• Thông báo

    • Bá Kiến®

      Nội quy Lý Học Plaza

      Nội quy này là bản mở rộng Nội Quy - Quy định của Diễn đàn. Khi tham gia mua bán, các thành viên phải tuân theo những quy định sau: Tiêu đề bài viết: Bao gồm: Chỉ dẫn địa lý, Loại hình Mua/Bán, Thông tin mua bán.
      Chỉ dẫn địa lý: Tỉnh/thành nơi mua bán. Hoặc sử dụng định nghĩa có sẵn:TQ: Toàn quốc
      HCM: TP Hồ Chí Minh
      HN: Hà Nội
      [*]Ví dụ: HCM - Bán Vòng tay Hổ Phách ​Nội dung bài viết: Mô tả chi tiết sản phẩm mua/bán
      Bắt buộc phải có thông tin liên lạc, giá Mua/Bán
      Bài mới đăng chỉ được phép up sau 03 ngày.
      Thời gian up bài cho phép: 01 ngày 01 lần.
      Các hành vi vi phạm nội quy này sẽ bị xóa bài hoặc khóa tài khoản mà không cần báo trước.

Leaderboard


Popular Content

Showing most liked content on 18/03/2011 in Bài viết

  1. Cứ yêu đi thì biết có hợp nhau không. Đừng xem số má gì cả, vừa rồi tòa án xử 10 năm tù cho 1 cô gái giết chết người yêu với 16 nhát dao Thái Lan. Vì gia đình cấm cản do không hợp khi xem bói đấy. Cô ta còn cười mỉa gia đình nhà anh bạn kia, nếu ko nghe lời thầy bói thì cậu ta còn sống mà.
    3 likes
  2. Thương tâm 30 học sinh Nhật ngồi lớp chờ bố mẹ 18/03/2011 15:06 (GMT +7) Giữa bức tranh thương tâm và sự tuyệt vọng của người Nhật Bản sau trận càn quét của đợt sóng thần thì hình ảnh 30 trẻ em tại Trường tiểu học Kama lại một lần nữa khiến con tim nhân loại quặn đau. Bọn trẻ ngồi yên lặng trong góc của một lớp học ở tầng 3 và chờ đợi cha mẹ đến đón từng ngày kể từ khi sóng thần tràn vào thành phố Ishinomaki. Cho đến nay, vẫn chưa có phụ huynh nào đến cả. Rất ít người trong trường tin rằng họ sẽ tới. Các giáo viên nghĩ rằng một số học sinh nam và nữ, từ 8 đến 12 tuổi, biết cha và mẹ mình đã mất tích và sẽ không bao giờ quay trở lại. Thế nhưng, các em chỉ im lặng và không nói gì.Thay vào đó, bọn trẻ kiên nhẫn ngồi đọc sách hoặc chơi bài. Giáo viên và những người thân canh chừng không cho bất cứ ai nói tình hình bên ngoài với chúng. Các quan chức lo ngại rằng ngay cả âm thanh của các cánh cửa trượt lại cũng khiến bọn trẻ tràn trề hi vọng ảo rằng bố mẹ đã đến đón mình. Sự im lặng của 30 đứa trẻ đối lập hẳn với tiếng cười nói vui vẻ của bọn trẻ khác may mắn có bố mẹ còn sống sót đang chơi ở hành lang của tòa nhà bốn tầng. Giáo viên thể dục Masami Hoshi cho biết: "Cơn sóng thần xảy ra khi phụ huynh của các em bắt đầu đến đón con về, vì thế chúng tôi cố gắng giữ bọn trẻ ở bên trong để đảm bảo an toàn. Những đứa trẻ nhỏ hơn một chút đã ra về cũng với cha mẹ ít phút trước đó. Những người đi về nhà theo hướng phía sau trường học có thể còn sống sót, những người đã đi theo hướng khác có lẽ đã thiệt mạng. Tuy trường học không có điện, nước, hay lò sưởi nhưng những hành lang và phòng học chứa đầy bùn và mảnh vỡ lại là nơi trú nạn của 657 người còn sống. Nơi đây cách biển gần 2 km và là nơi trú ẩn khá an toàn. Theo Thanh Loan Vietnamnet ============================= Cầu xin Thương Đế ban phép lạ cho những đứa trẻ này để cha mẹ chúng còn sống trở về!
    2 likes
  3. Người nào đó xem cho cháu họ nói đúng năm nay cháu có dịp bước lên xe hoa [nếu lá số nầy đúng giờ sanh ] khoảng tháng 10 âl trở đi sẽ có tin vui , nói về hình dạng người chồng tương lai sau nầy của cháu ,nhìn vào lá số bác sẽ miêu tả những điều nầy dù có ăn khớp với người đã xem cho cháu trước đây hay không [đây là điểm dị biệt của mỗi người xem] , hôn phu của cháu có dạng ,người hơi cao khoảng 1m65 -1m70 , người hơi gầy thân hình xấu nước da sạm hay sám đen ,mặt dài ,sức khỏe hơi kém có thể có bệnh cố hữu từ lúc nhỏ hay lúc sanh ra khó hay lúc sanh ra có tang ai trong thân tộc gần ... trên phía trái về tay hay chân anh nầy có thể có tì vết gì đó như gẫy hay trật khớp do tai nạn còn lúc nhỏ ,nếu không bên chân mày trái có một nốt ruồi hay có tì vết .../Về câu chuyện cháu nhờ giúp bạn cháu bạn không có cách nào hơn , bác cũng đã nghe nhiều người nói hay bị như vậy khi bắt chước học thiền ,tất cả đều trái ngược những điều bác biết ,có lẽ người dạy còn dấu những điều bí quyết /bác cũng đã có thời gian tập qua ,nhưng đã bỏ rất lâu ... theo phái chính tông về thiền khi vào thiền phải có nhiều thủ pháp và kinh pháp nhất là phải biết bắt ấn tam muội -đặt tại huyệt đan điền rồi niệm chú an thổ địa ,để lúc mình nhập định sẽ không có vong linh nào nhập phá ,theo sách vở của ba bác được đọc qua và phuơng pháp chánh đạo phải tuần tự xảy ra có những điều gì phát hiện mới biết mình luyện đúng cách , trong khoảng thời gian nào đó tùy người nhập tâm thì luồng hỏa hầu sẽ được khai mở mà có nhiều người gọi là luồng lửa tam muội ,hay hỏa xà ,hay luân xa , vì là hỏa nên phải nóng chứ không phải lạnh như bạn cháu bị hay có nhiều người bị như thế ; ngồi càng lâu thì luồng hỏa hầu nầy di chuyển càng lớn dần lan cả ra bụng rồi lên tới ngực ,nóng như có ngọn lửa đang đốt phía trong hay có cảm giác như nóng rát phỏng phía bên ngoài da tại vùng đó ,dần dần luồng hỏa hậu nầy tự nhiên biến mất mà mình không hay ,nếu được như vậy mới biết là mình tập luyện trúng đường lối và phương pháp ; kế đến trong thời gian nầy có nhiều hiện tượng do phản ứng của cơ thể với luồng hỏa hầu ,thì phải câu kinh chú niệm khi nó xảy ra để khử ,cũng có lúc khi nhập định thấy có những con vật ác thú nhảy ra cắn xé hay chọc phá ,cũng phải có câu kinh chú riêng để trừ nó ,thời gian nầy đi qua thì người nhập thiền sẽ bước qua 1 giai đoạn khác ,sẽ có những hiện tượng lạ xuất hiện tuần tự có qui luật .mà gọi là bước vào cảnh giới sơ thiền ;khinh -trọng -rít -trơn ,nếu đắc đủ bốn bước nầy thì coi như mình đã thọ đắc vào sơ thiền ,cũng thời trong thời gian nầy tùy theo thể chất từng người sẽ xuất ra nhiều chuyện lạ ,như rất ít ngũ nhưng vẫn thấy khỏe khoắn như không cần ngũ nhiều , bởi khi nhắm mắt lại ngay ở giửa trán như có vật sáng màu trắng sanh nhạt lúc nào cũng hiện ra ,mà người ta nói hay sách nói rằng đó là con mắt thứ 3 ,khi nhập định lâu chừng nào thì ánh sáng đó càng sáng rực hơn , có người mở được huệ nhãn đầy đắc đựoc pháp thiên lý nhãn có thấy được được quá khứ vị lai hay chuyện đáng xảy ra hàng ngàn cây số .có người thì khai được thiên lý nhĩ ,có người thì khai khẩu họ có thể nói chuyện thao thao bất tuyệt ngộ pháp phật mà chưa hề đọc qua kinh phật nhiều rồi đi giảng pháp ,có người thân thể tự phát ra mùi hương như trầm từ hơi thở cho mồ hôi cũng đều thơm , qua quá trình nầy thì bước vào cảnh giới khác mà có xuất hồn đi bất cứ nơi nào hay bất cứ lúc nào mà gọi là tam hoa tụ đĩnh ngũ khí triều nguyên ,nhưng có người khi bước vào bậc nầy thì bởi lòng ham muốn mà lại không có ấn pháp thì dễ bị tẫu hỏa nhập ma ,vì khi hồn phách mình xuất ra thì có vong linh người khác họ sẽ nhập vào mà về lại thì không được ,cho nên thấy có người trong 1 thời gian tu thiền rồi trở thành điên hay tâm trí bất thường là bởi vì thế ,khi đến mức nầy cần có người truyền thụ chú và ấn Như Lai khi hồn xuất ra muốn trở về cần phải có chú và bắt ấn thì hồn mới nhập vào xác được . Những phuơng pháp trên là cách tu tập đúng khi hành thiền ,còn bạn cháu hay những người trước đây họ đã thọ giáo không đúng cách ,bạn cháu đã mở luân xa theo bác nghĩ là mở các âm xa nầy nên mới có luồng khí lạnh phía sau lưng,còn đúng khi mở hỏa xa thì ở phía trước mà rất nóng chứ không phải lạnh ... nói tóm lại bạn cháu cần gặp những người chân sư để truyền dạy nếu muốn tiếp tục ,hay đã bỏ thì cũng cần những người nầy giúp đóng lại hay truyền những ấn thủ tam muội mà đuổi âm xa ra ngoài / bây giờ chỉ có cách khuyên bạn cháu học thuộc lòng trì chú đại bi ,kinh an thổ địa khi đâu xa hay lúc lên giường trước khi ngũ , thì khi lúc ngũ dần sẽ không còn thấy ác mộng nữa .[những ấn thủ nầy bác không thể truyền trên mạng nơi public ] cũng cần nhìn thấy rỏ cách bắt ấn thật bên ngoài mà không thể diễn tả bằng lời nói ,có thể không đúng rồi sai ấn .
