• Thông báo

    • Bá Kiến®

      Nội quy Lý Học Plaza

      Nội quy này là bản mở rộng Nội Quy - Quy định của Diễn đàn. Khi tham gia mua bán, các thành viên phải tuân theo những quy định sau: Tiêu đề bài viết: Bao gồm: Chỉ dẫn địa lý, Loại hình Mua/Bán, Thông tin mua bán.
      Chỉ dẫn địa lý: Tỉnh/thành nơi mua bán. Hoặc sử dụng định nghĩa có sẵn:TQ: Toàn quốc
      HCM: TP Hồ Chí Minh
      HN: Hà Nội
      [*]Ví dụ: HCM - Bán Vòng tay Hổ Phách ​Nội dung bài viết: Mô tả chi tiết sản phẩm mua/bán
      Bắt buộc phải có thông tin liên lạc, giá Mua/Bán
      Bài mới đăng chỉ được phép up sau 03 ngày.
      Thời gian up bài cho phép: 01 ngày 01 lần.
      Các hành vi vi phạm nội quy này sẽ bị xóa bài hoặc khóa tài khoản mà không cần báo trước.

Leaderboard


Popular Content

Showing most liked content on 21/04/2011 in all areas

  1. PHONG THỦY LẠC VIỆT Thưa quý vị và anh chị em quan tâm. Khi tôi bắt đầu viết bài giới thiệu về Phong thủy Lạc Việt, từ mùng 3 tháng 5/ 2008. Đến nay là 2015, đã hơn bảy năm trôi qua. Trong chuỗi thời gian ấy đã bao biến đổi của lịch sử và những phát hiện mới nhất liên quan đến ngành phong thủy. Và một điều cần xác định rằng: sự phát hiện trên mọi phương diện liên quan đến ngành phong thủy Đông phương, kể cả di vật khảo cổ, tri thức khoa học hiện đại liên quan, những phát hiện có tính nghiên cứu về phong thủy....đều tiếp tục là sự xác minh tính chân lý là: Những di sản phong thủy trong cổ thư chữ Hán đã sai lệch, rời rạc. mâu thuẫn và cội nguồn cũng như lịch sử phong thủy không thuộc về nền văn minh Hán. Bởi vậy, hôm nay tôi viết lại bài này để tiếp tục giới thiệu với bạn đọc những giá trị đích thực huyền vĩ của ngành phong thủy Lạc Việt. Phong thủy Lạc Việt, hay Địa lý Lạc Việt là một danh xưng, nhằm xác định bản chất cội nguồn của ngành phong thủy học Đông phương thuộc về nền văn minh Lạc Việt. Về nội hàm phong thủy Lạc Việt khác những di sản phong thủy Đông phương ghi nhận trong cổ thư chữ Hán. Tính khác biệt căn bản này ở nguyên lý căn để trong hệ thống phương pháp luận của ngành phong thủy học Đông phương. Đó là "Hậu thiên Lạc Việt (Đổi chỗ Tốn Khôn so với Hậu Thiên Văn Vương) và phối với Hà Đồ". So với nguyên lý căn để trong những di sản còn lại trong cổ thư chữ Hán, có nguyên lý căn để là "Hậu Thiên Văn Vương phối với Lạc Thư". Từ sự thay đổi của nguyên lý căn để hoàn toàn khác biệt này, Phong thủy Lạc Việt đã hệ thống hóa, một cách hoàn chỉnh và nhất quán toàn bộ ngành phong thủy học Đông phương từ những di sản còn lại bằng cổ thư chữ Hán. Điều này cũng khác hẳn những di sản phong thủy còn lại trong cổ thư chữ Hán, vốn rời rạc, không có tính hệ thống và đầy mâu thuẫn giữa các phương pháp - quen gọi là trường phái phong thủy trong cổ thư chữ Hán. Để bắt đầu xác định những vấn để liên quan đến Địa lý Lạc Việt, tôi lần lượt giới thiệu với bạn đọc quan tâm về lịch sử nhận thức được của phong thủy Đông phương. LỊCH SỬ PHONG THỦY ĐÔNG PHƯƠNG. Phương pháp ứng dụng của phong thủy đã tồn tại từ rất lâu trong văn minh Đông phương cổ. Những tư liệu và di vật khảo cổ lâu nhất tìm thấy được, mà người ta cho rằng mang dấu ấn của Phong thuỷ có từ 1500 năm trước Công Nguyên, qua những di vật khảo cổ tìm thấy ở Ân Khư - Thủ đô của nhà Hạ Ân trong lịch sử cổ đại Trung Hoa (*). Nhưng lý thuyết và phương pháp ứng dụng thực sự lưu truyền quan bản văn chữ Hán thì lại gần 2000 năm sau mới xuất hiện. Cuốn sách cổ nhất được ghi nhận của Quách Phác đời Tấn, 200 năm sau CN, có tựa là “Táng thư”. Sách này để cập tới một số khái niệm liên quan đến phong thủy như "khí", long mạch, các cuộc đất và đề cập đến sự ảnh hưởng của mộ phần với cuộc sống của người thân. Đến thế kỷ thứ V sau CN, vào đời nhà Đường, Ngô Cảnh Loan được coi là người sáng lập trường phái Loan đầu trong ngành phong thủy được coi là của Trung Hoa. Nội dung của trường phái này mô tả mối liên hệ giữa cảnh quan môi trường tác động tới ngôi gia và đưa ra phương pháp ứng dụng. Cũng vào đời , sau Ngô Cảnh Loan, có Triệu Cửu Phong, Dương Quân Tùng được coi là người phát minh ra trường phái Dương trạch Tam yếu. Nội dung của trường phái này mô tả ba yếu tố căn bản trong cấu trúc nhà ở, là :Hướng và vị trí tọa của cổng, cửa và bếp. Đến cuối đời Minh Thanh, vào thế kỷ XVII sau CN có Tăng Minh Hồng được coi là người sáng lập ra phái Huyền không. Nội dung của trường phái này mô tả những đại lượng được coi là các sao trên trời ảnh hưởng đến ngôi gia theo thời gian. Đến cuối đời Thanh, đầu Trung Hoa Dân Quốc - cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, có Thẩm trức Nhưng tiếp tục công bố những phát hiện về phương pháp ứng dụng của phái Huyền không và được coi như là người có công đóng góp lớn nhất cho trường phái này ở lịch sử hiện đại. Riêng trường phái gọi là Bát trạch, vốn là trường phái phổ biến nhất trong phong thủy, được coi là phá minh của Lục Dận vào thế kỷ thứ II trước CN. Trường phái này cho rằng hướng nhà có ảnh hưởng lớn nhất theo phong thủy. Từ đó về sau, những phương pháp ứng dụng phong thuỷ trong xây dựng nhà ở, dinh thự và cả phương pháp chôn cất với mục đích làm phát vượng cho dòng tộc đời sau (Âm trạch), tiếp tục xuất hiện và nhiều nhất vào khoảng thời Đường Tống. Những phương pháp này - chủ yếu là dùng trong Dương Trạch - gần như khác nhau và xuất hiện ở những thời điểm khác nhau, nên người ta cho rằng nó thuộc về những trường phái khác nhau. Ngoài những sách vở chính thống thì phong thuỷ còn được lưu truyền một số phương pháp có tính bí truyền và chỉ truyền miệng trong dân gian, qua các giang hồ thuật sĩ. Phong thuỷ cũng như Tử Vi, Bốc Dịch ....chỉ là những phương pháp ứng dụng với phương pháp luận của thuyết Âm Dương Ngũ hành. Bản thân lý thuyết này đã thất truyền và rất mơ hồ, trí thức hiện đại không hiểu được những thuật ngữ, khái niệm về những thực tại mà nó phản ánh. Bởi vậy – chính vì tính mơ hồ và thất truyền ấy – nên một thời rất dài khi tiếp xúc với nền văn minh Phương Tây, khoa Phong thuỷ đã bị liệt vào loại “mê tín dị đoan”. Mặc dù hiệu quả của nó trên thực tế chính là nguyên nhân để nó tồn tại trải hàng ngàn năm trong xã hội Đông phương. Hiệu quả thực tế trải hàng ngàn năm và tính khách quan, tính qui luật với khả năng tiên tri của phương pháp phong thuỷ đã chứng tỏ một thực tại được nhân thức, tổng hợp thành một hệ thống lý thuyết và tạo ra một phương pháp ứng dụng của nó. LỊCH SỬ PHONG THUỶ LẠC VIỆT Lịch sử của dân tộc Việt trải gần 5000 năm văn hiến, một thời huyền vĩ ở miền nam sông Dương Tử. Người Việt tự hào là giòng dõi của Cha Rồng - biểu tượng của sức mạnh vũ trụ - và Mẹ Tiên - biểu tượng của trí tuệ siêu việt. Trí tuệ vũ trụ này chính là nội dung của danh xưng văn hiến Việt. Cùng với nền văn minh cổ đại huyền vĩ khác là văn minh Ai Cập, nền văn hiến huyền vĩ của dân tộc Việt cũng bị sụp đổ ở thế kỷ thứ III trước CN ở bờ Nam sông Dương tử. May mắn cho văn minh Ai Cập đã để lại những chứng tích cho sự tồn tại của nó. Đó chính là những kỳ quan của thế giới hiện nay. Một trong nhữg di sản kỳ vĩ đó là Kim Tự tháp, mà cho đến ngày nay, trí thực hiện đại đầy tự hào vẫn còn phải bàng hoàng chiêm ngưỡng. Nhưng văn minh Việt khi sụp đổ chỉ để lại những giá trị văn hoá phi vật thể, trong nền văn minh Đông phương kỳ bí đến huyền vĩ mà cho đến nay người ta cũng không thể hiểu nổi bản chất đích thực của nó. Một trong những sự kỳ bí huyến vĩ trải hàng thiên niên kỷ cho đến bây giờ, chính là phương pháp ứng dụng trong Phong Thuỷ. Khi nghiên cứu về Phong thuỷ, những nhà nghiên cứu lịch sử Phong thuỷ đều thống nhất cho rằng: Phương pháp ứng dụng trong Phong thuỷ thuộc về văn minh Hoa Hạ cổ. Căn cứ vào thời điểm xuất hiện khác nhau trong thời gian lịch sử của văn minh Hán, của các phương pháp ứng dụng khác nhau trong phương pháp phong thuỷ mà họ gọi là trường phái. Nhưng trên cơ sở những nghiên cứu mới nhất theo tiêu chí khoa học hiện đại thì không thể nào có với một đối tượng duy nhất là con người và cùng một phương pháp luận của thuyết Âm Dương Ngũ hành (*)- mà lại có những phương pháp khác nhau không liên quan đến nhau và đôi khi mâu thuẫn trong phương pháp ứng dụng. Một phương pháp ứng dụng với phương pháp luận giải thích nó phải là hệ quả của một học thuyết là cơ sở của phương pháp luận của nó. Thuyết Âm Dương Ngũ hành cho đến tận ngày nay vẫn rất mơ hồ qua các cổ thư chữ Hán và không một triều đại nào trong lịch sử văn minh Trung Hoa coi thuyết Âm Dương Ngũ hành là một học thuyết chính thống. Bởi vậy, ngày nay - mặc dù những bản