-
Thông báo
-
Nội quy Lý Học Plaza
Nội quy này là bản mở rộng Nội Quy - Quy định của Diễn đàn. Khi tham gia mua bán, các thành viên phải tuân theo những quy định sau: Tiêu đề bài viết: Bao gồm: Chỉ dẫn địa lý, Loại hình Mua/Bán, Thông tin mua bán.
Chỉ dẫn địa lý: Tỉnh/thành nơi mua bán. Hoặc sử dụng định nghĩa có sẵn:TQ: Toàn quốc
HCM: TP Hồ Chí Minh
HN: Hà Nội
[*]Ví dụ: HCM - Bán Vòng tay Hổ Phách Nội dung bài viết: Mô tả chi tiết sản phẩm mua/bán
Bắt buộc phải có thông tin liên lạc, giá Mua/Bán
Bài mới đăng chỉ được phép up sau 03 ngày.
Thời gian up bài cho phép: 01 ngày 01 lần.
Các hành vi vi phạm nội quy này sẽ bị xóa bài hoặc khóa tài khoản mà không cần báo trước.
-
Leaderboard
Popular Content
Showing most liked content on 08/05/2011 in Bài viết
-
chắc tại Cóc học nhiều thứ quá nên mới vậy :D3 likes
-
Đúng là được voi đòi hai bà trưng thật. Hỏi thế thì bạn tự đi học hoặc tìm người giải cả lá số mới được. Ngay từ câu hỏi đầu tiên,bạn chỉ đưa lá số, liệu có chắc lá số đúng không. Thực ra giờ chưa yên ổn,nên bạn mới hỏi nhiều vậy. Mình trước có người động tí là hỏi, nhưng chỉ là lúc họ chưa yên, vận đẹp tới, cưới chồng đại gia là không nói năng gì nữa. Quên mình luôn. =)) Tạm thời đừng hỏi hay nghe gì lão cóc, đang tẩu hỏa nhập ma đấy3 likes
-
Cháu sanh giờ Tý của ngày 15 tháng 05 ,như vậy lá số nầy đáng ngại với cách mã đầu đới kiếm mà thiếu sao phượng giải để giải nạn ,cung phúc kém thuận lợi cho việc xa xứ mà lập nghiệp ,với cách mã đầu đới kiếm thì thường là cái chết bất đắt kỳ tử hay cách chết rất dữ ,cung phúc có phượng giải hy vọng cháu được cứu vớt bởi phúc đức âm phần ,nên làm lành lánh dữ tạo nhiều nghiệp tốt để thoát nạn ,nhưng dù thế nào sau nầy cháu sẽ phải qua 1 cơn thập tử nhất sinh hay bị tai nạn gì đó ,nhưng bệnh cần lưu ý như tim mạch ,máu , 2 mắt ,và cột sống ,có thẻ bị tai nạn hay bệnh có liên quan đến thần kinh cọt sống mà không đi đứng tê liệt bên chân tay phải .2 likes
-
2 likes
-
2 likes
-
1 like
-
Chào tất cả mọi người. Tôi đã nhận lời mời làm giảng viên chính cho lớp học Tứ Trụ sơ cấp và trung cấp bên trang web Nhân Trắc Học. Chương trình dậy theo đúng từng chương của cuốn "Giải Mã Tứ Trụ" của tôi. Có thể vì vậy mà nhiều người đã ghi danh tham gia học (gần 500) nhưng chỉ có 151 người được học. Ðây là một bất đồng của tôi với ban điều hành khi tôi muốn cho tất cả mọi người đã ghi danh đều được học. Ðó là lý do vì sao tôi mở chủ đề này. Nội dung dậy như sau: Nội dung khóa học sơ - trung cấp Sơ cấp : Bài 1 : Vận mệnh và dự đoán vận mệnh Bài 2 : Sáu mươi năm Giáp Tý Bài 3 : Học thuyết Âm Dương và Ngũ Hành Bài 4 : Đặc trưng của Tứ trụ Bài 5 : Đại vận và tiểu vận của Tứ trụ Bài 6 : Thân và mười thần của Tứ trụ Bài 7 : Thiên địa nhân của tứ trụ Bài 8 : Thần sát của tứ trụ Bài 9 : Sơ đồ biểu diễn tứ trụ, tuế vận và tiểu vận Trung cấp : Bài 10 : Thân và vùng tâm Bài 11 : Xác định điểm vượng của các trạng thái Bài 12 : Dụng thần của Tứ Trụ Bài 13 : Dụng thần của một số Tứ Trụ đặc biệt Bài 14 : Điểm hạn của ngũ hành Bài 15 : Sự xấu, tốt của đại vận và lưu niên Bài 16 : Cách tính điểm hạn cho từng năm Bài 17 : Các cách giải hạn cơ bản Bài 18 : Các ví dụ mẫu xây dựng lý thuyết Tôi sẽ cố gắng giải đáp mọi thắc mắc của mọi người về nội dung giảng dậy cũng như mọi trao đổi, tranh luận của mọi người trong chủ đề "Giải đáp thắc mắc" trong mục Tử Bình Bát Tự (ở phía dưới, vì ở đó mọi người mới được viết bài). Thân chào.1 like
-
Người nầy cung mệnh có cách âm dương hỗn hợp tại Sửu , cần tuần hay triệt + hóa kỵ mới phản vi kỳ cách ,ở đây có tuần lẫn triệt mà 2 hành nầy đều xung phá với nhau cũng như nhật và nguyệt ,cho nên không có tác dụng đảo ngược để thành 1 cách tốt ,nên lúc thiếu thời lang bạt hay vô sỡ bất định ,công danh sự nghiệp long đong không ra gì ,mặc dầu khi làm việc được đánh giá có năng lực và thường được người trên giao hay ủy thác tin cậy giao cho nhiều trọng trách , công việc thường hay thay đổi nay chổ nầy mai chổ nọ ,ít có khi làm nơi nào được lâu bền ,cung phúc khá tốt được hưởng phúc hay gặp nhiều may mắn trong đời nhưng nên sớm xa gia đình càng sớm càng tốt ,để tránh sống ỹ lại vào cha mẹ hay anh em , công danh phú quí như đám mây nổi vật vờ ,phải ngoài 34t mới bắt đầu ổn định và về già mới sung túc và an nhàn , tính ăn hoang xài rộng rộng rãi đối với người ngoài ,nhưng đối với người thân thuộc trong giai đình thì hơi chắt chiu , số được hưởng của phụ ấm hay tiền nhân để lại ,sau nầy có nhiều đất đai hay bất động sản .1 like
-
Sợ thật đấy. Nhưng cơ bản là bão giá thì vẫn là bão giá, tử vi vẫn là tử vi. Nói như ông, thì từ thời các cụ, có 3 chỉ vàng là cả đời ki cóp,bằng giờ mua 3 mảnh đất, mỗi mảnh 30 cây đấy. thời đó đã có tử vi, đã có giàu nghèo, đã cso người tích đc 3 chỉ cả đời, có người không rồi.... Đúng thời kiếm ra tiền, tích đc tiền thì tiêu ác mấy vẫn còn tiền chứ. Mà về quan điểm, ở với các cụ sướng hơn... :))1 like
-
Bác ơi, đừng nghĩ kinh thế. Có lần tớ ngồi tính làm sao để tiêu một tháng 1 triệu 800k đấy. Lương nhà nước lúc đầu chỉ có thế thôi. ... rồi cũng ra đấy, còn có chút tiền dư học thêm nữa cơ. Sợ nhỉ. :D hi hi. Bác làm tài chính thì phải xem khi cty thiếu khoản thu thì làm gì chứ. Cắt xén cái gì ko quan trọng. Chứ ko sinh viên đói hết à, có đứa nào bố mẹ cho những 300$/tháng đâu1 like
-
ý tôi muốn hỏi là : hồi đó đến giờ ở chung với gia đình bà mẹ hay đau yếu hoài , khắc khẩu với mẹ ,nếu là như vậy thì nên ra riêng sớm có lợi cho bà mẹ hơn .1 like
-
Năm tới có thể được... ,hiện từ đó đến giờ sức khỏe bà mẹ kém hay đau yếu thường ?1 like
-
Phi lễ có nghĩa là ; không cần nhiều nghi lễ phiền phức ,có thể 2 bên gia đình châm chế bớt thủ tục .1 like
-
:) Cóc nhà ta thi thoảng vẫn bỏ học đi ngó số đây. :)) Bạn này sinh cùng ngày khác tháng với tớ. Kình dương tuổi dần luôn cư ngọ. Đi xa cũng là cách mã đầu đới kiếm. Cứ nói như mọi người thì tớ cugnx chết non à. :)) DÙ là cung thân, nhưng vẫn bị dính kình ngọ chứ Chuyện phu thê tuần triệt, thì tớ nghĩ là tùy trường hợp thôi chứ nhỉ. Tớ thấy một anh thất sát còn hãm cơ, mà đi với một bạn tử phủ vũ tướng (truyền tinh trăm phần trăm) chưa thấy bộ Tang mã khốc hư hổ tuế điếu tác động gì. Chuẩn bị cưới, và tương lai, hơi khó ko hạnh phúc. ANh kia có Không Kiếp phu thê, nàng kia Mệnh không thân kiếp, Anh cư thê, nàng cư quan. :) Hai lá số tương hợp kì lạ. sinh năm 84. Cả hai sẽ sống ở nước ngoài, và hợp cách với cả hai lá số. Thế nếu như hai người có duyên, cô người yêu bạn đây tử phủ vũ tướng chơi nguyên cả con triệt tuần ở mệnh, vác luôn bộ tang hổ tuế điếu mã khúc khích ... thì thế nào. Có phải đúng là rất hợp số rồi ko.1 like
-
TranLong07 liên hệ nhận tại Trung Tâm và chính xác là Thiên Đồng có trách nhiệm chuyển giao!1 like
-
Hoàng Cầm, ông hoàng của thơ tình 06/05/2011 08:00:29 - Một người lính đẹp trai da trắng môi đỏ, hào hoa và tài hoa. Một giọng ngâm thơ thánh thót “oanh vàng Kinh Bắc”. Một nhà thơ đáng danh Thi Sĩ được Đại tướng Võ Nguyên Giáp khen thưởng tại mặt trận nhờ thơ. Một thủ lĩnh văn công quân đội được Tướng Nguyễn Chí Thanh yêu mến… Đó là Hoàng Cầm của những ngày kháng chiến chống Pháp. "Thi sĩ diêu bông" LTS: Kỷ niệm 1 năm ngày mất và 90 năm ngày sinh của “thi sỹ diêu bông” Hoàng Cầm, NXB Hội Nhà Văn và Trung tâm Văn hóa Ngôn ngữ Đông vừa cho ra mắt cuốn “Hoàng Cầm”, hồn thơ độc đáo” - cuốn sách tập hợp các bài phê bình nghiên cứu cũng như tình cảm của bạn đọc đối với tác phẩm Hoàng Cầm. Nhân ngày giỗ đầu của nhà thơ tài hoa được mệnh danh là “ông hoàng của thơ tình” Cầm, chúng tôi xin trích đăng một bài viết của Nguyễn Trọng Tạo từ cuốn sách này. Một người lính đẹp trai da trắng môi đỏ, hào hoa và tài hoa. Một giọng ngâm thơ thánh thót “oanh vàng Kinh Bắc”. Một nhà thơ đáng danh Thi Sĩ được Đại tướng Võ Nguyên Giáp khen thưởng tại mặt trận nhờ thơ. Một thủ lĩnh văn công quân đội được Tướng Nguyễn Chí Thanh yêu mến… Đó là Hoàng Cầm của những ngày kháng chiến chống Pháp. Và những mối tình lãng mạn đầy bất trắc đã khiến ông trở thành “ông Hoàng thơ tình” thời hiện đại với Mưa Thuận Thành, Về Kinh Bắc, 99 tình khúc. Hoàng Cầm tự nhận mình thuộc dòng “Mẫu hệ” (Mải theo dòng mẫu hệ / Thắt yếm đào tuổi son). Có lẽ con người và văn chương của ông giàu nữ tính? Năm 1976, tôi được quân đội điều về Hà Nội dự trại sáng tác để chuẩn bị vào học trường Viết văn Nguyễn Du, tình cờ mượn được tập thơ Về Kinh Bắc bản đánh máy của Hoàng Cầm. Tôi đọc một lèo hết cả tập, rồi đọc lại, rồi chọn từng đoạn mình thích chép vào sổ tay. Tôi lại đóng thêm một quyển sổ nhỏ bằng bàn tay, chép lại những đoạn ấy gửi cho người chị nuôi ở phố huyện quê tôi, và chị tôi đã thuộc. Đến giờ tôi vẫn còn nhớ nhiều câu thơ thật ấn tượng của ông: “Em mười hai tuổi tìm theo Chị / Qua cầu Bà Sấm bến Cô Mưa”, “Quan Đốc đồng áo đen nẹp đỏ / thả tịnh vàng cưới Chị võng mây trôi / Em đứng nhìn theo em gọi: Đôi!”, “Ngày cưới Chị em tìm thấy lá / Chị cười se chỉ ấm trôn kim”, “Vắt áo nghe thầm tiếng vải kêu”, “Ta con chào mào khát nước / Về vườn xưa hạt nhãn đã đâm mầm”… Thơ của ông đã lay động hồn tôi kỳ lạ. Nó không giống thơ thế hệ chúng tôi đang làm. Nó có một không gian xa xăm mơ hồ, một thời gian phức hợp không rõ thời nào, một ngôn ngữ nhòe mờ sáng láng. Hình như nó hội đủ cả ngôn thi, tâm thi, thần thi, cả ý thức, tâm thức và vô thức với một “thần lực Hoàng Cầm”… Nó mới hơn Thơ Mới, và nó khác thơ chúng tôi đang làm. Chính con người đó từ lâu đã mang tới một “sông Đuống nghiêng nghiêng” trong tâm thức bao người. Tôi nể phục ông thật sự, và mong có dịp được gặp ông. Mãi đến năm 1981 tôi mới gặp Hoàng Cầm. Buổi tối tình cờ, Phan Lạc Hoa rủ tôi và Nguyễn Hoa đến quán rượu của ông trong hẻm 43 Lý Quốc Sư. Chưa gọi rượu, tôi nhờ chị Hoàng Yến cho gặp ông. Ông từ trên gác xép bước xuống thang, tay cầm chai rượu nút lá chuối có dán mảnh giấy ghi mấy chữ “Rượu quê của Hoàng”. Ông gầy gò tóc vuốt mượt ra phía sau, nhưng gương mặt thì rạng rỡ và nhân hậu. Một gương mặt đẹp như mặt mẹ: da trắng, mắt đen, môi đỏ. Tôi vụt nghĩ: Chắc ngày xưa anh đẹp trai lắm, đẹp như “hoa khôi”. Anh đặt chai rượu lên bàn và nói: "Nghe Trọng Tạo có “Làng Quan Họ”, mình mang chai rượu Vân của riêng mình đây." Thì ra đây là rượu đặc biệt của riêng ông chứ không phải loại rượu Vân quán nhà vẫn bán. Tôi lại thầm phục ông ngồi một chỗ mà đọc và biết rất nhiều điều chúng tôi đang làm… Sự ứng xử thân tình với đàn em như vậy khiến chúng tôi vô cùng cảm động. Và cái cảm giác ông giống một người mẹ càng khắc dần vào lòng tôi. Đến thời “đổi mới”, vì yêu quý thơ và yêu quý ông, tôi bàn với Nguyễn Thụy Kha và Hoàng Phủ Ngọc Tường xuất bản tập Về Kinh Bắc sau hơn 30 năm im tiếng. (Hồi đó tôi phụ trách xuất bản ở hội Văn Nghệ của anh Hoàng Phủ Ngọc Tường). Ông không còn bản thảo, nhưng đã ghi lại qua trí nhớ được 32 khúc. Kha viết lời tựa. Chúng tôi quyết định lấy thêm bài Bên kia sông Đuống làm bài mở đầu. Nhưng chưa kịp in thì Hoàng Cầm đánh một bức điện vào Huế xin ngừng lại, ký tên Hoàng (vì có người can). Chúng tôi phải chiều theo ý tác giả. Mãi đến 1994 Về Kinh Bắc mới ra mắt bạn đọc bởi nhà xuất bản Văn Học. Một người trai “nữ tính” thế mà năm 16 tuối đã viết kịch thơ Hận Nam Quan, năm 20 tuổi viết kịch thơ lớn Kiều Loan làm lay tỉnh lòng yêu nước của dân Việt cho đến nay vẫn nguyên giá trị: “Về ngay đi ghi nhớ Hận Nam Quan / Bên Kim Lăng cho đến ngày nhắm mắt / Cha nguyện cầu con lấy lại giang san”; “Vì chính sự bạo tàn Ôi! Nước mắt / Bao nhiêu lần rỏ xuống những hồn oan? / Chính sự gì đi cầu viện ngoại bang / Về tàn sát những người dân vô tội“… Tôi nhớ năm kia kịch Kiều Loan được đạo diễn trẻ Anh Tú dựng cho Nhà hát Tuổi Trẻ làm tác phẩm tốt nghiệp, và Hoàng Cầm với chiếc xe lăn đến xem, đã khóc khi vở diễn kết thúc. Cuối năm 2009 vở kịch thơ Kiều Loan lại đoạt giải Liên hoan sân khấu chuyên nghiệp toàn quốc tại Sài Gòn. Tôi không ngờ mình lại ngồi trong ban giám khảo để chấm vở kịch đó, và đã ứa nước mắt khâm phục. Điều đó chứng tỏ lòng yêu nước của Hoàng Cầm còn sống mãi. Hình như Hoàng Cầm cũng quý mến tôi. Ông viết một bài cảm nhận dài khen không tiếc lời tập thơ Đồng dao cho người lớn của tôi khi nó rơi khỏi giải thưởng Hội Nhà văn. Khi bài cảm nhận của ông in lên báo Văn Nghệ, tôi đang uống rượu với các nhà văn ở Thanh Hóa, nhà thơ Văn Đắc đã đọc to cho mọi người nghe bài viết đó, như để tỏ lòng cảm phục ông. Những ngày ốm nặng, ông lại giao cho tôi 53 băng cassete thu lời ông nói về đời về thơ ông. Tiếc là tôi mới nghe đươc 10 băng thì Công ty Văn hóa Phương Nam đã thương lượng với ông và gia đình mua bản quyền để in thành sách, và đã quá hạn hiệp đồng vẫn chưa thấy sách đâu. Đó là những câu chuyện rút ruột của ông. Nhưng tôi chắc là nó sẽ mãi được gìn giữ và công bố sau khi ông qua đời. Tuy là đàn em út, nhưng tôi cũng qua lại với nhiều bạn văn của Hoàng Cầm như Văn Cao, Trần Dần, Phùng Quán, Lê Đạt… và quả là mỗi người mỗi vẻ, độc đáo vô cùng. Không ai giống ai. Nhưng tôi thấy Hoàng Cầm là yếu đuối hơn cả. Ông đánh giá bạn ông toàn là tài giỏi với một thái độ chân thành không vụ lợi. Trong một cuộc họp kiểm điểm, ông đã nhận lỗi của Quang Dũng (tác giả Tây Tiến) về mình vì thương bạn… Có đêm khuya nghe một tiếng còi xe thét lên ngoài đường, ông vội chui xuống giường sợ hãi… Ông khiêm tốn cho rằng Bên kia sông Đuống cũng chỉ sống thêm được dăm chục năm nữa(?). Khi tôi nói ông đáng phải được giải thưởng cao hơn, ông bảo được giải ấy là may rồi… Và ông nói tiếp: “Danh và lợi, sự bon chen, sự cầu cạnh, sự tâng bốc nịnh hót, dèm pha, thù hận, v..v… là những cái rất xa lạ với tôi, có lẽ xa lạ cả với Thơ chân chính nữa”. Nhưng ông lại đam mê tình yêu đôi khi đến ảo tưởng. Nhiều cuộc ngỏ lời không thành là vì vậy. Tất cả sự “yếu mềm nữ tính” ấy lại giúp cho thơ Hoàng Cầm nhiều tinh tế và lấp lánh chất tình. Đó cũng chính là chất đa cảm và quyến rũ trong thơ ông: “Kìa dây muốn dại kín Em rồi / Lắc đầu hoa tím rụng / ngó rừng xanh Em hỏi ngọn nguồn / Biết rồi / Thôi / nghe hoa tím hát”. Ngay cả những lúc u uất bức bối nhất thì thơ ông cũng vẫn là tiếng kêu của lụa tơ: “Nâng lụa ngang mày câm tiếng khóc / Nghiến oán thù tím ngắt nắng Phong Châu”. Những câu thơ da diết cháy bỏng yêu thương và đẹp đến mê hồn ấy đã tôn vinh tác giả của nó – người thi sĩ Kinh Bắc – “Ông Hoàng thơ tình”. Nguyễn Trọng Tạo1 like