    2 likes
  4. GiadinhNet-Theo tính toán của “dị nhân đuổi mưa” Nguyễn Vũ Tuấn Anh thì phải tới 3 lần mới hầu mong đưa được rùa lên để chữa trị. Sau “cuộc rước” rùa Hồ Gươm lên chữa trị lần thứ nhất bất thành, đã xuất hiện nhiều luồng dư luận trái chiều. Dù mỗi người có cách nhìn khác nhau, nhưng hầu như ai cũng ngóng trông và đặt kỳ vọng vào cuộc “rước” rùa vào cuối tuần này. Tuy nhiên, theo những tính toán của “dị nhân đuổi mưa” Nguyễn Vũ Tuấn Anh thì phải tới 3 lần mới hầu mong đưa được rùa lên để chữa trị. Việc cần làm và phải làm PV: Thời gian qua, những vấn đề liên quan đến sức khỏe rùa Hồ Gươm trở thành mối quan tâm của rất nhiều người. Ông có thường xuyên theo dõi thông tin này? - Có thể nói là tôi rất quan tâm chứ không phải thường xuyên theo dõi nữa. Không dám nói: Tất cả các bài viết liên quan đến rùa Hồ Gươm tôi đều xem hết nhưng tôi biết trong sự việc này hiện vẫn còn rất nhiều ý kiến trái chiều. Việc một số người đặt vấn đề: Rùa Hồ Gươm có phải là “rùa thần” ngày xưa nhận kiếm của vua Lê hay không? Có đáng gọi bằng cụ hay không? Có nên quá quan tâm đến cụ hay không? Hoặc cụ rùa chết thì có nên đem chôn hay không?... tôi không tán thành những cách đặt vấn đề như vậy. Bởi vì, xét về mặt khoa học thì rùa Hồ Gươm hiện nay là cá thể rùa mai mềm duy nhất còn sót lại trên thế giới – chỉ tính riêng giá trị này đã đáng để cho người ta phải bảo vệ rồi. Ở đây, tôi còn chưa nói đến trong cổ sử ngàn xưa, ông cha ta đã dùng mai rùa làm phương tiện truyền tải chữ viết. Cụ thể là vào thời vua Nghiêu có xứ Việt Thường dâng con rùa lớn, trên mai có viết chữ Khoa Đẩu nói về trời đất mở mang. Chưa kể, hình ảnh con rùa còn gắn liền với tất cả lịch sử, văn hóa của dân tộc Việt. Ví dụ: những con rùa trong Văn Miếu, những con hạc đứng trên lưng con rùa trong các đình chùa miếu mạo. Trong văn hóa Đông phương nói chung, rùa là một loài vật rất linh thiêng. Chính vì tính chất duy nhất của cá thể này nằm ở Hồ Gươm (trước đây có một cá thể nữa nhưng đã chết rồi) và lại gắn liền với một truyền thuyết, thành ra rùa trở thành một biểu tượng văn hóa sống động. Mà đã là biểu tượng văn hóa thì chúng ta không thể thờ ơ được. Bởi thờ ơ với điều này chính là chúng ta đang bỏ qua những giá trị văn hóa không dễ gì có được. Tôi nghĩ, chỉ cần học đến lớp 12 thôi thì người ta cũng có thể biết rằng không có cơ sở nào để nói cụ rùa này ngậm thanh gươm của vua Lê cả! Rất nhiều người hiểu điều đó. Nhưng không phải vì cụ không ngậm thanh gươm mà không cứu cụ. Và đương nhiên, ai chẳng biết cụ rùa chết thì đem chôn hoặc giữ làm tiêu bản, nhưng chúng ta vẫn cố công cứu cụ là chứng tỏ chúng ta đang trân trọng một giá trị văn hóa ngàn đời, thể hiện qua hình ảnh rùa Hồ Gươm. Từ những vấn đề đó tôi nghĩ bằng mọi giá phải cứu rùa Hồ Gươm. Đó là việc cần làm và phải làm. Tất nhiên, xã hội đang có nhiều việc cần phải giải quyết gấp nhưng việc gì cần kíp thì nên ưu tiên trước. Và việc bảo tồn một giá trị văn hóa đang đứng trước nguy cơ bị tuyệt chủng là việc cần làm ngay. Dù đã cố hết sức nhưng công cuộc vây bắt cụ rùa lần thứ nhất vẫn không thành. Ảnh: Chí Cường PV: Việc để rùa tự lên tháp là rất khó Vậy theo ông, nguyên nhân khách quan và chủ quan nào khiến việc đưa rùa Hồ Gươm lên bờ vừa qua bị thất bại? - Vừa rồi người ta mất rất nhiều thời gian cho một Hội thảo cứu rùa - Tôi thấy việc này là không cần thiết lắm. Chúng ta nên giao cho một tổ chức nào đó làm việc này, tổ chức đó không làm được thì phạt, thế thôi. Tất nhiên, chúng ta có rất nhiều chuyên gia về rùa và cả những người có kinh nghiệm về việc chăm sóc, chữa trị cho rùa... và có thể tham khảo ý kiến của họ. Tôi nghĩ việc này rất chi là đơn giản. Tôi không biết đến lúc này họ đã tiến hành mấy lần đưa rùa lên, nhưng ít nhất phải tới ba lần. Nếu vừa rồi là lần thứ nhất thì phải hai lần nữa mới thành công”. Về nguyên nhân dẫn đến việc đưa rùa lên bờ bất thành hoàn toàn không có gì thần bí cả. Theo tôi là do sự chuẩn bị chưa được chu đáo. Chúng ta không định lượng được sức khỏe của rùa đến đâu. Không biết được quy luật sinh học của đời sống loài rùa nói chung, cho nên việc rùa “lọt lưới” là chuyện bình thường. Suy từ con người mà ra, khi bị một ai đó đuổi đến đường cùng thì họ cũng phải tìm mọi cách để thoát thân thôi và rùa Hồ Gươm cũng không nằm ngoài quy luật tất yếu đó. Nếu rùa Hồ Gươm có “sức mạnh thần bí” nào đó thì đã có thể tự chữa lành vết thương cho mình hoặc nếu không thì khi nghe mọi người bàn cách cứu chữa rùa đã tự leo lên Tháp Rùa nằm chờ rồi. Thực ra, khi rùa Hồ Gươm chưa có “mệnh hệ” gì, tôi đã từng nghĩ đến việc nên đổ cát lên Tháp Rùa để làm nơi cho rùa đẻ trứng, nghỉ ngơi và phơi nắng. Nhắc đến rùa, nhân tiện tôi nhắc đến một bài báo mà tôi đã đọc được. Chuyện này lâu lắm rồi, mấy chục năm về trước. Hồi đó, hai cụ rùa có đẻ một ổ trứng ở gần đền Ngọc Sơn, khi sửa chữa lại đền thì người ta phát hiện ra ổ trứng đó. Khi hai cụ phát hiện ra có người tìm ra ổ trứng của mình thì các cụ quay vòng vòng. Thấy thế, có người cầm một cái cuốc, cuốc vào đúng mai của cụ rùa kia (cụ rùa đã chết, có tiêu bản thờ trong đền Ngọc Sơn – PV) khiến cụ bị yếu sức mà chết. Bây giờ người ta mới đặt ra vấn đề này, nhưng tôi nghĩ việc để rùa tự lên Tháp Rùa, xác xuất rất thấp. Cho nên cần phải có biện pháp hợp lý để “ép” rùa phải tự lên. Có thể không bắt nhưng mình có thể chặn tất cả các lối thì con đường duy nhất là bơi lên tháp thôi. Mình có thể giăng lưới đưa rùa vào gần tháp rồi xiết chặt “vòng vây” lại là phải lên thôi. Nếu được chăm sóc tốt, ít nhất rùa Hồ Gươm sống thêm hơn 20 năm nữa. Rùa Hồ Gươm với những vết thương nhói lòng. Ảnh: TLPV: Ông có dự cảm gì về lần “bắt” rùa sẽ diễn ra vào cuối tuần tới? - Tôi nghĩ đối với một cá thể sinh vật như rùa Hồ Gươm nếu chúng ta quyết tâm bắt thì sẽ bắt được thôi. Còn nếu để biết bắt tới mấy lần mới thành công thì phải bấm quẻ thôi... (bấm đốt tay, tính toán – PV). Tôi không biết đến lúc này họ đã tiến hành mấy lần đưa cụ lên, nhưng ít nhất phải tới ba lần. Nếu vừa rồi là lần thứ nhất thì phải hai lần nữa mới thành công. PV: Dựa vào thực trạng sức khỏe hiện nay, ông có dự đoán gì về tuổi thọ của rùa Hồ Gươm? - Theo tôi hiểu, tuổi thọ tối đa của loài rùa là 300 năm. Rùa Hồ Gươm sống được như vậy là đã già lắm rồi. Có thể cụ đã sống đến thời gian tối đa, nhưng nếu chúng ta cứu chữa tốt thì ít nhất rùa Hồ Gươm cũng sống được một thế hệ nữa (tương đương 20 năm – PV). Có nhiều người đặt vấn đề có nên gọi rùa Hồ Gươm bằng “cụ” hay không thì theo tôi phải gọi cụ bằng “kỵ” mới đúng. Bởi tính nếu theo cuộc sống sinh học của con người, cứ một thế hệ là 20 năm thì chỉ cần trên 100 năm là cụ đáng được gọi bằng “kỵ” rồi. Chưa tính cụ đã sống tới mấy trăm năm thì chúng ta cũng nên tôn trọng mà gọi bằng “cụ”. Tôn trọng ở đây là tôn trọng một giá trị văn hóa đã gắn liền với đời sống tinh thần của con người qua hàng trăm năm. Mặc dù cụ cũng chỉ là một sinh vật, nhưng nó là biểu tượng văn hóa cho nên không thể gọi là “con” được. Gọi cụ bằng “con” là một việc không thể chấp nhận được. T.L Hà Tùng Long- Báo Gia đình & Xã hội
    1 like
  5. Lời góp nguyện. Hãy cầu nguyện cho nước bạn Nhật Bản. Đất nước Mặt Trời đang ở trong những thời khắc khó khăn nhất, bản lĩnh SAMURAI thật tuyệt và đáng khâm phục. Tuy nhiên, trước thiên nhiên thì sức người vô cùng bé nhỏ. Những người bạn Nhật lúc này rất cần những bờ vai, cánh tay...dang ra dìu nhau vượt khó của bạn bè khắp nơi. Về tình cảm Việt Nhật, về tâm Bồ Đề của những người con Phật. Chúng ta, ngoài sự giúp đỡ bằng vật chất ( nếu có thể) thì ngay từ bây giờ, hãy theo gương của ĐẠT LAI LẠT MA 14, Thiền Sư Thích Nhất Hạnh, giáo hội Phật giáo TQ...cũng cầu nguyện và hồi hướng cho Nhật Bản, cầu nguyện sự BÌNH YÊN mau chóng được thiết lập và ổn định trở lại, cầu nguyện cho những người còn sống sức khỏe và mạnh mẽ, Cầu nguyện và hồi hướng cho những người xấu số được thân xác vẹn toàn và siêu thoát. Ngoài phương pháp hành trì theo Pháp Tu của mỗi hành gia như Dược Sư, Quan Âm, Chuẩn Đề ....có thể tụng Kinh Địa tạng bổn nguyên Công Đức, cùng trì Thần chú của Ngài. Hoặc trì tụng Bát nhã Bà La Mật Tam Kinh để nguyện cầu. Xin chân thành Cảm niệm công Đức vô lượng của Quý Huynh ĐệCám ơn và Trân Trọng Kính Chào.
