-
Thông báo
-
Nội quy Lý Học Plaza
Nội quy này là bản mở rộng Nội Quy - Quy định của Diễn đàn. Khi tham gia mua bán, các thành viên phải tuân theo những quy định sau: Tiêu đề bài viết: Bao gồm: Chỉ dẫn địa lý, Loại hình Mua/Bán, Thông tin mua bán.
Chỉ dẫn địa lý: Tỉnh/thành nơi mua bán. Hoặc sử dụng định nghĩa có sẵn:TQ: Toàn quốc
HCM: TP Hồ Chí Minh
HN: Hà Nội
[*]Ví dụ: HCM - Bán Vòng tay Hổ Phách Nội dung bài viết: Mô tả chi tiết sản phẩm mua/bán
Bắt buộc phải có thông tin liên lạc, giá Mua/Bán
Bài mới đăng chỉ được phép up sau 03 ngày.
Thời gian up bài cho phép: 01 ngày 01 lần.
Các hành vi vi phạm nội quy này sẽ bị xóa bài hoặc khóa tài khoản mà không cần báo trước.
-
Leaderboard
Popular Content
Showing most liked content on 12/04/2011 in Bài viết
-
Kinhthu thân mến. Tôi thật sự buồn và chia sẻ với Kinhthu, với các bạn Việt Nam đang ở Nhật và người Nhật Bản về những thiên tai đang dồn dập ập vào nước Nhật. Ngay từ cuối năm ngoái, chúng tôi đã có dự báo khái quát về thiên tai trên toàn thế giới - trong topic "Lời tiên tri 2011". Trong quá trình diễn biến chúng tôi cũng có những cố gắng tiên tri cụ thể hơn về thời gian và những vùng có khả năng xảy ra động đất. Dưới đây là hai lời Tiên tri liên quan đến nước Nhật trong topic "Lời tiên tri 2011" và thể hiện cảm tình của tôi với nước Nhật Bản - mà tôi luôn quan niệm rằng: Lịch sử Nhật Bản gắn liền với cổ sử Việt. Kinhthu thân mến.Về nguyên tắc thì mọi phương pháp tiên tri (Tạm thời tôi không bàn về hiện tượng thuần "cảm ứng tiên tri" không có phương pháp - như bà Vanga chẳng hạn) đều phải là hệ quả của một hệ thống lý thuyết là tiền đề cho nó. Như vậy, về lý thuyết, nó phải giải thích được quá trình diễn biến sự kiện tiến tới kết quả được tiên tri theo hệ thống khái niệm thuộc phương pháp luận của hệ thống ấy. Nhưng hệ thống lý thuyết đã thật truyền, chỉ còn phương pháp ứng dụng có khả năng tiên tri. Bởi vậy, mọi việc trở nên huyền bí. Cách đây nhiều năm, Hoàng gia Nhật lo lắng về việc Hoàng Hậu Nhật Bản nếu sinh con gái thì hiến Pháp Nhật sẽ phải sửa đội. Tôi là người đã dự báo và xác định rằng: Hoàng Hậu Nhật sẽ sinh con trai. Sự việc nghiệm đúng sau đó. Nây trước thảm họa của nước Nhật, cả thế giới chia sẻ. Nếu Kinhthu không đề nghị thì chính tôi cũng rất quan tâm và chia sẻ với nước Nhật. Nhưng đây là câu hỏi trực tiếp. Cảm ứng với câu hỏi của Kinhthu, tôi độn quẻ Lạc Việt độn toán cho thiên tai nước Nhật với câu hỏi: Bao giờ nước Nhật qua khỏi nạn động đất và tránh được thảm họa hạt nhân lần này: Giờ Tý, ngày 11. tháng Ba. Việt lịch: Quẻ Khai Xích khẩu. Như vậy, trong tháng Ba này - nhất là đầu tháng tính từ mùng 1 đến hết 15. 3 Việt lịch. Nước Nhật phải hứng chịu ít nhất 4 (Bốn) trận dư chấn động đất và nhiều không quá 6 (Sáu) trận với cường độ trên 6 độ Richte. Trên cơ sở này, - do tôi chưa thống kê - nếu Kinhthu tổng kết từ đầu tháng đến giờ thấy đủ độ số thì thôi. Nếu còn sẽ xấy ra. Sau ngày 15. 3 Việt lịch, nếu còn thì sẽ nhẹ hơn nhiều. Kết hợp với Huyền Không Lạc Việt thì nước Nhật nằm ngay tại chính Đông theo phân cung của Huyền không Lạc Việt. Trục Đông Tây là trục Tuyệt mạng, bi hai ngôi sao xấu nhất trong Huyền không chiếu năm nay (Theo Lạc Việt: Nhị Ngũ giao trì/ Theo cổ thư chữ Hán thì chỉ bị một) Lại bị Thái Tuế Mộc tinh chiếu (Theo Lạc Việt - Thái tuế thuộc Mộc). Đã vậy, vận này Thái Tuế lại quản vận. Mùa Xuân lại vương Mộc nên thảm họa xảy ra ở đây. Sang Hè thuốc Hỏa, ảnh hướng của Thái Tuế giảm đi. Sao Thái tuế dịch chuyển xuống hương Nam một phần (Mỗi tháng chuyển 6.5 độ góc). Đó là lý do mà các trận động đất gần đây trên nước Nhật chuyển dịch xuống phía nam. Tất nhiên, yếu tố thiên văn phải kết hợp với cấu trúc địa lý, chứ không phải tất cả các nước phía Đông đều động đất. Còn về sự cố hạt nhân. Tôi nghĩ: Nếu không có dư chấn liên tiếp. Chắc chắn nước Nhật đã khắc phục xong. Vậy trên cơ sở quẻ bói này, tôi tóm tắt như sau: * Tính từ mùng 1. 3 Việt lịch đến 15. 3 Việt lịch số trận động đất sẽ ít nhất là 4, nhiều là 6. Chỉ tính những trận trên 6 độ richte. Kinhthu tự thống kê. * Tính từ 16. 3 Việt lịch đến hết 30. 3 Việt lịch có hai trận nhẹ ở phía nam hoặc miền trung Nhật Bản. Từ cơ sở dự đoán này, nước Nhật sẽ kiểm chứng và quyết định hủy bỏ lò hạt nhân hay cố gắng sửa chữa. Quẻ Khai Xích khẩu - xét về mặt tạm gọi là tâm linh - cần chính Nhật Hoàng cầu nguyện Thượng Đế. Chúc kinhthu và nước Nhật qua được thàm họa và một cuộc sống yên bình sẽ trở lại với nước Nhật. ================================PS: Quan niệm của Lý học Đông phương cho rằng: Động đất là do âm khí bế sinh ra. Nếu giải phóng được Âm khí bế thì về lý thuyết không xảy ra động đất. Nhưng để giải phóng một lượng năng lượng khổng lồ được hình thành bới các đới nứt gãy do việc kiến tạo của vỏ trái Đất - chuyển thành Âm khí bế - là một điều cực khó khăn. Nhưng với trình độ khoa học hiện nay từ các mũi khoan sâu xuống lòng đất, tôi nghĩ có thể - có thể thôi - thực hiện được.2 likes
-
'Độc nhãn long' ở Cổ Loa thành vẫn là ẩn số? Cập nhật lúc :6:01 AM, 07/04/2011 Nhiều cuộc khai quật đã được tiến hành nhưng chưa có lời giải đáp cho hiện tượng cùng một địa hình mà hai hố đất gần nhau ở Khu di tích thành Cổ Loa (Đông Anh, Hà Nội) một có nước một không, nên niềm tin về con mắt của “độc long nhãn” trong truyền thuyết xưa càng được củng cố. Đột nhập 'nghĩa địa ngầm' dưới lòng Biển Hồ Từ lúc được phát hiện tới nay, hai hố vẫn được cho là mắt rồng ở thành Cổ Loa (Đông Anh (Hà Nội), một vẫn đầy ắp nước bất kể mùa hạn hay mùa khô, một luôn khô cạn ngay cả những hôm trời mưa như trút. Cuộc tranh hùng của 9 con rồng “Hai mắt rồng” nằm ở khu vực đền Thượng - nơi tẩm cung của Thục phán An Dương Vương của Khu di tích Cổ Loa. Nhìn từ trên cao, đền Thượng dường như được đặt giữa trán rồng, phía trước có hai hố mắt, miệng là hồ bán nguyệt há ngậm viên ngọc - giếng nước nằm trong lòng hồ này. Truyền thuyết xưa kể rằng, thời An Dương Vương đã có một cuộc tranh hùng dữ dội của 9 con rồng - Cửu long tranh châu (chín con rồng tranh một hòn ngọc). Đây cũng chính là tiền thân của truyền thuyết về "độc nhãn long". "Mắt" phải của độc nhãn long luôn đầy ắp nước. (Ảnh minh họa) Truyện rằng, khi An Dương Vương lệnh cho các thầy địa lý tìm khắp cõi Âu Lạc xem đâu có thế đất thịnh vượng để dựng kinh đô. Sau hàng tháng trời tìm kiếm, các thầy báo về có một nơi được coi là đỉnh của vùng tam giác châu thổ sông Hồng, là vị trí đắc địa bởi từ đây, có thể khống chế một vùng rộng lớn cả đồng bằng lẫn sơn địa. Đó chính là Cổ Loa. Khi quyết định rời đô từ Phong Châu (Lâm Thao - Phú Thọ) về, đoàn thuyền của vua chứng kiến cảnh chín con rồng quần thảo một hòn ngọc lớn. Vua cho đấy là điểm lành nên chọn đúng nơi mà chín con rồng quần thảo để xây chính điện - đền Thượng bây giờ. Trong cuộc giao long, một con rồng khỏe nhất chiếm lĩnh được hòn ngọc và ngậm vào mồm. Nhưng nó cũng bị hỏng một mắt sau cuộc chiến đó. Cũng có lời kể rằng, chính An Dương Vương đã dùng bảo kiếm của mình chọc thủng mắt rồng để quy phục bản tính hung dữ của nó. Sau đó, vua cho dựng chính điện trên đầu rồng. Kỳ lạ con mắt phải Thành Cổ Loa vốn tọa lạc trên nền địa chất khô và cứng vì thế phải đào sâu xuống khoảng 30-40m mới có nước. Thế nhưng, ở hai hố mắt trước cửa đền Thượng, với độ sâu chừng 2m, hố bên phải luôn đầy ắp nước là hiện tượng rất lạ. Trước đây, Ban quan lý khu di tích thành Cổ Loa cũng vài ba lần tiến hành việc nạo vét lòng hồ bán nguyệt và hố đất bên phải nhưng không thực hiện được bởi khi đào được vài chục phân đất gặp ngay một mạch nước ở giữa giếng ngọc phun lên dữ dội. Lý giải hiện tượng này, nhiều người đã đưa ra giả thuyết, người xưa khi xây dựng đền đã dựa vào địa thế địa hình thực tế. Việc tạo hai hố mắt trong khuôn viên của đền Thượng cũng tương tự. Hai hố mắt đó là có sẵn, chỉ việc khoét tạo hình cho hai hố đó cân xứng. Việc hố bên phải có nước, còn hố bên trái không có cũng rất tự nhiên, không hề có bàn tay can thiệp của con người. Lại có người cho rằng, có thể những thợ xây dựng đền xưa đã áp dụng một công nghệ nào đó để tạo, dẫn và cân bằng mực nước trong hố mắt phải với mực nước bên hồ bán nguyệt phía trước cửa đền… Tuy nhiên, những giả thuyết này vẫn chưa thực sự thuyết phục.Truyền thuyết về “rồng một mắt” càng có căn cứ khi gần đây các chuyên gia Việt Nam và Nhật Bản phối hợp tiến hành khai quật hố mắt bên phải, phát hiện một khối hình cầu màu đỏ giống quả cầu mây. Khối hình cầu này có đáy, tường bao quanh khum vào bên trong, có lỗ thông ra hai bên, phía trong “mắt” phải rồng có một lò nung nhỏ ở chính giữa. Niên đại của “con ngươi” mắt rồng đến nay chưa được xác định. Lạ kỳ hơn là dù đào sâu xuống bên dưới thì đoàn khảo cổ cũng không tìm được bất kỳ mạch nước hay “công nghệ” dẫn nước nào vào bên trong con mắt này. Chính vì những lý do trên mà hiện nay, người dân vẫn tin rằng đây chính là đôi mắt của “độc long nhãn” và hằng ngày vẫn có nhiều người đến đây lấy nước về chữa bệnh và cầu may. =====================================Thói đời thì người này nói, người kia nghe được bắt chước nói theo. Người ta bào Cổ Loa là kinh đô của An Dương Vương, thế là cũng theo thế mà nói. Khôi phục và giới thiệu một di sản văn hóa thì đúng rồi! Nhưng đừng cố mà minh chứng Cổ Loa là kinh đô An Dương Vương thì không khác gì chỉ vào đầm Dạ Trạch mà bảo rằng: "Chỗ này Chử Đồng Tử bay lên giời đấy!" Thấy nó buồn cười!2 likes
-
Pháp Tu Quán Tưởng Đức Phật Dược Sư [short Medicine Buddha Practice] Không cần pháp quán đảnh – Initiation is not required] THẦN CHÚ DƯỢC SƯ: TATYATHA OM BEKANDZE BEKAMDZE MAHA BEKANDZE RADZE SAMUDGATE SVAHA. (Ta-đi-a-tha: Ôm Bê-khăn-dzê Bê-khăn-dzê Ma-ha Bê-khăn-dzê Rát-zê Xa-mu-ga-tê Sô-ha). Công năng: Trị bệnh (đặc biệt bệnh nan y: ung thư, ADS), gia đình hạnh phúc, trường thọ, cát tường, trường thọ, vạn sự như ý. Phát Nguyện [set Motivation] Mục đích của đời sống tôi là giải thoát hết thảy chúng sinh hữu tình ra khỏi mọi vấn đề và nhân tố tạo ra vấn đề, tất cả đều nằm trong tâm thức của họ, và mang lại an lạc hạnh phúc, nhất là hạnh phúc không gì có thể sánh của giác ngộ viên mãn, chúng sinh rất cần hạnh phúc này. Để có thể làm được như vậy, thân tâm tôi phải hoàn hảo, thanh tịnh, và mạnh khỏe. Vì vậy, vì lợi ích của chúng sinh hữu tình nhiều như không gian vô tận, tôi phát tâm tu theo pháp quán tưởng đức Phật Dược Sư dưới đây. Quán tưởng mình trong thân tâm phàm phu hiện tại, trái tim nằm trong lồng ngực, ngược đầu, hướng lên trên. Trong tim là đóa sen trắng tám cánh. Ở giữa tòa sen là đài mặt trăng, trên đó có đức Phật Dược Sư mang sắc tướng chuyển hóa tối thượng. Thân Phật nhiệm mầu, sáng trong màu biển xanh thẳm, tay phải cầm nhánh cây “arura”, tay trái cầm bình bát. Phía trước đức Phật Dược sư là thiên nữ thuốc trắng (bạch dược) – Tuệ Giác Viên Thành; bên phải là thiên nữ thuốc vàng (hoàng dược) – Tài Sản Đồng Thời; phía sau là thiên nữ rừng đỏ (hồng lâm), Yết Hầu Chim Công; bên trái là thiên nữ cây xanh – Rạng Chiếu. Mỗi vị thiên nữ toàn thân là ánh sáng an lạc, một mặt hai tay, tay phải cầm nhánh arura, tay trái cầm bảo bình với nhiều thức trang điểm. Bốn thiên nữ ngồi xếp bằng, không phải thế kiết già mà ngồi trong tư thế cúng dường trang nghiêm đức Phật Dược Sư. Qui Y – Phát Tâm Bồ Đề [Refuge – Bodhicitta] Con xin về nương dựa / nơi Phật Pháp và Tăng / cho đến khi giác ngộ. / Với công đức có được nhờ tu hành hạnh Thí / cùng hạnh toàn hảo khác nguyện vì khắp chúng sinh / quyết trọn thành Phật đạo. (x3) Tứ Vô Lượng Tâm [Four Immeasurable] Nguyện khắp chúng sinh / có được hạnh phúc / cùng mầm tạo vui Nguyện khắp chúng sinh / thoát mọi khổ đau / cùng mầm tạo khổ Nguyện khắp chúng sinh / không bao giờ lìa / hạnh phúc thoát khổ Nguyện khắp chúng sinh / trú tâm bình đẳng thoát hết tham sân / chấp người này thân / kẻ kia xa lạ. Thất Chi Phổ Hiền [seven Limb Prayer] Nguyện mang thân ngữ ý / lễ kính Phật Dược Sư Nguyện kính dâng lên Phật / cúng phẩm hơn hết cả / trùng điệp khắp trời mây / đang thật sự bày ra / hay bày trong quán tưởng. Nguyện sám hối tội chướng / mà con đã làm ra / từ vô thủy sinh tử / mãi cho đến bây giờ. Nguyện vui cùng việc thiện / của thánh giả, người thường Nguyện Phật vì chúng sinh / chuyển bánh xe chánh pháp / cho đến khi diệt tận / toàn bộ cảnh luân hồi. Nay con và chúng sinh / được bao nhiêu thiện căn / xin hồi hướng tất cả / về hai tâm bồ đề / về quả chánh đẳng giác / vì lợi ích chúng sinh. Thỉnh Nguyện [supplication] Kính lạy đấng Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri cùng bốn thiên nữ diệu dược, xin giúp con dẹp tan mọi tật bịnh đang phải chịu trong hiện tại, hay sẽ phải chịu trong tương lai. Quán Tưởng - Tụng Chú [Visualisation –Mantra Recitation] Từ sắc thân nhiệm mầu của Đức Phật Dược Sư trụ nơi tim người tu tỏa ánh sáng xanh thẳm, khiến thân thể người tu đầy ắp nguồn ánh sáng an lạc; từ thiên nữ trắng phía trước tỏa ánh sáng trắng, đầy ắp thân thể người tu; từ thiên nữ vàng bên phải tỏa ánh sáng vàng, đầy ắp thân thể người tu; từ thiên nữ đỏ phía sau tỏa ánh sáng đỏ, đầy ắp thân thể người tu; từ thiên nữ xanh lá bên trái tỏa ánh sáng xanh lá, đầy ắp thân thể người tu. Thân tâm người tu bây giờ đầy ắp ánh sáng an lạc, khiến thanh tịnh tất cả mọi tật bịnh, tà ma ám chướng, ác nghiệp cùng tập khí của nghiệp. Từ mỗi lỗ chân lông trên thân thể người tu phóng ra hào quang ngũ sắc, từ bình bát của đức Phật Dược Sư và bảo bình của bốn thiên nữ diệu dược rót xuống suối cam lồ sắc trắng, rót đầy thân tâm người tu. Hãy cảm nhận linh động rõ ràng rằng tất cả mọi tật bịnh của mình đã tan biến vĩnh viễn và sẽ không bao giờ còn vướng bịnh trở lại. Trụ tâm nơi quán tưởng này, tụng đoản chú Phật Dược Sư 7, 21 hay 108 lần: Chú Ngắn [short Mantra] TATYATHA OM BEKANDZE BEKANDZE MAHA BEKANDZE RADZE SAMUDGATE SOHA [Ta-đi-a-tha / Ôm Bê-khăn-dzê Bê-khăn-dzê Ma-ha Bê-khăn-dzê Rát-zê Xa-mu-ga-tê Sô-ha] Chú Dài [Long Mantra] OM NAMO BHAGAVATA BEKANDZE / GURU BENDURYA PRABHA RANDZAYA / TATHAGATAYA / ARHATE SAMYAKSAM BUDDHAYA / TATYATHA / OM BEKANDZE BEKANDZE MAHA BEKANDZE RADZE SAMUDGATE SOHA [Ôm, Nam mô Ba-ga-va-ta Bê-khăn-dzê / Gu-ru Ben-đu-ri-a Pra-ba Răn-dzai-ya / Ta-ta-ga-tai-ya / A-ra-ha-tê Xăm-dắt-xăm Bu-đai-ya / Ta-đi-a-tha / Ôm Bê-khăn-dzê Bê-khăn-dzê Ma-ha Bê-khăn-dzê Rát-zê Xa-mu-ga-tê Sô-ha.] Hồi Hướng [Dedication] Xin nương vào thiện nghiệp / đã làm trong quá khứ / hiện tại và vị lai / nguyện thiện tâm rốt ráo / (là tâm biết thương quí / hết thảy chúng hữu tình / và cũng là cội nguồn / cả ba thời hạnh phúc / của con và chúng sinh) / nguyện cho thiện tâm này / nơi nào chưa phát sinh / sẽ nảy sinh lớn mạnh / nơi nào đã phát sinh / sẽ tăng trưởng không ngừng / không bao giờ thoái chuyển. Nhờ công đức ba thời / của con cùng tất cả / chư Phật chư Bồ Tát / - bậc tánh hạnh thanh tịnh- / nguyện đa sinh phụ mẫu / được an lạc hạnh phúc. / Nguyện con đủ khả năng / bằng vào sức một người / làm được việc như vậy. / Nguyện ba cõi ác đạo / vĩnh viễn không còn ai. Nguyện tất cả tâm nguyện / của chư Phật, Bồ tát / tức thì thành sự thật. / Nguyện con có khả năng / bằng vào sức một người / làm được việc như vậy. Nhờ công đức ba thời / của con cùng tất cả / chư Phật chư Bồ tát / nguyện thành tựu đại lạc / không gì có thể sánh / của giác ngộ viên mãn / - là trạng thái tâm thức / vượt thoát mọi mê lầm / thành tựu mọi tánh đức- / và dẫn dắt tất cả / sang bến bờ giác ngộ. Lời Ghi Xuất Xứ [ Colophon] Phương pháp hành trì này do S.Hunter biên soạn, Vajrayana Institute, Sydney June 1995, dựa vào phương pháp hành trì do Lama Zopa Rinpoche trước tác và chuyển ngữ, Wisdom Publication xuất bản năm 1994. Tất cả mọi sai sót thuộc lỗi lầm của người biên soạn. Hồng Như Thubten Munsel chuyển Việt ngữ tháng 06,2006. Dịch gấp nhân dịp Lama Zopa Rinpoche truyền pháp Dược Sư tại Sydney. Mọi sai sót là lỗi người dịch Mọi công đức xin hồi hướng vô thượng bồ đề Đây là Phương pháp hành trì Dược Sư, Qúy Đạo hữu kim cang thừa đã từng thọ Lễ quán đảnh của Dòng truyền thừa Barom Kagyu do Đạo Sư Tenzin Sonam Rinpoche truyền tại Chùa Pháp Hoa-năm 2009 có thể sử dụng để hành trì tu tập. Viên Thành sưu tầm2 likes
-
============================== Bởi vì thời tiết tháng Ba ở Bắc bộ trời lạnh. Nên người ta không thể "ở trần đóng khố" trên thực tế khách quan (Tức tính khoa học thực sự). Nhưng những bộ quần áo màu da người này là một biểu tượng cho điều này! Đây là hiện tượng tự mâu thuẫn trong phương pháp tư duy. Tất nhiên hậu quả sẽ là bế tắc, trì trệ. Hay nói cho văn chương một tý: Nhiều vấn đề còn cần được khai thông! Thí dụ như tắc đường chẳng hạn ....1 like
-
1 like
-
Xem đám mây hung dữ - điềm báo của thảm họa sóng thần Cập nhật lúc 10h25" , ngày 12/04/2011 - (VnMedia) - Mới đây, một người đàn ông ở Tokyo đã tiết lộ những bức ảnh đám mây hung dữ ông vô tình chụp được trên bầu trời Nhật Bản, 5 ngày trước khi xảy ra thảm họa kép, động đất kéo theo sóng thần. Người đàn ông này có tên là Goldman sinh sống ở Tokyo. Ông cho biết đã vô tình bắt được cảnh đám mây khổng lồ đáng sợ đang lù lù bay qua bầu trời khi đang tự chụp hình mình tại một khu nghỉ dưỡng ven biển. Sau đó, khi xem lại bức hình, ông đã nhìn thấy đám mây, thấy lạ, ông đã chụp thêm một số bức hình khác khi đám mây đang di chuyển. Khi đó, ông không nghĩ gì về một thảm họa kinh hoàng có thể xảy ra sau đó ở nước Nhật, mà chỉ chụp lại đơn giản vì thấy đám mây rất lạ mà thôi. Tuy nhiên, sau khi thảm họa kép kinh hoàng xảy ra, khiến nước Nhật trở nên hoang tàn, ông đã lật mở lại những bức ảnh, và cho rằng đó chính là một điềm báo sớm về thảm họa. Sau đây là một số hình ảnh: Đan Khanh - (Theo DM)1 like
-
Tài xế người nước ngoài “đại náo” Thanh Niên Online 12/04/2011 1:04 Tối 10.4, chiếc xe “điên” do tài xế người nước ngoài (chưa xác định quốc tịch) điều khiển đã phóng như bay qua một số tuyến đường ở khu vực Q.5 (TP.HCM), khiến người dân đi đường một phen hú vía. Theo thông tin ban đầu, khoảng 19 giờ 30 cùng ngày, lực lượng CSGT của Đội CSGT Chợ Lớn đang tuần tra kiểm soát trên đường Trần Phú thì phát hiện chiếc ô tô Toyota Venza 5 chỗ ngồi chạy tốc độ khá cao nhưng không bật đèn. Mặc dù CSGT ra hiệu dừng xe nhưng chiếc xe trên vẫn cố tình bỏ chạy và vượt đèn đỏ tại giao lộ Nguyễn Trãi - Nguyễn Tri Phương (Q.5), chạy về hướng đường Võ Văn Kiệt (đại lộ Đông Tây). Trong quá trình truy đuổi, chiếc xe “điên” trên đã ép xe CSGT ít nhất 2 lần, trong đó có 1 lần CSGT bị ép văng lên lề đường. Chứng kiến cảnh tượng trên, anh N.K.K (24 tuổi, ngụ Q.6) đi xe gắn máy chở chị V.A.P (23 tuổi) bức xúc truy cản xe “điên” nhưng tài xế cho xe tông vào xe gắn máy của anh K. khiến anh bị thương nhẹ, sau đó mới chịu dừng lại. Tài xế nồng nặc mùi rượu bước xuống xe. Ngay sau đó, Đội Xử lý tai nạn giao thông của Phòng CSGT đường bộ - đường sắt, Công an TP.HCM đã có mặt tại hiện trường; đồng thời Đội CSGT Chợ Lớn đã lập biên bản người điều khiển ô tô với 2 lỗi vi phạm: không bật đèn và vượt đèn đỏ. Đàm Huy ================================== Rất nhiều báo mạng thông tin việc này. Nhưng chẳng thấy báo nào nói rõ quốc tịch của Đại gia nước ngoài coi thường luật pháp Việt. Cũng không nói rõ là họ có bị bắt không? Xử lý thế nào? Nước nào nhỉ? Thông tin nửa chừng gây tò mò quá! Chắc người ngoài hành tinh, nên chưa rõ quốc tịch và biện pháp xử lý!1 like
-
Địa Lý Tả Ao
Liêm Trinh liked a post in a topic by Cóc Vàng
Xin chào ! Tôi đã mua cả 4/5 tập sách " Phong thủy địa lý Tả Ao " của tác giả Vương Thị Nhị Mười ,do nhà XB Cà Mau phát hành ( Tập 5 chưa thấy xuất bản ) từ nhiều năm nay nhưng phần vì bận ,phần vì sách viết như thơ ca nên người đọc mà không am hiểu phong thủy thì rất khó tiếp thu . Khi đọc ta chỉ có cảm giác như đang đọc thơ ca mà thôi ,mà trong thực tế thì còn phải am hiểu cả Bát trạch,Huyền không........ thì mới làm được phong thủy chứ đâu phải chỉ học mấy cuốn đó là làm được phong thủy . Có gì sơ sài xin được chỉ giáo !1 like -
Còn sau đây Chân Tâm xin được post 1 số vòng tròn "nổi tiếng". Có những vòng tròn mà các nhà khoa học đã khám phá ra được ý nghĩa mà vòng tròn muốn truyền tải: Lời trong khung trích dẫn là lời của tác giả bài viết, Chân Tâm chỉ xin được trích dẫn lại Nguồn: vn-zoom.com Đặt thêm tấm hình này ở cuối bài và trích dẫn quan điểm của một giáo sư vật lý thiên văn nói về hình tròn xanh xanh thể hiện số Pi Còn tiếp..1 like
-
tình trạng hôn nhân của quý anh thế nào? Nghề hợp với quý anh liên quan tới đao kiếm, dao thớt, quốc xẻng, thiết bị chiếu sáng, thùng, két, tủ hộc, bàn ghế, du lịch, vận tải, thư tín, công nghệ thông tin, viễn thông, viễn thám, thịt chó chặt, gà quay, ngan quay, vịt quay, đồ lưu niệm, tẩm quất, mát xa, trang điểm, thổi kèn, khóc đám ma, đào huyệt, rửa hài cốt, quản trang, trồng cây gây rừng, tân trang tu sửa, chăn nuôi gia súc, gia cầm, động vật hoang dã.1 like
-
ko biết giờ sinh thì xem món tướng, còn món số thì ko xem nữa. Chứ cao nhân có cao đến mấy nhân mấy hạt thì cũng chịu, chả hiểu nửa đêm là nửa như thế nào để mà phán cả.1 like
-
ĐỘNG ĐẤT VÀ LÝ HỌC ĐÔNG PHƯƠNG Trong vòng 20 ngày - tính hôm nay là ngày thứ nhất - Vành đai từ Nhất Bản - Đài Loan đến New Guines sẽ có động đất. Cường đô trên 6, 5 độ richte đến 7.5 độ richte. Khả năng tập trung vào vùng lãnh thổ từ Phi luật Tân trở xuống nhiều hơn. Những trận động đất ở những nới khác vẫn có thể xảy ra.1 like
-
Nhật: Quả cầu ánh sáng lạ phát ra sau động đất 08/04/2011 08:57:51 - Một quả cầu ánh sáng lạ đã bừng sáng trong đêm sau khi xảy ra trận động đất 7,4 độ richter tại khu vực Sendai của Nhật Bản hôm 7/4. Ngay sau trận động đất, đoạn video ghi lại cảnh thành phố Sendai thuộc tỉnh Miyagi của hãng truyền hình NHK Nhật Bản đã cho thấy sự xuất hiện của một quả cầu ánh sáng lạ. Quả cầu ánh sáng bất ngờ bùng lên ở một góc trời trong đêm tối, phát sáng rực rỡ trong vài giây rồi lại phụt tắt nhanh chóng. Hiện vẫn chưa rõ nguồn gốc của chùm ánh sáng phát ra này. http-~~-//www.youtube.com/watch?v=VCd1tLAFtc0 Trận động đất xảy ra vào khoảng 23h32 theo giờ địa phương. Rung chấn đã được cảm nhận thấy ở khu vực đông bắc Nhật Bản, bao gồm thủ đô Tokyo. Cảnh báo có thể xuất hiện sóng thần 2m đã được Cơ quan Khí tượng Nhật Bản ban hành ngay sau đó. Công ty TEPCO cho biết, trận động đất không gây ảnh hưởng tới nhà máy điện hạt nhân Fukushima đã bị thiệt hại trong trận động đất mạnh hôm 11/3. Tính tới 1h30 sáng ngày 8/4, theo thống kê của chính quyền Nhật Bản có 7 người bị thương trong đó 2 người bị thương nặng trong trận động đất 7,4 độ richter. Nguyễn Hường (Theo Xinhua) ============================================== Lý học Đông phương giải thích cơ chế đông đất là do Âm khí bế sinh ra. Âm khí luôn có trong Địa cầu, tùy từng vùng kiến tạo mà Âm khí lưu chuyển hoặc bế . Cũng tùy từng vùng kiến tạo mà tính chất của khí khác nhau. Việc có quả cầu phát sáng sau động đật giải thích theo Lý học Đông phương đó là do dư lượng Âm khí thoát ra, bởi kẽ nứt nào đó xuất hiện sau trong vùng động đất. Do tính chất của đặc thù của khí vùng này, nên khi tiếp xúc với môi trường sẽ phát sáng. Sự giải thoát một phần Âm khí này, cho thấy đáng nhẽ trận động đất sẽ còn nặng hơn. Nếu không có sự giải thoát một phần Âm khí bế này. Sự phóng khí từ vùng Âm khí bế theo cách giải thích của Lý học cho thấy khả năng chống động đất trên cơ sở Lý học Đông phương, mà về lý thuyết có thể giải quyết được. Đó là sự phối hợp của khoa phong thủy Âm trạch Đông phương (Bao gồm Huyền Không) ứng dụng trong Phong thủy, Thiên văn cổ Đông phương với kiến thức khoa học hiện đại. .1 like
-
Quán vắng!
lukhach liked a post in a topic by Thiên Sứ
Đám đông và nhà khoa học Lê Đình Phương Doanh nhân Sài Gòn cuối tuần Nguồn: Chungta.com Tôn vinh tri thức, khoa học là việc tốt đẹp muôn đời, tốt hơn xuýt xoa với những giá trị ảo, những bằng cấp học vị nhan nhản được mua bằng tiền. Nhưng Toán học nào có thể thăng hoa trong vòng vây của một đám đông đang vỗ tay ồn ào kia được? 1. Sáng tạo thì luôn đòi hỏi sự cô đơn và tránh xa mọi tạp niệm của đời sống. Giữ lòng thanh tĩnh trong hân hoan là điều kiện phải có cho mọi sáng tạo tinh thần. Nhà khoa học phải đạt đến trạng thái này để bùng nổ hay kết tinh lại năng lực trí tuệ ngoại hạng của mình. Trạng thái solitude đó (tạm dịch: hoan tịnh) đòi hỏi rất nhiều điều kiện, từ mức độ cá nhân cho đến xã hội, mới có thể đưa đến một sự tĩnh tại, solitude tuyệt đối, nền tảng cho mọi sự thăng hoa và bùng nổ của trí tuệ. Hiểu theo nghĩa đó, các trường đại học danh tiếng Âu Mỹ, cùng với vị trí địa lý nơi nó tọa lạc, quả là môi trường tuyệt hảo cho mọi sáng tạo. Nơi đó, thư viện là thánh đường, thời khắc nghiên cứu thì đầy ắp niềm vui trí tuệ, lề thói xã hội thì trật tự thong dong... Rất ít bụi trần ai chen được vào sân trường đại học của họ. Cái môi trường giáo dục và xã hội tuyệt đối cần thiết cho thái độ solitude, nền tảng của sáng tạo ấy, chúng ta chưa có được! 2. Trong những ngày này, rất nhiều người Việt Nam như phát sốt lên vì giải thưởng toán học Fields. Cũng như họ, tôi hoàn toàn mù tịt về Bổ đề cơ bản cho chương trình Langlands mà Ngô Bảo Châu đã chứng minh. Lại càng không thể hình dung được thành tựu toán học này sẽ tăng được bao nhiêu phần trăm trong GDP cả nước (?). Chắc là không, nhưng chúng ta vẫn hoan hỉ, tin tức vẫn tràn ngập trên báo chí theo cách người ta ăn mừng một bàn thắng bóng đá (vốn chỉ là một trò chơi), hay một cuộc đăng quang của một cô hoa hậu chân dài nào đó. Chúng ta ăn mừng một giải thưởng toán học cao cấp, vốn là lĩnh vực am hiểu của một thiểu số rất nhỏ. Chúng ta đòi xuống đường vì Ngô Bảo Châu đã thắng trong một cuộc tranh tài mà 99% người Việt Nam không hề hiểu lấy một phân. Chúng ta vui mừng với tâm thế thèm khát sự vượt trội, với ám ảnh bệnh thành tích từ thuở sưu tập phiếu bé ngoan mỗi tuần. Tôi chắc chúng ta sẽ không hoan hỉ đến thế, nếu không có giải thưởng kia. Chúng ta cần một sự hơn thua, để tự tin xác tín Ngô Bảo Châu là người lỗi lạc. Phải chăng, chúng ta đang mừng chiến thắng với một tâm lý đầy mặc cảm, thua chị kém em đã bị dồn nén quá lâu? 3. Có lẽ, với tâm thế mặc cảm mang lớp áo dân tộc tính đó, báo chí, dân chúng, quan chức... đã quên sự mực thước trong việc tôn vinh nhà khoa học trẻ kia. Sung sướng vì Ngô Bảo Châu là người Việt đã hẳn, nhưng không thể nhận vơ để "lên mặt" về những hoa trái tri thức mà bạn ấy gặt hái được từ nước ngoài. Chúng ta nghiễm nhiên coi thành quả này là của nền giáo dục Việt Nam, vốn có sinh mà không dưỡng. Và từ đó, phóng chiếu rất nhiều can dự, cãi vã vào lộ trình khoa học của nhà toán học trẻ tuổi: chức vụ, huân chương, tặng nhà, bỏ bạc tỉ xây Viện Toán cao cấp... Thậm chí lôi cả đời tư lên mặt báo: nhà toán học "si tình" thì đã sao? 4. Tôn vinh tri thức, khoa học là việc tốt đẹp muôn đời, tốt hơn xuýt xoa với những giá trị ảo, những bằng cấp học vị nhan nhản được mua bằng tiền. Bạn giáo sư kia ắt sẽ rất hạnh phúc trong những ngày này. Công cha nghĩa mẹ ơn thầy chỉ trong một ngày, coi như đã báo đáp xong. Nhưng phải cảnh giác với cái giá của sự nổi tiếng (theo kiểu Việt Nam), đang bị khoanh vùng và mang màu sắc quốc gia thiển cận. Cái giá đó sẽ rất đắt, nếu những lời tung hô rộn ràng kia đánh mất thái độ trung dung và tâm thế an nhiên của nhà khoa học. Toán học nào có thể thăng hoa trong vòng vây của một đám đông đang vỗ tay ồn ào kia được? Chúng ta cũng vậy, đừng để những tình cảm háo thắng náo nhiệt xâm thực vào không gian sáng tạo rất yên tĩnh kia. Vui dăm bữa rồi thôi, hãy để khối óc lỗi lạc kia quay trở lại thánh đường toán học của mình, trong niềm hoan tịnh. Đừng cột vào con người ấy những tước hiệu, gánh nặng vô bổ và cồng kềnh, thừa thãi cho niềm vui toán học, vốn dĩ không dành cho số đông. Đó là cách tốt đẹp nhất mà chúng ta biểu lộ niềm tự hào của một dân tộc vừa thông minh xuất chúng, vừa... thanh lịch. Nguồn: Doanh nhân Sài Gòn cuối tuần ======================================== Đời nó thế! Không ít kẻ trong đám vỗ tay ấy vì danh vọng của Ngô Bảo Châu, chứ đâu phải vì chân lý được tôn vinh đâu! Nhắc lại câu chuyện này ra thì hơi khắc nghiệt - nhưng dù sao nó cũng là câu chuyện được in thành sách rồi: Khi Napoleon chiến thắng Ai Cập trở về, lúc ấy, ông ta chỉ là Tổng Tư Lệnh của quân đội Pháp ở Ai Cập. Dường như cả thành Pari đổ ra đường đón ông ta. Nhưng vẻ mặt của ông ta lạnh như tiền. Một sĩ quan tùy tùng hỏi ông ta: "Thưa tướng quân! Ngài không thấy vinh dự khi cả nước Pháp chào đón ngài?". Napoleon trả lời: "Khi ta lên đoạn đầu đài thì họ cũng ra xem đông như thế này!".1 like -
