cơ bản của chủ nghia xã hội dân chủ. Ông không phủ nhận đấu tranh giai cấp để đi vào con đường thoả hiệp với kẻ thù ; không từ bỏ con đường đấu tranh cách mạng để chấp nhận những cải cách bố thí nhỏ giọt của đế quốc, thực dân ; càng không tin rằng vận mệnh của Tổ quốc, tự do của nhân dân có thể giành lại chỉ bằng con đường đấu tranh nghị trường, v.v. vốn là những quan điểm đặc trưng của những người xã hội dân chủ. Chính vì bất mãn với thái độ của các lãnh tụ Đảng Xã hội Pháp trong vấn đề thuộc địa : “Đề ra những luận cương dài dằng dặc và thông qua những nghị quyết rất kêu để sau Đại hội đưa vào viện bảo tàng”[15], nên Nguyễn Ái Quốc đã bỏ phiếu tán thành gia nhập Quốc Tế 3, trở thành người chiến sĩ quốc tế nồng nhiệt, đấu tranh không mệt mỏi cho độc lập của dân tộc mình và cho sự nghiệp giải phóng các dân tộc thuộc địa. Đó là so sánh trên những điều thuộc về nguyên tắc, còn cung bực uyển chuyển trong xử lý mỗi sự việc cụ thể là thuộc về sách lược, nó phụ thuộc vào phong cách, khí chất của mỗi con người, vào nền tảng văn hóa của họ. Nhưng điều quan trọng không phải là lý giải xem Hồ Chí Minh là Xã hội Dân chủ hay Cộng sản, mà vấn đề cơ bản cần làm rõ: Ông là người cộng sản như thế nào? Bởi trong những lãnh tụ cộng sản, có người chuyên quyền, độc đoán, giáo điều, cơ hội “tả” khuynh,…lại cũng có những người như Antonio Gramsçi, lãnh tụ Đảng Cộng sản Italia, chủ trương thay thế khái niệm “chuyên chính vô sản”(dictature du prolétariat) bằng khái niệm “bá quyền lãnh đạo của giai cấp vô sản” (hégémonie du prolétariat), nhấn mạnh vai trò chỉ đạo của trí tuệ và đạo đức hơn là bằng quyền lực nhà nước; hoặc như Rosa Luxemburg - lãnh tụ Đảng Cộng sản Đức, bà cho rằng “chế độ tập trung dân chủ là tập trung quyền lực vào một nhóm người, còn các tổ chức khác chỉ là công cụ chấp hành của Trung Ương mà thôi”; theo bà, cải lương cũng là sản phẩm của cách mạng, lựa chọn cải lương hay bạo lực là tùy tình thế cách mạng, còn bạo lực chỉ là giải pháp cuối cùng, nó là con dao hai lưỡi, rất khó sử dụng,… Đó là nói những lãnh tụ cộng sản chưa cầm quyền. Hồ Chí Minh là một lãnh tụ đã cầm quyền suốt 24 năm, nhưng trước sau vẫn nhất quán là người cộng sản yêu nước, thương dân, luôn đặt lợi ích của Tổ quốc và dân tộc lên trên lợi ích giai cấp và bộ phận, suốt đời tận tụy, khắc khổ nêu tấm gương về người lãnh đạo - người đày tớ thật trung thành của nhân dân; trong sạch, liêm khiết, đi tiên phong đấu tranh chống hủ bại: tham ô, lãng phi, quan liêu trong điều kiện cầm quyền. Hồ Chí Minh là biểu tượng của người cộng sản cầm quyền theo chính trị “vương đạo”: lãnh đạo bằng thuyết phục và nêu gương, luôn nêu cao trí tuệ, đạo đức, dân chủ, coi dân là chủ, lấy lợi ích và nguyện vọng của dân làm gốc. Cụ là người rất “trí thức” nên biết quý trọng trí thức, tin dùng người tài, không gợn một chút “kiêu ngạo cộng sản” nào. Cụ thường nói: “Cách mạng rất cần trí thức và thực ra chỉ có cách mạng mới biết trọng trí thức…Không có trí thức tham gia, công việc của cách mạng khó khăn thêm nhiều”[16]. Nhân cách của Cụ tỏa ra sức hấp dẫn đặc biệt đối với trí thức thuộc nhiều xu hướng, cả trong Nam ngoài Bắc lẫn trí thức Việt kiều, lôi cuốn được hầu hết những trí thức lớn của đất nước đi vào công cuộc kháng chiến, kiến quốc; ai chưa kịp đến với Cụ thì cũng không khi nào chống lại Cụ cả. Đó là “chìa khóa” đã giúp Hồ Chí Minh thành công. Học tập và làm theo Hồ Chí Minh là phải phấn đấu thực hiện bằng được những điều đó. Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng, nhưng Hồ Chí Minh lại là một minh chứng hùng hồn về vai trò của vĩ nhân trong lịch sử. Không có Hồ Chí Minh, Đảng Cộng sản Việt Nam cũng khó có thể sớm giành được bá quyền lãnh đạo của mình ngay từ sau năm 1945. Tuy nhiên, cũng không thể quy những phẩm chất nói trên của Hồ Chí Minh chỉ do ông là môn đồ của Khổng giáo. Không ai phủ nhận: xuất thân từ một gia đình nhà nho, từ nhỏ Nguyễn Tất Thành đã thấm nhuần nhiều mệnh đề Nho giáo có giá trị chỉ đạo nhận thức thế giới và xử lý các vấn đề xã hội-nhân sinh, (ví như đạo “Trung Thứ”của Khổng-Mạnh: suy từ lòng mình để hiểu được lòng người, làm chính trị như thế có thể đạt tới điều “nhân”). Nhưng ảnh hưởng của Khổng giáo chỉ là một phần thôi, cái gốc làm nên nhân cách chính trị Hồ Chí Minh chính là văn hóa Việt Nam, mà hạt nhân của nó là chủ nghĩa yêu nước, chủ nghĩa nhân ái và chủ nghĩa cộng đồng Việt Nam - được hình thành lâu đời từ trong quá trình dựng nước và giữ nước. c. Hồ Chí Minh không phải là người cộng sản giáo điều mà là người cộng sản nhân văn, có tư duy độc lập, sáng tạo, một nhà chính trị có đầu óc thực tế. Chỉ mới hơn một năm sống ở Maxkva, Nguyễn Áí Quốc đã đưa ra một luận điểm mà nhiều nhà cách mạng thế giới phải suy nghĩ: “Mác đã xây dựng học thuyết của mình trên một triết học nhất định của lịch sử. Nhưng lịch sử nào?-Lịch sử châu Âu. Mà châu Âu là gi? Đó chưa phải là toàn thể nhân loại”[17] - (một phản ứng rất tinh, rất sớm với thuyết “Dĩ Âu vi trung” đang thịnh hành ở châu Âu lúc bấy giờ). Nguyễn Ái Quốc đã xuất phát từ truyền thống văn hoá Việt Nam để nhận thức và vận dụng chủ nghĩa Mác. Ông là người cộng sản đầu tiên nhận ra và đánh giá cao tiềm lực của cách mạng thuộc địa ở Phương Đông. Trong lúc các đảng Cộng sản theo Quốc Tế 3 cho rằng: vấn đề giải phóng các dân tộc thuộc địa chỉ có thể được giải quyết khi nào cách mạng vô sản giành được thắng lợi ở phương Tây. Cả Mác - Enghen, rồi Lênin cũng chưa nghĩ đến khả năng các dân tộc thuộc địa có thể tự giải phóng mình ngay giữa vòng vây của chủ nghĩa đế quốc. Thế mà Nguyễn Ái Quốc lại “cả gan” đưa ra một luận điểm trái ngược, “phi kinh điển”, so với các quan niệm trên! Từ sự phân tích những điều kiện kinh tế- chính trị- xã hội…của châu Á (chế độ ruộng công, thuyết bình đẳng về tài sản, chế độ giáo dục và lao động cưỡng bức đối với người lớn, chế độ phúc lợi cho người già, tư tưởng “dân vi quý”, sự lên án nghiêm khắc thói ăn bám,…), Nguyễn Ái Quốc đưa ra nhận định: “chủ nghĩa cộng sản thâm nhập dễ dàng vào châu Á hơn là ở châu Âu”, nghĩa là cách mạng thuộc địa theo đường lối vô sản có thể nổ ra ở châu Á, nếu “chúng ta có nhiệt tình tuyên truyền chủ nghĩa cộng sản và thực tâm muốn giúp đỡ những người lao động lật đổ ách của những kẻ bóc lột” thì họ sẽ trở thành một lực lượng khổng lồ “và trong khi thủ tiêu một trong những điều kiện tồn tại của chủ nghĩa tư bản là chủ nghĩa đế quốc” họ còn “có thể giúp đỡ những người anh em ở phương Tây trong nhiệm vụ giải phóng hoàn toàn”[18]. Đó quả thật là một luận điểm táo bạo, mới mẻ, lạ lùng nữa, trước đó chưa có ai nhìn ra và chưa ai dám khẳng định mạnh mẽ như thế ! Nhìn vào những đặc điểm của văn hoá chính trị Hồ Chí Minh, chúng ta đều nhận thấy đó chính là sản phẩm của văn hoá chính tri Việt Nam, phản ánh những giá trị tinh thần truyền thống Việt Nam. Những nguyên lý của chủ nghĩa Mác-Lênin vào Việt Nam, thông qua Hồ Chí Minh, cũng được lọc qua hệ giá trị đó. Khi Hồ Chí Minh nhắc nhở cán bộ, đảng viên: “Phải có tình đồng chí thương yêu lẫn nhau”. “Hiểu chủ nghĩa M-L là phải sống với nhau có tình, có nghĩa. Nếu thuộc bao nhiêu sách mà sống không có tinh, có nghĩa thì sao gọi là hiểu chủ nghĩa Mác-Lênin được” – thì đó chỉ là mượn danh nghĩa Mác-Lênin để truyền đạt tinh thần nhân văn - nhân nghĩa của văn hóa Việt Nam mà thôi ! III. Kết luận Nêu lại luận đề “Cụ Hồ là ai” để trao đổi, chúng tôi chỉ muốn góp thêm một vài ý kiến để cùng tham khảo, vì hiểu rằng Hồ Chí Minh dù là dân tộc hay quốc tế, cộng hòa hay cộng sản, xã hội dân chủ hay Khổng giáo,…đối với các học giả nói trên, đều không quan trọng. Mỗi người từ chỗ đứng của mình, rọi một cái nhìn để giúp hiểu được tính đa dạng, phong phú cuả một vĩ nhân. Vĩ nhân nào cũng đều là sản phẩm của những điều kiện lịch sử- xã hội nhất định, sở dĩ họ là vĩ nhân vì họ đã vượt lên được những hạn chế của hoàn cảnh để trở thành người đi tiên phong trong thời đại của mình. Ở một vĩ nhân như Hồ Chí Minh lại càng như vậy. Trên hành trình 30 năm tìm đường, Cụ đã đến nhiều nước, tiếp xúc với nhiều nền văn hóa, đã tìm hiểu nhiều chủ thuyết, tự coi mình là học trò nhỏ của nhiều ông thày lớn, nhưng Cụ biết chọn lọc để chỉ học lấy những “cái cần thiết cho chúng ta”, phục vụ cho “con đường giải phóng chúng ta”[19] phù hợp với truyền thống văn hóa của dân tộc, chứ không hề “tiếp thu cả gói” một cách giáo điều. Trong những hoàn cảnh bị o ép khắc nghiệt, Cụ vẫn giữ được bản lĩnh, bản sắc của một nhà chính trị tầm vóc, không bị bào mòn, hòa tan, không đầu hàng, khuất phục. Cụ đã nêu tấm gương bất khuất của một dân tộc nhỏ trước những cường quốc lớn, ngay cả trong vấn đề tiếp nhận văn hóa và tư tưởng. Vậy cuối cùng, Cụ Hồ là ai? Theo Voltaire, “nhà chính trị thực sự xứng đáng với tên gọi này là người “biết chơi” và dần dà là người chiến thắng”. Theo tôi, Cụ Hồ là nhà chính trị “biết chơi”, biết khéo tận dụng mọi cơ hội và phương tiện để thực hiện mục tiêu đấu tranh của dân tộc. Cụ là người chiến thắng, vì nền tảng văn hóa của Cụ sâu rộng, lý tưởng của Cụ cao cả, phẩm cách của Cụ trong sáng, phương pháp tư duy của Cụ uyển chuyển, biết linh hoạt ứng biến trước mọi hoàn cảnh, như Cụ thường nói “dĩ bất biến, ứng vạn biến”, khi “tình hình, nhiệm vụ đã thay đổi,… chính sách và khẩu hiệu cũng phải thay đổi cho hợp với tình hình mới”[20].Vì vậy, Cụ được thừa nhận là biểu tượng cho khát vọng Độc lập, Tự do, Lương tâm và Trí tuệ của các dân tộc bị áp bức; được Tạp chí Time của Mỹ tổ chức bầu chọn vào danh sách 20 nhà lãnh đạo có uy tín hàng đầu trong tổng số 100 nhân vật được bầu chọn là những người nổi tiếng nhất thế giới trong thế kỷ XX[21]. Về phần Cụ, sứ mệnh đã hoàn thành. Trong 80 năm mất nước, bị nô lệ, có biết bao cuộc đấu tranh anh hùng đã diễn ra, song tất cả đều thất bại; với Cụ, ta đã có “một nước Việt Nam hòa bình, độc lập, thống nhất”; còn “dân chủ, giàu mạnh và góp phần vào sự nghiệp cách mạng thế giới” sẽ được thực hiện ra sao, đó là trách nhiệm của thế hệ lãnh đạo hôm nay, của những người được coi là kế tục Cụ; nhưng để được như vậy, không chỉ nhân danh Cụ mà cần ra sức học tập, thành tâm noi theo Cụ, cả về Tâm, Đức, Trí và Hành ./. <br clear="all"> Chú thích [1] Thu Trang-Gaspard: Hô Chi Minh à Paris (1917-1923). Preface de Ph. Devillers, p.13. [2] Alain Ruscio: Nguyen Ai Quoc-Ho ChiMinh : Portrait d’un “Bolchevik jaune”, Revue Communisme No 28, 4 me Trimestre 1990. [3].Bài nói chuyện của Pierre Brocheux tại Toronto-Canada ngày 29-10-2003 về cuốn sách của ông: “Viêt Nam expose and New biography of Ho Chi Minh “ . [4] David Halberstam: “Ho”, Random House, New York, 1971. [5] Hồ Chí Minh Toàn Tập, t. 4, tr. 458 [6] Luận đè này đến năm 1959 mới được Hồ Chí Minh diễn đạt thành văn, nhưng nó đã là sản phẩm tư duy của Nguyễn Ái Quốc được hình thành từ những điều kiện lịch sử khách quan của những năm 20 TK XX. Cũng có thể xem đó là sự lựa chọn của lịch sử. [7] “Một nhà yêu nước và một nhà cách mạng mẫu mực”, trong Ho Chi Minh, notre camarade, Ed. Sociales Paris, 1970, p. 21. [8] Ch. Fourniau : Ho Chi Minh, notre camarade, Ed. Sociales, Paris, 1970, tr. 31. [9] Hồi ký của Trương Phát Khuê, đăng trên Tuần báo Liên hợp tạp chí ,Hồng Kông, 1962. [10] Hồ Chí Minh Toàn tập, t,4, tr. 272. [11] Hồ Chí Minh Toàn Tập, t. 1, tr. 464, 467. [12] .HCM Toàn tập, t.5, tr.272. [13] XYZ: Duy vật biện chứng và duy vật lich sử. Ban Huấn luyện TƯ xb 1949. (Chưa có trong HCM Toàn tâp xb lần 2). [14] Hồ Chí Minh Toàn Tập, sdd, t.6,tr. 458. [15] Hồ Chí Minh Toàn Tập ,sdd, t.1,tr. 281. [16] Hồ Chí Minh Toàn Tập, t.7, tr. 33 và t.5, tr.235 . [17] Hồ Chí Minh Toàn Tập, t. 1, tr. 465. [18] Hồ Chí Minh Toàn Tập, sdd , t.1, tr.36. [19] Con đường dẫn tôi đến chủ nghĩa Lênin, HCM Toàn Tập, t. 10, tr. 127. [20] Hồ Chí Minh Toàn Tập, t.7, tr. 315. [21] Chuẩn bị cho thời điểm kết thúc thế kỷ XX, tạo chí Time đã phối hợp với hãng truyền hình CBS, đưa ra bảy triệu phiếu bầu, gửi đi khắp các nước, để bầu chọn lấy 100 nhân vật được coi là có ảnh hưởng lớn nhất, thuộc các lĩnh vực khác nhau, trong thế kỷ XX. Số cuối tháng 12-1999, tạp chí Time đã công bố danh sách 100 nhân vật đó. Hồ Chí Minh nằm trong số 20 nhà lãnh đạo có uy tín lớn nhất, bên cạnh V.I.Lênin, M.Gandhi, W. Churchill, A. Khomeney, N. Mandela cùng nhiều nhân vật nổi danh khác.1 like -
Nhâm Thìn và Quý Tỵ mạng cha mẹ khắc mạng con, vì vậy ko tốt để sinh, Giáp Ngọ hoặc Ất Mùi thì tốt hơn. Tùy bạn gia đình chọn vậy.1 like
-
'Phép lạ' trên hai cây Bồ Đề chùa Quán Sứ. Hai cây Bồ Đề nằm hai bên tam quan chùa Quán Sứ, một cây chơi vơi sắc thu vàng, một cây mơn mởn lộc xuân xanh… Từ vài ngày gần đây, một cảnh tượng lý thú đã xuất hiện tại chùa Quán Sứ (quận Hoàn Kiếm, Hà Nội), khi hai cây Bồ Đề trồng hai bên tam quan bỗng mang hai màu lá hoàn toàn trái ngược với nhau. Cây bồ đề to nằm bên trái tam quan được bao phủ bởi màu xanh nõn nà của muôn vàn lộc biếc. Nhìn vào cây, nhiều người có thể liên tưởng ngay đến một mùa xuân tràn trề sức sống. Trái ngược lại, cây bồ đề nhỏ nằm bên phải tam quan nhuộm vàng cả một góc trời bằng sắc lá úa của mùa thu. Là vàng rụng đầy dưới gốc cây và tràn ngập cả một khoảng vỉa hè phía trước cổng chùa Quán Sứ… Ở Hà Nội, dù không được trồng nhiều trên đường phố nhưng cây bồ đề thường có mặt ở những nơi tôn nghiêm như đền, chùa, đài tưởng niệm. Trong quan niệm của người Việt Nam, loài cây này là biểu tượng của trí tuệ và tinh thần khoan dung của Phật giáo. Theo sử tích, Thái tử Tất-đạt-đa Cồ đàm đã ngồi thiền định dưới gốc cây bồ đề và đạt tới sự giác ngộ, trở thành Đức Phật. Một số hình ảnh ghi nhận: Đất Việt nguồn giacngo.com1 like
-
Nên theo ngành kinh tế đã học, số bạn hợp với kinh tế hơn là quân sự. Khoảng cuối tháng 5 âm lịch thấy có việc phải di chuyển hay đổi chỗ ở có thể ứng với việc này, năm nay việc thi cử không được thuận lợi, không cố gắng thì có thể trượt vỏ chuối. khó có thể tìm được việc nói chung chưa thể ổn định trong năm nay. Tình cảm không có gì đặc biệt cãi vã khắc khẩu suốt. Đi ra ngoài đi đứng cẩn thận té ngã tai nạn trật gãy tay chân, lời ăn tiếng nói ở nơi học tập hay làm việc mà gây xích mích thị phi thưa kiện có thể xảy tới ẩu đả.1 like
-
1 like
-
Cảm ơn Trần Anh! Tất nhiên là như vậy.Trong một việc khó khăn, sự thành công chỉ là 1/ 1000. 000. 000. 000 thì sự thất bại chắc chắn thiếu gì kẻ háo danh xúm vào chê bai, làm như ta biết trước vấn đề. Như việc ngăn mưa ở Đại lễ 1000 năm Thăng Long vậy. Nhưng cuối cùng thì tôi đúng. Tôi biết tôi đang làm gì và sẽ như thế nào. Khen chê miệng đời với tôi chỉ là chuyện vớ vẩn. Tôi cũng có một trái tim, nên cũng hơi bực mình, nhưng lý trí làm tôi chóng quên.1 like
-
Trả lời các câu hỏi trọng tâm và bài tập của Bài 5: 1 - Vì sao người ta phải đưa ra khái niệm Ðại Vận và xác định nó kéo dài đúng 10 năm cũng như khái niệm Tiểu Vận và xác định nó chỉ kéo dài đúng 1 năm ? Theo tôi thì Tiểu vận mới chính là tuổi thật của người có Tứ Trụ đó, còn lưu niên mới đúng là tuổi giả (tức một năm bất kỳ cần dự đoán), vì thường có mấy người nào sinh đúng vào ngày giao lệnh của tháng Dần (khoảng mùng 4 hay 5 tháng 2 dương lịch). Do vậy muốn dự đoán vận mệnh của con người thì thông tin Tiểu vận, tức tuổi thật này bắt buộc phải có là hợp lý. Như vậy thì tại mỗi năm (lưu niên) thường xuất hiện 2 Tiểu vận. Tiểu vận đầu tính từ giao lệnh của tháng Dần tới ngày sinh nhật của người đó. Tiểu vận thứ 2 bắt đầu từ ngày sinh nhật cho đến hết năm, tức tới giao lệnh của tháng Dần của năm sau. Giả sử muốn xác định 2 Tiểu vận tại năm 1995 của một người sinh năm 1963 ta lần lượt các bước: 1 - Ðầu tiên ta lấy 1995 trừ đi 1963 còn 32. Ðây chính là tuổi tính theo dương lịch của người này vào năm 1995. 2 – Giả sử can chi của trụ giờ của người này là Bính Tý chẳng hạn thì: a - Nếu tính theo chiều thuận của bảng nạp âm 60 năm Giáp Tý (với nam sinh năm dương và nữ sinh năm âm) thì Tiểu vận đầu tiên ngay sau Bính Tý là Ðinh Sửu. Ðinh Sửu được gọi là Tiểu vận 1, còn tiểu vận thứ 2 là Mậu Dần... cứ tính tiếp như vậy tới tiểu vận thứ 32 là Mậu Thân. Tiểu vận Mậu Thân chính là tiểu vận thứ nhất được tính từ ngày giao lệnh của tháng Dần năm 1995 tới ngày sinh nhật của người này ở năm 1995. Tiểu vận thứ hai là Kỷ Dậu (bắt đầu từ ngày sinh nhật tới ngày giao lệnh của tháng Dần năm sau). Ðây chính là 2 Tiểu vận của năm (lưu niên) 1995 của người có Tứ Trụ này. b - Nếu tính theo chiều nghịch của bảng nạp âm 60 năm Giáp Tý (với nam sinh năm Âm và nữ sinh năm Dương) thì ngay trước Bính Tý là Ất Hợi. Tiểu vận Ất Hợi được gọi là Tiểu vận 1, tiểu vận 2 là Giáp Tuất,... tiểu vận thứ 32 là Giáp Thìn và Tiểu vận thứ 33 là Quý Mão. Do vậy Tiểu vận Giáp Thìn là Tiểu vận đầu còn Tiểu vận Quý Mão là Tiểu vận thứ hai của năm (lưu niên) 1995 của người có Tứ Trụ này. Theo tôi đại vận kéo dài đúng 10 năm có thể vì có 10 Thiên can nên mỗi đại vận phải xuất hiện đủ 10 can này tức mỗi can đại diện cho 1 năm của đại vận. Ðiều này đúng như theo phương pháp của cụ Thiệu là lấy can đại vận làm trọng chứ không theo các sách Tử Bình của các cổ nhân khác lấy chi làm trọng. Còn vì sao đại vận không bắt đầu từ khi mới sinh như Tiểu vận thì xin nhờ mọi người trả lời giúp tôi. 2 – Xác định các đại vận và thời gian của chúng qua các ví dụ sau: a – Nam sinh ngày 7/8/1963 lúc 2,00’ a.m. Tứ Trụ : Quý Mão - Kỷ Mùi – ngày Nhâm Ngọ - Tân Sửu Các đại vận và thời gian của chúng: Mậu Ngọ... Ðinh Tị...Bính Thìn.. Ất Mão...Giáp Dần..Quý Sửu...Nhâm Tý .....10...........20...........30............40............50............60..............0 1/8/1973......8/83.......8/93..........8/03.........8/13.........8/23...........8/33 b – Nữ sinh ngày 21/6/1960 lúc 20,59’. Tứ trụ : Canh Tý – Nhâm Ngọ- ngày Canh Thìn – Bính Tuất Các đại vận và thời gian của chúng: Tân Tị......Canh Thìn....Kỷ Mão...Mậu Dần... Ðinh Sửu...Bính Tý.. ...Ất Hợi ....5..............15.............25.............35..............45............55.............65 1/10/1965....10/75........10/85.......12/95..........12/05........12/15........12/25 c – Nam sinh ngày 14/13/1956 (tức 14/1/1957 dương lịch) lúc 17,00’. Tứ trụ : Bính Thân – Tân Sửu – ngày Bính Tuất – Ðinh Dậu Các đại vận và thời gian của chúng: Nhâm Dần...Quý Mão...Giáp Thìn... Ất Tị...Bính Ngọ...Ðinh Mùi...Mậu Thân .......7...............17.............27...........37.........47.............57............67 8/12/1963......12/73........12/83........12/93....12/03.........12/13.......12/23 d - Nữ sinh ngày 17/5/1986 lúc 7,00’a.m. Tứ trụ : Bính Dần – Quý Tị - ngày Tân Dậu – Nhâm Thìn Các đại vận và thời gian của chúng: Nhâm Thìn...Tân Mão..Canh Dần...Kỷ Mùi...Mậu Tý... Ðinh Hợi...Bính Tuất ........4.............14............24...........34...........44............54............64 ..1/2/1990.......2/00.........2/10.........2/20........2/30.......2/40...........2/50 e - Nữ sinh ngày 30/10/1991 lúc 12,58’a.m. Tứ trụ : Tân Mùi - Mậu Tuất – ngày Quý Dậu - Mậu Ngọ Các đại vận và thời gian của chúng: Kỷ Hợi.......Canh Tý...Tân Sửu...Nhâm Dần...Quý Mão...Giáp Thìn....Ất Tị .....3...............13...........23.............33..............43..............53...........63 28/9/1994......9/04........9/14.........9/24.............9/34...........9/44.........9/541 like
-
Đây là cách mệnh kiếp thân không mệnh lại vcd ,mai mắn là có nhật nguyệt sáng sủa chiếu + lộc cho nên cuộc đời cũng được đầy đủ no ấm về hậu vận , và cũng là cách đà la độc thủ ,nên là là người có nhiều thủ đoạn đa đoan ,khôn ngoan ,liều lĩnh đôi khi dám làm chuyện bất nghĩa mà không từ nan ,phải bước vào trung vận mới bắt đầu khá giả về sự nghiệp cũng như quyền thế , lúc thiếu niên thành ít bại nhiều ,có thành công việc gì thì cũng không bền hay bị gián đoạn ,có ý nghĩ mưu to làm chuyện lớn . đến thời trung vân về sau thì có những cơ hội từ do hoàn cảnh đưa đến mà không dự liệu trước ,phát lộc phát tài bất ngờ ,nhưng hay bị tai nạn và bệnh tật do từ những cái gì mình thâu được .1 like
-
Chồng sau có dạng người cao vừa tầm đến thấp, da trắng mặt hơi tròn bầu, thường là con trưởng tính tình nhân hậu ngay thẳng, cũng khá giả và có học thức. Vợ chồng qua lại với nhau trước rồi mới đi đến hôn nhân. Chồng có thể lớn hơn nhiều tuổi hay đã qua 1 lần đò. Năm sau có cơ hội nhưng số này nên chậm kết hôn mới tránh được cảnh hồng nhân bạc phận1 like
-
Wild đã nhận 500,000 đ (năm trăm ngàn đồng) của manhhungjpvn ủng hộ Từ thiện, thay mặt những BTT cám ơn MH và gia đình. Quỹ hiện có: 13,500,000 đ + 500,000 đ = 14,000,000 đ (mười bốn triệu đồng)1 like
-
Quẻ này không ứng.1 like
-