-
Bạn xác nhận một trong hai trường hợp sau xem trường hợp nào đúng nhé: 1. Trong nhà hay bị bệnh về máu huyết, mụn nhọt, tim mạch. Đau nhức đầu, chóng mặt. công việc thường gặp trục trặc. 2. Người nhà thường hay bị các bệnh về phổi, đau xương cốt, đau cơ bắp, ho hen. Công việc hay bị tiểu nhân chọc phá, gặp nhiều trục trặc Thân mến1 like
-
Bạn cho lại tuổi của toàn bộ thành viên trong gia đình nhé Thân mến1 like
-
đã gửi mail cho bạn, bạn đọc và trả lời sớm nhé1 like
-
1 like
-
Tôi nghĩ lá số nầy đúng với anh chồng ,mặt anh ta theo tôi nghĩ là không phải khắc khổ ,mà khuôn mặt buồn hay đăm chiêu suy nghĩ xa xôi ,còn mặt nhỏ thì tôi nghĩ là tôi thiếu sót khi quên nhận định có địa không đi kèm .theo lá số nầy người nầy cung điền tài khá tốt ,lúc thiếu niên lận đạn vì mệnh không thân kiếp ,nên cuộc đời buồn nhiều hơn vui , cả 2 lá số có sự trùng hợp truyền hệ ,có thể là 1 đôi vợ chồng ,cả 2 vợ chồng đều có mệnh thân không kiếp tọa thủ , tình thì hiền nhưng cũng ngang bướng ,hơi cố chấp . neus tôi đúng khonagr tháng 6 aal nầy sẽ có tin tức về việc di cư cần bổ túc giấy tờ thêm ,nhưng bị tốn tiền để chạy chọt ,nói chung năm tới nếu theeo dự đoán cả 2 có cơ hội xuất ngoại và có thể cưới năm nay hay năm tới để có con . Nếu có đúng vậy cho biết khi có kết quả để lấy thêm kinh nghiệm ., qua Mỹ được sẽ ở tiểu bang nào ?1 like
-
1 like
-
Tại sao tôi phải chấp nhận như vậy ? Chỉ có những người thuộc "Hội Sài Ðồng Sổng VanQuyTang" bên trang web "Huyền Không Lý Số" khi "Sổng" ra khỏi trại mới chấp nhận như vậy hoặc những thằng "Dưới Trọc" trình độ không quá tiểu học mới chỉ biết được phép chia cho 60 mà đã tự cho mình là cao thủ "Tử Mù" lên mặt dậy người khác mà thôi. Tôi đã viết là : "... Nếu bạn làm được thì xin bạn thử chứng minh cho tôi và mọi người biết xem sao ? Hy vọng sớm được đọc bài chứng minh của bạn." Mà ông bạn đã viết "...vì tôi có thể phản bác với bằng chứng cơ!" thì ông bạn hãy chứng minh (phản bác) đi làm gì phải úp úp mở mở như vậy.1 like
-
Trước đây tôi đã nghĩ : rất tiếc nhiều nhà lý học Ðông Phương vì không có đủ kiến thức về Vật Lý nói chung và Vật Lý thiên văn nói riêng nên khi nghiên cứu mệnh học đã không có được những nhận thức đúng hay giải thích đúng về các hiện tượng, quy luật của thế giới tự nhiên. Nhưng bây giờ thì tôi mới ngớ người ra bởi vì có những người có bằng Tiến Sĩ về Vật Lý hẳn hoi cũng chả hơn gì. Qua đây tôi có thể đưa ra "Tuyệt Chiêu thứ 1001" như sau: Cách đây (tính từ năm...?) trở về trước đúng 10 155 928 năm; 7 hành tinh (Thất tinh) nằm trên một đường thẳng - "thất tinh hợp bích" - bởi người Trung Hoa.1 like
-
Trả lời các câu hỏi trọng tâm Bài 3 : ( Ðây chỉ là điều giải thích qua trình độ hiểu biết về Vật Lý thiên văn của riêng tôi tại thời điểm này, có gì chưa đầy đủ xin mọi người đóng góp thêm). (Câu hỏi 2 và 3 của Bài 1). 2 – Theo bạn khái niện Lỗ đen và Lỗ trắng để giải thích sự tồn tại vĩnh hằng của Vũ Trụ có tính thuyết phục (hợp lý) hay không? 3 – Âm Dương Ngũ Hành là các tiên đề trong mệnh học Ðông Phương có hợp lý không? Tạm thời chúng ta hãy suy nghĩ thật đơn giản là khi các ngôi sao như mặt trời của chúng ta đang không ngừng đốt cháy nhiên liệu của nó để tạo ra ánh sáng (là một dạng của năng lượng) thì dĩ nhiên đến một lúc nào đó số nhiên liệu dùng để cháy của nó rồi phải hết. Khi đó mặt trời hết cháy, hết chiếu sáng là một điều ai cũng có thể tin được. Vậy thì thử hỏi với thời gian là vô tận thì tại sao tới bây giờ vẫn còn ti tỷ ngôi sao (như mặt trời) vẫn còn cháy tỏa ánh sáng vào vũ trụ rộng mênh mông mà hàng đêm chúng ta vẫn nhìn thấy ? Ðể trả lời câu hỏi này thì dĩ nhiên chúng ta phải đặt vấn đề là nếu có một nơi phát ra năng lượng (như ánh sáng) thì phải có một nơi thu (hút) năng lượng lại (kể cả ánh sáng), để mà rồi lại tạo ra mặt trời mới hợp lý được chứ. Mà một vật thể thu (hút) được cả ánh sáng thì làm sao chúng ta có thể nhìn thấy được nó. Chính lý do này mà người ta không nhìn thấy nó nhưng người ta có thể xác định được nó là có thực và đang tồn tại trong vũ trụ thông qua lực hấp dẫn của nó qua các vật thể (trong đó có các ngôi sao) đang quay quanh nó theo các quỹ đạo khác nhau. Chính vì vậy mà người ta gọi vật thể này là Lỗ đen. Chúng ta suy luận tiếp, về logic thì không có vật thể nào có thể Hút được mọi vật mãi mãi, cũng như không thể có mặt trời nào cháy được mãi mãi. Do vậy để giải quyết điều này thì người ta phải đưa ra khái niện Lỗ trắng là một vật thể Phun ra vật chất và năng lượng. Dĩ nhiên là Lỗ đen và Lỗ trắng phải cùng là một vật thể chứ không thể là hai vật thể khác nhau được. Ðể giải thích vì sao Lỗ trắng lại xuất hiện thì chúng ta cứ nghĩ đơn giản là nó Hút (ăn) mãi rồi thì nó phải Bội Thực (tức quá lo) nên Phun ra để bảo toàn Mạng sống của nó nếu không thì Vỡ Bụng mà chết mất, có vậy thôi. Trong cái bụng Bội Thực của nó mọi thứ vật chất và năng lượng (như ánh sáng) hòa lần với nhau trở thành một nồi Súp chất lỏng, khi Phun ra dĩ nhiên sẽ có cả khối lượng (vật chất) và năng lượng. Một phần khối lượng (vật chất) đặc biệt có thể cháy đã tạo ra các ngôi sao. Hiện tại các nhà Vật Lý có đưa ra lý thuyết “Ðường hầm lượng tử“ gì đó, nói rằng vật chất bị Lỗ đen Hút sẽ chạy qua một đường hầm để tới đầu bên kia thì được Phun ra nhờ Lỗ trắng. Theo tôi điều này vô lý bởi vì nếu như vậy thì chúng ta sẽ nhìn thấy Lỗ trắng này luôn Phun ra vật chất từ một điểm cố định trong vũ trụ. Nếu đúng như vậy thì làm sao người ta giải thích được mọi vật thể trong vũ trụ hiện đang giãn nở ra theo hướng càng xa nhau hơn theo mọi hướng chứ không phải xuất phát từ một điểm nào đó trong vũ trụ mà chỉ bay theo một hướng. Một bản đồ của bức xạ nền vũ trụ (CMB) trong vũ trụ với những hình tròn có thể biểu hiện các sự kiện diễn ra trước vụ nổ Big Bang. Ảnh: Daily Mail. Mỗi vòng tròn đồng tâm trên bản đồ bức xạ nền vũ trụ (CMB) ở trên có thể hiểu là nó tương ứng với một lần Lỗ đen biến thành Lỗ trắng. 2 - Bạn có biết người Ðông Phương (các thầy thuốc Ðông y) đã dùng học thuyết Âm Dương Ngũ Hành này vào chữa bệnh cho con người từ bao giờ ? Cổ nhất có bộ y thư “Hoàng Đế Nội Kinh Tố Vấn“ cách đây khoảng 3 đến 4 nghìn năm. “Định mệnh có thật hay không Phần 18 Thứ ba 20/05/2008 12:00:00 (GMT +7) Tác giả: Nguyễn Vũ Tuấn Anh Nguồn: Trung tâm nghiên cứu Lý học Đông Phương * Chú thích: Hoàng Đế-có niên đại ước tính hơn 3000 năm trước CN. “Trên thực tế, Hoàng Đế nội kinh trong lịch sư Trung Quốc đối với văn hoá Hán học có ảnh hưởng sâu sắc không thể mất đi, nó cấu thành một truyền thống văn hoá Trung Hoa. Nếu như truyền thống văn hoá thiếu khuyết phần này, chúng ta không thể tưởng tượng tình cảnh của nó vô lý đến mức nào. Thậm chí ở Trung Quốc cổ đại, người ta còn đem Hoàng Đế Nội Kinh với Đạo Đức kinh của Lão Tử, Nam Hoa kinh của Trang Tử, Chu Dịch ra so sánh với nhau, mọi người không chỉ xem nó là một cuốn sách ý học bình thường. Người xưa xem Hoàng Đế Nội Kinh là: “Thượng cùng ở Trời hạ cực ở Đất, xa xét vạn vật, gần nắm bản thân, biến đối khó lường”. cơ hồ như mọi việc trời đất không gì là không bao lấy”.(**) ** Chú thích: Trích dẫn trong “Hoàng Đế nội kinh và suy đoán vận khí”. Đàm Hiền Mậu biên soan. Nxb Văn Hoá Thông Tin 1998 Trong cuốn “Hoàng Đế nội kinh tố vấn” hoàn toàn sử dụng phương pháp luận của thuyết Âm dương Ngũ hành. Để chứng tỏ điều này, xin bạn đọc xem đoạn sau đây trong phần Lục Nguyên chính kỷ đại luận: “ Trước lập năm ấy, lấy tỏ khí ấy, số của vận hành của Kim, Mộc, Thuỷ, Hoả, Thổ. Là lạnh, nóng khô, ẩm gió, hoả đến ngự thì đạo trời có thể thấy, dân khí có thể điều, Âm dương co duỗi, gần mà không cảm, có thể đếm số ấy”. Bạn đọc có thể tìm thấy dấu ấn của Thuyết Âm dương Ngũ hành và phương pháp luận của nó trong khắp cuốn sách, tự thân nội dung của nó đã chứng tỏ thuyết Âm dương Ngũ hành đã được ứng dụng từ thời Hoàng Đế (khoảng 3.000 năm tr.C.N). Nhưng các nhà nghiên cứu hiện đại lại cho rằng: Cuốn Hoàng đế nội kinh tố vấn ra đời vào thời Xuân Thu Chiến Quốc (?!). Đoạn sau đây được trích trong cuốn “Hoàng Đế Nội Kinh và suy đoán vận khí” (sách đã dẫn). “Hoàng Đế nội kinh được viết thành sách vào khoảng thời kỳ Xuân thu Chiến Quốc, nên trong sách tư tưởng chỉ là chủ nghĩa duy vật cổ đại, xuất phát từ quan niệm chỉnh thể và tổng kết của người xưa qua kinh nghiệm phong phú đấu tranh với bệnh tật, xây dựng nền cơ sở lý luận của y học Trung Quốc”. Như vậy, qua các đoạn trích dẫn trên bạn đọc cũng nhận thấy rằng: Nội dung của cuốn “Hoàng Đế nội kinh tố vấn” là sự ứng dụng của thuyết Âm dương và Ngũ hành đã có từ thời Hoàng Đế, tức là trước thời vua Đại Vũ phát hiện ra Lạc thư trên lưng rùa ghi dấu ấn của Ngũ hành hơn 1.000 năm. Các nhà nghiên cứu đã đặt thời điểm xuất hiện của cuốn sách này vào thời Xuân thu Chiến Quốc, tức là sau đó hơn 2000 năm so với thời điểm nội dung của nó (?). Và vấn đề cũng không dừng lại ở đây.“. 3 - Tại sao lại chỉ có 5 hành ? Bạn có thể Phát Minh ra hành thứ 6 được không (cùng với câu 3 của Bài 1) ? Tôi phải công nhận Âm Dương Ngũ Hành là các tiên đề trong cái Vũ Trụ này bởi vì tôi không thể tìm được hành thứ 6 và theo tôi Âm Dương - “Là cặp phạm trù đối lập“ - một khái niệm đặc trưng của vật chất, còn Ngũ Hành đại diện cho 5 dạng vật chất cấu tạo nên Vũ Trụ này.1 like
-
Nếu đúng lá số với ngày giờ sanh ,năm nay sẽ cơ hội cưới được vợ , khoảng từ 18 tháng 04 âl trở đi cho đến cuối tháng sẽ gặp được cô nào đó trong buổi tiệc hay buổi họp mặt nào đó, hợp nhãn , nếu câu hôn thành công thì có cưới được trong năm , lây vợ muộn là cái số mà cũng tốt ,sau nầy mới ở đời sống chung lâu được mặc dầu vợ chồng hay tranh nhau mà cãi ,cung tử tức rất tốt sau nầy có con quí hiển và sớm thành đạt .1 like
-
Chào Logical 123'! " ...là chối bỏ một sự thật về các thời điểm mà Kinh Độ Mặt Trời xác định 24 tiết khí v.v... Ðiều này quá đúng rồi tại sao lại bảo tôi chối bỏ ? Ðiều mà tôi chối bỏ là cái con số 10 155 928 năm theo Tuvinut trong mục Thiên văn Lịch pháp bên lyso.vn đưa ra còn theo anh Vui Vui bên tuvilyso.net đưa ra là "Như phép Thái Ất thì tính năm giáp tý đầu tiên cách nay là 10 155 358 năm – đến năm 1 441 dương lịch". Hai con số này hay chục, trăm con số khác cũng chẳng có giá trị gì cả (bởi vì với trình độ cấp 2 bọn trẻ con nó cũng chia được cho 60) khi mà người đưa ra con số này mà không chứng minh được cách đây (từ năm ...) với trước đây từng ấy năm đó thì 7 hành tinh (Thất tinh) nằm trên một đường thẳng mà người Tầu gọi là thất tinh hợp bích. Nếu bạn làm được thì xin bạn thử chứng minh cho tôi và mọi người biết xem sao ? Hy vọng sớm được đọc bài chứng minh của bạn. Thân chào.1 like
