-
Thông báo
-
Nội quy Lý Học Plaza
Nội quy này là bản mở rộng Nội Quy - Quy định của Diễn đàn. Khi tham gia mua bán, các thành viên phải tuân theo những quy định sau: Tiêu đề bài viết: Bao gồm: Chỉ dẫn địa lý, Loại hình Mua/Bán, Thông tin mua bán.
Chỉ dẫn địa lý: Tỉnh/thành nơi mua bán. Hoặc sử dụng định nghĩa có sẵn:TQ: Toàn quốc
HCM: TP Hồ Chí Minh
HN: Hà Nội
[*]Ví dụ: HCM - Bán Vòng tay Hổ Phách Nội dung bài viết: Mô tả chi tiết sản phẩm mua/bán
Bắt buộc phải có thông tin liên lạc, giá Mua/Bán
Bài mới đăng chỉ được phép up sau 03 ngày.
Thời gian up bài cho phép: 01 ngày 01 lần.
Các hành vi vi phạm nội quy này sẽ bị xóa bài hoặc khóa tài khoản mà không cần báo trước.
-
Leaderboard
Popular Content
Showing most liked content on 17/03/2011 in Bài viết
-
Theo tôi biết thì chu kỳ Thái Ất tương đương với các chu kỳ 26.000 năm của khoa học hiện đại và chu kỳ Phạm Thiên mà Liêm Pha nói tới. Chu kỳ Thái Ất còn đưa ra con số chính xác và cụ thể hơn: 25. 920 năm. Trong một đại chu kỳ Thái Ất - 25.920 năm thì các chòm sao Thiên cực Bắc lần lượt thay đổi, gồm: Vũ Tiên, , Đại hùng tinh (Hiện nay), Thiên Lang....Trung bình 6000 năm thì các chòm sao Thiên cực Bắc lại thay đổi.Và đây cũng là nguyên lý không có tháng Nhuận vào các tháng: Một (Tý); Chạp (Sửu) và Giêng (Dần) của Việt lịch. Từ cách lập tháng Nhuận này, tôi xác định rằng: Không có việc đổi cực theo cách hiểu cực Nam Bắc đảo chiểu , hoặc một sai lệch góc độ đáng kể trục trái Đất.. Việc xậy dựng Kim Tự Tháp thực chất là việc trấn yểm nạn Đại Hồng Thủy cách đây hơn 10. 000 năm trước hủy diệt nền văn minh mà tôi gọi là Atlantic. Họ dùng Kim Tự tháp để cân bằng Âm Khí của Địa cầu với sự tương tác của các chòm sao - dương khí. Tuy nhiên, việc trấn yểm này không thành công. Nhưng có thể nói nó khiến cho nền văn minh này không bị hủy diệt hoàn toàn và thuyết Âm dương Ngũ hành còn lại đền ngày nay. Lời tiên tri của Edgar Cayce nói về : "Sự nhận thức về các Đấng sáng tạo; biết rõ mối quan hệ giữa vật chất và Đấng sáng tạo; rằng giữa con người và vạn vật chúng sinh là duy nhất, lúc đó tình thương sẽ ngự trị trên loài người". Có thể hiểu như sau: Thuyết Âm Dương Ngũ hành sẽ được thừa nhận là lý thuyết thống nhất. Nhân loại sẽ hiểu được bản chất của vũ trụ. Thiên tai khủng khiếp kéo dài từ sóng thần Indo - 2004 - cho đến nay tại Nhật Bản đã cho thấy khả năng tiên tri của Lý học Đông phương - mà cốt lõi là thuyết Âm Dương Ngũ hành -.và sự bế tắc của khoa học hiện đại. Đồng ý thiên tai sẽ tăng nặng, nhưng không phải tận thế.3 likes
-
Lời góp nguyện. Hãy cầu nguyện cho nước bạn Nhật Bản. Đất nước Mặt Trời đang ở trong những thời khắc khó khăn nhất, bản lĩnh SAMURAI thật tuyệt và đáng khâm phục. Tuy nhiên, trước thiên nhiên thì sức người vô cùng bé nhỏ. Những người bạn Nhật lúc này rất cần những bờ vai, cánh tay...dang ra dìu nhau vượt khó của bạn bè khắp nơi. Về tình cảm Việt Nhật, về tâm Bồ Đề của những người con Phật. Chúng ta, ngoài sự giúp đỡ bằng vật chất ( nếu có thể) thì ngay từ bây giờ, hãy theo gương của ĐẠT LAI LẠT MA 14, Thiền Sư Thích Nhất Hạnh, giáo hội Phật giáo TQ...cũng cầu nguyện và hồi hướng cho Nhật Bản, cầu nguyện sự BÌNH YÊN mau chóng được thiết lập và ổn định trở lại, cầu nguyện cho những người còn sống sức khỏe và mạnh mẽ, Cầu nguyện và hồi hướng cho những người xấu số được thân xác vẹn toàn và siêu thoát. Ngoài phương pháp hành trì theo Pháp Tu của mỗi hành gia như Dược Sư, Quan Âm, Chuẩn Đề ....có thể tụng Kinh Địa tạng bổn nguyên Công Đức, cùng trì Thần chú của Ngài. Hoặc trì tụng Bát nhã Bà La Mật Tam Kinh để nguyện cầu. Xin chân thành Cảm niệm công Đức vô lượng của Quý Huynh ĐệCám ơn và Trân Trọng Kính Chào.2 likes
-
Kinh Dịch là của người Việt? Bee.net 17/03/2011 07:02:23 Người Trung Hoa đã có 2000 năm để nói Kinh Dịch là của họ, có hơn vài ngàn tác giả với hơn mấy ngàn đầu sách luôn luôn khẳng định điều này khiến nó đã thành một sự thật hiển nhiên khó ai cãi lại được. Nhưng ngày nay đã có những chứng cứ cho chúng ta thấy rằng nguồn gốc của Kinh Dịch không thể tìm thấy ở Trung Hoa, mà Việt Nam mới chính là nơi khai sinh Kinh Dịch. Mặc dầu những người bày tỏ quan điểm này chỉ đếm được trên đầu ngón tay, quả là “mãnh hổ nan địch quần hồ”, nhưng chân lý không phải là dựa vào số đông. Một người làm khoa học chân chính chỉ nên đưa ý kiến phản biện sau khi đã đọc kỹ quan điểm đối lập, cân nhắc chính xác những bằng chứng họ đề ra xem chỗ nào mình đồng ý, chỗ nào không đồng ý, rồi chính mình phải trưng cho được những chứng cứ ngược lại để làm sáng tỏ vấn đề, không nên nói chung chung, nói theo cảm tính. Cho rằng Kinh Dịch là của Trung Quốc hay của Việt Nam là quyền của mỗi người, nhưng muốn bảo vệ niềm tin này phải dựa vào chứng lý. Người Trung Hoa nói về nguồn gốc Kinh Dịch dựa trên những chứng lý nào? 1/ Trước hết họ cho Phục Hy nhìn những hình đồ trên con long mã vẽ nên bát quái. Đây là chuyện hoang đường chỉ hợp với những người mê tín, ưa sự huyền hoặc, thế mà cũng được vô số người tin như thật. Nhưng Phục Hy dù là nhân vật huyền thoại vẫn không phải là thủy tổ chính thống của người Hoa hạ. Phục Hy là tổ của một tộc trong đại chủng Bách Việt phía Nam Trung Quốc, người Hoa mượn làm tổ của mình. Tư Mã Thiên không đồng ý nên đặt Hoàng Đế ở đầu Sử ký. Vậy nếu Phục Hy có làm ra Bát quái cũng không thể nói là của Trung nguyên. Thừa nhận Phục Hy chế ra Kinh Dịch là người Hoa đã nhận Kinh Dịch là của dân Bách Việt, vậy sao cứ nói mãi Kinh Dịch của Trung Hoa và gọi đó là niềm tin chính thống. Hoàng Tông Viêm (16161 0 1686) người ở cuối đời nhà Minh, đầu đời nhà Thanh đã cực lực phủ nhận vai trò của Phục Hy trong Kinh Dịch, sao người Việt Nam vẫn cứ tin! 2/ Sau Phục Hy, người Hoa tin là Văn Vương khi bị Trụ Vương cầm tù ở Dữu Lý đã nâng cấp 8 quẻ thành 64 quẻ và viết quái từ hào từ Kinh Dịch. Người đưa ra thuyết này Tư Mã Thiên, sử gia hàng đầu và uy tín của Trung Quốc. Chính vì Tư Mã Thiên có uy tín nên người ta đã theo đó mà tin không cần kiểm chứng. Từ Văn Vương đến Tư Mã Thiên cách nhau hơn nghìn năm trung gian có Khổng Tử cách mổi ông chừng 500 năm. Khổng Tử rất tôn sùng Văn Vương, thế mà chưa bao giờ nói với Văn Vương soạn Kinh Dịch. Ở đầu quyền Sử ký, lương tri Tư Mã Thiên còn ray rứt nên chỉ đưa ra giải thuyết “có lẽ Văn Vương diễn Dịch”, nhưng gần cuối sách thì lại xác định hẳn là Văn Vương diễn Dịch, và nhiều người hùa theo đó mà tin. Kinh Thi là sách đại tụng Văn Vương, kể rất nhiều công tích của văn Vương nhưng không hề đả động đến Kinh Dịch. Các con Văn Vương như Võ Vương, Chu Công dùng bói toán để cúng lễ Văn Vương nhưng chưa bao giờ nói Văn Vương bói Dịch chứ đừng nói đền chuyện Văn Vương soạn dịch. Chính nhóm Ngô Bá Côn đã xác định điều này: “Từ thời cận đại đến nay, cách nhìn nhận này đã bị các học giả phủ nhận” (Dịch học, Nxb Văn hóa – Thông Tin, Hà Nội, 2003, tr.90). Sách Tả truyện dẫn nhiều câu chuyện bói Dịch nhưng không hề nói Văn Vương soạn Dịch. Các nhà Dịch học Trung Quốc đầu thế kỷ XX đã có người muốn dứt bỏ Văn Vương khỏi vương quốc Kinh Dịch, nhưng có một số người nhiễu sự ưa chuyện huyễn hoặc cứ cố níu kéo Văn Vương, nhất là một số Dịch học người Việt. 3/ Sau khi loại bỏ Phục Hy và Văn Vương, một số nhà Dịch học Trung Quốc lại cho rằng Kinh Dịch có nguồn gốc từ các nhà Vu Hịch là các quan coi việc bói toán (Có Hiệt Cương, Lý Kính Trì), Kinh Dịch có các từ phán đoán giống các từ bói toán: cát, hung, hối lận, cữu, vô