    1 like
  6. Kinh Dịch là của người Việt? Bee.net 17/03/2011 07:02:23 Người Trung Hoa đã có 2000 năm để nói Kinh Dịch là của họ, có hơn vài ngàn tác giả với hơn mấy ngàn đầu sách luôn luôn khẳng định điều này khiến nó đã thành một sự thật hiển nhiên khó ai cãi lại được. Nhưng ngày nay đã có những chứng cứ cho chúng ta thấy rằng nguồn gốc của Kinh Dịch không thể tìm thấy ở Trung Hoa, mà Việt Nam mới chính là nơi khai sinh Kinh Dịch. Mặc dầu những người bày tỏ quan điểm này chỉ đếm được trên đầu ngón tay, quả là “mãnh hổ nan địch quần hồ”, nhưng chân lý không phải là dựa vào số đông. Một người làm khoa học chân chính chỉ nên đưa ý kiến phản biện sau khi đã đọc kỹ quan điểm đối lập, cân nhắc chính xác những bằng chứng họ đề ra xem chỗ nào mình đồng ý, chỗ nào không đồng ý, rồi chính mình phải trưng cho được những chứng cứ ngược lại để làm sáng tỏ vấn đề, không nên nói chung chung, nói theo cảm tính. Cho rằng Kinh Dịch là của Trung Quốc hay của Việt Nam là quyền của mỗi người, nhưng muốn bảo vệ niềm tin này phải dựa vào chứng lý. Người Trung Hoa nói về nguồn gốc Kinh Dịch dựa trên những chứng lý nào? 1/ Trước hết họ cho Phục Hy nhìn những hình đồ trên con long mã vẽ nên bát quái. Đây là chuyện hoang đường chỉ hợp với những người mê tín, ưa sự huyền hoặc, thế mà cũng được vô số người tin như thật. Nhưng Phục Hy dù là nhân vật huyền thoại vẫn không phải là thủy tổ chính thống của người Hoa hạ. Phục Hy là tổ của một tộc trong đại chủng Bách Việt phía Nam Trung Quốc, người Hoa mượn làm tổ của mình. Tư Mã Thiên không đồng ý nên đặt Hoàng Đế ở đầu Sử ký. Vậy nếu Phục Hy có làm ra Bát quái cũng không thể nói là của Trung nguyên. Thừa nhận Phục Hy chế ra Kinh Dịch là người Hoa đã nhận Kinh Dịch là của dân Bách Việt, vậy sao cứ nói mãi Kinh Dịch của Trung Hoa và gọi đó là niềm tin chính thống. Hoàng Tông Viêm (16161 0 1686) người ở cuối đời nhà Minh, đầu đời nhà Thanh đã cực lực phủ nhận vai trò của Phục Hy trong Kinh Dịch, sao người Việt Nam vẫn cứ tin! 2/ Sau Phục Hy, người Hoa tin là Văn Vương khi bị Trụ Vương cầm tù ở Dữu Lý đã nâng cấp 8 quẻ thành 64 quẻ và viết quái từ hào từ Kinh Dịch. Người đưa ra thuyết này Tư Mã Thiên, sử gia hàng đầu và uy tín của Trung Quốc. Chính vì Tư Mã Thiên có uy tín nên người ta đã theo đó mà tin không cần kiểm chứng. Từ Văn Vương đến Tư Mã Thiên cách nhau hơn nghìn năm trung gian có Khổng Tử cách mổi ông chừng 500 năm. Khổng Tử rất tôn sùng Văn Vương, thế mà chưa bao giờ nói với Văn Vương soạn Kinh Dịch. Ở đầu quyền Sử ký, lương tri Tư Mã Thiên còn ray rứt nên chỉ đưa ra giải thuyết “có lẽ Văn Vương diễn Dịch”, nhưng gần cuối sách thì lại xác định hẳn là Văn Vương diễn Dịch, và nhiều người hùa theo đó mà tin. Kinh Thi là sách đại tụng Văn Vương, kể rất nhiều công tích của văn Vương nhưng không hề đả động đến Kinh Dịch. Các con Văn Vương như Võ Vương, Chu Công dùng bói toán để cúng lễ Văn Vương nhưng chưa bao giờ nói Văn Vương bói Dịch chứ đừng nói đền chuyện Văn Vương soạn dịch. Chính nhóm Ngô Bá Côn đã xác định điều này: “Từ thời cận đại đến nay, cách nhìn nhận này đã bị các học giả phủ nhận” (Dịch học, Nxb Văn hóa – Thông Tin, Hà Nội, 2003, tr.90). Sách Tả truyện dẫn nhiều câu chuyện bói Dịch nhưng không hề nói Văn Vương soạn Dịch. Các nhà Dịch học Trung Quốc đầu thế kỷ XX đã có người muốn dứt bỏ Văn Vương khỏi vương quốc Kinh Dịch, nhưng có một số người nhiễu sự ưa chuyện huyễn hoặc cứ cố níu kéo Văn Vương, nhất là một số Dịch học người Việt. 3/ Sau khi loại bỏ Phục Hy và Văn Vương, một số nhà Dịch học Trung Quốc lại cho rằng Kinh Dịch có nguồn gốc từ các nhà Vu Hịch là các quan coi việc bói toán (Có Hiệt Cương, Lý Kính Trì), Kinh Dịch có các từ phán đoán giống các từ bói toán: cát, hung, hối lận, cữu, vô cữu, nhiều lời hào trùng hợp với lời bói, nhưng quan điểm này không mấy thuyết phục vì hai cơ cấu Dịch và bói khác nhau, bốc từ là những câu hỏi sẵn đưa ra để hỏi về một vấn đề mà người hỏi thắc mắc, câu trả lời là nhận hoặc phủ nhận, có hay không, còn hào từ phải tùy thuộc vị trí của hào, bản chất của hào, thời của quẻ. 4/ Phát hiện mới nhất là quan điểm của Trương Chính Lương khi cho rằng nguồn gốc của quẻ Dịch đến từ quẻ số khắc trên Giáp Cốt Văn và Kim Văn. Nhóm Chu Bá Côn cũng đã có ý kiến về vấn đề này “Song dùng các chữ số trong phép bói cỏ như 1,5,6,7,8 … không đủ chứng cứ để chứng minh tại sao trong Kinh Dịch lại chỉ có 8 kinh quái và 64 biiệt quái” (Dịch học, tr.63). Sau cùng nhóm Chu Bá Côn kết luận: “Tóm lại, đối với việc tìm hiểu nguồn gốc của quái, hào, tượng tuy đã có một số ý kiến có ảnh hưởng nhất định trong mấy năm gần đây, nhưng những điều được đề cập tới đầu không ngoài loại tượng và số, vẫn chưa thể nói là đã có một đáp án được gọi là công nhận. Có lẽ trong tương lai gần, theo đà phát hiện tư liệu ngày càng nhiều, chúng ta sẽ có được một đáp án xác đáng.” (Dịch học, tr.63). Còn Vương Ngọc Đức thì bi quan hơn: “Cuộc tranh luận kéo dài hai ngàn năm vẫn không có câu giải đáp chính xác. Nếu vẫn theo phương thức tư duy của các học giả thời xưa, thì hai ngàn năm nữa vẫn chưa làm rõ được vấn đề". (Bí ẩn của Bát Quái – Nxb Văn hóa – Thông tin, Hà Nội. 1996, tr.27). Như vậy, đối với vấn nạn nguồn gốc Kinh Dịch, các học giả Trung Quốc đành chịu “bó tay” không truy vấn được. Vậy thì người Việt Nam hà cớ gì cứ đi theo họ để xác nhận một điều họ đã phủ nhận, cứ trân trọng mãi cái họ đã ném đi. Vậy để xác định Kinh Dịch có nguồn gốc từ Việt Nam, chúng ta có những chứng cứ gì? Năm 1970, Giáo sư Kim Định đã tuyên bố “Kinh Dịch là của Việt Nam” trong tác phẩm Dịch Kinh linh thế, tiếp sau đã có nhiều người mạnh dạn đề xuất những chứng cứ như Nguyễn Xuân Quang, Nguyễn Vũ Tuấn Anh, Trần Quang Bình, Hà Văn Thùy, Nguyễn Quang Nhật, Nguyễn Việt Nho, Trúc Lâm … Riêng cá nhân tôi từ năm 1999, đến nay, tôi đã trình với công luận những chứng cứ khả dĩ chứng minh được Kinh Dịch là di sản của tổ tiên Việt Nam qua mấy điểm sau: Căn cứ vào những hoa văn trên đồ gốm Phùng Nguyên và đồ đồng Đông Sơn thì Việt tộc đã ghi khắc những quẻ Dịch trước Trung Quốc và sớm hơn chứng liệu của Trung Quốc (xin xem Phát hiện Kinh Dịch thời đại Hùng Vương – Thanhnienonline). Chứng liệu của Việt tộc trực tiếp từ tượng quẻ không phải qua suy luận từ số đến tượng như Trung Quốc. Có đầy đủ 8 quẻ đơn và một số quẻ kép trên đồ đồng Đông Sơn. Những quẻ này có thể đọc thành văn bản phản ánh tư tưởng quốc gia Văn Lang (Sứ giả Văn Lang – Anviettoancau.net). Quẻ Dịch trên đồ Phùng Nguyên và Đông Sơn chứng tỏ hào dương vạch liền và hào âm vạch đứt của Trung Quốc là biến thể của hào dương vạch liền và hào âm vạch chấm của Việt Nam, Trung Quốc đã nối những chấm âm lại thành vạch đứt để vạch cho nhanh (cải biên) (Chiếc gậy thần – dạng thức nguyên thủy của hào âm dương – thanhnienonline). Các từ Dịch/Diệc, Hào, Càn, Khôn, Cấn, Chấn, Khảm, Ly, Tốn, Đoài chỉ là từ ký âm tiếng Việt (Bàn về tên gọi tám quẻ cơ bản của Kinh Dịch – Dunglac.net). Quan trọng nhất theo tiêu chuẩn tam tài của Trung Quốc chỉ sử dụng Tiên Thiên đồ, Hậu Thiên đồ mà không có Trung Thiên Đồ, một đồ cốt yếu đã được tổ tiên Việt Tộc sử dụng đễ viết quái, hào từ Kinh Dịch. Đồ này được tổ tiên Việt tộc giấu trong truyền thuyết, trên trống đồng, nên có thể khẳng định Trung Quốc không thể nào là người khai sinh Kinh Dịch cũng như phân bố vị trí các quẻ. (Trung Quốc đã công bố hơn 4000 Dịch đồ nhưng không có đồ nào phù hợp với Trung Thiên Đồ) (Kinh Dịch di sản sáng tạo của Việt Nam – Thanhnienonline) Truyền thuyết Việt Nam một phần là những câu chuyện liên hệ với Kinh Dịch, như chuyện Con Rồng cháu tiên là chuyện của Trung thiên Đồ, chuyện Sơn Tinh Thủy Tinh là chuyển kể lại từ những lời hảo quẻ Mông, người Trung Hoa chỉ cần thay đổi bộ thủy trong hai chữ “chất cốc” là đổi câu chuyện nói về lũ lụt thành chuyện dạy trẻ mông muội là xóa được gốc tích của Kinh. Truyền thuyết được lưu giữ chính là để báo tồn Kinh Dịch (Các bài trên Anviettoancau.net – cùng tác giả). Trong một bài báo ngắn, chúng tôi không thể trình bày hết mọi chứng cứ nhưng thiết tưởng bấy nhiêu đó cũng đủ để hy vọng các bậc đại thức giả Việt Nam nên xét lại vấn đề, cân nhắc phân minh trả lại sự công bằng cho tổ tiên. Thái độ thờ ơ của quí vị chỉ làm tăng thêm nỗi đắng cay chua xót của liệt tổ ở chốn u linh. Xin hãy chung tay làm sáng tỏ huyền án này. Theo Nguyễn Thiếu Dũng (Tạp chí Xưa & Nay)
    1 like