thanhphuc chẳng may đoán đúng một chút, nhưng luôn mong rằng thiên tai không còn sảy ra nữa: Thứ Bảy, 14/05/2011, 11:01 (GMT+7) nguồn Tuổi trẻ online Động đất ở Costa Rica, Nhật Bản, Indonesia TTO - Sáng sớm nay 14-5 đã xảy ra hai trận động đất trên 6 độ Richter tại Costa Rica và Nhật Bản, gây rung lắc mạnh ở các tòa nhà, khiến nhiều đồ vật rơi vỡ. Lúc 16g47 ngày 13-5 (5g47 ngày 14-5 theo giờ VN), một trận động đất có cường độ 6 độ Richter đã làm rung chuyển đất nước Trung Mỹ Costa Rica với độ sâu tâm chấn 70km, cách San Jose 25km về phía tây bắc. Người dân ở San Jose cảm nhận rất rõ rệt sức mạnh của cơn địa chấn này. Ông Juan de Dios Castillo - phát ngôn viên của Viện núi lửa và động đất Costa Rica, cho hay ông đã nhận được báo cáo về nhiều trường hợp rơi vỡ đồ vật khi động đất xảy ra. Tuy nhiên, không có thiệt hại lớn cho các tòa nhà cao tầng. Ngày 8-1-2009, một trận 6,1 độ Richter từng làm 20 người chết ở miền trung đất nước này. Cơ quan khảo sát địa chất Mỹ (USGS) cho hay lúc 8g35 (6g35 sáng 14-5 theo giờ VN), một trận động đất cường độ 6,2 độ Richter xuất hiện ngoài khơi bờ biển phía đông bắc Nhật Bản, với tâm chấn nằm cách thành phố Iwaki của tỉnh Fukushima 59km, cách thủ đô Tokyo 241km, độ sâu 38km. Hiện chưa có báo cáo về thiệt hại ở Nhật Bản. Lúc 4g43 sáng nay, một trận khác 5,7 độ Richter tiếp tục làm rung chuyển đảo Java của Indonesia với tâm chấn sâu 10km, cách thành phố Cilacap của tỉnh Trung Java 290km về phía tây nam. Chiều qua, lúc 13g11, một trận có cường độ 5,4 độ Richter cũng làm rung chuyển miền trung Indonesia, ở tỉnh Gorontalo, cách thành phố Gorontalo 150km về phía đông nam với độ sâu 29km. Tuy nhiên, Cơ quan địa vật lý - Khí tượng nước này không đưa ra cảnh báo sóng thần. PHAN ANH ============================================ Núi lửa lớn nhất châu Âu “thức giấc” (Dân trí) - Ngọn núi lửa Etna trên đảo Sicily của Italia và cũng là núi lửa lớn nhất châu Âu hôm qua đã “thức giấc”, phun trào nham thạch và tro bụi, với dòng nham thạch đỏ rực chảy xuống các sườn núi. Etna phun trào mạnh mẽ trong một thời gian ngắn, từ 2-6 giờ sáng giờ địa phương ngày 12/5. Các dòng nham thạch đỏ rực đã được nhìn thấy chảy xuống các sườn núi nhưng đa phần là chảy tới các khu vực không có người sinh sống. Giới chức đã buộc phải đóng cửa tạm thời sân bay tại thị trấn Catania gần đó do tro bụi núi lửa rơi xuống các đường băng. Etna, với diện tích khoảng 1.250 km2 và cao 3.350m, là núi lửa hoạt động lớn nhất châu Âu. Lần gần đây nhất Etna phun trào là vào tháng 1 vừa rồi.1 like
-
Bài 5 : Đại vận và tiểu vận của Tứ Trụ Chương 4 Đại vận và tiểu vận của Tứ Trụ Chỉ dựa vào Tứ Trụ liệu đã đủ để dự đoán vận mệnh của con người hay không? Hoàn toàn chưa đủ, muốn dự đoán có độ chính xác cao, người ta cần phải biết đại vận và tiểu vận của Tứ Trụ đó. Vậy thì đại vận và tiểu vận là gì ? Và cách xác định chúng như thế nào? I – Cách xác định đại vận 1 - Đại vận Từ xa xưa cho tới ngày nay, mỗi người đều cảm thấy rằng cuộc đời thường không thuận buồm xuôi gió, mà có những khoảng thời gian tốt, xấu, may và rủi khác nhau. Người thì sự may mắn dồn dập đến từ khi vẫn còn trẻ, có người thì ở tuổi trung niên, lại có người chỉ đến khi đã về già, sự sui sẻo cũng vậy, ở mỗi người mỗi khác. Từ thực tế khách quan này mà người ta đã tìm ra cách xác định các khoảng thời gian may rủi khác nhau đó cho các Tứ Trụ là 10 năm và chúng được gọi là các đại vận. Cách xác định các đại vận hoàn toàn phụ thuộc vào tháng sinh của người đó như sau : a – Nam sinh năm dương và nữ sinh năm âm Người mà can năm sinh của người đó là dương đối với nam như Giáp, Bính, Mậu, Canh, Nhâm và can năm sinh của người đó là âm đối với nữ như Ất, Đinh, Kỷ, Tân, Quý thì được tính theo chiều thuận của bảng nạp âm, bắt đầu can chi ngay sau lệnh tháng làm đại vận đầu tiên, tiếp theo là đại vận thứ 2,... Ví dụ : Nam sinh vào năm Mậu Tý tháng Mậu Ngọ thì người này có can năm là Mậu tức là can dương nên đại vận đầu tiên phải tính theo chiều thuận theo bảng nạp âm là Kỷ Mùi, đại vận sau là Canh Thân, Tân Dậu,... Ví dụ : Nữ sinh vào các năm Quý Sửu tháng Mậu Ngọ thì người này có can năm là Quý tức là can âm nên đại vận đầu tiên cũng tính theo chiều thuận như ví dụ trên là Kỷ Mùi, đại vận thứ hai là Canh Thân, Tân Dậu,... b – Nam sinh năm âm và nữ sinh năm dương Người mà can năm sinh là âm đối với nam như Ất, Đinh, Kỷ, Tân, Quý và người mà can năm sinh là dương đối với nữ như Giáp, Bính, Mậu, Canh, Nhâm thì phải tính ngược lại đối với bảng nạp âm, bắt đầu can chi ngay trước lệnh tháng làm đại vận đầu tiên, sau là đại vận thứ hai,... Ví dụ : Nam sinh vào năm Quý Dậu tháng Mậu Ngọ, vì can năm của người này là Quý tức là can âm nên đại vận đầu tiên phải tính ngược theo bảng nạp âm ngay trước lệnh tháng là Đinh Tị, đại vận thứ hai là Bính Thìn, Ất Mão ,.... Ví dụ : Nữ sinh vào năm Mậu Thân, tháng Mậu Ngọ vì can năm là Canh tức là can dương nên đại vận đầu tiên phải tính ngược với bảng nạp âm là Đinh Tỵ, sau là Bính Thìn, Ất Mão,.... II - Thời gian bắt đầu đại vận 1 - Nam sinh năm dương và nữ sinh năm âm Vậy thì khi nào các đại vận sẽ bắt đầu ? Phải chăng tất cả mọi người là như nhau? Hoàn toàn không phải như vậy, nó phụ thuộc hoàn toàn vào ngày sinh của người đó so với ngày giao lệnh (tức là ngày thay đổi từ tháng này sang tháng khác của lịch Can Chi) của tháng trước hoặc tháng sau so với tháng sinh của người đó (lệnh ở đây nghĩa là chi của 1 tháng mang hành gì thì hành đó sẽ nắm lệnh trong tháng đó). Đối với nam sinh năm dương và nữ sinh năm âm, ta tính theo chiều thuận của bảng nạp âm từ ngày sinh đến ngày giao lệnh của tháng sau (theo lịch Can Chi) xem được bao nhiêu ngày, và bao nhiêu giờ. Sau đó cứ 3 ngày quy đổi là 1 năm, thừa 1 ngày được tính thêm là 4 tháng, thừa 2 ngày được tính thêm là 8 tháng, cứ thừa 1 tiếng được tính thêm là 5 ngày còn cứ thiếu 1 tiếng thì phải trừ đi 5 ngày. Cộng tất cả lại sẽ được bao nhiêu năm, tháng, ngày thì đó chính là sau khi sinh được từng đó thời gian sẽ bước vào đại vận đầu tiên. Ví dụ : Nam sinh ngày 12/2/1976 lúc 3,01’ có tứ trụ: Bính Thìn - Canh Dần - ngày Giáp Ngọ - Bính Dần Ta thấy đây là nam sinh năm dương nên tính theo chiều thuận từ ngày sinh 12/2 lúc 3,01´ a.m. đến giao lệnh của tháng sau là ngày 5/3 lúc 18,48´ (tính tròn là 19,00’), thì được 22 ngày (vì đây là năm nhuận nên tháng 2 có 29 ngày ) và thêm 16 tiếng. 22 ngày quy đổi được 7 năm 4 tháng (vì thừa 1 ngày đổi thành 4 tháng), còn 16 tiếng quy đổi thành 2 tháng và 20 ngày (16.5 ngày = 80 ngày). Tổng cộng được tất cả là 7 năm 6 tháng và 20 ngày. Tức là sau khi sinh ra được 7 năm 6 tháng và 20 ngày thì người này bắt đầu bước vào đại vận đầu tiên. Chính xác ngày 2/9 năm1983 người này bắt đầu bước vào đại vận Tân Mão (từ 2/9/1983 đến 2/9/1993). Từ ngày 2/9 năm 1993 bắt đầu đại vận thứ 2 là Nhâm Thìn (2/9/93 đến 2/9/03). Các đại vận sau tính tương tự theo đúng chiều thuận của bảng nạp âm. Mỗi đại vận chỉ kéo dài đúng 10 năm. Có thể biểu diễn các đại vận và thời gian của chúng như sau : Năm 1983 bắt đầu đại vận trừ đi năm sinh là năm 1976 được 7 năm, tức là khi 7 tuổi người này bắt đầu bước vào đại vận Tân Mão và được tính chính xác đến tháng 9 của năm 1983 . Nữ sinh vào năm âm cũng tính theo chiều thuận như vậy. 2 - Nữ sinh năm dương và nam sinh năm âm Đối với nữ sinh vào năm dương và nam sinh vào năm âm thì chúng ta tính theo chiều nghịch từ ngày sinh đến ngày giao lệnh của tháng trước liền với tháng sinh xem được bao nhiêu ngày, bao nhiêu giờ và cũng quy đổi như trên ta sẽ biết được khi nào bắt đầu đại vận đầu tiên. Ví dụ : Nữ sinh ngày 12/3/1952 lúc 22,00’ có tứ trụ: Nhâm Thìn - Quý Mão - ngày Đinh Tị - Tân Hợi Vì là nữ sinh vào năm có can là Nhâm tức can dương nên ta phải tính từ ngày sinh ngược lại tới ngày giao lệnh của tháng trước (tức là tính theo chiều ngược). Cụ thể ta tính từ ngày sinh 12/3 lúc 22,00´ đến đến ngày giao lệnh của tháng trước là ngày 5/3 lúc 23,00´ ta được 7 ngày quy đổi được 2 năm 4 tháng và từ 22,00’ đến 23,00’ là thiếu 1 tiếng tức phải trừ đi 5 ngày (Chú ý: Nếu giờ giao lệnh là 21.00' thì ta phải cộng thêm 5 ngày). Ta quy đổi được 2 năm 3 tháng và 25 ngày. Vậy thì người này ngày 7 tháng 7 năm 1954 bắt đầu bước vào đại vận đầu tiên là Nhâm Dần và các đại vận sau tính theo chiều ngược của bảng nạp âm như sau : Đối với nam sinh năm Âm cũng tính theo chiều ngược như vậy. II – Cách xác định Tiểu Vận 1 – Tiểu vận Tiểu vận hoàn toàn phụ thuộc vào trụ giờ và thời gian của nó chỉ kéo dài đúng 1 năm (có thể gọi đây là tuổi ảo). a – Nam sinh năm dương và nứ sinh năm âm Nam sinh năm dương và nữ sinh năm âm thì tính thuận theo bảng nạp âm bắt đầu can chi ngay sau trụ giờ làm tiểu vận đầu tiên, tiếp là tiểu vận thứ hai.... Tiểu vận khác với đại vận là thời gian chỉ kéo dài 1 năm. Thời gian của tiểu vận đầu tiên bắt đầu tính ngay từ ngày và giờ sinh tại năm sinh của người đó cho đến đúng ngày và giờ đó của năm sau, sau đó mới sang tiểu vận thứ hai,... Ví dụ là nam như trên sinh ngày 12/2/1976 lúc 3,01’am là năm Bính Thìn (1976), giờ sinh là Bính Dần (3,01’am) vì sinh năm dương nên tiểu vận đầu tiên tính theo chiều thuận của bảng nạp âm. Tức là từ 3,01’a.m. của ngày sinh 12/2/1976 đến 3,01’a.m. ngày 12/2/1977 là tiểu vận đầu tiên Đinh Mão, tiếp từ ngày 12/2/1977 đến ngày 12/2/1978 là tiểu vận thứ hai Mậu Thìn.... Nếu là nữ sinh vào năm âm cũng tính theo chiều thuận như vậy. b – Nam sinh năm âm và nữ sinh năm dương Nam sinh năm âm và nữ sinh năm dương thì tính theo chiều ngược của bảng nạp âm, bắt đầu can chi ngay trước can chi của trụ giờ làm tiểu vận đầu tiên, sau là tiểu vận thứ hai,..... Ví dụ trên nếu là nữ thì phải tính tiểu vận ngược với bảng nạp âm. Cụ thể là từ 3,01’a.m. của ngày sinh 12/2/1976 đến 3,01’am ngày 12/2/1977 người nữ này có tiểu vận đầu tiên là Ất Sửu, tiếp từ ngày 12/2/1977 đến 12/2/1978 là tiểu vận Giáp Tý, cứ thế tính các tiểu vận tiếp theo theo chiều ngược của bảng nạp âm. Nếu là nam mà sinh vào năm âm cũng tính theo chiều ngược như vậy. 2 – Tính chất của tiểu vận Can, chi và nạp âm của tiểu vận chỉ có khả năng hình, xung, khắc, hại, hợp đối với can, chi và nạp âm của đại vận và lưu niên nhưng chúng không có khả năng tác động đến các can, chi và nạp âm trong tứ trụ và ngược lại. Các câu hỏi trọng tâm và bài tập của Bài 5: (Chú ý: Tất cả các Tứ Trụ được xác định trong cuốn sách hay trong chương trình của lớp học này đều được xác định theo Lịch Vạn Niên của Trung Quốc tức giao lệnh lấy theo giờ Bắc Kinh). 1 - Vì sao người ta phải đưa ra khái niệm Ðại Vận và xác định nó kéo dài đúng 10 năm cũng như khái niệm Tiểu Vận và xác định nó chỉ kéo dài đúng 1 năm ? 2 – Xác định các đại vận và thời gian của chúng qua các ví dụ sau: a – Nam sinh ngày 7/8/1963 lúc 2,00’ a.m. b – Nữ sinh ngày 21/6/1960 lúc 20,59’. c – Nam sinh ngày 14/13/1956 (tức 14/1/1957 dương lịch) lúc 17,00’. d - Nữ sinh ngày 17/5/1986 lúc 7,00’a.m. e - Nữ sinh ngày 30/10/1991 lúc 12,58’a.m.1 like
-