LĨNH ĐỊA THỜI VUA TRƯNG Nghiên cứu của Trần Đại Sỹ 6.1. Vua Bà của Trung-quốc là vua Trưng, Trong những năm 1978-1979 khi dẫn phái đoàn Ủy-ban y học Pháp-Hoa (CMFC) đi trao đổi tại các tỉnh cực Nam Trung-Quốc như Quảng-đông, Quảng-tây, Vân-nam, Quý-châu và Tứ-xuyên... tôi thấy khắp các tỉnh này, không ít thì nhiều đều có đạo thờ vua Bà. Nhưng tôi không tìm được tiểu sử vua Bà ra sao. Ngay những cán bộ Trung-quốc ở địa phương, họ luôn đề cao vua Bà, mà họ cũng chỉ biết lờ mờ vua Bà là người nổi lên chống tham quan. Khắp năm tỉnh, tôi ghi chú được hơn trăm đền, miếu thờ những tướng lĩnh thời vua Bà. Bấy giờ tôi lại tìm thấy ở Hồ-nam, nhiều di tích về đạo thờ vua Bà hơn. Tại thư viện bảo tồn di tích cổ , tôi tìm thấy một cuốn phổ rất cổ, soạn vào thế kỷ thứ tám chép sự tích nữ vương Phật Nguyệt như sau: « Ngày xưa, Ngọc-hoàng Thượng-đế ngự trên điện Linh-tiêu, có hai công chúa đứng hầụVì sơ ý hai công chúa đánh vỡ chén ngọc. Ngọc-hoàng Thượng-đế nổi giận đầy hai công chúa xuống hạ giớị Hai công chúa đi đầu thai được mấy ngày thì Tiên-lại giữ sổ tiên-giới tâu rằng có 162 tiên đầu thai xuống theo hai công chúa. Ngọc-hoàng Thượng-đế sợ công chúa làm loạn ở hạ giới, ngài mới truyền Thanh-y đồng tử đầu thai để theo dẹp loạn. Thanh-y đồng tử sợ địch không lại hai công chúa, có ý ngần ngừ không dám đị Ngọc-hoàng Thượng-đế truyền Nhị thập bát tú đầu thai theo. Thanh-y đồng tử sau là vua Quang Vũ nhà Hán. Nhị thập bát tú đầu thai thành hai mươi tám vị văn thần võ tướng đời Ðông-Hán. Còn hai công chúa đầu thai xuống quận Giao-chỉ, vào nhà họ Trưng. Chị là Trắc, em là Nhị. Lúc Trưng Trắc sinh ra có hương thơm đầy nhà, thông minh quán chúng, có sức mạnh bạt sơn cử đỉnh, được gả cho Ðặng Thi-Sách. Thi-Sách làm phản, bị Thái-thú Tô Ðịnh giết chết. Trưng Trắc cùng em là Trưng Nhị phất cờ khởi nghĩa, được 162 anh hùng các nơi nổi lên giúp sức, nên chỉ trong một tháng chiếm hết sáu quận của Trung-quốc ở phía Nam sông Trường-giang: Cửu-chân, Nhật-nam, Giao-chỉ, Quế-lâm, Tượng-quận, Nam-hảị Chư tướng tôn Trưng Trắc lên làm vua, thường gọi là vua Bà. Quang-Vũ nhà Hán sai Phục-ba tướng quân Tân-tức hầu Mã Viện. Long-nhương tướng quân Thận-hầu Lưu Long đem quân dẹp giặc. Vua Bà sai nữ tướng Phật Nguyệt tổng trấn hồ Ðộng-đình. Mã Viện, Lưu Long bị bạịVua Quang Vũ truyền Nhị thập bát tú nghênh chiến, cũng bị bại. Nữ vương Phật Nguyệt phép tắc vô cùng, một tay nhổ núi Nga-mi, một tay nhổ núi Thái-sơn, đánh quân Hán chết, xác lấp sông Trường-giang, hồ Ðộng-đình, oán khí bốc lên tới trời. Ngọc-hoàng Thượng-đế sai thiên-binh, thiên-tướng trợ chiến cũng bị bạị Ngài phải sai thần Du Liệt sang Tây phương cầu cứu Phật Như Lai. Ðức Phật sai mười tám vị Kim-cương, ba ngàn La-hán trợ chiến cũng bị bạị Cuối cùng ngài truyền Quán Thế Âm bồ tát tham chiến. Nữ vương Phật-Nguyệt với Quan-Âm đấu phép ba ngày ba đêm, bất phân thắng bại. Sau Quán Thế Âm thuyết pháp nữ vương Phật Nguyệt giác ngộ, bỏ đi tu. Ta nhân ngày lành, viết lại chuyện xưa, xin dâng đôi câu đối: Tích trù Ðộng-đình uy trấn Hán, Phương lưu thanh sử lực phù Trưng (Một trận Ðộng-đình uy trấn Hán Tên còn trong sử sức phù Trưng). Bỏ ra ngoài những huyền hoặc về Nữ-vương Phật-Nguyệt, tài liệu chứng minh: Đạo thờ vua Bà tại năm tỉnh Nam Trung-quốc là di tích của lòng tôn kính thờ anh hùng dân tộc của tộc Việt trên lãnh thổ cũ của người Việt còn sót lại. Vua Bà mà người Trung-hoa thờ như một thứ tôn giáo, chính là vua Trưng. Kết luận: « Khi đã có nữ tướng Phật Nguyệt đánh trận Trường-sa, hồ Động-đình. Mà có trận hồ Động-đình thì lãnh thổ thời Lĩnh-Nam, phía Bắc quả tới phía Nam sông Trường-giang ». 6.2. Quả có trận Trường-sa, hồ Ðộng-đình năm 39 sau Tây-lịch, Huyền sử (những cuốn phổ) nói rằng: Khi bà Trưng Nhị cùng các tướng Trần Năng, Phật Nguyệt, Trần Thiếu-Lan, Lại Thế-Cường đánh Trường-sa vào đầu năm Kỷ-Hợi (39 sau Tây-lịch). Trong trận đánh này, nữ tướng Trần Thiếu-Lan tử trận, được mai táng ở ghềnh sông Thẩm-giang (8). Thẩm-giang chính là đọan sông ngắn ở Bắc, tiếp nối với hồ Động-đình. Một cuốn phổ khác, chép vào thời Nguyễn nói rằng: Các sứ thần triều Lý, Trần, Lê khi qua đây đều có sắm lễ vật đến cúng miếu thờ bà Trần Thiếu-Lan. Năm 1980 tôi đến đây tìm hiểu. Không khó nhọc tôi tìm ra trong cuốn địa phương chí, do sở du lịch Trường-sa cấp, một đoạn chép: « Miếu thờ liệt nữ Trần Thiếu-Lan ở đầu sông Tương. Hồi cách mạng văn hóa bị phá hủy. Tượng đồng bị nấu ra. Vệ binh đỏ phá luôn cả bia đá ». Tôi tìm tới nơi, thì miếu chỉ còn lại cái nền bằng đá ong, mộ vẫn còn.(9) Kết luận: « Thời Lĩnh-Nam quả có việc Trưng Nhị, Trần Năng, Hồ Đề, Trần Thiếu-Lan, Lại Thế-Cường đánh trận Trường-sa. Trong trận, nữ tướng Trần Thiếu-Lan tuẫn quốc. Khi có trận đánh này, thì lãnh địa thời Lĩnh-Nam quả gồm có hồ Trường-sa, hồ Động-đình ». 6.3. Quả có trận Bồ-lăng, năm 42 sau Tây-lịch, Huyền sử kể rằng: ba tướng họ Đào là Chiêu-Hiển, Đô Thống và Tam-Lang được vua Trưng trao cho trấn tại Tượng-quận (Vân-nam) . Nhưng vì quân ít, thế cô, ba ông không chống lại với quân Hán, do Vương Bá chỉ huy. Ba ông đã tự tận. Hiện tại đền thờ của ba ông có đôi câu đối: Tượng-quận dương uy nhiêu tướng lược, Bồ-lăng tuẫn tiết tận thần trung. Nghĩa là: Trận Tượng-quận dương oai, rõ tài tướng giỏi. Bến Bồ-lăng tuẫn tiết, tỏ ra thần trung. Hầu hết các sử gia đều cho rằng: Bồ-lăng tức là bến Bồ-đề, ngoại ô Thăng-long. Vả lãnh thổ Việt-Nam hồi đó đâu có rộng vậy? Tôi không tin lý luận này. Tôi quyết có trận Tượng-quận. Vì sao? Vì ba ngài chiến đấu tại Tượng-quận, khi Tượng-quận thất thủ, tuẫn tiết thì tuẫn tiết tại chỗ, có đâu rút từ Tượng-quận về tới Long-biên (Hà-nội) trải mấy nghìn cây số, rồi mới tự tử? Vả cái tên bến Bồ-đề mới xuất hiện vào năm 1427-1428 khi vua Lê Thái-tổ vây Đông-đô (Thăng-long). Vì vậy, trong dịp hè năm 1982, tôi cầm đầu phái đoàn CMFC sang Vân-Nam, Trung-quốc, để nghiên cứu về một giống trà có khả năng trị tuyệt chứng Cholestérol, Triglycéride... Lợi dụng dịp nhầy, tôi quyết tìm cho ra sự thực. Ghi chú của Tăng Hồng Minh: Phái đoàn gồm: Trưởng-đoàn: Bác-sĩ Trần Ðại-Sỹ, Thành viên: Bác-sĩ Pascale Vareilla (Biologie), Claude Tarentino (Anatomie), Antonio Fernandes (Cardiologie.) Các dược sĩ: Valérie Cordinante, Jean Marie Limager. Kỹ sư canh nông Antoine Reynault, và một diễn viên điện ảnh Hương-cảng. Trong chương trình phái đoàn chỉ công tác tại các vùng thuộc Vân-Nam như: Chiêu-dương, Đông-xuyên, Khâu-bắc, Nguyên-dương, Bảo-sơn, Điền-Bắc, Côn-minh; rồi dùng phi cơ từ Côn-minh trở vềParis. Nhưng khi tới Đông-xuyên, giáo sư Trần Đại-Sỹ tìm ra dấu vết cuộc chiến giữa quân vua Trưng và quân Hán, mà không rõ ràng cho lắm. Ông dẫn phái đoàn trở lại Côn-minh, sau khi thảo luận với giáo-sư sử học Đoàn Dương của đại học Văn-sử, được giáo sư Đoàn cho biết: "Trong truyền thuyết dân gian nói rằng hồi đầu thế kỷ thứ nhất có trận đánh giữa quân vua Bà với quân Hán tại Bồ-lăng. Nay Bồ-lăng nằm trên lãnh thổ Tứ-xuyên, chỗ ngã ba sông Trường-giang và Ô-giang."Thế là giáo sư Trần Đại-Sỹ đề nghị phái đoàn dùng đường thủy về Hồ-Nam, sau đó đáp phi cơ từ Hồ-Nam ra Hương-cảng, rồi đi Paris. Trên đường từ Độ-khẩu (Vân-Nam) đi Hồ-Nam, sẽ qua... Bồ-lăng. Được đi chơi, dĩ nhiên phái đoàn mừng không sao tả siết!!!. Dĩ nhiên túi tiền của CMFC vơi đi 53.074 dollars nữa để chi cho phái đoàn. Theo tôi, với số tiền ấy, mà kết quả tìm được Tây-biên của Lĩnh-Nam, cũng rẻ chán. Thế nhưng khi trở về Paris, vụ này đồn đại ra ngoài, một Bác-sĩ Việt-Nam tên Trần L. (từng là bộ trưởng Y-tế hồi VNCH), viết thư cho ông bộ trưởng Văn-hóa Pháp, tố cáo Giáo-sư Trần Ðại-Sỹ lợi dụng chức vụ trưởng đoàn công tác y khoa, để tìm di tích cổ sử viết sách. Ông Bộ-trưởng trả lời đại ý: "Bác-sĩ Trần Ðại-Sỹ không dùng một xu (centimes) nào của chính phủ Pháp, nên bộ không có thẩm quyền." Cuối thư ông Bộ-trưởng hạ một câu: "Ví dù Bác-sĩ Trần Ðại-Sỹ có lợi dụng chức vụ, có dùng tiền của bộ Văn-hóa, mà tìm tư liệu làm giầu cho thư viện Pháp thì là điều đáng khuyến khích. Hơn nữa tài liệu đó làm lợi cho Việt-Nam, Ông (Trần L.) phải vui mừng mới phải chứ." Tăng Hồng Minh tôi là người Việt gốc Hoa, tôi xin tiết lộ một chi tiết này, để các vị độc giả Việt-Nam suy nghĩ!!! Thế là phái đoàn dùng tầu đi từ Độ-khẩu theo Kim-sa-giang (Trường-giang) qua Nam-khê, Giang-tân, Trùng-khánh, tới ngã ba sông Ô-giang, Trường-giang thì gặp bến Bồ-lăng. Tại đây tôi được sở du-lịch chỉ cho xem miếu thờ ba vị thần, tướng của vua Bà. Nhưng họ không biết tên vua Bà cùng ba vị tướng. Cả vùng này có đạo thờ vua Bà (lên đồng). Hồi trước 1949 rất thịnh. Sau cách mạng Văn-hóa (1965-1967) miếu được cấp cho dân chúng ở. Hỏi hướng dẫn viên du lịch về vua Bà, họ chỉ cho biết vua Bà là người nổi lên chống tham quan thời Hán. Tôi đến thăm miếu. Miếu khá lớn, chủ hộ ở trong miếu trước đây là cán bộ Văn-hóa Bồ-lăng. Trước miếu có nhiều câu đối, nay chỉ còn lại có ba. Ông chủ hộ khoe rằng để bảo tồn di tích văn hóa, hằng năm ông phải mua sơn tô chữ cho khỏi mất: Khẳng khái, phù Trưng, thời bất lợi, Ðoạn trường, trục Ðịnh, tiết... can vân. Nghĩa là: Khẳng khái phù vua Trưng, ngặt thời của Ngài không lâu. Ðuổi được Tô Ðịnh, nhưng đau lòng thay, phải tự tận, khí tiết ngút từng mây. Tôi xin vào trong miếu xem, thì bệ thờ nay là nơi vợ chồng ông nằm ngủ. Hai bên bệ cũng có đôi câu đối. Giang-thượng tam anh phù nữ chúa, Bồ-lăng bách tộc khốc thần trung. Nghĩa là: Trên sông Trường-giang, ba vị anh hùng phò tá nữ chúa. Tại bến Bồ-lăng, trăm họ khóc cho các vị thần trung thành. Ông chủ hộ thì cho rằng bách tộc là toàn dân Trung-quốc. Tôi giảng cho ông nghe về sự tích trăm con của Quốc-tổ, Quốc-mẫu. Vì vậy chữ bách tộc đây để chỉ người Việt. Ông thích lắm. Ông chỉ vào khoảng trống của hai cái cột thuật rằng trước kia cũng có đôi câu đối, nhưng bị vạc mất. Ông đề nghị tôi làm một đôi khác thay thế. Tôi nhờ hướng dẫn viên du lịch mua giùm hai hộp sơn. Một hộp sơn đỏ loại láng và một hộp loại thiếp vàng. Ông với tôi sơn cột mầu đỏ. Chiều hôm đó sơn đỏ khô, tôi trở lại viết bằng sơn thiếp vàng đôi câu đối có sẵn tại đền thờ ba ngài ở thôn Ngọc-động, huyện Gia-lâm, Hà-nội: Tái Bắc tức chinh trần, công cao trục Định, Bồ-lăng dương nộ lãng, nghĩa trọng phù Trưng. Nghĩa là: Ải Bắc yêu gió bụi can qua, công cao đuổi Tô Định. Bồ-lăng nổi bao đào, nghĩa nặng phù vua Trưng. Kết luận:Như vậy thì quả có trận Tượng-quận. Mà có trận Tượng-quận thì biên giới Lĩnh-Nam hồi ấy giáp Ba-Thục, tức Tứ-xuyên ngày nay. 7. Nghiên cứu những khai quật Vào những năm 1964-1965, giáo sư luật khoa Vũ Văn Mẫu đang sọan thảo tài liệu về cổ luật Việt-Nam. Người giúp giáo sư Mẫu đọc sách cổ là Hoàng-triều tiến-sĩ Nguyễn Sỹ-Giác. Cụ Giác tuy thông kinh điển, thư tịch cổ, nhưng lại không biết ngoại ngữ, cùng phương pháp phân tích, tổng hợp Tây-phương. Cụ giới thiệu tôi với giáo sư Mẫu. Tôi đã giúp giáo sư Mẫu đọc, soạn các thư tịch liên quan đến cổ luật. Chính vì vậy tập tài liệu « Cổ-luật Việt Nam và tư pháp sử » có chương mở đầu «Liên hệ giữa nguồn gốc dân tộc và Cổ luật Việt-Nam » (10). Bấy giờ tôi còn trẻ, không đủ tài liệu khai quật của Trung-Quốc, của Bắc Việt-Nam, và bấy giờ những lý thuyết về ADN chưa có hệ thống, nên có nhiều chi tiết sai lầm. Hôm nay đây, tôi xin lỗi anh linh Hoàng-triều tiến-sĩ Nguyễn Sỹ-Giác, anh linh giáo sư Vũ Văn-Mẫu. Tôi xin lỗi các vị đồng nghiệp hiện diện, xin lỗi các sinh-viên về những sai lầm đó. Triều đại Hồng-Bàng thành lập từ năm 2879 năm trước Tây-lịch, tương đương với thời đại đồ đá mài (le néolithique), tức cuối thời đại văn-hóa Bắc-sơn (11). Trong những khai quật về thời đại này tại Bắc-Việt, Đông Vân-Nam, Quảng-Đông, Hồ-Nam, người ta đều tìm được những chiếc rìu thiết diện hình trái soan, trong khi tại Nhật, Bắc Trường-giang chỉ tìm được lọai rìu thiết diện hình chữ nhật, chứng tỏ vào thời đó có một thứ văn hóa tộc Việt giống nhau. Sang thời đại văn-hóa Đông-sơn (12) hay đồ đồng (âge de bronze). Trong thời gian này đã tìm được trống đồng Đông-sơn trên bờ sông Mã (Thanh hóa). Sự thật trống đồng đã tìm thấy ở toàn bộ các tỉnh Nam Trường-giang như Hồ-nam, Quý-châu,Vân-nam, Quảng-đông, Quảng-tây, Nam-dương, Lào (13), Bắc và Trung-Việt. Nhưng ở Nam-dương, Lào rất ít. Nhiều nhất ở Bắc-Việt, rồi tới Vân-nam, Lưỡng-quảng. Phân tích thành phần gần như giống nhau. Ðồng 53%, Thíếc 15-16%, Chì 17-19%, Sắt 4%. Một ít vàng bạc. Khảo về y-phục, mồ mả, răng xương trong các ngôi mộ, qua các thời đại cho đến hết thế kỷ thứ nhất sau Tây-lịch, tôi thấy trong các vùng Nam Trường giang cho đến Trung Bắc-Việt, cùng Lào, Thái đều giống nhau. Bây giờ dùng hệ thống ADN kiểm những bộ xương, kiểm máu người sống, chúng tôi đã biện biệt được sự khác biệt vào thời Việt, Hoa lập quốc. Kết luận, « Tộc Việt quả có lĩnh địa Bắc tới hồ Ðộng-đình, Tây tới Tứ-xuyên như cổ sử nói ». 