  7. Cuộc sống vốn là như vậy . có thăng có trầm . vấn đề ko phải ngồi đó mà nói bấp bênh hay lận đận . ngay cả NTH này . đã từng trải qua rất nhiều sóng gió và đau thương , và hầu như tiền vận của NTH chỉ gắn với những từ đau thương và sóng gió ấy . Hồi trc đó ! khi bằng tuổi Rin thì NTH cũng từng cảm thấy sự mong lung và vô định của tương lai .... NTh xem như là người đi trc , đã từng trải nên có thể góp vài ý cho Rin rằng ! Rin đừng ngồi đó mà than trời trách đất . đừng phí thời gian mà bắt tâm trí mình nghĩ nhưng thứ mà chỉ làm tốn thời gian vì sau khi ngồi lo lắng cho những chuyện ấy thì có thay đổi đc gì ko ? hay chỉ làm mình hoang mang và lại tốn thời gian vô ích ! hãy nhớ câu này "cứ đi đi rồi sẽ đến" . và đừng nói vội . cứ làm từng bước rồi 1 thời gian ngắn thôi , rồi Rin sẽ nhận thấy bản thân mình đang rất có ích , thời gian lúc ấy đang có giá trị , rồi niềm vui và sự tự tin sẽ có . kế hoạch sẽ dc định hình và từ từ mọi thứ sẽ ổn . đó là những gì mình từng trải và cảm nhận . chỉ có phấn đấu mới có thay đổi ! thân chào . chúc Rin an lạc và hoan hỷ nhé
    1 like
  8. TƯ LIỆU THAM KHẢO Tiểu vũ trụ trong vườn Thiền Quá trình giao thoa, kết hợp và dung hòa với văn hóa Trung Hoa xưa nay thể hiện khá rõ nét ở nghệ thuật tổ chức không gian Thiền trong vườn cảnh Việt Nam. Dù hai đất nước có những điều kiện thiên nhiên, ngôn ngữ, khí hậu khác nhau thì vẫn có thể nhận thấy nét tương đồng từ bài trí sân vườn rộng rãi đến chậu cây bon sai nhỏ xinh. Đô thị ngày càng phát triển, không gian cho thiên nhiên càng bị thu hẹp khiến những mảng xanh càng trở nên hiếm hoi, cần thiết hơn. Do đó nghệ thuật tiểu cảnh trong nhà ngày càng thể hiện rõ thái độ trân trọng thiên nhiên, lựa chọn loại cây phù hợp để trồng và trưng bày một cách tương hòa trong mỗi gia đình, góp phần tạo nên những chốn Thiền định xanh tươi. Vườn Thiền phía sau chùa Thiên Mụ ( Huế), một đặc trưng nghệ thuật sân vườn Phật giáo Không chỉ là vật trang trí Xưa nay dùng cây cối trong nội thất chính là liệu pháp cân bằng và cải tạo Sinh Khí một cách đơn giản và dễ điều chỉnh nhất. Trong một căn phòng làm việc có nhiều loại vật dụng, hãy thử đặt vài chậu kiểng, bình hoa trên bàn và hoặc giò lan trên cửa sổ, hiệu quả giảm stress sẽ đến rõ rệt nhờ việc cân bằng Âm Dương, hài hòa hành Mộc với Kim. Tuy nhiên việc bố trí cây cối, tiểu cảnh cũng phải tương quan chặt chẽ với không gian. Cây cối nhiều quá nếu không được sắp xếp hợp lý sẽ dẫn đến ẩm thấp, tối tăm, vướng víu tầm mắt và dễ sinh hỏa hoạn (Mộc Sinh Hỏa). Nghệ thuật vườn Thiền phương Đông đã nêu rõ: luôn cần giữ khoảng trống thoáng đãng, trồng cây có chính phụ, đưa cây vào nội thất có chọn lọc. Sức khỏe” của cây cối cũng là thước đo Sinh Khí cho mỗi ngôi nhà. Khi một loại cây trồng có dấu hiệu tàn úa, cần khắc phục ngay để duy trì sự quân bình. Gần thì điều chỉnh tại ngay cây đó như xới đất, tưới nước hay tỉa cành, xa hơn là quan sát cả không gian chung quanh xem có bị nắng nóng hay để cây quá sâu trong nhà khiến cây thiếu dưỡng khí hay không. Tốt nhất là nên chọn các loại cây phù hợp với cấu trúc, hình khối và hướng của nhà (cây ưa nước hay kỵ nước, ưa nắng hay thích bóng râm, cây sậm lá hay nhiều hoa...) Chọn cây trong nhà theo… tên! Câu “danh chính ngôn thuận” trong văn hóa truyền thống Hán- Việt đã được ứng dụng trong phong thủy và nghệ thuật khá nhiều, cụ thể là qua việc đặt tên các loại cây cối luôn được người Việt nói riêng và dân châu Á nói chung cân nhắc để hướng đến yếu tố may mắn. Tất nhiên, những cái “danh” ấy luôn được các nhà vườn và nghệ nhân giải thích tương ứng với hình dáng, xuất xứ, đặc tính của cây và có sự sắp xếp hệ thống để khách hàng cảm nhận và lựa chọn tùy theo quan điểm và hoàn cảnh riêng mỗi nhà. Những loại cây được xem là Cát Tường, mang lại Sinh Khí và không gian Thiền định trong nhà ở có thể hệ thống trong một số bộ chủ yếu sau: a. Bộ Tứ Linh: Đa – Sung – Sanh – Si, vốn là những cây lâu năm, dáng đẹp, rễ bám bền chắc và cành lá xum xuê, những cây này hay được uốn theo những thế truyền thống thể hiện tiểu vũ trụ trong đại vũ trụ bao la. b. Bộ Tứ Quý: Mai- Lan- Cúc- Trúc tương ứng theo bốn mùa trong năm, hoặc là Tùng – Trúc– Cúc– Mai tượng trưng cho tuổi thanh xuân và khí tiết của con người, trong đó Tùng và Trúc có dáng vươn cao tượng trưng cho nam tử trượng phu, còn Cúc – Mai tươi đẹp mềm mại tiêu biểu cho nữ nhi hiền thục. c. Bộ Tam Đa: gồm có cây Sung sai quả (hoặc cây Đa) ở dạng bonsai tượng trưng cho Phúc. Cây Lộc Vừng hoặc Phát Tài tượng trưng cho Lộc. Cây Bách Tuế, Thiên Tuế hay Vạn Tuế, Vạn Niên Tùng, Sống Đời… tượng trưng cho Thọ. Ngoài ra còn một số loại cây khá được ưa chuộng bởi những tên gọi mang ý nghĩa may mắn, hướng đến nhiều mong ước của các gia chủ. Có thể kể đến Cần Thăng (mong muốn thăng tiến), Đỗ Quyên, Trạng Nguyên (đỗ đạt, học giỏi), Kim Ngân, Kim Quýt (Tài lộc dồi dào), Đào- Mai- Hồng (duyên tình tươi thắm), Hướng Dương, Cúc Vàng (đón ngày mới, ấm áp tự tin). Các loại hoa cắt cành ngoài hoa hồng, phong lan… thì Cát Tường mang ý nghĩa may mắn, hanh thông mọi việc hoặc hoa Thiên Điểu với ý nghĩa tượng trưng cho sự phóng khoáng, bay bổng, cũng khá được ưa chuộng. Đặc biệt hoa Sen (được nhiều ý kiến đề xuất chọn là quốc hoa của Việt Nam), nhất là Sen Phật Bà xưa nay luôn tượng trưng cho lòng thành kính hướng thiện. Với một dân tộc Việt kính ngưỡng Phật giáo cả mấy ngàn năm thì hoa sen không chỉ đơn giản thể hiện đức tin và sự tôn nghiêm, mà còn là biểu hiện khát vọng vươn tới tâm thái thanh tịnh và tinh khiết. Các nghệ nhân cây cảnh thường tạo dáng cây theo các chủ đề truyền thống như Tam Cương Ngũ Thường, Tam Tòng Tứ Đức, Nhị Thập Tứ Hiếu … trong đó các phần Ngọn, Thân, Rễ tương đương với quan niệm Thiên – Địa – Nhân phải hài hòa, không được xem nhẹ phần nào. Tiêu chuẩn cơ bản là Nhất Hình– Nhì Thế– Tam Chi– Tứ Diệp nhằm có được những dáng cây hài hòa, khỏe mạnh, vừa mang ý nghĩa giáo dục thẩm mỹ truyền thống vừa tạo nên hình thế tươi đẹp cho người thưởng ngoạn. Nó còn có ý nghĩa cải tạo tốt nội khí nơi ở, đem lại sắc thái thiền định chân phương và giá trị tinh thần sâu sắc. Bài VỌNG BÌNH; ảnh : KHÁNH NGỌC (Du Lịch Tâm Linh 3)
    1 like
  9. Quí hóa quá. Cô cậu công đức thật vô lượng.Cầu nguyện như vầy thì ở đâu cũng được. Lúc nào cũng được. Miễn là phải khởi tậm với một động cơ đúng đắn và thanh tịnh. Ti nhiên. tập hợp nhiều người cùng thực hiện thì mạnh mẽ và tinh tấn hơn. Nhớ là phải phát nguyện đọc hồi hướng . Đừng giữ lại gì cho mình. OK. Nhật bổn có 2 tín ngưỡng truyền thống lớn đó là Thần Đạo và Phật Đạo. Ti nhiên họ cũng có cả Kito Đạo. Là nước á châu thuần thí mà họ lại ăn tết theo dương lịch. Nên ai theo Kitô hữu cũng nên cầu Chúa để nguyện cầu cho họ.
    1 like
  10. Tượng đức Bồ tát Địa Tạng Vưong đứng giữa hoang tàn đỗ nát sau trận sóng thần ngày 11-3-2011 (Ảnh: Phù Sa Online cung cấp)
    1 like
  11. híc , trong chuyện tình cảm mà chị Rin cứ bốc quẻ hoài . Như vậy bj phụ thuộc quá nhiều sẽ dẫn đến chị làm hành xử và suy nghĩ sai lệch :( Theo em nghĩ tốt nhất là làm mọi chuyện với 1 cái tâm không có mong đợi . Chị thử xem :)
    1 like
  12. -_-Quá đơn giản khi có thời gian 5 năm. -3 năm lấy cái bằng cao đẳng thiết kế nội thất -2 năm đi làm là có cơ hội soi xăm đối tượng như ý. Với trình độ như chị em cái nhà bác này ở lúc bấy giờ thì tăm được các anh làm trưởng phòng thiết kế là chuyện bình thường, có thể là giám đốc thiết kế nữa ấy chứ. Túm lại là chị em nhà bác có gan làm hay không thôi:-? .
    1 like
  13. :) chị xem phim Để Mai Tính đi :) hay lém đó :) chúc chị vui vẻ trở lại
    1 like
  14. mỗi ngày mỗi hạn, kể sao cho hết? Muốn biết thì ra ngoài, tìm thầy mà hỏi rồi trả tiền xem sao. Hay lúc đó lại cứng họng, không hỏi nổi câu nào xứng đáng với số tiền đã bỏ ra.
    1 like
  15. Anh Quet rác đêm nói đúng đấy! Mình hãy tự tạo ra việc làm cho chính mình. "Quân tử vấn dịch để biết lẽ tiến thoái, không thay đổi ý chí của mình". Nếu nhàn quá thì xem sách để mở mang tri thức. Có điều kiện thì sáng tạo những nhân vật chuyện tranh, tìm hiểu một mảng tri thức nào đó chẳng hạn. Được một chỗ nhàn là "tiên" rồi.
    1 like
  16. 5 năm nữa Rin 31 tuổi, đơn giản mà ;)) hàng băm đấy!!!
    1 like
  17. "Biến cố vừa xảy ra cho các bạn đã nhắc nhở cho chúng tôi bản chất vô thường về sự sống của chúng ta. Nó nhắc ta nhớ rằng điều quan trọng nhất là ta phải thương nhau, có mặt cho nhau và trân quý từng phút giây mà ta đang còn sống. Đó là cách hay nhất mà ta có thể làm cho những người đã chết: chúng ta có thể sống như thế nào mà họ có thể cảm nhận rằng họ được tiếp tục sống và sống đẹp hơn, ý thức hơn, sâu sắc hơn, trong mỗi chúng ta, nếm từng phút từng giây mà ta còn đang sống, sống cho họ." Lời Thiền Sư Nhất Hạnh dành cho tai họa trên xứ sở Phù Tang
    1 like
  18. Em không ở HCM nhưng cũng xin đăng kí tham gia buổi cầu nguyện này, liệu có được không chị? Cầu mong cho Nhật Bản sẽ sớm vượt qua được khó khăn này! Nam mô cứu khổ cứu nạn Quan Thế Âm Bồ Tát!