-
[quote name='Logical 123' Xin chào tất cả, Bác VuLong cho tôi hỏi, theo Tứ Trụ thì Trụ Tháng dựa trên Trụ Năm để tính tháng Dần và Trụ Giờ dựa trên Trụ Ngày để tính giờ Tí - như vậy, hiện tượng thất tinh hợp bích thì có Tứ Trụ đều là Giáp Tí cả - quả là khó tiêu hóa quá bác ạ!? Ðây là đoạn anh Vui Vui đưa ra thôi. Theo cách xác định Can tháng theo Can năm thì năm Giáp làm gì có tháng Giáp Tý cũng như làm gì có chuyện cứ 60 năm thì 7 hành tinh (tức Thất tinh) này thẳng hàng với nhau. Ðiều này chứng tỏ anh Vui Vui đã sai lầm trong suy luận. Thất tinh là Mặt trời (SUN) , Mặt Trăng (MOON) và các hành tinh Kim (VENUS) ,Mộc (JUPITER) ,Thủy (MECURY) ,Hỏa (MARS), Thổ (SATURN) mà để được gần như "thẳng hàng trong thái dương hệ" thì gần đây vào năm 2000 tháng 5 ngày 5 tây có đó: May 5th, 2000 có Tứ Trụ là: Canh Dần - Tân Tỵ - Quý Hợi - Giờ ... (Nhâm Tí - Quý Hợi) Như thế, ngày là Quý Hợi xê xích ngày Giáp Tí nhưng năm, tháng và giờ thì không thể nào cùng là Giáp Tí được cả. Đó cũng cho thấy, năm 2000 có phải là năm Canh Dần hay không nữa là thì những năm, tháng, ngày, giờ mà bác VuLong lập nên Tứ Trụ có chính xác không nhỉ? Hiện giờ hầu như tất cả các Tứ Trụ của con người được lập nên theo các quy tắc của môn Tử Bình truyền thống đều đúng (bởi vì qua thực tế thấy đa số các Tứ Trụ này phản ánh khá chính xác vận mệnh của những người đó). Nhưng vì sao các Tứ trụ này chính xác (ví dụ năm nay tại sao là năm Tân Mão, hôm nay là ngày...) thì vẫn còn là một điều bí ẩn. Người Trung Quốc muốn chứng minh Bảng nạp âm 60 năm Giáp Tý với thế giới là phát minh của họ. Cho nên họ mới "Tính" ra cách đây (năm ...) đúng 10 155 358 năm thì 7 hành tinh thẳng hàng.... và họ kết luận đó chính là năm Giáp Tý... Tôi đã chứnh minh (như đã viết) điều này là bịa đặt 100%. Ðến trình độ Vật Lý thiên văn hiện đại bây giờ còn bó tay nữa là người Trung Quốc cách đây trên dưới 1 nghìn năm (còn cách đây 3 đến 4 nghìn năm thì họ Thông Minh hơn chắc ?) bởi vì trong 10 triệu năm ai mà biết chính xác được có bao nhiêu sự tác động giữa các thiên thể trong hệ mặt trời với các thiên thể vãng lai từ vũ trụ lao vào hệ mặt trời của chúng ta. Những tác động này đã làm cho quỹ đạo cũng như số ngày trong một năm của trái đất chúng ta thay đổi. Cứ cho con số 10 155 358 năm này là do người ngoài hành tinh của chúng ta đưa ra thì tôi vẫn khẳng định là sai. Thực chất dựa vào nền tảng nào để Họ (người ngoài hành tinh của chúng ta) xác định năm Giáp Tý (hay như năm nay phải là Tân Mão) thì hiện nay chúng ta chưa thể trả lời được.1 like
-
Bài 3 : Học thuyết Âm Dương và Ngũ Hành Chương 2 Học thuyết Âm Dương và Ngũ Hành (Theo tôi trong toán học có các tiên đề thì Âm Dương Ngũ Hành chính là các tiên đề trong mệnh lý học Ðông Phương - xem phần II và III của Phụ Lục). Thiên Sứ đã viết trên trang web vietlyso.com: “ ...Chúng ta thấy trong nền văn minh Đông phương cổ đại đã tồn tại những lời tiên tri đầy huyền bí nói về số phận từng con người, của cả một thành phố, cả những quốc gia hay thậm chí của cả thế giới. Những phương pháp bói toán, tiên tri phổ biến của nền văn minh này hầu hết đều có phương pháp luận của nó. Thật kỳ lạ thay ! Có một hệ thống lý thuyết vũ trụ - nền tảng của những phương pháp luận cho những lời bói toán huyền bí ấy - lại không coi sự khởi nguyên của vũ trụ bắt đầu từ ý thức của Đức Chúa Trời mà chính là thuyết Âm Dương Ngũ Hành...“. Học thuyết Âm Dương - Ngũ Hành mà phương pháp tính điểm hạn của cuốn sách này áp dụng sẽ cho mọi người biết Định Mệnh là có thật (tức con người hay vạn vật đều có Số Mệnh), nhưng Số Mệnh này không phải do Đức Chúa Trời quyết định mà là do Âm Dương Ngũ Hành quyết định. Chính vì vậy không có lý do gì mà con người lại không thể lấy chính âm dương ngũ hành để khống chế lại chúng để thay đổi định mệnh, nhằm mục đích mang lại lợi ích cho con người (xem ví dụ 27 và 150). I - Học thuyết Âm Dương Khái niệm Âm và Dương như mọi người hiểu đơn giản là hai trạng thái luôn đối lập nhau như có bên phải thì phải có bên trái, tốt với xấu, trắng với đen, giống đực với giống cái, cứng với mềm... Họ đã xác định âm và dương cho các can và chi như sau: Các thiên can có dấu dương là Giáp, Bính, Mậu, Canh, Nhâm. Các địa chi ............................Tý, Dần, Thìn, Ngọ, Thân, Tuất. Các thiên can có dấu âm là Ất, Đinh, Kỷ, Tân, Quý. Các địa chi .................... Sửu, Mão, Tị, Mùi, Dậu, Hợi. Còn hiểu theo sách mệnh học cổ truyền của Phương Đông thì sự hình thành, biến hóa và phát triển của vạn vật đều do sự vận động của hai khí Âm và Dương. Vì mặc dù Âm và Dương là hai mặt đối lập với nhau nhưng chúng lại có sự thống nhất với nhau. Chính sự thống nhất này sau đó mới có thể có sự biến hóa để thành vạn vật. Như âm đến cùng cực thì sinh dương, dương đến cùng cực thì sinh âm.... (Ðể hiểu rõ hơn về Học thuyết Âm Dương và Ngũ Hành xin độc giả xem phần III của Phụ Lục – Âm Dương Ngũ Hành là các tiên đề trong mệnh học Ðông Phương). Ví dụ : Trong thực tế có thể coi năng lượng và khối lượng là hai trạng thái âm và dương của vật chất (tương tự như nước dưới sự tác động của nhiệt độ nó ở 3 trạng thái là rắn, lỏng và hơi, trong đó trạng thái rắn và lỏng được xem là 1 trạng thái) mà ngày nay các nhà vật lý đã biến được khối lượng thành năng lượng và trong thời gian tới nhờ cỗ máy LHC ở Thụy Sĩ các nhà vật lý sẽ thành công trong việc biến năng lượng thành khối lượng theo đúng phương trình mà năng lượng và khối lượng chuyển hóa cho nhau của nhà bác học thiên tài Albert Einstein: E = mc² ( trong đó E là năng lượng, m là khối lượng, c là vận tốc ánh sáng). Chính có phương trình nổi tiếng này mà câu đầu tiên của Kinh Thánh “ Ban đầu Đức Chúa Trời đã (dùng sức mạnh vô biên của mình) dựng nên trời đất (vũ trụ trong đó có trái đất) “ (Sáng - thế Ký 1 : 1) đã đúng trên quan điểm khoa học. Vậy đã có cuốn sách nào cổ hơn cuốn Kinh Thánh nói đến sự hình thành vũ trụ và trái đất của chúng ta từ năng lượng như vậy. II - Học thuyết Ngũ Hành 1 – Ngũ hành Chúng ta thấy hầu như mọi hiện tượng đã và đang diễn ra xung quanh chúng ta đều tuân theo một quy luật của vòng tròn khép kín. Ví dụ : Con người cũng như loài động vật cùng với loài thực vật tạo thành một quy trình khép kín như : Cây cung cấp ô xy, hoa quả rau xanh, củ, hạt …cho người và động vật , còn người và động vật cung cấp CO 2, phân…..cho loài thực vật. Ngay cả sự sống và cái chết của mọi sinh vật cũng tuân theo quy luật của vòng tròn khép kín này. Ví dụ : Con người được đầu thai sau đó được sinh ra lớn lên, trưởng thành, già rồi chết, sau đó xác chết bị phân hủy thành các thành phần của đất nuôi cho cây phát triển. Một phần thực vật này được con người ăn tạo thành các thai nhi và các thai nhi này lại phát triển .….. Để diễn tả các quy luật này cũng như mọi quy luật trong vũ trụ Họ đã đưa ra 5 hành, tức là 5 loại nguyên tố (vật chất) cơ bản đã cấu tạo nên mọi vật có trong trái đất và vũ trụ như sau : 1 - Kim đặc trưng cho kim loại. 2 - Thủy đặc trưng cho nước. 3 - Mộc đặc trưng cho loài thực vật. 4 - Hỏa đặc trưng cho lửa. 5 - Thổ đặc trưng cho đất . 2 – Tính chất tương sinh của ngũ hành a - Tính chất tương sinh . Theo sách cổ thì Kim sinh cho Thủy, Thủy sinh cho Mộc, Mộc sinh cho Hỏa, Hỏa sinh cho Thổ, Thổ sinh cho Kim rồi lại nặp lại vòng tuần hoàn Kim sinh cho Thủy,......... . Ở đây chỉ có Kim sinh Thủy là có vẻ vô lý (bởi vì chúng ta đang sống trong môi trường nhiệt độ thấp nên không thấy khi Kim ở nhiệt độ cao cũng sẽ chẩy thành nước - chất lỏng (một dạng của nước, phải thừa nhận)). Sơ đồ tương sinh của ngũ hành : b – Tính chất phản sinh : Như Kim sinh ra Thủy, nó nghĩa là Kim loại bị nung nóng sẽ chẩy thành nước, nhưng nước nhiều thì Kim không những không sinh được cho Thủy mà còn bị chìm xuống, vì vậy nó được gọi là phản sinh (phải thừa nhận). Thủy sinh Mộc, nó nghĩa là không có nước thực vật làm sao mà sống để lớn lên được, nhưng nước nhiều quá cây bị úng lụt mà chết cũng gọi là phản sinh. Mộc sinh Hỏa, nó nghĩa là gỗ làm cho lửa cháy to hơn, nhưng hỏa mạnh quá sẽ làm cho Mộc ra tro, vì vậy nó cũng được gọi là phản sinh. Hỏa sinh Thổ, nó nghĩa là Hỏa cháy thành tro tàn là Thổ đất, nhưng Thổ nhiều sẽ làm cho Hỏa tắt; vì vậy nó cũng được gọi là phản sinh. Thổ sinh Kim, nó nghĩa là quặng trong đất khi bị nung sẽ chẩy ra kim loại, nhưng nếu có Kim quá nhiều thì Thổ bị đè ép không thể sinh cho Kim được, vì vậy nó cũng được gọi là phản sinh (phải thừa nhận). 3 – Tính chất tương khắc của ngũ hành a – Tính chất tương khắc : Như Kim khắc được Mộc, Mộc khắc được Thổ, Thổ khắc được Thủy, Thủy khắc được Hỏa, Hỏa khắc được Kim, rồi lại nặp lại vòng tuần hoàn Kim khắc Mộc,..... Sơ đồ tương khắc của ngũ hành Qua sơ đồ ta thấy tính chất tương khắc của ngũ hành là cách 1 ngôi so với tính chất tương sinh . b – Tính chất phản khắc : Như Kim khắc Mộc, kiếm, dao chặt đứt được cây, nếu kim loại mềm yếu mà cây cứng như Lim, Sến …thì dao, kiếm sẽ bị mẻ, gẫy tức là bị phản khắc. Mộc khắc Thổ (Thổ là đất), cây mọc lên tất đất sẽ bị bạc mầu, nhưng đất cứng quá cây không đâm được rễ xuống đất tất dễ chết cũng gọi là phản khắc. Thổ khắc Thủy, đất có thể đắp thành đê, đập để trặn được nước, nhưng nước nhiều quá đất sẽ bị trôi dạt (vỡ đê), tức là bị phản khắc. Thủy khắc Hỏa, nước có thể dập tắt được lửa, nhưng lửa quá mạnh mà nước thì ít tất sẽ bị bốc hơi, cũng là bị phản khắc. Hỏa khắc Kim, hỏa làm cho sắt nóng chẩy, nhưng sắt nhiều quá mà lửa nhỏ tất dễ bị tắt, cũng gọi là phản khắc. III - Đại diện của ngũ hành và can chi 1 – Ngũ hành đại diện cho các mùa a - Mộc đại diện cho mùa Xuân b - Hỏa đại diện cho mùa Hạ c – Kim đại diện cho mùa Thu d - Thủy đại diện cho mùa Đông 2 – Can chi đại diện cho các hành Giáp, Ât, Dần, Mão đại diện cho hành Mộc Bính, Đinh, Tị, Ngọ đại diện cho hành Hỏa Mậu, Kỷ, Thìn, Tuất, Sửu, Mùi đại diện cho hành Thổ Canh, Tân, Thân, Dậu đại diện cho hành Kim Nhâm, Quý, Hợi, Tý đại diện cho hành Thủy 3 – Can chi đại diện cho mầu sắc Giáp , Ât , Dần và Mão là Mộc đại diện cho mầu xanh. Bính, Đinh, Tị và Ngọ là Hỏa đại diện cho mầu đỏ. Mậu, Kỷ, Thìn, Tuất, Sửu và Mùi là Thổ đại diện cho mầu vàng. Canh, Tân, Thân và Dậu là Kim đại diện cho mầu trắng. Nhâm, Quý, Hợi và Tý là Thủy đại diện cho mầu đen 4 – Can chi đại diện cho các bộ phận trong cơ thể con người Giáp, Ât, Dần, Mão (Mộc) đại diện cho các bộ phận trong cơ thể con người là gan, mật, thần kinh, đầu, vai, tay, ngón tay ……. Bính, Đinh, Tị, Ngọ (Hỏa) đại diện cho các bộ phận tim, máu, ruột non, trán, răng, lưỡi, mặt, yết hầu, mắt …… Mậu, Kỷ, Thìn, Tuất, Sửu, Mùi (Thổ) đại diện cho dạ dầy, lá lách, ruột già, gan, bụng, ngực, tỳ vị, sườn …… Canh, Tân, Thân, Dậu (Kim) đại diện cho phổi, máu, ruột già, gân, bắp, ngực, khí quản ……... Nhâm, Quý, Hợi, Tý (Thủy) đại diện cho thận, bàng quang, đầu, bắp chân, bàn chân, tiểu liệu, âm hộ, tử cung, hệ thống tiêu hóa, …….. 