Trả lời các câu hỏi trọng tâm của Bài 4: 1 – Vì sao có sự khác nhau về giờ (60’) khi xác định lệnh tháng giữa lịch Trung Quốc theo giờ Bắc Kinh với lịch Việt Nam theo giờ Hà Nội? Ðiều này tôi mới biết qua một nick ở trang web Lý Số VN thì phải, vì vậy tôi chưa có thời gian để kiểm tra chúng qua các ví dụ trong thực tế xem theo lịch nào thì đúng. Theo tôi về logic thì lệnh tháng cũng như thời điểm giao thừa phải là các điểm cố định trên quỹ đạo của trái đất quay quanh mặt trời. Do vậy chúng phải trùng với tất cả các múi giờ khi qua các vị trí đó (xét hình chiếu của các múi giờ lên quỹ đạo của trái đất). Từ đây suy ra rằng giờ giao lệnh của các múi giờ phải giống nhau chứ không thể lệch nhau như vậy được (một điều dễ hiểu là chả nhẽ tết của Việt Nam theo giờ Hà Nội và tết của Trung Quốc theo giờ Bắc Kinh cũng như của tất cả các nước trên thế giới cùng diễn ra tại một thời điểm hay sao?). 2 – Xác định Tứ Trụ theo giờ, ngày, tháng và năm sinh của một số người sau đây (xác định Tứ Trụ theo cả 2 loại lịch như đã nói ở trên): a - 26/3/1961 lúc 0,59’ a.m. Tứ trụ : Tân Sửu – Tân Mão – ngày Mậu Ngọ - Nhâm Tý (theo lịch TQ). ............Tân Sửu – Tân Mão – ngày Mậu Ngọ - Nhâm Tý (theo lịch VN). b – 3/13/1959 (tức 3/1/1960 dương lịch) lúc 1,01’ a.m. Tứ trụ : Kỷ Hợi – Ðinh Sửu – ngày Canh Dần - Ðinh Sửu (theo lịch TQ). ............Kỷ Hợi – Ðinh Sửu – ngày Canh Dần - Bính Tý (theo lịch VN). c – 5/3/1968 lúc 22,00’. Tứ trụ : Mậu Thân – Ất Mão – ngày Giáp Tuất - Ất Hợi (theo lịch TQ). ............Mậu Thân – Ất Mão – ngày Giáp Tuất - Ất Hợi (theo lịch VN). d – 7/7/2002 lúc 21,00’. Tứ trụ : Nhâm Ngọ - Ðinh Mùi - ngày Bính Tý - Kỷ Hợi (theo lịch TQ). ............Nhâm Ngọ - Ðinh Mùi - ngày Bính Tý - Mậu Tuất (theo lịch VN). e - 25/9/1990 lúc 12,59’ a.m. Tứ trụ : Canh Ngọ - Ất Dậu – ngày Quý Tị - Mậu Ngọ (theo lịch TQ). ............Canh Ngọ - Ất Dậu – ngày Quý Tị - Mậu Ngọ (theo lịch VN).1 like
-
Năm nay cưới được. 2 tuổi này khá hợp đấy. Thiên can Vợ Tân khắc Chồng Ất --> tốt nhì, Mạng Vợ Thổ sinh mạng chồng Kim --> tốt nhất, Sửu Mùi lục xung. --> tổng quan cũng tốt cỡ 7/10. Tháng này tốt đấy nếu không phải đợi đến tháng 11 (một) Âm Lịch. Sư huynh Thiên Luân sửa dùm em nhé!1 like
-
Xin đăng lại câu 3 và 4 ở trên lại cho rõ: 3 - Cách xác định Trụ ngày - Tức ngày sinh Trong một năm có các ngày 1/3, 30/4, 29/6, 28/8, 27/10, 26/12 và ngày 24/2 của năm sau có các can chi giống nhau. Cho nên chúng ta thấy can chi của ngày 24/2 và ngày 1/3 trong cùng một năm dương lịch là khác nhau bởi vì thường chúng chỉ cách nhau 5 ngày, còn đối với năm nhuận chúng cách nhau 6 ngày (bởi vì tháng 2 có ngày 29). Dựa vào yếu tố này nếu biết trước can chi của 1 ngày bất kỳ của 1 năm thì qua bảng 60 năm Giáp Tý chúng ta có thể tính được can chi của ngày 1/3 của năm đó, sau đó chúng ta tính được can chi của ngày 24/2 cùng năm và nó chính là can chi của ngày 1/3 của năm trước liền với năm đó. Cứ như vậy ta có thể biết được can chi ngày 1/3 của tất cả các năm (chú ý tháng 2 của năm 1900 mặc dù là năm nhuận nhưng nó chỉ có 28 ngày). Ví dụ : Ngày 14/7/1968 theo lịch can chi có can chi là gì? Ngày 1/3 của năm 1968 tra theo bảng là ngày Canh Ngọ. Vậy ngày 29/6/1968 cũng là ngày Canh Ngọ (ta chọn nó bởi vì nó gần nhất với ngày cần phải tìm), từ ngày 29/6 đến 14/7 cách nhau đúng 15 ngày, vì vậy theo bảng nạp âm 60 năm Giáp Tý, ngày Canh Ngọ (29/6) sau 15 ngày sẽ đến ngày Ất Dậu (14/7) . Đến đây ta có trụ thứ ba, đó là trụ ngày . Bảng tra can chi của ngày 1/3 trong các năm từ 1889 đến năm 2008 Dấu * trong bảng là năm nhuận, tức tháng 2 của các năm đó có 29 ngày. 4 – Cách xác định Trụ giờ - Tức giờ sinh Theo lịch Can Chi này họ đã xác định giờ đầu tiên trong một ngày của lịch Can Chi luôn luôn là giờ Tý và các giờ sau tuân theo thứ tự như sau : Tức là cứ 120 phút (hai tiếng) tương ứng với một giờ của lịch can chi. Ví dụ : 23 giờ 18 phút ngày 16/5 thuộc về ngày nào của lịch can chi? Theo lịch can chi thì từ 23,00’ ngày 16/5 trở đi thuộc về ngày hôm sau, tức là phải thuộc ngày 17/5. Khi đã biết Địa chi của giờ rồi thì hàng Can của nó hoàn toàn phụ thuộc vào Can của trụ ngày như sau : Các ngày có can là Giáp và Kỷ có các giờ lần lượt là : Giáp Tý, Ất Sửu, Bính Dần, Đinh Mão, Mậu Thì , ............. , Ất Hợi (các can tuân theo quy luật vòng tròn như đã nói ở trên) . Các can ngày là Ất và Canh có các giờ lần lượt: Bính Tý,.............., Đinh Hợi. Các................... Bính và Tân...........................: Mậu Tý,..............., Kỷ Hợi. Các ...................Đinh –Nhâm .........................: Canh Tý,.............., Tân Hợi. Các ...................Mậu – Quý ...........................: Nhâm Tý,............., Quý Hợi. Ví dụ : Các can của giờ Mão và Ngọ của ngày Đinh Dậu theo lịch can chi là gì ? Can của ngày Đinh theo như trên ta có các giờ lần lượt là : Canh Tý, Tân Sửu, Nhâm Dần, Quý Mão, Giáp Thìn, Ất Tỵ, Bính Ngọ, Đinh Mùi, ..... Vì vậy can của giờ Mão là Quý Mão và giờ Ngọ là Bính Ngọ. Đến đây ta có trụ thứ tư, đó là trụ giờ1 like
-
Bài 4 : Đặc trưng của Tứ trụ Chương 3 Đặc trưng của tứ trụ I - Tứ trụ Mỗi người khi sinh ra đều có 4 thông tin là năm, tháng, ngày và giờ sinh. 4 thông tin này khi chuyển sang lịch can chi được gọi là tứ trụ . Tứ trụ này quyết định vận mệnh của người đó . Lịch Can Chi không giống với dương lịch hay âm lịch mà chúng ta vẫn thường sử dụng, nên ở đây thống nhất mọi thông tin về lịch phải dùng dương lịch để tính toán cho tiện lợi và tháng 1 dương lịch được gọi là tháng 13 của năm trước đó. 1 – Cách xác định Trụ năm - Tức năm sinh Theo bảng nạp âm 60 năm Giáp Tý thì năm nay 2008 là năm Mậu Tý, năm 2009 là năm Kỷ Sửu,........ . Các năm trước đây hay sau này cứ theo bảng này tra là ra hết. Nhưng năm của lịch Can Chi thường bắt đầu vào ngày 4/2 hoặc ngày 5/2 dương lịch, khác với dương lịch bắt đầu vào ngày 1/1, và càng khác so với Âm lịch tính năm mới theo lịch mặt Trăng. Muốn xác định chính xác năm mới hay các tháng theo lịch Can Chi bạn đọc phải tra theo bảng xác định lệnh tháng phía dưới. Bảng này xác định tháng, ngày, giờ và chính xác tới phút bắt đầu năm mới cũng như tháng mới (lệnh tháng) của lịch Can Chi từ năm 1898 đến năm 2018 (phần này được trích ra từ cuốn sách Lịch Vạn Niên) Bảng xác định lệnh tháng của lịch Can Chi . (Từ năm 1898 đến năm 2018 theo giờ Bắc Kinh) …………………………………………………… (Chú ý: Bảng xác định lệnh tháng này của Trung Quốc nên nó được tính theo giờ Bắc Kinh, còn “Ngày giờ Sóc (New Moons) và Tiết khí (Minor Solar Terms) từ 1000 đến 2999“ trên Google là của Việt Nam theo giờ Hà Nội nên giờ giao lệnh ít hơn của Trung Quốc 60’. Hiện giờ tôi chưa biết xác định lệnh tháng theo giờ Bắc Kinh hay Hà Nội là đúng. Phải chăng căn cứ theo múi giờ quốc tế thì cứ ít hơn múi giờ Bắc Kinh bao nhiêu múi thì lệnh tháng phải giảm đi từng ấy tiếng, cũng như cứ nhiều hơn múi giờ Bắc Kinh bao nhiêu múi thì phải cộng thêm từng ấy tiếng theo bảng xác định lệnh tháng ở trên ?) . Ví dụ : Ngày 4/2 /1968 theo lịch can chi thuộc năm nào? Nó vẫn thuộc năm Đinh Mùi (1967) nhưng tới 2,08’ (1,08’ theo giờ Hà Nội) ngày 05/2/1968 nó mới thuộc năm Mậu Thân (1968). Ví dụ : Lúc 7,59’ngày 04/2/1969 dương lịch thuộc năm nào của lịch can chi ?. Đã thuộc năm Kỷ Dậu (1969) ,còn trước 7,59’ vẫn thuộc năm Mậu Thân (1968) . Qua đây chúng ta thấy theo lịch Can Chi thì năm mới được tính chính xác tới phút khi trái đất quay hết một vòng xung quanh mặt trời (không như chúng ta thường tính lúc 0,00’ của đêm giao thừa). Nghĩa là chúng ta đã có một trụ đầu tiên, đó là trụ năm (tức năm sinh). 2 – Cách xác định Trụ tháng - Tức tháng sinh (lệnh tháng) Theo lịch Can Chi thì tháng đầu tiên của một năm luôn luôn là tháng Dần sau đó là tháng Mão, Thìn, Tị, Ngọ, Mùi, Thân, Dậu, Tuất và Hợi. Tháng trong lịch can chi được xác định khác với dương lịch. Muốn xác định chính xác tháng sinh (lệnh tháng) theo lịch can chi bắt buộc bạn đọc phải tra theo bảng xác định lệnh tháng ở trên. Ví dụ : Ngày 07/10/1968 thuộc tháng nào của lịch can chi? Tra bảng ta thấy nó thuộc tháng Dậu, còn từ ngày 08/10/1968 nó mới sang tháng Tuất. Khi đã biết địa chi của một tháng thì cách xác định can của tháng đó hoàn toàn phụ thuộc vào can của năm đó như sau: Các năm có can là Giáp và Kỷ thì các tháng của năm đó lần lượt là : Bính Dần, Đinh Mão, Mậu Thìn, Kỷ Tị, ...... Đinh Hợi (tức là các can chi phải tuân theo đúng quy luật của vòng tròn đã nói ở trên). Các năm Ất và Canh các tháng là : Mậu Dần, Kỷ Mão, .........., Kỷ Hợi. Các năm Bính và Tân ------------- : Canh Dần,........................., Tân Hợi. Các năm Đinh và Nhâm ----------- : Nhâm Dần, ......................, Quý Hợi. Các năm Mậu và Quý ------------- : Giáp Dần, ........................, Ất Hợi. Bảng tra can tháng theo can năm Ví dụ : Can của tháng Thìn của năm 1968 là gì? Tra theo bảng xác định lệnh tháng thì năm 1968 là năm Mậu Thân, vì vậy nó thuộc năm tra theo các can Mậu và Quý. Các tháng của nó lần lượt là : Giáp Dần, Ất Mão, Bính Thìn, Đinh Tị, ........ Do vậy tháng Thìn là Bính Thìn. Đến đây ta có trụ thứ hai, đó là trụ tháng. 3 - Cách xác định Trụ ngày - Tức ngày sinh Trong một năm có các ngày 1/3, 30/4, 29/6, 28/8, 27/10, 26/12 và ngày 24/2 của năm sau có các can chi giống nhau. Cho nên chúng ta thấy can chi của ngày 24/2 và ngày 1/3 trong cùng một năm dương lịch là khác nhau bởi vì thường chúng chỉ cách nhau 5 ngày, còn đối với năm nhuận chúng cách nhau 6 ngày (bởi vì tháng 2 có ngày 29). Dựa vào yếu tố này nếu biết trước can chi của 1 ngày bất kỳ của 1 năm thì qua bảng 60 năm Giáp Tý chúng ta có thể tính được can chi của ngày 1/3 của năm đó, sau đó chúng ta tính được can chi của ngày 24/2 cùng năm và nó chính là can chi của ngày 1/3 của năm trước liền với năm đó. Cứ như vậy ta có thể biết được can chi ngày 1/3 của tất cả các năm (chú ý tháng 2 của năm 1900 mặc dù là năm nhuận nhưng nó chỉ có 28 ngày). Ví dụ : Ngày 14/7/1968 theo lịch can chi có can chi là gì? Ngày 1/3 của năm 1968 tra theo bảng là ngày Canh Ngọ. Vậy ngày 29/6/1968 cũng là ngày Canh Ngọ (ta chọn nó bởi vì nó gần nhất với ngày cần phải tìm), từ ngày 29/6 đến 14/7 cách nhau đúng 15 ngày, vì vậy theo bảng nạp âm 60 năm Giáp Tý, ngày Canh Ngọ (29/6) sau 15 ngày sẽ đến ngày Ất Dậu (14/7) . Đến đây ta có trụ thứ ba, đó là trụ ngày . Bảng tra can chi của ngày 1/3 trong các năm từ 1889 đến năm 2008 1889 – Bính Tý.............1929 - Ất Tị................1969 - Ất Hợi 1890 – Tân Tị...............1930 – Canh Tuất........1970 – Canh Thìn 1891 – Bính Tuất..........1931 - Ất Mão................1971 - Ất Dậu 1892 – Nhâm Thìn *......1932 – Tân Dậu *.............1972 – Tân Mão * 1893 – Đinh Dậu............1933 – Bính Dần.........1973 – Bính Thân 