8. Tổng kết, Sáu vấn đề tôi nêu ra ở trên, rồi đi tìm, tất cả đều còn đầy đủ di tích. Như vậy: Biên giới cổ của nước Việt-Nam, với các triều đại Hồng-bàng, Âu-lạc, Lĩnh-Nam phía Bắc quả tới hồ Ðộng-đình, phía Tây giáp Tứ-xuyên. V. KẾT LUẬN: Thưa Quý-vị Quý-vị đã cùng tôi đi vào những chi tiết từ huyền thoại, huyền sử, cổ sử, cùng triết học, cho tới tin học, y học để tìm về nguồn gốc dân tộc Việt-Nam, về biên giới cổ của tộc Việt. Trong chính sử Trung-quốc, Việt-Nam đều ghi rõ ràng nguồn gốc tộc Việt, nhưng cái nguồn gốc đó căn cứ vào cổ thư của người Trung-hoa, nên hoàn toàn sai lạc. Bởi cổ thư cho rằng người Trung-hoa tự sinh ra, rằng người Việt chẳng qua do những người Trung-hoa di chuyển xuống lưu ngụ. Sự thực nhờ hệ thống ADN, chúng ta biết rằng chính những người ở châu Phi đến Đông Nam-á trước, rồi di chuyển lên Hoa-Nam. Tại Hoa-Nam giống người này lại hợp với giống người từ châu Phi sang châu Âu, rồi từ châu Âu vào Trung-á, hợp với người ở Hoa-Nam mà thành tộc Hán. Nhưng ngược lại, do cổ thư Trung, Việt, hay do ADN, chúng ta cũng biết rất rõ biên cương nước Việt thời mới lập quốc. Hồi thơ ấu, tôi sống bên cạnh những nhà Nho, chỉ đọc sách chữ Hán của người Hoa, người Việt viết. Mà những sách này đều chép rằng tộc Việt gồm có trăm họ khác nhau, mang tên Bách-Việt. Những tên Âu-Việt, Lạc-Việt, Đông-Việt, Nam-Việt, Việt-Thường đều thuộc Bách-Việt cả. Cái tên trăm họ hay trăm Việt (Bách-Việt) phát xuất từ huyền thọai vua Lạc-Long sinh ra trăm con. Trăm có nghĩa là toàn thể, tất cả, chứ không hoàn toàn là con số như ta tưởng ngày nay (14). Các vị cổ học, học cổ sử, rồi coi lĩnh địa tộc Việt bao gồm phía Nam sông Trường-giang lấy mốc là hồ Động-đình với sông Tương, núi Ngũ-lĩnh là đương nhiên. Chính hồi nhỏ, khi học tại trường Pháp, vào thời kỳ 13-14 tuổi, tôi chỉ được học vài trang ngắn ngủi về nguồn gốc tộc Việt, trong khi đó gia đình cho tôi đọc mấy bộ sử dài hàng mấy chục nghìn trang của Hoa, của Việt (Nếu dịch sang chữ Việt số trang gấp bốn, sang Pháp, Anh văn số trang gấp năm sáu). Chính tôi cũng nhìn nguồn gốc tộc Việt, lĩnh thổ tộc Việt tương tự như các nhà cổ học. Nay tôi mới chứng minh được. Phải chờ cho đến khi tôi ra trường (1964). Bấy giờ giáo sư Vũ Văn-Mẫu thạc-sĩ luật khoa nhờ Hoàng triều tiến-sỹ Nguyễn Sỹ-Giác sưu tầm tài liệu cổ luật. Cụ Giác học theo lối cổ, không biết những phương pháp quy nạp, tổng hợp nên giới thiệu giáo sư Mẫu với tôi. Ngay từ lần đầu gặp nhau, mà một già, một trẻ đã có hai cái nhìn khác biệt. Giáo sư Mẫu trên 50 tuổi mà lại có một cái nhìn rất trẻ, tôi mới có 25 tuổi lại có cái nhìn rất già về nguồn gốc tộc Việt. Qua cuộc trao đổi sơ khởi, bấy giờ tôi mới biết có rất nhiều truyền thuyết nói về nguồn gốc dân tộc Việt, mà các tác giả thiếu cái học sâu xa về cổ học Hoa-Việt đưa ra. Vì vậy tôi đã sưu tầm tất cả những gì trong thư tịch cổ, giúp giáo sư Mẫu đem viết thành tài liệu giảng dạy. Nhưng sự sưu tầm đó không đầy đủ, vì chỉ căn cứ trên thư tịch cổ. Nay tôi mới biết có quá nhiều sai lầm, tôi xin lỗi các đồng nghiệp hiện diện, xin lỗi Quý-vị. Hồi bấy giờ tôi sống ở Sài-gòn, thuộc Việt-Nam cộng-hòa đang là nước chống Cộng, nên tôi không thể sang Trung-Quốc, cũng như về Bắc tìm kiếm thêm tài liệu. Phải chờ đến năm 1976 làm việc cho CMFC, hàng năm dẫn các đồng nghiệp sang Trung-Quốc nghiên cứu, trao đổi y học, tôi mới có dịp tìm kiếm lại di tích xưa trong thư viện, trong bảo tàng viện, trên bia đá cùng miếu mạo, đền chùa và nhất là đến tại chỗ nghiên cứụ Gần đây nhờ các đồng nghiệp dùng hệ thống ADN, tôi mới biện biệt được nguồn gốc tộc Việt, biên cương thời lập quốc của tộc Việt. Hôm nay tôi xin kết luận với các bạn rằng: * Người Trung-hoa không phải là con trời như những văn gia cổ của họ viết, dù ngày nay họ còn nghĩ như vậy. Họ cũng không tự sinh ra, rồi tản đi tứ phương. * Không hề có việc người Trung-hoa trốn lạnh hay vì lý do chính trị di cư xuống vùng đất hoang, tạo thành nước Việt. Trong lịch sử quả có một số người Trung-hoa di cư sang Việt-Nam sau những biến cố chính trị. Như ngày nay người Việt di cư đi sống khắp thế giới. Lại càng không có việc người Việt gốc từ dòng giống Mã-lai như một vài người ngố ngếch đưa ra. Theo sự nghiên cứu bắng hệ thống ADN, từ cổ, giống người Trung-hoa, do giống người từ Ðông Nam-á di lên. Những người Ðông Nam-á lại đến từ châu Phi qua ngả Nam-á vào thời gian hơn 20.000 năm trước. * Người châu Phi đến BắcTrung-hoa do ngả Âu-châu rồi vào Trung-á, khoảng 15.000 năm. Rồi hai giống người này tạo thành tộc Hoa. * Tộc Việt sống rải rác từ phía Nam sông Trường-giang, xuống mãi vịnh Thái-lan. Biên giới nước Việt thủa lập quốc gồm từ Nam sông Trường giang đến vịnh Thái-lan, Ðông tới biển. Tây tới Tứ-xuyên của Trung-quốc ngày nay. Ðến đây tôi xin phép các vị giáo sư, quý khách, các sinh viên cho tôi ngừng lời. Xin hẹn lại quý vị đến tháng 11-92 tôi sẽ trình bày trước quý vị về nguồn gốc triết Việt. Trân trọng kính chào quý vị. Giáo-sư Trần Ðại-Sỹ, Giám đốc Trung-quốc sự vụ Chú giải của Tăng Hồng Minh, (1) Tiêu biểu mới nhất là một nhóm thức giả do nhà văn Vương Kỳ Sơn đứng chủ biên, đã xuất bản cuốn Việt-Nam đệ ngũ thiên niên kỷ vào năm 1994 tại Hoa-kỳ. (2) Sau này được tôn thụy hiệu là Lục-Dương. (3). Như vậy vua Lạc-Long lấy con gái của anh con bác. (4). Độc giả có thể tìm đọc tài liệu nghiên cứu này bạt quyển 1. Anh-hùng Lĩnh-nam do Nam-Á Parisxuất bản 1987 mang tên « Bản phụ chú nghiên cứu về nỏ thần ». (5). Phương pháp mà các giáo sư Tarentino, Vareilla Pascale dùng để biện biệt những bộ xương khai quật trong cổ mộ vùng Hồ-nam, Vân-nam, Quảng-châu, Quý-châu không khác các chuyên viên Hoa-kỳ trong ủy ban tìm kiếm tử sĩ Hoa-kỳ tại Việt-nam đã xử dụng. Có điều, các chuyên viên Hoa-kỳ gặp nhiều khó khăn hơn, vì phải đi vào chi tiết từng cá nhân, còn IFA chỉ phân chủng loại. (6). Xin xem Cẩm-khê-di-hận do Nam-Á Paris xuất bản 1992, để biết hai trận hồ Ðộng-đình. Một trận do Chu Tái-Kênh, Ðinh Xuân-Hoa, Phật-Nguyệt, Ðinh Bạch- Nương, Ðinh Tĩnh-Nương, Quách-Lãng đánh với Lưu-Long, Mã-Viện. Một trận do Hoàng Thiều-Hoa cùng với các tướng trên đánh với mười hai đại tướng quân Hán. (7). Tư-mã Thiên, Sử-ký, quyển 1, Ngũ-đế bản-kỷ, Trung-hoa thư cục xuất bản 1959 trang 3-6. (8). Ðộc giả muốn biết chi tiết trận đánh lịch sử này, xin đọc Ðộng-đình hồ ngoại-sử, cùng tác giả, do Nam-Á Paris xuất bản (1990). (9). Xin đọc « Mùa xuân trên hồ Động-đình tưởng nhớ Trưng-Vương » trong phần bạt Anh-hùng Lĩnh-nam, do Nam-Á xuất bản 1987. (10) Vũ Văn-Mẫu, Cổ luật Việt-nam và tư-pháp sử, quyển thứ nhất, tập thứ nhất, trang 9-51. (11). Chữ văn hóa Bắc-sơn ở đây chỉ có ý nghĩa rằng cuộc khai quật ở núi Bắc-sơn (Lạng-sơn), đã tìm thấy những cổ vật đồ đá. (Thời kỳ đồ đá) (12). Chữ văn hóa Ðông-sơn chỉ cuộc khai quật ở Ðông-sơn, đã tìm thấy đồ đồng (thời đồ đồng). (13). Hè 1992 sau khi cùng phái đoàn IFA du khảo về loại cây trị cholestérol ở Vân-nam, thời gian còn lại, Giáo-sư Trab Ðại-Sỹ đi khảo cứu xương người cùng các khai quật ở Vân-nam, Quảng Ðông (Trung-quốc), các tỉnh Bắc-thái như Nùng-khai, Thanon, U-bon, U-don Tha-ni. Giáo-sư Trần Ðại-Sỹ đã tìm lại được hai trống đồng thời vua Trưng, ở Quảng-đông, để trong bảo tàng viện địa phương. Ông đã mất rất nhiều tiền, cùng trăm ngàn khó khăn mới mua và đưa lọt về Paris. (14). Chữ trăm trong ngôn ngữ Việt có nhiều nghĩa. Có nghĩa là đời người như: Trăm năm trong cõi người ta. Chữ tài, chữ mệnh khéo là ghét nhau (Kiều) Trăm năm xe sợi chỉ hồng, Bắt người tài sắc buộc trong khung trời Trăm năm, trăm tuổi, trăm chồng, Hễ ai có bạc tôi bồng trên tay. (ca dao) Có nghĩa là chết: Khi nào cụ tôi trăm năm đi rồi. Nhân sinh bách tuế vi kỳ (Người ta sinh ra lấy trăm năm làm hẹn) Trăm năm như cõi trời chung, Có nghề cũng phải có công mới thành. (ca dao) Có nghĩa là tất cả: Trăm họ, hay trăm bệnh, Trăm hoa đua nở mùa xuân, Cớ sao cúc lại muộn buồn thế kia ? (ca dao) Trăm dâu đổ đầu tằm. (Tục ngữ) Trăm con trong huyền sử Việt hay Bách-Việt có nghĩa này. Tài liệu nghiên cứu chính: SÁCH CHỮ HÁN Tư Mã-Thiên, Sử ký, Trung-hoa thư cục Thượng-hải xuất bản 1959 Ban-Cố, Tiền Hán thư, Trung-hoa thư cục xuất bản 1959 Phạm Việp, Hậu Hán thư, Trung hoa thư cục xuất bản 1959. Hoài Nam Tử, quyển 18, Trùng Hoa thư cục Ðài Bắc xuất bản, 1959. Cố Dã-Vương, Ðịa-dư chí, Cẩm-chương thư cục xuất bản 1920. Trần Luân-Quýnh, Hải quốc kiến văn lục, cổ bản, thư viện Paris. Lê Quý-Ðôn, Phu-biên tạp lục, cổ bản của thư viện Paris. Lê Quý-Ðôn, Ðại-Việt thông sử, cổ bản của thư viện Paris. Phan huy-Ích, Lịch triều biến chương loại chí, cổ bản của thư viện Paris. Quốc-sử quán, Hoàng-Việt địa dư chí, bản của thư viện Paris. Quốc-sử quán, Khâm định Việt sử thông giám cương mục, bản của thư viện Paris. Ðịa đồ xuất bản xã, Trung-hoa nhân dân cộng hòa quốc phân tỉnh địa đồ tập, Bắc-kinh 1974. Ðại học văn khoa Hồ-nam, Hồ-nam lịch đại khảo chứng 1980. Cùng rất nhiều tài liệu không tác giả, lưu trữ tại thư viện, bảo tàng viện Hồ-nam, Quý-châu, Quảng-đông, Quảng-tây, Vân-Nam. SÁCH CHỮ PHÁP Léonard Aurouseau. La première conquête chinoise des pays anamites, BEFEO XXIII Claude Madrolle, Le Tonkin Ancien, BEFEO, XXXVII. SÁCH CHỮ VIỆT Ðào Duy-Anh, Nguồn gốc dân tộc Việt-nam, Hà-nội 1946. ===================================================== Miếu thờ Trưng Vương trên đất Hồ Nam Trên đất Trung Quốc mà lại có đền thờ Bà Trưng ? Lạ, nhưng có thật. Vì nguồn thông tin này do hai nho sỹ Việt Nam từng đi sứ sang Trung Quốc, từng nhìn thấy ngôi đền và ghi chép lại trong thơ văn của họ. Đó là Nguyễn Thực và Ngô Thì Nhậm. Nguyễn Thực (1554 - 1637) người làng Vân Điềm (tên nôm là làng Đóm), nay thuộc xã Vân Hà, huyện Đông Anh. Ông đỗ tiến sĩ nhị giáp khoa thi đình đầu tiên của nhà Lê Trung hưng mở tại Thăng Long (năm 1595). Nguyễn Thực là vị quan thanh liêm, chính trực, được người đương thời trọng vọng. Trong thời gian được cử đi sứ sang Trung Quốc, ông có làm một số thơ, nhưng sau đó bị thất lạc. Tới thế kỷ XVIII, Lê Quý Đôn sưu tầm được 10 bài, trong đó có 4 bài làm trong thời gian đi sứ. Trong 4 bài này, có một bài cho biết là ở Trung Quốc, phía nam dãy núi Ngũ Lĩnh có đền thờ Trưng vương. Đó là bài Nam hoàn chí Ngũ Lĩnh (về Nam đến rặng núi Ngũ Lĩnh): Ngũ Lĩnh điêu nghiêu trấn Việt thùy Hứa đa cảnh trí chiếm thanh kỳ Uất thông đông hậu thùy thiên cán Nùng diễm xuân tiền mai nhất chi Đồng trụ Trưng vương lưu cựu tích Thạch nhai Trưng tướng phục tùng từ Phong cương tự cổ phân trung ngoại Thậm tiễn thiên công xảo thiết thi Dịch: Núi Ngũ Lĩnh chất ngất trấn ở vùng biên cương đất Việt Biết bao cảnh trí tươi tắn kỳ lạ Sau mùa đông ngàn cây tùng xanh um Trước mùa xuân một nhành mai diễm lệ Cột đồng còn lưu dấu cũ Trưng Vương Đường đá nghiêng bên ngôi đền Trưng tướng Chốn biên cương từ xưa phân rõ trong, ngoài Rất phục thợ trời sao khéo đặt bày Tác giả viết bài này khi về tới dãy núi Ngũ Lĩnh ở Trung Quốc, tức dãy núi làm ranh giới hai nước Sở, Việt thời cổ. Sở là khu vực tỉnh Hồ Nam (phía Nam hồ Động Đình) và Việt là khu vực tỉnh Quảng Đông, Quảng Tây ngày nay. Về tứ thì đây là bài thơ đẹp một cách hồn hậu. Có thể, khi đó là cuối mùa đông nhưng gió xuân đã thổi nên tùng bách vẫn xanh um, mà một bông hoa mai trắng đã nở chào mùa xuân mới đang tới. Song, chúng tôi lại lưu ý tới một chi tiết về lịch sử ở câu thứ 5 - Cột đồng lưu dấu cũ Trưng Vương. Trưng Vương ở đây chính là vua bà Trưng Trắc của chúng ta, người đã giành lại độc lập cho đất nước và làm vua trong 3 năm, từ năm 40 đến 43. Cột đồng là muốn nhắc lại việc Mã Viện cướp các trống đồng đất Việt, đúc thành cột dựng ở một số nơi để ghi chiến công (cũng như đem về Trường An đúc ngựa đồng đặt ở cung vua). Còn dấu cũ Trưng Vương, hẳn là dùng để chỉ ngôi đền đã được dựng lên để thờ vị nữ anh hùng của dân Việt. Nói rằng đó là ngôi đền thờ bà Trưng vì còn một chứng cứ nữa. Đó là điều mà hai thế kỷ sau Ngô Thì Nhậm có dịp nhắc lại khi ông đi sứ. Ngô Thì Nhậm (1746- 1803) quê ở Tả Thanh Oai (tên nôm là làng Tó) nay thuộc huyện Thanh Trì. Năm 1793, ông có đi sứ nhà Thanh, có sáng tác tập Hoàng Hoa đồ phả - một tập thơ có cả những bức vẽ. Trong tập đó có một bài nhan đề Phân Mao lĩnh (Núi Phân Mao):Nhất đái thanh sơn Sở, Việt giao Hoàng Mao dịch lộ nhận Phân Mao Thiên thư bất tận Hành Sơn Lĩnh Địa khí hoàng phù Nhạn Trạch Mao Trưng Trắc kiếm mang khai động phủ Uy đà quế đố lạc sơn sào Phong lai giải uấn tay nam lợi Vị ứng Hùng Bi vạn nhận cao Nghĩa là: Một dải núi xanh ở nơi giáp giới với Sở và Việt Trên đường đến trạm Hoàng Mai nhận ra đó là núi Phân Mao (Ranh giới của Trung Hoa là do) Sách trời định ra không quá núi Hành Sơn (1) Khí đất làm trôi ngược lông chim nhạn ở Nhạn Trạch (về phía nam) Lưỡi kiếm của bà Trưng mở ra động phủ Sâu quế của Triệu Đà còn đầy trong hang núi Gió từ tây nam làm nguôi cơn nồng Coi thường núi Hùng Bi dù cao tới muôn sải (2) Ngô Thì Nhậm có lời chú thích rằng: “Núi Phân Mao ở địa giới Hành Sơn, tỉnh Hồ Nam, có cỏ mao rẽ hai ngả Nam Bắc, trên đường đi có biển đề Phân Mao lĩnh”. Như vậy thì núi này là chỗ ranh giới hai nước Sở, Việt. Như đã nêu ở trên, Sở là khu vực tỉnh Hồ Nam và Việt là khu vực hai tỉnh Lưỡng Quảng ngày nay. Và vậy là, theo bài thơ này, tại Hồ Nam có đền thờ bà Trưng Trắc. Không rõ về sự kiện này thì Ngô Thì Nhậm rút từ tư liệu nào? Chính sử Việt Nam và Trung Quốc không có ghi chép gì về sự kiện đó. Có thể đó chỉ là truyền thuyết ? Nhưng cơ sở để hình thành truyền thuyết này thì có thể giải thích được. Các sách chính sử có ghi là sau khi Mã Viện hoàn thành công việc xâm lăng đã bắt trên 300 cừ suý (có thể hiểu là “tướng lĩnh cừ khôi”) người Việt đưa về Trung Quốc, an trí tại Linh Lăng. Linh Lăng chính là phần đất phía Nam tỉnh Hồ Nam. Số ba trăm cừ suý đó, tất phải là các thủ lĩnh nghĩa quân, tướng lĩnh của Hai Bà và các lạc hầu, lạc tướng, đã kiên quyết chống lại quân Mã Viện. Những người dân Việt yêu nước này, tuy bị đầy ải xa quê hương nhưng vẫn hướng về đất Tổ, lập “miếu Bà Trắc” để tưởng nhớ thủ lĩnh của mình, thể hiện ý chí bất khuất của người Việt. Những câu chuyện về cuộc khởi nghĩa kháng chiến ngày đó tất cũng được lưu truyền trong cộng đồng đó, nhưng rồi trải qua bao đời, chuyện bị “khúc xạ”, trở thành truyền thuyết Hai Bà Trưng đánh Mã Viện trên đất Hồ Nam. Miếu Bà Trắc ở bên hồ Động Đình đúng là biểu tượng hiên ngang bất khuất của người Việt thời Hai Bà Trưng, dù bị tách khỏi quê hương. Còn về cột đồng được nhắc tới trong thơ Nguyễn Thực thì có thể hiểu là Mã Viện sau khi an trí các cừ suý Việt ở Linh Lăng thuộc Hồ Nam, Ngũ Lĩnh thì cho dựng một (hoặc nhiều) cột đồng để tự biểu dương chiến công. Nhưng các cừ suý Việt đã xây ngay đền thờ Hai Bà ở chỗ có cột đồng nọ để khẳng định bản lĩnh của cộng đồng mình. Dù sao, “Miếu thờ Trưng Vương” ở đất Hồ Nam là có thật. Nguyễn Vinh Phúc Báo hanoimoi.com.vn ------------------------ (1) Hành Sơn: tên dãy núi trùng điệp trên địa bàn huyện Hành Dương. (2) Hùng Bi là một dãy núi ở huyện Kỳ Dương, huyện cực Nam của tỉnh Hồ Nam. Dị bản của bài thơ Đây là dị bản của bài thơ : Bà Trưng quê ở Châu Phong Giận người tham bạo thù chồng chẳng quên Chị em nặng một lời nguyền Phất cờ nương tử thay quyền tướng quân Ngàn tây nổi áng phong trần Ầm ầm binh mã xuống gần Long Biên Hồng quần nhẹ bước chinh yên Đuổi ngay Tô Định, dẹp yên biên thành Kinh kỳ đóng cõi Mê Linh Lĩnh Nam riêng một triều đình nước ta Ba thu gánh vác sơn hà Một là báo phục hai là Bá Vương Uy thanh động đến Bắc phương Hán sai Mã Viện lên đường tấn công Hồ Tây đua sức vẫy vùng Nữ nhi địch với anh hùng được sao! Cẩm Khê đến lúc hiểm nghèo Hai Bà thất thế cùng liều với sông! Phục Ba mới dựng cột đồng Ải quan truyền dấu biên cương cõi ngoài Trưng Vương vắng mặt còn ai Đi về thay đổi mặc bầy Hán quan ./.. (Trước là nghĩa, sau là trung Kể trong lịch sử anh hùng ai hơn.?