5 - Can chi và ngũ hành đại diện cho các phương. Sơ đồ của các can, chi và ngũ hành đại diện cho các phương như sau: Giáp, Ât, Dần và Mão là Mộc đại diện cho phương Đông. Bính, Đinh, Tị và Ngọ là Hỏa đại diện cho phương Nam. Mậu và Kỷ không ở phương nào cả mà đại diện cho trung tâm. Thìn đại diện cho phương Đông Nam. Tuất đại diện cho phương Tây Bắc. Sửu đại diện cho phương Đông Bắc. Mùi đại diện cho phương Tây Nam. Canh, Tân, Thân và Dậu là Kim đại diện cho phương Tây. Nhâm, Quý, Hợi và Tý là Thủy đại diện cho phương Bắc. 6 – Can chi đại diện cho nghề nghiệp Giáp, Ât, Dần và Mão là Mộc đại diện cho các nghề sơn lâm, chế biến gỗ, giấy, sách báo, làm vườn, trồng cây cảnh, phục trang, dệt, đóng thuyền …… Bính, Đinh, Tị và Ngọ là Hỏa đại diện cho các nghề thuốc súng, nhiệt năng, quang học, đèn chiếu sáng, xăng dầu, cao su (xăm lốp ,dây đai ,nhựa cây), các sản phẩm đồ điện, vật tư hóa học, luyện kim, nhựa đường ….. Mậu, Kỷ, Thìn, Tuất, Sửu và Mùi là Thổ đại diện cho các nghề chăn nuôi , nông nghệp, khai khẩn đồi núi, giao dịch về đất đai, buôn bán địa ốc, phân bón, thức ăn gia súc, khoáng vật, đất đá, gạch ngói, xi măng, đồ gốm, đồ cổ, xây dựng, ….. Canh, Tân, Thân và Dậu là Kim đại diện cho các nghề vàng bạc, châu báu, khoáng sản, kim loại, máy móc, thiết bị nghiên cứu hóa học, thủy tinh, các công cụ giao thông …… . Nhâm, Quý, Hợi và Tý là Thủy đại diện cho các nghề nước giải khát, hoa quả, đồ trang sức mỹ nghệ, hóa phẩm mỹ dụng, giao thông vận tải, vận chuyển hàng hóa, chăn nuôi thủy sản, mậu dịch, du lịch, khách sạn, buôn bán ,…. Người Trung Quốc từ xa xưa đã dùng lịch Can Chi để xác định các mốc thời gian trong cuộc sống hàng ngày. Từ đó tại thời điểm của mỗi người khi sinh ra được xác định bởi bốn thông tin của lịch Can Chi. Đó chính là bốn tổ hợp can chi của năm, tháng, ngày và giờ sinh mà chúng được gọi là Tứ Trụ hay mệnh của người đó. Ví như một cái nhà được xây dựng lên bởi bốn cái cột, nếu bốn cái cột này đều nhau và vững chắc, nghĩa là các hành Kim, Thủy, Mộc, Hỏa và Thổ trong tứ trụ là tương đối bằng nhau thì người đó cả cuộc đời thường là thuận lợi, còn nếu bốn cột không điều nhau, tức ngũ hành quá thiên lệch, tất dễ đổ nhà - cuộc đời dễ gặp tai họa. Cách đây ba bốn nghìn năm con người đã biết sử dụng lý thuyết này để phòng và chữa bệnh. Ví dụ những ai trong mệnh (tứ trụ) mà ngũ hành thiếu Mộc mà lại cần Mộc, thì đầu tiên cần đặt tên mang hành Mộc và nên sống ở về phía Đông so với nơi mình được sinh ra, vì đó là phương Mộc rất vượng (tức là Mộc nhiều). Sau khi trưởng thành cũng nên làm những nghề liên quan đến hành Mộc, thêm nữa nên mặc quần áo mang hành Mộc (xanh). Nếu làm như vậy thì sẽ có một phần Mộc được bổ xung cho tứ trụ. Còn khi bị bệnh do hành Mộc thiếu thì thầy thuốc sẽ căn cứ vào sự thiếu nhiều Mộc hay ít để bốc thuốc mang hành Mộc cho phù hợp với sự thiếu Mộc đó. Được như vậy cuộc đời người đó thường gặp thuận lợi rất nhiều hay dễ khỏi bệnh. Các hành khác cũng suy luận tương tự như vậy. IV - Lệnh tháng và các trạng thái A - Lệnh tháng Một điều tối quan trọng trong môn Tứ Trụ là chi của tháng sinh được gọi là lệnh tháng, vì nó quyết định sự vượng suy của mọi can và chi trong tứ trụ, cũng như độ mạnh yếu giữa 5 hành với nhau. Tại sao lệnh tháng lại quan trọng đến như vậy? Kim, Mộc, Thủy, Hỏa và Thổ trong tứ trụ có liên quan với tháng sinh như thế nào? Theo môn Tứ Trụ thì vào các tháng mùa hè hành Hỏa là mạnh nhất (hay vượng nhất) so với các hành khác, vì vậy ai được sinh ra vào mùa hè mà trong tứ trụ lại có nhiều can và chi là Bính, Đinh, Tỵ, Ngọ thì dĩ nhiên hành Hỏa quá vượng còn các hành khác thì lại quá yếu. Những người như vậy thường nhẹ thì ốm đau bệnh tật liên miên, nặng thì đoản thọ ......Các mùa khác cũng tương tự như vậy. Như mùa đông giá lạnh thì hành Thủy là vượng nhất, mùa xuân thì hành Mộc là vượng nhất, mùa thu thì hành Kim là vượng nhất. Nhưng giả sử sinh vào mùa hè, hỏa là vượng nhất nhưng tứ trụ lại ít can chi hành hỏa hoặc có can chi hành Thủy như Nhâm, Quý, Tý, Hợi thì không xấu. Nghĩa là căn cứ theo lệnh tháng để biết độ vượng suy của các can chi trong tứ trụ, sau đó tổng hợp xem độ lớn giữa các hành chênh lệch nhau như thế nào, từ đây mới có thể dự đoán được vận mệnh của con người. B - Các trạng thái Để giải quyết vấn đề này người ta đã xác định trạng thái vượng suy của các can chi theo các tháng trong một năm theo bảng sinh vượng tử tuyệt cũng như ý nghĩa của các trạng thái đó như sau: 1 - Trường sinh có nghĩa là vật hay con người mới sinh ra từ 0 đến 5 tuổi. 2 - Mộc dục chỉ vật hay con người đã bắt đầu phát triển xong vẫn còn yếu đuối, như trẻ em mới đi học tiểu học và trung học từ 5 đến 16 tuổi . 3 – Quan đới chỉ vật hay con người đã trưởng thành , như trẻ em đang ở tuổi thanh niên đang học đại học hay nghiên cứu sinh từ 16 đến 30 tuổi . 4 - Lâm quan chỉ vật hay sự nghiệp và sức khỏe của con người đã đạt tới sự hoàn thiện, vững chắc, như con người đang ở tuổi trung niên từ 30 đến 45 tuổi. Ngoài ra lâm quan còn là trạng thái Lộc của Nhật Chủ (nó nghĩa là đó là nơi quy tụ bổng lộc hay sự may mắn do vua, cấp trên... hay do ông trời, các thần linh, tổ tiên.... phù hộ, giúp đỡ cho). 5 – Đế vượng chỉ vật hay con người đã đạt tới giai đoạn cực thịnh như công đã thành danh đã toại, như con người ở lứa tuổi 45 đến 60. Ngoài ra đế vượng còn là trạng thái Kình Dương của Nhật Chủ (nó nghĩa là khi con người đã đạt tởi đỉnh cao của quyền lực, hay danh vọng thì dễ kiêu căng, hống hách, lạm dụng quyền lực...vì vậy người đó dễ bị tai họa như tù tội, phá sản, bại quan, bệnh tật, tai nạn, chết ...). 6 – Suy chỉ vật hay con người đã qua thời kỳ cực thịnh thì tất phải đến thời kỳ suy yếu đi, như con người ở lứa tuổi 60 đến 70. 7 - Bệnh chỉ vật hay con người đã đến thời kỳ hỏng hóc hay bệnh tật, như con người ở lứa tuổi 70 trở ra. 8 - Tử chỉ vật hay người bị hỏng hay chết. 9 - Mộ chỉ vật hay người mang vất đi hay chôn xuống đất đắp đất nên thành cái mộ (chỉ còn lại linh hồn) . 10 - Tuyệt chỉ vật hay người bị phân hủy thành đất . 11 – Thai chỉ vật hay con người đang được hình thành từ một số yếu tố vật chất nào đó, như linh hồn đã thụ khí thành thai nhi trong bụng mẹ . 12 - Dưỡng là chỉ vật hay người đang trong thời gian chế tạo, nắp ráp để đến khi nào hoàn thiện thì mới xuất xưởng được, như thai nhi phải đủ 9 tháng 10 ngày mới ra đời thành con người. Bảng sinh vượng tử tuyệt Qua bảng này ta thấy 5 can và 6 chi dương cũng như 5 can và 6 chi âm có cùng hành nhưng độ vượng suy của chúng theo các tháng trong một năm là khác nhau. Như Giáp và Dần là Mộc, chúng ở trạng thái trường sinh trong tháng Hợi, trạng thái Mộc dục trong tháng Tý, ....... trạng thái Mộ trong tháng Mùi, ......... . Nhưng Ất và Mão cũng là Mộc nhưng chúng ở trạng thái tử trong tháng Hợi, trạng thái Bệnh trong tháng Tý,....... trạng thái Đế vượng trong tháng Dần,...... . Từ bảng sinh vượng tử tuyệt này người ta đã gọi các trạng thái theo tháng sinh (thường được gọi là theo lệnh tháng) từ Trường sinh tới Đế vượng là vượng (thường được gọi là được lệnh), còn các trạng thái từ Suy đến Dưỡng là suy nhược, hưu tù... (thường được gọi là thất lệnh). Ví dụ: Giáp hay Dần trong tứ trụ mà sinh vào các tháng từ Hợi tới Mão là được lệnh (vượng), còn sinh vào các tháng từ Thìn đến Tuất là thất lệnh (suy nhược, hưu tù). Ví dụ: Ất hay Mão trong tứ trụ sinh vào các tháng từ Dần đến Ngọ là được lệnh (vượng), còn sinh vào các tháng từ Mùi đến Sửu là thất lệnh (suy nhược, hưu tù). Các can chi khác cũng xác định tương tự như vậy. Các câu hỏi trọng tâm : 1 – Câu hỏi 2 và 3 của Bài 2. 2 - Bạn có biết người Ðông Phương (các thầy thuốc Ðông y) đã dùng học thuyết Âm Dương Ngũ Hành này vào chữa bệnh cho con người từ bao giờ ? 3 - Tại sao lại chỉ có 5 hành ? Bạn có thể Phát Minh ra hành thứ 6 được không ?1 like
-
Trả lời các câu hỏi trọng tâm bài 2: 1 – Theo bạn, cách đây 3 đến 4 nghìn năm con người của chúng ta đã biết đến hệ mặt trời có 9 hành tinh hay chưa? Nếu không kể đến các nền văn hóa văn minh đã bị mất tích thì chỉ còn lại các nền văn minh ở trình độ “Ở Trần Ðóng Khố“ thì làm sao biết được đủ 10 vật thể lớn này.(Mặt trời, mặt Trăng và 8 hành tinh). 2 – Cách giải thích vì sao có 10 thiên Can và 12 địa Chi này liệu có thỏa mãn tính tò mò của bạn không? Cách giải thích này đã có tính chất khoa học (duy vật) hay nó vẫn còn mang nặng tính chất huyền bí (duy tâm) ? Bạn có cách nào giải thích khác không? Ở đây tôi chỉ nghĩ đơn giản là các cụ “Ở Trần Ðóng Khố“ của Ðất Việt chúng ta đây 3 đến 4 nghìn năm đã tiếp nhận được những tri thức của những người thuộc một nền văn minh khác (mà tôi dự đoán là của một nền văn minh ngoài hành tinh của chúng ta) tặng chúng ta. Chính vì trình độ hiểu biết về Vật Lý thiên văn học quá thấp nên các cổ nhân của chúng ta chỉ có thể hiểu và diễn đạt như các từ Thiên Can và Ðịa Chi theo nghĩa đen của nó mà thôi. Ở đây tôi đã giải thích nghĩa đen của các từ này sang nghĩa bóng (chứ không hề tuyên truyền Kinh Kót như một vài người nói). Các sách cổ của Tầu đã giải thích 10 Thiên Can và 12 Ðịa Chi này hoàn toàn khác, các bạn có thể xem trong các sách Tử Bình của họ. 3 - Có một cao thủ về dịch lý bên Lý Học Ðông Phương cho rằng có 4 mùa trên trái đất là do quỹ đạo của trái đất quay quanh mặt trời theo hình elip. Theo bạn điều này có đúng hay sai, vì sao? Cách giải thích đơn giản hơn là: Nếu 4 mùa trên trái đất do quỹ đạo của Trái đất quay quanh mặt trời theo hình elip tạo ra thì mùa của Bắc bán cầu và Nam bán cầu phải luôn luôn giống nhau, nhưng thực tế thì chúng lại luôn luôn ngược nhau. Do vậy lý thuyết này không đúng đối với Trái đất của chúng ta (nó chỉ đúng ở các hành tinh khác khi mặt phẳng Hoàng Ðạo và Xích Ðạo của hành tinh đó trùng nhau). 4 - Bạn thử kể ra các lực tương tác mà bạn biết của 10 vật thể được đưa ra ở trên lên con người nói riêng và các vật thể khác trên mặt đất nói chung là gì? Như lực hấp dẫn, lực điện từ trường (như của Mặt Trời)…. 5 - Giả sử có 2 người cùng sinh ra tại một thời điểm của thời gian (cứ giả sử thời điểm họ sinh ra được tính chính xác tới 1/tỷ giây hay cứ cho là tuyệt đối - tức không có sự sai lệch về thời gian) thì họ có cùng sinh ra tại 1 vị trí trong không gian của vũ trụ hay không ? 2 người sinh ra thời gian có thể trùng nhau nhưng vị trí không thể trùng nhau được (khác nhau ít nhất về vị trí là 2 bà mẹ nằm trên 1 giường để đẻ). Hy vọng mọi người đóng góp ý kiến để các câu trả lời này được chính xác và đầy đủ hơn.1 like
-
Rất tiếc phải nói với bạn rằng tôi chẳng theo và tôn thờ một đạo nào cả, kể cả đạo phật. Tôi đã nói ngay ở cuối bài 2 là: "Sau đây xin mời các học viên cùng tôi khám phá các bí ẩn của thuyết Âm Dương Ngũ Hành và bảng Nạp Âm sáu mươi năm Giáp Tý qua con mắt của các nhà Vật Lý học xem chúng thuộc lĩnh vực Duy Vật hay Duy Tâm". Ở đây tôi cố gắng giải thích theo khả năng của mình về mọi khái niệm của môn Tử Bình theo quan điểm khoa học, có vậy thôi. Giả thiết về ngững người ngoài hành tinh đã viếng thăm trái đất chúng ta của tôi có khác gì người ta đang nói tới những nền văn minh lớn trên thế giới đã mất tích như nền văn hóa Maya, Ai Cập, ... hay "Nền văn minh Lạc Việt một thời huyền vĩ ở bờ nam sông Dương Tử" mà anh Thiên Sứ đang chứng minh? Ở đây chẳng có giảng đạo nào cả mà tôi tự suy luận theo nghĩa đen của từ Thiên Can và Ðịa Chi mà các cổ nhân thuộc "Nền văn minh Lạc Việt một thời huyền vĩ ở bờ nam sông Dương Tử" đã ghi lại thôi, còn nghĩa của từ Thiên Can và Ðịa Chi này theo chữ của người Trung Hoa là gì thì tôi không biết. Mong rằng ai biết tiếng Tầu phân tích 2 từ này cho tôi và mọi người biết thì xin cám ơn vô cùng.1 like
-
Trả lời các câu hỏi trọng tâm bài 1: 1 - Bạn hãy thử chứng minh học thuyết Âm Dương Ngũ Hành cùng với bảng Nạp Âm sáu mươi năm Giáp Tý (hoàn toàn theo nhận thức đã có của bạn không dựa theo nội dung bài viết trên) là do người Trung Quốc nói riêng hay của người trên trái đất chúng ta nói chung phát minh ra chứ không phải do những người thuộc nền văn minh ngoài trái đất tặng. Nếu muốn chứng minh được Học thuyết Âm Dương Ngũ Hành là của người Trung Quốc phát minh ra thì phải trả lời được ít nhất các câu hỏi sau: a - Dựa trên nền tảng nào người Trung Quốc đã nạp âm cho các tổ hợp của bảng 60 năm Giáp Tý ? b - Dựa trên nền tảng nào người Trung Quốc xác định bắt đầu khởi của năm Giáp Tý và ngày Giáp Tý ? Trang 272, cuốn Dự Ðoán Theo Tứ Trụ - in năm 2002, cụ Thiệu Vĩ Hoa đã viết: “Trong bảng sáu mươi năm Giáp Tý, căn cứ theo nguyên tắc gì để nạp âm ngũ hành? Người xưa tuy có bàn đến nhưng không có căn cứ rõ ràng và cũng chưa bàn được minh bạch, do đó vẫn là huyền bí khó hiểu. Bảng 60 năm Giáp Tý biến hóa vô cùng, cho đến nay đối với giới học thuật của Trung Quốc đó vẫn còn là một bí ẩn”. Ðây chính là một trong các bằng chứng để chứng minh rằng bảng nạp âm sáu mươi năm Giáp Tý không phải do người Trung Quốc phát minh ra. Mọi người rõ ràng biết tác giả của cuốn sách này còn sống và bản dịch tiếng Việt này đã được dịch từ nguyên bản tiếng Tầu của cụ Thiệu (trên mạng tiếng Tầu cũng có) vây mà nick oaihuong trong chủ đề: “Giải đáp các thắc mắc về nội dung khóa học Tứ Trụ sơ cấp và trung cấp“ đã viết: “… nhưng mà em nói bác nghe, coi chừng sách in năm 2002 là sách giả đó bác, dạo sau này nhiều người viết vô sách của Thiệu VH, rồi cho là của Thiệu VHoa để bán, vì ông TVH nổi tiếng quá, người ta ăn ké.... em thì em nửa tin nửa ngờ ghê lắm...“. Thật tình không hiểu nổi oaihuong là người như thế nào nữa. Chả nhẽ coi cô ta như được sinh ra và sống trong Rừng Già ở châu Phi vừa mới về Việt Nam chăng ? Mọi người đều biết rằng người Tầu có một lòng tự hào dân tộc rất cao. Một trong các cái tự hào nhất của họ là Kinh Dịch, Học thuyết Âm Dương Ngũ Hành, Bảng nạp âm 60 năm Giáp Tý…. Chính vì vậy trong lịch sử mấy nghìn năm qua họ đã dùng mọi cách có thể được, kể cả các cách đê hèn nhất để chứng minh cho thế giới thế giới biết rằng các tinh hoa này là của chính họ phát minh ra. Vậy mà oaihuong viết tiếp: “….còn cụ Thiệu đó không phải là người duy nhất để mà mình phải tin là ông ta nói cái gì cũng đúng, nên ông ta thắc mắc em cũng thấy là ... xạo.