1894 – Nhâm Dần.........1934 – Tân Mùi............1974 – Tân Sửu 1895 – Đinh Mùi...........1935 – Bính Tý...........1975 - Bính Ngọ 1896 – Quý Sửu *........1936 – Nhâm Ngọ *..........1976 – Nhâm Tý * 1897 - Mậu Ngọ............1937 – Đinh Hợi......1977 – Đinh Tị 1898 – Quý Hợi............1938 – Nhâm Thìn.....1978 – Nhâm Tuất 1899 – Mậu Thìn...........1939 – Đinh Dậu......1979 – Đinh Mão 1900 – Quý Dậu............1940 – Quý Mão *.......1980 – Quý Dậu * 1901 - Mậu Dần............1941 - Mậu Thân......1981 – Mậu Dần 1902 – Quý Mùi............1942 – Quý Sửu.......1982 – Quý Mùi 1903 - Mậu Tý.............1943 - Mậu Ngọ.......1983 - Mậu Tý 1904 – Giáp Ngọ *.........1944 – Giáp Tý *.....1984 – Giáp Ngọ * 1905 - Kỷ Hợi.............1945 - Kỷ Tị..............1985 - Kỷ Hợi 1906 – Giáp Thìn..........1946 – Giáp Tuất.....1986 – Giáp Thìn 1907 - Kỷ Dậu.............1947 - Kỷ Mão...........1987 - Kỷ Dậu 1908 - Ất Ngọ *...........1948 - Ất Dậu *.........1988 - Ất Mão * 1909 – Canh Thân..........1949 – Canh Dần......1989 – Canh Thân 1910 - Ất Sửu.............1950 - Ất Mùi...........1990 - Ất Sửu 1911 – Canh Ngọ...........1951 – Canh Tý..........1991 – Canh Ngọ 1912 – Bính Tý *..........1952 – Bính Ngọ *....1992 – Bính Tý * 1913 – Tân Tị................1953 – Tân Hợi.......1993 – Tân Tị 1914 – Bính Tuất..........1954 – Bính Thìn.....1994 – Bính Tuất 1915 – Tân Mão..............1955 – Tân Dậu.........1995 – Tân Mão 1916 – Đinh Dậu *.........1956 – Đinh Mão *....1996 – Đinh Dậu * 1917 – Nhâm Dần...........1957 – Nhâm Thân.....1997 – Nhâm Dần 1918 – Đinh Mùi...........1958 – Đinh Sửu......1998 – Đinh Mùi 1919 – Nhâm Tý............1959 – Nhâm Ngọ......1999 – Nhâm Tý 1920 - Mậu Ngọ *..........1960 - Mậu Tý *..........2000 - Mậu Ngọ * 1921 – Quý Hợi............1961 – Quý Tị.............2001 – Quý Hợi 1922 - Mậu Thìn...........1962 - Mậu Tuất.......2002 - Mậu Thìn 1923 – Quý Dậu..............1963 – Quý Mão..........2003 – Quý Dậu 1924 - Kỷ Mão *.............1964 – Kỷ Dậu *.......2..004 - Kỷ Mão * 1925 – Giáp Thân..........1965 - Giáp Dần.......2005 – Giáp Thân 1926 - Kỷ Sửu...............1966 - Kỷ Mùi...........2006 – Kỷ Sửu 1927 – Giáp Ngọ............1967 – Giáp Tý..........2007 – Giáp Ngọ 1928 – Canh Tý *............1968 – Canh Ngọ *.....2008 – Canh Tý * Dấu * trong bảng là năm nhuận, tức tháng 2 của các năm đó có 29 ngày. 4 – Cách xác định Trụ giờ - Tức giờ sinh Theo lịch Can Chi này họ đã xác định giờ đầu tiên trong một ngày của lịch Can Chi luôn luôn là giờ Tý và các giờ sau tuân theo thứ tự như sau : Từ 23 giờ đến 1 giờ là giờ Tý . Từ 11 giờ đến 13 giờ là giờ Ngọ: Từ 1 --------3 ------------ Sửu Từ 13 --------15 ---------- Mùi Từ 3 ---------5 ----------- Dần Từ 15 ------- 17 ---------- Thân Từ 5 ---------7 ----------- Mão Từ 17 --------19 -----------Dậu Từ 7 ---------9 ----------- Thìn Từ 19 --------21 -----------Tuất Từ 9 --------11 ----------- Tị Từ 21 --------23 ----------Hợi Tức là cứ 120 phút (hai tiếng) tương ứng với một giờ của lịch can chi. Ví dụ : 23 giờ 18 phút ngày 16/5 thuộc về ngày nào của lịch can chi? Theo lịch can chi thì từ 23,00’ ngày 16/5 trở đi thuộc về ngày hôm sau, tức là phải thuộc ngày 17/5. Khi đã biết Địa chi của giờ rồi thì hàng Can của nó hoàn toàn phụ thuộc vào Can của trụ ngày như sau : Các ngày có can là Giáp và Kỷ có các giờ lần lượt là : Giáp Tý, Ất Sửu, Bính Dần, Đinh Mão, Mậu Thì , ............. , Ất Hợi (các can tuân theo quy luật vòng tròn như đã nói ở trên) . Các can ngày là Ất và Canh có các giờ lần lượt: Bính Tý,.............., Đinh Hợi. Các................... Bính và Tân............................. : Mậu Tý,..............., Kỷ Hợi. Các ...................Đinh –Nhâm ........................... : Canh Tý,.............., Tân Hợi. Các ...................Mậu – Quý ............................. : Nhâm Tý,............., Quý Hợi. Ví dụ : Các can của giờ Mão và Ngọ của ngày Đinh Dậu theo lịch can chi là gì ? Can của ngày Đinh theo như trên ta có các giờ lần lượt là : Canh Tý, Tân Sửu, Nhâm Dần, Quý Mão, Giáp Thìn, Ất Tỵ, Bính Ngọ, Đinh Mùi, ..... Vì vậy can của giờ Mão là Quý Mão và giờ Ngọ là Bính Ngọ. Đến đây ta có trụ thứ tư, đó là trụ giờ Chúng ta đã có đủ bốn trụ của một người. Ví dụ 1 : Một người sinh ngày 12/11/1965, lúc 8,00 am, có tứ trụ : Năm Ất Tị - tháng Đinh Hợi - ngày Canh Ngọ - giờ Canh Thìn. Ví dụ 2 : Nữ sinh ngày 5/2/1968 lúc 2,07’ có tứ trụ: Đinh Mùi - Quý Sửu - ngày Ất Tị - Đinh Hợi. Ví dụ 3 : Nữ sinh ngày 5/2/1968 lúc 2,08’ có tứ trụ : Mậu Thân - Giáp Dần - ngày Ất Tị - Đinh Hợi. Qua ví dụ 2 và 3 chúng ta thấy hơn nhau 1 phút là sang năm khác, tháng khác và tứ trụ sẽ khác nhau. Cho nên giờ và phút để xác định lệnh tháng là vô cùng quan trọng trong việc xác định tứ trụ. Nếu theo cách xác định mặt trời ở đúng đỉnh đầu tại địa điểm nơi người đó được sinh là 12,00’ thì cách xác định giờ sinh ở bảng trên chỉ đúng với những người được sinh ở vị trí đúng giữa múi giờ đó, còn những người được sinh trong cùng một múi giờ mà ở càng xa điềm giữa của múi giờ đó về hai bên thì sai số về phút càng lớn (có thể từ -60’ tới +60’). Cho nên trong các trường hợp này tốt nhất là lấy cả hai tứ trụ để dự đoán. Đến khi trong thực tế xẩy ra các sự kiện phù hợp với tứ trụ nào thì tứ trụ đó mới được xem là chính xác cho người đó. Bảng tra can giờ theo can ngày Theo tôi chỉ khi nào con người xác định được trụ thứ 5, tức trụ phút này thì môn dự đoán theo Tứ Trụ mới thật sự là hoàn hảo. Bởi vì như chúng ta thấy bốn trụ không có tính đối xứng mà trụ ngày phải ở giữa và mỗi bên phải có hai trụ mới hợp lý. Hơn nữa chúng ta thấy cách xác định trụ tháng và trụ giờ giống nhau bởi đơn vị 12 (12 tháng, 12 giờ), còn cách xác định trụ năm và trụ ngày giống nhau bởi đơn vị 60 (tuân theo bảng nạp âm 60 năm Giáp Tý) thì không có lý do gì để không sử dụng trụ phút cũng được xác định theo đơn vị 60 (cứ hai phút bình thường được tính thành một phút theo lịch Can Chi và nó cũng tuân theo bảng nạp âm 60 năm Giáp Tý). Theo sự suy luận của tôi thì cách xác định phút nó cũng giống như cách xác định năm và ngày của lịch can chi, nhưng chúng ta không biết Họ đã dựa vào nền tảng nào để xác định chúng. Bởi vậy muốn xác định phút theo lịch can chi, chúng ta phải có một vài ví dụ của những cặp sinh đôi chỉ cách nhau vài phút. Dùng phương pháp suy luận ngược, chúng ta dựa vào những sự kiện lớn đã phát sinh ra của các cặp sinh đôi này như tai nạn, ốm đau, ... , nhất là cái chết của họ và nếu chúng ta sử dụng phương pháp tính điểm hạn này để tính các điểm hạn thì may ra có thể xác định được chính xác can chi của phút sinh của mỗi người này. Sau đó các phút khác sẽ được xác định theo bảng nạp âm 60 năm Giáp Tý, hoàn toàn tương tự như xác định năm và ngày. Các câu hỏi trọng tâm của Bài 4: 1 – Vì sao có sự khác nhau về giờ (60’) khi xác định lệnh tháng giữa lịch Trung Quốc theo giờ Bắc Kinh với lịch Việt Nam theo giờ Hà Nội? 2 – Xác định Tứ Trụ theo giờ, ngày, tháng và năm sinh của một số người sau đây (xác định Tứ Trụ theo cả 2 loại lịch như đã nói ở trên): a - 26/3/1961 lúc 0,59’ a.m. b – 3/13/1959 (tức 3/1/1960 dương lịch) lúc 1,01’ a.m. c – 5/3/1968 lúc 22,00’. d – 7/7/2002 lúc 21,00’. e - 25/9/1990 lúc 12,59’ a.m.1 like
-
TƯỚNG MẠO PHẦN BA A _ĐƯỜNG SANH ĐẠO : _Nếu bị đứt quãng hay bị nối tiếp : Sức khỏe kém, dễ phát sinh bệnh tiêu hóa . _Nếu xuất phát cao sát với ngón trỏ : Đây là người tự phụ, kiêu căng có nhiều tham vọng và biết cách thỏa mãn tham vọng đó . _Nếu xuất phát thấp gần nơi ngón cái : Ngược lại . _Nếu cuối Đường Sanh Đạo rẽ về gò Thái Âm : Người này bôn ba nay đây mai đó , khó khăn lắm mới ổn định được cuộc sống . _Nếu rất ngắn, cuối đường lại có ngôi sao hoặc chữ thập : Phải tu tâm nhiều , nếu không dễ bị chết “ Bất đắc kỳ tử “. _ Nếu to, rộng lại đậm nét : Đây là người độ lượng, có nhiệt tâm giầu lòng nhân ái . _ Nếu bị thu hẹp : là người ích kỷ, hẹp hòi, lạnh nhạt . _Nếu Đường Sanh Đạo bị vấn như ruột gà : Dễ bị đau mắt hay cận thị, có thể sau này dẫn đến mù lòa . _ Đường Sanh Đạo bị nhiều nét nhỏ chắn cắt ngang : Người này nhiều tai nạn, lắm thất bại có nhiều lo âu . _ Đường Sanh Đạo có nhánh rẽ ; có thời bị thần kinh ( Thời gian bị tùy thuộc vào chỗ rẽ .) _Đầu Đường Sanh Đạo có một cù lao: Cuộc sống tình cảm có chuyện bất hạnh . có con ngoại hôn . _ Đường Sanh Đạo bị một đường từ gò Kim Tinh cắt ngang : Người nàycó trắc trở trong hôn nhân, nếu có kèm theo hình vuông thì hôn nhân dễ tan vỡ . _ Đường Sanh Đạo như dây xích : Cuộc đời nhiều khổ não, đau khổ . _Đường Sinh Đạo rộng mầu nâu thẫm : Người này hung bạo , hoang dâm . _ Đường Sanh Đaọ rõ ràng hồng hào : Người ưa làm việc phải , nhân đạo · LƯU Ý : _ Các chỉ tay ở bàn tay không thuận : nói rõ những chỉ định thiêng liêng sẽ xẩy ra _ Các chỉ tay của bàn tay thuận nói rõ những việc thực tế đã xẩy ra và sẽ xẩy ra . B_ ĐƯỜNG TRÍ ĐẠO *Phải nghiên cứu cả hai bàn tay . _ Đường Trí Đạo sâu , rõ ràng, thẳng, hồng hào : Là người sâu sắc có trí nhớ tốt, giầu lòng nhân ái, ham hoạt động xã hội . _ Đường Trí Đạo rộng, cạn, không rõ ràng : Là người thiếu tự tin, nông cạn, nhẹ dạ, dễ tin người . _ Đường Trí Đạo gẫy khúc : Dễ bị xáo trộn về thần kinh, nếu lại kèm theo có cù lao thì chắc chắn sẽ bị bệnh về thần kinh, tâm thần . _Đường Trí Đạo khởi nguồn từ Đường Sinh Đạo : Ý trí người này thiếu tự tin, nhút nhát . Làm việc hay phụ thuộc người khác . Nhưng nếu hồng hào và thẳng, rõ ràng lại át được yếu tố phụ thuộc . _Đường Trí Đạo kéo dài, thẳng chấm dứt ở dưới ngón út vàkhoảng giữa Đường Sinh Đạo : Là người giầu kiến thức, tự tin, nhiều tham vọng, sẽ vượt qua được khó khăn để đạt được tham vọng. _Đường Trí Đạo xuất phát dưới ngón trỏ và không dính vào Đường Sinh Đạo : Người này từ nhỏ đã có tính tự lập, giúp được việc gì đó cho gia đình ( Thí dụ gia đình có nghề phụ cũng góp tay làm việc ). Có ý trí và sau này đủ năng lực dẫn đến thành công . _ Đường Trí Đạo chạy dài và cong về phía gò Thái Âm cộng với bàn tay yếu : Người này giầu tưởng tượng, mơ mộng, ham kiểu cách, xa hoa . Giầu yếu tố tâm linh , nếu quá sâu sẽ là người có thể đồng bóng, mê tín dị đoan nặng. Nhung chạy thẳng về gò Thái Âm; Lại là người có năng khiếu về âm nhạc, vũ điệu . _ Đường Trí Đạo chạy cong về gò Thủy Tinh : Là người thực tế, có khả năng về kỹ thuật . Nếu cộng với bàn tay hẹp là người bất chấp mọi dư luận để đạt được tham vọng . Nếu bàn tay khỏe sẽ bớt được tính bủn xỉn nhưng vẫn đầy tham vọng . _ Đường Trí Đạo có đường nối sang Đường Tâm Đạo : Người này trong cuộc đời có nhiều mối tình ngang trái , lén lút