cữu, nhiều lời hào trùng hợp với lời bói, nhưng quan điểm này không mấy thuyết phục vì hai cơ cấu Dịch và bói khác nhau, bốc từ là những câu hỏi sẵn đưa ra để hỏi về một vấn đề mà người hỏi thắc mắc, câu trả lời là nhận hoặc phủ nhận, có hay không, còn hào từ phải tùy thuộc vị trí của hào, bản chất của hào, thời của quẻ. 4/ Phát hiện mới nhất là quan điểm của Trương Chính Lương khi cho rằng nguồn gốc của quẻ Dịch đến từ quẻ số khắc trên Giáp Cốt Văn và Kim Văn. Nhóm Chu Bá Côn cũng đã có ý kiến về vấn đề này “Song dùng các chữ số trong phép bói cỏ như 1,5,6,7,8 … không đủ chứng cứ để chứng minh tại sao trong Kinh Dịch lại chỉ có 8 kinh quái và 64 biiệt quái” (Dịch học, tr.63). Sau cùng nhóm Chu Bá Côn kết luận: “Tóm lại, đối với việc tìm hiểu nguồn gốc của quái, hào, tượng tuy đã có một số ý kiến có ảnh hưởng nhất định trong mấy năm gần đây, nhưng những điều được đề cập tới đầu không ngoài loại tượng và số, vẫn chưa thể nói là đã có một đáp án được gọi là công nhận. Có lẽ trong tương lai gần, theo đà phát hiện tư liệu ngày càng nhiều, chúng ta sẽ có được một đáp án xác đáng.” (Dịch học, tr.63). Còn Vương Ngọc Đức thì bi quan hơn: “Cuộc tranh luận kéo dài hai ngàn năm vẫn không có câu giải đáp chính xác. Nếu vẫn theo phương thức tư duy của các học giả thời xưa, thì hai ngàn năm nữa vẫn chưa làm rõ được vấn đề". (Bí ẩn của Bát Quái – Nxb Văn hóa – Thông tin, Hà Nội. 1996, tr.27). Như vậy, đối với vấn nạn nguồn gốc Kinh Dịch, các học giả Trung Quốc đành chịu “bó tay” không truy vấn được. Vậy thì người Việt Nam hà cớ gì cứ đi theo họ để xác nhận một điều họ đã phủ nhận, cứ trân trọng mãi cái họ đã ném đi. Vậy để xác định Kinh Dịch có nguồn gốc từ Việt Nam, chúng ta có những chứng cứ gì? Năm 1970, Giáo sư Kim Định đã tuyên bố “Kinh Dịch là của Việt Nam” trong tác phẩm Dịch Kinh linh thế, tiếp sau đã có nhiều người mạnh dạn đề xuất những chứng cứ như Nguyễn Xuân Quang, Nguyễn Vũ Tuấn Anh, Trần Quang Bình, Hà Văn Thùy, Nguyễn Quang Nhật, Nguyễn Việt Nho, Trúc Lâm … Riêng cá nhân tôi từ năm 1999, đến nay, tôi đã trình với công luận những chứng cứ khả dĩ chứng minh được Kinh Dịch là di sản của tổ tiên Việt Nam qua mấy điểm sau: Căn cứ vào những hoa văn trên đồ gốm Phùng Nguyên và đồ đồng Đông Sơn thì Việt tộc đã ghi khắc những quẻ Dịch trước Trung Quốc và sớm hơn chứng liệu của Trung Quốc (xin xem Phát hiện Kinh Dịch thời đại Hùng Vương – Thanhnienonline). Chứng liệu của Việt tộc trực tiếp từ tượng quẻ không phải qua suy luận từ số đến tượng như Trung Quốc. Có đầy đủ 8 quẻ đơn và một số quẻ kép trên đồ đồng Đông Sơn. Những quẻ này có thể đọc thành văn bản phản ánh tư tưởng quốc gia Văn Lang (Sứ giả Văn Lang – Anviettoancau.net). Quẻ Dịch trên đồ Phùng Nguyên và Đông Sơn chứng tỏ hào dương vạch liền và hào âm vạch đứt của Trung Quốc là biến thể của hào dương vạch liền và hào âm vạch chấm của Việt Nam, Trung Quốc đã nối những chấm âm lại thành vạch đứt để vạch cho nhanh (cải biên) (Chiếc gậy thần – dạng thức nguyên thủy của hào âm dương – thanhnienonline). Các từ Dịch/Diệc, Hào, Càn, Khôn, Cấn, Chấn, Khảm, Ly, Tốn, Đoài chỉ là từ ký âm tiếng Việt (Bàn về tên gọi tám quẻ cơ bản của Kinh Dịch – Dunglac.net). Quan trọng nhất theo tiêu chuẩn tam tài của Trung Quốc chỉ sử dụng Tiên Thiên đồ, Hậu Thiên đồ mà không có Trung Thiên Đồ, một đồ cốt yếu đã được tổ tiên Việt Tộc sử dụng đễ viết quái, hào từ Kinh Dịch. Đồ này được tổ tiên Việt tộc giấu trong truyền thuyết, trên trống đồng, nên có thể khẳng định Trung Quốc không thể nào là người khai sinh Kinh Dịch cũng như phân bố vị trí các quẻ. (Trung Quốc đã công bố hơn 4000 Dịch đồ nhưng không có đồ nào phù hợp với Trung Thiên Đồ) (Kinh Dịch di sản sáng tạo của Việt Nam – Thanhnienonline) Truyền thuyết Việt Nam một phần là những câu chuyện liên hệ với Kinh Dịch, như chuyện Con Rồng cháu tiên là chuyện của Trung thiên Đồ, chuyện Sơn Tinh Thủy Tinh là chuyển kể lại từ những lời hảo quẻ Mông, người Trung Hoa chỉ cần thay đổi bộ thủy trong hai chữ “chất cốc” là đổi câu chuyện nói về lũ lụt thành chuyện dạy trẻ mông muội là xóa được gốc tích của Kinh. Truyền thuyết được lưu giữ chính là để báo tồn Kinh Dịch (Các bài trên Anviettoancau.net – cùng tác giả). Trong một bài báo ngắn, chúng tôi không thể trình bày hết mọi chứng cứ nhưng thiết tưởng bấy nhiêu đó cũng đủ để hy vọng các bậc đại thức giả Việt Nam nên xét lại vấn đề, cân nhắc phân minh trả lại sự công bằng cho tổ tiên. Thái độ thờ ơ của quí vị chỉ làm tăng thêm nỗi đắng cay chua xót của liệt tổ ở chốn u linh. Xin hãy chung tay làm sáng tỏ huyền án này. Theo Nguyễn Thiếu Dũng (Tạp chí Xưa & Nay)2 likes
-
Thời buổi bão giá này mà nhảy việc thì không ổn lắm đâu nhất là con gái. Bây giờ các công ty bên ngoài hay cơ quan NN đang cắt giảm nhân sự để tiết giảm chi phí. Nếu có một chỗ nhàn hạ rồi thì mình cứ làm rồi làm thêm một việc gì đó trong giờ chẳng hạn. Tuổi 26 chưa tự chủ được kinh tế cũng không phải là điều gì ghê gớm. Chúc Rin có lựa chọn phù hợp1 like
-
Tuổi 26 bạn không nên tự thấy cuộc đời bấp bênh, vô định. Thay vì vậy hãy tự hỏi, tuổi 26 cuộc đời ai đã ổn định đàng hoàng? Tuổi 26 mà mọi sự đã xong, tương lai thấy trước, v.v thì cuộc sống càng về sau càng tẻ nhạt. Có thể dùng LVĐT để dự đoán kết quả của công việc sắp tới, nhưng không dự đoán được ảnh hưởng của kết quả đó đến cuộc sống sau này. Thành công chưa chắc đã tốt mà thất bại chưa chắc đã xấu. Rất nhiều doanh nhân thành công ngày nay đã trải qua không ít lần thất bại nặng nề, nếu họ dùng LVĐT dự báo được trước thất bại mà lại không quyết tâm làm thì họ cũng không có được ngày hôm nay. Chúc bạn may mắn.1 like
-
Chào Rin! Cảm ơn bạn! mình đã xin được việc làm vào tháng 2 AL vừa rồi, nhưng xem ra chỗ này không ổn lắm nên mình vẫn tiếp tục tìm việc. Chỗ mình đang làm là tình cờ xin được và không mất tiền. Nhưng anh Thiên Đồng lấy quẻ cho mình bảo chỗ mình đang làm sẽ không làm được lâu dài. Nếu mình xin chỗ khác thì có lẽ như Rin nói, mất xiền và phải khéo. Nhưng không sao tốn kém chút cũng được, miễn là được việc! Chúc Rin may mắn và hạnh phúc nhé! An Thư!1 like
-
Xin cùng cầu nguyện cho con người Nhật Bản được yên bình, hạnh phúc và mau vượt qua được thảm họa thiên tai này. Nam Mô Đại-từ đại bi cứu khổ cứu nạn Quảng đại linh cảm Quán-Thế-Âm Bồ-Tát Nam Mô Đại-từ đại bi cứu khổ cứu nạn Quảng đại linh cảm Quán-Thế-Âm Bồ-Tát Nam Mô Đại-từ đại bi cứu khổ cứu nạn Quảng đại linh cảm Quán-Thế-Âm Bồ-Tát Nam Mô Phật, Nam Mô Pháp, Nam Mô Tăng, Bá thiên vạn ức Phật, Hằng hà sa số Phật Vô lượng công đức Phật. Phật cáo A nan ngôn Thử kinh đại-thánh, năng cứu ngục tù, năng cứu trọng bệnh, năng cứu tam tai, bá nạn khổ Nhược hửu nhơn tụng đắc nhất thiên biến, Nhứt thân ly khổ nạn,tụng đắc nhứt vạn biến, Hiệp gia ly khổ nạn, Nam Mô Phật Lực oai, Nam Mô Phật lực hộ , Sử nhơn vô ác tâm, Linh nhơn thân đắc độ , Hồi quang Bồ-tát, Hồi thiện Bồ-tát, A nậu đại thiên-vương, Chánh-điện Bồ-Tát , Ma kheo ma kheo. Thanh tịnh Tỳ-kheo, Quán sự đắc tán, Tùng sự đắc ưu, Chư Đại Bồ-Tát, Ngủ-bá A-La Hán, Cứu-độ nhân dân Nhật Bản, nhất là vùng bị tâm chấn động đất ảnh hưởng và tất cả chúng sanh, Nhất thân ly khổ nạn, Tự ngôn Quán-Thế-Âm Bồ-Tát ân lạc bất tu giãi, Cần đọc bá thiên vạn biến, tai nạn tự nhiên đắc giải thoát. Tín thọ phụng hành. Kiêm Bà Kiêm Bà Đế, Cầu Ha Cầu Ha Đế, Đà Ra Ni Đế, Ni Ha Ra Đế, Tỳ Lê Nễ Đế, Chơn Lăng Càng Đế, Ta Bà Ha . O . NAM-MÔ ĐẠI-TỪ ĐẠI-BI , TẦM THINH CỨU KHỔ CỨU NẠN, LINH CẢM QUÁN-THẾ-ÂM MA-HA-TÁT1 like