văn cổ nhất còn lưu giữ về môn phong thủy hoàn toàn viết bằng chữ Hán, nhưng đó không phải là bằng chứng cho môn Phong thủy có cội nguồn từ văn minh Hán. Đó chỉ là việc chuyển ngữ từ một nền văn minh đã sụp đổ trải hàng ngàn năm sang văn hóa Hán. Một đế chế thống nhất phải thống nhất về ngôn ngữ và văn tự. Đây chính là nguyên nhân để những tri thức phi Hán muốn lưu truyền trong đế chế Hán phải chuyển ngữ sang ngôn ngữ và văn tự Hán. Nền văn minh Hán từ hàng ngàn năm trước cho đến tận ngày nay vẫn không hề có một tri thức nền tảng là cơ sở hình thành các phương pháp ứng dụng thuộc lý học Đông phương với phương pháp luận của thuyết Âm Dương Ngũ hành. Do đó, điều này chỉ có thể giải thích một cách hợp lý rằng: Phong thuỷ chính là một phương pháp ứng dụng nhất quán và là hệ quả của một tri thức về thiên nhiên, cuộc sống, vũ trụ và con người được lý thuyết hoá trong thuyết Âm Dương Ngũ hành . Một học thuyết nhất quán và hoàn chỉnh . Học thuyết này đã thất truyền khi văn minh Lạc Việt bị sụp đổ ở miền nam sông Dương tử. Những giá trị của nến văn minh này bị tan tác và lưu truyền trong dân gian. Chúng lần lượt bị Hán hoá và được công bố tuỳ từng thời điểm, sau khi văn minh Việt bị sụp đổ trải hàng ngàn năm. Cách giải thích này với thực tại trong ứng dụng phong thuỷ chỉ có đối tượng duy nhất và phương pháp luận duy nhất đã chứng tỏ rằng: Bộ môn phong thuỷ này không thể thuộc về nền văn minh Hán, mà thuộc về nền văn hiến kỳ vĩ của người Lạc Việt và là một phương pháp nhất quán, hoàn chỉnh. Những phương pháp riêng phần gọi là trường phái trong văn minh Hán, thực chất là sự ứng dụng những yếu tố tương tác khác nhau qua những ứng dụng cụ thể khác nhau do tính chất tương tác khác nhau. Phong thủy Lạc Việt không phải là một trường phái bên cạnh những ý tưởng về "trường phái phongv thủy" theo quan niệm phổ biến hiện nay. Mà Phong thủy Lạc Việt là sự minh chứng tiếp tục và khẳng định một quan niệm về nguyên lý học thuật cổ Đông phương được ứng dụng trong môn Phong Thủy. Khởi nguyên của học thuật phong thuỷ từ nên văn hiến Việt chính là sự tổng hợp của các yếu tố tương tác này. NỘI DUNG PHONG THUỶ LẠC VIỆT 1) Sự thống nhất các phương pháp trong Phong thuỷ Lạc Việt. Nội dung ứng dụng của Phong thủy Lạc Việt về căn bản không khác các phương pháp ứng dụng rời rạc, từng phần còn lưu truyền lại trong các cổ thư chữ Hán của Phong thuỷ (Mà các nhà nghiên cứu quen gọi là trường phái). Điều khác nhau ở đây là: 1) Phong Thuỷ Lạc Việt xuất phát từ nguyên lý căn để Hậu Thiên Lạc Việt phối Hà Đồ. Đây chính là nguyên lý nền tảng của Phong thuỷ Lạc Việt để xác định và thống nhất mọi phương pháp ứng dụng trong Phong thuỷ Lạc Việt. 2) Tất cả các phương pháp ứng dụng trong Phong Thuỷ rời rạc từ cổ thư chữ Hán còn lưu lại và xuất hiện trong văn hoá Hán vào những thời điểm khác nhau - quen gọi là trường phái - như: Hình lý khí (Loan đầu); Dương trạch; Bát trạch; Huyền không và rất nhiều sách vở tản mát khác ...đều không phải là những yếu tố riêng phần, mà là những yếu tố tương tác căn bản trong Phong thuỷ Lạc Việt để quán xét một đối tương duy nhất của nó. Những yếu tố tương tác này thống nhất trong một nguyên lý duy nhất: Hậu Thiên Lạc Việt phối Hà Đồ. 3) Điều quan trọng là Phong thuỷ Lạc Việt là một hệ thống nhất quán với nguyên lý căn để của nó và mọi hiện tượng được giải thích bằng nguyên lý căn để này -Hậu thiên Lạc Việt phối Hà Đồ. Hay nói một cách khác: Phong thuỷ Lạc Việt là một phương pháp ứng dụng có phương pháp luận xuất phát từ một lý thuyết và nguyên lý hoàn chỉnh, nhất quán, giải thích mọi vấn đề liên quan đến nó một cách hợp lý, có tính qui luật, tính khách quan và khả năng tiên tri. Nhưng về phương pháp ứng dụng Phong thuỷ Lạc Việt không hề phủ định tri thức phong thuỷ truyền thống mà chỉ là sự hiệu chỉnh một số vấn đề cụ thể liên quan và thống nhất với nguyên lý của nó. Thí dụ: Người mạng Khảm theo sách Hán thì Sinh Khí ở Đông Nam và Tuyệt Mạng ở Tây Nam. Nay theo nguyên lý Hậu thiên Lạc Việt (Đổi chỗ Tốn - Khôn) thì Đông Nam phạm Tuyệt Mạng và Tây Nam là Sinh Khí. Mọi tương quan giữa bát quái với quái bản mệnh vẫn không đổi. Để có một hình ảnh so sánh cụ thể: chúng ta có thể lấy lá số cho một nguơì từ trình Tử Vi Lạc Việt và một lá số lấy từ trình tử vi phi Lạc Việt để so sánh thì hoàn toàn không khác nhau là bao nhiêu. Phương pháp luận đoán không thay đổi. Mọi vấn nạn của Tử Vi như sai giờ, đoán dở, vv...vẫn như nhau trên hai lá số. Phương pháp luận và các ứng dụng về tương quan các sao khôing thay đổi . Chỉ khi Ngũ hành bản mệnh, hoặc rơi vào trường hợp tương tác với các sao là tính tương tác sẽ gia giảm. 2) Bản chất của Phong thuỷ Lạc Việt Từ hàng ngàn năm trôi qua, Phong thuỷ là một bộ môn cấu thành nền văn hóa Đông phương và góp phần vào sự kỳ bí huyền vĩ của nền văn hóa này. Cho đến gần cuối thể kỷ 20. khi tri thức khoa học chưa thực sự phát triển thì môn Phong thuỷ vẫn còn bị coi là mê tín dị đoan. Nhưng đến những năm cuối của thế kỷ trước thì Phong thuỷ được coi là đối tượng nghiên cứu khoa học. Có thể nói hầu hết các cuờng quốc trên thế giới đều có các bộ phận nghiên cứu về Phong thuỷ. Thậm chí ở Đức – theo nguồn tin trên Tuổi Trẻ Online còn có cả Viện nghiên cứu Phong thủy. Mặc dù vậy, cho đến ngày nay các nhà khoa học chưa tìm ra được bản chất của các phương pháp ứng dụng Phong Thuỷ phản ánh một thực tại nào? Cho đến tận ngày hôm nay, tất cảc các phong thuỷ gia vẫn chỉ là những người ứng dụng phương pháp có sẵn. Họ hoàn toàn không hiểu được vì sao lại có phương pháp đó. Đây lại là một bằng chứng nữa chứng tỏ rằng: Môn Phong thuỷ không thể thuộc về văn minh Hoa Hạ. Bởi vì, khi chính nền văn minh Hoa Hạ cũng không giải thích được những yếu tố có tính nguyên lý của nó và một thực tại mà nó đang ứng dụng. Bản thân thuyết Âm Dương Ngũ hành trong các bản văn chữ Hán cổ còn truyền lại cũng không hề ghi nhận tính hoàn chỉnh của thuyết Âm Dương Ngũ hành. Cho đến ngày hôm nay, khi các bạn đang đọc những hàng chữ này thì vấn đề thuyết Âm Dương Ngũ hành có phải là một học thuyết hoàn chỉnh và nhất quán hay không vẫn còn là một vấn đề tranh luận về mặt lý thuyết. Trong khi đó thì môn phong thuỷ lại ứng dụng một cách hoàn hảo phương pháp luận của thuyết Âm Dương Ngũ hành như là một học thuyết hoàn chỉnh. Thật là vô lý khi hệ quả lại có trước tiên đề. Xuất phát từ một quan điểm nhất quán: Nền Lý học Đông phương thuộc về văn minh Lạc Việt, một thời kỳ vĩ ở nam Dương Tử - tôi cho rằng: Bản chất của Phong thuỷ Lạc Việt là sự ứng dụng những yếu tố tương tác trên cơ sở phương pháp luận của thuyết Âm Dương Ngũ hành là một học thuyết nhất quán và hoàn chỉnh. Nguyên lý căn để được ứng dụng trong phong thuỷ Lạc Việt chính là Hậu Thiên Lạc Việt phối Hà đồ. KẾT LUẬN Phong thuỷ là một phương pháp ứng dụng có hiệu quả trong văn minh Đông phương, trải hàng ngàn năm. Đó là một thực tại không thể phủ nhận. Dù người ta nhìn nó với góc độ nào và kết luận nó là cái gì. Trước sự tiến bộ ngày càng nhanh về tri thức khoa học hiện đại và nhất là khoa học lý thuyết. Những giá trị tồn tại trên thực tế của văn minh Đông phương đã được các khoa học gia hàng đầu nhìn nhận như một đối tượng khoa học nghiêm túc. Phong thuỷ Lạc Việt chính là một hướng nghiên cứu phong thuỷ nhằm tìm về cội nguồn đích thực và những thực tại còn chưa biết ẩn chứa đằng sau hiệu quả thực tế của nó với những luận cứ đã trình bày ở trên. Đó là lý do chúng tôi mở chuyên đề phong thuỷ Lạc Việt trên website Lý học Đông phương để có điều kiện thuận lợi cho hướng nghiên cứu này và đào tạo tầng lớp kế thừa nhằm gìn giữ những gía trị học thuật thuộc văn hóa truyền thống Lạc Việt. Chúng tôi rất hy vọng được sự quan tâm của quí vị học giả và những Phong thuỷ gia cùng tham gia nghiên cứu mở các bài viết trong mục Phong Thuỷ Lạc Việt, để chứng minh những giá trị đích thực của một thực tại còn huyến vĩ trong trí thức nhân loại hiện đại. Khi mà những hiệu quả thực tế của phương pháp ứng dụng trong phong thuỷ trải hàng ngàn năm đã chứng tỏ một thực tại mà nhân loại chưa biết đến ẩn chưa đàng sau phương pháp ứng dụng của nó. Trân trọng cảm ơn sự quan tâm của quí vị và anh chị em . Thiên Sứ ---------------- Chú thích: * Những di vật khảo cổ tìm được ở thủ Đô Ân Khư chỉ ghi nhận những dấu ấn mơ hồ liền quan đến Phong Thủy và được viết bằng văn khoa đẩu, một thứ văn tự không thuộc văn minh Hán. * Cho đến tận ngày hôm nay, những bản văn chứ Hán vẫn chưa hề chứng tỏ sự tồn tại một cách nhất quan của thuyết Âm Dương Ngũ hành.