và sễ cvó những việc làm lẫn lộn ý chí lẫn tình cảm . _ Đường Trí Đạo và Đường Tâm Đạo hòa làm một lại chạy ngang suốt bàn tay : Nếu cả hai bàn tay đều như vậy thì đó là bàn tay của HIT LE, NAPÔLEÔNG dám làm những việc lớn để cuộc đời một là tuyệt đỉnh vinh quang hay là lên đoạn đầu đài . Nếu chỉ có ở bàn tay không thuận thì người này chỉ có hoài bão mà không có điều kiện thực hiện . _ Đường Trí Đạo rất ngắn, đậm chỉ đến gò Đồng Hỏa Tinh ; Người này thô lỗ và hay phản phúc . C_ ĐƯỜNG TÂM ĐẠO *Đường này hay thay đổi so với Đường Sanh Đạo và Trí Đạo. Biểu lộ tâm tính, tình cảmvà tư cách của con người. _Một Đường tâm Đạo tốt có mầu hồng hào, sâu đậm và rõ rang không gút mắc, không gẫy. Đó là biểu hiện của người có ý chí, bền gan và chin chắn. _ Đường Tâm Đạo mỏng là người có tính lạnh nhạt, thờ ơ kiểu “ phớt AngLê “. Nhưng người nào có tất cả các đường chỉ đều mỏng thì lại dễ mến, đó là người ôn hòa . _ Đường Tâm Đạo sâu, ngoằn ngoèo : Là người hay thay đổi, ham mê dục vọng nhưng chỉ trong một thời gian ngắn. Hay say mê dục vọng, hay thay đổi nhân tình. Người nào có đường như vậy lại có nhiều đường chỉ cắt ngang sẽ gặp bất hạnh trong ái tình và trong hôn nhân . _ Đường Tâm Đạo có nhiều nhánh nhỏ chạy về đường Trí Đạo : Là người hay có xáo trộn về tình cảm nhất là về ái tình . _ Người có đường Tâm Đạo chạy thẳng qua lòng bàn tay : Là người đa cảm mù quáng trong tình ái, là người sẵn sàng dùng mọi thủ đoạn để xâm chiếm người khác xong rồi bỏ, dù phải mất danh dự. Chiếm đoạt xong thì bỏ. _Đường Tâm Đạo xuất phát gần ngón trỏ : Càng gần ngón trỏ người đó càng thanh khiết, trong sạch . Nếu càng xa ngón trỏ lại là người càng tìm về dục vọng. _ Đường Tâm Đạo xuất phát từ ngón trỏ và ngón giữa: Là người mực thước, thủy chung . _ Một số người có dường Tâm Đạo xuất phát từ 3 nhánh : +Một nhánh dưới ngón trỏ. +Một nhánh từ gò Thổ Tinh. +Một nhánh từ giữa ngón trỏ và ngón giữa. Đây là người có đường Tâm Đạo rất tốt, là người mực thước luôn đúng mức trong tình cảm và trong mọi quan hệ giao tiếp. _ Đường Tâm Đạo ngắn chỉ tới gò Thổ Tinh : Dễ chết non, chết yểu . _Đường Tâm Đạo chỉ tới ngón đeo nhẫn: Là người tự phụ, tự cao. _Đường Tâm Đạo chạy tới giữa ngón đeo nhẫn và ngón út :Biển lận , keo kiệt. _ Đường Tâm Đạo cắt Trí Đạo :Sẽ bị bệnh tâm thần . _Đường Tâm Đạo dài, chạy suốt ra hẳn mép ngoài rìa bàn tay : Nam thì rất đào hoa, những người khác giới cảm thấy dễ gần. Nữ mà có dường như vậy lại là người có tình yêu thầm kín và rất hay ghen ngầm. _ Người nào ở cuối đường Tâm Đạo gặp dính vào Trí Đạo sẽ có ái tình xằng bậy , có thể dẫn tới loạn luân. _ Người nào ở cuối cả hai đường Tâm Đạo và Trí Đạo đèu tách làm hai nhánh : Là người thông minh mưu lược nhưng nếu cần họ cũng rất xảo trá. _Người nào có dường Tâm Đạo ở cả hai tay đều sâu lại gút mắc và ngắn : Là người hung bạo sát nhân, nếu ở bàn tay gồ ghề thì càng đúng . _ Đường Tâm Đạo có nhiều gạch chéo : Là người hay gặp trắc trở trong tình yêu, hôn nhân . hay bị xáo trộn tình cảm hoặc tan vỡ hôn nhân . CÒN TIẾP….. _1 like
-
ÁP DỤNG PHONG THỦY LẠC VIỆT CHO MỘT CỬA HÀNG CÓ VỊ TRÍ XẤU Đó là một buổi sáng đầu tháng 9 Âm năm Canh Dần_Sau khi đã nhận lời hẹn gập _, cô gái có dáng người thấp béo,tôi thầm đoán chắc cô nặng phải đến 65 ký, mạnh dạn bước vào nhà và tự giới thiệu :” Cháu là Tr. cháu có hẹn với chú sáng nay đến gập chú, để nhờ chú giúp về Phong Thủy cho cửa hàng”. Theo lời kể của cô gái, tôi nhận thấy cô có hoàn cảnh éo le về tình cảm và hiện giờ cả vật chất cũng gặp khó khăn. Quê cô ở Đường Lâm, một địa danh văn hóa cổ nổi tiếng ở Sơn Tây, tình duyên khá lận đận. Sau khi hỏi tuổi cô ta, tôi cho biết :” Cháu sinh 1975, Át Mão thuộc cung Cấn, Tây Tứ Trạch, cháu nên chọn cửa hàng có những hướng sau : Tây, Tây bắc, Đông bắc hoặc Đông nam, còn các hướng khác không hợp tuổi “. Cô trình bầy với thái độ cương quyết :”Cháu tin lời chú, nhưng cháu rất bức xúc với gia đình nhà chồng, nên cháu đã hỏi thuê được một căn nhà mặt phố rất gần với nhà chồng, nhưng lại hướng Nam, cháu muốn chứng minh cho họ biết rằng họ đã sai khi đuổi cháu ra khỏi nhà và phần nữa là cháu muốn gần với hai đứa con, chú cố gắng giúp cháu.” Cuối cùng tôi cũng nhận lời. Vì đã biết địa chỉ, nên trên đường tôi quan sát từ xa và tìm hiểu chung quanh vị trí của cửa hàng với bán kính 200 mét. Tôi nhận thấy cửa hàng tuy nằm ở vị trí đắc địa, khu vực này cũng có nhiều vượng khí, nhưng trong vòng bán kính nói trên có những 14 cửa hàng cùng bán cơm._Nếu mở thêm cửa hàng cơm nữa thì sự cạnh tranh cũng khó khăn đây_Tôi thầm nghĩ. Sau khi xác định tâm của cửa hàng, tôi phân chia cung bát trạch theo tuổi cung Cấn và nói với cô chủ :”Hướng của cửa hàng nằm giữa Nam và Tây Nam là không hợp, vì theo Phong Thủy Lạc Việt phải đổi chỗ Tốn và Khôn cho nhau thì Tây nam cũng là hướng không hợp với cháu ”. Cô chủ nói ngay:”Cháu không biết Tốn, Khôn là cái gì mà cháu cũng chẳng cần biết, chú cứ chỉ sao, làm việc gì là cháu làm vậy! cháu chỉ biết rằng hiện nay các cơ sở kinh doanh nào mà nhờ thầy coi Phong thủy thì thấy làm ăn khấm khá cả.” Tôi suýt bật cười vì sự tin tưởng và chân chất của cô, nhưng vì vậy mà cũng dễ làm việc, đỡ phải giải thích. Cô còn cho biết thêm là chủ nhà có nhà ở nơi khác, nhà này để cho thuê, đã nhiều người thuê nhưng đều không ở được lâu vì không làm ăn được. Ngõ nhỏ và 2 cột đèn đâm vào trước cửa hàng Cửa hàng cháu bị một cái ngõ trước mặt đâm thẳng vào vàhai cái cột đèn bên kia đường chắn trước cửa, cho nên cháu phải làm cho chú hai việc. _Một là trước lối ra vào phải trộn cát và xi măng đánh một vòng cung để xung khí của ngõ trước cửa nhà đâm vào gập vòng cung không đâm thẳng vào nhà đựoc mà tỏa sang hai bên. Vòng cung chắn trước cửa đẩy xung khí hắt sang hai bên Hai là cắt kính rồi chồng lên nhau treo trên cao để hắt xung khí của ngõ đó vàbẻ cong hai cái cột đèn bên kia đường không cho luồng sát khí chiếu vào nhà Đứng ở cửa hàng nhìn raVượng khí đi từ trái qua phải theo thuận của giao thông tượng trưng cho dòng nước chẩy, cháu phải xây cho chú một cái gờ mục đích chặn Vượng khí và hắt nó vào nhà Còn nữa, trước cửa nhà có cái cống to, cháu phải xây một cái gờ nhỏ để Vượng khí không trôi tuột đi. Vào bên trong cửa hàng, tôi dặn :”Cháu phải treo gương suốt từ ngoài vào trong để tiếp thêm vượng khí lan tỏa khắp cửa hàng. Trước đây, chủ cũ chắc đã nhờ một ông thầy Phong thủy nào đó bắt xây các gờ ngăn từng phòng, làm cho Vượng khí không vào sâu trong bếp ở cuối nhà, mà đối với cửa hàng ăn uống thì quan trọng nhất lại là cái bếp, nên cháu phải đập hết các gờ chắn ngăn các cửa lại". Gương treo tường để tăng cường sinh khi. Bàn và ghế phải đặt như vậy mới đúng Cháu cần cắt một tấm gương ở vị trí này để hắt Vượng khí lên tầng trên, có như vậy những người sống ở tầng trên mới khỏe mạnh và còn góp phần cho khách sẽ đông ở tầng trên. Dưới gầm cầu thang này cháu phải thu dọn cho sạch sẽ và đặt ở góc gầm một hũ muối rang, mục đích dung hòa âm dương của cái hốc này. Đây là khu đặt bếp cũ của chủ nhà, cháu không được đặt ở đây vì bị bế khí, cháu phải xây một cái gờ chặn lại và đặt các bếp ở bên ngoài, Và nếu cháu muốn khỏe mạnh , giảm cân, cháu phải đặt tất cả các bếp đều quay về một hướng. Chú biết rằng các bếp thỉnh thoảng phải di chuyển để dọn dẹp cho sạch sẽ, nhưng khi đặt bếp xuống lại phải cùng quay về một hướng như cũ. Khu bếp cũ không được dùng vì bị bế khí. Tất cả bếp phải quay về một hướng. Đó là hướng SINH KHÍ. Sau khi dặn dò cả hướng bàn thờ và hướng giường nằm của chủ nhân, tôi an tâm ra về. Sau hơn một tháng, cửa hàng đã rất đông khách. Hịên nay, chủ nhân phát triển cả lên tầng trên them 30 ghế nữa mà cũng không còn chỗ. Không những bán tại chỗ mà các công ty liên tục gọi đến đặt cơm hộp: “ Alô, 15 suất mang đến công ty A phải không? Xin có ngay” Phòng trong cũng chật ních khách, tác giả không dám chụp trực diện, phải chụp trong gương hắt lại vì sợ khách đang ăn phản đối Tác giả kiểm tra lại cách bố trí của cửa hàng áp dụng theo phong thủy Lạc Việt Cô chủ hiện này còn 52 kg, sút từ 65kg -> 52kg sau 3 tháng1 like
-
Phải nói rằng qua thực tế, áp dụng Phong Thủy Lạc Việt rất đúng. Ở gần nơi này có một vi Đại tá đã về hưu được 6 năm, ông ta có thời gian nghiên cứu về sách Phong Thủy. Ông ta mời tôi đến và nói với thái độ lo lăng : " tôi tuổi Bính Tuất , mà nhà tôi lại hướng Đông Nam,theo sách này - Ông ta đưa ra một cuốn sách Có tựa đề " Phong Thủy trong đời sống hiện đại "và nói tiếp : Thì tôi là người thuộc cung Ly , Đông Tứ Trạch . Tôi hỏi :'Ông xây nhà này và ở đây bao nhiêu năm , về hưu mấy năm rồi ? Đã có chuyện gì lớn xẩy ra cho gia đinh và bản thân chưa? Ông ta trả lời: Tôi xây nhà này từ năm 1994 và về hưu đến nay đã là 6 năm , tôi vẫn khỏe mạnh hai cháu đã trưởng thành và hiện nay đều công tác trong ngànn Hàng Không ngoài việc thỉnh thoảng hắt hơi , có lúc ho uống thuốc lại hết, chứ cả nhà nói chung chưa xẩy ra việc gì lớn ." Tôi nói :" Những sách hiệhh nay được bầy bán ở thị trường họ viết về Phong Thủy theo quan niệm cũ, tức là theo mọi người cho là Phong Thủy của Tầu . Cách đây hơn 10 năm, nhà nghiên cứu Nguyễn Vũ Tuấn Anh Đã khẳng định Phong Thủy xuất phát từ nền văn minh của nước ta , nước Văn Lang đã có 5000 nghìn năm văn hiến . Nhưng do loạn lạc, lại do bị hàng ngàn năm đô hộ, tam sao thất bản, Thủy , Hỏa lẫn lộn . Ông phải tìm mua cuốn " Tìm về cội nguồn Kinh Dịch " mà nghiên cứu . Xem xong ông mới hiểu là những người thuộc Tây Tứ Trạch như ông hướng Đông Nam mới là tốt . Còn là phúc Đức trạch nữa. Nói cụ thể là nhà ông đang ở, xây và ở từ 17 năm nay, mà về hưu, an lạc, gia đình khỏe mạnh con cái thành đạt . Như vậy sách Phong Thủy cũ sai ở chỗ chưa đổi chỗ Tốn , Khôn .Theo nghiên cứu mới của tác giả nói trên ông phải là người có cung mạng Đoài thuộc Tây Tứ Trạch , thì hướng Đông Nam mà ông đang ở là hợp . Cho nên bây giờ và sau này ông và toàn gia sẽ còn tốt đẹp. Và nếu có dịp ra Hà Nội, cháu ghé cửa hàng cơm phố Hoàng Văn Thái , có lẽ phải xếp hàng đấy! Chúc cháu khỏe mạnh và thành đạt.1 like
-
Tướng Mạo
Phuoc liked a post in a topic by Lốc Cốc Tử