-
Xét ra hoàn cảnh của Rin86 có vẻ Kinh Lưu Niên nhỉ, mọi việc ù lì chậm chạp tẻ nhạt nhàm chán, hãy làm 1 cuộc cách mạng bản thân đi Rin86 ạ!1 like
-
Chắc là anh Thiên Đồng Bận không trả lời cho bạn ngay được, mình thì được quẻ Đỗ Xích Khẩu - Cảnh Tiểu Cát => các bạn sẽ tiến xa hơn đấy :P1 like
-
Cuốn sách “Tin Tức Từ Biển Tâm” của nhà văn Phật giáo Đài Loan – Lâm Thanh Huyền – quả là một cú “sốc” tuyệt vời đối với các nhà Phật học Việt Nam. Tôi tự nhủ mình đã đọc nhiều sách cổ kim đông tây giới thiệu giáo lý nhà Phật, bằng nhiều thứ tiếng. Nhưng có ít quyển sách nào – xuất bản trong thời cận hiện đại – gây cho tôi nhiều xúc động trên cả hai bình diện lý trí và tình cảm như cuốn “Tin Tức Từ Biển Tâm”. Chính vì vậy mà tôi hoan hỷ dịch cuốn sách này ra tiếng Việt, với cố gắng gìn giữ tối đa tính sống động và thực tiễn của nguyên bản chữ Hán, để cung cấp cho đông đảo độc giả Phật tử Việt Nam đọc, thưởng thức và suy ngẫm. Theo tôi nghĩ, các độc giả Việt Nam, không phải Phật tử, càng nên đọc cuốn sách này, để biết đạo Phật quan hệ với cuộc sống như thế nào, cuộc sống hiện tại, cuộc sống hằng ngày. Minh Chi (Giáo sư Học Viện Phật Giáo Việt Nam–tại TP. HCM) http://phatgiaovnn.com/upload1/modules.php...Topic&id=56 LỜI NÓI ĐẦU " Mỗi việc làm,mỗi cử chỉ mỗi hành động mình phải sống trở về với ánh sáng tỉnh giác ,thì trong việc làm trong hành động đó mới thật sống có ý nghĩa còn không sống mà như đã chết vậy " Được 1 nhân duyên lớn gia đình phật tử chúng tôi đọc được quyển “Tin Tức Từ Biển Tâm” cảm thấy quyển sách này là sách quý. rất có ý nghĩa trong cuộc sống ,nên gia đình phật tử chúng tôi đã thu âm và sang ra thành đĩa mp3 và upload lên những trang phật học .để quý phật tử và người thân gần xa có thể nghe và cảm nhận nếu quý phật tử nghe và thấy lợi lạc xin hoan hỉ truyền bá rộng rải cho những người than và gia đình.có chút công đức nguyện xin hồi hướng về khắp tất cả chúng sinh,Nếu có kẽ thấy nghe, đều phát tâm Bồ đề “nam mô phật bổn sư thích ca mâu ni ,nam mô adida phật http://www.mediafire...nixmmjyrdzn/TIN TUC TU BIEN TAM 1-01.mp3 http://www.mediafire...z4zll2ofjuz/TIN TUC TU BIEN TAM 1-02.mp3 http://www.mediafire...md1ntddagnz/TIN TUC TU BIEN TAM 1-03.mp3 http://www.mediafire...ydnnkymimym/TIN TUC TU BIEN TAM 1-04.mp3 http://www.mediafire...jkejmknwmon/TIN TUC TU BIEN TAM 1-05.mp3 http://www.mediafire...2dym5ye2oyo/TIN TUC TU BIEN TAM 1-06.mp3 http://www.mediafire...zlkomiw2dmw/TIN TUC TU BIEN TAM 1-07.mp3 http://www.mediafire...hjoq2ybtxmm/TIN TUC TU BIEN TAM 1-08.mp3 http://www.mediafire...mdjed2gggwd/TIN TUC TU BIEN TAM 1-09.mp3 http://www.mediafire...tgm4gzfmnho/TIN TUC TU BIEN TAM 1-10.mp3 http://www.mediafire...nmey3gm0ygw/TIN TUC TU BIEN TAM 2-01.mp3 http://www.mediafire...dyeedjjyt23/TIN TUC TU BIEN TAM 2-02.mp3 http://www.mediafire...ynw5wzjgzjz/TIN TUC TU BIEN TAM 2-03.mp3 http://www.mediafire...j4njiny4m2c/TIN TUC TU BIEN TAM 2-04.mp3 http://www.mediafire...juau03vhm5z/TIN TUC TU BIEN TAM 2-05.mp3 http://www.mediafire...mzmnz2zzkj2/TIN TUC TU BIEN TAM 2-06.mp3 http://www.mediafire...5m4wqjfwkxq/TIN TUC TU BIEN TAM 2-07.mp3 http://www.mediafire...yrjjzdoo4zm/TIN TUC TU BIEN TAM 2-08.mp3 http://www.mediafire...ngi14dnn22z/TIN TUC TU BIEN TAM 2-09.mp3 http://www.mediafire...33zmizgdkmy/TIN TUC TU BIEN TAM 2-10.mp3 http://www.mediafire...0jnomoi5zj0/TIN TUC TU BIEN TAM 2-11.mp3 http://www.mediafire...dtmmumoz5kw/TIN TUC TU BIEN TAM 2-12.mp3 http://www.mediafire...zywmvz02kzn/TIN TUC TU BIEN TAM 2-13.mp3 http://www.mediafire...z5yiozm3mf2/TIN TUC TU BIEN TAM 2-14.mp3 http://www.mediafire...mtgmmm0igij/TIN TUC TU BIEN TAM 3-01.mp3 http://www.mediafire...uot0kzjmtoj/TIN TUC TU BIEN TAM 3-02.mp3 http://www.mediafire...kgmmzojwhwm/TIN TUC TU BIEN TAM 3-03.mp3 http://www.mediafire...0ielkynl2mz/TIN TUC TU BIEN TAM 3-04.mp3 http://www.mediafire...ncmgoqyhznj/TIN TUC TU BIEN TAM 3-05.mp3 http://www.mediafire...wnzdzgr2mij/TIN TUC TU BIEN TAM 3-06.mp3 http://www.mediafire...qanuwbtzivt/TIN TUC TU BIEN TAM 3-07.mp3 http://www.mediafire...myozdnznjhy/TIN TUC TU BIEN TAM 3-08.mp3 http://www.mediafire...mwkywyzrtew/TIN TUC TU BIEN TAM 3-09.mp3 http://www.mediafire...uyt2mkt43rk/TIN TUC TU BIEN TAM 3-10.mp3 http://www.mediafire...ytdzngwnm4n/TIN TUC TU BIEN TAM 3-11.mp3 http://www.mediafire...nwly2g1wztz/TIN TUC TU BIEN TAM 3-12.mp3 http://www.mediafire...q4cokn3tzdg/TIN TUC TU BIEN TAM 3-13.mp3 http://www.mediafire...ftmmfmgjzrw/TIN TUC TU BIEN TAM 3-14.mp31 like
-
Đã có khá nhiều công trình nghiên cứu của các học giả Việt Nam về Kinh Dịch, trong số đó có một công trình đặt lại vấn đề " tác quyền" của bộ Kinh này. Đó là học giả Nguyễn Thiếu Dũng, qua nhiều tìm tòi và nghiên cứu, ông đã nêu ra một số chứng lý để minh chứng rằng Kinh Dịch là sáng tạo của người Việt Nam. Với sự thận trọng cần thiết, Thanhnien Online xin giới thiệu bài viết sau đây của học giả Nguyễn Thiếu Dũng để rộng đường tham khảo. Từ hai nghìn năm trước khi chúng ta bị phong kiến phương Bắc đô hộ, tổ tiên chúng ta ở thời đại Hùng Vương đã sáng tạo Kinh Dịch và dùng học thuyết này xây dựng nền tảng cơ bản cho văn hoá Việt Nam, nhờ thế trong suốt một nghìn năm lệ thuộc Trung Hoa, chúng ta vẫn đứng vững không bị đồng hoá như các dân tộc ở Hoa Nam. Người Trung Hoa không biết từ thời điểm nào đã tiếp thu được Kinh Dịch của Việt Nam và họ cũng đã dùng Kinh Dịch để góp phần xây dựng nền tảng văn hoá của họ. Cho nên trong sinh hoạt, chúng ta có nhiều điểm giống họ, sau một nghìn năm mất chủ quyền, ta mất luôn tác quyền Kinh Dịch và những gì ta nghĩ, ta làm thấy giống Trung Hoa ta đều tự nhận mình học của Trung Hoa. Kỳ thật không phải như vậy. Người Trung Hoa rất trọng hướng Đông, khi họ tiếp khách, chủ nhà ngồi quay mặt về hướng Đông để tỏ chủ quyền. Trong thời lập quốc họ luôn luôn hướng về biển Đông, không kể Nam Kinh những Kinh đô danh tiếng của Trung Quốc đều lần lượt nối nhau tiến dần từ Tây Bắc sang Đông. Ngày nay những thành phố lớn của họ cũng đều tập trung ở bờ Đông. Thế mà trong Kinh Dịch họ phải công nhận hướng Nam là hướng văn minh, mặc dầu trong sử sách họ vẫn cho Hoa Nam là xứ man di. Mỗi khi cần bói Dịch họ đặt Kinh Dịch trên bàn thờ cho quay mặt về hướng Nam như hướng ngồi của Hoàng đế, rồi lạy bái cầu xin. Cử chỉ này cho thấy trong tiềm thức họ không quên nguồn gốc Kinh Dịch đến từ phương Nam, từ đất nước của các vua Hùng. Trong vòng 60 năm trở lại đây một số nhà nghiên cứu Việt Nam đã trực giác thấy rằng Kinh Dịch là tài sản của Việt Nam nhưng khi nói như thế họ vẫn chưa thoát khỏi sự ràng buộc của truyền thuyết nên vẫn thừa nhận Phục Hy là nhân vật sáng tạo Kinh Dịch. Cho nên không tránh được mâu thuẫn. Ngày nay chúng ta có đầy đủ chứng lý để nói ngay rằng Kinh Dịch là sản phẩm của Việt Nam, do chính tổ tiên người Việt sáng tạo, trên chính quê hương Việt Nam với nhiều bằng chứng vật thể còn lưu dấu trên đồ gốm Phùng Nguyên, đồ đồng Đông Sơn. Phục Hy, Văn Vương chưa từng làm ra Dịch. 1) Chứng lý vật thể: Kinh Dịch xuất hiện tại Việt Nam một nghìn năm trước khi có mặt tại Trung Quốc: Tại di chỉ xóm Rền, thuộc nền Văn hoá khảo cổ Phùng Nguyên, các nhà khảo cổ đã đào được một chiếc nồi bằng đất nung (11, tr 642) trên có trang trí bốn băng hoa văn, mỗi băng nầy tương đương với một hào trong quẻ Dịch, theo phép đọc Hổ thể thì đây chính là hình khắc của quẻ Lôi Thuỷ Giải. Đây có thể xem là