    1 like
  2. 1 like
  3. Cung phu của cháu biểu hiện 1 sự trắc trỡ nhiều gian nan trước mặt ,trong cái xấu thì cũng có cái tốt bù trừ ... vì Cự Môn tại Tuất nếu không có Tuần thì cuộc đời của cháu phải trải qua nhiều đời chồng / có Tuần án ngữ tức là khó lập gia đình trong việc tiến tới hôn nhân có nhiều trắc trỡ , trong trường nầy có nhiều vấn đề nếu được như đây thì mới mong tránh khỏi nhiều lần lập gia đình ,nên lập gia đình thật muộn ; muộn cưới ; đi xa mà kết hôn hay lấy người phương xa ,nhưng dù sao đi nữa có hội đủ các điều kiện kể trên thì cuộc sống vợ chồng vẫn không mấy hạnh phúc viên mãn ,bất hòa hay xa cách nhau . Năm nay chưa thấy có sự kiện nào có thể đi đến hôn nhân còn nhiều ngăn cản ,may ra đến 3-4 nữa mới thấy có dịp lên xe hoa . chồng có dạng như sau ; người cao trung bình , mặt vuông vắn đầy đặn ,mắt lộ nước da hơi trắng người nở nang ,lưng dài tay chân ngắn , có khiếu ăn nói ,kể chuyện hay miệng rộng có lúm đồng tiền . số khá gỉa nhưng khong giàu to ,đường quan lộ cũng có danh chức thich hợp với những công việc như giảng dạy ,có khiếu ăn nói tài biện luận ,công danh trước nhỏ sau lớn nhưng phải chịu cảnh thay đổi nghiệp vụ hay cơ quan thuyên chuyển thường xuyên ít khi nào làm 1 nơi được lâu bền
    1 like
  4. 1 like
  5. Cháu có chắc ngày giờ sinh này có đúng chưa ? theo như lá số nầy thì người không thể thấp như thế .
    1 like
  6. Hi! Nhắc nhở nuhoangaicap chút về nghi lễ hoàng gia thôi! Cô gởi rồi con ah!
    1 like
  7. Mừng sinh nhật vui hạnh phúc thành công nối tiếp thành công ! chúc cả 2 thành viên vạn sự đều thành công an lành như ý !
    1 like
  8. góp ý cho chị: năm sau lên xe hoa, lấy chồng tuổi này cũng tốt cho chị, no gia đạo cũng ko đc trọn vẹn cho lắm vì 2 vợ chồng không hợp tính nhau, sau 1 trong 2 người có tình ngoại (khả năng là chị), vợ chồng có thể qua lại có con rồi mới cưới (có phải năm ngoái) tử tức: thạt không bít nói sao... có con nuôi hiểu thuận. Chị chờ bác haithienha nhé
    1 like
  9. Chúc mừng sinh nhật anh nhocchantrau, chúc anh luôn may mắn và thành công trong cuộc sống!
    1 like
  10. 1 like
  11. Muộn có con chỉ được 2 đứa ,con không thuận với cha mẹ sau lớn lên mà không được ở gần ,có đứa nên người có đứa ăn chơi lêu lỏng /Nên xa xứ mà ập nghiệp thì mới may mắn và tăng tuổi thọ .
    1 like
  12. Tôi cũng nhận thấy rằng: Từ nay đến hết 2012 thế giới còn nhiều loan lạc. Sự an bình của Việt Nam là cơ hội vươn lên.
    1 like
  13. ĐIều đáng lưu tâm nhất là nên học thật nhiều và cống hiến thật nhiều nhưng lại đòi hỏi thật ít thì nhiều họa sẽ tai qua nạn khỏi, đi tìm công lý là đi đòi vạ, đòi được vạ thì má đã mất chứ ko phải là sưng đâu. Lấy vợ muộn cho đỡ khổ, còn nếu xác định lấy sớm cho vui thì cũng được nhưng cố gắng xây nhà bằng bê tông, đồ trong nhà làm bằng sắt thép, gốm, vật liệu ko cháy để vợ nó có điên lên nó không đốt nhà sưởi ấm hay nướng thịt quay nhé.
    1 like
  14. Tính ong bướm, trăng gió, lấy ai cũng chẳng bền duyên, cần gì phải xem có hợp hay không hợp cho mệt người mất thì giờ ra. Quý cậu sau này sẽ được thăng quan phát tài nhưng điều tiếng và mệt mỏi chứ ko ăn sẵn được. Chuyện tiền bạc cứ an trí là thế, bòn mót của dân của nước được đồng nào (Tham nhũng ấy, hoặc gửi giá rổ hàng hóa ấy) thì cứ việc mua đất găm đấy, tiền bạc cắm cho ông bà già, bảo họ viết di trúc thừa kế cho, sau này yên tâm việc nhà cửa ruộng vườn, tiền bạc. Còn cái cũng ko phải ngại, chỉ ngại cái là không tìm được em nào ưng ý toại lòng như Trụ Vương gặp Đát Kỷ mà thuộc trường phái Đoàn Chính Thuần nước Đại Lý có bao nhiêu vợ và bao nhiêu con cũng không nhớ ấy.
    1 like
  15. Chữ ký nào vẽ rắn cũng ra tiền, lá số có mệnh giáp Tử Phủ lại thêm Khoa Lộc Ấn Tướng tại mệnh thì lo gì chuyện tiền bạc mua sắm này nọ. Nay bước vào vận Nhà - Xe thì ko phải lo quá làm gì. Chuyện sinh con gái nữa thì phải hỏi ý kiến quý phu nhân, sợ rằng năm sau hạnh phúc gia đình bất an. Nên chuẩn bị tâm lý trước để giàn sếp cho ổn thỏa. Nói đến cái chết thì chắc cũng được cái chết đàng hoàng. Sẽ có cái chết ở ngoài đường, phần nhiều là chết ở đường Thủy chứ ko phải đường Thổ. Chết cô độc, chết 1 mình, chết ở thế ko thể cứu vãn, có thể do bị ám sát. Có thể hưởng thọ 79 mùa xuân âm lịch.
    1 like
  16. Không xem của người khác khi chủ nhân không yêu cầu
    1 like
  17. Nên dùng chữ ký số 2, dù chữ ký nào thì cũng thấy Nhân viên thôi chứ không làm sếp được. Quý chị sẽ đạt được những mong ước ngắn hạn nếu dùng chữ số 2 và có mối quan hệ tốt hoặc rộng. Ước vọng dài hạn thì chắc còn xa quá, khó nói.
    1 like
  18. vợ - To, cao, đen, hôi tính tình nóng nảy trong người có nhiều nốt lạ. Ăn to nói lớn được cái vòng 1 to
    1 like
  19. Lời khuyên nên dùng chữ ký số 2, tránh được nét xuống của G. Chữ ký này nói lên luôn có một sự khởi đầu hoành tráng hoăc dự án rất to nhưng cuộc đời không đơn giản bởi tham vọng cao hơn sức lực thật của mình. Trung vận : có đoạn gãy có cơ hội rút kinh nghiệm cho ảo tưởng của mình. Hậu vận: Một lần nữa lóe sáng để duy trì cần có chút tâm đức nhưng vẫn xem là mình chưa đạt đỉnh cao! Vài dòng luận đoán! Đọc xem và tham khảo.