    1 like
  19. Có tam hóa liên châu nên cũng tạm được, nhưng cuộc sống hôn nhân chắc trở gia đạo bất hoà, muộn chồng lại lấy phải chồng già, có thể hai đời chồng
    1 like
  20. Nam mô a di đà phật Nam mô a di đà phật Nam mô a di đà phật Kính mong đức phật phù hộ độ trì cho những người dân Nhật bản vượt qua được những khó khăn này. Kính mong đức phật phù hộ độ trì cho những người dân Nhật bản vượt qua được những khó khăn này. Kính mong đức phật phù hộ độ trì cho những người dân Nhật bản vượt qua được những khó khăn này.
    1 like
  21. Theo mình bạn vui sống không nên quá lo lắng về chuyện túng thiếu tiền bạc sau này vì giữ được tinh thần và sức khỏe mới là điều quan trọng nhất. Bạn thấy đấy, nếu là tỷ phú mà mắc bệnh ung thư sắp chết thì có vui vẻ được không? Còn nếu nghèo khổ mà còn tinh thần và sức khỏe thì vẫn còn tương lai. Cái tên của bạn rất hay, hãy vui sống cho dù cuộc đời còn nhiều khó khăn bạn nhé.
    1 like
  22. Có thể chúng ta tổ chức 1 buổi Cầu nguyện như đã từng thực hiện cho Đại Lễ Ngàn Năm tại Chùa. Nếu đựoc sự đồng tâm của ACE, Wild sẽ sớm liên hệ địa điểm. Rất mong nhận được sự hưởng ứng của tất cả các bạn tạo nên sức lan tỏa công đức được hồi hướng hiệu quả cho lời cầu nguyện. dự kiến vào ngày thứ bảy ngày 19/3 nhằm vào rằm tháng 2 âl.
    1 like
  23. Be strong, Japan! http://www.youtube.com/watch?v=O74p7sbWrlY When I see those dire pictures I can cry just in dismay For courage and the strenght you need For help and hope I pray Many faces marked by sorrow But many people are aware They all band together Yes we are here to share There"s always someone left for us Something worth to fight it out Bear up and you"ll live to see Magic moments without doubt Life and earth are nature So rich and so pure How often it looks cruel But we are happy to endure When some major things are lost We are nerveless and alone But you are not the only one When it"s time to say goodbye We stand together and back you up You are not alone When I see those dire pictures I can cry just in dismay For courage and the strenght you need For help and hope I pray Now it"s tough times you"re going through But you keep your spirits up We all count our blessings We don"t give you up When some major things are lost We are nerveless and alone But you are not the only one When it"s time to say goodbye We stand together and back you up You are not alone Million thoughts are with you while someone"s singing this song You are not alone
    1 like
  24. Xin cùng cầu nguyện cho con người Nhật Bản được yên bình, hạnh phúc và mau vượt qua được thảm họa thiên tai này. Nam Mô Đại-từ đại bi cứu khổ cứu nạn Quảng đại linh cảm Quán-Thế-Âm Bồ-Tát Nam Mô Đại-từ đại bi cứu khổ cứu nạn Quảng đại linh cảm Quán-Thế-Âm Bồ-Tát Nam Mô Đại-từ đại bi cứu khổ cứu nạn Quảng đại linh cảm Quán-Thế-Âm Bồ-Tát Nam Mô Phật, Nam Mô Pháp, Nam Mô Tăng, Bá thiên vạn ức Phật, Hằng hà sa số Phật Vô lượng công đức Phật. Phật cáo A nan ngôn Thử kinh đại-thánh, năng cứu ngục tù, năng cứu trọng bệnh, năng cứu tam tai, bá nạn khổ Nhược hửu nhơn tụng đắc nhất thiên biến, Nhứt thân ly khổ nạn,tụng đắc nhứt vạn biến, Hiệp gia ly khổ nạn, Nam Mô Phật Lực oai, Nam Mô Phật lực hộ , Sử nhơn vô ác tâm, Linh nhơn thân đắc độ , Hồi quang Bồ-tát, Hồi thiện Bồ-tát, A nậu đại thiên-vương, Chánh-điện Bồ-Tát , Ma kheo ma kheo. Thanh tịnh Tỳ-kheo, Quán sự đắc tán, Tùng sự đắc ưu, Chư Đại Bồ-Tát, Ngủ-bá A-La Hán, Cứu-độ nhân dân Nhật Bản, nhất là vùng bị tâm chấn động đất ảnh hưởng và tất cả chúng sanh, Nhất thân ly khổ nạn, Tự ngôn Quán-Thế-Âm Bồ-Tát ân lạc bất tu giãi, Cần đọc bá thiên vạn biến, tai nạn tự nhiên đắc giải thoát. Tín thọ phụng hành. Kiêm Bà Kiêm Bà Đế, Cầu Ha Cầu Ha Đế, Đà Ra Ni Đế, Ni Ha Ra Đế, Tỳ Lê Nễ Đế, Chơn Lăng Càng Đế, Ta Bà Ha . O . NAM-MÔ ĐẠI-TỪ ĐẠI-BI , TẦM THINH CỨU KHỔ CỨU NẠN, LINH CẢM QUÁN-THẾ-ÂM MA-HA-TÁT
    1 like
  25. Cơ bản thấy răng rụng là trong thân tộc có điềm không may, nếu rụng nhiều răng 1 lúc là điềm người mơ sẽ đối diện với chính điềm đó. Nên Niệm Hồng Danh Quán Thế Âm Bồ Tát Cứu Khổ Cứu Nạn đi các bạn ah!
    1 like
  26. Quý cô có thiên hướng muốn hướng tới nghiệp kinh doanh, khó mà giữ chân người làm kỹ thuật chỉ làm văn phòng hay kỹ thuật thuần túy. Đường nét rõ ràng, nét bút ngay ngắn quả là người khá thoáng, khá hài hòa với mọi người. Tuy nhiên khi ký thì nét bút nên mềm mại, lướt trên trang giấy chứ không phải như viết chữ, viết chữ cần có lực, ký thì cần có hồn. Người rất giầu tình cảm, vì thế mong muốn giúp đỡ người khác là rất thật tâm chứ ko phải giả tạo, bản thân người giải cũng không nói dựa. Chữ ký đơn giản nhưng lại chứa đựng nhiều ý nghĩa, bác Hồ Chí Minh ký nguyên tên như vậy há chẳng quá đơn giản hay sao? Chữ L móng vào tới chữ H, chắc muốn tạo ra chữ P, nó cho thấy hiện tại là hiện tại, nhưng hiện tại hôm nay là quá khứ ngày mai, cái của ngày hôm qua có sự móc nối nhân quả chứ không phải nối tiếp tới ngày hôm nay và ngày mai. Cái này nó cũng thể hiện chính ở mong ước cả ngắn và dài hạn là một, lại còn pate xuống làm 2 lần, sự nhấn mạnh này quá rõ rồi. Dù vô tình hay hữu ý thì nó cũng phản ánh đúng con người của quý cô. Chữ ký đủ no, đủ tròn, đủ to cho thấy 1 con người phúc hậu biết nhường nào, ai lấy được quý cô, ắt hẳn là người đại phúc đại đức.
    1 like
  27. Đã có khá nhiều công trình nghiên cứu của các học giả Việt Nam về Kinh Dịch, trong số đó có một công trình đặt lại vấn đề " tác quyền" của bộ Kinh này. Đó là học giả Nguyễn Thiếu Dũng, qua nhiều tìm tòi và nghiên cứu, ông đã nêu ra một số chứng lý để minh chứng rằng Kinh Dịch là sáng tạo của người Việt Nam. Với sự thận trọng cần thiết, Thanhnien Online xin giới thiệu bài viết sau đây của học giả Nguyễn Thiếu Dũng để rộng đường tham khảo. Từ hai nghìn năm trước khi chúng ta bị phong kiến phương Bắc đô hộ, tổ tiên chúng ta ở thời đại Hùng Vương đã sáng tạo Kinh Dịch và dùng học thuyết này xây dựng nền tảng cơ bản cho văn hoá Việt Nam, nhờ thế trong suốt một nghìn năm lệ thuộc Trung Hoa, chúng ta vẫn đứng vững không bị đồng hoá như các dân tộc ở Hoa Nam. Người Trung Hoa không biết từ thời điểm nào đã tiếp thu được Kinh Dịch của Việt Nam và họ cũng đã dùng Kinh Dịch để góp phần xây dựng nền tảng văn hoá của họ. Cho nên trong sinh hoạt, chúng ta có nhiều điểm giống họ, sau một nghìn năm mất chủ quyền, ta mất luôn tác quyền Kinh Dịch và những gì ta nghĩ, ta làm thấy giống Trung Hoa ta đều tự nhận mình học của Trung Hoa. Kỳ thật không phải như vậy. Người Trung Hoa rất trọng hướng Đông, khi họ tiếp khách, chủ nhà ngồi quay mặt về hướng Đông để tỏ chủ quyền. Trong thời lập quốc họ luôn luôn hướng về biển Đông, không kể Nam Kinh những Kinh đô danh tiếng của Trung Quốc đều lần lượt nối nhau tiến dần từ Tây Bắc sang Đông. Ngày nay những thành phố lớn của họ cũng đều tập trung ở bờ Đông. Thế mà trong Kinh Dịch họ phải công nhận hướng Nam là hướng văn minh, mặc dầu trong sử sách họ vẫn cho Hoa Nam là xứ man di. Mỗi khi cần bói Dịch họ đặt Kinh Dịch trên bàn thờ cho quay mặt về hướng Nam như hướng ngồi của Hoàng đế, rồi lạy bái cầu xin. Cử chỉ này cho thấy trong tiềm thức họ không quên nguồn gốc Kinh Dịch đến từ phương Nam, từ đất nước của các vua Hùng. Trong vòng 60 năm trở lại đây một số nhà nghiên cứu Việt Nam đã trực giác thấy rằng Kinh Dịch là tài sản của Việt Nam nhưng khi nói như thế họ vẫn chưa thoát khỏi sự ràng buộc của truyền thuyết nên vẫn thừa nhận Phục Hy là nhân vật sáng tạo Kinh Dịch. Cho nên không tránh được mâu thuẫn. Ngày nay chúng ta có đầy đủ chứng lý để nói ngay rằng Kinh Dịch là sản phẩm của Việt Nam, do chính tổ tiên người Việt sáng tạo, trên chính quê hương Việt Nam với nhiều bằng chứng vật thể còn lưu dấu trên đồ gốm Phùng Nguyên, đồ đồng Đông Sơn. Phục Hy, Văn Vương chưa từng làm ra Dịch. 1) Chứng lý vật thể: Kinh Dịch xuất hiện tại Việt Nam một nghìn năm trước khi có mặt tại Trung Quốc: Tại di chỉ xóm Rền, thuộc nền Văn hoá khảo cổ Phùng Nguyên, các nhà khảo cổ đã đào được một chiếc