/.) ===================================================== Khởi nghĩa Hai Bà Trưng trong sách sử Trung Quốc Cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng (năm 40 - 43 sau Công nguyên) là một sự kiện trọng đại của lịch sử Việt Nam, được coi là biểu tượng cho ý chí độc lập của dân tộc Việt Nam. Hai Bà Trưng được coi là những người anh hùng đầu tiên của sự nghiệp giữ nước, hàng trăm nơi trên đất nước ta có đền thờ Hai Bà và các vị tướng theo Hai Bà đánh giặc. Phạm vi hoạt động của cuộc khởi nghĩa lan rộng tới nhiều vùng đất nay thuộc lãnh thổ Trung Quốc, ở một số địa phương bên Trung Quốc cũng có đền thờ Hai Bà và dấu tích cuộc khởi nghĩa này. Do vậy, cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng cũng được những người viết sử Trung Quốc đề cập tới. Xin điểm lại một số ý kiến đánh giá về cuộc khởi nghĩa này qua các ấn phẩm được xuất bản công khai ở Trung Quốc từ năm 1950 đến những năm gần đây để bạn đọc tham khảo. file:///C:/Users/THIENSU/AppData/Local/Temp/msohtmlclip1/01/clip_image005.jpg Tranh Hai Bà Trưng đánh đuổi Tô Định (Tranh dân gian Đông Hồ). 1. Vào những năm 50, sách Trung Quốc thông sử giản biên của Phạm Văn Lan viết: “Khi Tô Định làm Thái thú Giao Chỉ, y là một tên quan tham tàn ác, mở mắt chỉ nhìn thấy tiền, nhắm mắt làm việc. Năm 40, con gái lạc tướng huyện Mê Linh, quận Giao Chỉ là Trưng Trắc, cùng với em gái là Trưng Nhị khởi binh phản kháng, quần chúng nhân dân người Việt, người Lý ở Cửu Chân, Nhật Nam, Hợp Phố… nổi dậy hưởng ứng. Trưng Trắc lấy được 65 huyện thành, tự lập làm vua. Sách Hậu Hán thư viết: “Trưng Trắc rất hùng dũng, bị Tô Định trừng phạt, phẫn nộ khởi binh”, do đó là cách nói sai lầm. Nếu Trưng Trắc chỉ vì phẫn nộ cá nhân thì tại sao người Việt người Lý ở 4 quận lại đứng dậy hưởng ứng? Tại sao thứ sử thái thú bị vây hãm ở trong thành, không nhận được sự viện trợ của cư dân? Đủ thấy những tên Thứ sử, Thái thú ấy đều là bọn quan lại tham lam tàn ác giống như Tô Định, từ lâu đã bị cư dân chán ghét. Thắng lợi của Trưng Trắc chính là vì hành động của bà thuận theo ý muốn chung là đánh đuổi bọn quan lại tham lam tàn ác. Song Trưng Trắc tách khỏi triều Hán, tự lập làm vua, trong điều kiện thời bấy giờ vẫn chưa phù hợp với lợi ích chung của người Việt người Lý. Về kinh tế vẫn cần thiết giữ mối liên hệ với triều Hán, không có quan hệ về chính trị lại muốn duy trì những mối liên hệ kinh tế ấy đương nhiên là rất khó khăn… Lúc bấy giờ người Việt người Lý về kinh tế giữ mối liên hệ với triều Hán là có lợi, điều đó là quyết định Mã Viện là người chiến thắng còn Trưng Trắc là kẻ chiến bại… Tại Quận Giao Chỉ, Mã Viện đã xây dựng thành quách, củng cố địa vị của quan lại Hán; đào mương dẫn nước đem lại lợi ích cho nông nghiệp của người Việt. Lại tâu với triều đình (nhà Đông Hán) huỷ bỏ hơn mười điều luật của người Việt không phù hợp với luật của người hán. Có thể thấy được là, trong xã hội văn hoá còn thấp kém, luật pháp thường là rất tàn khốc. Mã Viện huỷ bỏ hơn 10 điều luật của người Việt đã giúp đỡ lạc dân giảm nhẹ được áp bức của Lạc Vương” (1). 2. Vào những năm 60, sách Thống sử thế giới của Chu Nhất Lương chủ biên viết: “Trong thời kỳ nhà Hán thống trị Việt Nam, nhân dân Việt Nam bị bóc lột giai cấp và áp bức dân tộc ngày càng trầm trọng, giữa bọn bóc lột mới xuất hiện là Lạc tướng với chính quyền nhà Hán cũng tồn tại mâu thuẫn, ra sức muốn thoát khỏi sự thống trị của triều đình nhà Hán. Mâu thuẫn dân tộc và mâu thuẫn giai cấp đan xen vào nhau, và ngày càng gay gắt, cuối cùng đã dẫn đến khởi nghĩa của nhân dân Việt Nam do Hai Bà Trưng lãnh đạo. Vào đầu thời nhà Đông Hán, Thái thú Giao Chỉ là Tô Định vừa tuỳ tiện nâng cao mức bóc lột với nhân dân, vừa ra sức áp chế Lạc tướng, năm 40 giết chết Lạc tướng Thi Sách, vợ Thi Sách là Trưng Trắc đầu tiên khởi nghĩa chống lại, cùng với em là Trưng Nhị trở thành lãnh tụ của nghĩa quân, sử sách gọi là khởi nghĩa đánh bại quân chiếm đóng của triều đình nhà Hán, đánh chiếm được 65 thành ấp, Trưng Trắc tự lập làm vua. Khởi nghĩa ở Giao Chỉ rất nhanh chóng nhận được sự hưởng ứng của nhân dân ở hai quận Cửu Chân và Nhật Nam, thanh thế rất mạnh mẽ. Năm 42, Mã Viện nhận được lệnh đem quân sang trấn áp. Cuối cùng quân khởi nghĩa đã thất bại. Năm 43 Hai Bà Trưng bị giết hại. Khởi nghĩa Hai Bà Trưng có ý nghĩa trọng đại trong lịch sử Việt Nam. Đây là cuộc đấu tranh với quy mô rộng lớn đầu tiên chống lại áp bức dân tộc và áp bức giai cấp của vương triều phong kiến Trung Quốc. Mục đích trực tiếp của khởi nghĩa là tranh thủ độc lập. Vì triều đình nhà Hán lớn mạnh, so sánh lực lượng quá mạnh - yếu cho nên chưa thể thực hiện được độc lập. Nhưng khởi nghĩa đã giáng mạnh vào bọn thống trị buộc chúng phải đưa ra một số nhượng bộ khôi phục lại một số tập quán của Việt Nam, hạn chế bóc lột quá nặng, làm thuỷ lợi đào mương dẫn nước… Những biện pháp nhượng bộ đó, chính là kết quả của đấu tranh khởi nghĩa của Hai Bà Trưng” (2). 3. Vào đầu những năm 80, sách Cổ Đại Trung - Việt quan hệ sử tư liệu tuyển biên viết: “Cai trị của Đông Hán ở Giao Chỉ giống như thời Tây Hán. Vì sự áp bức và bóc lột tàn bạo của vương triều Đông Hán và bọn quan lại địa phương (Thứ sử và Thái thú người Hán), dã dẫn đến phản kháng mãnh liệt và khởi nghĩa liên tục của nhân dân các dân tộc ở vùng Giao Chỉ, trong đó quy mô lớn nhất là khởi nghĩa Hai Bà Trưng nổ ra vào năm 40. Cuộc khởi nghĩa này lan rộng ra cả 4 quận Giao Chỉ, Cửu Chân, Nhật Nam và Hợp Phố (Quảng Tây - Trung Quốc), nhân dân các dân tộc đã tham gia vào, kéo dài được 3 năm”. 4. Thời gian gần đây, trong bài viết nhan đề Nghiên cứu đối với việc Mã Viện chinh phục Giao Chỉ (Đối Mã Viện chinh phục Giao Chỉ đích tham thảo) trong tập bài nghiên cứu về lịch sử quan hệ Trung - Việt được xuất bản tại Quảng Tây, 1992, tác giả Hoàng Tranh viết: “Vùng Giao Chỉ trước khi vương triều phong kiến Trung Quốc đặt thành quận huyện, chưa xuất hiện chính quyền nhà nước độc lập” (trang 4). Do vậy, “Khởi sự của Hai Bà Trưng nổ ra vào thế kỷ thứ nhất, thì lúc bấy giờ, rõ ràng Giao Chỉ nằm trong bản đồ của Trung Quốc, là một quận của vương triều Đông Hán… Do đó việc Mã Viện chinh Giao Chỉ chỉ thuộc vào vấn đề nội bộ của Trung Quốc thời bấy giờ, chứ không mang tính chất xâm lược của một quốc gia có chủ quyền đối với một quốc gia có chủ quyền khác” (trang 4). Khi bàn về tính chất của cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng, tác giả viết: “Giao Chỉ là quận huyện của vương triều phong kiến, các Thái thú của quận do chính quyền trung ương phái đến, họ tiến hành thống trị theo phương thức của chủ nghĩa phong kiến, ra sức làm cho chế độ phong kiến thấm sâu vào toàn bộ vùng Giao Chỉ…” (trang 6). Thế là ở vùng Giao Chỉ, “bắt đầu xuất hiện chế độ sở hữu ruộng đất của địa chủ phong kiến. Chế độ sở hữu ruộng đất phong kiến đó cũng như chế độ phu thuế phong kiến gắn liền với chế độ ruộng đất phong kiến đó, vào thời kỳ đầu của xã hội phong kiến Trung Quốc lúc bấy giờ, là một quan hệ sản xuất tiến bộ” (trang 7). Các huyện thuộc quận, trong thực tế vẫn còn Lạc tướng chủ nô tương đương với huyện lệnh, nắm giữ. Lạc tướng làm việc căn cứ theo những cái của chế độ nô lệ, có ý đồ muốn duy trì chế độ nô lệ lạc hậu. Như thế xoay quanh vấn đề phong kiến hóa và chống lại phong kiến hoá, giữa giai cấp địa chủ phong kiến mà đại biểu là giới thống trị nhà Đông Hán với quí tộc chủ nô ở Giao Chỉ mà đại biểu là các Lạc tướng đã nảy sinh mâu thuẫn và đấu tranh không thể điều hoà được (trang 6). Cuộc đấu tranh này cũng diễn ra trong lĩnh vực hình thái ý thức thuộc kiến trúc thượng tầng, thể hiện qua “bọn Thái thú Đông Hán ra sức thi hành luật pháp phong kiến nhằm thay thế cho luật pháp của quí tộc chủ nô… đã vấp phải sự thù địch và chống lại của các Lạc tướng” (trang 7). Trưng Trắc là hậu duệ của Lạc Vương con gái của Lạc tướng huyện Mê Linh, do đó là một nhân vật đại biểu rất có ảnh hưởng trong tầng lớp quí tộc chủ nô ở Giao Chỉ. Mê Linh là quận trị của quận Giao Chỉ thời bấy giờ, cũng là trung tâm diễn ra phong kiến hoá của vương triều Đông Hán ở Giao Chỉ. Trưng Trắc đã nhận thấy sự nguy hại của chế độ phong kiến mà quan lại Đông Hán thi hành gây ra cho quí tộc chủ nô mà Bà là đại biểu. Trưng Trắc “hùng dũng” không chịu sự trói buộc, dám coi thường và chống lại pháp lệnh phong kiến, bị Tô Định ràng buộc theo luật pháp lại càng căm phẫn. Trưng Trắc cùng với chồng là Thi Sách, con trai của một Lạc tướng khác, đã nổi dậy, gây rối. Bọn quí tộc chủ nô liên kết thành liên minh với nhau, công khai chống lại chính quyền phong kiến Đông Hán. Thái thú Tô Định thẳng tay đàn áp Thi Sách. Trưng Trắc lập chí báo thù, cùng em gái là Trưng Nhị tập hợp bọn Lạc tướng ở các nơi “khởi binh phản loạn” chống lại chính quyền nhà Đông Hán. Hai Bà Trưng được sự ủng hộ của quí tộc chủ nô, đứng dưới cờ đánh đuổi Tô Định, chiếm được một số thành ấp ở Giao Chỉ và Cửu Châu là những nơi vốn bị các Lạc tướng khống chế, tự lập làm vua. “Khởi sự của Hai Bà Trưng nổ ra ở Giao Chỉ vào thế kỷ thứ nhất, không phải là cuộc khởi nghĩa nhân dân, mà là một cuộc bạo loạn chống lại phong kiến hoá do quí tộc chủ nô phát động. Chính quyền mà Hai Bà Trưng lập ra không phải là chính quyền của nhân dân khởi nghĩa, mà là chính quyền cát cứ phân liệt của quí tộc chủ nô. Trong thời kỳ đang lên của xã hội phong kiến Trung Quốc, khi quan hệ sản xuất phong kiến ở Giao Chỉ vẫn là một loại quan hệ sản xuất mới được hình thành, trong tình hình Trung Quốc xây dựng nhà nước phong kiến mới ra đời nhằm duy trì chế độ nô lệ lạc hậu, bất cứ hành động điên cuồng nào muốn xây dựng chính quyền cát cứ tạo ra phân liệt ở trong nước, thì đều là hành động đi ngược lại phương hướng phát triển của lịch sử xã hội. Vì thế, khởi nghĩa của Hai Bà trưng, xét về bản chất, không phải là tiến bộ mà là sự thụt lùi” (trang 8 - 9), tính chất của nó là “bạo loạn phản cách mạng” (trang 10). “Mã Viện chinh phục Giao Chỉ hoàn toàn là sự nghiệp tiến bộ thích ứng với trào lưu lịch sử, Mã Viện quyết không phải là một người có tội đối với lịch sử, mà là một nhân vật lịch sử có đóng góp một sự phát triển của xã hội” (trang 14). Giới thiệu một số ý kiến được nêu lên trong một số ấn phẩm sử học của Trung Quốc qua các thời kỳ khác nhau, về cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng, bạn đọc có thể thấy được những biến đổi theo các đánh giá của mỗi thời kỳ. Khỏi phải bình luận nhiều khi thấy những đánh giá từ những năm 60 về cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng từ chỗ “là cuộc đấu tranh chống áp bức, tranh thủ độc lập của nhân dân Việt Nam”, đến những năm gần đây chỉ coi là cuộc “khởi binh phản loạn”… Sự xuyên tạc ấy không chỉ là sự bóp méo lịch sử mà còn là sự xúc phạm đến những tình cảm thiêng liêng không chỉ của nhân dân và giới sử học Việt Nam. Chú thích 1. Phạm Văn Lan: Trung Quốc thông sử giải biên. Tập 2. Trung văn, Bắc Kinh, Nxb Nhân dân, in lần thứ 3, 1961, tr 195 - 196. 2. Thông sử thế giới do Chu Nhất Lượng… chủ biên. tập 2. Bắc Kinh, Nxb Nhân dân, 1962, tr 395. * Những chữ viết nghiêng do chúng tôi nhấn mạnh. V.P.1 like
-
Posted Image Bức tranh dân gian về ông Táo Tranh ông Công Posted Image Cảm ơn bạn cung cấp hai tranh dân gian Việt Nam thật là hay, rò ràng Ông Thổ Thần và Ông Táo không dính dáng gì nhau. Tranh Ông Táo (Đầu Rau=lướt=Táo) có hai ông hai bên và giữa là bà. Hoành phi là chữ “Táo Quân Vị” (Vị là Người=Ngài=Ngôi=Mối=Mùi=Vui=Vị).Câu đối hai bên là “Tháng Biến Bất Hoa”, “Năm Từng Bần Qúi” là lời răn: Trong tháng có thay đổi, lúc chẳng được gì, lúc được nhiều; trong năm cũng từng khi nghèo, từng khi sang;(người nhà liệu mà cư xử). Tranh Thổ Thần có hoành phi là “Thổ Công Vị”, câu đối là “Thổ phần phù trợ; Trạch thượng bình an” tức có Thần Đất giúp thì nhà ở trên được bình yên. Cái hay là Thổ thần có bà ngồi bình đẳng bên cạnh, rõ ràng là bà vợ chứ không phải nàng hầu. Tư duy Việt quả là tự do bình đẳng, dù là Thần cũng có vợ, tất phải đẻ con như dân thường.1 like
-
Từ đây cho đến 35t sự nghiệp của cháu còn nhiều đổi dời /phải ngoài 35t cơ nghiệp mới ổn định và công danh mới toại nguyện và vững chắc /trong năm Dần cháu có thể bị thay đổi công việc làm hay chổ ở /trong khoảng thời gian nầy cứ 1 năm tốt 1 năm xấu ,cháu nhớ lấy mà kiễm nghiệm ,về việc học hành cho 3 năm tới thì thấy cháu đã dậm chân tại chổ rồi .1 like