    1 like
  20. 1 like
  21. 1 like
  22. Kiếm tiền chắc chỉ đủ cho vợ tiêu thôi không thật giàu có được. dễ kiếm tiền nhưng vào tay này ra tay kia. Quan lộc thì tốt thông thoáng có quyền chức và oai vệ hô một câu nhiều người dạ nhưng thê tử thì hơi mệt đó
    1 like
  23. Làm ca sỹ, nhạc sỹ thì giàu có , nếu không đi khóc mướn cũng đủ tiền nuôi vợ con
    1 like
  24. 6 Cực quy ước : Càn - Khôn - Ly - Đoài và 2 cặp điên đảo dịch Cấn Chấn - Đoài Tốn
    1 like
  25. Bí ẩn chữ viết thời Hùng Vương Ông Vương Duy Trinh, Tổng đốc Thanh Hóa, phát hiện ra một văn bản là một bài thơ viết bằng thứ chữ lạ, vờn lên như ngọn lửa, gọi là hỏa tự. Văn bản chữ lạ này được phiên dịch ra chữ Hán và tựa đề bài thơ đó là “Mời trầu”, có nội dung ca ngợi tình yêu. Để chứng minh thời kỳ Hùng Vương đất nước ta có chữ Viết, thầy giáo Đỗ Văn Xuyền đã đến hàng trăm đền, đình, miếu để khảo cứu. Càng tìm hiểu, ông càng ngạc nhiên khi thấy khắp đất nước ta, có cả trăm đền, miếu thờ thầy giáo, học trò. Ông đã đi khắp các tỉnh, từ Đông Bắc sang Tây Bắc, đi hết miền Trung để mục sở thị các di tích, ghi chép lại, lập bản đồ mạng lưới dạy học thời Vua Hùng, trước khi người Hán sang xâm lược. Trong quá trình khảo cứu, tìm tư liệu, ông Xuyền may mắn tiếp cận được những tài liệu mà người Pháp thu thập trong cuộc tổng kiểm kê các di tích, làng xã vào năm 1938. Rồi các công trình như: Thần linh đất Việt, Các nữ thần Việt Nam, Các nữ tướng của Hai Bà Trưng… Ông Xuyền đã tìm thấy cả trăm di tích nói về thầy, trò, lớp học. Theo đó, mở đầu của nền giáo dục trước khi Hán xâm lược, là thời Hùng Vương thứ 6 và kết thúc là thời Hai Bà Trưng với thầy Đỗ Nam Tế, cô Tạ Cẩn Nương, thầy Lê Đạo, sư bà chùa Phúc Khánh… Có điều lạ là, vào thời kỳ đó, có rất nhiều cô giáo và học trò nữ, chứng tỏ, thời Hùng Vương, nam nữ rất bình quyền. Tại đền thờ Lỗ Công ở thôn Bồng Lai (Từ Liêm), còn một tấm bia cổ ghi rõ: Thầy giáo Lỗ Công dạy học ở Kinh Thành (Văn Lang). Học trò của thầy Lỗ Công là Hoàng Trụ, con của công chúa Mỵ Châu Hoa (con gái Hùng Đinh Vương, Vua Hùng 16). Hoàng Trụ biết chữ, về thôn Bồng Lai mở lớp, dạy học. Do có công với dân làng, nên dân làng lập đền thờ phụng. Bản đồ mạng lưới đền, miếu thờ thầy cô, học trò thời Hùng Vương do ông Xuyền lập. Sau khi phát hiện hàng trăm thầy, cô, học trò thời Hùng Vương (với ghi chép cụ thể, đầy đủ), thầy giáo Đỗ Văn Xuyền khẳng định rằng, thời Hùng Vương, đất nước ta đã có chữ viết. Nếu không có chữ, chẳng lẽ hệ thống giáo dục của thời kỳ này lại dạy chay? Có tài liệu của người Hán viết rằng, năm 178, Sĩ Nhiếp làm Thái thú đất Giao Châu, thấy vùng Giao Châu không có chữ viết, nên đưa chữ Hán vào dạy. Tuy nhiên, lịch sử từ nước ta khẳng định rằng, Sĩ Nhiếp đã đốt sạch tài liệu, sách vở, cấm người dân học chữ Việt, bắt buộc phải học chữ Hán. Hàng ngàn năm Bắc thuộc, chữ Việt mai một rồi biến mất cũng là điều dễ hiểu. Chữ cổ trên trống đồng trưng bày ở Đền Hùng. Càng tìm hiểu, thầy giáo Đỗ Văn Xuyền càng tin rằng người Việt từng có chữ viết riêng. Người Lào, người Campuchia, thậm chí các dân tộc thiểu số quanh vùng còn có ngôn ngữ, chữ viết riêng, thì không lẽ gì người Việt lại không có chữ. Mang công trình ghi chép hành trình đi tìm các lớp học thời Hùng Vương gặp GS. Hà Văn Tấn để trình bày khát vọng muốn đi tìm chữ Việt cổ, ông Xuyền đã bị ấn tượng mạnh. Khi đó, GS. Hà Văn Tấn đã nằm liệt, không cử động được nữa. GS. Tấn cứ nắm tay ông Xuyền khóc không ngừng. GS. Tấn đã dành cả đời để nghiên cứu chữ Việt cổ, song công trình nghiên cứu còn dang dở thì ông đã nằm liệt, không tiếp tục được nữa. Sau này, ông Xuyền tiếp tục gặp GS. Lê Trọng Khánh, người cũng dành gần như cả cuộc đời để nghiên cứu chữ Việt cổ. Khi đó, GS Khánh đã 86 tuổi, mắt mờ, chân yếu. Ông Khánh khóc to lắm, rồi cứ nắm tay ông Xuyền dặn dò, động viên tiếp tục công việc nghiên cứu còn dang dở của ông. Chữ cổ trên bãi đá Sapa. Ảnh nhân vật cung cấp. Sau khi gặp hai vị giáo sư hàng đầu về chữ cổ, niềm khao khát giải mã chữ Việt cổ của thầy giáo Đỗ Văn Xuyền lại càng mãnh liệt. Nhưng trước hết, để giải mã được chữ Việt cổ, thì phải có trong tay nhiều chữ cổ. Trong một bản Ngọc phả từ thời vua Trần Thái tông ghi: “Nghiêu thế, Việt Thường thị kiến thiên tuế thần quy, bối hữu Khoa đẩu”. Nghĩa là, thời vua Nghiêu nước Việt Thường tặng rùa thần nghìn tuổi, lưng có chữ Khoa đẩu. Theo cổ sử Trung Quốc, thời vua Nghiêu (năm 2357 TCN), sứ giả Việt Thường đến kinh đô tại Bình Dương (phía bắc sông Hoàng Hà - tỉnh Sơn Tây ngày nay) dâng thần quy, vuông hơn ba thước, trên lưng có khắc chữ Khoa đẩu ghi việc từ khi trời đất mới mở trở về sau. Vua Nghiêu sai chép lấy gọi là Quy lịch. Ông Xuyền viết chữ Việt cổ cho tác giả xem. Trong tài liệu “Sự hình thành và phát triển chữ Việt cổ”, do Viện Văn hóa in năm 1986, GS. Lê Trọng Khánh đã dẫn chứng: Nhiều dân tộc trong Bách Việt đã dùng chữ Khoa đẩu thời Phục Hy - Thần Nông để ghi tiếng dân tộc mình. Riêng ở Việt Nam, chữ Khoa đẩu được dùng lâu hơn. Mãi đến đời Sĩ Nhiếp vẫn còn, tuy Sĩ Nhiếp cấm đoán nhưng nhân dân ta vẫn dùng. Nhiều nhà nghiên cứu, từ Hà Văn Tấn, Lê Trọng Khánh, Bùi Văn Nguyên, Trần Ngọc Thêm... trước đó là Vương Duy Trinh, Trương Vĩnh Ký, cả những nhà nghiên cứu nước ngoài như Anh, Tiệp Khắc, Mỹ, Pháp, nhất là Trung Quốc: Lục Lưu, Hứa Thân, Trịnh Tiểu... đều khẳng định Việt Nam xưa đã có chữ viết riêng. Chữ Việt cổ được phát hiện ngày một nhiều trên nhiều hiện vật khảo cổ, được khắc trên đá, trên xương thú, trên đồ đồng như vũ khí, trống đồng cổ và phân bố rộng khắp lưu vực có người Việt sinh sống. Tiêu biểu là 28 ký tự cổ được phát hiện trên 4 chiếc qua đồng Đông Sơn. Các nhà khoa học cho rằng, những ký tự này là chữ Việt cổ, nhưng chưa giải mã được. Hễ nghe thông tin ở đâu phát hiện ký tự lạ, cổ, ông Xuyền lập tức lên đường tìm hiểu, bất kể ở trên rừng hay dưới biển, ở ngoài Bắc hay trong Nam và dù trời mưa nắng hay bão giông. Bản thảo chữ cổ do ông Vương Duy Trinh phát hiện. Do các chuyến đi đều dài ngày, đi xa, mà tiền lương hưu ít ỏi, nên ông giáo già Đỗ Văn Xuyền đã thực hiện tiết kiệm tối đa. Mỗi chuyến đi, ông đều chuẩn bị võng, bạt, bi đông đựng nước, mì tôm, bánh mì. Tối ông không vào nhà nghỉ mà mắc võng, dựng bạt ngủ ven rừng, bên đường, rồi nhai bánh mì, mì tôm sống cầm hơi. Hàng chục chuyến hành trình vất vả, kéo dài có khi đến cả tháng, nhưng thứ chữ ông thu thập phần lớn chỉ là chữ Chăm, chữ Lào, chữ Thái cổ. Đọc tài liệu về ông Phạm Thận Duật, ông Xuyền như bắt được vàng. Phạm Thận Duật là quan triều Nguyễn, từng làm Tri châu ở Tây Bắc, là một nhà văn hóa lớn của dân tộc. Cuối thế kỷ 19, ông tìm thấy chữ Việt cổ. Theo mô tả, thứ chữ này được viết theo chiều ngang, bộ chữ gồm 18 thể chữ cái theo vần bằng, 18 thể chữ cái theo vần trắc. Thứ chữ này khác với chữ Thái cổ, khác chữ Hán. Tuy nhiên, công trình nghiên cứu, giải mã chữ Việt cổ của ông Duật còn dang dở, thì bị thực dân Pháp bắt. Ông bị đày đến Tahiti. Ông bị chết trên đường đi và thực dân Pháp ném xác ông xuống biển. Cùng thời gian đó, ông Xuyền tiếp cận được các tài liệu liên quan đến ông Vương Duy Trinh, Tổng đốc Thanh Hóa. Năm 1903, ông này đã phát hiện ra một văn bản là một bài thơ viết bằng thứ chữ lạ, vờn lên như ngọn lửa, gọi là hỏa tự. Văn bản chữ lạ này được phiên dịch ra chữ Hán và tựa đề bài thơ đó là “Mời trầu”, có nội dung ca ngợi tình yêu. Ông Vương Duy Trinh khẳng định đây là chữ của tổ tiên thời Vua Hùng, vẫn còn được lưu truyền cho hậu thế, nhưng chỉ ở một bộ phận xã hội nhỏ. Ông viết: “Thập châu là vùng biên viễn, nhân dân ta còn lưu giữ được thứ chữ này. Các nơi khác, Sĩ Nhiếp bắt bỏ hết để học chữ Hán". Nắm được điều đó, ông Xuyền đã chuyển hướng tìm kiếm chữ cổ lên vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc. Cứ ở đâu có chữ lạ, chữ cổ, chữ không ai biết, không ai đọc được, là ông nghiên cứu, sưu tầm, so sánh. Theo VTC Người đọc thông viết thạo chữ Việt cổ! Sau 50 năm nghiên cứu chữ Việt cổ, thời đại Hùng Vương, ông giáo già Đỗ Văn Xuyền giờ đã đọc thông, viết thạo chữ Việt cổ. Ông có thể nói luôn cả tiếng của người Việt cổ xưa. Ông Xuyền nói vui rằng, nếu có phép thần thông quảng đại, hoặc cỗ máy vượt thời gian, đưa ông về thời Đông Sơn, ông có thể dễ dàng giao tiếp với người Việt thời kỳ đó. Giờ đây, thầy giáo Đỗ Văn Xuyền, với bút danh Khánh Hoài, vẫn sáng tác thường xuyên. Bản thảo truyện ngắn, công trình nghiên cứu lịch sử, văn hóa của ông xếp thành chồng. Tuy nhiên, không ai đọc được những bản thảo đó ngoài ông, vì chúng được viết bằng chữ… Việt cổ. Tôi đưa cuốn sổ cho ông Xuyền, nhờ ông viết mấy chữ tặng tôi. Chẳng cần suy nghĩ, ông cầm bút viết nhanh như viết chữ Quốc ngữ. Ông Xuyền viết tặng phóng viên bằng chữ Việt cổ. Cho đến lúc này, một số người vẫn coi việc làm của ông là điên rồ, rỗi hơi, bởi dù thứ chữ Việt cổ đó có được khôi phục lại, cũng chẳng ai dùng nữa, vì đã có chữ Quốc ngữ rồi. Ông Xuyền thì không nghĩ như vậy. Với ông, chỉ cần trả lời được câu hỏi: Thời kỳ Hùng Vương tổ tiên chúng ta có chữ hay không, đã là một thành công ngoài sức tưởng tượng của ông rồi. Với việc chứng minh thời kỳ đó có chữ viết, ông Xuyền càng tự hào về tổ tiên mình, là những người có trình độ, tri thức cao, chứ không phải là những người tiền sử, đóng khố, ở trần như sử sách vẫn nói. Giải mã chữ Việt cổ giúp công tác nghiên cứu lịch sử, khảo cổ thời kỳ Hùng Vương thuận lợi hơn. Các nhà khoa học phương Tây đã làm được một việc vĩ đại, đó là giải mã được chữ viết đã thất truyền của người Ai Cập cổ đại. Dù xã hội hiện đại không dùng thứ chữ đó phục vụ cuộc sống, nhưng nó là phương tiện cực kỳ thuận lợi để các nhà khoa học nghiên cứu lịch sử. Có vô vàn những tài liệu bí ẩn thời Ai Cập, mà nếu không giải mã được chữ viết, sẽ bế tắc trong việc nghiên cứu. Nghĩ vậy, nên ông Xuyền đã dày công tìm cách giải mã loại chữ Việt cổ thất truyền này. Ông giáo già Đỗ Văn Xuyền bảo rằng, tài năng khảo cổ, lịch sử, nhất là chữ Việt cổ của ông, không thể so với những “núi Thái Sơn” như Hà Văn Tấn, Lê Trọng Khánh, Phạm Thận Duật, Vương Duy Trinh… Thế nhưng, ông lại có may mắn hơn các vị tiền bối, là được tiếp thu những công trình nghiên cứu vĩ đại của người đi trước, vô tình có được nhiều tài liệu quý và may mắn khi tìm ra được phương pháp giải mã loại chữ cổ này. Rất nhiều tài liệu cổ còn lưu giữ ở vùng sâu, vùng xa chờ các nhà khoa học giải mã. Sau khi sưu tầm đầy đủ ký tự chữ Việt cổ, nắm được giọng nói, ngôn ngữ của người cổ, ông Xuyền nghiên cứu ngôn ngữ, chữ viết tuần tự theo thời gian từ thời hiện đại trở về trước. Ông đã vô cùng ngạc nhiên khi đọc được một tài liệu cổ, mà nhà truyền giáo Alexandre de Rodes đã viết: “Đối với tôi, người dạy tài tình nhất là một thiếu niên bản xứ. Trong vòng 3 tuần, anh ta đã hướng dẫn cho tôi tất cả các thanh của ngôn ngữ ấy và cách đọc các từ”. Như vậy, rõ ràng một thiếu niên bản xứ đã dạy cho nhà truyền giáo người Bồ Đào Nha này một loại ngôn ngữ tượng thanh. Ông ta chỉ học có 3 tuần là biết cách đọc các từ, thay vì phải học ít nhất 10 năm như chữ Hán. Ông Xuyền tin rằng, thứ chữ mà người thanh niên đó dạy nhà truyền giáo Bồ Đào Nha là chữ Việt cổ! Điều đó có nghĩa, những nhà truyền giáo người Bồ Đào Nha đã tiếp thu bộ chữ cổ của người Việt, và có công Latin hóa nó, để ra được chữ Quốc ngữ. Những văn bản Quốc ngữ thời kỳ đầu rất khó đọc, nhưng ông Xuyền có thể đọc dễ dàng. Ngoài ra, có một tài liệu lưu ở Tòa thánh La Mã. Sau khi chép lại nhiều trang giấy tập viết chữ Quốc ngữ, đoạn cuối, chủ nhân của tập tài liệu viết thế này: “Đây là tài liệu tập chuyển thể từ chữ Việt cổ sang chữ Quốc ngữ (năm 1625 – tài liệu)”. Nghĩ theo hướng đó, ông Xuyền lục tìm những tài liệu liên quan đến các nhà truyền giáo, đến chữ Quốc ngữ vào thế kỷ 17, 18. Ông Xuyền giở một đống tài liệu phôtô các văn bản chữ Quốc ngữ từ cách nay vài chục năm, cho đến 350 năm trước cho tôi xem. Những văn bản này còn lưu lại rất nhiều trong các thư viện ở Lisbon, Pari, Roma... Tôi quả thực hết sức ngạc nhiên về những văn bản này. Những văn bản từ đầu thế kỷ 20 còn đọc được khá trôi trảy, nhưng ngược đến thế kỷ 19, tương đối khó đọc, và nhiều chữ không đọc nổi. Lần giở các văn bản chữ Quốc ngữ của thế kỷ 17 thì gần như không đọc được. Tôi chỉ có thể đọc được một vài chữ trong một văn bản cả ngàn chữ vào thời kỳ mà chữ Quốc ngữ mới ra đời. Giờ đây, ông giáo Xuyền ít sử dụng chữ Quốc ngữ, mà toàn sử dụng chữ Việt cổ vào công việc ghi chép, sáng tác. Theo ông Xuyền, vì ông đã nghiên cứu chữ Việt cổ rất lâu rồi, 50 năm nay rồi, và đã hiểu được tương đối, nên khi cầm những văn bản chữ Quốc ngữ thời kỳ đầu, trong khi các nhà khoa học chưa chắc đã đọc được, thì ông đọc vanh vách, không bị vấp bất cứ một chữ nào. Điều ngạc nhiên mà ông Xuyền nhận thấy, đó là nhiều ký tự mà các nhà truyền giáo người Bồ Đào Nha sử dụng trong những buổi đầu tương đối giống với chữ Việt cổ. Càng về sau này, qua cả trăm lần cải tiến, thay đổi, những chữ tương đối giống chữ Việt cổ đã dần biến mất và mất hẳn bóng dáng trong các văn bản Quốc ngữ ngày nay. Mặc dù, về hình dáng, chữ Việt cổ không còn nét nào giống chữ Quốc ngữ, nhưng lại cùng có cấu trúc ghép vần. Theo ông Xuyền, bí quyết để giải mã được chữ Việt cổ, là phải hiểu được ngôn ngữ thời xưa và nắm được quy luật thay đổi vị trí nguyên âm theo đạo lý người Việt (ví dụ từ “trời” nguyên âm đặt phía trên, từ “đất” nguyên âm đặt phía dưới. Tương tự các từ “cha, con” nguyên âm đặt phía trước hoặc sau…). Khi đã nắm được quy luật ghép vần, hiểu được ngôn ngữ Việt cổ, thì chỉ cần học chưa đầy 10 ngày, có thể đọc, viết được loại chữ này! Con rùa đá có khắc chữ Việt cổ đặt tại miếu Hai Cô. Ảnh nhân vật cung cấp. Khi đã giải mã được chữ Việt cổ, ông Xuyền có thể dễ dàng phiên dịch từ chữ Việt cổ sang chữ Quốc ngữ và ngược lại. Chữ Việt cổ không ghi âm được phần lớn ngôn ngữ hiện đại, nhưng khi chuyển ngôn ngữ hiện đại về ngôn ngữ Việt cổ, thì việc dịch diễn ra dễ dàng. Từ ngày giải mã được loại chữ mà ông Xuyền khẳng định là chữ Việt cổ, chính quyền, nhân dân Việt Trì đã góp công sức, tiền bạc xây dựng lại ngôi miếu Hai Cô. Các hoành phi, câu đối đều được viết bằng thứ chữ Việt cổ do ông Xuyền thực hiện. Mới đây, Trung tâm Văn hóa người cao tuổi Việt Nam đã dâng tặng ngôi miếu một “quy thần” bằng đá, lưng khắc chữ Việt cổ. Rùa đá này biểu thượng cho quy thần mà Hùng Quốc Vương dâng tặng cho Vua Nghiêu vào năm 2357 trước công nguyên. Có thể nói, sự tồn tại của chữ Việt cổ là một sự thật, đã được các học giả trong và ngoài nước thừa nhận. Đó là niềm tự hào dân tộc. Việc giải mã được chữ Việt cổ, giúp chúng ta và thế hệ sau sẽ có điều kiện tốt hơn trong việc nghiên cứu lịch sử nước nhà. Công trình giải mã chữ Việt cổ của nhà giáo già Đỗ Văn Xuyền đã đúng hướng hay chưa, đã thành công được mức độ nào, cần có rất nhiều sự đầu tư của các nhà khoa học và các cuộc hội thảo mang tầm quốc gia, thậm chí là quốc tế. Theo VTC
    1 like
  26. Hi hi, có khi nào Sư phụ cùng với Bác Xuyền mở lớp dạy chữ Việt cổ thì cho em theo học với nhé!!
    1 like
  27. những tháng đầu năm chưa được cái may tới ,có thể từ tháng 5 âl trở đi ,tháng 04 còn xui lắm nha ! ,tháng 05 âl nên nhẫn nhịn nếu không co sự tranh cãi đôi co ,không thấy han liên quan đến con cái ,chỉ thấy những tháng đầu năm có hao hụt tốn kém nhưng không nhiều lắm .
    1 like
  28. Viết thế này thì annguyen0905 hiểu sao được nhỉ? Mất net chăng? Tiểu Phương thấy đây là mẫu người sống thiên về tình cảm, có thể nói là lụy tình nhưng không si tình. Khá thông minh, học nhanh, khéo tay, nhưng ý chí và bản lĩnh không được mạnh mẽ, thiếu quyết đoán. Vợ sắc sảo, khôn ngoan. Mẫu người này là mẫu nên kết làm bạn bởi trọng tình nghĩa. Dễ bị người khác lợi dụng, đặc biệt là người khác giới. Sự nghiệp muốn hiển vinh thì phải quả quyết hơn nữa. TIền tài thì cũng khá, không đến nỗi nào, kinh doanh được. Thân mến Tiểu Phương
    1 like
  29. 1 like
  30. Câu hay nhất đấy Bác Xuyền ơi, các nhà khoa học với tư duy "ở trần đóng khố" đâu rồi vào đây mà xem đi này! Xem ra ngay cả lịch sử của chữ Quốc ngữ cũng cần phải tư duy lại! Mà chữ Việt cổ thực sự dễ học đến thế sao nhỉ? Chỉ học xong trong 10 ngày là đọc thông thạo và viết được thật sao nhỉ?