“. Ðến đây thì mọi người đã thừa hiểu mục đích mà oaihuong muốn viết là cố tình nói xằng, nói bậy, nói lấy được, nói không có một chút suy nghĩ gì cả. Ðiều này càng khẳng định ý của tôi đưa ra ở trên là đúng. Nhưng không nhẽ người ta chỉ đưa cô ta từ Rừng Già châu Phi về Việt Nam để nhằm mục đích này hay sao ? Chắc còn nhiều mục đích khác nữa. Chúng ta chờ đợi chút nữa rồi sẽ biết.. Chủ đề ĐÃ QUA BAO NHIÊU NGÀY ??? của Tuvinut trong mục Thiên văn Lịch pháp bên lyso.vn. “Thời điểm Mở Lịch là thời điểm thất tinh thẳng hàng trong thái dương hệ . Thất tinh là Mặt trời ,trái đất ,và các hành tinh Kim ,Mộc ,Thủy ,Hỏa,Thổ . Từ năm đầu tiên Giáp Tý ấy ,đến nay 2011 tân mão là năm thứ 10 155 928 năm. Tức từ đó đến nay ,Trái đất đang quay quanh Mặt trời vòng thứ 10 155 928 . Nếu coi ngày Giáp Tý ,ngày đông chí là ngày Mở Lịch của Năm Giáp Tý đầu tiên ấy, thì tính đến nay ,đến ngày 22-12-2010,ngày ất hợi ,là bao nhiêu Ngày ???. Tức trái đất đã tự quay quanh mình bao nhiêu vòng ??? Xin dành câu hỏi này cho Nhà Lịch PĐ và các quý vị . Tvn tính nhưng bị lệch khoảng hai chục ngày“. Vuivui đã viết (chủ đề: “Câu hỏi về âm dương ngũ hành“ của buiram trong mục Tử Vi bên tuvilyso.net): “Không có gì là khó khăn cả. Cũng chẳng phải lý luận sâu xa. Thiên can và địa chi là thước đo thời gian, khi phối can với chi lập thành lục thập hoa giáp, theo lẽ, phải lấy giáp tý khời đầu của bằng này. Vấn đề là dựa vào đâu mà người ta định năm giáp tý. Bởi vì vòng thời gian cứ 60 năm lại quay lại từ đầu. Phân biệt âm dương mỗi năm, nếu cứ bình thường thì chẳng ai để ý, năm nào cũng nhưu năm nào. Âm dương không phân biệt. Nhưng vào lý học đông phương, theo lịch pháp cũng như bói toán thì rất quan trọng. Phân biệt can chi là phân biệt âm dương, phân biệt (giáp – ất) cũng là phân biệt âm dương, do đó mà định ra phép tắc. Người xưa hiểu rõ điều này, nên lấy thiên văn làm gốc, nền tảng của sự phân chia. Chứ không hàm hồ, tùy tiện mà phân biệt. Bởi vậy, cách duy nhất, cũng là thường lý, lại khoa học nhất – mặc dù thời ấy, chẳng ai biết khoa học là cái quái gì cả – là dựa vào quan sát thiên văn, lấy những thể hiện đặc biệt của thiên văn, lại có tính chu kỳ, với bội số vừa đúng bằng 60 năm. Vì thế, theo quan sát thiên văn của người xưa, cùng với tính toán chu kỳ lặp lại của dấu hiệu thiên văn đúng bằng n – số nguyên lần – lần 60 – lục thập hoa giáp – mà thấy rằng có một thời điểm, quan sát được 5 hành tinh thủy, hỏa, thổ, kim, mộc nằm cùng trên một đường thẳng với mặt trời và mặt trăng. Người ta gọi thời điểm này là thời điểm "thất tinh hợp bích". Lấy đó làm gốc "tọa độ" thời gian của hệ lục thập hoa giáp, nên gọi năm đó là năm giáp tý, tháng có hiện tượng thất tinh hợp bích là tháng giáp tý, ngày giáp tý và giờ giáp tý. Việc xác định Năm đầu tiên của hệ lịch này tùy theo mục tiêu của lịch pháp, của mỗi môn học mà người ta dùng các phép tính toán khác nhau. Như phép Thái Ất thì tính năm giáp tý đầu tiên cách nay là 10 155 358 năm – đến năm 1 441 dương lịch. Theo phép nguyên vận hội thế thì cỡ một vạn 8 trăm năm, như họ Thiệu cho rằng: Trời mở ra ở hội tý (10 800 năm đầu tiên) Đất thành ở hội sửu (10 800 năm tiếp theo), Người được sinh ra ở hội dần – nên mới nói Dần là nơi vạn vật sinh ra, do âm dương giao hóa mà thành (10 800 năm thứ ba), ... mà chúng ta hiện nay đang ở hội ngọ ! Đơn giản chỉ có vậy. Nhưng cho thấy, âm dương phân biệt là quan trọng ! Người học lý học hay tử vi, bói toán, cần nắm được lý này và phải ngộ được âm dương là phân biệt thì mới có thể tu tập được. Thân ái.“ Nếu chứng minh thì mất nhiều thì giờ, cho nên ở đây tôi chỉ nói vắt tắt. Theo một sách nào đó của người Tầu thì thời điểm Mở Lịch là thời điểm mà 7 hành tinh trong hệ mặt trời là: Mặt trời ,trái đất ,và các hành tinh Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ nằm thẳng hàng trong thái dương hệ. Người ta gọi thời điểm này là thời điểm "thất tinh hợp bích". Chính tại thời điểm đó người ta đã xác định đó là năm Giáp Tý, rồi tháng Giáp Tý, ngày Giáp Tý và giờ Giáp Tý. Họ còn tính chính xác năm đó cách ngày nay (từ năm… ?) là 10 155 358 năm, thế mới Khủng chứ. Nếu cứ cho số liệu này là của người ngoài hành tinh cho chúng ta biết cách đây 3 đến 4 nghìn năm thì chúng ta vẫn chả thể tin được nữa là người Tầu mới cách đây 1000 năm mà tính được. Thử hỏi với trình độ khoa thiên văn học hiện đại ngày nay có tính ngược lại được tại năm đó 7 hành tinh này đã nằm thẳng hàng trong hệ mặt trời được hay không ? Một điều đơn giản mà ai cũng biết qua bao triệu năm với sự tác động của các vật thể trong hệ mặt trời và các vật thể trong vũ trụ xâm nhập vào hệ mặt trời của chúng ta chả nhẽ không làm cho một năm của trái đất của chúng ta xê dịch đi chút nào mà luôn luôn chính xác là 365,2425... ngày hay sao ? “….dựa vào quan sát thiên văn, lấy những thể hiện đặc biệt của thiên văn, lại có tính chu kỳ, với bội số vừa đúng bằng 60 năm. Vì thế, theo quan sát thiên văn của người xưa, cùng với tính toán chu kỳ lặp lại của dấu hiệu thiên văn đúng bằng n – số nguyên lần – lần 60 – lục thập hoa giáp – mà thấy rằng có một thời điểm, quan sát được 5 hành tinh thủy, hỏa, thổ, kim, mộc nằm cùng trên một đường thẳng với mặt trời và mặt trăng…..“ mà anh Vuivui đưa ra thì càng vô lý. Qua Wikinews tiếng Việt: Quỹ đạo của Sao Kim, tuy là hình elip như quỹ đạo của các hành tinh khác, nhưng tương đối tròn – độ lệch tâm của quỹ đạo này gần như 0. Sao Kim quay một vòng xung quanh Mặt Trời trên quỹ đạo này mất khoảng 225 ngày. Một năm Sao Kim, do đó, dài bằng 225 ngày của Trái Đất. Quỹ đạo của Sao Thủy là một hình elip rất hẹp, bán kính của trục chính là 70 triệu km trong khi bán kính của trục phụ chỉ có 46 triệu km. Vận tốc quỹ đạo của Sao Thủy rất cao vì ảnh hưởng trọng lực của Mặt Trời. Sao Thủy quay một vòng chung quanh Mặt Trời vào khoảng 88 ngày – một năm Sao Thủy, do đó, dài bằng 88 ngày của Trái Đất. Khoảng cách trung bình của Sao Hỏa từ Mặt trời là khoảng 230.000.000 km (1.5 AU) và chu kỳ quỹ đạo của nó là 687 (Earth) ngày. Ngày năng lượng mặt trời (hoặc sol ) trên sao Hỏa chỉ hơi dài hơn một ngày Trái đất: 24 giờ, 39 phút, và 35,244 giây. Một năm sao Hỏa bằng 1,8809 Earth năm, hoặc 1 năm, 320 ngày, và 18,2 giờ. Chúng ta có thể làm một vài phép tính đơn giản như sau: Theo đơn vị ngày của trái đất thì 60 năm trái đất có 365,2425.60 = 21 914,55 ngày. Số ngày này tương đương với sao Kim quay được 21 914,55 : 225 = 97,398 vòng quanh mặt trời (tức năm của sao Kim). Rõ ràng kết thúc năm thứ 60 của trái đất thì sao Kim mới quay được 0,398 vòng của nó, nghĩa là nó chưa trở về vị trí thẳng hàng với 7 hành tinh lúc đầu. Các hành tinh khác cũng tính hoàn toàn tương tự như vậy. ::::::::::::::::::::::::::::::::::::::::::::::::::::::::::::::::::::::::::::::::::::::::::::::: 2 – Theo bạn khái niện Lỗ đen và Lỗ trắng để giải thích sự tồn tại vĩnh hằng của Vũ Trụ có tính thuyết phục (hợp lý) hay không? 3 – Âm Dương Ngũ Hành là các tiên đề trong mệnh học Ðông Phương có hợp lý không? 2 câu hỏi này sẽ trả lời trong Bài 3.1 like
-
1 like
-
1 like
-
1 like
-
1 like
-
Bài để tham khảo Sau đây là một bằng chứng để chứng minh ý tưởng các Lỗ Trắng và Lỗ Đen M cùng với quy luật tuần hoàn của chúng mà tôi đưa ra ở trên đang tồn tại trong vũ trụ bao la: Vietnam.net đưa tin: "Vũ trụ ra đời trước vụ nổ Big Bang? Cập nhật lúc 01/12/2010 08:00:00 AM (GMT+7) Hai nhà khoa học uy tín trên thế giới cho biết, họ vừa phát hiện bằng chứng cho thấy vũ trụ đã tồn tại trước vụ nổ Big Bang. Tuyên bố này đang gây chấn động giới khoa học toàn thế giới. Một bản đồ của bức xạ nền vũ trụ (CMB) trong vũ trụ với những hình tròn có thể biểu hiện các sự kiện diễn ra trước vụ nổ Big Bang. Ảnh: Daily Mail. Tờ Daily Mail đưa tin, khám phá gây tranh cãi về sự ra đời của vũ trụ được Roger Penrose - nhà khoa học, vị giáo sư đáng kính của Đại học Oxford (Anh) và giáo sư Vahe Gurzadyan từ Đại học quốc gia Yerevan (Armenia) cho đăng tải trực tuyến trên trang web arXiv.org. Theo hai chuyên gia này, vũ trụ không phải khởi phát từ vụ nổ Big Bang mà là một chu kỳ của những cái được đặt tên là aeon. Hầu hết các nhà khoa học tin rằng, vũ trụ được tạo ra trong vụ nổ Big Bang cách đây khoảng 13,7 tỉ năm. Các ngôi sao và thiên hà bắt đầu hình thành khoảng 300 triệu năm sau đó. Mặt Trời của chúng ta được sinh ra khoảng 5 tỉ năm trước, trong khi sự sống đầu tiên xuất hiện trên Trái đất cách đây gần 3,7 tỉ năm. Bức xạ nền vi sóng vũ trụ (CMB) cũng được đông đảo giới chuyên môn nhận định ra đời 300 triệu năm sau vụ nổ Big Bang và hiện đã bị làm lạnh tới khoảng -270 độ C. Tuy nhiên, hai giáo sư Penrose và Gurzadyan chỉ ra rằng, bằng chứng mà Chương trình Thăm dò vi sóng bất đẳng hướng Wilkinson của Cơ quan hàng không vũ trụ Mỹ (NASA) thu được trong CMB lại cho thấy: các dấu vết trong nền bức xạ có tuổi đời cao hơn vụ nổ Big Bang. Họ nói đã khám phá được 12 ví dụ về các vòng tròn đồng tâm như trên trong CMB. Một vài trong số đó có năm vòng, đồng nghĩa với việc đối tượng đã trải qua năm sự kiện vô cùng lớn trong lịch sử của nó. Các vòng tròn xuất hiện quanh những cụm thiên hà có biến thể trong bức xạ nền thấp một cách kỳ lạ. Nghiên cứu dường như đã loại bỏ giả thuyết "lạm phát" được đông đảo chấp nhận về nguồn gốc của vũ trụ, rằng nó bắt đầu được hình thành nhờ vụ nổ Big Bang và sẽ tiếp tục mở rộng tới một thời điểm trong tương lai khi quá trình đó chấm dứt. Penrose và Gurzadyan tin rằng, các vòng tròn là dấu vết của những sóng hấp dẫn vô cùng mạnh mẽ khởi phát từ các vụ va chạm lỗ đen siêu lớn trong một aeon trước đó, trước vụ nổ lớn cuối cùng. Điều này có nghĩa là, các chu kỳ vũ trụ thông qua các aeon nằm dưới sự chi phối của những vụ nổ lớn và va chạm lỗ đen siêu lớn. Giáo sư Penrose bày tỏ, lý thuyết mới của ông về "vũ trụ tuần hoàn bảo giác" có nghĩa rằng, các lỗ đen cuối cùng sẽ phá hủy mọi vật chất trong vũ trụ. Theo lý thuyết của ông, khi các lỗ đen hoàn thành tất cả những việc này thì còn lại trong vũ trụ sẽ chỉ là năng lượng, vốn sau đó sẽ kích hoạt một vụ nổ Big Bang mới và aeon mới. Giáo sư Penrose phát biểu với hãng thông tấn BBC: "Trong giả thuyết mà tôi đưa ra, chúng ta có một sự mở rộng theo cấp số nhân nhưng không thuộc aeon của chúng ta - Tôi sử dụng thuật ngữ để mô tả [giai đoạn] từ vụ nổ Big Bang của chúng ta cho đến tương lai xa. Tôi cho rằng, aeon này là một trong hàng loạt sự việc, nơi tương lai xa của các aeon trước bằng cách nào đó trở thành vụ nổ Big Bang của aeon chúng ta". * Thanh Bình" .1 like
-
trả lời tin nhắn của e ở đây hén , chị Tuyetminhnguyen xem cho em kỹ thế rồi mà , mệnh không thân kiếp người tuổi kim thì có giầu , nhưng có triệt ở mệnh nên chờ tới qua 30 tuổi đi . nếu đúng là giờ sinh này . thân cư quan lộc , lại có hồng loan , đi làm được nhiều người mến yêu , cũng là thuận cách vì có số này thì đi làm sớm . Địa kiếp ở cung quan lộc tức là cẩn thận trong công việc sau này dễ có tai nạn gây thương tích trên cơ thể , nên cẩn thận . Thường ở mệnh có đào hoa thì lẳng lơ , nhưng đào hoa với thiên không thì lại đứng đắn , còn ở thiên di thì thiết nghĩ ra ngoài e cũng có nhiều người yêu mến theo đuổi , nói chung là tình yêu tình đuơng khá hoành tráng . tổng quan về đại vận , mệnh kim , cung an mệnh thuộc mão - mộc . Nếu tính thiên thời địa lợi đại cuơng thì cứ đại vận 24-tam hợp kim tuy khắc hành tam hợp mệnh nhưng lại được tương hành với mệnh nên không xấu lắm , 24-33 lại thuộc phu , nhiều khả năng 24 tuổi lấy chồng , sớm hơn thì có thể 23 . Nhưng chắc chắn sau có lấy chồng thì cũng có người yêu bên ngoài , số khó tránh .Vả lại nhiều khả năng là "2" ông chồng này giúp đỡ em nhiều trong cuộc đời sau này - công việc , tiền bạc , xe cộ ,... . Năm 25 tuổi có tin mừng về công danh chăng ? Vì vận gặp đẩu quân , lại có tướng quân và quốc ấn ? Đại vận 34 hành tam hợp thủy - sinh hành tam hợp mệnh ngoài ra kim sinh thủy tức là tốt có xấu có , khó tránh được cái xấu .... Đại vận năm 44 hành tam hợp mộc , thuận lợi , nhưng tọa thủ trong cung này toàn sao hãm , may có sao tuần giảm tác dụng hãm của nó , tam hợp ở mệnh và quan chiếu xuống cũng sáng sủa , có thể có số làm giầu ở đại vận này nhưng vất vả và khó nhọc như chị Tuyetminh nói. Bỏ 2 mối tình rồi ? Nếu hiện tại chưa có ai thì sang năm có thể có người yêu mới nhưng có bền được qua năm 22 tuổi hay không thì chưa rõ ... Em đưa ít thông tin về bản thân quá , vả lại không confirm gì về việc luận giải đúng sai hay ... lần sau nên hỏi vận hạn từng năm một thôi.1 like