-
Tiếng trống đồng Mê Linh Trương Thái Du Viết tại Đà Lạt, tháng Tư 2005 Đền thờ Hai Bà Trưng ở Vĩnh Phú Tìm hiểu về cổ sử Việt Nam là một đề tài phức tạp, hấp dẫn nhưng cũng gây nhiều tranh cãi. Chúng tôi xin giới thiệu bài viết của nhà sưu khảo độc lập Trương Thái Du quanh vấn đề tìm lại manh mối về Hai Bà Trưng. Nội dung trong bài viết là quan điểm riêng của tác giả. Rất mong nhận được ý kiến tranh luận, phản hồi từ quý vị độc giả trong tinh thần cởi mở, tương kính và lành mạnh. Lời phi lộ: Bài viết này tiếp tục chuỗi tìm hiểu cổ sử Việt Nam của tác giả và nằm trong hệ thống các hệ quả từ một cách tiếp cận chưa được thảo luận rộng rãi. Về cơ bản cách tiếp cận này như sau: 1. Giao Chỉ nguyên nghĩa là một khái niệm nói về vùng đất phía nam vương quốc của Đường Nghiêu – Ngu Thuấn. Giao Chỉ đầu thời Chu chính là Đan Dương (nay thuộc Hồ Bắc, Trung Quốc). Sau hàng ngàn năm nam tiến của các đoàn quân đế quốc, khái niệm Giao Chỉ cũng dịch chuyển dần về phương nam. Chỉ đến thời Đông Hán, Giao Chỉ mới biến thành địa danh cố định và xác thực trên địa đồ. 2. Nhà nước Văn Lang sơ khai của người Lạc Việt được hình thành tại Động Đình Hồ (Hồ Nam, Trung Quốc) khoảng năm Nhâm Tuất 1199 TCN. Các vua Hùng cuối cùng trong số 18 vua Hùng đã chạy giặc Sở xuống đồng bằng Tây Giang, Quảng Tây, Trung Quốc và dựng lại phiên bản nhà nước sơ khai như Văn Lang Động Đình Hồ là Văn Lang Tây Giang. “Thục Vương tử” tên Phán của nước Thục (Quí Châu – Tây bắc Quảng Tây) đã thôn tính Văn Lang Tây Giang và dựng lên nước Tây Âu Lạc. Không ít cư dân Văn Lang Động Đình Hồ tiếp tục di chuyển xuống đồng bằng sông Hồng trước và sau thời điểm 179 TCN (năm Triệu Đà thôn tính Tây Âu Lạc). Ở mảnh đất Việt Nam cổ, đoàn lưu dân này vẫn tổ chức xã hội theo mô hình Văn Lang Động Đình Hồ, song các nhóm thị tộc mẫu hệ không còn liên kết chặt chẽ với nhau tạo thành nhà nước sơ khai. Vua Hùng của họ chỉ còn là thủ lãnh tự trị từng khu vực nhỏ, tức là như tù trưởng, tộc trưởng mà thôi. 3. Địa bàn của người Lạc Việt cổ gồm Hồ Nam, Quảng Tây, Quảng Đông, Bắc Việt Nam và đảo Hải Nam. Người Lạc Việt gọi tổ quốc mình là Đất Nước, khi ký âm bằng Hán tự nó trở thành Âu Lạc. Lạc Việt chính là Nước Việt hay Việt Thường Quốc. Người Lạc Việt ủng hộ Triệu Đà lập nên nước Nam Việt có kinh đô tại Phiên Ngung cũng gọi nơi ấy là Âu Lạc. Từ đây sinh ra từ Tây Âu Lạc tương đương với Tây Âu, nghĩa là vùng đất phía tây Phiên Ngung. Chữ Tây này tồn tại cho đến hôm nay trong trong tên gọi hiện đại của vùng đất này là Quảng Tây. Do đó không tồn tại quốc gia Âu Lạc tại đồng bằng sông Hồng trước công nguyên. Sau năm 179 TCN người Lạc Việt ở Tây Âu Lạc chạy giặc Triệu Đà xuống Bắc Việt đã dung hòa và pha trộn con người cũng như lịch sử với những người anh em cùng cội rễ Lạc Việt Động Đình Hồ. Chính cội rễ ấy đã che hết những mối nối ký ức, những khoảng trống và “mưu mô” của sử sách Trung Quốc, biến cổ sử Việt Nam thành một hệ thống vừa ít tư liệu vừa phức tạp nhưng cực kỳ mâu thuẫn. Mặc dù còn rất nhiều sai sót, nhầm lẫn và mâu thuẫn trong các bài viết đã phố biến đây đó, tác giả hy vọng cách tiếp cận cốt lõi của mình nên được các nhà sử học chuyên nghiệp tham khảo nghiêm túc. Trong khi vẫn tiếp tục chỉnh lý chiều sâu văn bản cho một tập hợp mới nhằm đi đến xuất bản chính thức, sự mở rộng phạm vi của cách tiếp cận này là cần thiết. Mùa xuân 2005, tròn 1962 năm ngày Hai Bà Trưng bỏ mình vì nước, xin được viết bài này như nén hương lòng thành kính dâng lên Hai Bà. Mong âm linh liệt mẫu giúp đỡ con cháu Việt Nam của mình làm sống dậy tiếng trống đồng bất khuất của nền văn minh Lạc Việt, để người đời có cái nhìn khác đi với hình ảnh sáo mòn vay mượn “phất cờ khởi nghĩa” của cuộc binh biến mang tên Tự Do mà Trưng Trắc là lãnh tụ, là vị Vua Bà bất tử đầu tiên và cũng là cuối cùng của mảnh đất tiền Việt Nam. 1. Thời Hai Bà Trưng, mẫu hệ hay mẫu quyền? Rất nhiều sử gia đã đồng tình rằng theo Thủy Kinh Chú, chồng bà Trưng Trắc tên Thi. Ông chẳng những không hề bị Tô Định sát hại, mà còn sát cánh bên phu nhân của mình trong cuộc nổi dậy năm 40. Khi Mã Viện tấn công, đuối sức, ông bà bỏ chạy vào Kim Khê, ba năm sau mới bị bắt. Chuyện tiếp theo như thế nào thì Thủy Kinh Chú bỏ lửng. Chỉ biết dân gian truyền tụng Hai Bà Trưng tuẫn tiết ở Hát giang. Có giả thuyết Hai Bà sau đó bị Mã Viện bắt và chém đầu rồi đem thủ cấp về Tàu báo công, cho nên trong đền thờ Hai Bà ở Hát Môn có tục kiêng màu đỏ. Hậu Hán Thư chép bà Trưng Trắc bị xử trảm. Ở đây tôi muốn trả lời câu hỏi: Tại sao sử gia phong kiến Việt Nam lại mượn tay Tô Định khai tử ông Thi? Ý kiến phổ thông của đa số học giả trong thế kỷ 20 cho rằng các nhà Nho, khi viết sử phải “giết” ông Thi, vì nếu ông còn sống mà bà Trưng Trắc làm vua thì ngược lẽ… thánh hiền Khổng – Mạnh! Họ cũng thống nhất cư dân Việt cổ hình như theo chế độ mẫu hệ - bằng chứng là thuộc tướng của Hai Bà Trưng phái nữ rất nhiều, nào là Lê Chân (thánh chân công chúa), Ngọc Lâm (thánh thiên công chúa), Vũ Thục Nương (bát nàn công chúa), Thiều Hoa (đông quân tướng quân), Diệu Tiên v.v. Giải thích như thế chưa thuyết phục lắm. Theo tôi sự bịa đặt còn ẩn chứa hàm ý sâu xa khác, nó làm người ta không chú tâm đến địa điểm của cuộc nổi dậy. Trưng Trắc và Trưng Nhị đã tập hợp lực lượng và tuyên chiến với Tô Định tại Mê Linh, với sự ủng hộ mạnh mẽ của mẹ mình là bà Man Thiện. Thành công, Trưng Trắc xưng vương và đóng đô cũng tại Mê Linh, nơi chôn nhau cắt rốn của bà. Giả sử Hai Bà Trưng không có em trai. Khi chồng chết, Trưng Trắc (lúc này đang ở bên chồng) về lại quê cùng giữ quyền thế tập với em gái, rồi “Hận người tham bạo, thù chồng chẳng quên… phất cờ khởi nghĩa”. Chuỗi luận thật tròn trịa, dễ ru ngủ người đời. Thật sự nó đã ru biết bao thế hệ người Việt ngủ ngon hằng ngàn năm. Quả tình ông Thi chẳng bị ai ám hại. Ông là con Lạc tướng Châu Diên, rất “môn đăng hộ đối” với Trưng Trắc, chứ không phải một anh lực điền tứ cố vô thân được gia chủ nuôi và gửi gắm con gái rượu (theo quan điểm phụ hệ sau này). Không có ông bên cạnh Trưng Trắc đánh đuổi Tô Định, sẽ không ai thắc mắc khi lấy vợ ông đi ở rể hay rước dâu về. Nếu lúc ấy người Việt cổ đã theo chế độ phụ hệ, Trưng Trắc phải về nhà chồng. Và nếu hưng binh tất bà sẽ chọn Chu Diên chứ không phải Mê Linh. Do đó ta thấy vai trò của kẻ làm dâu trong một gia tộc danh giá thời ấy hơi khác thường. Vai trò của ông Thi trong cuộc binh biến và cả sau khi binh biến thành công khá mờ nhạt. Thay vào đó là hình ảnh Trưng Nhị, em gái Trưng Trắc. Đó là điều hiển nhiên, xã hội mẫu hệ cho Trưng Trắc quyền thế tập và Trưng Nhị là hàng thừa kế thứ nhất Trương Thái Du Đến đây nên mạnh dạn kết luận khi phối ngẫu với Trưng Trắc, ông Thi phải theo vợ sang Mê Linh. Vai trò của ông Thi trong cuộc binh biến và cả sau khi binh biến thành công khá mờ nhạt. Thay vào đó là hình ảnh Trưng Nhị, em gái Trưng Trắc. Đó là điều hiển nhiên, xã hội mẫu hệ cho Trưng Trắc quyền thế tập và Trưng Nhị là hàng thừa kế thứ nhất, thậm chí Trưng Nhị còn có thể thừa kế cả anh rể mình nữa, điều này hoàn toàn không có gì xa lạ với nhiều bộ tộc còn chậm tiến trên thế giới ở thế kỷ 20 vừa qua. Giả thuyết này có thể lấy chuyện hôn nhân của Mỵ Châu và Trọng Thủy trước đó hơn 200 năm làm một điểm tựa. Hình ảnh truyền thuyết An Dương Vương cưỡi ngựa mang Mỵ Châu bỏ chạy khỏi Cổ Loa, cũng mơ hồ cho thấy Mỵ Châu cần được bảo vệ như một “thái tử” trong cơn nguy cấp. Có thể tham khảo thêm bộ sử “Tam Quốc Chí” của Trần Thọ (năm 233 – 297): “Ở hai huyện Mê Linh của quận Giao Chỉ và Đô Lung của quận Cửu Chân, anh chết thì em trai lấy chị dâu”. Tôi dám khẳng định chắc nịch rằng thời Hai Bà Trưng, cư dân vùng đồng bằng sông Hồng vẫn còn theo chế độ mẫu hệ nếu không muốn nói là mẫu quyền. Khái niệm mẫu hệ và mẫu quyền có khác nhau nhưng phụ hệ và phụ quyền lại gần như là một. Chế độ mẫu hệ qui định những đứa con trong một gia đình mang họ mẹ, chỉ các con gái mới được giữ quyền thừa kế. Mẫu quyền thì đi xa hơn, quyền hành gia đình và xã hội nằm tất ở nữ giới, lãnh tụ phải là nữ giới. Do đó việc tồn tại các nam thủ lĩnh trong những bộ tộc Việt cổ không hề mâu thuẫn với nội dung mẫu hệ. Nội dung mẫu hệ này xuyên suốt trong hầu hết các văn bản huyền sử Việt Nam, mặc dù nó đã bị chế độ phụ hệ nối tiếp bóp méo, biên tập khá bài bản và công phu. Rõ nhất phải kể đến truyện Lạc Long Quân và Âu Cơ với cặp khái niệm “Mẹ - Đất (núi)” và “Cha – Nước”. Trong trật tự lời văn của Lĩnh Nam Chích Quái: “Long Quân nói: Ta là nòi rồng, đứng đầu thủy tộc, nàng là giống tiên, sống ở trên đất, tuy khí âm dương hợp lại mà sinh ra con, nhưng thủy hỏa tương khắc, giòng giống bất đồng, khó ở lâu với nhau được". Rõ ràng mẹ Âu Cơ là Dương chứ không phải Âm. Minh chứng thêm ở đây: tết Đoan Dương (ngày nóng nhất trong năm, dương khí cực thịnh) hay còn gọi là Đoan Ngọ mùng 5 tháng 5 âm lịch cũng là ngày giỗ Âu Cơ. Chế độ phụ hệ dù có bóp méo truyền thuyết theo chiều hướng nào đi nữa vẫn không thể thay ngày giỗ mẹ bằng giỗ cha. Trong câu ca dao: “Công cha như núi Thái Sơn – Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra”, cặp “Mẹ - Đất (núi)” và “Cha – Nước” trong truyện Âu Cơ, Lạc Long Quân đã bị chế độ phụ hệ hoán đổi trật tự một cách rất khéo thành “Mẹ - Nước” và “Cha – Núi (đất)”. Bản thân yếu tố “Thái sơn” rặt Tàu cũng cho thấy đâu là nguyên nhân của sự thay đổi ấy. Sẽ có người phản bác lập luận của tôi: xét theo cấu tạo của bộ phận sinh dục, nếu cho rằng mẹ là dương rất không ổn. Một cách tình cờ lưỡng nghi (hào dương và hào âm) của Kinh Dịch có thể tương đương với Linga và Yoni của người Chiêm Thành. Tuy nhiên khi so sánh ngực người nam và người nữ thì rõ ràng giống cái lại chứa dương tính. Vấn đề giờ đây thu hẹp về các góc nhìn mà thôi. 2. Một cách lý giải toàn cảnh Năm 111 TCN Lộ Bác Đức diệt Nam Việt, kết thúc gần 100 năm vương triều của họ Triệu. Tượng quận, vùng đất chưa bị xâm lăng, một tên gọi tượng trưng mang tính khái niệm theo cách của nhà Tần (nó tương đương với Giao Chỉ của nhà Chu) bắt đầu được Hán Vũ Đế mở mang. Chín quận mới liệt kê ở Hán Thư là Đạm Nhĩ, Chu Nhai, Nam Hải, Thương Ngô, Uất Lâm, Hợp Phố, Giao Chỉ, Cửu Chân và Nhật Nam. Giao Chỉ, Cửu Chân và Nhật Nam tiếp tục là khái niệm, thứ khái niệm nói lên tính tự cao, tự đại, lòng tham và chủ nghĩa bành trướng của nhà Hán. Sau hàng trăm năm dừng lại và khai phá các vùng đất phương nam đã chiếm được và đặt quan trấn nhậm (tức 6 quận trong tổng số 9 quận thuộc Giao Chỉ bộ), đầu công nguyên nhà Tây Hán bắt đầu dòm ngó xuống ba quận ảo là Giao Chỉ, Cửu Chân và Nhật Nam. Lần đầu tiên ta thấy xuất hiện chức danh Thái thú của quận Giao Chỉ là Tích Quang (năm 1 đến năm thứ 5 sau Công Nguyên). Người này chắc chắn chỉ là lãnh đạo một sứ bộ có qui mô nhỏ, mang danh nghĩa “thông giao” đến đất mới thăm dò, thám thính và xem xét khả năng áp đặt kềm kẹp đô hộ. Công việc của Tích Quang còn dang dở thì Trung Nguyên hỗn loạn vì Vương Mãng cướp ngôi. Năm 23 Lưu Tú dẹp được Vương Mãng tiếm quyền nhưng Trường An đổ nát, hoang tàn trong máu lửa, ông dời đô về phía đông đến Lạc Dương lập nên nhà Hậu Hán. Để nối lại cuộc thám sát mảnh đất Việt cổ, năm 25 Nhâm Diên được cử sang Cửu Chân. Những chính sách mị dân mà Tích Quang và Nhâm Diên áp dụng khi ấy không ngờ còn lưu truyền tới tận thế kỷ 20, với vỏ bọc hình thức khá ngây thơ. Đến tận Việt Nam sử lược của Trần Trọng Kim gần đây vẫn còn viết: “Người ấy (Tích Quang) hết lòng lo việc khai hóa, dạy dân lấy điều lễ nghĩa, cho nên dân trong quận có nhiều người kính phục”. Và “Dân sự quận ấy (Cửu Chân) ái mộ Nhâm Diên, làm đền thờ.” Năm 34, có lẽ do chủ quan khi nhận định tình hình sau hai cuộc thám sát, Hán triều cử sứ đoàn do Tô Định cầm đầu xuống đồng bằng sông Hồng để tiến hành thực dân hóa quận Giao Chỉ. Nhiệm vụ của tân thái thú chắc chắn là phải xây dựng bộ máy bóc lột nhằm biến quận Giao Chỉ thành miếng bánh ngon giữa bàn tiệc thực dân, chứ không thể mãi mãi là mảnh đất ảo trang trí trên bản đồ đại Hán. Có thể Tô Định đã tiến hành vài cuộc khủng bố lẻ tẻ nhân danh thiên tử Tàu và áp Hán luật vào đời sống nhân dân sở tại. Không còn những hành động khoan hòa vờ vĩnh kiểu Tích Quang, Nhâm Diên. Tự do của người bản xứ đã bị xâm hại nghiêm trọng. Trưng Trắc, vị thủ lĩnh tự trị của vùng đất kề cận nơi Tô Định đặt bản doanh chịu sức ép thực dân nhiều nhất đã đứng lên hiệu triệu các thủ lĩnh khác cùng đoàn kết đánh đuổi thù chung. Hai Bà Trưng nổi trống đồng khởi nghĩa năm 40, dân Việt đồng tình hưởng ứng khắp nơi. Tô Định chuồn thẳng về Nam Hải (tức Quảng Châu, tỉnh Quảng Đông, Trung Quốc ngày nay) mà không hề có một trận chiến ra trò nào để sử sách hoặc dân gian truyền lại. Chi tiết này thêm một lần nữa xác tín bối cảnh được xây dựng ở trên là hợp lý. Qui mô đội quân chiếm đóng của Tô Định rất nhỏ, chẳng thể đánh đấm gì được. Cuộc hành quân về Long Biên của Hai Bà Trưng nhanh chóng thành công. Điều này là tiền đề thuận lợi cho Hai Bà tập hợp được thêm nhiều lực lượng ủng hộ, tiến tới xưng vương rồi đóng đô tại Mê Linh. Mùa xuân năm 42 Mã Viện mang theo quân thiện chiến sang quận Giao Chỉ. Bằng kinh nghiệm lọc lõi của một tên tướng phong kiến, Mã Viện kiên nhẫn đóng quân tại Lãng Bạc và nghe ngóng tình hình. Hai Bà Trưng chủ động tấn công trước và thất bại, phải rút về Mê Linh rồi Cấm Khê (chân núi Ba Vì). Mã Viện tiếp tục truy kích và tháng giêng năm 43 đã bắt được Hai Bà Trưng. Tàn quân Việt chiến đấu được vài tháng nữa mới tan rã. Dân gian Việt Nam có hai ngày giỗ Hai Bà Trưng là 6.2.43 và 8.3.43 (năm Quý Mão, âm lịch), có lẽ ngày đầu là ngày Hai Bà Trưng bị bắt và ngày sau là ngày họ bị hành hình. Ở đây xuất hiện hai khả năng: Một là Mã Viện giữ Hai Bà để dụ hàng nhằm kêu gọi nhóm nghĩa quân chưa buông vũ khí ra trình diện. Hai là Mã Viện thuyết phục Hai Bà kêu gọi nhân dân thuần phục nhà