    1 like
  31. giờ sinh của em có vè ko đc chính xác lắm , phủ bình địa lùn, tròn người khó mà đc 1m73.
    1 like
  32. 1 like
  33. Cưới được vợ đẹp có học thường là trưởng nữ , dạng người hơi cao mặt hơi tròn ,hơi vuông đầy đặn người nở nang ,nể vợ , gia đạo hạnh phúc bền duyên cùng đi với nhau hết quảng đường đời / quan lộ khá hanh thông ,làm viêc ch công quền có chức vị cũng khá cao , ngaoif tầm 33t trở đi công danh sự nghiệp bắt đầu mở rộng ,sau sẽ giàu có vì đắc được phú cục ,có lẽ nhờ vợ sau nầy mà nên sự nghiệp .
    1 like
  34. Số nên lấy vợ sớm cho bố mẹ nhờ. Đi đường đi xa, (xuất ngoại) nên cẩn thận mọi nguy hiểm luôn rình rập Công việc có thể làm về tài chính, kho, thủ quỹ hoặc lưu trữ hồ sơ. NĂm nay bụng dạ nên cẩn thận Trong công việc cũng là người có chức sắc nói một tiếng nhiều người nể
    1 like
  35. Cười ra nước mắt câu văn 'siêu nhí nhố' Ở một số học sinh, sự sáng tạo mang lại cho các em những câu văn thú vị và đẹp đẽ. Còn ở một số bạn khác, óc tưởng tượng “phi thường” lại giúp cho người đọc có trận cười ra nước mắt. 1. Tả chú thương binh: - Gần nhà em có một chú thương binh... cụt đầu, sáng nào chú cũng đi qua nhà em để đi ăn sáng... 2. Tả ông, bà: - Chiều chiều em dắt ông nội dạo quanh một vòng bờ hồ. Ông nội thường chạy tung tăng quanh em tỏ vẻ rất thích thú. - Ông em tai to như tai Phật, phủ dài xuống tận hai vai. - Ông em có hai cái tai như hai cái mộc nhĩ luôn luôn phe phẩy... - Hình dáng của bà nội rất là thấp được hai mét rưỡi dáng đi rất chậm chạp, mắt thì lừ đừ ít thấy gì nữa… Tính tình cụ già rất là bực bội… Khi bà nội cười liền nhe mầm răng ra còn được ba bốn cái gì mà thôi. - Bà cụ ngoài 40 tuổi. Hình dáng bình thường, chiều rộng ba mươi, chiều cao một mét sáu. - Ở nhà em có một bà ngoại. Mẹ em không cho bà ngoại làm gì hết, vì mẹ nói bà làm cái gì là hư cái đó. Có một hôm, mẹ mua bánh cho em ăn. Mẹ đem vào phòng cho em ăn và nói không được cho bà biết. Nhưng thực không ngờ bà em đã đứng bên ngoài và nghe được hết... Tả Bố Mẹ. Bố em làm thợ mộc.... mỗi nhát búa của bố em long trời lở đất. - Thân hình mẹ em rất to lớn, mấy chú bộ đội ôm không xuể. - Mẹ em rất béo, bụng mẹ em to như con chó bông xù mà em hay ôm khi đi ngủ, lý do mà mẹ em béo chắc là do mẹ ăn nhiều thịt mỡ quá. Em mong mẹ sẽ chăm tập thể dục để thân thể được gầy lại. - Bố em tuổi con chuột (em xin chú thích loài chuột chù chứ không phải là chuột nhắt), mẹ em tuổi con lợn xề. Bố em là sếp của sếp một công ty ,và mẹ em là nhân viên của nhân viên của công ty dược phẩm. Bố em rất yêu em dù hơi nóng tính, em mong bố em bớt nóng tính đi một chút để mông em đỡ bị nổi lươn. - Mẹ em nặng 2 kg, bố em nặng 2.5 kg. 4. Tả cô giáo: - Dáng cô cao cao như cây phượng vĩ trước sân trường. Cô không bao giờ đi nhanh trừ những khi cô vội vã. - Cô giáo em người cao... thẳng đứng lên. Mặt cô trắng mà cô không đắp phấn. - Cô giáo em mắt như hai hạt hồng xiêm. Dưới sống mũi dọc dừa là... hai lỗ mũi đang thở ra hít vào. - Đầu cô to bằng cái hộp bánh, còn tay cô thì giống hệt cành hoa hòe nhà em. - Cô giáo em dáng rất đẹp, hai chân của cô thẳng và thon dài như hai cây chuối lộn ngược 5. Tả chú bộ đội: - Ở gần nhà em có một chú bộ đội, chú cao 80 cm. - Chú bộ đội rất cao to đẹp trai, chú dài khoảng 2 km. 6. Tả con lợn: - Phiên chợ trước, bố em mua một con lợn con. Đến phiên chợ sau nó đã lớn nhanh như thổi, hai hàm răng như hai hàng cây mới trồng ... - Con lợn nhà em thân to bằng cái phíc, 2 tai to bằng 2 lá mít lúc nào cũng vẫy vẫy. Chân thì dài 1mét…. 9. Tả con bò: - Con bò có màu trắng và đen, ở bụng có 4 cái núm. 10. Tả đàn gà: - Nhà em ở thành phố nên không có nuôi gà nhưng bố em bảo: nhà mình là 1 đàn gà, bố là gà trống, mẹ là gà mái và em là gà con. Sáng dậy, gà trống giặt đồ, phơi đồ, cho gà con ăn, gà con soạn sách vở, ăn sáng và theo gà trống đi học còn gà mẹ đánh phấn, bôi son, kẻ mắt, xịt nước thơm và đi làm. 11. Hoàn thành câu: - Những lúc rỗi rãi em thường thương yêu bố mẹ em. - Gia đình em rất đoàn kết và ông bà nhau. 12. Tả cảnh mùa đông: - Mùa đông, người già thường hay chết. Trên đường, em thấy những chiếc hộp nhỏ xinh xắn chứng tỏ vừa có đám ma đi qua. 13. Tả cánh đồng lúa: - Cây lúa mọc lừng lững giữa sân trường. 14. Tả cây hoa hồng: - Ông nội em có trồng một cây bông hồng, trông nó rất hùng vĩ, nó cao khoảng một gang. Gai mọc chi chít, trông vậy thôi nhưng sờ vào gai hoa mềm nhũn. 15. Tả bến xe bus: - Bến xe thật đông đúc, khi lên xe, người trẻ nhường chỗ cho người già, trẻ em, thương binh và liệt sỹ được ngồi. 16. Tả cây ớt: - Nhà em có một cây ớt rất to và sai quả. Ngày nào em cũng trèo lên cây hái ớt cho bố em ăn. 17. Phân biệt “công cụ” và “nông cụ": - Công cụ và nông cụ khác nhau là 1 cái là nông còn 1 cái là công cụ, còn giống nhau là cả hai đều là ... “cụ”. 18. Đặt câu với từ “et”: - Bà em chơi cờ bạc bị “bét”.
    1 like
  36. Nên lập gia đình muộn mới hy vọng sống với nhau đến đầu bạc răng long ,gia đạo kém hạnh phúc vì hay nghi ghen tương lẫn nhau ; nếu lập gia sớm có thể có con dị bào cùng cha khác mẹ /con cái xung khắc với cha mẹ sau lớn lên đều ở xa mà khó được nhờ , sanh nhiều nhưng sau còn lại từ 2-3 , con giỏi khéo tay nhưng có đứa ăn chơi không nên người .
    1 like
  37. Bạn là nhân vật nam hay nữ??? Cưới nhau chỉ tránh tam tai và năm tuổi thôi nhé, còn Kim Lâu áp dụng để tính khi xây nhà (Kim Lâu = nhà vàng, hem có dzính dzì tới Luận Tuổi đâu nhé)
    1 like
  38. Đúng đó, nhocchantrau tìm luôn năm sinh thứ 2 cho 2 vc đi!
    1 like
  39. Sáng nay Cô đã gởi Linh Phù này đến Arigato và Đại Phúc, nhận được vui lòng hồi báo Cô biết nhé! Nhanqua đã nhiều Phước Duyên khi sở hữu được 2 Linh Chú nhỉ!
    1 like
  40. Trong anh em có ai nói lắp hay nói ngọng không ? Chồng là kể ăn chơi lãng đãng, trong người luôn có bệnh tật , tính tình lương thiện hay giúp người nhưng cũng hay bắt nạt chông!
    1 like
  41. Năm nay công việc tốt nhưng cẩn thận việc đi lại giữ gìn thân thể kẻo gặp macabon
    1 like
  42. Công việc năm nay thấy không có vấn đề gì. Có người iu chưa? Nếu có rùi thì có dự định cưới năm nay? hay năm sau? Về sức khỏe thì chỉ thấy hay bị máu nóng, hay nổi mụn nhỏ hoặc nổi ban đỏ, thường hay bị nhức đầu.
    1 like
  43. Em trả lời dùm được không anh Thiên Luân? @lehaanh: 1. Hai người cùng tuổi thì cứ vô tư, chỉ có điều chú ý là năm hợp sinh con trai, năm xung sinh con gái. 2. 2012 không được rồi, do trong năm tam tai của bạn trai bạn. 2013 cưới được đấy. Nếu được nên sinh con trong năm luôn, con Quí Tị mạng Hỏa (theo Lạc Thư Hoa Giáp) được bố mẹ sinh, thiên can Mậu hợp Quí là rất tốt, địa chi Thìn Thổ sinh Tị Hỏa cũng tốt luôn! Em luận vậy đúng chưa anh Thiên Luân?