-
Mới đọc thì đúng là hoa mắt lên là phải. Tôi giải thích qua là : 1 - Mục đích tôi muốn chứng minh là nội dung cuốn Kinh Thánh chính là bản dự đoán vận mệnh của trái đất (như được sinh ra như thế nào, phát triển ra sao rồi vì sao chết. Mọi cái tôi đã giải thích, trong đó trận chiến ha ma ghê đôn là nói đến cái chết của trái đất). Và tôi đã đi đến kết luận chỉ có những người thuộc nền văn minh ngoài trái đất mới có thể dự đoán vận mệnh của trái đất chính xác đến như vậy. Bởi vì cách đây 3 đến 4 nghìn năm nền văn minh của chúng ta đang là một xã hội của những người "Ở Trần Ðóng Khố" thì biết gì về các thời kỳ kiến tạo địa chất của trái đất cơ chứ. 2 - 10 Can và 12 Chi và Bảng Nạp Âm 60 năm Giáp Tý cũng vậy. Ðọc đoạn sau sẽ rõ: Trang 272, cuốn Dự Ðoán Theo Tứ Trụ - in năm 2002, cụ Thiệu Vĩ Hoa đã viết: “Trong bảng sáu mươi năm Giáp Tý, căn cứ theo nguyên tắc gì để nạp âm ngũ hành? Người xưa tuy có bàn đến nhưng không có căn cứ rõ ràng và cũng chưa bàn được minh bạch, do đó vẫn là huyền bí khó hiểu. Bảng 60 năm Giáp Tý biến hóa vô cùng, cho đến nay đối với giới học thuật của Trung Quốc đó vẫn còn là một bí ẩn”. Ðây chính là một trong các bằng chứng để chứng minh rằng bảng nạp âm sáu mươi năm Giáp Tý không phải do người Trung Quốc phát minh ra. Hai bài học đầu tiên này tôi muốn chứng minh rằng vận mệnh của Trái Ðất mà người ta (những người ngoài hành tinh của chúng ta) còn dự đoán được thì lẽ gì họ không dự đoán được vận mệnh của con người. Họ không cho chúng ta biết bằng cách nào mà họ đự đoán được vận mệnh của trái đất nhưng dự đoán vận mệnh của con người thì họ đã cho chúng ta biết qua Bảng nạp âm 60 năm giáp tý và học thuyết âm dương ngũ hành. Cuốn sách "Giải Mã Tứ Trụ" đúng như nghĩa của nó là phải sử dụng học thuyết âm dương ngũ hành và Bảng nạp âm 60 năm giáp tý để Giải Mã các Tứ Trụ của con người, xem có đúng là chúng có thể dự đoán được vận mệnh của con người hay không ?1 like
-
Ðể tiện cho việc học và nghiên cứu của mọi người, tôi đăng các bài viết mang tính chất tham khảo vào đây. Trận chiến Ha-ma-ghê-đôn và ngày tận thế (các đoạn trích trong cuốn “Hãy chú ý đến Lời Tiên Tri của Ða-Ni-Ên!” của Liên Hiệp Thánh Kinh Hội NW). Theo Kinh Thánh thì lịch sử loài người bị hủy diệt sau khi xuất hiện đủ 7 cường quốc. 7 cường quốc này ngày nay người ta đã xác định (?) như sau: “1 – Ê-díp-tô (thủ phủ chính là vùng Ägypt bây giờ) bắt đầu từ ? 2 – A-si-ri (…vùng Syri bây giờ) bắt đầu từ ? 3 – Ba-by-lôn (….vùng Irak bây giờ) bắt đầu từ 607 trước công nguyên (TCN) 4 – Mê-đi Phe-rơ-sơ (…vùng Iran bây giờ) bắt đầu từ 539 TCN 5 – Hy Lạp bắt đầu từ 331 TCN 6 - La-Mã (….vùng Itali bây giờ) bắt đầu từ 30 TCN 7 - Anh-Mỹ bắt đầu từ 1763 sau công nguyên”. Nếu như các câu giải mã trên là đúng thì ngày nay chúng ta đang ở trong giai đoạn cuối cùng của cuốn Kinh Thánh. Ngày tận thế của thế giới được mô tả trong cuốn Kinh Thánh qua bức tượng trong giấc chiêm bao của vua Nê-bu-cát-nết-sa (thuộc cường quốc Ba-by-ôn mặc dù ông ta không nhớ lại được giấc mơ đó) được nhà tiên tri Đa-ni-ên giải nghĩa cho chính ông vua đó như sau: “Hỡi vua, vua nhìn xem này có một pho tượng lớn. Pho tượng đó to lớn và rực rỡ lạ thường, nó đứng trước mặt vua và hình dạng dữ tợn. Đầu pho tượng bằng vàng ròng, ngực và cách tay bằng bạc, bụng và vế bằng đồng, ống chân bằng sắt và bàn chân thì một phần bằng sắt còn một phần bằng đất sét. Vua nhìn pho tượng cho đến khi có một hòn đá chẳng phải tay đục ra, đến đập vào bàn chân bằng sắt và đất sét của tượng, và làm cho tan nát. Bấy giờ sắt, đất sét, đồng, bạc, vàng đều cùng nhau tan nát cả, trở nên như rơm rác bay trên sân đạp lúa mùa hạ, phải gió lùa đi, chẳng tìm nơi nào cho chúng nó, nhưng hòn đã đập vào pho tượng thì hóa ra một hòn núi lớn và đầy khắp đất“: - Đa-ni-ên 2:31-35. Và Đê-ni-ên đã giải thích…..Tóm tắt thì ngày nay chúng ta hiểu như sau: Cái đầu bằng vàng đại diện cho cường quốc của ông vua này (thuộc cường quốc Ba-by-lôn). Phần bạc đại diện cho cường quốc Mê-đi Phe-rơ-sơ. Phần đồng cho cường quốc Hy Lạp. Phần sắt cho cường quốc La Mã và phần sắt lẫn đất sét cho cường quốc Anh Mỹ. Đa-ni-ên giải thích tiếp cho vua Nê-bu-cát-nết-sa: “Còn như vua đã thấy bàn chân và ngón chân nửa bằng đất sét nửa bằng sắt, ấy là một nước sẽ phải phân chia, nhưng trong nước đó có sức mạnh của sắt, theo như vua thấy sắt lộn với đất sét. Những ngón chân nửa sắt nửa đất sét , nước đó cũng nửa mạnh nửa giòn. Vua đã thấy sắt lộn với đất sét, ấy là chúng lộn với nhau bởi giống loài người, song không dính liền nhau, cũng như sắt không ăn với đất sét“. – Đa-ni-ên 2:41-43. Điều này cho chúng ta thấy vào thời kỳ cuối cùng này thế giới bị phân chia ra thành các nước có các thể chế chính trị khác nhau và luôn luôn muốn thôn tính nhau….. như ngày nay. Còn hòn đá đập vào chân bức tượng làm cho bức tượng vỡ tan tành thì theo tôi hiểu đơn giản là đó là sự va chạm giữa thiên thạch với trái đất dẫn đến ngày tận thế của thế giới mà Kinh Thánh gọi là trận chiến Ha-ma-ghê-đôn của Đức chúa trời để lập lên một thiên đường trên trái đất chỉ cho những người tôn thờ chúa. Vậy thì khi nào trận chiến này sẽ xẩy ra. Trong các trang của Kinh Thánh còn lại mà các sự kiện chưa thấy xuất hiện trên thế giới có câu đáng chú ý là: ““Những tin tức từ phương bắc và phương đông sẽ tới làm cho người bối rối, người sẽ giận lắm mà đi đến để tàn phá và hủy diệt nhiều người. Người sẽ đặt các trại của cung mình ở khoảng giữa biển cùng núi vinh hiển và thánh. Song người sẽ đến sự cuối cùng mình, và chẳng có ai đến giúp đỡ người cả”. – Đa-ni-ên 11:44,45.” (Nói chung giải mã các câu trong Kinh Thánh cũng như các câu trong sấm Trạng Trình là giống nhau đều tùy theo ý của người giải, chỉ có khác là các bản Kinh Thánh gốc cách đây trên 2000 năm đã được tìm thấy gần đây khi so với các bản ngày nay thì các ý chính hầu như không thay đổi còn sấm Trạng Trình của ta thì chưa tìm được bản gốc hoặc gần gốc và dĩ nhiên người ta sẽ đặt ra câu hỏi nếu không có Mô Li Phê bản gốc đi để nhằm ý đồ gì đó thì cần gì phải cất dấu các bản gốc kỹ đến như vậy). “Vào thời Đa-ni-ên thì “biển“ là Địa Trung Hải và “núi“ thánh là Si-ôn từng là nơi có đền thờ của Đức Chúa Trời (thuộc đất Israel bây giờ). Còn “Những tin tức từ phương bắc và phương đông sẽ tới làm cho người bối rối…“ là những tin tức gì và “người“ ở đây là ai?” Các câu có liên quan: ”Đức Chúa Trời nói với Sa-tan “Ta sẽ…đặt những móc trong hàm ngươi, khiến ngươi ra“ và “Ta sẽ …khiến ngươi đến từ phía cực bắc, và đem ngươi lên trên các núi của Y-sơ-ra-ên“. – Ê-xê-chi-ên 38:4;39:2.” Ở đây tôi chỉ mang máng hình dung ra các sự kiện chính có thể xẩy ra như sau: Càng ngày Nga và Trung Quốc sẽ quan tâm hơn nữa tới Iran (bởi vì họ thấy TT. Obama quá hiền mà), bằng cách bán cho Iran nhiều hệ thống tên lửa hịên đại để Iran “phòng thủ“ trước sự đe dọa của Mỹ và phương tây. Trong khi Iran tuyên bố không chế tạo vũ khí hạt nhân nhưng lại tuyên bố “xóa sổ Israel trên bản đồ thế giới“ mà rõ ràng Iran biết Israel đã có vũ khí hạt nhân từ lâu rồi. Chiến tranh giữa Israel và Iral sẽ xẩy ra và dĩ nhiên Mỹ sẽ nhảy vào giúp Israel, sự hủy diệt ở Iral là có thể và khi đó Putin sẽ bị móc sắt lôi ra từ phía cực bắc và Trung Quốc từ phương Đông quyết định cứu Iral (đã có ý đồ tuyên chiến với Mỹ từ lâu rồi). Thế là đại chiến 3 nổ ra đã hủy diệt loài người. Dĩ nhiên ở dưới nghĩa địa thì mới có Thiên Đường của Đức Chúa Trời cho những ai tôn thờ chúa và địa ngục cho những người còn lại. Vì vậy nguyên nhân tận thế của thế giới có thể không phải do sự va chạm của thiên thạch với trái đất mà là vũ khí hạt nhân. Tôi phải nói các điều này ra chỉ hy vọng Thiên Cơ đã bị lộ thì hiện tượng sẽ không xẩy ra như vậy nữa (nếu nó đúng là Thiên Cơ) bởi vì con người khi đã biết trước nó thì họ sẽ biết phải làm gì có lợi cho chính bản thân họ, nếu không chả nhẽ họ toàn là những người đánh bom “liều chết“ như các chiến binh của Bin-Laden hay sao? Hy vọng có ai dịch giúp bài viết này ra tiếng Anh để gửi tới tất cả các trang web trên thế giới, nếu không e rằng sẽ quá muộn. Các bài sau trích trong cuốn "Giải Mã Tứ Trụ", phần Phụ Lục. II - Những điều cần biết về Vũ Trụ A - Lỗ đen, lỗ trắng và sự hình thành của chúng 1 - Các phân tích định lượng dẫn đến việc tiên đoán một ngôi sao (như mặt trời) có khối lượng ít nhất gấp ba lần (?) khối lượng Mặt Trời của chúng ta, tại thời điểm cuối cùng trong quá trình tiến hóa (tức khi mặt trời không còn khả năng cháy) thì hầu như chắc chắn nó sẽ co lại tới một kích thước tới hạn cần thiết để xảy ra suy sập hấp dẫn, và một lỗ đen được tạo thành. 2 - Lỗ đen là một vùng trong không gian có trường hấp dẫn lớn đến mức lực hấp dẫn của nó không để cho bất cứ một dạng vật chất nào, kể cả ánh sáng thoát ra khỏi mặt biên của nó (Chân Trời Sự Kiện, tức ranh giới mà mọi vật, kể cả ánh sáng không thể thắng được lực hấp dẫn của Lỗ Đen để có thể quay trở lại vũ trụ). 3 - Các lỗ đen siêu lớn có thể có khối lượng gấp hàng triệu, hàng tỷ lần khối lượng Mặt Trời. Chúng có thể được hình thành khi có một số lớn các ngôi sao bị nén chặt trong một vùng không gian tương đối nhỏ, hoặc khi có một số lượng lớn các ngôi sao rơi vào một lỗ đen ban đầu, hoặc khi có sự hợp nhất của các lỗ đen nhỏ hơn. 4 – Cũng giống như những Lỗ Đen chỉ được hình thành từ những Mặt Trời chết (chúng không còn cháy) có khối lượng đủ lớn thì một Lỗ Trắng (phun ra vật chất) cũng chỉ được tạo ra khi một Lỗ Đen lớn tới mức độ M. Lỗ Đen có khả năng lớn tới mức M được gọi là Lỗ Đen M (có thể nó phải hút nhiều hơn số lượng các Lỗ Đen đang khống chế khoảng 170 tỷ Thiên Hà mà hiện nay chúng ta đã phát hiện trong Vũ Trụ). B - Hệ mặt trời, thiên hà và siêu thiên hà 1 - Một hệ mặt trời thường chỉ có một mặt trời và các vệ tinh bay xung quanh nó theo các quỹ đạo khác nhau (như hệ mặt trời của chúng ta có 8 hành tinh). 2 – Các mặt trời (tức hệ mặt trời) trong vũ trụ thường quần tụ gần nhau tạo thành từng đám được gọi là các thiên hà (như hệ mặt trời của chúng ta nằm trong thiên hà Miky Way - còn gọi là Ngân Hà - có khoảng 300 tỷ mặi trời). 3 - Các kính thiên văn hiện đại ngày nay đã cung cấp bằng chứng cho thấy có khoảng một trăm bảy mươi tỷ thiên hà trong vũ trụ. Trong đó các thiên hà cũng quần tụ gần nhau tạo thành những đám có số lượng khác nhau (khoảng vài chục hay vài trăm và thậm trí tới vài nghìn) và người ta đã gọi chúng là các siêu thiên hà. 4 - Tại tâm của mỗi thiên hà hay mỗi siêu thiên hà có một lỗ đen siêu lớn, cùng với thời gian nó dần tiêu diệt (hút) các mặt trời và các thiên hà vệ tinh xung quanh bằng lực thủy triều (?) và cướp lấy khối lượng của chúng. III - Âm Dương và Ngũ Hành là các tiên đề trong mệnh lý học Đông Phương (?) A – Các tiên đề trong mệnh lý học Đông Phương (?) Mệnh học Đông Phương cũng tương tự như trong toán học nó phải được xây dựng trên một số tiên đề. Do vậy qua lăng kính Vật Lý, tôi thừa nhận Âm Dương và Ngũ Hành là các tiên đề xuất phát từ 2 khái niệm cơ bản trong Vật Lý Học hiện đại là Lỗ Đen và Lỗ Trắng như sau: Trong vật lý thiên văn, một Lỗ Trắng là một thiên thể giả định phóng ra vật chất, ngược lại với nó là một Lỗ Đen vốn hút mọi vật chất kể cả ánh sáng. Tôi xin trình bầy từng bước quan điểm này như sau: 1 – Qua định luật vạn vật hấp dẫn cổ điển của Newton mà loài người đã biết đến sự tồn tại của hệ mặt trời bởi sự tương tác hấp dẫn của mặt trời với 8 hành tinh trong hệ mặt trời của chúng ta không thể tách rời nhau qua vài tỷ năm. 2 – Các mặt trời ở gần nhau đã tạo thành Thiên Hà (hay Ngân Hà khoảng 300 tỷ mặt trời). Vậy thì chắc chắn phải có một lực hấp dẫn nào đó đã giữ chúng tồn tại gần với nhau qua bao tỷ năm như vậy, nếu không thì chúng đã trôi nổi trong vũ trụ giống như nếu không có lực hấp dẫn giữa mặt trời với 8 hành tinh trong hệ mặt trời của chúng ta thì hệ mặt trời của chúng ta đã không thể tồn tại tới ngày nay. Qua sự giúp đỡ của các kính thiên văn hiện đại người ta dự đoán có vật thể bí ẩn đã hấp dẫn giữ các mặt trời lại để tạo thành Thiên Hà và vật thể bí ẩn này người ta gọi là Lỗ Đen. Từ đây chúng ta có thể suy ra trong mỗi trung tâm của mỗi Thiên Hà phải có một Lỗ Đen là một điều hợp lý. 3 – Giống như các Thiên Hà, tâm của mỗi siêu Thiên Hà cũng phải tồn tại một Lỗ Đen rất lớn để giữ các Thiên Hà không