chứng tích xưa nhất trên toàn thế giới hiện chúng ta đang có được về Kinh Dịch. Chiếc nồi báu vật vô giá này mang trên mình nó lời cầu nguyện của tổ tiên chúng ta về cảnh mưa thuận gió hòa, mong sao được sống một đời an bình không có họa thuỷ tai. Lôi Thuỷ Giải là mong được giải nạn nước quá tràn ngập (lũ lụt), hay nước quá khô cạn (hạn hán). Niên đại của Văn hoá Phùng Nguyên được Hà Văn Tấn xác định: ”Phùng Nguyên và Xóm Rền đều là các di chỉ thuộc giai đoạn giữa của văn hoá Phùng Nguyên. Hiện tại chưa có niên đại C14 cho giai đoạn này. Nhưng hiện nay chúng ta đã có một niên đại C14 của di chỉ Đồng Chỗ là di chỉ mà tôi cho là thuộc giai đoạn sớm của Văn hoá Phùng Nguyên: 3800 + 60 BP (Bln-3081) tức 1850 + 60BC (Hà Văn Tấn 1986: 181-182). Như vậy, các di chỉ Phùng Nguyên và Xóm Rền phải muộn hơn niên đại này. Nhưng Phùng Nguyên và Xóm Rền lại sớm hơn các niên đại C14 của lớp dưới di chỉ Đồng Đậu. Hiện nay lớp này có các niên đại: 3330 + 100BP (Bln-830), 3050 + 80BP (Bln-3711); 3015 + 65BP (HCMV 05/93); 3100 + 50BP (HCMV 06/93). Nếu tin vào các niên đại C14 này thì giai đoạn giữa của văn hoá Phùng Nguyên nằm vào khoảng giữa thế kỷ 17 và thế kỷ 14 trước Công Nguyên... tương đương với văn hoá Thương ở Trung Quốc, thậm chí với giai đoạn sớm của văn hoá này (1, tr 578-579). Về phía Trung Quốc, tuy theo truyền thuyết cho là Kinh Dịch do Phục Hy thời đại tối cổ Trung Quốc tạo ra nhưng trên thực tế không có chứng cứ nào để xác nhận chuyện này. Triết gia đầy uy tín của Trung Quốc Phùng Hữu Lan đã khẳng định trong Trung Quốc Triết học sử: ’’Suốt thời nhà Thương chưa có Bát Quái” (bản Hồng Kông 1950, tr 457). Chưa có Bát Quái nghĩa là chưa có Kinh Dịch. Quẻ Dịch xuất hiện sớm nhất ở Trung Quốc là trên sách Tả Truyện thời Xuân Thu-Chiến Quốc (772-221 BC). Vào thời kỳ này trên một số lớn các trống đồng Đông Sơn ở Việt Nam đã có khắc hình quẻ Lôi Thuỷ Giải bằng 6 dải băng nghĩa là đầy đủ 6 hào. Vậy là rõ ràng Kinh Dịch đã có ở Việt Nam từ thời các Vua Hùng, so với chứng cứ cụ thể của Trung Quốc Kinh Dịch đã có ở nước ta trước Trung Quốc cả nghìn năm. Chuyện này chẳng khác chi chuyện tổ tiên ta đã biết trồng lúa nước nghìn năm trước Trung Hoa mà Trần Trọng Kim vẫn viết trong Việt Nam sử lược là người Trung Hoa có công dạy dân ta làm ruộng. 2) Chứng lý ngôn ngữ học: Một số tên quẻ Dịch là tên tiếng Việt không phải tiếng Trung Quốc: Người ta thường gọi Kinh Dịch hay Kinh Diệc và cứ đinh ninh Diệc là do Dịch đọc chệch đi, kỳ thật tổ tiên ta nói Kinh Diệc và người Trung Hoa đã đọc chệch đi thành Dịch. Tiếng Trung Hoa Dịch còn có thể đọc là Diệc(Xem Khang Hy Từ Điển). Diệc là một loài chim nước, có họ với loài cò. Đây là những loài chim quen thuộc với đồng ruộng, với văn minh nông nghiệp, văn minh Văn Lang. Kinh Dịch là kết tinh của văn minh nông nghiệp, các nhà sáng tạo kinh Dịch Việt Nam lấy hình ảnh con diệc, con cò làm tiêu biểu cho hệ thống triết học của mình là hợp lý, nhưng người Trung Quốc muốn làm biến dạng cho khác đi, cho rằng chữ Dịch là hình ảnh con tích dịch - một loại thằn lằn hay biến đổi màu sắc theo thời gian chẳng thân thiết gần gũi gì với người nông dân cả. Điều này đã được ghi chú rất rõ trên trống đồng Đông Sơn về sau sẽ giải rõ. Tên tám quẻ đơn Càn, Khảm, Cấn, Chấn, Tốn, Ly, Khôn, Đoài đều là tiếng Việt không phải là tiếng Trung Quốc. Các học giả Trung Hoa rất lúng túng khi giải nghĩa nguồn gốc tên những quẻ này vì họ cứ cho đó là tiếng Hoa nên tìm mãi vẫn không lý giải được. Ở đây chỉ dẫn một quẻ để minh chứng. Quẻ Ly không có nguồn gốc Trung Hoa, đây chỉ là chữ ghi âm tiếng Việt, một dạng chữ Nôm loại giả tá. Kinh Dịch bản thông hành ghi là Ly, âm Bắc Kinh đọc là Lĩ, nhưng bản Bạch Thư Chu Dịch đào được ở Mã Vương Đôi thì lại ghi là La, âm Bắc Kinh đọc là lúo (đọc như lủa). Rõ ràng đây là cách ghi của hai người Trung Hoa ở hai nơi hoặc hai thời điểm nghe người Việt Nam nói là quẻ Lửa, một người bèn ghi là lĩ (Ly), một người lại ghi là lủa (La). Còn người Việt Nam viết chữ Nôm Lửa thì lại dùng chữ lã làm âm. Cả ba âm Ly, La, Lã đều là cận âm với âm lửa, dùng để ghi âm âm lửa. Như vậy quẻ Ly không phải là quẻ có nghĩa là lìa hay là dựa như người Trung Hoa nghĩ mà chính là quẻ Lửa tức là quẻ Hoả như về sau họ đã dịch đúng nghĩa của nó. 3) Chứng lý đồ tượng: Kinh Dịch Trung Hoa thiếu một hình đồ trọng yếu, trong khi hình đồ này đang được cất giấu tại Việt Nam. Chứng tỏ Việt Nam mới là nước sáng tạo Kinh Dịch. Đồ tượng và quái tượng (quẻ) là những hình tượng cơ bản cấu tạo nên Kinh Dịch. Cả hai đều có những giá trị bổ túc cho nhau để hình thành Kinh Dịch. Đọc Dịch mà chỉ chú trọng đến quẻ không chú ý đến Đồ là một thiếu sót đáng tiếc vì như thế là đã bỏ qua quá nửa phần tinh tuý của Dịch. Những ứng dụng quan trọng của Dịch đa phần đều căn cứ trên đồ, như thuyết trọng nam khinh nữ chi phối sâu đậm nhân sinh quan Trung Quốc thời kỳ phong kiến là ảnh hưởng Càn trọng Khôn khinh của Tiên Thiên Đồ, xem phong thuỷ, coi tử vi, học thuyết Độn Giáp, Thái Ất phát sinh ở Trung Hoa là do ảnh hưởng của Hậu Thiên Đồ. Y học, Võ thuật, Binh Thư Đồ trận lừng danh của Trung Quốc đều từ các Thiên Đồ mà ra. Theo thuyết Tam tài, cơ sở để xây nên toà lâu đài Kinh Dịch thì phải có ba Đồ chính là Tiên Thiên Đồ, Hậu Thiên Đồ và Trung Thiên Đồ nhưng suốt cả hai nghìn năm nay, Trung Quốc chỉ lưu hành hai Đồ Tiên Thiên và Hậu Thiên. Người Trung Hoa tuyệt nhiên không tìm ra Trung Thiên Đồ, cuối cùng họ đành bó tay, rồi thản nhiên kết luận, không cần có Trung Thiên Đồ. Đã có Tiên Thiên Đồ làm thể và Hậu Thiên Đồ làm dụng là đủ lắm rồi. Đây chính là khuyết điểm lớn nhất của Dịch học Trung Quốc mà cũng là cái may lớn nhất cho ta để từ chỗ sơ hở này ta tìm ra chứng lý quan trọng nhất, quyết định nhất để xác nhận tác quyền của Việt Nam. Trung Quốc không có Trung Thiên Đồ, một Đồ quan trọng bậc nhất dùng làm la bàn để viết nên kinh văn các lời hào, Việt Nam lại cất giữ Trung Thiên Đồ! Vậy thì ai là chủ nhân Kinh Dịch? Câu hỏi đã được trả lời, bí ẩn hai nghìn năm đã được trưng ra ánh sáng. Tác giả bài này có may mắn là đã thiết lập được Trung Thiên Đồ. Đồ này quẻ Càn ở phương Nam, quẻ Đoài ở phương Đông Nam, quẻ Tốn ở phương Đông, quẻ Khảm ở phương Đông Bắc, quẻ Ly ở phương Bắc, quẻ Cấn ở Tây Bắc, quẻ Chấn ở Tây và quẻ Khôn ở phương Tây Nam. Đây chính là Đồ thứ ba trong số ba Thiên Đồ trọng yếu của Kinh Dịch mà người Trung Hoa không tìm ra. Nếu Tiên Thiên Đồ là Thiên Đồ, Hậu Thiên Đồ là Địa Đồ thì Trung Thiên Đồ là Nhân Đồ nghĩa là Đồ nói về con người. Có một danh hoạ tài ba nào chỉ trong một hình vẽ có thể biểu đạt ba hình thái khác nhau về con người? Điều này chưa ai làm được, ngay cả máy móc tân tiến nhất, hiện đại nhất cũng không thể làm việc này. Thế mà Trung Thiên Đồ cùng một lúc có thể diễn tả ba trạng thái khác nhau đó: Trung Thiên Đồ có mục đích nói về những vấn đề liên quan đến con người cho nên hình đồ Trung Thiên có thể biểu thị ba khía cạnh khác nhau của con người về mặt sinh lý, về mặt siêu lý và về mặt đạo lý: a) Con người sinh lý: Quẻ Càn tượng cho bán cầu não phải, Quẻ Khôn tượng cho bán cầu não trái. Khi một người bị tai biến mạch máu não ở bán cầu phải thì tay chân bên trái thường bị liệt, ngược lại cũng thế. Vì Càn thuộc dương nên liên quan đến tay trái gồm hai quẻ Chấn dương và Cấn dương và vì tay trái đã dương thì chân trái lại thuộc về âm nên chân có quẻ Ly âm. Trái lại, bán cầu não trái Khôn âm sẽ ảnh hưởng