Tiếp theo phần Sắc thái bàn tay . B/ NGÔI SAO TRONG LÒNG BÀN TAY NÓI LÊN ĐIỀU GÌ ? C / CÁC CÙ LAO TRONG LÒNG BÀN TAY NÓI LÊN ĐIỀU GÌ CHƯƠNG BA CÁC ĐƯỜNG CHỈ CHÍNH TRONG LÒNG BÀN TAY Thường thì các nhà xem tướng tay ít khi xem các phần tôi đã trình bầy ở trên mà chỉ đi sâu vào các đường chỉ tay . Đó là một thiếu sót mà chúng ta cần lưu ý không được bỏ qua . Các ngôi sao , các cù lao . các hình tam giác . . . thường không xuất hiện trong suốt cả cuộc đời mà chỉ xuất hiện trong một thời gian nhất định , nó là điềm báo trước vận hạn hoặc điềm may mắn của người đó , nếu người xem phát hiện , nắm bắt được thì phần luận đoán mới chính xác . Ngay cả các đường chỉ tay tôi trình bầy tiếp theo đây cũng có thay đổi theo thời gian , cứ sáu tháng ta nên xem lại . Duy có các đường chỉ chính ít thay đổi ( Ít thay đổi chứ không phải là không ). Những đường chỉ chính là : _ĐƯỜNG SINH ĐẠO _ĐƯỜNG TRÍ ĐẠO _ ĐƯỜNG TÂM ĐẠO Sau đó là đường Định Mạng , đường Sinh Đạo Đôi . Và như tôi đã trình bầy ở phần đầu , ta phải lưu ý xem cả hai bàn tay . Có nhiều người ở bàn tay không thuận xuất hiện đường Định Mạng ( Nhiều người còn cho là Đườnh Sinh Đạo Đôi ) , nhưng ở bàn tay thuận lại xuất hiện đường này . Vậy ta phải luận đoán là thời kỳ còn nhỏ ít được gia đình quan tâm ( Có thể do hoàn cảnh nhà nghèo , hoặc lý do nào đó . . . ) nhưng lớn lên , bước ra cuộc sống lại có sự giúp đỡ của nhiều người . . .Hoặc có nhiều người ở bàn tay không thuận 3 đường Sinh Đạo , Trí Đạo , Tâm Đạo tách bạch , riêng rẽ từng đường . Nhưng ở bàn tay thuận thì hai đường Trí Đạo và Tâm Đạo lại hòa nhập thành một dường , lại chạy xuyên suốt ngang bàn tay . ta phải hiểu rằng đây là một người sẽ và đã làm nhiều công việc mà người khác không dám làm . ( Cộng với nhiều yếu tố khác tại khuôn mặt , đôi mắt .v . v.mà ta luận đoán mức độ việc làm của họ : Nhẹ thì buôn lậu , trộm cắp , nặng thì dám cướp của , giết người . . .Có những người 3 dường nói trên tách bạch nhưng có một đường chỉ nhỏ nối từ Tâm Đạo sang Trí Đạo , người này khi ra cuộc sống sẽ có ngững mối tình ngang trái , ở bàn tay không thuận cũng như vậy thì người này chắc chắn cũng đồng ý , thuận lòng với mối tình đó . Hoặc sẽ có những việc làm lẫn lộn giữa lý trí với tình cảm . Trước khi đi vào phần chi tiết của các đường chỉ tay , tôi sẽ trình bầy khái quát về các đường chỉ đó . 1/ Đường chỉ rộng : Người này thiếu chiều sâu của sự xét đoán , sự suy nghĩ không sâu sắc , kiến thức có thể rộng nhưng chung chung . 2/ Đường chỉ mập mờ : Người này trong cuộc sống không xác định dứt khoát , thiếu ý chí , không nhất định . Tuổi thọ có thể ngắn ngủi . 3/ Đường chỉ sâu : Là người dám làm , gan góc , dám lăn lộn trong cuộc sống , già dặn kinh nghiệm . Nếu chẳng may bị vấp ngã cũng tự mình vượt qua được . 4/ Đường chỉ mỏng , nhưng tất cả các đường đều như vậy :Cuộc sống của người này thanh thản , ít gập trở ngại trong cuộc đời .( Tất nhiên là phải cộng với yếu tố có ít đường cắt ngang các đường chỉ chính .) 5/ Đường chỉ rõ ràng : Người có suy nghĩ và công việc , việc làm tốt , ít bị sai lệch . 6/ Đường chỉ vừa mờ vừa ngoằn nghoèo : Là người đa nghi , thâm hiểm , thiếu dứt khoát . 7/ Đường chỉ hay bị cắt : Là người lắm tai họa , hay gập nguy nan , lắm bênh nhiều tật . CÒN TIẾP . . .1 like -
Tướng Mạo
Sói.Trắng liked a post in a topic by Lốc Cốc Tử
Phần tiếp theo . . . TƯỚNG MẠO 10 _ BỘ RÂU : * Râu dài như tơ : Là người phong lưu , vinh hiển .nhàn hạ . * Râu tốt , cắt lại mau dài : Về già mới nhàn hạ . * Râu sáng ánh như bạc : Người này sớm thành đạt . * Râu cứng như mác : có quyền cao chức trọng . * Râu tía , lông mày hinh lưỡi kiếm cộng với tiếng nói như chuông , thần cốt thanh kỳ : Người này có biểu hiện của sự thành đạt , chức tước cao về nghành quân chính . *Râu xoắn chôn ốc : Người thông minh , khoáng đạt . * Râu rậm mày thưa hoặc ngược lại mày rậm râu thưa : Không tốt . CHÚ Ý : 10 điều kỵ về bộ râu : _ Râu mọc dài không đúng chỗ ( Cổ , má . .). _ Không có râu ở nhân trung . _ Lông mũi thò ra tiếp với ria ( Vận khó hanh thông ) _ Râu phủ xuống miệng : bất đắc chí , khó làm ăn . _ Râu nhiều ria ít : Bôn ba , lao khổ . _ Râu rậm phủ cả xuống kín yết hầu : Người thô tục , đói khổ . _ Râu rẽ ra như đuôi chim : Người này hay gặp tai nạn . _ Râu mọc ngược cộng vối chân mày xoắn : Người hung ác . _ Râu vàng khè , khô khan : lắm bệnh , nhiều tật . _ Râu đỏ như bị cháy : Dễ bị cô độc . 11 _ PHÁP LỆNH Pháp lệnh hay còn có tên gọi khác đôn giản là Râu Thịt . Đó là một đường hằn bắt đầu từ hai cánh mũi kéo vòng cung xuống hai bên khóe miệng , có thể còn xuống nữa hai bên cằm . Vì Lốc Cốc Tử tôi “rất khiêm tốn “ về sử dụng máy vi tính, cho nên đành vẽ và viết ra giấy. Mong quý độc giả bỏ quá cho. PHẦN BA TƯỚNG PHỤ NỮ A- TƯỚNG QUÝ NHÂN . Đầu ngăy ngắn, trán tròn và rộng . Tóc đen va mượt . Mắt trong sáng lông mày thanh tú kéo dài đến cuối đuôi mắt . Quyền cốt bằng phẳng không nhô cao . Tai đầy đủ thành quách. Nhân trung rõ rệt . Răng trắng , môi hồng . Ngón tay nhỏ dài thuôn . Lúc nói , nhìn, đi, đứng , ngồi . . .mỗi cử chỉ đều dứt khoát , rõ ràng không bao giờ tất tưởi hoặc lả lơi . Thái độ cẩn trọng là tốt nhất , đẹp hay xấu là phụ . Có được những điểm trên là là điều lý tưởng đối với đàn bà . A_ TƯỚNG PHÚC HẬU . Người phụ nữ có tướng phúc hậu là người có đôi mắt sáng và dài thần thanh tú, không lộ thần .Hai tai như ép vào đầu đầy đận . Hai cánh mũi phân minh . Nhân trung dài hơi sâu . Địa các nở . Gò má rộng . Góc miệng triều thượng ( hơi nhếch lên ). Đôi bàn tay hồng nhuận . Cổ tròn . lưng đầy .Thân thể tương đối mập mạp ( Không nên nhầm lẫn với béo phì ) Đó là người phụ nữ phúc hậu và giầu có . Nhưng đang mập mạp mà tự nhiên gầy đi ( Không do bệnh tật ) thì phải đề phòng vì đó là trệu chứng sẽ mất của trong những ngày tới . C _ TƯỚNG TRINH TIẾT : Người phụ nữ có tướng trinh tiết là người có cặp mắt hai lòng đen và lòng trắng phân minh. Cái mũi đày đặn mà ngay ngắn . Tai đầy đặn . Khi cười không lơi lả . Dáng đi thong thả , bước nhẹ , thân thể ngay ngắn . tính tình nhu thuận . tiếng nói nhẹ và dễ nghe . D_ TƯỚNG KHÔNG BIẾT CAI QUẢN GIA ĐÌNH . _ Nói rụt rè như có gì mắc trong cổ họng . _ Đầu hai chân mày giao nhau. _ Sống mũi bẹt . _ Sơn căn gẫy , nói năng hàm hồ . _ Ham chơi , ham đánh bạc , hay tụ tập để mục đích “ Buôn Dưa Lê “. _ Cặp mắt lúc nào cũng như khiếp sợ . E _ TƯỚNG KHẮC PHU . - Tóc cứng cuốn rối , tóc khô hay hay vàng ệch . Lúc thiếu thời mà tóc đã rụng . - Trán dài hoặc vuông mà hẹp, trán lệch hay trán có xoáy. Trán có 3 vệt ngang chạy dài hoặc có vết dọc chạy giữa thiên trung .Trán bóng, cặp lông mày lớn . - Cặp lông mày lớn , mi thưa lông mi dựng ngược . phần cốt ở chân mày gồ cao . - Mắt đỏ , mắt vàng ,mắt cực lớn , mắt rất tròn , mắt ốc nhồi . Mắt bốn phía có lông mi trắng. - Mắt hình tam giác , da thịt quanh mắt khô . - Mũi bẹp dí , sống mũi gẫy khúc . Sơn căn có nốt ruồi . - Môi cong răng lộ , miệng rúm . - Bàn tay cực lớn , mặt vênh , xương thô . - Tiếng nói như đàn ông . - Quyền ngang , quyền cốt cao . CÒN TIẾP . . . NGUYỄN THỨC – ĐẶNG THẾ QUANG1 like -
Tướng Mạo
Sơn Phong liked a post in a topic by Lốc Cốc Tử
Có sao đâu . Nhưng cháu cần biết thêm là Pháp Lệnh không hinh thành từ lúc còn nhỏ . Khi lớn lên ra làm việc Pháp Lệnh sẽ dần hình thành . khi đó xem lại phần Pháp lệnh rồi tự nhận xét để xem tướng cỷa mình . Chúc cháu thành công .1 like -
Tướng Mạo
Sói.Trắng liked a post in a topic by Lốc Cốc Tử
Người đàn ông mà có 3 tiêu chuẩn như trên cũng tốt . Nhưng tốt ở mức độ nào còn phải xem xét thêm các yếu tố tôi đã trinh bầy trong bài viết này . Những người như trên phần lớn rơi vào một trong hai trạng thái sau : _Một là sinh vào khoảng đầu năm hoặc cuối năm . _Hai là sinh vào ban đêm ( từ 16h đến 4h sáng hôm sau ) Nhũng người đàn ông này muốn thành công họ phải để ria . chậm nhất là đến năm 40 tuổi phải để . Như vậy mới gọi là Tu mi nam tử . Còn nếu cho là 3 trắng . . là tốt nhưng tai như tai Dơi , Pháp lệnh xấu , âm thanh the thé . . thì sao mà thành đạt được . Cám ơn bạn đã tin tưởng . Người đàn ông mà có 3 tiêu chuẩn như trên cũng tốt . Nhưng tốt ở mức độ nào còn phải xem xét thêm các yếu tố tôi đã trinh bầy trong bài viết này . Những người như trên phần lớn rơi vào một trong hai trạng thái sau : _Một là sinh vào khoảng đầu năm hoặc cuối năm . _Hai là sinh vào ban đêm ( từ 16h đến 4h sáng hôm sau ) Nhũng người đàn ông này muốn thành công họ phải để ria . chậm nhất là đến năm 40 tuổi phải để . Như vậy mới gọi là Tu mi nam tử . Còn nếu cho là 3 trắng . . là tốt nhưng tai như tai Dơi , Pháp lệnh xấu , âm thanh the thé . . thì sao mà thành đạt được . Cám ơn bạn đã tin tưởng .1 like -
Tướng Mạo
Sói.Trắng liked a post in a topic by Lốc Cốc Tử
LÒNG BÀN TAY VÀ NHỮNG CHI TIẾT LIÊN HỆ TIẾP THEO . TƯỚNG MẠO PHẦN BÀN TAY . A_ SẮC THÁI BÀN TAY . 1/ Bàn tay ướt mềm : ( Trông giống như được thoa tẩm chất dầu ) Đây là bàn tay của những người lười biếng , ham khoái lạc , dễ bị cám dỗ vì vật chất , dễ bị cảm xúc . _Phụ nữ có bàn tay này dút dát , dễ bị sa ngã . _ Đàn ông thích hưởng thụ , ưa an bình . tuy thụ động nhưng lại bướng bỉnh, thích hào nhoáng . 2/ Bàn tay khô , cứng : Là người lạnh nhạt , làm ngơ trước đau khổ của mọi người , không biểu lộ cảm xúc trước mọi sự việc . tính trầm , giầu tâm linh nhưng ích kỷ . 3/ Bàn tay nóng (không nên lầm với sốt nóng ) : Đây là người tốt , có lòng khoan dung với những sai trái của mọi người . Là người hoạt bát , tự kiêu , ham nói , nhưng đôi khi nóng nẩy . 4/ Bàn tay lạnh : Là người dễ dãi , không hề từ chối điều gì . Đủ nết , đủ tật nhưng kín đáo , thầm kín trong ái tình . Là người trung thành , dám hy sinh vì người thân , người yêu . Nhưng người có bàn tay này cũng rất nhẹ dạ và dễ xúc động . 5/ Bàn tay quá cứng : Là người gan dạ nhưng hơi hung bạo , liều lĩnh nhưng thiếu thông minh . Không thích nghe chuyện ái tình . Là người khó lung lạc . Đây là một bàn tay của người thực tế , có thể hơi ít nói và kiêu căng . 6/ Bàn tay mềm : Là người mơ mộng , thờ ái tình , giầu tưởng tượng .Lười biếng gần như gàn dở . Nhưng ngừoi này hay may mắn về ái tình và về tiền bạc . 7/ Bàn tay dầy : Là người phóng túng , lười và hơi tham lam nhưng cương quyết đạt được tham vọng . Nếu vừa dầy lại cứng thì là người biết vận dụng mọi khả năng để đạt được tham vọng ,đạt được ý muốn của mình . 8/ Bàn tay gầy và mỏng : Loại người này sống thuần về trí óc , biết tìm những thú vui về tinh thần . Tôn thờ ái tình và tôn trọng ái tình đó . nhiều khi hơi bủn xỉn . Là người biết chờ cơ hội , kiên nhẫn và âm thầm . Nếu gầy cộng với gò Đồng Hỏa tinh đầy ( Giữa lòng bàn tay không trũng )là người sẽ gập cơ hội đó. 9/ Người mà bàn tay có Đồng Hoả Tinh bị lõm : Đây là người suốt đời phải tranh đấu , phải làm việc và có nhiều lo toan . Nhưng ngừơi này nếu sinh ra trong hoàn cảnh giầu hoặc có thời kỳ giầu thì lại rất phóng túng và phung phí . Nếu lòng bàn tay trũng lại cộng với những đường chỉ tay xấu sẽ nghèo và nhiều bệnh tật , chắc chắn là bệnh phổi .. . . Còn tiếp ...1 like -