nồi bằng đất nung (11, tr 642) trên có trang trí bốn băng hoa văn, mỗi băng nầy tương đương với một hào trong quẻ Dịch, theo phép đọc Hổ thể thì đây chính là hình khắc của quẻ Lôi Thuỷ Giải. Đây có thể xem là chứng tích xưa nhất trên toàn thế giới hiện chúng ta đang có được về Kinh Dịch. Chiếc nồi báu vật vô giá này mang trên mình nó lời cầu nguyện của tổ tiên chúng ta về cảnh mưa thuận gió hòa, mong sao được sống một đời an bình không có họa thuỷ tai. Lôi Thuỷ Giải là mong được giải nạn nước quá tràn ngập (lũ lụt), hay nước quá khô cạn (hạn hán). Niên đại của Văn hoá Phùng Nguyên được Hà Văn Tấn xác định: ”Phùng Nguyên và Xóm Rền đều là các di chỉ thuộc giai đoạn giữa của văn hoá Phùng Nguyên. Hiện tại chưa có niên đại C14 cho giai đoạn này. Nhưng hiện nay chúng ta đã có một niên đại C14 của di chỉ Đồng Chỗ là di chỉ mà tôi cho là thuộc giai đoạn sớm của Văn hoá Phùng Nguyên: 3800 + 60 BP (Bln-3081) tức 1850 + 60BC (Hà Văn Tấn 1986: 181-182). Như vậy, các di chỉ Phùng Nguyên và Xóm Rền phải muộn hơn niên đại này. Nhưng Phùng Nguyên và Xóm Rền lại sớm hơn các niên đại C14 của lớp dưới di chỉ Đồng Đậu. Hiện nay lớp này có các niên đại: 3330 + 100BP (Bln-830), 3050 + 80BP (Bln-3711); 3015 + 65BP (HCMV 05/93); 3100 + 50BP (HCMV 06/93). Nếu tin vào các niên đại C14 này thì giai đoạn giữa của văn hoá Phùng Nguyên nằm vào khoảng giữa thế kỷ 17 và thế kỷ 14 trước Công Nguyên... tương đương với văn hoá Thương ở Trung Quốc, thậm chí với giai đoạn sớm của văn hoá này (1, tr 578-579). Về phía Trung Quốc, tuy theo truyền thuyết cho là Kinh Dịch do Phục Hy thời đại tối cổ Trung Quốc tạo ra nhưng trên thực tế không có chứng cứ nào để xác nhận chuyện này. Triết gia đầy uy tín của Trung Quốc Phùng Hữu Lan đã khẳng định trong Trung Quốc Triết học sử: ’’Suốt thời nhà Thương chưa có Bát Quái” (bản Hồng Kông 1950, tr 457). Chưa có Bát Quái nghĩa là chưa có Kinh Dịch. Quẻ Dịch xuất hiện sớm nhất ở Trung Quốc là trên sách Tả Truyện thời Xuân Thu-Chiến Quốc (772-221 BC). Vào thời kỳ này trên một số lớn các trống đồng Đông Sơn ở Việt Nam đã có khắc hình quẻ Lôi Thuỷ Giải bằng 6 dải băng nghĩa là đầy đủ 6 hào. Vậy là rõ ràng Kinh Dịch đã có ở Việt Nam từ thời các Vua Hùng, so với chứng cứ cụ thể của Trung Quốc Kinh Dịch đã có ở nước ta trước Trung Quốc cả nghìn năm. Chuyện này chẳng khác chi chuyện tổ tiên ta đã biết trồng lúa nước nghìn năm trước Trung Hoa mà Trần Trọng Kim vẫn viết trong Việt Nam sử lược là người Trung Hoa có công dạy dân ta làm ruộng. 2) Chứng lý ngôn ngữ học: Một số tên quẻ Dịch là tên tiếng Việt không phải tiếng Trung Quốc: Người ta thường gọi Kinh Dịch hay Kinh Diệc và cứ đinh ninh Diệc là do Dịch đọc chệch đi, kỳ thật tổ tiên ta nói Kinh Diệc và người Trung Hoa đã đọc chệch đi thành Dịch. Tiếng Trung Hoa Dịch còn có thể đọc là Diệc(Xem Khang Hy Từ Điển). Diệc là một loài chim nước, có họ với loài cò. Đây là những loài chim quen thuộc với đồng ruộng, với văn minh nông nghiệp, văn minh Văn Lang. Kinh Dịch là kết tinh của văn minh nông nghiệp, các nhà sáng tạo kinh Dịch Việt Nam lấy hình ảnh con diệc, con cò làm tiêu biểu cho hệ thống triết học của mình là hợp lý, nhưng người Trung Quốc muốn làm biến dạng cho khác đi, cho rằng chữ Dịch là hình ảnh con tích dịch - một loại thằn lằn hay biến đổi màu sắc theo thời gian chẳng thân thiết gần gũi gì với người nông dân cả. Điều này đã được ghi chú rất rõ trên trống đồng Đông Sơn về sau sẽ giải rõ. Tên tám quẻ đơn Càn, Khảm, Cấn, Chấn, Tốn, Ly, Khôn, Đoài đều là tiếng Việt không phải là tiếng Trung Quốc. Các học giả Trung Hoa rất lúng túng khi giải nghĩa nguồn gốc tên những quẻ này vì họ cứ cho đó là tiếng Hoa nên tìm mãi vẫn không lý giải được. Ở đây chỉ dẫn một quẻ để minh chứng. Quẻ Ly không có nguồn gốc Trung Hoa, đây chỉ là chữ ghi âm tiếng Việt, một dạng chữ Nôm loại giả tá. Kinh Dịch bản thông hành ghi là Ly, âm Bắc Kinh đọc là Lĩ, nhưng bản Bạch Thư Chu Dịch đào được ở Mã Vương Đôi thì lại ghi là La, âm Bắc Kinh đọc là lúo (đọc như lủa). Rõ ràng đây là cách ghi của hai người Trung Hoa ở hai nơi hoặc hai thời điểm nghe người Việt Nam nói là quẻ Lửa, một người bèn ghi là lĩ (Ly), một người lại ghi là lủa (La). Còn người Việt Nam viết chữ Nôm Lửa thì lại dùng chữ lã làm âm. Cả ba âm Ly, La, Lã đều là cận âm với âm lửa, dùng để ghi âm âm lửa. Như vậy quẻ Ly không phải là quẻ có nghĩa là lìa hay là dựa như người Trung Hoa nghĩ mà chính là quẻ Lửa tức là quẻ Hoả như về sau họ đã dịch đúng nghĩa của nó. 3) Chứng lý đồ tượng: Kinh Dịch Trung Hoa thiếu một hình đồ trọng yếu, trong khi hình đồ này đang được cất giấu tại Việt Nam. Chứng tỏ Việt Nam mới là nước sáng tạo Kinh Dịch. Đồ tượng và quái tượng (quẻ) là những hình tượng cơ bản cấu tạo nên Kinh Dịch. Cả hai đều có những giá trị bổ túc cho nhau để hình thành Kinh Dịch. Đọc Dịch mà chỉ chú trọng đến quẻ không chú ý đến Đồ là một thiếu sót đáng tiếc vì như thế là đã bỏ qua quá nửa phần tinh tuý của Dịch. Những ứng dụng quan trọng của Dịch đa phần đều căn cứ trên đồ, như thuyết trọng nam khinh nữ chi phối sâu đậm nhân sinh quan Trung Quốc thời kỳ phong kiến là ảnh hưởng Càn trọng Khôn khinh của Tiên Thiên Đồ, xem phong thuỷ, coi tử vi, học thuyết Độn Giáp, Thái Ất phát sinh ở Trung Hoa là do ảnh hưởng của Hậu Thiên Đồ. Y học, Võ thuật, Binh Thư Đồ trận lừng danh của Trung Quốc đều từ các Thiên Đồ mà ra. Theo thuyết Tam tài, cơ sở để xây nên toà lâu đài Kinh Dịch thì phải có ba Đồ chính là Tiên Thiên Đồ, Hậu Thiên Đồ và Trung Thiên Đồ nhưng suốt cả hai nghìn năm nay, Trung Quốc chỉ lưu hành hai Đồ Tiên Thiên và Hậu Thiên. Người Trung Hoa tuyệt nhiên không tìm ra Trung Thiên Đồ, cuối cùng họ đành bó tay, rồi thản nhiên kết luận, không cần có Trung Thiên Đồ. Đã có Tiên Thiên Đồ làm thể và Hậu Thiên Đồ làm dụng là đủ lắm rồi. Đây chính là khuyết điểm lớn nhất của Dịch học Trung Quốc mà cũng là cái may lớn nhất cho ta để từ chỗ sơ hở này ta tìm ra chứng lý quan trọng nhất, quyết định nhất để xác nhận tác quyền của Việt Nam. Trung Quốc không có Trung Thiên Đồ, một Đồ quan trọng bậc nhất dùng làm la bàn để viết nên kinh văn các lời hào, Việt Nam lại cất giữ Trung Thiên Đồ! Vậy thì ai là chủ nhân Kinh Dịch? Câu hỏi đã được trả lời, bí ẩn hai nghìn năm đã được trưng ra ánh sáng. Tác giả bài này có may mắn là đã thiết lập được Trung Thiên Đồ. Đồ này quẻ Càn ở phương Nam, quẻ Đoài ở phương Đông Nam, quẻ Tốn ở phương Đông, quẻ Khảm ở phương Đông Bắc, quẻ Ly ở phương Bắc, quẻ Cấn ở Tây Bắc, quẻ Chấn ở Tây và quẻ Khôn ở phương Tây Nam. Đây chính là Đồ thứ ba trong số ba Thiên Đồ trọng yếu của Kinh Dịch mà người Trung Hoa không tìm ra. Nếu Tiên Thiên Đồ là Thiên Đồ, Hậu Thiên Đồ là Địa Đồ thì Trung Thiên Đồ là Nhân Đồ nghĩa là Đồ nói về con người. Có một danh hoạ tài ba nào chỉ trong một hình vẽ có thể biểu đạt ba hình thái khác nhau về con người? Điều này chưa ai làm được, ngay cả máy móc tân tiến nhất, hiện đại nhất cũng không thể làm việc này. Thế mà Trung Thiên Đồ cùng một lúc có thể diễn tả ba trạng thái khác nhau đó: Trung Thiên Đồ có mục đích nói về những vấn đề liên quan đến con người cho nên hình đồ Trung Thiên có thể biểu thị ba khía cạnh khác nhau của con người về mặt sinh lý, về mặt siêu lý và về mặt đạo lý: a) Con người sinh lý: Quẻ Càn tượng cho bán cầu não phải, Quẻ Khôn tượng cho bán cầu não trái. Khi một người bị tai biến mạch máu não ở bán cầu phải thì tay chân bên trái thường bị liệt, ngược lại cũng thế. Vì Càn thuộc dương nên liên quan đến tay trái gồm hai quẻ Chấn dương và Cấn dương và vì tay trái đã dương thì chân trái lại thuộc về âm nên chân có quẻ Ly âm. Trái lại, bán cầu não trái Khôn âm sẽ ảnh hưởng đến tay phải Trạch âm và Tốn âm cùng với chân Khảm dương. Điều này tương đồng với kết quả thực nghiệm của Leokadia Podhorecka (1986), trình bày năm 1986 tại hội nghị quốc tế về Trường sinh học tại Zagrev về tính bất đối xứng phải - trái trong nhân thể (2, tr 117). Hình đồ cũng thể hiện được y lý Đông Phương cho rằng Thiên khí tả truyền: Dương khí đi từ bên