    1 like
  44. Hic, cái nick này là phạm húy đó nhe. Bạn tìm nick khác đi Thân mến
    1 like
  45. Sang ngày thứ hai, tôi bắt đầu chương trình du lịch tìm hiểu về Hồng Kông. Tôi mua một tour du lịch đi vài điểm nổi tiếng ở Hồng Kông và do đó tôi có điều kiện để nhìn thấy rất nhiều dấu ấn về phong thủy nơi đây. Bên cạnh vấn đề về Bế Khí thì điều tiếp theo chính là hình thể cấu trúc các tòa nhà. Cảm giác rằng, phong thủy gia ở đây bỏ qua phần : Hình – Lý - Khí. Ở Hồng Kông, người ta không có tầng mang con số 4, 14, 24…. và tất nhiên là cả số 13. Cho nên tòa nhà cao 70 tầng thì thực chất không cao tới vậy. Mỗi căn hộ thì thường trung bình khoảng 40m2 và giống y như một cái hộp. Tất nhiên giá đất và nhà ở đây thì khỏi phải bàn vì nó cũng thuộc hàng top của thế giới và các tỷ phú Hồng Kông đều là những người kinh doanh bất động sản hay liên quan tới xây dựng đầu tư. Một trong những tòa nhà nổi tiếng về việc “đẽo gọt” cho hợp phong thủy chính là tòa nhà ở khu đắt nhất Hồng Kông. Tọa lạc ở điểm cuối cùng của đảo Hồng Kông , sau tựa núi và trước mặt là nhìn ra vịnh, người ta đã phải khoét một ô rất to ở giữa tòa nhà này và chi phí nghe đâu tới cả triệu đô la cho việc sửa chữa phong thủy. Câu chuyện mà tôi nghe kể từ người hướng dẫn viên du lịch rằng, thày Phong Thủy phán là ở dãy núi phía sau tòa nhà này có Rồng. Rồng thì cần có nước , cho nên khi xây tòa nhà này cao che khuất cả núi nên con Rồng không bay ra biển được. Do đó con Rồng ấy tức giận nên phá hoại làm cho những người sống trong tòa nhà ấy khốn đốn. Phải khoét một lỗ to để con Rồng ấy bay ra biển, như thế nó mới thỏa mãn và ngủ yên. Bên cạnh tòa nhà này chính là tòa cao ốc của nữ tỷ phú Nina Wang, người mà tới giờ này vẫn còn trên mặt báo Hồng Kông về vụ thừa kế tài sản của bà. Ông thày Phong Thủy của bà tỷ phú này đã được tiền tư vấn tới 39 triệu đô la và vẫn đang tiếp tục kiện để đòi thừa kế toàn bộ gia tài trị giá tới 4,2 tỷ đô la. Nhìn kiến trúc mới thấy là nếu Ông thày Phong Thủy này tư vấn để xây dựng tòa nhà này thì đúng là …. Và tiếp theo là vài tòa nhà cũng thấy cần phải có chỗ để Rồng bay ra Đây cũng là một tòa nhà kiến trúc độc đáo của Hồng Kông, có thiết kế kiểu chai úp ngược. Đây là trụ sở của Quân Đội Hồng Kông. Lực lượng này nghe kể thì rất…rảnh rỗi, vì công việc cho tới khi cảnh sát không can thiệp được thì mới tới họ và lực lượng quân đội này cũng ít khi thấy xuất hiện.Hình tượng thì rất phù hơp bởi vì chai úp ngược là “bottom up” tức là “zdô” , là vui vẻ. Nếu một đất nước có trụ sở bộ quốc phòng như thế này thì hoặc là rất yên bình và hoặc là …bàn giao chính quyền trong hòa bình… Tôi có được cơ hội ăn trưa trên nhà hàng nổi lớn nhất thế giới, đấy là nghe anh hướng dẫn viên du lịch nói thế. Nhà hàng này to thì to thật, 4 tầng có cả thang máy bên trong , nhưng mà tôi cũng không biết có đúng là nó to nhất thế giới không vì chưa vào nhà hàng nổi nào trên thế giới ngoại trừ nhà hàng nổi ở Hồ Tây. Ở đây có thấy chiêu thức “Thiên Quang Tinh” và món chiêu tài này mới thật là hay: Cố gắng tìm kiếm các cửa hàng bán đồ phong thủy hay đại loại như đồ liên quan tới phong thủy nhưng tôi cũng không tìm thấy một cửa hàng nào trong những ngày tiếp theo. Fengshui – phong thủy là việc chỉ sự xa xỉ ở Hồng Kông. Nói vậy bởi vì dù có tin nhưng nhiều người ở Hồng Kông cũng không đủ tiền để chi cho việc tư vấn Phong Thủy. Cũng giống như ở Việt Nam, người ta tới Đền và Chùa để cầu xin vận may. Hồng Kông nhỏ bé nhưng có tới gần một ngàn ngôi Đền và Chùa. Đây là một trong những ngôi đền nổi tiếng và lâu đời ở Hồng Kông. Tôi cũng hiểu thêm rằng, có nhiều người Hồng Kông không theo đạo Thiên Chúa nhưng họ cũng không tin vào Phong Thủy. Đa phần họ đều du học ở Nước ngoài và họ chỉ tin nếu Phong Thủy dựa trên cơ sở khoa học để giải thích. Tạm biệt Hồng Kông, trước lúc máy bay cất cánh, trời mưa nhỏ nhưng rồi tạnh trước khi tôi lên máy bay. Mọi chuyện đều tốt đẹp đúng như Sư Phụ đã bảo lãnh. Phong Thủy Lạc Việt sẽ tiếp tục ghi dấu ấn, và tôi sẽ tiếp tục truyền bá về tính khoa học của Phong Thủy Lạc Việt ở tất cả những nơi nào tôi tới và tất cả những ai tôi có duyên được gặp.
    1 like
  46. @ one_newbia, Người bộc trực, nóng tính, lo chuyện bao đồng. Tuổi trẻ nông nỗi, gặp nhiều bất trắc. Đổi lại, không vòng vèo, không chữ thập cắt nét. Thiên Đồng
    1 like
  47. Tập Yoga hay bất kỳ một dạng tập thiền nào cũng đều làm nền tính con người, tăng sức chịu đựng và dẻo dai của cơ thể và tinh thần, hoặc những khi nóng giận bạn có thể hít thở thật sau hoặc chạy vào nhà tắm đứng trên sàn đá mát hoặc có nước sẽ có tác dụng hạ Hỏa hữu ích. Wen Jian, một người đàn ông 41 tuổi ở tỉnh Phúc Kiến, Trung Quốc, đã nuôi móng tay của mình trong 13 năm nhằm giúp anh kiềm chế được tính khí của mình khi trước đây anh thường đánh nhau, bởi chúng sẽ khiến anh phải suy nghĩ trước khi tung cú đấm. Thân
    1 like
  48. Những Kiêng Kỵ Khi Xây Nhà Ở Bạn không nên vì thấy phong cảnh đẹp, giao thong thuận lợi mà chọn mua những ngôi nhà trên mảnh đất hình quạt này. Có nhiều chỗ dù cho phong cảnh đẹp đẽ xong nó tiềm ẩn trong đó nguy hiểm do núi lở hay nước cuốn. Kỵ xây nhà ở đầu núi Khi xây nhà rất kỵ ở chỗ giao nhau giữa hai quả núi nơi có dòng suối chảy qua bởi vì chỗ này tiềm ẩn nguy cơ núi lở (Mặc dù chỗ này đất đai khá bằng phẳng). Về mặt địa lí, hai quả núi sẽ quây thành hình cánh quạt, do nước ở suối chảy xiết trong nhiều năm sẽ từ từ cuốn đi phần đất cát phía dưới, đặc biệt là phần đất sét phù sa ở những con sông, thực tế rất nguy hiểm. Bạn không nên vì thấy phong cảnh đẹp, giao thong thuận lợi mà chọn mua những ngôi nhà trên mảnh đất hình quạt này. Có nhiều chỗ dù cho phong cảnh đẹp đẽ xong nó tiềm ẩn trong đó nguy hiểm do núi lở hay nước cuốn. Kỵ gió thổi quá to Khi bạn đi mua nhà cần đi một vòng xem xét xung quanh để kiểm tra xem môi trường xung quanh có tồn tại điều gì bất cập không. Đầu tiên nên chú ý đến gió. Nếu thấy khu vực gần nhà mình có gió to, mạnh thì không nên mua. Trong phong thủy học, người ta chú trọng nhất đến những khu vực được coi là “tàng phong tụ khí”, song nếu thế gió nhẹ mà lại nóng thì đó cũng là nơi không nên mua vì không khí sẽ không lưu thong được nhiều. Môi trường lí tưởng nhất để ở đó là nơi có gió thổi nhẹ, không khí trong lành, mát dịu và sảng khoái. Kỵ tường trắng ngói xanh Kiến trúc của ngôi nhà tuyệt đối kỵ dùng tường trắng ngói xanh vì những màu này đa số dung trong những linh đường, nhà mồ mả, nhà tưởng niệm…không thích hợp dùng để trang trí những ngôi nhà để ở. Kỵ làm nhà ở gần chợ Chợ ở những thành phố lớn vốn dĩ không thích hợp để làm nhà bởi đây là nơi giao thông đi lại hỗn loạn, lúc nào cũng có mùi xú uế của rác thải và ô nhiễm âm thanh do tiếng ồn ào. Nếu sống lâu ở những nơi như vậy, sức khỏe của bạn sẽ bị ảnh hưởng. Đặc biệt đối với biệt thự thì càng phải tránh những chỗ chợ búa như vậy. Kỵ hình dáng nhà quá đặc biệt Cùng với sự phát triển của ngành kinh doanh địa ốc ở nước ta, nhu cầu về nhà ở cũng tăng không ngừng. Tâm lí con người thường thích mình có một cá tính riêng biệt không giống với ai, thế nên kiến trúc sư thường nghiên cứu và thiết kế ra những ngôi nhà đặc biệt mang dấu ấn của chủ nhà. Dĩ nhiên có những ngôi nhà rất đẹp song cũng không ít ngôi nhà có hình dáng quái dị. Những ngôi nhà này không phù hợp với nguyên tắc của phong thủy, nếu sống trong đó lâu ngày sẽ khiến cho gia chủ cảm thấy không thoải mái hoặc sẽ đem lại vận xấu. Kỵ tầng một của nhà quá cao Khi chọn nhà cần quan sát môi trường xung quanh một cách cẩn thận. Nếu ngôi nhà của bạn quá cao, và bốn bên lại không có một chỗ dựa nào thì sẽ không tốt cho phong thủy. Sống lâu trong những ngôi nhà như thế này sẽ khiến bạn có tâm lí cô đơn. Nếu tầng một của nhà bạn quá cao trong khi các tầng khác lại thấp sẽ tạo thành kết cấu không hợp