Tướng Mạo
Sói.Trắng liked a post in a topic by Lốc Cốc Tử
CHƯƠNG HAI . TƯỚNG MẠO BÍ ẨN CỦA CÁC ĐƯỜNG CHỈ TAY . Lốc cốc tử - Nguyễn Thức biên soan. LỜI NÓI ĐẦU: Đã nhiều lần, khách hàng tìm đến nhà tôi để coi Tử Vi , tôi thường coi bàn tay trước , tôi nói :” Chị đưa bàn tay tôi coi !” . Người phụ nữ đó đưa bàn tay phải ra . Tôi hỏi :”Tại sao chị đưa tay phải ? “. Chị ta nói :” Trai tay trái , gái tay phải mà ! “. Tôi liền nói :” Chị xem bàn tay trái của chị , đường chỉ tay có khác chỉ tay của bàn tay phải không ?” . Chị ta nhìn một lúc và nói :” Vâng quả là có khác .” Tôi lại hỏi :” Chị thuận tay nào ?”. Chị ta nói :” Em thuận tay phải .” _Và nhiêu lần tôi nói với đàn ông thì ngược lại _ Lúc này tôi mới giải thích mà cũng để nói chuyện với các độc giả nghiên cứu về bàn tay . Khi nghiên cứu về bàn tay của một con người ta cần lưu ý xem cả hai tay. Bàn tay nào không thuận là bàn tay ‘định mệnh”hoặc có thể nói là bàn tay Jen được di truyền của người đó , các đường chỉ ở bàn tay không thuận nói lên thời kỳ còn phụ thuộc gia đình và nội tâm của ngừoi đó . Còn bàn tay thuận thì các đường chỉ tay cho biết những kết quả của ý nghĩ đó , của ý chí , lòng quyết tâm đó có thành công hay không ? Hoặc nói một cách khác là những đường chỉ tay ở bàn tay thuận nói lên thực tế ở ngoài đời . Thí dụ khi xem ở bàn tay không thuận của một cháu gái tôi thấy gò Thủy tinh ( dưới ngón út ) nhô cao , nhưng ở bàn tay thuận gò đó lại bằng phẳng , tôi khẳng định :” Cháu là người ham thích văn chương nghệ thuật ,cháu thuộc tên nhiều ca sĩ và những bài họ hay hát , ở nhà cháu hay véo von hát một mình, hồi nhỏ cháu đã có quyết tâm phải học một môn hoặc một thể loại âm nhạc như PIANO chẳng hạn nhưng thực tế cuộc sống không cho phép cháu thực hiện được .” Cháu gái đó cười và nói :” Đúng ạ ! Hồi nhỏ cháu rất thích chơi đàn Ghita và đã tập , nhưng sau này bận học và bây giờ đi làm cháu phải bỏ dở dang .” *** 1_ GÒ MỘC TINH . Gò này nằm dưới ngón tay chỏ xác định tính tự phụ , tham lam , áp đảo . _Gò MT cao cộng với ngón tay chỏ trội : Xác định tính tự phụ , phách lối ,là người giầu tin tưởng ở thiêng liêng . _Gò MT đầy đặn,ngón tay trỏ lại thon : Là người có nhiều kỳ vọng ,nhiều ham muốn . Người này sẽ hạnh phúc nếu có một tâm hồn cao thượng. _Gò MT nếu đầy đặn cộng với ngón trỏ dài , đầu ngón trỏ lại có hình bầu dục : Đó là người can đảm , có tài điều khiển trong binh nghiệp , nếu công tác trong nghành quân chính sẽ thành công . _Gò MT trũng : Là người tầm thường không có lòng ham muốn , tự kỷ . 2_GÒ THỔ TINH . Gò này nằm dưới ngón giữa nói lên tính cương nghị , cẩn thận của con người . _Gò T .T đầy đủ cộng với ngón giữa mảnh : Là người hay ảo tưởng . _Gò T T đầy đủ , ngón giữa trội : Người này chỉ giao dịch khi có lợi cho mình. _Gò T.T cao : người đa sầu đa cảm . _Gò T.T đầy đặn cộng với các đốt ngón giữa đầy ; Đó là người tinh khôn , có nhiều tài . _Gò T .T cao lóng chót ngón giữa to : Người này keo kiệt , bần tiện . _ Gò T T đầy đặn , ngón giữa thon cộng với tâm đạo mờ : Là người bạc nhược , có thể tự tử vì buồn . _Gò T .T trũng : Là người hèn hạ , không có cá tính , dễ sai khiến . _Gò T.T to hơn tất cả các gò khác dầy đặn : Là người trường thọ , có phúc . 3 _ GÒ THÁI DƯƠNG . Nằm dưới ngón tay đeo nhẫn , gò này xác định sự sáng suốt , minh mẫn lòng ham muốn danh vọng , quyền lực . _Gò T .D no tròn, ngón đeo nhẫn dài : Người này có lòng ham muốn tận cùng , ham cờ bạc ,ham nghệ thuật nhưng có cuộc sống bồng bềnh , trôi nổi . _Gò T.D đầy đặn, lóng giữa ngón đeo nhẫn dài cộng với một đường trí đạo thẳng đậm : Người này có khả năng kinh doanh rất tốt .. 4_ GÒ THỦY TINH . Gò này xác định lòng ham thích nghệ thuật , sự hoạt bát , sử sự mọi việc linh động , tài xã giao . _Gò Thủy Tinh đầy đặn, nhô cao nói lên người này có tâm hồn yêu thích nghệ thuật , nếu cả hai bàn tay đều như vậy thì chắc chắn rằng người này thành công trong nghệ thuật . _ Gò Thủy Tinhnổi cao , ngón út trội : Là người xảo quyệt , dễ dàng phản trắc chỉ vì một cớ nhỏ . _Gò Thủy Tinh trũng : Là người đần độn,yếu kém trong kinh doanh , ham cờ bạc . 5_ GÒ THÁI ÂM . Gò này nằm ở rìa bàn tay ,hướng về phía trong kéo dài từ cổ tay lên phía trên cách ngón út một đoạn ( phía trên gò này là gò Hỏa Tinh Âm , trên nữa là gò Thủy Tinh đã nói ở phần trên ) .Gò này xác định trí tưởng tượng , tâm linh , mơ mộng . _Gò T.ÂM cao rộng : Là người thích phiêu lưu , mơ mộng , ham sông nước , nhưng cũng là người có óc sáng tạo. _Gò T. ÂM cao mềm nhũn : là người bất nhất và đầy tham vọng . _Gò T.ÂM nẩy nở quá : Rất giầu tưởng tượng , mê tín đến cuồng nhiệt . 6_ GÒ KIM TINH . Gò này nằm dưới ngón tay cái , kéo xuống tận cườm tay , được bao bọc bởi đường Sinh Đạo . Gò này xác định về sức khỏe sinh mạng và tình cảm của con người . _Gò KT nẩy nở đầy đặn : Người này giầu lòng nhân ái, đức độ ,dồi dào tình ái . Nếu lại có đường Sinh Đạo rõ ràng , đậm sẽ được sống thọ , khỏe mạnh . _Gò KT nổi cao : Người này thể hiện giới tính rõ ràng , luôn ham muốn gần người khác phái . _Gò KT nổi cao gần cổ tay :Người này cực dâm , cuồng bạo . _Gò KT đầy đặn : Mê sắc đẹp , có duyên , vừa lòng người khác phái .Ngừoi này đa tình chứ không đa dâm. 7_Gò HỎA TINH . Hỏa Tinh được chia làm 3 khu vực a / Gò Hỏa Tinh Dương : Nằm ở dưới gò Mộc Tinh cuối ngón cái, phía trên gò Kim Tinh .Néu cả hai gò đều nẩy nở thì người này là ưa thích hoạt động thực tế .Sẵn sàng lao vào công việc không nề hà , sẵn sàng đi trước mọi khó khăn . b / Hỏa Tinh Âm : Nằm ở dưới gò Thủy Tinh phía trên gò Thái Âm .Có thể xác định tiềm lực sẵn có . Cả hai gò đều đầy , nẩy nở ; Người này có thể làm xáo trộn hoàn cảnh , khắc phục được khó khăn của hoàn cảnh . Người nào lại có gò Đồng Hỏa Tinh đầy đặn cộng với có đường Tâm Đạo và Trí Đạo nhập làm một đậm chạy dài vắt qua ngang bàn tay , đó là người dám làm nhưng việc mà người khác không dám làm hoặc không thể làm được, những công việc có tính chất hung bạo . Về đường tình cảm người đó còn có nhiều cuộc tình ngang trái . c / Đồng Hỏa Tinh : Nằm ở giữa hai gò Hỏa Tinh Âm và Hỏa Tinh Dương dưới hai gò Thổ Tinh và Thái Dương . CÒN TIẾP . . .1 like -
PHẦN TIẾP THEO ( Về Tướng phụ nữ ) G _ CHÍN ĐIỀU XẤU CỦA PHỤ NỮ . 1_Quyền cao , mặt xấu : Hại chồng . 2_ Lộ hầu : Chiêu họa . 3_ Đầu xù , mặt bẩn . : Bần tiện. 4_ Đi như rắn bò : Bần tiện , lao khổ . 5_ Cặp chân mày giao nhau , áp mắt : Cùng khốn . 6_ Cạnh mũi có vết móc câu : Hại chồng . 7_ Mắt lộ bốn phía lòng trắng : Vụng , hung hãn . 8 _ Tiếng nói như đàn ông : Khắc sát phu . 9_ Tóc xoăn như ốc : Bần tiện , keo kiệt , khắc tử . Nếu người đàn ông nào lấy người đàn bà bị một trong 9 điều xấu đó tất nhiên sẽ gặp nguy khốn vì đó không phải là tướng “ Vượng phu ích tử “ . H_ CHÍN ĐIỀU TỐT CỦA NGƯỜI PHỤ NỮ 1_ Đầu tròn trán sáng ,bằng phẳng . 2_ Xương nhỏ nhắn , da mịn màng ,thanh sạch . 3_ Môi hồng, bộ răng đều và trắng . 4_ Cặp lông mày dài ,mắt thanh tú . 5_ Ngón tay thon, bàn tay đầy đặn . 6_ Tiếng nói nhẹ ,âm thanh như suối chẩy êm . 7_ Bước đi ngay ngắn , khoan thai ,tự nhiên .Tư thế nằm ngồi nhàn hạ . 8_ Cừơi mà không lơi lả ,không hở lợi . 9_ Thần khí thanh hòa ,da thơm mịn màng . Khi quan sát người phụ nữ mà không có điều kiện đi sâu xem chi tiết, chỉ thoáng qua nếu họ có đủ 3 tiêu chuẩn “ 3 trắng , 3 đen , 3 đỏ .” ta cũng đã thấy người phụ nữ này có tương lai sáng sủa . Ba trắng là : Da trắng , răng trắng , bàn tay trắng . Ba đen là : Tóc đen, mắt đen , lông mày đen . Ba đỏ là : Môi đỏ , lưỡi đỏ , móng tay đỏ .( Nếu được thêm một đỏ nữa là gót chân đỏ _ Ta thường nói gót chân son _thì càng hay .) Trước khi tạm dừng để tới các chương sau đề cập tới CHỈ TAY và NỐT RUỒI , LỐC CỐC TỬ tôi có một mẩu chuyện ngắn muốn kể lại cho các quý độc giả , chuyện này ngày xưa Mẹ tôi thường kể cho anh em chúng tôi . Chuyện kể rằng : “ Có một ông Thầy Tướng rất nổi tiếng khắp vùng ,khách tới xem đông lắm ! Một hôm có một người bạn ở phương xa đến nói rằng “ Tôi không tin về xem tướng ! “.Ông Thầy Tướng hỏi lại :” Tại sao anh không tin ? “. Anh kia nói :” Theo thầy nói chỉ có những người có tướng tốt như da trắng, tai to mặt lớn,v .v . .thì mới giầu có , hạnh phúc , con cháu mới thành đạt. Thế tại sao ở vùng quê kia có một tay địa chủ dáng người thì thấp bé , mắt lại lé ,da lại đen . . .mà tại sao mấy chục năm nay càng ngày càng giầu có . Vợ lại đảm đang , con cái học hành lại thi đỗ cao . Vậy là ngược lại với lời thầy nói .” Ông Thầy không tin, nói :” Anh đưa tôi đi tận nơi xem nhé ! “. Anh kia vui vẻ nhận lời . Sau mấy giờ lặn lội , khoảng gần trưa , hai người đến một nơi đồng ruộng thẳng cánh cò bay , lúa chin vàng nặng trĩu bông , đang vào mùa gặt .Anh bạn chợt chỉ tay đến một khoảng cách hơi xa có mấy người đang lúi húi gặt lúa : “ Người địa chủ mà tôi nói kia kìa .” Hai người tiến lại gần . Sau hồi chào hỏi ,tay bắt mặt mừng , người địa chủ mời cả hai về nhà . Mới đi được một đoạn ngắn, chợt người tá điền đi cạnh chỉ tay ra phía xa trên đường đi tới và nói với người địa chủ : “Ông chủ ơi ! Ở đằng kia có mấy người đang gặt trộm lúa của đồng ta ! Để tôi đến bắt họ giải lên quan nhé ! “ Nhưng người địa chủ ngăn lại và nói : “ Không được , năm nay đói kém , mất mùa , dân đói khổ mà ruông nhà ta lại tốt , cứ để cho họ lấy một ít có sao đâu ! Nhà ta có mất một ít thì vẫn thừa ăn ,nhưng họ không có ít đó thì gia đình họ sẽ đói !”. Nói xong ,ông địa chủ quay lại nói với anh bạn và ông thầy : “ Chúng ta đi đường này tắt về nhà gần hơn ,đừng để họ thấy chúng ta .” Ngừoi tá điền thì hậm hực , còn ông Thầy Tướng cúi đầu ngẫm nghĩ . Đến nhà người địa chủ quả nhiên như anh bạn nói . Nhà cửa khang trang sạch sẽ . Vào đến sân , những tá điền đang làm việc đứng dậy lễ phép cúi chào rồi lại tiếp tục làm . Bước vào hiên nhà bà vợ có tướng phúc hậu đon đả chào hỏi .Ngay sau đó bốn người con đủ trai , gái từ trong buồng bước ra khoanh tay lễ phép cúi chào . Vào đến trong nhà , ông Thầy thấy ngay một bàn thờ đang nghi ngút khói hương . Trên cao sát tường là ba bức tranh thờ Đức Phật Tổ Như Lai , Đúc Quan Thế Âm Bồ Tát và Đức Thánh Mẫu Thiên Cung .Đặt trên bàn thờ là 5 bát nhang đang tỏa khói hương thơm ngào ngạt , tàn nhang lộc xoắn suýt . Ông thầy Tướng quay sang nói với người bạn : “ Bây giờ tôi đã hiểu ra nguyên nhân . “ Nguyên nhân đó là gì chăc các độc giả đọc đến đây đã hiểu lý do mà người địa chủ có TƯỚNG MẠO xấu mà lại thành công vẹn tròn .Đó là TÂM ĐỨC . Các cụ từ xưa đã dậy chúng ta ĐỨC NĂNG THẮNG SỐ . Xin cám ơn các bạn đã bớt thời gian đọc câu chuyện này.1 like