bị tản mát trong vũ trụ bao la. Vậy thì các Lỗ Đen chỉ có một nhiệm vụ hút mọi vật, kể cả ánh sáng khi chúng không may đi qua “Chân Trời Sự Kiện“. Nếu chỉ có các Lỗ Đen thì vũ trụ ngày nay chắc rằng chỉ còn là một mầu đen bởi vì tất cả mọi vật đều bị Lỗ Đen nuốt hết nếu chúng ta thừa nhận thời gian là vô tận. Để giải quyết mâu thuẫn này, người ta bắt buộc phải đưa ra khái niệm về Lỗ Trắng. Mặc dù người ta không thể nhìn thấy các Lỗ Đen mà chỉ dự đoán được sự tồn tại chúng qua lực tương tác của chúng với các vật xung quanh còn các Lỗ trắng thì người ta có thể nhìn thấy được chúng nhưng tại sao người ta lại chưa phát hiện được chúng trong vũ trụ? Vậy thì Lỗ Đen và Lỗ Trắng là hai vật thể khác nhau hay không? Theo tôi chúng chỉ là một bởi vì chả có vật nào như Lỗ Đen cứ hút mãi và cũng chả có vật nào như Lỗ Trắng cứ phun mãi. Điều này có thể giải thích là khi một Lỗ Đen hút mãi tới một mức độ nào đó thì nó sẽ tới một giá trị tới hạn M và khi đó nó phải phun ra để trở về trạng thái (Lỗ Đen) bình thường của nó (các Lỗ Đen này được gọi là Lỗ Đen M). Các vật bị nó phun ra không thể bay theo chiều đó vào vũ trụ mãi được mà chúng chỉ bay tới một giới hạn nào đó thì chúng phải dừng lại bởi lực hấp dẫn của các Lỗ Đen M đã khống chế chúng (ngày nay người ta nhận thấy vũ trụ đang giãn nở ngày càng nhanh chứng tỏ tàn dư của Lỗ Trắng chưa kết thúc). Lỗ Trắng và Lỗ Đen M của nó cũng như các vật thể bị Lỗ Đen M này khống chế đã tạo thành một Vũ Trụ Nhỏ (bởi vì ai mà biết được trong Vũ Trụ có bao nhiêu Lỗ Đen M?) tồn tại với thời gian vô tận. Từ mô hình Vũ Trụ Nhỏ này mà tôi đã suy luận rằng Thái Cực chỉ là một khái niệm để mô tả tại thời điểm khi mà Lỗ Đen M bắt đầu trở thành Lỗ Trắng. Còn Âm Dương và Ngũ Hành là các tiên đề trong mệnh học Đông Phương của cái Vũ Trụ Nhỏ này, trong đó Âm và Dương là nói đến cặp phạm trù đối lập, theo cách hiểu đơn giản nhất. B – Tiên đề Âm Dương Người ta có thể ứng dụng các tiên đề Âm và Dương để giải thích các khái niệm cơ bản trong cái Vũ Trụ Nhỏ này mà tôi tạm thời phân chúng thành 3 dạng : Đơn tính, lưỡng tính và vô tính. 1 - Đơn tính (có nghĩa là chỉ cần một trong 2 phạm trù đối lập của Âm và Dương có thể sinh sản được). Đây chính là các trường hợp mà Âm và Dương đại diện cho các cặp phạm trù đối lập có thể chuyển hóa cho nhau mà trong thực tế người ta đã biến khối lượng thành năng lượng (bom nguyên tử) và năng lượng biến thành khối lượng theo đúng phương trình năng lượng và khối lượng có thể chuyển hóa cho nhau của nhà bác học thiên tài Albert Einstein: E = mc² ( trong đó E là năng lượng , m là khối lượng, c là vận tốc ánh sáng). Nếu ta quy ước gọi khối lượng (m) mang phạm trù Dương thì năng lượng (E) sẽ mang phạm trù Âm Hiện giờ qua cỗ máy Large Hadron Collider (Máy gia tốc hạt lớn - gọi tắt là LHC) các nhà Vật Lý đang đi tìm “Hạt của Chúa” (tức một dạng “hạt” cụ thể mà các nhà Vật Lý gọi là hạt Higgs) đã đóng vai trò trong việc chuyển năng lượng thành khối lượng. Ngay cả khái niệm bên phải và bên trái cũng có thể xếp vào loại này bởi vì nếu một người khi đi mãi về phía tay phải thì sau khi đi vòng quanh quanh trái đất, người đó dĩ nhiên sẽ tới bên trái của đối tượng làm mốc xuất phát lúc trước. Tương tự như bên trên và bên dưới cũng có tính chất này nếu chúng ta thừa nhận mọi điểm trên mặt đất đều có một trục từ trường ảo như trục từ trường bắc nam của trái đất. Nếu như vậy thì bất kỳ vật nào đi lên phía trên mãi mãi rồi sẽ phải trở về mặt đất ở một điểm bên đối diện của trái đất và rồi nó nó đi theo trục của trái đất tại điểm đó sẽ đến bên dưới của đối tượng làm mốc mà từ đó nó đã bắt đầu đi lên phía trên. Lỗ Đen và Lỗ Trắng cũng là một cặp phạm trù đối lập của Âm và Dương. Chúng có thể chuyển hóa cho nhau, đó chính là cuộc đời của các Vũ Trụ Nhỏ đang tồn tại mà ngày nay chúng ta vẫn đang nhìn thấy bằng mắt thường. 2 – Lưỡng tính (có nghĩa là phải có sự kết hợp cả hai phạm trù đối lập của Âm và Dương mới sinh sản được). Đây chính là các trường hợp Âm và Dương được áp dụng cho các cặp phạm trù đối lập không thể chuyển hóa được cho nhau mà chúng muốn tồn tại và phát triển phải có sự tác động của cả hai phạm trù đối lập này. Một trong các ví dụ hiển nhiên là con người hay động vật. Âm và Dương ở đây được đại diện cho giống đực và giống cái. Chính có sự tác động giữa hai đối tượng này mà con người và động vật mới có thể tồn tại tới ngày nay. Âm và Dương còn có thể đại diện cho cả động vật và thực vật bởi vì phải có sự tác động của cả 2 đối tượng này thì chúng mới có thể cùng tồn tại và phát triển tới ngày nay (xem giải thích ở dưới). 3 - Vô tính (có nghĩa đây là các dạng phạm trù đối lập của Âm và Dương không có khả năng sinh sản) : Đây là các trường hợp mà Âm và Dương không thể chuyển hóa và tác động được với nhau. Một trong các ví dụ này là các khái niệm như đen và trắng; tốt và xấu; …… C – Tiên đề Ngũ Hành Ngũ hành là Thủy, Mộc, Hỏa, Thổ và Kim. Chúng có các tính chất tương sinh như Thủy sinh Mộc, Mộc sinh Hỏa, Hỏa sinh Thổ, Thổ sinh Kim, Kim sinh Thủy và rồi Thủy lại sinh cho Mộc… .Và tính chất tương khắc như Thủy khắc Hỏa, Hỏa khắc Kim, Kim khắc Mộc, Mộc khắc Thổ, Thổ khắc Thủy và rồi Thủy lại khắc Hỏa….. Người ta đã ứng dụng các tiên đề này để mô tả gần như mọi quy luật phát triển của thế giới tự nhiên đều tuân theo quy luật của một vòng tròn khép kín. 1 - Các ví dụ về quy luật của vòng tròn khép kín : a - Chu kỳ Sinh Thành Lão Tử của con người và động thực vật (chúng đều được sinh ra, trưởng thành, suy yếu, chết rồi lại được đầu thai để sinh ra…). b - Chu kỳ của động vật và thực vật (động vật ăn rau, hoa quả, thu O2 và thải ra phân, khí CO2 , còn thực vật thì ngược lại. Rõ ràng chúng đã tạo ra quy luật của một vòng tròn khép kín). c – Chu kỳ của nước biển nóng do mặt trời chiếu đã bốc hơi lên cao, được gió thổi vào đất liền, khi tới độ cao đủ lạnh, hơi nước ngưng tụ thành nước rơi xuống chẩy thành các dòng sông ra biển và rồi chúng lại bốc hơi…..1 like
-
Tôi thấy vô cùng vui khi các bạn tham gia học và tìm hiểu môn Tứ Trụ này. Mặc dù nội dung dậy sẽ không khác nhau nhưng cách tiếp cận với môn Tử Bình của tôi không giống với cách tiếp cận (dậy) của các sách của các cổ nhân để lại. Phương châm của tôi là phải tìm được cách nhanh nhất và đơn giản nhất để dự đoán được các tai họa và tìm cách giải cứu các tai họa đó. Ðể thực hiện được mục đích quá khó khăn này thì không còn cách nào khác là phải toán học hóa nó như các định luật Vật Lý chẳng hạn. Nếu cứ theo cách trình bầy (dậy) của các cổ nhân thì các bạn cũng thừa biết nhiều cao thủ Tử Bình đã nghiên cứu có thâm niên tới 3 đến 4 chục năm mà xác định Thân vương hay nhược còn sai bét nhè thì còn nói gì đến dự đoán đúng được nữa. Tôi đồng ý theo ý kiến của đa số các bạn là mỗi tuần một bài (nếu gặp bài ngắn và dễ thì có thể chỉ cần 3 đến 4 ngày). Tôi hy vọng chỉ sau 4 tháng học các bạn sẽ có được trình độ trung cấp, sau đó các bạn sẽ cùng tôi học và nghiên cứu Tử Bình ở trình độ cao cấp. Ở trình độ cao cấp (dự đoán về Tài Quan Ấn) thì hiện nay tôi gặp khó khăn là không có bản dịch toàn bộ tiếng Việt 2 cuốn "Tử Bình Chân Thuyên Bình Chú" và "Trích Thiên Tủy" (theo tôi chỉ cần 2 cuốn này là đủ). Bởi vì muốn nhanh và không mất thì giờ vô ích thì phải "Ðứng trên vai những người khổng lồ" mới có chút hy vọng thành công được. Hiện tại tôi chỉ biết một vài thông tin về mệnh quý hiển mà trần Viên (học trò của cụ Thiệu) đã tổng kết trong sách "Dự Ðoán Theo Tứ Trụ" mà thôi. Còn 2 cuốn này nghe nhiều người nói các cách cục quý hiển đã được trình bầy chi tiết thì phải. Do vậy nếu bạn nào có bản dịch 2 cuốn này đưa lên đây cho mọi người cùng nghiên cứu thì xin cám ơn vô cùng. (Những ai không đăng ký được nick ở đây thì xin mời sang chủ đề "Giải đáp các thắc mắc" trong mục "Trao đổi về Tứ Trụ" bên trang web Lý Số Việt Nam để đăng ký nick. Ở đó tôi sẽ giải đáp các thắc mắc của các bạn như ở đây). Thân chào.1 like
-
Bài 2 có một vài sai sót, nay xin đăng lại. Thành thật xin lỗi mọi người.1 like
-
1 like
-
Bài 2 : Sáu Mươi Năm Giáp Tý Tuần thứ nhất Chương 1 Bảng Nạp Âm 60 năm Giáp Tý Ta thấy có 60 tổ hợp của hai chữ. Các chữ đầu của các tổ hợp này được gọi là các Thiên Can, còn các chữ sau được gọi là các Địa Chi. Các tổ hợp 2 chữ này đã được tìm thấy từ thế kỷ 16 trước công nguyên ở Trung Quốc. Các Thiên Can này đã được dùng làm các đế hiệu của vua nhà Thương như Thành Thương có tên là Thiên Ất, con trai của ngài gọi là Đại Đinh, Trung Bính, Trung Nhâm, cháu có tên là Đại Giáp,...... 1 – Thiên Can Nhìn vào bảng này ta thấy ngay 10 từ đầu của các tổ hợp là, Giáp, Ất, Bính, Đinh, Mậu, Kỷ, Canh, Tân, Nhâm, Quý được lặp đi lặp lại theo một thứ tự nhất định. 10 từ này được gọi là 10 thiên can, gọi tắt là 10 can. Thiên ở đây có nghĩa là trời, còn Can ở đây có thể hiểu là cánh. Do vậy ta có thể hiểu đây là 10 thiên thần có cách sống ở trên trời (tức 10 can này là ở trên trời). Vậy thì 10 thiên thần này có liên quan gì với 9 hành tinh và mặt trời ở trong hệ mặt trời mà chúng ta đã biết ? Phải chăng Họ (ý nói những người thuộc nền văn minh ngoài hành tinh của chúnh ta) đã lấy chính 10 thiên thần này để ứng với 10 vật thể chính trong hệ mặt trời của chúng ta ? Sơ đồ vị trí, kích thước và thứ tự các quỹ đạo của 9 hành tinh trong hệ mặt trời của chúng ta : Theo như sự suy luận của tôi nếu như tính đến sự tác động của các vật thể lớn trong hệ mặt trời của chúng ta tới con người thì không thể không tính đến mặt trăng. Bởi vì mặt trăng có đường kính 3476 km lại ở rất gần chúng ta (chỉ cách chúng ta 0,38 triệu km), còn hành tinh Pluto đường kính chỉ có 3100 km ở vị trí xa lắc xa lơ tận vòng ngoài cùng của hệ mặt trời, cách chúng ta và cũng có thể coi xa hơn mặt trăng 5.796 triệu km. Do vậy sự tác động vào con người của mặt trăng chắc chắn sẽ cao hơn nhiều lần của hành tinh Pluto và dĩ nhiên để chọn vật thể thứ 10 trong hệ mặt trời có tác động mạnh nhất đến con người thì phải chọn mặt trăng mà bỏ hành tinh Pluto. 2 - Địa Chi Tương tự ta cũng thấy 12 chữ sau của các tổ hợp là : Tý, Sửu, Dần, Mão, Thìn, Tỵ, Ngọ, Mùi, Thân, Dậu, Tuất, Hợi cũng được lặp đi lặp lại theo một thứ tự nhất định. Mười hai từ này được gọi là 12 địa chi, gọi tắt là 12 chi. Địa có nghĩa là đất, nghĩa là ở trên mặt đất hoặc ở dưới mặt đất, còn Chi có nghĩa là chân, ý nói tới các loài vật có chân. Do vậy ta hiểu đây là 12 con vật đang sống trên trái đất đó là: Nhưng tại sao lại có đến 12 con vật là 10 có phải là đẹp hơn không? Chắc là lúc đó Họ đã biết rất rõ trái đất ở trong hệ mặt trời của chúng ta có mặt phẳng xích đạo nghiêng với mặt phẳng hoàng đạo cho nên sẽ phải xẩy ra bốn mùa trên trái đất mà chúng ta quen gọi là Xuân, Hạ, Thu, Đông. Mỗi mùa này Họ lại chia nhỏ ra làm ba phần để xác định đầu mùa, giữa mùa và cuối mùa, vì vậy phải có 12 địa chi là vậy. 12 địa chi này xác định các vị trí mà trái đất đã quay được một vòng xung quanh mặt trời, chúng ta gọi chúng là 12 tháng của một năm. Chúng ta biết mặt phẳng hoàng đạo và mặt phẳng xích đạo lệch nhau 23,5 độ, đó chính là nguyên nhân tạo ra 4 mùa trên trái đất. Sau 60 năm tổ hợp can chi lại quay trở lại tổ hợp ban đầu là Giáp Tý, cho nên mới có tên gọi là 60 năm Giáp Tý. II - Bảng nạp âm 60 năm Giáp Tý Nghĩa của các tổ hợp can chi trên được người Trung Quốc gọi là nạp âm. Cho đến nay ngay cả các nhà mệnh học nổi tiếng Trung Quốc cũng không hiểu được dựa trên nền tảng nào mà những người ngoài hành tinh của chúng ta đã nạp âm cho các tổ hợp can chi này. Rất nhiều người đã cố công giải thích, nhưng đến nay vẫn chưa có ai đưa ra được lời giải thích có tính thuyết phục cả. Do vậy trong thời gian này chúng ta tạm thời thừa nhận và sử dụng chúng vào trong các ví dụ thực tế để xem xét khả năng đúng hay sai của chúng. (Trang 272, cuốn Dự Ðoán Theo Tứ Trụ - in năm 2002, cụ Thiệu Vĩ Hoa đã viết: “Trong bảng sáu mươi năm Giáp Tý, căn cứ theo nguyên tắc gì để nạp âm ngũ hành? Người xưa tuy có bàn đến nhưng không có căn cứ rõ ràng và cũng chưa bàn được minh bạch, do đó vẫn là huyền bí khó hiểu. Bảng 60 năm Giáp Tý biến hóa vô cùng, cho đến nay đối với giới học thuật của Trung Quốc đó vẫn còn là một bí ẩn”. Ðây chính là một trong các bằng chứng để chứng minh rằng bảng nạp âm sáu mươi năm Giáp Tý không phải do người Trung Quốc phát minh ra.). Tóm tắt các ý chính của các nạp âm tác động với nhau gây lên tốt và xấu (Qua một số sách mà các cổ nhân để lại) 1 – Giáp Tý, Ất Sửu – Kim đáy biển : ? 