phải (Càn dương) sang bên trái (Cấn, Chấn dương), Địa khí hữu truyền: Âm khí đi từ bên trái (Khôn âm) sang bên phải (Đoài, Tốn âm). Con người muốn sống cần phải thở (Càn phế, chủ khí), sau đó phải được nuôi dưỡng bằng thức ăn (Khôn, tỳ vị). Con người khoẻ mạnh khi tâm (Ly) giao hoà với thận (Khảm), nếu tâm thận bất giao sẽ sinh tật bệnh, vị y tổ Việt Nam Lê Hữu Trác đã phát triển học thuyết này để chữa bệnh rất hiệu quả. Con người siêu lý B) Con người siêu lý: Theo trãi nghiệm của các hành giả Yoga hoặc Khí công, Thiền, thì cơ thể có bảy trung tâm năng lượng tác động chi phối sự sống của con người, gọi là bảy đại huyệt hay là bảy luân xa. Trung Thiên Đồ chính là biểu đồ hệ thống bảy luân xa đó, theo thứ tự từ dưới lên: luân xa 1 là Hoả xà Kundalinê chính là quẻ Ly hoả, Luân xa 2 là Mệnh môn quan chính là quẻ Khảm (thận thuỷ), Luân xa 3 là Đơn điền Ngũ Hành Sơn chính là quẻ Cấn sơn, Luân xa 4 là Luân xa tâm gồm hai quẻ Tốn (tâm âm) và Chấn (tâm dương), luân xa 5 là trung tâm Ấn đường chính là quẻ Đoài, luân xa 6 nằm ở chân mi tóc hay huyệt Thượng tinh mà Đạo giáo thường gọi là Kim mẫu chính là quẻ Khôn (Địa mẫu), Luân xa 7 là huyệt Thiên môn Bách hội chính là quẻ Càn Thiên. c) Con người đạo lý: Trung Thiên Đồ còn biểu đạt một mẫu người đạo lý tâm linh: quẻ Sơn Tượng cho tính người tham lam muốn tích luỹ như núi (Tham), quẻ Ly Hoả tượng cho người có tính sân như lửa (Sân), quẻ Khảm Thuỷ tượng cho người có tính si như nước đổ dồn về chỗ thấp (Si), ba thói xấu đó sẽ dẫn con người đến chỗ ác tượng trưng bằng quẻ Tốn (tâm âm, nhục tâm, vọng tâm), (như thuyết Tam Độc của Phật Giáo). Nhưng nếu con người biết phát triển tâm từ bi như tình yêu của mẹ tượng bằng quẻ Khôn (Địa Mẫu - Từ Bi), khiến tâm thanh tịnh an lạc tượng bằng quẻ Đoài (Vui, Hỉ), lúc nào cũng sẵn lòng cảm thông tha thứ cho người, tượng bằng quẻ Càn (Xả) thì con người sẽ đạt được cõi phúc, tượng bằng quẻ Chấn (Tâm dương, Chân tâm, Đạo tâm), (như thuyết Tứ vô lượng tâm của Phật giáo). 4) Phát hiện Trung Thiên Đồ trong truyền thuyết Kinh Dịch có tám quẻ đơn: Càn còn gọi là Thiên có tượng là trời, là vua, là cha. Khôn còn gọi là Địa có tượng là đất, là hoàng hậu, là mẹ. Khảm còn gọi là Thuỷ có tượng là nước, là cá (ngư). Ly còn gọi là Hoả có tượng là lửa. Cấn còn gọi là Sơn có tượng là núi. Đoài còn gọi là Trạch có tượng là đầm (hồ). Chấn còn gọi là Lôi có tượng là sấm, là con trai trưởng. Tốn còn gọi là Phong có tuợng là gió, là cây (mộc). Khi tám quẻ đơn chồng lên nhau ta được 64 quẻ kép, nhưng khi tám quẻ đơn được đặt trên vòng tròn ta sẽ được ba thiên đồ căn bản: Tiên Thiên Đồ thường được người Trung Hoa gọi là Tiên Thiên Đồ Phục Hy vì cho là do Phục Hy chế ra, Hậu Thiên Đồ cũng được người Trung Hoa gọi là Hậu Thiên Đồ Văn Vương vì cho là do Văn Vương thiết lập, ở đây chúng tôi chỉ gọi là Tiên Thiên Đồ và Hậu Thiên Đồ vì đã chứng minh được Kinh Dịch do người Việt Nam sáng chế nên Phục Hy, Văn Vương chẳng can dự gì vào việc sáng tạo các thiên đồ. Dịch đồ thứ ba chính là Trung Thiên Đồ đã được tổ tiên Việt Nam cất giấu trong truyền thuyết Lạc Long Quân - Âu Cơ. Truyền thuyết Lạc Long Quân - Âu Cơ không chỉ là một huyền sử về nguồn gốc dân tộc "Con Rồng cháu Tiên", một thông điệp về tình đoàn kết, nghĩa yêu thương giữa các dân tộc anh em, đồng bào mà còn chứa đựng một thông tin về di sản tinh thần vô giá của dân tộc Việt Nam đã được tổ tiên chúng ta bí mật cất giữ trong đó: tôi muốn nói đến Kinh Dịch đứa con lưu lạc của Việt Nam đã được Trung Quốc nuôi dưỡng và đã thành danh ở đó. Nếu chúng ta kết hợp những thông tin nằm rải rác trong các truyền thuyết Lạc Long Quân - Âu Cơ, truyện Hồ tinh, Mộc tinh, Ngư tinh ta sẽ thiết lập được một Trung Thiên Đồ mà người Trung Quốc chưa hề biết đến. Theo Kinh Dịch, Lạc Long Quân thường được nhân dân gọi là Bố mỗi khi có việc cần giúp đỡ có thể ký hiệu bằng quẻ Càn có tượng là vua, là cha. Lạc Long Quân thường sống ở Thuỷ phủ ký hiệu là quẻ Khảm có tượng là nước. Lạc Long Quân diệt được Hồ tinh là con cáo chín đuôi sống hơn ngàn năm ở đầm Xác Cáo nay là Hồ Tây, sự kiện này có thể ký hiệu bằng quẻ Đoài tức quẻ Trạch có tượng là đầm. Đất Phong Châu thời Thượng cổ có cây Chiên đàn sống hàng ngàn năm, chim hạc thường đến đậu ở đấy nên nơi đó còn gọi là đất Bạch Hạc (nay thuộc tỉnh Phú Thọ), lâu ngày cây hoá thành yêu tinh dân gọi là thần xương cuồng, Kinh Dương Vương và Lạc Long Quân ra sức đánh đuổi, cứu dân thoát khỏi sự bức hại của xương cuồng. Sự kiện này có thể ký hiệu bằng quẻ Tốn còn gọi là quẻ Phong có tượng là mộc. Lạc Long Quân cũng có công diệt được ngư tinh, con yêu ngư xà ăn thịt người, chuyện này cũng thuộc quẻ Khảm ký hiệu ở trên. Truyền thuyết thường nói chung là Lạc Long Quân (quẻ Càn) diệt hồ tinh (quẻ Đoài), diệt mộc tinh (quẻ Tốn), diệt ngư tinh (quẻ Khảm) để cứu dân, từ đó ta đã có được một vế của Trung Thiên Đồ: Càn - Đoài - Tốn - Khảm. Theo truyền thuyết Lạc Long Quân nói với Âu Cơ (được tôn xưng là Quốc mẫu, là mẹ, ký hiệu là quẻ Khôn): (1, tr 30). Như thế là truyền thuyết đã xác định rất rõ tính cách tương phản giữa Lạc Long Quân và Âu Cơ. Long Quân thuộc quẻ Khảm (Thuỷ) thì Âu Cơ thuộc quẻ Ly (Hoả). Truyền thuyết kể tiếp: "Âu Cơ và năm mươi con lên ở đất Phong Châu (nay là huyện Bạch Hạc) suy phục lẫn nhau, cùng tôn người con cả lên làm vua, hiệu là Hùng Vương, lấy tên nước là Văn Lang". Lên Phong Châu là lên núi ký hiệu là quẻ Cấn có tượng là núi, tôn người con cả ký hiệu là quẻ Chấn vì Chấn có tượng người con trưởng. Ta lại có thêm vế thứ hai của Trung Thiên Đồ: Ly - Cấn - Chấn - Khôn. Đến đây ta đã khai quật được Trung Thiên Đồ từ lớp ngôn ngữ truyền thuyết, các quẻ xếp theo thứ tự Càn - Đoài - Tốn - Khảm - Ly - Cấn - Chấn - Khôn theo chiều ngược kim đồng hồ. 5) Vai trò Trung Thiên Đồ trong việc hình thành văn bản Kinh Dịch: a) Bố cục Kinh Dịch: Kinh Dịch có 64 quẻ, 30 quẻ đầu thuộc về thượng kinh, 32 quẻ sau thuộc về hạ kinh. Nhìn vào cách sắp đặt vị trí các quẻ Dịch trong bản kinh văn thông hành ta không thể không nghĩ rằng các nhà làm Dịch đã sử dụng Trung Thiên Đồ như là la bàn để phân bố các quẻ. Mở đầu kinh văn là hai quẻ Càn số 1, Khôn số 2 đúng như vị trí Càn Khôn đứng bên nhau trên Trung Thiên Đồ, cuối thượng kinh là hai quẻ Khảm số 29 và Ly số 30 đúng như vị trí Khảm Ly dưới Trung Thiên Đồ. Mở đầu hạ kinh là hai quẻ Trạch Sơn Hàm số 31 và quẻ Lôi Phong Hằng số 32 đúng như vị trí quẻ Đoài Trạch đối qua tâm với quẻ Cấn Sơn tạo thành quẻ Trạch Sơn Hàm, quẻ Chấn Lôi đối qua tâm với quẻ Tốn Phong tạo thành quẻ Lôi Phong Hằng nằm giữa Trung Thiên Đồ. Cuối hạ kinh là hai quẻ Thuỷ Hoả Ký Tế số 63 và Hoả Thuỷ Vị Tế số 64 đúng như vị trí quẻ Khảm Thuỷ giao hoán với quẻ Ly Hoả tạo thành. Khác hẳn với Tiên Thiên Đồ và Hậu Thiên Đồ các quẻ Càn Khôn Ly Khảm đứng đối nhau qua tâm, biểu hiện trạng thái phân ly, trên Trung Thiên Đồ các quẻ Càn Khôn Ly Khảm đứng gần nhau từng đôi một biểu hiện trạng thái giao hội. Ở tự nhiên mọi vật có thể đối nghịch, vừa tương phản vừa tương thành. Nhưng ở con người thì khác, con người là một chỉnh thể, một thái cực, một toàn đồ âm dương phải tương hội điều hoà, nếu một bên thiên thắng con người sẽ bất ổn, phát sinh bệnh tật. B) Đặt tên cho quẻ Dịch: Nhiều nhà chú giải Kinh Dịch Trung Quốc khi giải thích nghĩa chữ giao của hào thượng cửu quẻ Thiên Hoả Đồng nhân số 13 "Đồng nhân vu giao" thường chỉ dừng lại ở vấn đề chính trị xã hội nên hiểu giao theo một nghĩa rất hẹp, họ cho giao là vùng đất ngoại ô kinh thành nếu muốn đồng thì nên tìm người ở xa mà liên hiệp. Hiểu như vậy thì không sát nghĩa và không đúng với lập ý của người làm ra Kinh Dịch. Có lẽ vì người Trung Quốc trong tay không có la bàn Trung Thiên Đồ là đồ đã bị Tổ tiên người Việt Nam cất giấu rất kỹ không truyền ra ngoài nên không hiểu rằng giao tức là giao hội, khi hoả xà Kundalinê từ lâu cuộn mình ở đốt xương cùng có đủ điều kiện lên hợp nhất với thần Vishnou cư trú ở huyệt Thiên môn nghĩa là khi luân xa số 1 là quẻ Ly Hoả hoà nhập với luân xa số 7 là