đến tay phải Trạch âm và Tốn âm cùng với chân Khảm dương. Điều này tương đồng với kết quả thực nghiệm của Leokadia Podhorecka (1986), trình bày năm 1986 tại hội nghị quốc tế về Trường sinh học tại Zagrev về tính bất đối xứng phải - trái trong nhân thể (2, tr 117). Hình đồ cũng thể hiện được y lý Đông Phương cho rằng Thiên khí tả truyền: Dương khí đi từ bên phải (Càn dương) sang bên trái (Cấn, Chấn dương), Địa khí hữu truyền: Âm khí đi từ bên trái (Khôn âm) sang bên phải (Đoài, Tốn âm). Con người muốn sống cần phải thở (Càn phế, chủ khí), sau đó phải được nuôi dưỡng bằng thức ăn (Khôn, tỳ vị). Con người khoẻ mạnh khi tâm (Ly) giao hoà với thận (Khảm), nếu tâm thận bất giao sẽ sinh tật bệnh, vị y tổ Việt Nam Lê Hữu Trác đã phát triển học thuyết này để chữa bệnh rất hiệu quả. Con người siêu lý B) Con người siêu lý: Theo trãi nghiệm của các hành giả Yoga hoặc Khí công, Thiền, thì cơ thể có bảy trung tâm năng lượng tác động chi phối sự sống của con người, gọi là bảy đại huyệt hay là bảy luân xa. Trung Thiên Đồ chính là biểu đồ hệ thống bảy luân xa đó, theo thứ tự từ dưới lên: luân xa 1 là Hoả xà Kundalinê chính là quẻ Ly hoả, Luân xa 2 là Mệnh môn quan chính là quẻ Khảm (thận thuỷ), Luân xa 3 là Đơn điền Ngũ Hành Sơn chính là quẻ Cấn sơn, Luân xa 4 là Luân xa tâm gồm hai quẻ Tốn (tâm âm) và Chấn (tâm dương), luân xa 5 là trung tâm Ấn đường chính là quẻ Đoài, luân xa 6 nằm ở chân mi tóc hay huyệt Thượng tinh mà Đạo giáo thường gọi là Kim mẫu chính là quẻ Khôn (Địa mẫu), Luân xa 7 là huyệt Thiên môn Bách hội chính là quẻ Càn Thiên. c) Con người đạo lý: Trung Thiên Đồ còn biểu đạt một mẫu người đạo lý tâm linh: quẻ Sơn Tượng cho tính người tham lam muốn tích luỹ như núi (Tham), quẻ Ly Hoả tượng cho người có tính sân như lửa (Sân), quẻ Khảm Thuỷ tượng cho người có tính si như nước đổ dồn về chỗ thấp (Si), ba thói xấu đó sẽ dẫn con người đến chỗ ác tượng trưng bằng quẻ Tốn (tâm âm, nhục tâm, vọng tâm), (như thuyết Tam Độc của Phật Giáo). Nhưng nếu con người biết phát triển tâm từ bi như tình yêu của mẹ tượng bằng quẻ Khôn (Địa Mẫu - Từ Bi), khiến tâm thanh tịnh an lạc tượng bằng quẻ Đoài (Vui, Hỉ), lúc nào cũng sẵn lòng cảm thông tha thứ cho người, tượng bằng quẻ Càn (Xả) thì con người sẽ đạt được cõi phúc, tượng bằng quẻ Chấn (Tâm dương, Chân tâm, Đạo tâm), (như thuyết Tứ vô lượng tâm của Phật giáo). 4) Phát hiện Trung Thiên Đồ trong truyền thuyết Kinh Dịch có tám quẻ đơn: Càn còn gọi là Thiên có tượng là trời, là vua, là cha. Khôn còn gọi là Địa có tượng là đất, là hoàng hậu, là mẹ. Khảm còn gọi là Thuỷ có tượng là nước, là cá (ngư). Ly còn gọi là Hoả có tượng là lửa. Cấn còn gọi là Sơn có tượng là núi. Đoài còn gọi là Trạch có tượng là đầm (hồ). Chấn còn gọi là Lôi có tượng là sấm, là con trai trưởng. Tốn còn gọi là Phong có tuợng là gió, là cây (mộc). Khi tám quẻ đơn chồng lên nhau ta được 64 quẻ kép, nhưng khi tám quẻ đơn được đặt trên vòng tròn ta sẽ được ba thiên đồ căn bản: Tiên Thiên Đồ thường được người Trung Hoa gọi là Tiên Thiên Đồ Phục Hy vì cho là do Phục Hy chế ra, Hậu Thiên Đồ cũng được người Trung Hoa gọi là Hậu Thiên Đồ Văn Vương vì cho là do Văn Vương thiết lập, ở đây chúng tôi chỉ gọi là Tiên Thiên Đồ và Hậu Thiên Đồ vì đã chứng minh được Kinh Dịch do người Việt Nam sáng chế nên Phục Hy, Văn Vương chẳng can dự gì vào việc sáng tạo các thiên đồ. Dịch đồ thứ ba chính là Trung Thiên Đồ đã được tổ tiên Việt Nam cất giấu trong truyền thuyết Lạc Long Quân - Âu Cơ. Truyền thuyết Lạc Long Quân - Âu Cơ không chỉ là một huyền sử về nguồn gốc dân tộc "Con Rồng cháu Tiên", một thông điệp về tình đoàn kết, nghĩa yêu thương giữa các dân tộc anh em, đồng bào mà còn chứa đựng một thông tin về di sản tinh thần vô giá của dân tộc Việt Nam đã được tổ tiên chúng ta bí mật cất giữ trong đó: tôi muốn nói đến Kinh Dịch đứa con lưu lạc của Việt Nam đã được Trung Quốc nuôi dưỡng và đã thành danh ở đó. Nếu chúng ta kết hợp những thông tin nằm rải rác trong các truyền thuyết Lạc Long Quân - Âu Cơ, truyện Hồ tinh, Mộc tinh, Ngư tinh ta sẽ thiết lập được một Trung Thiên Đồ mà người Trung Quốc chưa hề biết đến. Theo Kinh Dịch, Lạc Long Quân thường được nhân dân gọi là Bố mỗi khi có việc cần giúp đỡ có thể ký hiệu bằng quẻ Càn có tượng là vua, là cha. Lạc Long Quân thường sống ở Thuỷ phủ ký hiệu là quẻ Khảm có tượng là nước. Lạc Long Quân diệt được Hồ tinh là con cáo chín đuôi sống hơn ngàn năm ở đầm Xác Cáo nay là Hồ Tây, sự kiện này có thể ký hiệu bằng quẻ Đoài tức quẻ Trạch có tượng là đầm. Đất Phong Châu thời Thượng cổ có cây Chiên đàn sống hàng ngàn năm, chim hạc thường đến đậu ở đấy nên nơi đó còn gọi là đất Bạch Hạc (nay thuộc tỉnh Phú Thọ), lâu ngày cây hoá thành yêu tinh dân gọi là thần xương cuồng, Kinh Dương Vương và Lạc Long Quân ra sức đánh đuổi, cứu dân thoát khỏi sự bức hại của xương cuồng. Sự kiện này có thể ký hiệu bằng quẻ Tốn còn gọi là quẻ Phong có tượng là mộc. Lạc Long Quân cũng có công diệt được ngư tinh, con yêu ngư xà ăn thịt người, chuyện này cũng thuộc quẻ Khảm ký hiệu ở trên. Truyền thuyết thường nói chung là Lạc Long Quân (quẻ Càn) diệt hồ tinh (quẻ Đoài), diệt mộc tinh (quẻ Tốn), diệt ngư tinh (quẻ Khảm) để cứu dân, từ đó ta đã có được một vế của Trung Thiên Đồ: Càn - Đoài - Tốn - Khảm. Theo truyền thuyết Lạc Long Quân nói với Âu Cơ (được tôn xưng là Quốc mẫu, là mẹ, ký hiệu là quẻ Khôn): (1, tr 30). Như thế là truyền thuyết đã xác định rất rõ tính cách tương phản giữa Lạc Long Quân và Âu Cơ. Long Quân thuộc quẻ Khảm (Thuỷ) thì Âu Cơ thuộc quẻ Ly (Hoả). Truyền thuyết kể tiếp: "Âu Cơ và năm mươi con lên ở đất Phong Châu (nay là huyện Bạch Hạc) suy phục lẫn nhau, cùng tôn người con cả lên làm vua, hiệu là Hùng Vương, lấy tên nước là Văn Lang". Lên Phong Châu là lên núi ký hiệu là quẻ Cấn có tượng là núi, tôn người con cả ký hiệu là quẻ Chấn vì Chấn có tượng người con trưởng. Ta lại có thêm vế thứ hai của Trung Thiên Đồ: Ly - Cấn - Chấn - Khôn. Đến đây ta đã khai quật được Trung Thiên Đồ từ lớp ngôn ngữ truyền thuyết, các quẻ xếp theo thứ tự Càn - Đoài - Tốn - Khảm - Ly - Cấn - Chấn - Khôn theo chiều ngược kim đồng hồ. 5) Vai trò Trung Thiên Đồ trong việc hình thành văn bản Kinh Dịch: a) Bố cục Kinh Dịch: Kinh Dịch có 64 quẻ, 30 quẻ đầu thuộc về thượng kinh, 32 quẻ sau thuộc về hạ kinh. Nhìn vào cách sắp đặt vị trí các quẻ Dịch trong bản kinh văn thông hành ta không thể không nghĩ rằng các nhà làm Dịch đã sử dụng Trung Thiên Đồ như là la bàn để phân bố các quẻ. Mở đầu kinh văn là hai quẻ Càn số 1, Khôn số 2 đúng như vị trí Càn Khôn đứng bên nhau trên Trung Thiên Đồ, cuối thượng kinh là hai quẻ Khảm số 29 và Ly số 30 đúng như vị trí Khảm Ly dưới Trung Thiên Đồ. Mở đầu hạ kinh là hai quẻ Trạch Sơn Hàm số 31 và quẻ Lôi Phong Hằng số 32 đúng như vị trí quẻ Đoài Trạch đối qua tâm với quẻ Cấn Sơn tạo thành quẻ Trạch Sơn Hàm, quẻ Chấn Lôi đối qua tâm với quẻ Tốn Phong tạo thành quẻ Lôi Phong Hằng nằm giữa Trung Thiên Đồ. Cuối hạ kinh là hai quẻ Thuỷ Hoả Ký Tế số 63 và Hoả Thuỷ Vị Tế số 64 đúng như vị trí quẻ Khảm Thuỷ giao hoán với quẻ Ly Hoả tạo thành. Khác hẳn với Tiên Thiên Đồ và Hậu Thiên Đồ các quẻ Càn Khôn Ly Khảm đứng đối nhau qua tâm, biểu hiện trạng thái phân ly, trên Trung Thiên Đồ các quẻ Càn Khôn Ly Khảm đứng gần nhau từng đôi một biểu hiện trạng thái giao hội. Ở tự nhiên mọi vật có thể đối nghịch, vừa tương phản vừa tương thành. Nhưng ở con người thì khác, con người là một chỉnh