Hán và chấp nhận luật pháp Hán. Dù sao ta cũng biết chắc một điều Hai Bà Trưng đã không chịu thỏa hiệp dù phải bỏ mình. Sự kiện Hai Bà Trưng anh dũng tấn công Mã Viện dẫn đến một liên tưởng hơi ngoài lề: Hậu Hán Thư không ghi nhận tổng quân số của Mã Viện nhưng chỉ riêng cánh tiến đánh Cửu Chân sau đó gồm hơn hai ngàn chiến thuyền và hơn hai vạn lính. Vậy ít nhất Mã Viện phải thống lĩnh lực lượng gấp rưỡi con số này cho trận đánh với Hai Bà Trưng. Cũng theo sách ấy, Mã Viện đã giết hại cả ngàn quân của Hai Bà Trưng và bắt sống hàng vạn tại Lãng Bạc. Như thế có thể đoán quân của Hai Bà Trưng cũng tròm trèm con số vài vạn, ngang ngửa với quân Mã Viện. Với lực lượng bề thế nhường ấy, nếu Cổ Loa của An Dương Vương thực sự được xây dựng tại đồng bằng sông Hồng (chứ không phải ở Quảng Tây như giả thuyết của tác giả bài này), thì tại sao Hai Bà Trưng không củng cố thành cũ để đương đầu với quân viễn chinh. Ngoài thực địa đền Cổ Loa Đông Anh chỉ cách Mê Linh trên dưới 20km đường chim bay, không hề bị sông lớn, suối rộng, núi cao, khe sâu ngăn trở, và Hai Bà Trưng có hơn 2 năm để chuẩn bị một cuộc kháng chiến dài lâu. Như vậy truyền thuyết An Dương Vương và Loa thành từng hiện hữu ở Việt Nam có thêm một nghi chứng phủ nhận. Xin tạm che giấu cảm tính dân tộc và tinh thần quốc gia (những khái niệm không thể có ở thời Hai Bà Trưng), để đứng trên bình diện văn minh mà dè dặt nói: Kết cục cuộc chiến giữa Hai Bà Trưng và Mã Viện có thể tiên liệu trước, chế độ thị tộc mẫu hệ, hay ít ra là tàn dư của nó phải bị khuất phục trước một mô hình xã hội tân tiến hơn, để giải phóng sức sản xuất xã hội, phân công lại lao động, đưa con người và lịch sử tiến lên phía trước. Sự thật là Hai Bà Trưng đã phải đương đầu với Mã Viện, một tên tướng xâm lăng nên nguyên nhân thất bại cốt lõi của Hai Bà rất khó được chấp nhận đối với hầu hết người Việt Nam, không phân biệt trình độ nhận thức. 3. Con cháu Hai Bà Trưng ngoài đảo xa Mùa xuân năm 43 Hai Bà Trưng bị xử trảm. Các tùy tướng của Hai Bà đem tàn quân rút chạy vào Cư Phong, thuộc Cửu Chân (Thanh Hóa). Mã Viện tiếp tục truy kích đến cuối năm 43 thì hoàn thành cuộc xâm lăng. Một bộ phận nữa phải hàng phục. Tuy nhiên có một bộ phận bất khuất không nhỏ đã lên thuyền ra khơi. Thời điểm cuối năm 43 hoàn toàn hợp lý và là chi tiết quan trọng, vì trên biển Đông bắt đầu vào đợt gió mùa Đông Bắc. Đây chính là đôi cánh tự do trời đất ban tặng cư dân Việt cổ, đẩy những con thuyền đưa họ đến eo Malacca. Cũng có khả năng nhiều người trốn chạy theo đường bộ, rồi hòa lẫn vào những bộ lạc sống dọc bờ biển trung bộ Việt Nam ngày nay. Họ đã góp phần xây dựng nên đế chế Chiêm Thành sau này. Hiện nay có hai cộng đồng thị tộc mẫu hệ, nguồn gốc gần gũi, sống hai bên eo biển Malacca, thuộc hai quốc gia: 1. Cộng đồng thứ nhất là người Minangkabau, sống ở đảo Sumatra, Indonesia. Họ có khoảng 4 triệu người, chiếm ¼ dân số của đảo. 2. Cộng đồng thứ hai sống ở bang Negeri Sembilan, thuộc bán đảo Peninsular, Malaysia. Họ cũng là người Minangkabau. Họ vượt eo Malacca đến đây định cư khoảng từ TK 15 đến TK 16, và ngày nay sống rải rác trên một diện tích khoảng 6,645 km2, dân số hơn 722.000 (số liệu 1991). Negeri Sembilan dịch nghĩa là “Nước (số) chín”. Chữ “nước” ở đây đồng nghĩa với chữ “Nagar - nước, xứ sở” của người Chiêm Thành và chữ “Lạc – nác, nước” của người Lạc Việt xưa. Thủ phủ của Sembilan cách Kuala Lumpur khoảng 64 km. Nền văn hóa của hai cộng đồng này mang bản sắc độc đáo và riêng biệt. Họ vẫn theo chế độ thị tộc mẫu hệ. Quyền thừa kế nằm hết ở giới nữ. Tuy nhiên trưởng tộc lại là nam giới. Lãnh thổ chung của họ chia thành những vùng tự trị có tên là Luak (Lạc?). Người đứng đầu vùng tự trị cũng là nam giới, do các trưởng thị tộc bầu lên gọi là Luak Undang. Người nữ giữ quyền thừa kế trong thị tộc gọi là Turun Cicik, các em gái bà này nằm trong hàng thừa kế thứ hai gọi là Turun Nyi (tiếng Bahasa Indonesia lần lượt đọc là t'run ch'chik và t'run nhi). Ngữ âm này, sau biết bao biến đổi qua thời gian, đọc lên vẫn thấy mơ hồ hai cái tên Trưng Trắc, Trưng Nhị [1]. Về đời sống, nam giới có trách nhiệm chính với mẹ và chị em gái của họ trong thị tộc. Nhiều nơi, nam giới chỉ ở với vợ ban đêm, ban ngày trở về với chị em gái mình và những đứa cháu. Nữ giới lập gia đình thường ở lại nhà cha mẹ họ. Những người chị đã lập gia đình luôn có mối liên hệ gần gũi với các em gái chưa lập gia đình, thậm chí họ còn ở chung với nhau. Ở Indonesia hôm nay, người Minangkabau là những nhà kinh doanh giỏi. Điều này được tạo nên một phần bởi sắc thái văn hóa Minangkabau. Nam nhi Minangkabau phải rời gia đình đi tìm tương lai. Họ buộc phải thành công. Khắp Indonesia ta gặp rất nhiều các ông chủ lớn nhỏ người Minangkalau. Họ theo đạo Hồi đã vài thế kỷ. Tuy nhiên truyền thống văn hóa và tín ngưỡng đã hòa hợp một cách đáng ngạc nhiên. Chế độ thị tộc mẫu hệ hiện tồn tại trong những cộng đồng người Minangkabau luôn lôi cuốn các nhà nghiên cứu văn hóa, lịch sử và nhân loại học. Ngành du lịch Indonesia và Malaysia cũng khai thác triệt để tính đặc thù này để thu hút du khách. Trong rất nhiều đoạn phim quảng bá du lịch người Minangkabau đã không dưới một lần tuyên bố tổ tiên họ là người Việt và đã di cư đến Nam Dương bằng thuyền. Kiến trúc truyền thống Minangkabau cũng khiến không ít người suy tư: “Ở Indonesia, người Minangkabau có những ngôi nhà mái cong rất đẹp, nhịp điệu bay bổng, phong phú, một mặt giống ngôi nhà sàn hình thuyền, một mặt lại giống mái cong của đình chùa Việt Nam [2]”. Xin hãy tham khảo một giai thoại Minangkabau [3]: Ngày xưa có một mối bất hòa giữa người Minangkabau và người Java, thay vì giải quyết bất hòa đó bằng một cuộc chiến với máu đổ không cần thiết, họ thỏa thuận chọi trâu để phân định. Người Java có một con trâu khổng lồ, mạnh mẽ và hung dữ. Người Minangkabau chỉ có một con nghé con. Người Java rất tin tưởng con trâu của mình sẽ đè bẹp chú nghé kia. Vậy mà yếu đã thắng mạnh. Người Minangkabau bỏ đói con nghé nhiều ngày. Trước trận đấu họ buộc một con dao sắc vào đầu nghé. Vào trận nghé đói tưởng trâu là mẹ mình. Lập tức nó rúc vào bụng trâu để tìm vú. Con trâu kềnh càng đã bị chết vì dao đâm thủng bụng. Và người Minangkabau đã chiến thắng. Cũng theo giai thoại này Minang nghĩa là chiến thắng, kabau là trâu. Bất kỳ người Việt nào cũng tìm thấy ở câu chuyện trên một thứ gì đó thật gần gũi với bản sắc văn hóa đồng bằng sông Hồng. Chuyện dân gian Trạng Quỳnh dùng nghé đấu Trâu của sứ Tàu với truyện trên, có lẽ là hai biến thể của một tư duy chung, một triết lẽ giản dị nhưng nhiều giá trị: Đề cao trí tuệ và lòng yêu chuộng hòa bình, hòa hợp, lấy trí thắng lực, hóa giải mâu thuẫn bằng trái tim nhân hậu. Và tôi chợt hiểu, linh vật trâu vàng cho lễ hội thể thao khu vực Đông Nam Á đầu tiên do Việt Nam tổ chức, tức Seagame 2003, đã được chọn bằng tâm thức văn hóa, lịch sử. Phải chăng người Minangkabau ở Indonesia và Malaysia hôm nay cũng là con cháu của Hai Bà Trưng? Phải chăng cái tên mà hai ngàn năm nay người Việt tôn gọi Trưng Trắc, Trưng Nhị không phải là tên riêng mà là chức danh của hai hoặc một nhóm người phụ nữ Việt Nam bất khuất? Câu trả lời đang ở một tương lai rất gần. 4. Vua Bà và trống đồng Xưa từ Hùng ý chỉ thủ lĩnh một vùng. Tùy Thư (thế kỷ VII), thiên Địa Lý Chí Hạ còn ghi “Người man (tức người Lạc Việt) ai giàu mạnh là người hùng”. Con vua Hùng là Quan Lang cai quản địa phận trực thuộc, qui mô chắc cũng như làng xã ngày nay. Chữ “Làng” có thể xuất phát từ chữ “Lang” trong “Quan Lang”, người Mường gần đây vẫn còn Quan Lang. Vậy có thể hiểu “Hùng” là người đứng đầu thị tộc mẫu hệ. Liên minh thị tộc mẫu hệ sẽ hình thành dạng nhà nước sơ khai như Văn Lang, và Vua Hùng hẳn là lãnh tụ của nhà nước sơ khai ấy. Khi lưu vong đến Quảng Tây, các bộ tộc Lạc Việt cổ từ Động Đình Hồ vẫn còn gắn kết ở dạng nhà nước sơ khai kia, nó thể hiện trong truyền thuyết xung đột giữa “Thục vương tử” và Vua Hùng. Tuy vậy trước và sau thời điểm 179 TCN (năm Triệu Đà thôn tính Tây Âu Lạc của An Dương Vương) và 111 TCN (năm Lộ Bác Đức bình định Nam Việt), những nhóm người đi tiếp xuống đồng bằng sông Hồng có lẽ đã không thể bảo tồn hình thái xã hội Văn Lang cũ. Điều này khá dễ hiểu: Địa bàn mới hoang vu (dù chắc chắn tồn tại ít nhiều nhóm chủng tộc gốc Nam Á du canh du cư với kinh tế hái lượm, săn bắn), thổ nhưỡng ẩm thấp, mùa mưa ngập lụt chia cắt, dân số ít, giao thương trở ngại… Đến đầu công nguyên, ít nhất là tình hình dân số của các bộ tộc Lạc Việt ở đồng bằng sông Hồng đã được cải thiện. Để chống lại âm mưu nô thuộc của nhà Đông Hán, Hai Bà Trưng đã liên minh các thủ lĩnh vùng lại với nhau đánh đuổi Hán quan, xưng vương. Ở xã hội Lạc Việt cổ, trống đồng là biểu hiện quyền uy của tù trưởng, tộc trưởng. Cũng Tùy Thư nói: “Khi chiến tranh thì trống đồng được đánh, người người khắp nơi nghe lời hiệu triệu tụ họp về. Dân Lạc Việt rất phục tùng người sở hữu trống” – đây phải chăng là câu trả lời dứt khoát cho hành xử của Mã Viện với quốc bảo trống đồng. Thật vậy, Mã Viện nam chinh đã phá vỡ liên minh Văn Lang vừa được Trưng Trắc tái lập nhưng buộc phải cho phép dân Việt tự trị ở đơn vị Làng. Thế là sau khi giết hại vợ chồng bà Trưng, Mã Viện vội vàng cho quân lính đi thu gom trống đồng nhằm bẽ gãy các cuộc phản kháng tiếp theo (nếu có) từ trong trứng nước. Bản chất gốc của vấn đề xem ra rất kín kẽ, còn hiện tượng Mã Viện nấu đồng đúc ngựa cảnh để chơi và dựng trụ làm cột thiên văn quan sát bầu trời, xác định vị trí khu vực vừa chiếm được trên bản đồ đế quốc Hán, chỉ là đám lá ngọn lòa xòa che mắt sự thật lịch sử. Tôi đã gặp rất nhiều người Việt Nam không tin tổ tiên họ là chủ sở hữu của trống đồng, hoặc cho rằng đề cao trống đồng như quốc bảo của dân tộc là thiếu chứng lý. Họ bảo không như người Tráng tại khu tự trị Quảng Tây Trung Quốc (tức hậu duệ những thần dân của An Dương Vương không di cư chạy giặc Triệu Đà xuống đồng bằng sông Hồng năm 179 TCN) vẫn còn sử dụng trống cho lễ hội, trống đồng ở Việt Nam chỉ đào được nơi các vỉa đất của quá khứ. Hy vọng nguyên nhân mang tên Mã Viện tôi vừa nêu, sẽ góp phần chứng minh người Việt xưa đã phải đành đoạn chôn trống gửi đến tương lai, mong con cháu mình mãi mãi trân trọng và giữ gìn nó Cùng với việc hủy hoại trống đồng và làm tan rã hình thức nhà nước sơ khai trên mảnh đất Việt Nam cổ, Mã Viện đại diện cho nhà Đông Hán cũng chính thức khai sinh đơn vị hành chính tự trị là Làng, Xã. Do được tự trị, tinh thần độc lập và tự chủ của người Việt Nam đã luôn được nuôi dưỡng dưới các nếp nhà sau lũy tre làng. Từ “Làng Nước” sinh ra từ đây. Làng trở thành một đất nước độc lập tự chủ thu nhỏ của những người dân Việt bất khuất. Hơn 800 năm sau, tinh thần ấy lớn mạnh rồi bùng phát để đưa cả dân tộc thoát kiếp nô lệ. Khi người Việt có quốc gia rồi, thì làng xã lại trở về thế đối lập một cách tương đối với các chính sách chính trị tổng thể của chính quyền trung ương. Để dung hòa lợi ích nhà nước và làng xã, mỗi làng đã được chính quyền chọn ra một vị thần được ưa chuộng nhất để sắc phong làm Thành Hoàng. Như vậy mâu thuẫn đã được giải quyết ở một mức độ chấp nhận được: ông vua của làng là thánh linh (hoặc một con người có thật đã được thánh hóa), được ông vua của cả nước hợp thức hóa bằng một văn kiện. 5. Kết luận Người Lạc Việt cổ bắt đầu gần một thiên niên kỷ lưu vong từ chiếc nôi Động Đình Hồ, từ châu Kinh, châu Dương bên bờ Trường Giang khi văn minh Hoa Hạ nam tiến và nước Sở được hình thành. Đến Trưng Trắc thì sức người có hạn, văn minh vật chất sơ sài trong khi sơn đã tận mà thủy thì mênh mông, đa số họ bắt buộc phải dừng lại, nhẫn nhục chấp nhận thêm tám trăm năm nô lệ nghiệt ngã. Máu lưu vong trước nghịch cảnh chính trị của tiên tổ người Việt Nam đã hơn một lần bùng phát, già ngàn năm trở lại đây nơi hậu duệ của họ: Khi nhà Trần tiếm đoạt vương quyền, một nhánh họ Lý đã chạy qua Cao Ly. Lê – Mạc đấu đá rồi Trịnh – Nguyễn phân tranh, bao người phải bỏ xứ xuống khai phá đồng bằng sông Cửu Long trù phú. 1954 và 1975, hàng triệu sinh linh lại lên đường vào nam, hoặc ra biển tỏa khắp năm châu. Ai đó đã có lần so sánh người Việt Nam với dân Do Thái ở góc độ lưu vong, cũng chẳng khập khiễng chút nào. Tự đặt mình vào bối cảnh năm 40 sau Công Nguyên, tôi bỗng thấy hình ảnh sáo mòn Hai Bà Trưng “phất cờ khởi nghĩa” có vẻ không hợp lý. Nên chăng hãy hình dung những hồi trống đồng liên hoàn dưới các nếp nhà sàn hiền hòa, thôn nối thôn, làng tiếp làng, thị tộc này kêu gọi thị tộc khác cùng đoàn kết trong âm vang tự do dưới sự lãnh đạo của Trưng Trắc tiến thẳng về Long Biên, quét sạch bắc quân xâm lược. Hai Bà Trưng ra đi khép lại thuở bán khai trên đất mảnh đất tiền Việt Nam. Thời điểm này chính là hoàng hôn trước đêm dài nô lệ. Người Việt biết chấp nhận nỗi nhục thiếu tự do để học hỏi, tự hoàn thiện mình. Thỉnh thoảng một vài ngọn đuốc lại bừng sáng mang nhiều cái tên anh hùng như Triệu Thị Trinh, Mai Thúc Loan hay Phùng Hưng. Đáng kể là hơn nửa thế kỷ độc lập của Lý Nam Đế cùng các phụ triều trong giấc mơ Vạn Xuân đầy hiện thực. Đó là những bước tiến vững chắc, không thể phủ nhận của con người và đất nước thời khởi sử, làm bệ phóng cho kỷ nguyên tự chủ bắt đầu với Khúc Thừa Dụ năm 905. Tám trăm năm tròn bắc thuộc là cái giá quá đắt nhưng không hề vô nghĩa. Dân tộc Việt Nam, văn minh Việt Nam hình thành trong gian khó và thử thách đã lớn mạnh vượt bậc. Từ đó về sau phong kiến phương bắc không lần nào hoàn toàn khống chế được họ nữa. Cuối thế kỷ 19, đầu thế kỷ 20 đại diện thực dân châu Âu là Pháp Lang Sa, với ưu thế hơn hẳn họ về sức mạnh vũ khí được sản xuất dưới một nền khoa học kỹ thuật tân kỳ, tổ chức xã hội tư bản tiến bộ, cũng chỉ áp đặt sự đô hộ không đồng bộ của chúng trên mảnh đất này tròm trèm 80 năm mà thôi. Nếu không kể đến An Nam Chí Lược (1335) của một kẻ bán nước, từ quyển hiến sử đầu tiên còn lưu lại đến ngày này là Đại Việt Sử lược (1377 – 1388), sử gia Việt Nam vừa xem sách Tàu, vừa chấm bút lông vào nước lã để viết về ông Thi. Thậm chí họ còn sơ ý nhầm tên chồng bà Trưng Trắc là Thi Sách! Năm tháng qua đi, sách sử nối nhau ra đời, Bà Trưng Trắc vẫn phải làm một quả phụ bất đắc dĩ, gồng gánh thêm bao nhiêu khái niệm không cùng thời với bà. Lối tư duy suy diễn chủ quan, nô lệ sách Tàu và kinh viện, kết hợp với truyền thống tạo dựng chính sử thiên kiến và không tôn trọng sự thật một cách có hệ thống, vô hình chung đã tô son trát phấn lên bà mẹ chân đất được Thủy Kinh Chú mô tả là “vi nhân hữu đảm dũng”. Kết quả là người mẹ vĩ đại của họ chẳng đẹp hơn tí nào. Nó chỉ khiến người đời chạnh buồn cho những đứa con vụng về, xốc nổi và đồng bóng của bà. Mảnh đất hình chữ S có tên Việt Nam ngày nay hiện hữu khoảng 200 đền thờ Hai Bà Trưng. Đó là tuyên bố rõ ràng nhất về vai trò lớn lao của Hai Bà trên non sông này. Mọi lý thuyết học thuật cổ kim đều không thể phủ nhận bản chất anh hùng và tinh thần bất khuất của Hai Bà Trưng, vị Vua Bà đầu tiên và cuối cùng của mảnh đất Việt Nam, người mẹ đáng kính của lịch sử Việt Nam, của dân tộc Việt Nam. Chú thích [1] Các ngữ âm dẫn theo gợi ý của Phạm Chánh Trung – Trang web viethoc.org [2] Văn ngọc: Từ những ngôi nhà hình thuyền, www.zdfree.free.fr/diendan/articles/u125vngoc.html [3] Dẫn theo Dien A. Rice: “Minangkabau Life and Culture”, www.haqq.com.au Nguồn BBC1 like