lí. Kỵ cửa chính quá thấp Nhà nhỏ mà cửa lớn đương nhiên là bất lợi, song nếu ngày nào cũng đi qua đi lại một cái cửa quá thấp thì cũng không thuận tiện. Độ cao của cửa nhà cũng có độ tiêu chuẩn giống như chiều cao của người trưởng thành. Nếu thấp dưới mức tiêu chuẩn, bạn sẽ phải cúi người để ra vào, không cần nói bạn cũng thấy sự bất lợi ra sao. Kỵ mái nhà tròn và trong suốt Trong quan niệm của người xưa thì trời tròng, đất vuông; hình tròn là động, hình vuông là tĩnh. Nhà ở nên tĩnh chứ không nên động. Chính vì thế những ngôi nhà hình tròn chỉ thích hợp để làm văn phòng công ty chứ không thích hợp dùng để ở. Ngoài ra, kiến trúc của những ngôi nhà dùng toàn bằng kính chỉ thích hợp với không gian văn phòng không có sự riêng tư, chứ không thích hợp đối với nhà ở. Kỵ đất dốc, khí thoát ra ngoài Ngôi nhà xây trên đất bị dốc tất nhiên là bất lợi, khí sẽ thoát ra ngoài giống như nước chảy vào chỗ thấp hơn. Nếu muốn kiểm tra xem đất có bị dốc hay không có thể quan sát vào hôm trời mưa, xem nước mưa chảy đi đâu hoặc tập trung ở đâu. Nhà kỵ bị phản ánh sáng Trong kiến trúc hiện đại, những bức tường bằng kính ngày càng được sử dụng nhiều hơn. Mặc dù những ngôi nhà này rất đẹp song nó lại tạo ra một sự “ô nhiễm ánh sáng” mới. Nếu bạn dùng kính phản quang để trang trí nhà thì ảnh hưởng của nó lại càng thêm nghiêm trọng, đồ vật hai bên trong nhà sẽ bị nứt. Một thời gian dài phải chịu sự phản quang này sẽ khiến tâm lí người sống trong nhà trở nên khô khan. Mái nhà kỵ có tháp nhọn Không nên sống trong những ngôi nhà mà đối diện là mái nhà được thiết kế với những tháp nhọn lớn. Trong một số trường hợp bắt buộc phải dung để bắt song hoặc vì lí do mĩ quan phải xây tháp nhọn thì tốt nhất ta nên sống cách đó khoảng 200m. Nếu tháp đó vừa cao vừa gần nhà mình thì tốt nhất hãy che rèm ở các cửa để tránh bị ảnh hưởng. Kỵ thiếu ánh sáng Khi chọn nhà, không những phải chọn những chỗ không khí trong sạch thoáng mát mà còn phải đủ ánh sáng. Ngôi nhà không đủ ánh sáng sẽ khiến âm khí nặng nề, làm cho người sống trong đó một tâm lí bị đè nặng. Kỵ thiết kế hành lang ở biệt thự Thiết kế biệt thự thông thường phải mang những đặc sắc riêng, thế nên người ta hay dùng hành lang, tường vây, hòn non bộ…để trang trí. Tuy nhiên trong phong thủy học, trừ những nơi như công viên hay trang viên rộng lớn ra thông thường nên tránh thiết kế hành lang dài và uốn quanh nhà vì hành lang này sẽ làm đứt khí trong nhà. Chính vì thế không nên làm hành lang trong biệt thự. (Bài tham khảo)
    1 like
  49. Đại Hưng bình bảo Bài này muốn bàn về cách đọc một đồng tiền cổ rất nổi tiếng ở Việt Nam vì được cho là đồng tiền đầu tiên của nước ta sau khi dành được độc lập vào thời Đinh. Trước hết xin dẫn nguồn tư liệu tham khảo: http://www.khamphahue.com.vn/ehue/?catid=v...hoa&nid=342 và hình ảnh đồng tiền này ở nguồn trên. Vấn đề ở chỗ cách đọc của đồng tiền này. "Mặc dù theo Đại Việt Sử Ký Toàn Thư, niên hiệu của Đinh Tiên Hoàng có chữ Hán viết là “Thái Bình”, nhưng Bernard J. Perma (Catalogue of Annam coins 968- 1955, Vietnam, 1963), thật có lý khi đọc hiệu của đồng tiền là “Đại Bình Hưng Bảo”. Bởi sự thật, các đồng tiền do vua Đinh đúc, cả hiện vật lẫn ảnh chụp, chữ Hán viết là “Đại Bình” chứ không phải là “Thái Bình”. Trong sách Tiền Cổ Việt Nam, GS Đỗ Văn Ninh đưa ra hai cách giải thích hiện tượng trên như sau: -Đồng tiền bị gỉ làm mất nết chấm dưới chữ “thái”. Cách giải thích này khó được chấp nhận, vì chưa thấy đồng tiền nào của vua Đinh viết chữ Hán là “thái bình”; nếu có, chắc nhầm lẫn với một loại tiền khác.. -Cách giải thích thứ hai, dễ hiểu và có sức thuyết phục hơn là: chữ “đại” còn có một âm đọc là “thái”." Cả hai cách giải thích đều không ổn. Ngay cùng với thời đó ở Hoa Lư và Hoàng thành Thăng Long có loại gạch "Đại Việt quốc quân thành chuyên", cho thấy chữ đầu tiên trong tên đồng tiền đọc là "Đại" chứ không phải "Thái". Tên của đồng tiền này đã đánh đố rất nhiều nhà nghiên cứu tới nay chưa có lời giải. "Một số nhà nghiên cứu khác đưa ra ý kiến đọc hiệu đồng tiền là “Đại Hưng Bình Bảo". Tuy rằng thời Đông Tấn - Nguyên Đế (Tư Mã Duệ) có niên hiệu Đại Hưng (318-321), song thời ấy ở Trung Quốc đang còn sử dụng hệ thống tiền Ngũ Thù, chưa dùng chữ “bảo” để chỉ khái niệm tiền tệ, do đó tiền này không thể do triều Tấn đúc". Những người chơi tiền cổ đều biết tên tiền cổ có 2 cách đọc chéo và đọc xuôi. Nếu đọc xuôi theo chiều kim đồng hồ thì tên đồng tiên trên phải là "Đại Hưng bình bảo". Vấn đề là trong lịch sử không biết chữ "Đại Hưng" này ở vào giai đoạn sau nhà Đường (sau đồng tiền đầu tiên dùng từ "bảo" là "Khai Nguyên thông bảo") thuộc về ai? "...ngày nay tiền “Đại Bình Hưng Bảo” - theo ông XiongBaoKang (Tổng Giám đốc Viện nghiên cứu tiền tệ và Bảo tàng Tiền tệ Quảng Tây - Trung Quốc) - được tìm thấy ở Hoa Nam (Trung Quốc) là đất của Bách Việt rất nhiều..." Thật khó hiểu nếu đồng tiền trên là của nhà Đinh vì nhà Đinh rất ngắn ngủi chỉ có 12 năm, vào lúc phía Bắc nhà Tống đã thống nhất Hoa Nam. Làm thế nào mà đồng tiền của nhà Đinh lại được tìm thấy rộng rãi ở Hoa Nam được? Xin đưa ra một cách nhìn nhận khác về đồng tiền trên. Tên đồng tiền này phải đọc là "Đại Hưng bình bảo" chứ không phải "Thái Bình hưng bảo". Đồng tiền này không phải của nhà Đinh mà là của Lưu Cung - Lưu Ẩn ở Lưỡng Quảng (Lưỡng Việt). Tên "Đại Hưng" là một bằng cớ rõ ràng về tên nước của Lưu Cung thời đó. Không phải Đại Hán mà là Đại Hưng, như tên Hưng Vương phủ của Quảng Châu. Việc đồng tiền này được tìm thấy rộng rãi ở Hoa Nam xác nhận điều này vì đây là vùng ảnh hưởng của nước Đại Việt/Đại Hưng thời đó. Việc lấy tên nước đặt tên cho đồng tiền tuy ít gặp nhưng không phải không có. Người ta còn tìm thấy đồng tiền "Đại Việt thông bảo". Đồng tiền này có cách viết chữ tương đồng với thời của đồng "Đại Hưng bình bảo", nhưng lại bị nghị ngờ là tiền giả cho dù được phát hiện trong di tích Hoa Lư. Lý do được dẫn là thời đó chưa có quốc hiệu Đại Việt ở nước ta. Nhưng nếu nhìn rộng ra thì thấy ngay Đại Việt này là quốc hiệu của Lưu Cung. Gạch "Đại Việt quốc quân thành chuyên" ở Hoa Lư cũng khẳng định danh xưng Đại Việt đã có từ trước. Không như đồng "Đại Hưng bình bảo", đồng "Đại Việt thông bảo" khá hiếm thấy. Điều này cũng dễ hiểu vì Lưu Cung chỉ sau 1 năm lập quốc đã đổi quốc hiệu từ Đại Việt sang Đại Hưng. Chữ "bình" trong "bình bảo" có thể hiểu là bình dân, bình thường, "bình bảo" có nghĩa tương tự như "thông bảo" vậy. Trong bộ tiền cổ Việt Nam cũng có một vài đồng tiền mang tên "bình bảo" như đồng "Thiệu Phong bình bảo" đời Trần. Còn vấn đề chữ "Đinh" ở mặt sau đồng tiền nghĩa là gì thì cần suy xét thêm. "Đinh" ở đây chưa chắc là họ của vua, mà có thể là một số đếm vì Đinh là số thuộc thập can. Có thể là chỉ năm đúc tiền, hoặc một loại số thứ tự nào đó. Nhiều đồng tiền cổ chữ ở mặt sau cũng không dễ hiểu, ví dụ có đồng tiền "Thuận Thiên đại bảo" được cho là đồng tiền của Lý Thái Tổ, với mặt sau có chữ "Nguyệt". Tới nay chưa ai giải thích được chữ Nguyệt này nghĩa là gì. Đồng tiền được cho là đồng tiền đầu tiên của Việt Nam lại là một bằng chứng về nước Đại Hưng của Lưu Cung. Tên nước Đại Hưng cũng có gặp trong sử sách nước ta. Thiên Nam ngữ lục (thế kỷ XVII) đoạn về sự lên ngôi của Lý Công Uẩn có câu: Thùy y củng thủ cửu trùng Cải nguyên Hưng Quốc đề phong trong ngoài Hoa Lư hiểm địa hẹp hòi Xa giá bèn dời về ở Thăng Long. Có thể thấy Lý Công Uẩn đã từng đặt tên nước của mình là Hưng Quốc (Đại Hưng). Điều này khẳng định cả trên hiện vật khảo cổ và sử sách. Đây là những bằng chứng cho Sử thuyết của anh nhatnguyen52 về giai đoạn này.
    1 like
  50. Khi bạn copy link, copy luôn phần http:// Giúp bạn post lại link Chồng: http://www.lyhocdongphuong.org.vn/apps/LaS...reen&size=2 Vợ: http://www.lyhocdongphuong.org.vn/apps/LaS...reen&size=2
    1 like