thể, một thái cực, một toàn đồ âm dương phải tương hội điều hoà, nếu một bên thiên thắng con người sẽ bất ổn, phát sinh bệnh tật. B) Đặt tên cho quẻ Dịch: Nhiều nhà chú giải Kinh Dịch Trung Quốc khi giải thích nghĩa chữ giao của hào thượng cửu quẻ Thiên Hoả Đồng nhân số 13 "Đồng nhân vu giao" thường chỉ dừng lại ở vấn đề chính trị xã hội nên hiểu giao theo một nghĩa rất hẹp, họ cho giao là vùng đất ngoại ô kinh thành nếu muốn đồng thì nên tìm người ở xa mà liên hiệp. Hiểu như vậy thì không sát nghĩa và không đúng với lập ý của người làm ra Kinh Dịch. Có lẽ vì người Trung Quốc trong tay không có la bàn Trung Thiên Đồ là đồ đã bị Tổ tiên người Việt Nam cất giấu rất kỹ không truyền ra ngoài nên không hiểu rằng giao tức là giao hội, khi hoả xà Kundalinê từ lâu cuộn mình ở đốt xương cùng có đủ điều kiện lên hợp nhất với thần Vishnou cư trú ở huyệt Thiên môn nghĩa là khi luân xa số 1 là quẻ Ly Hoả hoà nhập với luân xa số 7 là quẻ Càn Thiên là lúc con người đạt đến trạng thái toàn thức, hạnh phúc hoàn hảo nhất, con người đạt đến mức độ giao hội cùng vũ trụ, tha nhân, vì thế mới đặt tên cho quẻ này là Thiên Hoả Đồng nhân. Giao nằm ở hào thượng cửu (theo Dịch lý thuộc tài thiên), tức là ở mức độ đồng nhân cao nhất, mức độ hoà đồng siêu việt, Nếu hiểu giao như nghĩa các chữ Đông giao (ngoại ô phía đông), Nam giao (ngoại ô phía Nam) thì không phù hợp với cấu trúc quẻ Dịch, hiểu như vậy là mặc nhiên nhận giao thuộc về đất phải nằm ở hào hai, tài Địa. Cũng như quẻ Đồng Nhân, các Dịch học gia Trung Quốc cũng bị hạn chế khi hiểu quẻ Đại Hữu chỉ là sở hữu tài sản vật chất họ không ngờ rằng Đại Hữu là sở hữu tài sản tinh thần vĩ đại, quẻ này chính là ghi lại thành tựu một quá trình công phu trãi nghiệm của hành giả đã hợp nhất với vũ trụ, mà mỗi hào mô tả thành quả một chặng đường liên tục từ hạ đẳng công phu đến thượng đẳng công phu. c) Đọc lại Kinh Dịch: Nhờ có Trung Thiên Đồ ta có thể đọc lại Kinh Dịch một cách chính xác hơn, điều này nghe có vẽ nghịch lý vì ta làm sao thông thạo ngôn ngữ Trung Hoa hơn người Trung Hoa được, nhưng vì ta có Trung Thiên Đồ là la bàn tổ tiên ta dựa vào đấy để viết các lời hào nên chúng ta có cách đọc thuận lợi hơn. Ở đây tôi chỉ xin dẫn ra một thí dụ để minh chứng. Kinh Dịch có ba quẻ nói đến Tây Nam, quẻ Giải: "Lợi Tây Nam", quẻ Kiển: "Lợi Tây Nam, bất lợi Đông Bắc”, quẻ Khôn: "Tây Nam đắc bằng, Đông Bắc táng bằng”. Căn cứ vào Hậu Thiên Đồ, quẻ Khôn (đất) nằm ở hướng Tây Nam, quẻ Cấn (núi) nằm ở hướng Đông Bắc, Vương Bật, người thời Tam Quốc, trong Chu Dịch chú giải thích như sau: ”Tây Nam là đất bằng, Đông Bắc là núi non. Từ chỗ khó mà đi đến chỗ bằng, cho nên khó khăn sẽ hết, từ chỗ khó mà đi lên núi, thì sẽ cùng đường”, Khổng Dĩnh Đạt trong Chu Dịch chính nghĩa viết: ”Tây Nam thuận vị là hướng bằng phẳng dễ đi, Đông Bắc hiểm vị là chỗ trắc trở khó khăn. Đường đi lắm trắc trở, tất cả đi đến chỗ bằng dễ đi thì khó khăn sẽ hết, trái lại nếu đi vào chỗ hiểm thì càng bế tắc cùng đường. Đi ở phải hợp lý vậy”, (3, tr 846).Trương Thiện Văn trong Từ điển Chu Dịch giải thích: ”Lợi cho việc đi về đất bằng Tây Nam, không lợi cho việc đi về phía núi non đông bắc. Tây nam tượng trưng cho đất bằng, Đông bắc tượng trưng cho núi non. Đây nói ở thời kiển nạn mọi hành động đều phải tránh khó khăn hiểm trở, phải hướng về phía bằng phẳng thì mới có thể vượt qua kiển nạn,vì vậy nói lợi tây nam, bất lợi đông bắc”, (3, tr 907). Nói chung lời giải thích của đa số Dịch gia Trung Quốc đều dựa vào vị trí các quẻ trên Hậu Thiên Đồ và đều cho núi là trở ngại, nhưng giải như vậy không thể khớp với Dịch lý, quẻ Kiển tức là quẻ Thuỷ Sơn Kiển, hình tượng nước ngập núi, trận đại hồng thuỷ. Vậy núi chỉ là trở ngại thứ yếu. Sự thật đối với người cổ đại núi tuy có khổ ải hơn nơi bằng phẳng nhưng không phải là trở ngại đáng kể. Đối với người cổ đại núi là nhà, hang hốc là nhà. Núi che chở cho họ, cung cấp thực phẩm, đùm bọc nuôi dưỡng họ. Nói cho cùng với tượng quẻ như vậy, người ta không lo về núi mà nỗi lo triền miên chính là nước. Suốt thời cổ đại, nhất là ở Việt nam, chiến tranh bất tận là chiến cuộc giữa NGƯỜI với NƯỚC. Con người khơi dòng lấy đất canh tác, đẩy lùi biển để giành đất sống. Khi con người thắng biển nghĩa là khi Sơn tinh thắng Thuỷ tinh, Kiển nạn được giải. Vấn đề lật ngược, quẻ Thuỷ Sơn Kiển lật thành quẻ Sơn Thuỷ Mông, Thoán từ ca ngợi chiến công thần thánh này là Lợi Trinh (thắng lợi bền chặc). Ở Hậu Thiên Đồ cũng như ở Trung Thiên Đồ, quẻ Khôn cùng ở vị trí Tây Nam nhưng ở vị trí Đông Bắc thì quẻ của hai đồ hoàn toàn ngược nhau. Nếu Hậu Thiên Đồ là quẻ Cấn (núi) thì ở Trung Thiên Đồ lại là quẻ Khảm (nước). Ta thấy rõ muốn hiểu nghĩa lời hào của ba quẻ đó không thể dựa vào vị trí quẻ trên Hậu Thiên Đồ, vì không chính xác. Chỉ có thể dựa vào vị trí quẻ trên Trung Thiên Đồ mới làm sáng tỏ được nghĩa quẻ. Con người không ngại núi mà chỉ e sông, e biển. Câu lợi Tây Nam, bất lợi Đông Bắc không phù hợp với thực tiển Trung Quốc vì con đường sống của họ luôn dịch chuyển từ Tây Bắc sang Đông Bắc, hành trình các kinh đô của các triều đại Trung Hoa thường đi từ núi ra biển:Tây An - Trường An - Lạc Dương - Khai Phong - Bắc Kinh. Đó là hành trình ngược với lời hào ba quẻ: Giải, Khôn, Kiển. Trong khi đó lời hào ba quẻ trên lại hoàn toàn phù hợp với thực tiển Việt Nam. Đối với Việt Nam, Đông Bắc mới thực là bất lợi, đó là biển cả là cửa ngỏ cho phong kiến phương bắc xâm lược. Việt Nam chỉ có con đường sống là mở nước về phương Nam và Tây nam. Lịch sử Việt Nam đã chứng thực lời đó, đã hai lần chúng ta tiến về hướng Tây Nam, đợt đầu tiến về đồng bằng Thanh Nghệ Tĩnh, đợt sau tiến về vựa lúa châu thổ sông Cửu Long. Lời hào trên vẫn còn là lời dự báo ứng nghiệm với Việt Nam ngày nay: Tây Nam đắc bằng khi gia nhập khối Đông Nam Á, con đường Tây nam đang ở thế thuận lợi. 6/ Kết luận: Chúng ta còn nhiều chứng lý từ vật thể đến phi vật thể, từ ngôn ngữ đến văn bản, nhưng mấu chốt hơn hết để chứng minh Kinh Dịch do Tổ tiên người Việt Nam sáng tạo vẫn là vai trò của Trung Thiên Đồ. Khi một người muốn chứng minh một vật là sản phẩm do chính mình đúc ra thì ngườI đó phải trưng ra khuôn đúc, ở đây cũng vậy Trung Quốc không có Trung Thiên Đồ giống như không có khuôn đúc thì làm sao bảo rằng Trung Quốc đã sáng chế ra Kinh Dịch. Thật ra Trung Quốc chỉ có công phát huy Kinh Dịch nhờ đó Kinh Dịch mới có bộ mặt vĩ đại như ngày nay, cũng như họ đã làm rạng rỡ cho Thiền nhưng không ai có thể quên Thiền có nguồn gốc từ Phật giáo Ấn Độ. Đã đến lúc cái gì của César phải trả lại cho César. Khi chúng ta nhận ra rằng Kinh Dịch là di sản của Tổ tiên ta sáng tạo, ta sẽ hiểu được do đâu ta cũng cùng giải đất với các dân tộc vùng Hoa Nam, núi liền núi, sông liền sông mà họ bị đồng hoá còn chúng ta thì không. Kinh Dịch chính là cuốn Cổ văn hoá sử của Việt Nam mà Tổ tiên chúng ta còn lưu lại ngày nay, tuy có bị sửa đổi nhuận sắc nhiều lần nhưng những vết tích của nền văn minh thời các vua Hùng dựng nước vẫn còn đậm nét trong nhiều quẻ Dịch. Người sáng tạo Kinh Dịch đã dựa vào Trung Thiên Đồ để bố cục vị trí các quẻ đúng như bản thông hành hiện đang phổ biến. Các Dịch học gia Trung Quốc căn cứ vào vị trí các quẻ theo Hậu Thiên Đồ nên có nhiều câu trong Kinh văn bị họ giảng sai với ý nguyên tác, muốn giảng cho đúng phải dựa vào Trung Thiên Đồ, không thể làm khác được. Trung Thiên Đồ giữ một vị trí quan trọng và quyết định như vậy đã được Tổ tiên Việt Nam cất giấu rất kĩ trong truyền thuyết Lạc Long Quân Âu Cơ. Từ truyền thuyết này có thể tìm lại Trung Thiên Đồ. Trung Thiên Đồ còn được khắc ghi cẩn trọng trên Trống đồng Đông Sơn có điều kiện tác giả bài này sẽ công bố sau. Chúng tôi còn nhiều minh chứng khác để kiện toàn chứng lý cho kỳ án này. Không còn nghi ngờ gì nữa, Kinh Dịch chính là sáng tạo của Tổ tiên Việt Nam. Muốn hiểu đúng bản chất văn hoá Việt Nam không thể không khảo sát Kinh Dịch, như là sáng tạo của Việt Nam. Thanh Nien online1 like