-
PHẢN BIỆN TRƯƠNG THÁI DU. Kính gửi hãng truyền thông quốc tế BBC. Nhờ Rin86 chuyển giúp. Thưa quí hãng thông tấn quốc tế BBC. Tôi đã xem bài viết của ông Trương Thái Du - nhà nghiên cứu sử Việt nghiệp dư của Việt Nam - trên BBC tiếng Việt. Tôi nhận thấy rằng: Bài viết này không hề có cơ sở hợp lý tối thiểu trong việc nhìn nhận về cổ sử cội nguồn dân tộc Việt: Lịch sử thời Hùng Vương. Bởi vậy, tôi viết bài này minh chứng rằng: Những luận điểm của ông Trương Thái Du - và có thể nói - của hầu hết những người có quan điểm tương tự phủ nhận truyền thống văn hóa sử Việt trải gần 5000 năm văn hiến (2879 BC - đến nay) - đều sai. Tôi hy vọng rằng hãng thông tấn BBC sẽ đăng tải bài viết này của tôi và sẽ không thông tin một chiều một quan điểm lịch sử duy nhất phủ nhận giá trị văn hóa truyền thống Việt. Xin trân trọng cảm ơn. Dưới đây là nội dung bài viết: ------------------------- TRƯƠNG THÁI DU VÀ LUẬN ĐIỂM LỊCH SỬ. Ông Trương Thái Du có nhiều bài viết về cội nguồn lịch sử Việt, nhưng đều thể hiện sự phủ nhận giá trị văn hóa truyền thống Việt trải gần 5000 năm văn hiến. Điển hình là bài viết trên BBC ghi ngày viết là: "Viết tại Đà Lạt tháng Tư 2005". Vì là một bài nghiên cứu theo khoa học và phải tuân thủ tiêu chí khoa học là: - Một giả thiết khoa học chỉ được coi là đúng, nếu nó giải thích một cách hợp lý hầu hết các vấn đề liên quan đến nó một cách nhất quán, hoàn chỉnh, có tính quy luật, tính khách quan và khả năng tiên tri. - Một giả thuyết khoa học bị coi là sai, nếu người ta chỉ cần chỉ ra một mắt xích sai trong chuỗi mắt xích trong hệ luận của nó, mà nó không tự biện minh được. Trên cơ sở tiêu chí khoa học, tôi nhận thấy giả thuyết nhân danh khoa học của tất cả những nhà nghiên cứu trong nước và quốc tế - trong đó có ông Trương Thái Du có quan điểm phủ nhận giá trị văn hóa sử truyền thống Việt trải gần 5000 năm văn hiến với bài đăng trên BBC - đều không thỏa mãn tiêu chí khoa học trên. Bài viết này có ba luận điểm căn bản được nêu lên như sau: Về luận điểm thứ nhất, chỉ nói tới sự thay đổi địa danh, không liên quan trực tiếp đến nội dung cội nguồn Việt sử, nên người viết bài này không thực sự quan tâm. Nhưng luận điểm thứ hai cho thấy sự không hợp lý qua sự thể hiện những đoạn sau đây: * Chúng ta đều biết rằng: Vào thời điểm 1199 BC, Trên giải đất Nam Hoàng Hà và Bắc Dương Tử đã hình thành một quốc gia hùng mạnh - cuối nhà Hạ, đầu thời Chu. Lịch sử trước đó hàng ngàn năm của quốc gia này đã ghi nhận những trận chiến của các dân tộc tranh giành sự sống nơi đây. Điều này lịch sử Trung Quốc cũng ghi nhận trên cơ sở truyền thuyết và huyền thoại được lưu truyền. Nếu quí vị độc giả cho rằng: Truyền thuyết và huyền thoại không phải cơ sở đủ tư cách là một cứ liệu xác đáng minh chứng cho lịch sử thì tôi đồng ý. Việc dẫn chứng này chỉ là một thực tế tồn tại của truyền thuyết và huyền thoại nói đến một hiện tượng lịch sử. Truyền thuyết này đã nhắc đến thời Hoàng Đế cách đây - ước tính trên 5000 năm - được ghi nhận trong các cổ thư như là một cuộc chiến tàn bạo nhất trong cổ sử nhân loại "Máu chảy trôi chày". Kết thúc cuộc chiến là Xuy Vưu bị thất trận ở Trác Lộc. Từ cuộc chiến truyền thuyết này - ước tính hơn 5000 năm cách ngày nay đến thời điểm của ông Trương Thái Du nói đến trong bài viết là 2000 năm đã trôi qua. Cũng theo truyền thuyết về Hoàng Đế - Xuy Vưu thì sau khi chiến thằng: Hoàng Đế đã dừng ngựa ở bờ Bắc sông Dương Tử và nói rằng - có nhiều cách hiểu khác nhau về câu nói này của người được coi là khai sáng ra nước Trung Hoa của dân tộc Hán - có thể hiểu như sau: - Phương Nam không thể đánh. - Phương Nam không nên đánh. - Phương Nam rất khó đánh. Nhưng dù hiểu theo cách nào thì cũng thừa nhận một lực lượng đủ mạnh của những dân tộc sống sống ở bờ Nam sông Dương Tử, khiến người lãnh tụ chiếm cứ cả một vùng đất rộng lớn trải dài từ Nam Hoàng Hà đến Bắc Dương tử phải dừng vó ngựa ở đây. Nhắc đến truyền thuyết Hoàng đế - Xuy Vưu Tôi không coi đây là những bằng chứng lịch sử biện minh cho luận cứ của tôi. Mà chỉ là thể hiện một thực tế tồn tại trong lịch sử phổ biến của Trung Hoa nói về một hiện tượng có trước thời điểm 1199 của ông Trương Thái Du, tương đương với cuối Hạ, đầu thời Chu trong lịch sử Trung Hoa. Những bằng chứng khảo cổ gần đây khai quật ở vùng đất cư trú của dân tộc Hán cổ, đã cho thấy một nền văn minh phát triển về Thiên Văn, kiến trúc và các di sản văn hóa khác. Điều này cho thấy vào thiên niên kỷ II BC, những dân tộc ở Bắc Dương Tử đã tập hợp thành một quốc gia hùng mạnh. Vậy thì không có cơ sở nào để xác định một nhà nước sơ khai với những thủ lĩnh cầm đầu những cái gọi là "liên minh bộ lạc", tồn tại sát nách ngay một quốc gia hùng mạnh của dân tộc Hán, lại không bị lấn chiếm, xâm lược, hoặc chịu ảnh hưởng về chính trị, văn hóa. Điều này chỉ có thể giải thích rằng: Ở bờ Nam Dương Tử đã tồn tại một quốc gia hùng mạnh, có nền văn minh phát triển và đủ sức đương đầu với nhà nước Hạ, Chu của dân tộc Hán ở Bắc Dương tử. Những bằng chứng lịch sử tiếp theo thời gian trong 5000 năm đó - kể từ thời Hoàng đế - Xuy Vưu - đã xác minh điều này: Sử ký Tư Mã Thiên đã xác định rằng: "Nam Dương Tử là nơi Bách Việt ở". Luận ngữ của Khồng Tử - thế kỷ V/ VI BC - cũng viết: "Nếu không có Quản Trọng (Tể tướng nước Tề thời Xuân Thu - Hán Sử) thì dân tộc Hán ngày nay đã cài vạt áo bên trái như người Man rồi". Dấu ấn áo cài vạt bên trái của Lạc Việt ở Nam Dương Tử còn được nhắc tới trong An Nam Chí Lược (Sách viết thế kỷ XIII AC) qua lời Tô Đông Pha và thực tế còn tồn tại đến ngày nay trong các dân tộc ít người ở Bắc Việt Nam và các di sản văn hóa phi vật thể còn lại trong văn hóa truyền thống Việt. Chính những nhà nghiên cứu lịch sử Trung Hoa cũng phải công nhận một quốc gia hùng mạnh tồn tại ở bờ Nam Dương tử, mà họ gọi là nước Ba. Còn rất nhiều bằng chứng vật thể và phi vật thể khác xác định rằng: Nam Dương tử đã tồn tại một quốc gia hùng mạnh của người Việt. Cội nguồn của niềm tự hào chính đáng về lịch sử trải gần 5000 năm văn hiến của dân tộc Việt Nam hiện nay. Nhưng giới hạn của bài viết này chỉ để minh chứng rằng ông Trương Thái Du đã sai - chứ không phải nhằm mục đích minh chứng cho Việt sử. Bởi vậy người viết chỉ nêu vài vấn đề, để chứng tỏ những mắt xích bất hợp lý mà tác giả không biện minh được theo tiêu chí khoa học. Ý thứ hai của phần 2 của ông Trương Thái Du nêu lên trong bài viết là: Đoạn này thực ra ông Trương Thái Du không phải là người đầu tiên nêu quan điểm này. Mà đó là của ông Đào Duy Anh nêu lên và minh chứng qua cuốn "Đất nước Việt Nam qua các đời" và người viết - Nguyễn Vũ Tuấn Anh đã chỉ ra những sai lầm trong luận cứ của ông Đào Duy Anh trong cuốn "Thời Hùng Vương và bí ẩn Lục Thập Hoa giáp" - Nxb Thanh niên 1999. Nxb Đại Học Quốc gia tái bản 2002. Cho đến nay, chẳng ai còn thừa nhận luận điểm của ông Đào Duy Anh. Riêng phần 3 trong luận điểm chính của ông Trương Thái Du viết đã tự mâu thuẫn với chính mình. Người viết xin trích lại nguyên văn sau đây: Với đoan văn trên của phần 3 và phần 2, có thể so sánh hai câu sau: Phần 2 viết:"Nhà nước Văn Lang sơ khai của người Lạc Việt được hình thành tại Động Đình Hồ", thì ngay câu đầu phần 3 lại viết: "Địa bàn của người Lạc Việt cổ gồm Hồ Nam, Quảng Tây, Quảng Đông, Bắc Việt Nam và đảo Hải Nam", như vậy nó đã bị thu hẹp đáng kể so với phần I và so với truyền thống văn hóa sử Việt được chính sử ghi nhận - kể cà Sử Ký của Tư Mã Thiên: "Nam Dương Tử là nơi Bách Việt ở". Ông Trương Thái Du viết: "Lạc Việt chính là Nước Việt hay Việt Thường Quốc" vậy thì nước Văn Lang là quốc hiệu như thế nào so với "Nước Việt hay Việt thường quốc" cũng chính do ông ta nều ra? Trong phần này, ông Trương Thái Du đã không minh chứng và không giải thích mối liên hệ của Triệu Đà với Việt sử khi nước Nam Việt của Triệu Đà với quốc hiệu Nam Việt và mối liên quan với quốc hiệu Âu Lạc mà ông Trường Thái Du gán cho Nam việt , để thêm vào một quốc hiệu không hề có trong cổ sử là Tây Âu Lạc. Ngoài ra còn mâu thuẫn sau trong chính lời văn của ông, xin so sánh hai đoạn trong cùng một bài viết, thậm chí cùng một đoạn văn như sau: "Người Lạc Việt ủng hộ Triệu Đà lập nên nước Nam Việt có kinh đô tại Phiên Ngung, cũng gọi nơi ấy là Âu Lạc" và câu :"Sau năm 179 TCN người Lạc Việt ở Tây Âu Lạc chạy giặc Triệu Đà xuống Bắc Việt đã dung hòa và pha trộn con người cũng như lịch sử với những người anh em cùng cội rễ Lạc Việt Động Đình Hồ". Về điều này, ông Trương Thái du cần giải thích rõ hơn về thái độ của người Lạc Việt với Nam Việt mà ông gọi thêm là Âu Lạc và lại phải chạy giắc Âu Lạc Triệu Đà. Một luận điểm nữa của ông Trương Thái Du trong bài viết trên, tôi muốn phản biện là điều mà ông ta xác định như sau: Như vậy ông ta đã tự mâu thuẫn, khi thời Hai Bà Trưng trong Việt sử (40 - 43 AC) là sự tiếp tục của lịch sử dân tộc Việt từ Động Đình Hồ mà chính ông ta nói tới hàng ngàn năm trước (Theo quan điểm của ông là 1199 BC). Bởi vậy, khi ông ta đã thừa nhận Hùng Vương - theo quan điểm của ông ta là thủ lĩnh bộ lạc - thì không lẽ sau đó hàng ngàn năm lại trở lại cái mà ông cam đoan là "chế độ mẫu hệ"? Khi những người có kiến thức phổ thông về lịch sử cũng biết rằng: Sự tồn tại khái niệm "mẫu hệ", chỉ là một thời kỳ tiến hóa trong lịch sử nhân loại. Nếu chỉ căn cứ vào người lãnh đạo quốc gia là nữ để xác định một thể thức xã hội là mẫu hệ hoắc mẫu quyền thì sẽ giải thích thế nào về thể thức xã hội với hiện tượng nữ anh hùng Gianda của Pháp quốc chống lại người Anh ở thế kỷ XII và sự tồn tại của Nữ Hoàng Anh ngay thời hiên đại? Ở đây tôi cũng xin lưu ý rằng: Cuộc khởi nghĩa của Việt tộc thời Hai Bà trưng có ảnh hưởng rộng khắp phần nam Dương Tử. Có thể thấy dấu ấn đền thờ Hai Bà Trưng ở khắp vùng này và ngay trong câu nói của Tô Đông Pha trong "An Nam chí lược" - Đại ý: "Nếu không có Tuân Tức Hầu (Tức Mã Viện) thì quân dân chín quận Giang Nam cài vạt áo bên trái cả" Nếu dân Việt dưới thời Hai Bà Trưng chỉ là một giai đoạn sơ khai trong qua trình tiến hóa của nhân loại thì tôi nghĩ đế chế Hán hùng mạnh không cần phải dùng đến tổng tư lệnh quân đội Hán và huy động toàn bộ quân lực xuống tận miền Bắc Việt Nam làm gì. Những dấu ấn còn lại không phải mục đích chứng minh của bài này - được nêu ở trên - cho thấy qui mô của cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng là toàn bộ địa bàn Việt tộc ở Nam dương Tử. Để kết thúc bài phản biện ông Trương Thái Du, người viết cũng xin nói theo cách nói của ông ta , nhắm xác định quan điểm của mình về cội nguồn Việt sử: Tôi dám khẳng định chắc nịch rằng: Cội nguồn Việt sử tính từ thời Hùng Vương trải gần 5000 năm văn hiến và chính là nguồn gốc của nền văn minh Đông Phương cổ đại, một thời huyền bí trong tri thức của nhân loại hiện đại. Sự khẳng định của tôi đã được minh chứng và tôi chịu trách nhiệm biện minh với những ý kiến phản bác. Xin cảm ơn quí vị đã quan tâm. Nguyễn Vũ Tuấn Anh1 like
-
Anh chị em thành viên diễn đàn cần tư vấn Tử Vi thân mến. Website lyhocdongphuong.org.vn là một trang web phục vụ cho việc nghiên cứu học thuật và văn hóa lịch sử cổ Đông phương. Điều tất yếu là những nghiên cứu cần phải có chứng nghiệm thực tế. Tử Vi Lạc Việt là hệ quả của công trình nghiên cứu xác định một nguyên lý căn để của Lý học Đông phương là: Hậu Thiên lạc Việt phối Hà Đồ và xác định tính hợp lý từ nguyên lý căn để này của Lạc Thư Hoa giáp. Nhưng vì Tử Vi Lạc Việt chưa được phổ biến rộng rãi, nên việc dùng trình Tử Vi Lạc Việt - nếu không là điều kiện qui ước sẽ có khả năng xảy ra những thành viên cần tư vấn sẽ không sử dụng. Như vậy, điều kiện thẩm định tính chính xác của Tử Vi Lạc Việt sẽ khó xác định. Bởi vậy việc dùng trình Tử Vi Lạc Việt để dự báo diễn biến có khả năng xảy ra trong cuộc đời là điều kiện qui định cho những ai cần tư vấn trong mục Tư Vấn Tử Vi. Chúng tôi sẽ từ chối tư vấn với những thành viên cần tư vấn, nhưng lại đưa trình Tử Vi phi Lạc Việt vào mục này. Nhưng, để có tính khách quan trong nghiên cứu khoa học và so sánh với phương pháp an sao cổ điển có nguồn gốc từ những bản văn chữ Hán. Chúng tôi tán thành việc những nhà tư vấn Tử Vi chưa tin vào độ chính xác của Tử Vi Lạc Việt, hoặc không quen dùng trình Tử Vi Lạc Việt có thể dùng trình Tử Vi từ các trang web khác để để dự báo giúp những thành viên có nhu cầu. Nhưng việc dùng trình Tử Vi phi Lạc Việt chỉ dành cho các nhà tư vấn. Cảm ơn sự quan tâm của quí vị và anh chị em.1 like