2 – Bính Dần, Đinh Mão - Lửa trong lò : ? 3 - Mậu Thìn, Kỷ Tị - Gỗ rừng xanh : ? 4 – Canh Ngọ, Tân Mùi - Đất ven đường : Gặp gỗ rừng là mệnh quý. Gặp Kim là mệnh phú quý. 5 – Nhâm Thân, Quý Dậu – Kim lưỡi kiếm : Chỉ sợ lửa trong lò và lửa sấm sét 6 – Giáp Tuất, Ất Hợi - Lửa đỉnh núi : Là mệnh quý hiển nếu có thêm Mộc và Hỏa. Sợ Thủy nhất là gặp nước biển tương khắc thì hung thần tới nơi. 7 – Bính Tý, Đinh Sửu - Nước khe núi : Gặp Kim rất tốt, nhất là kim trong cát và kim lưỡi kiếm. Mệnh gặp nước suối cực quý. Sợ Thổ và Hỏa. 8 - Mậu Dần, Kỷ Mão - Đất trên tường : Gặp Thủy và Thổ là quý hiển trừ nước biển và lửa sấm sét. 9 – Canh Thìn, Tân Tị - Kim giá đèn : Thích Hỏa nhất là Ất Tị, thích Thủy nhất là Ất Dậu, Quý Tị, đó là các mệnh quý. Sợ Mộc khắc trừ khi gặp Hỏa yếu (chắc là lửa của ngọn đèn). 10 – Nhâm Ngọ, Quý Mùi - Gỗ liễu : Nó , thích Thủy và gặp đất mái nhà là tốt trừ nước biển. Nó gặp gỗ lựu cực xấu và gặp Hỏa dễ chết yểu. 11 – Giáp Thân, Ất Dậu - Nước ngầm : Gặp Kim trong cát hay Kim trang sức rất tốt, gặp Thủy và Mộc cũng tốt. Nếu trụ năm giờ đều có Thủy và tháng ngày đều có Mộc là mệnh cực quý. 12 – Bính Tuất, Đinh Hợi - Đất mái nhà : Cần có Mộc làm khung và Kim trang hoàng cực quý, Kim quý nhất là nhũ kim và kim lưỡi kiếm. Sợ gặp Hỏa trừ lửa mặt trời lại là mệnh phú quý. 13 - Mậu Tý, Kỷ Sửu - Lửa sấm sét : Gặp Thổ, Thủy hay Mộc có thể tốt hoặc không có hại. 14 – Canh Dần, Tân Mão - Gỗ tùng : Sợ lửa lò, nước biển. Gặp Kim đại quý .Trụ tháng ngày và giờ đều có Nhâm, Quý, Hợi và Tý là mệnh cực quý. 15 – Nhâm Thìn, Quý Tị - Nước sông : Gặp Kim là tốt gặp Thủy là xấu (dễ vỡ đê). Gặp đất mái nhà hay đất trên tường khó tránh khỏi tai họa cần có Kim để giải cứu. Gặp lửa đèn, lửa trên núi cực quý ngoài ra đều xấu. 16 – Giáp Ngọ, Ất Mùi – Kim trong cát : Nó là mệnh thiếu niên phú quý nếu gặp lửa trên núi, lửa dưới núi hay lửa đèn (để luyện nó thành vật dụng) nhưng nó cần gặp Mộc (để kiềm chế nếu Kim quá vượng) và Thủy như nước khe núi, nước suối và nước mưa (để khống chế Hỏa nếu Hỏa vượng). Nó sợ nước sông, nước biển, đất ven đường, đất dịch chuyển và cát trong đất (bởi vì nó dễ bị vùi chôn). 17 – Bính Thân, Đinh Dậu - Lửa dưới núi : Gặp Thổ và Mộc rất tốt, không thích lửa mặt trời, lửa sấm sét và lửa đèn. 18 - Mậu Tuất, Kỷ Hợi - Gỗ đồng bằng : Sợ nhất gặp kim lưỡi kiếm, thích Thủy, Thổ và Mộc. Sinh mùa Đông trong mệnh lại gặp Dần và Mão là mệnh quý. 19 – Canh Tý , Tân Sửu - Đất trên tường : Có Mộc là mệnh quý, gặp Thủy cũng quý trừ nước biển. Kim chỉ thích nhũ kim. Sợ Hỏa sẽ cháy nhà (vì tường này là tường của nhà được làm bằng rơm với đất bùn). 20 – Nhâm Dần, Quý Mão – Nhũ kim : Gặp đất trên thành, đất trên tường mới tốt như gặp Mậu Dần, riêng Quý Mão gặp Kỷ Mão đều là mệnh quý hiển. 21 – Giáp Thìn, Ất Tị - Lửa đèn : Nó là mệnh rất quý nếu nó gặp Mộc và Thủy như nước ngầm, nước khe núi và nước sông (dầu để thắp đèn) hay Kim lưỡi kiếm. Nó sợ gặp lửa mặt trời (đèn là vô dụng), lửa sấm sét (làm tắt đèn) và đất trừ đất mái nhà. 22 – Bính Ngọ, Đinh Mùi - Nước mưa : Sợ đất trên tường, đất mái nhà, đất trên thành, đất ven đường và đất dịch chuyển. 23 - Mậu Thân, Kỷ Dậu - Đất dịch chuyển : Nó thích nước tĩnh như nước ngầm, nước mưa và nước sông. Nó sợ nước biển, lửa trên núi và lửa dưới núi, gặp lửa sấm sét phải dùng Thủy để hóa giải lại là mệnh quý. 24 – Canh Tuất, Tân Hợi – Kim trang sức : Nó sợ gặp Hỏa, gặp Thủy cũng quý trừ nước biển, nó thích cát trong đất. 25 – Nhâm Tý, Quý Sửu - Gỗ dâu : Gặp cát trong đất, đất ven đường, đất dịch chuyển, nước ngầm, nước khe núi, nước sông đều tốt. Gặp gỗ tùng, gỗ liễu, gỗ rừng xanh đều quý. Sợ gỗ đồng bằng và gỗ lựu. 26 – Giáp Dần, Ất Mão - Nước suối : Gặp Kim rất tốt. Sợ gặp Thổ và Mộc trừ gỗ cây dâu là mệnh cực quý. 27 – Bính Thìn, Đinh Tị - Cát trong đất : Gặp Kim và Thủy là quý cũng như lửa mặt trời, gỗ dâu, liễu, ngoài ra các loại Mộc, Hỏa khác đều không tốt. 28 - Mậu Ngọ, Kỷ Mùi - Lửa mặt trời : Thích gặp Thủy, Mộc và Kim. Chỉ thích lửa đèn còn các loại lửa khác đều tương khắc. Thích gặp Thổ có thêm Kim và Mộc là mệnh quý. Lửa mặt trời đơn độc với Thủy là xấu. 29 – Canh Thân, Tân Dậu - Gỗ lựu : Gặp Thổ, Thủy, Mộc, Kim có thể thành tốt trừ nước biển sẽ bần cùng bệnh tật. Lửa mặt trời và lửa sấm sét có thể tốt nhưng cũng có thể xấu. Sinh tháng, năm, ngày hoặc giờ có Hỏa hoặc gặp gỗ liễu là mệnh quý. 30 – Nhâm Tuất, Quý Hợi - Nước biển : Gặp các loại nước cực tốt, nhất là Nhâm Thìn cực phú quý. Thích lửa mặt trời, kim đáy biển, gỗ dâu, gỗ liễu, đất dịch chuyển, đất trên tường, đất ven đường ngoài ra đều xấu nhất là lửa sấm sét. Các câu hỏi trọng tâm : 1 – Theo bạn, cách đây 3 đến 4 nghìn năm con người của chúng ta đã biết đến hệ mặt trời có 9 hành tinh hay chưa? 2 – Cách giải thích vì sao có 10 can và 12 chi liệu có thỏa mãn tính tò mò của bạn không? Cách giải thích này đã có tính chất khoa học (duy vật) hay nó vẫn còn mang nặng tính chất huyền bí (duy tâm) ? Bạn có cách nào giải thích khác không? 3 - Có một cao thủ về dịch lý bên Lý Học Ðông Phương cho rằng có 4 mùa trên trái đất là do quỹ đạo của trái đất quay quanh mặt trời theo hình elip. Theo bạn điều này có đúng hay sai, vì sao? 4 - Bạn thử kể ra các lực tương tác mà bạn biết của 10 vật thể được đưa ra ở trên lên con người nói riêng và các vật thể khác trên mặt đất nói chung là gì? 5 - Giả sử có 2 người cùng sinh ra tại một thời điểm của thời gian (cứ giả sử thời điểm họ sinh ra được tính chính xác tới 1/tỷ giây hay cứ cho là tuyệt đối - tức không có sự sai lệch về thời gian) thì họ có cùng sinh ra tại 1 vị trí trong không gian của vũ trụ hay không ?1 like
-
1 like
-
Các bài giảng cho khóa học Tứ Trụ sơ cấp Bài 1: Vận mệnh và dự đoán vận mệnh Trích cuốn “Có một Ðấng Tạo Hóa quan tâm đến bạn không?“ của Liên Hiệp Thánh Kinh Hội NW: “Vào năm 1905, tức là 40 năm trước năm 1945, Einstein đã tiên đoán có một quan hệ giữa vật chất và năng lượng. Nhiều người biết phương trình E = mc² (trong đó E là năng lượng, m là khối lượng, c là vận tốc ánh sáng) của ông. Chẳng bao lâu sau khi quan hệ đó được Einstein công thức hóa thì các nhà bác học có thể giải thích được là làm sao mặt trời tiếp tục chiếu sáng hàng tỷ năm. Trong mặt trời có những phản ứng nhiệt hạch liên tục. Bằng cách này, mỗi giây, mặt trời biến khoảng 564 triệu tấn hyđro thành 560 triệu tấn heli. Ðiều này có nghĩa là cứ trong mỗi giây có khoảng 4 triệu tấn vật chất đã biến đổi thành năng lượng mặt trời mà một phần tỏa xuống mặt đất bảo toàn sự sống. Ðiều đáng chú ý là quá trình có thể đổi ngược lại. Cuốn The World Book Encyclopedia giải thích : “Năng lượng đổi thành vật chất khi những hạt bên trong nguyên tử va chạm nhau ở tốc độ cao tạo ra các hạt mới nặng hơn“. Các nhà khoa học đã thực nghiệm được điều này trong một phạm vi giới hạn, dùng máy khổng lồ gọi là máy gia tốc hạt, trong đó những hạt bên trong nguyên tử va chạm nhau ở vận tốc cực cao, để tạo ra vật chất. Nhà vật lý học đoạt giải thưởng Nobel, tiến sĩ Carlo Rubbia giải thích: “Chúng tôi đã tái tạo một trong các phép lạ về vũ trụ - biến năng lượng thành vật chất““. ………………………….. “Hãy ngước mắt lên cao mà xem: Ai đã tạo ra các vật này? Ấy là Ðấng khiến các cơ-binh ra theo số nó, và đặt tên hết thẩy, chẳng một vật nào thiếu, vì sức-mạnh Ngài lớn lắm, và quyền-năng Ngài rất cao (Ê-sai 40:26). Vâng, Kinh-thánh nói rằng một nguồn năng lượng vô biên - Ðấng Tạo Hóa – đã hình thành vũ trụ vật chất. Ðiều này hoàn toàn phù hợp với kỹ thuật tân tiến“. Qua 2 đoạn trích trên cho chúng ta thấy rằng câu đầu tiên của Kinh-thánh: “Ban đầu Ðức Chúa Trời dựng nên trời đất“ (Sáng-thế Ký 1:1) có thể được hiểu chính xác là : Ban đầu Ðức Chúa Trời đã dùng sức mạnh vô biên của mình để dựng nên vũ trụ trong đó có mặt trời và trái đất của chúng ta. Cho nên khi các ngôi sao (như mặt trời của chúng ta) cháy mãi hết nhiên liệu rồi sẽ phải tắt thì ở trong một môi trường đặc biệt nào đó như Hố Trắng chẳng hạn sẽ phun ra vật chất (tham khảo chủ đề “Những điều cần biết về Vũ Trụ học“ trong mục “Lý Học Ðông Phương“ tại trang web này), trong đó xuất hiên các ngôi sao mới. Chính điều này có thể chứng minh được vì sao trên bầu trời của chúng ta tới nay vẫn tồn tại ti tỷ các ngôi sao tỏa ánh sáng - năng lượng - vào vũ trụ rộng bao la trong khi thời gian là vô tận. “Nhà địa chất học nổi tiếng Wallac Pratt bình luận : “Nếu có ai yêu cầu tôi, với tư cách là một nhà địa chất học, giải nghĩa cách vắn tắt các tư tưởng tân thời của chúng ta về nguồn gốc của trái đất và sự phát triển của sự sống trên đó cho những người mộc mạc, quê mùa như các chi phái mà sách Sáng-thế Ký được viết cho, thì tôi không thể làm gì hay hơn là theo sát phần lớn lối diễn tả và ngôn ngữ trong chương một của Sáng-thế Ký“. Môi-se là người viết quyển đầu tiên của Kinh Thánh là Sáng-thế Ký khoảng năm 1513 TCN (vì cuốn Kinh Thánh là một bộ gồm 66 cuốn sách nhỏ được viết trong một khoảng thời gian hơn 1.500 năm từ 1513 TCN đến khoảng năm 80 SCN - có khoảng 40 người đã tham gia viết). Ông Wallac Pratt cũng nhận xét rằng thứ tự các biến cố mô tả trong sách Sáng-thế Ký: Nguồn gốc của đại dương, việc đất trồi lên, sự xuất hiện các loài sống dưới biển, chim chóc và các động vật hữu nhũ, thực chất là thứ tự của các giai đoạn chính yếu của thời đại địa chất. Chúng ta thử xem xét: Cách đây 3500 năm, làm sao Môi-se biết được thứ tự chính xác như thế nếu như tin tức đó không phải bắt nguồn từ Ðấng Thiết Kế (Ðức Chúa Trời)“. Ðể phù hợp với khoa học chúng ta thừa nhận rằng Môi-se vào thời gian đó chỉ là người “Ở Trần Ðóng Khố“ trong một xã hội còn rất lạc hậu trên trái đất của chúng ta đã ghi chép lại những tri thức mà các vị khách thuộc một nền văn minh ngoài trái đất ghé thăm chúng ta (có thể gọi họ là các sứ giả của Ðức Chúa Trời) truyền đạt cho. Chính vì vậy mà ngôn ngữ diễn đạt rất mộc mạc, đơn sơ, hầu như Môi-se và những người tham gia viết Kinh-thánh chỉ diễn đạt được các tri thức của Họ theo nghĩa đen mà thôi, vì vậy mới có nhiều sai sót. Ðó là lý do vì sao có sự kiện Galileo bị đưa lên ngọn lửa của giàn thiêu. Một điều quan trọng nữa là cuốn Kinh-thánh không những đã nói tới nguồn gốc hình thành, sự kiến tạo địa chất của trái đất và sự phát triển của sự sống trên trái đất mà cuốn Kinh-thánh còn dự đoán các sự kiện đã và chưa xẩy ra. Ðó là dự đoán sự xuất hiện của 7 cường quốc trên trái đất trước khi trái đất bị hủy diệt bởi sự va chạm với thiên thạch. Phần này xin mời các học viên đọc chủ đề: “Trận chiến Ha-ma-ghê-đôn và ngày tận thế“ trong mục “Dự Báo và Chứng Nghiệm“ tại trang web này. Ðiều này đủ cho chúng ta nhận thấy rằng cuốn Kinh-thánh không chỉ dừng lại ở mục đích truyền bá về hệ tư tưởng, đạo đức mà nó còn dự đoán vận mệnh của trái đất của chúng ta. Vận mệnh trái đất, Họ (tức người ngoài hành tinh của chúng ta) còn dự đoán được, vậy thì vận mệnh của con người chúng ta Họ không dự đoán được sao? Cho nên theo tôi học thuyết Âm Dương Ngũ Hành và bảng Nạp Âm sáu mươi năm Giáp Tý đã xuất hiện trên trái đất của chúng ta khoảng 3 đến 4 nghìn năm hoàn toàn phù hợp với khoảng thời gian xuất hiện cuốn Kinh-thánh cũng là món quà mà những vị khách này đã viếng thăm và tặng chúng ta. Ðây chính là lý do mà tôi đã nghiêm túc nghiên cứu môn Tử Bình qua lăng kính của Vật Lý học. Ở bài 1 này tôi không đòi hỏi mọi người phải tin rằng con người nói riêng hay vạn vật nói chung có vận mệnh và dự đoán được vận mệnh… mà tôi khuyên mọi người chưa nên tin bất cứ cái gì ngay được. Mọi cái cứ từ từ nghiên cứu xem sao đã, chỉ đến khi có được sự suy luận có lý cộng thêm các ví dụ trong thực tế kiểm nghiệm lý luận đó đúng thì mới có thể tin được mà thôi. Các câu hỏi trọng tâm: 1 - Bạn hãy thử chứng minh học thuyết Âm Dương Ngũ Hành cùng với bảng Nạp Âm sáu mươi năm Giáp Tý (hoàn toàn theo nhận thức đã có của bạn không dựa theo nội dung bài viết trên) là do người Trung Quốc nói riêng hay của người trên trái đất chúng ta nói chung phát minh ra chứ không phải do những người thuộc nền văn minh ngoài trái đất tặng. 2 – Theo bạn khái niện Lỗ đen và Lỗ trắng để giải thích sự tồn tại vĩnh hằng của Vũ Trụ có tính thuyết phục (hợp lý) hay không? 3 – Âm Dương Ngũ Hành là các tiên đề trong mệnh học Ðông Phương có hợp lý không? Sau đây xin mời các học viên cùng tôi khám phá các bí ẩn của thuyết Âm Dương Ngũ Hành và bảng Nạp Âm sáu mươi năm Giáp Tý qua con mắt của các nhà Vật Lý học xem chúng thuộc lĩnh vực Duy Vật hay Duy Tâm1 like
-
1 like