-
Tháng 2 đã có người giới thiệu quen một chàng trai khá đẹp giai nhưng hơi đen khả tháng 3 tình cảm tiếp tục thăng hoa dần dần . Tháng 3 và tháng 9 âm lịch cần đề phòng bệnh tật nạn tai phải xuất tiền tiết kiệm, tháng 7-8 tình cảm có nhiều tốt đẹp ( khả năng có người hỏi cưới) Chung quy lại năm nay không mấy tốt1 like
-
Tư Vấn Chữ Ký
Bảo Long liked a post in a topic by Học Trò
Về cơ bản, quý cậu sẽ được toại nguyện. Nhưng phải sau 31 tuổi, qua bước ngoặt cuộc đời thì quý cậu mới thấy được đường đi đúng đắn nhất của mình. Hiện lập trường còn lung lay, còn đắn đo nhiều. Nên sửa lại chữ N và chữ U sao cho đều cọc và đều hàng, hiện chữ này 2 cọc ngắn dài và cao thấp khác nhau, so với các chữ bên cạnh cũng thấy thế. Nét chữ cứng cáp thể hiện người mạnh mẽ, tuy nhiên chữ Q có phần tóp nở không đều đã bộc lộ ra sự mất thăng bằng trong tâm trí, có thể do tư thế viết hoặc trong đầu đang mông lung toan tính khiến nét bút không được như ý.1 like -
Quý cô Mèo con không muốn lấy chồng sớm thì cũng có kẻ đẻ ra xin tí tiết, thể nào cũng khó tránh khỏi tai kiếp này. Lại dễ lấy chồng sớm. Lấy muộn thì khoảng 30 tuổi được coi là muộn. Nghe xong chắc quý cô Mèo con méo mặt nhỉ, hoãn sao sự xung sướng đến tận 30 tuổi cơ chứ. Xuân sắc mới là xuân nhuần. Muốn biết nửa đêm gần sáng bị chồng dựng dậy bắt chơi trò đếm cánh hoa thì phải lấy chồng mới biết. Hoặc hỏi các chị đã có chồng vũ phu thì biết rõ nhất đấy.1 like
-
Néu kết hợp với tướng mặt , hay tốt nhất là cháu lập bản tử vi . Tôi sẽ báo cho cháu biết vào giờ này sang năm cháu đi đâu và được ăn món gì? Đi với người yêuu , nó sẽ hôn cháu mấy cái vào má bên phải? Mấy cái vào má bên trái ?1 like
-
1 like
-
Tháng 4,6 năm nay có di chuyển hay rời đổi công việc tốt, được người giúp đỡ lại cũng có nhiều lộc. Năm nay khác với năm ngoái là công việc chuyển hướng theo chiều tốt đẹp. Những tháng cuối năm thì càng ok hơn1 like
-
GIÚP ĐỠ BÀ MẸ NUÔI 10 ĐỨA CON ĐIÊN. Hôm nay, chúng tôi gồm Thiên Sứ và Dương Mickey đã đến Hải Phòng - Số nhà 57 Ngõ 239 Đường Đà Nẵng, gặp bà Nở trao số tiền 10. 000. 000 VND (Mười triệu đồng chẵn). Chúng tôi cũng đã xem xét phong thủy nhà này, tuy nhiên chúng tôi nghĩ muốn sửa chữa phải có nhân lực tại chỗ để coi sóc xây dựng. Điều này nằm ngoài khả năng của chúng tôi. Chúng tôi có để lại địa chỉ và số điện thoại để sau này nếu có ai tham gia sửa nhà có thể liên lạc và chúng tôi sẽ tư vấn trực tiếp, hoặc gián tiếp. Dưới đây là biên nhận và hình ảnh từ thiện. Biên nhận của bà Nở nhận 10. 000. 000 VND của Thiên Sứ Bà Nở nhận tiền từ Dương Mickey Bà Nở đếm đủ số tiền được trao. Bà Nở viết giấy xác nhận đã nhận đủ số tiền. Bà Nở chụp ảnh lưu niệm với Thiên Sứ Ngõ 239 đường Đà Năng vào nhà bà Nở ở Hải Phòng Kính thưa quí vị có lòng hảo tâm. Như vậy, mặc dù hơi chậm, nhưng chúng tôi đã trao số tiền mà quý vị tin tưởng đưa chúng tôi đúng người cần giúp đỡ theo yêu cầu của quí vị với số tiền góp trước đây là 8.500. 000 VND (Tám triệu năm trăm ngàn đồng chẵn). Phần còn lại do chúng tôi là Hoàng Triều Hải, Dương Mickey, Thiên Sứ góp thêm cho chẵn 10. 000. 000 VND. Như vậy chúng tôi đã hoàn tất nhiệm vụ mà quý vị đã tin tưởng giao cho. Bà Nở xin được gửi lời cảm ơn chân thành tới tất cả quý vị đã giúp đỡ mẹ con bà.1 like
-
Tư Vấn Chữ Ký
Bảo Long liked a post in a topic by Học Trò
Không có cách nào đưa chữ ký lên diễn đàn được đơn giản hơn à?1 like -
Nhà này nên sinh con đầu quý tỵ 2013, con út năm Đinh Dậu 2016. Thân mến!1 like
-
Quý cô mèo con ơi, lấy chồng sớm làm gì để lời ru thêm sầu. Lấy sớm là phải lấy 2 chồng đấy, mà tên Phu quân đầu tiên nó Hôn Quân lắm, vùi hoa dập liễu không thương tiếc đâu. Cứ nửa đêm gần sáng là nó bật đèn đòi chơi trò đếm cánh hoa, thế mới ác như con Thác lác. Tuổi còn trẻ nên chuyên tâm học hành.1 like
-
1 like
-
Chuyện tình củm 2-3 năm nữa cũng vô vọng mà thui. Năm nay chắc có tình cảm nhẹ nhàng với ai đó, nhưng chẳng tới được. Năm Thìn có người yêu nhưng chắc mối tình này cũng chẳng tới đâu. Năm Thìn tốt nghiệp thì nhớ mà lo học, đầu tư quá vào chuyện tình cảm mà công việc lại không tới đâu thì lại uổng cái lá số. Khi nào có được người yêu chính thức thì hãy lên hỏi chuyện chồng con.1 like
-
* Dự đoán thiên tai năm 2011: 1. Năm siêu bảo làm Miami rung rinh. 2. Xảy ra vụ lở đất tồi tệ nhất trong lịch sử của California. 3. Núi lửa Mount St Helens phun trào. 4. Động đất ở Seattle, Washington. 5. Động đất ở Chicago, Illinois. 6. Băng ở vùng cực tan chảy. 7. Cháy rừng lan rộng ở Beverley Hills, Los Angeles, Brentwood. 8. Sóng thần Sumatra Indonesia, Alaska, Hawaii và Nhật Bản. 9. Xảy ra động đất lớn tại Los Angeles, San Francisco và San Diego. 10. Động đất xảy ra ở hồ nước ngọt Tahoe. 11. Động đất ở Toronto và Quebec. 12. Động đất Oregon. 13. Động đất ở Grand Canyon. 14. Động đất ở New York, Alaska, Nhật Bản, Hy Lạp. 15. Động đất ở British Columbia, Trung Quốc và Iran. 16. Lốc xoáy ở California. 17. Lũ lụt ở Amsterdam, Hà Lan, sông Rhine, Đức, Bangladesh, Vương quốc Anh. Venice, Italy, Gulf Coast của Florida và Pháp. 18. Cháy rừng Hy Lạp, Úc, Texas, Hawaii. 19. Lở đất ở Ấn Độ, California. 20. Bão tại Đài Loan. 21. Lốc xoáy ở Oklahoma, Indiana, Texas, Illinois, Tennessee. 22. Động đất lớn Rome và Naples, Italy. 23. Bão tuyết lớn đổ bộ lên bờ biển phía Đông và ảnh hưởng đến các hồ lớn ở - Toronto, Chicago, New York, Boston, vv 24. Động đất ở Yosemite và Park Yellowstone. * Dự đoán liên quan đến các hoàng tộc: 1. Một gia đình hoàng tộc gặp tai nạn. 2. Nữ hoàng bị rình rập bởi bọn bắt cóc. 3. Công tước xứ Edinborough đi khám bác sĩ. 4. Một đám cưới của hoàng gia. 5. Đám cưới của hoàng tộc Monaco. 6. Nguy hiểm xung quanh Nữ hoàng. 7. Điện Buckingham chìm trong lửa. 8. Ma ám điện Buckingham, và nhiều nhân viên ở đây bỏ làm. 10. Hoàng tử Harry phải cẩn thận với những chiếc xe chạy nhanh. 11. Vương miện hoàng gia bị đánh cắp. 12. Nữ hoàng đi khám sức khỏe. 13. Lâu đài Castle bị cháy. 14. Một vụ bắt cóc thành viên trong hoàng gia. 15. Hoàng gia có tang lễ. * Các dự đoán liên quan đến thể thao: 1. Có một giải đấu khúc côn cầu dành cho phụ nữ. 2. Một con ngựa đua và nài ngựa chết tại một cuộc đua. 3. Một vụ tai nạn ngoạn mục của ba chiếc xe đua công thức với nhau. 4. Cá mập tấn công ngoài khơi bờ biển Maine. 5. Cổ động viên quậy tại một sân vận động bóng đá. 6. Một cuộc bạo loạn trên sân bóng rổ. 7. Thảm kịch tại một buổi biểu diễn trên không. 