quẻ Càn Thiên là lúc con người đạt đến trạng thái toàn thức, hạnh phúc hoàn hảo nhất, con người đạt đến mức độ giao hội cùng vũ trụ, tha nhân, vì thế mới đặt tên cho quẻ này là Thiên Hoả Đồng nhân. Giao nằm ở hào thượng cửu (theo Dịch lý thuộc tài thiên), tức là ở mức độ đồng nhân cao nhất, mức độ hoà đồng siêu việt, Nếu hiểu giao như nghĩa các chữ Đông giao (ngoại ô phía đông), Nam giao (ngoại ô phía Nam) thì không phù hợp với cấu trúc quẻ Dịch, hiểu như vậy là mặc nhiên nhận giao thuộc về đất phải nằm ở hào hai, tài Địa. Cũng như quẻ Đồng Nhân, các Dịch học gia Trung Quốc cũng bị hạn chế khi hiểu quẻ Đại Hữu chỉ là sở hữu tài sản vật chất họ không ngờ rằng Đại Hữu là sở hữu tài sản tinh thần vĩ đại, quẻ này chính là ghi lại thành tựu một quá trình công phu trãi nghiệm của hành giả đã hợp nhất với vũ trụ, mà mỗi hào mô tả thành quả một chặng đường liên tục từ hạ đẳng công phu đến thượng đẳng công phu. c) Đọc lại Kinh Dịch: Nhờ có Trung Thiên Đồ ta có thể đọc lại Kinh Dịch một cách chính xác hơn, điều này nghe có vẽ nghịch lý vì ta làm sao thông thạo ngôn ngữ Trung Hoa hơn người Trung Hoa được, nhưng vì ta có Trung Thiên Đồ là la bàn tổ tiên ta dựa vào đấy để viết các lời hào nên chúng ta có cách đọc thuận lợi hơn. Ở đây tôi chỉ xin dẫn ra một thí dụ để minh chứng. Kinh Dịch có ba quẻ nói đến Tây Nam, quẻ Giải: "Lợi Tây Nam", quẻ Kiển: "Lợi Tây Nam, bất lợi Đông Bắc”, quẻ Khôn: "Tây Nam đắc bằng, Đông Bắc táng bằng”. Căn cứ vào Hậu Thiên Đồ, quẻ Khôn (đất) nằm ở hướng Tây Nam, quẻ Cấn (núi) nằm ở hướng Đông Bắc, Vương Bật, người thời Tam Quốc, trong Chu Dịch chú giải thích như sau: ”Tây Nam là đất bằng, Đông Bắc là núi non. Từ chỗ khó mà đi đến chỗ bằng, cho nên khó khăn sẽ hết, từ chỗ khó mà đi lên núi, thì sẽ cùng đường”, Khổng Dĩnh Đạt trong Chu Dịch chính nghĩa viết: ”Tây Nam thuận vị là hướng bằng phẳng dễ đi, Đông Bắc hiểm vị là chỗ trắc trở khó khăn. Đường đi lắm trắc trở, tất cả đi đến chỗ bằng dễ đi thì khó khăn sẽ hết, trái lại nếu đi vào chỗ hiểm thì càng bế tắc cùng đường. Đi ở phải hợp lý vậy”, (3, tr 846).Trương Thiện Văn trong Từ điển Chu Dịch giải thích: ”Lợi cho việc đi về đất bằng Tây Nam, không lợi cho việc đi về phía núi non đông bắc. Tây nam tượng trưng cho đất bằng, Đông bắc tượng trưng cho núi non. Đây nói ở thời kiển nạn mọi hành động đều phải tránh khó khăn hiểm trở, phải hướng về phía bằng phẳng thì mới có thể vượt qua kiển nạn,vì vậy nói lợi tây nam, bất lợi đông bắc”, (3, tr 907). Nói chung lời giải thích của đa số Dịch gia Trung Quốc đều dựa vào vị trí các quẻ trên Hậu Thiên Đồ và đều cho núi là trở ngại, nhưng giải như vậy không thể khớp với Dịch lý, quẻ Kiển tức là quẻ Thuỷ Sơn Kiển, hình tượng nước ngập núi, trận đại hồng thuỷ. Vậy núi chỉ là trở ngại thứ yếu. Sự thật đối với người cổ đại núi tuy có khổ ải hơn nơi bằng phẳng nhưng không phải là trở ngại đáng kể. Đối với người cổ đại núi là nhà, hang hốc là nhà. Núi che chở cho họ, cung cấp thực phẩm, đùm bọc nuôi dưỡng họ. Nói cho cùng với tượng quẻ như vậy, người ta không lo về núi mà nỗi lo triền miên chính là nước. Suốt thời cổ đại, nhất là ở Việt nam, chiến tranh bất tận là chiến cuộc giữa NGƯỜI với NƯỚC. Con người khơi dòng lấy đất canh tác, đẩy lùi biển để giành đất sống. Khi con người thắng biển nghĩa là khi Sơn tinh thắng Thuỷ tinh, Kiển nạn được giải. Vấn đề lật ngược, quẻ Thuỷ Sơn Kiển lật thành quẻ Sơn Thuỷ Mông, Thoán từ ca ngợi chiến công thần thánh này là Lợi Trinh (thắng lợi bền chặc). Ở Hậu Thiên Đồ cũng như ở Trung Thiên Đồ, quẻ Khôn cùng ở vị trí Tây Nam nhưng ở vị trí Đông Bắc thì quẻ của hai đồ hoàn toàn ngược nhau. Nếu Hậu Thiên Đồ là quẻ Cấn (núi) thì ở Trung Thiên Đồ lại là quẻ Khảm (nước). Ta thấy rõ muốn hiểu nghĩa lời hào của ba quẻ đó không thể dựa vào vị trí quẻ trên Hậu Thiên Đồ, vì không chính xác. Chỉ có thể dựa vào vị trí quẻ trên Trung Thiên Đồ mới làm sáng tỏ được nghĩa quẻ. Con người không ngại núi mà chỉ e sông, e biển. Câu lợi Tây Nam, bất lợi Đông Bắc không phù hợp với thực tiển Trung Quốc vì con đường sống của họ luôn dịch chuyển từ Tây Bắc sang Đông Bắc, hành trình các kinh đô của các triều đại Trung Hoa thường đi từ núi ra biển:Tây An - Trường An - Lạc Dương - Khai Phong - Bắc Kinh. Đó là hành trình ngược với lời hào ba quẻ: Giải, Khôn, Kiển. Trong khi đó lời hào ba quẻ trên lại hoàn toàn phù hợp với thực tiển Việt Nam. Đối với Việt Nam, Đông Bắc mới thực là bất lợi, đó là biển cả là cửa ngỏ cho phong kiến phương bắc xâm lược. Việt Nam chỉ có con đường sống là mở nước về phương Nam và Tây nam. Lịch sử Việt Nam đã chứng thực lời đó, đã hai lần chúng ta tiến về hướng Tây Nam, đợt đầu tiến về đồng bằng Thanh Nghệ Tĩnh, đợt sau tiến về vựa lúa châu thổ sông Cửu Long. Lời hào trên vẫn còn là lời dự báo ứng nghiệm với Việt Nam ngày nay: Tây Nam đắc bằng khi gia nhập khối Đông Nam Á, con đường Tây nam đang ở thế thuận lợi. 6/ Kết luận: Chúng ta còn nhiều chứng lý từ vật thể đến phi vật thể, từ ngôn ngữ đến văn bản, nhưng mấu chốt hơn hết để chứng minh Kinh Dịch do Tổ tiên người Việt Nam sáng tạo vẫn là vai trò của Trung Thiên Đồ. Khi một người muốn chứng minh một vật là sản phẩm do chính mình đúc ra thì ngườI đó phải trưng ra khuôn đúc, ở đây cũng vậy Trung Quốc không có Trung Thiên Đồ giống như không có khuôn đúc thì làm sao bảo rằng Trung Quốc đã sáng chế ra Kinh Dịch. Thật ra Trung Quốc chỉ có công phát huy Kinh Dịch nhờ đó Kinh Dịch mới có bộ mặt vĩ đại như ngày nay, cũng như họ đã làm rạng rỡ cho Thiền nhưng không ai có thể quên Thiền có nguồn gốc từ Phật giáo Ấn Độ. Đã đến lúc cái gì của César phải trả lại cho César. Khi chúng ta nhận ra rằng Kinh Dịch là di sản của Tổ tiên ta sáng tạo, ta sẽ hiểu được do đâu ta cũng cùng giải đất với các dân tộc vùng Hoa Nam, núi liền núi, sông liền sông mà họ bị đồng hoá còn chúng ta thì không. Kinh Dịch chính là cuốn Cổ văn hoá sử của Việt Nam mà Tổ tiên chúng ta còn lưu lại ngày nay, tuy có bị sửa đổi nhuận sắc nhiều lần nhưng những vết tích của nền văn minh thời các vua Hùng dựng nước vẫn còn đậm nét trong nhiều quẻ Dịch. Người sáng tạo Kinh Dịch đã dựa vào Trung Thiên Đồ để bố cục vị trí các quẻ đúng như bản thông hành hiện đang phổ biến. Các Dịch học gia Trung Quốc căn cứ vào vị trí các quẻ theo Hậu Thiên Đồ nên có nhiều câu trong Kinh văn bị họ giảng sai với ý nguyên tác, muốn giảng cho đúng phải dựa vào Trung Thiên Đồ, không thể làm khác được. Trung Thiên Đồ giữ một vị trí quan trọng và quyết định như vậy đã được Tổ tiên Việt Nam cất giấu rất kĩ trong truyền thuyết Lạc Long Quân Âu Cơ. Từ truyền thuyết này có thể tìm lại Trung Thiên Đồ. Trung Thiên Đồ còn được khắc ghi cẩn trọng trên Trống đồng Đông Sơn có điều kiện tác giả bài này sẽ công bố sau. Chúng tôi còn nhiều minh chứng khác để kiện toàn chứng lý cho kỳ án này. Không còn nghi ngờ gì nữa, Kinh Dịch chính là sáng tạo của Tổ tiên Việt Nam. Muốn hiểu đúng bản chất văn hoá Việt Nam không thể không khảo sát Kinh Dịch, như là sáng tạo của Việt Nam. Thanh Nien online
    1 like
  28. Quý Hợi Mạng Hỏa theo Lạc Thư Hoa Giáp, mạng Thủy là theo sách TQ. Theo tôi kiểm chứng thì Lạc Thư Hoa Giáp chính xác hơn Lục Thập Hoa Giáp của TQ, muốn tìm hiểu bạn có thể tìm sách "Thời Hùng Vương và bí ẩn Lục Thập Hoa Giáp" hoặc "Tìm về cội nguồn Kinh Dịch" của tác giả Nguyễn Vũ Tuấn Anh. AI bải 2 tuổi này lấy nhau ly tán thì bạn bảo người đó giải thích. Tôi ko nói như thế nên tôi ko giải thích, và theo quan điểm của tôi thì ko ly tán nên ko có chi phải giải thích hết. Quan điểm Luận Tuổi Lạc Việt là "yêu nhau cứ lấy". Xem tuổi dựa vào tương tác của Thiên Can, Địa Chi và Nạp Âm Ngũ Hành của Thiên Can và Địa Chi. Nên cưới năm nay hoặc năm sau, bắt đầu từ năm 2013 thì vào Tam Tai, ko nên cưới!!! Thân mến.
    1 like
  29. Đã về trong cõi vô thường là cõi không thật, lại còn tìm trong kỷ niệm - tức là cái đã qua trong cõi không có thật. Mà hương cuối mùa trong cái đã qua của cái không thật thì còn gì nữa mà kết trái. Cuối cùng là chẳng có gì cả. :)
    1 like