8. Tiger Woods phải cẩn thận với máy bay. * Những nhân vật tên tuổi được dự đoán sẽ bị tai nạn, hấp hối hoặc “về chầu ông bà” trong năm 2011: Annette Funicello, Hillary Clinton, Charles Manson, Doris Day, Ben Kingsley, Willie Nelson, Penny Marshall, Clint Eastwood, Paul Tracey, Brittany Spears, Dario Franchetti, John Walsh, Latoya Jackson, Steven Harper, Alice Cooper, Ronnie Hawkins, Gordon Lightfoot, Lãnh đạo Bắc Triều Tiên, Prime Minister of Australia, Burt Reynolds, David Hasselhoff (The Hoff), Tiger Woods, Hulk Hogan, Mickey Rooney, Pamela Anderson, Shakira, Loretta Lynn, Kirstie Alley, Fidel Castro, Hugo Chavez, President Masharoff, Billy Graham, Jerry Lewis, Kirk Douglas, Michael Douglas, Joanne Woodward, Debbie Reynolds, Barak Obama, Zsa Zsa Gabor, Dick Clark, Ryan Seacrest, Nelson Mandela, Lindsay Lohan, Kanya West, Sean Combs, Nancy Reagan, Dick Cheney, Dick Clark, George Bush Senior, Jimmy Carter, Barbra Bush, Elizabeth Taylor, Larry King, Mick Jagger, Steve Tyler, Elton John, Arnold Swarzenhagger, Doris Day, Pink, Hugh Hefner, Shirley Temple Black, Alex Trebek, French President Sarkozy, Queen Elizabeth, Duke of Edinborough, Prime Minister of England, Amy Winehouse, Aretha Franklin, Bob Barker, Karl Lagerfield, Ralph Lauren, David Copperfield, Jackie Stallone, Sylvester Stallone, Chris Angel (Mind Freak), Tippi Hendren, Melanie Griffith, Keith Richards, the group Metallica’s David Blaine, Lauren Bacall, Marilyn Manson, Sean Penn, Madonna, Axel Rose of Guns and Roses, Larry King, former Prime Minister Tony Blair, Bill Clinton, Howie Mandel, Dog Dwayne Chapman the Bounty Hunter, Miko Brando, Michael Jackson’s father, Catharine Jackson, Carol Channing, Phyllis Diller, Barry Manilow, George Clooney, Jeremy Irons, Brad Pitt, Prince of Purple Rain, Robin Williams, Michael J. Fox, John Travolta, Woody Allen, Al Pacino, Robert D’Niro, Jack Nicolson, Mariska Hargerty, Nicole Richie, Royal Prince’s Harry and William, David Letterman, Harry Bellefonte, Bill Cosby, Pamela Anderson, Sir Richard Branson, Jay Leno, Hillary Clinton, Barbra Streisand, Peter Falk, Robert Evans, Ernest Borgnine, Chaz Bono, Bob Barker, Michelle Williams, Heidi Montague, Justin Beiber, Ed Asner, Kreskin, and Lady Gaga.1 like
-
Lời nguyền của viên đá sapphire Delhi Vietbao,vn Thứ sáu, 21 Tháng mười hai 2007, 18:56 GMT+7 Tai họa từ lời nguyền của viên đá sapphire Delhi đã được trải nghiệm bởi chính một nhà khoa học nổi tiếng. Cho đến nay, viên đá vẫn là một bí ẩn và nỗi ám ảnh với những người mà nó từng qua tay. Xét về phương diện khoa học, viên đá quý này không có gì đặc biệt về chất liệu, chỉ trừ một vòng bạc bao quanh viên đá có khắc các kí tự thiên văn học và một loại ngôn ngữ bí ẩn nào đó. Quan sát kĩ hơn, trên chiếc vòng còn được đính hai viên đá có khắc hình bọ hung. Tại bảo tàng Lịch sử tự nhiên quốc gia (Anh), bên cạnh giá trưng bày viên đá có ghi dòng chú thích: "Thạch anh tím Delhi (Delhi Purple Sapphire) viên đá bị nguyền, từng nhuốm máu và mang lại tai hoạ cho bất kì ai cất giữ nó!. Đây là lời của nhà khoa học Edward Heron-Allen - bạn thân của nhà bác học Oscar Wilde và cũng là chủ nhân cuối cùng của viên đá. Chính nhà khoa học Heron-Allen đã trải qua không ít phiền phức với viên đá, khiến ông đã phải bọc viên đá ma quái này vào 7 chiếc hộp và dán bên ngoài một lá thư trước khi tống nó vào viện bảo tàng theo như di chúc của ông. Trong thư ông viết: Bất kì ai mở chiếc hộp, trước tiên cần phải đọc lời cảnh báo này: lời khuyên của tôi là hãy ném chiếc hộp cùng viên đá xuống biển. Các thành viên trong gia đình ông Heron-Allen không bao giờ nghi ngờ câu chuyện về lời nguyền của viên đá sapphire Delhi. Ông Ivor Jones, cháu nội của nhà khoa học, một sĩ quan hải quân hiện đã 77 tuổi, không bao giờ dám động chạm vào viên đá dù chỉ một lần. Dưới đây là câu chuyện của ông Ivor Jones về những tai họa mà gia đình ông đã trải qua. Viên đá được mang tới Anh bởi một đại tá kị binh người Bengal tên là W Ferris sau khi bị cướp phá từ ngôi đền Indra ở Cawnpore trong cuộc chiến tranh năm 1857 tại Ấn Độ. Viên sĩ quan này đã phải gánh chịu cảnh sạt nghiệp và sức khoẻ thì suy sụp hoàn toàn. Con trai của ông cũng phải chịu chung số phận sau khi thừa hưởng lại viên đá từ người bố. Và kết quả còn bi thảm hơn khi một người bạn của gia đình đã tự tử một cách bí ẩn sau khi sở hữu nó trong một thời gian rất ngắn. Đến năm 1890, một sự tình cờ nào đó đã đưa viên đá vào tay nhà khoa học Heron-Allen. Ngay lập tức, gia đình ông đã phải gánh chịu những điều rủi ro. Hai lần ông tặng lại viên đá cho hai người bạn hiếu kì thì một người trong số đó đã phải trả lại vì gặp liên tiếp những tai họa giáng xuống, còn người kia - một ca sĩ nổi tiếng thời đó đột nhiên mất giọng và không thể hát nữa! Ngay sau đó, chính tay ông Heron-Allen đã ném viên đá đáng nguyền rủa xuống kênh đào Regent. Tuy nhiên, chỉ 3 tháng sau đó, viên đá lại trở lại với người chủ nhân này sau khi một lái buôn đã mua lại nó từ một người nạo vét kênh! Đến năm 1904, cảm thấy không thể chịu đựng thêm được nữa, ông Heron-Allen đã phải tuyên bố: "Tôi cảm thấy ma lực của nó đang tìm đến cô con gái mới sinh của tôi!. Và giải pháp cuối cùng của ông là gửi nó vào tài khoản vĩnh viễn trong ngân hàng cho tới khi ông mất. Cuối cùng, hành trình của viên đá này mới kết thúc tại bảo tàng Lịch sử tự nhiên nơi mà nhà khoa học đáng kính kia đã có mối quan hệ hợp tác thân thiết trong một thời gian dài. Tuy nhiên, cách đây 7 năm, một cựu giám đốc thư viện tên là John Whittaker đã quyết định mang câu chuyện kì lạ về viên đá đến một hội nghị chuyên đề về cuộc đời và sự nghiệp của nhà khoa học Heron-Allen mang tên Heron-Allen Society. Ông John Whittaker kể lại: Trên đường về, đột nhiên tôi thấy trời đất tối sầm và chúng tôi phải chịu một trận sấm sét kinh hoàng. Tình trạng trở nên rất tệ, đến mức tôi đã phải bỏ lại chiếc xe trên đường còn vợ tôi thì hét lên: "Sao anh lại mang theo cái vật quái quỷ đấy hả?". Tai hoạ vẫn tiếp tục, và vào đúng cái đêm trước khi hội nghị chuyên đề thứ hai diễn ra, ông đã phải chịu một trận đau ruột thừa chí mạng và đến hội nghị thứ ba thì ông không thể đến dự vì bệnh sỏi thận! Phương Thảo ( - Biên dịch) Việt Báo (Theo_24h)1 like
-
Chào Giaback và đương số / nhân tiện mượn lá số của bạn để cùng tham khảo với anh giaback ,về thời vận của bạn vào năm Mão ( đây chỉ là sự nhận định riêng của tôi ).Năm Mão / Thiên Luơng sáng sủa nhưng bản chất của Lương rất sợ sát tinh đi kèm ( phá sản nghiệp ) xương -khúc lại kỵ linh tinh /hạn nầy thường bị ốm đau hay liên quan đến pháp lý Lộc gặp Thiên không như kho lẫm bị rỗng,tiền tài hao tán thất thoát . Đại hạn /tử -phủ miếu ,bị tam không xung chiếu vây hãm , (tuần-triệt-địa không ),tử-vi sợ không -kiếp đắc địa hơn là hãm địa ,chẳng khác nào như vua đang lâm trọng bệnh (bạch hổ -bệnh )lại bị vây thành ,bên trong nội thành lại có địa kiếp đắc địa kết hợp với hóa quyền ,thừa cơ soán ngôi /thiên phủ như kho thóc vựa lúa lương thảo trong thành ,thành bị vây lâu ngày bị tham quan đục khoét dân tình đói kém ( song hao + địa kiếp ) các tướng lãnh thì trọng trấn phương xa kéo quân về không kịp gỡ rối cho vua /Liêm -Tướng sáng sủa gặp kình -sĩ ,các tướng tài bất mãn vì không được vua tin dùng đưa đi trọng trấn phuơng xa ,nên không hết lòng cứu chúa /vủ-khúc gặp la -phù -kỵ ,quân lương vận chuyển gặp trở ngại vì địa thế hiễm trở không đến kịp thời/Thất sát là tướng ngự lâm gặp cô -mã-hao ,người yếu ngựa ít , đang đương đầu với địa không là tướng giặc giỏi ,không phá nỗi vòng dây vì bị cả tuần lẫn triệt , Nói chung trong năm nầy đương số khó lòng thoát nạn ,măc dầu gốc đại hạn 10 năm có Thái âm nhưng cũng bị tuần- triệt án ở cung xung chiếu . Năm Dần vợ có thai năm Mão hy vọng có sanh vào Năm Mão như dự định / Lời khuyên cho đương số qua năm mão khoãng 6 tháng đầu năm coi chừng về giấy tờ sổ sách có khi nhầm lẫn hay có liên quan đến thuế má .1 like