-
Thông báo
-
Nội quy Lý Học Plaza
Nội quy này là bản mở rộng Nội Quy - Quy định của Diễn đàn. Khi tham gia mua bán, các thành viên phải tuân theo những quy định sau: Tiêu đề bài viết: Bao gồm: Chỉ dẫn địa lý, Loại hình Mua/Bán, Thông tin mua bán.
Chỉ dẫn địa lý: Tỉnh/thành nơi mua bán. Hoặc sử dụng định nghĩa có sẵn:TQ: Toàn quốc
HCM: TP Hồ Chí Minh
HN: Hà Nội
[*]Ví dụ: HCM - Bán Vòng tay Hổ Phách Nội dung bài viết: Mô tả chi tiết sản phẩm mua/bán
Bắt buộc phải có thông tin liên lạc, giá Mua/Bán
Bài mới đăng chỉ được phép up sau 03 ngày.
Thời gian up bài cho phép: 01 ngày 01 lần.
Các hành vi vi phạm nội quy này sẽ bị xóa bài hoặc khóa tài khoản mà không cần báo trước.
-
Leaderboard
Popular Content
Showing most liked content on 14/03/2011 in all areas
-
TƯ LIỆU THAM KHẢO Bài này trên trang web cuocsongviet - không phản ánh quan điểm của tôi về cội nguồn Lý học Đông phương. Nhưng có những tư liệu thuộc về tính ứng dụng có thể tham khảo, nên chúng tôi đưa vào đây để cùng quí vị và anh chị em quán xét. =========================================== BÀI 1: ĐỜI NGƯỜI MƯỜI HAI BẾN NƯỚC THÂN CƯ BẾN NÀO ? Nguồn Cuocsongviet.com.vn Khi nói đến Dịch Lý, Tử Vi, Phong Thủy và Tướng Mệnh thì hầu hết người Á Đông chúng ta ai cũng công nhận đó là những khoa học huyền bí rất có giá trị của người Trung Hoa từ hơn bốn ngàn năm về trước. Nói là có giá trị vì những khoa học này tuy gọi là huyền bí nhưng lại rất sát thực với cuộc sống hiện tại và giúp ích cho chúng ta rất nhiều trong những sinh hoạt hằng ngày. Chẳng hạn, khoa Phong Thủy giúp cho chúng ta khi đang sống trên đời biết chọn lựa, điều chỉnh, sửa đổi cho tốt đẹp hơn căn nhà chúng ta đang ở, cơ sở thương mãi chúng ta đang điều hành, và khi chúng ta buông tay từ giã cõi đời thì cũng biết chọn lựa một nơi để yên giấc ngàn thu. Quan niệm này rất quan trọng đối với người xưa, vì đây không phải cho chính bản thân chúng ta nữa mà cho con cháu chúng ta sau này. Chẳng hạn, vua Gia Long khi còn tại vị, ngài đã đích thân chọn địa điểm để xây lăng cho mình, bởi vậy, những triều vua về sau, tuy không có mấy ai tài giỏi như vua Gia Long, lại thêm lịch sử đã có nhiều biến chuyển, nhưng nhà Nguyễn vẫn kéo dài được hơn 150 năm. Khoa Tướng Mệnh giúp chúng ta biết người, biết ta trong vấn đề dùng người, kết bạn hoặc trong những việc giao dịch hằng ngày rất dễ dàng, chỉ qua một cái bắt tay nhau, đối diện nhau trong vài giây phút hoặc trao đổi với nhau vài câu chuyện mà có thể tránh được cái ân hận “lầm người” như chúng ta thường thấy. Còn thâm sâu hơn, như khoa Tử Vi Đẩu Số cũng giúp cho chúng ta biết mình, biết người một cách tường tận từ những chi tiết nhỏ nhặt cho đến tổng quát cả một đời người... Những khoa học huyền bí nêu trên tuy có đối tượng khác nhau, nhưng mục đích giống nhau, ví dụ, đối tượng của khoa Phong Thủy là nơi chúng ta ở, lúc sống là nhà, là cơ sở làm ăn, lúc chết là mộ phần, còn đối tượng của khoa Tử Vi Đẩu Số là con người, và cuộc đời của chúng ta, từ lúc sinh ra cho đến lúc chết. Còn điểm tương đồng là những lãnh vực mà các khoa này diễn đạt và chi phối trong cuộc sống hằng ngày của một đời người. Chẳng hạn, khoa Phong Thủy chia căn nhà của chúng ta ra làm 8 cung, mỗi cung là biểu tượng một lãnh vực trong đời sống hằng ngày của chúng ta, đó là các cung Quan Lộc, cung Học Vấn, cung Gia Đạo, cung Tài Lộc, cung Địa Vị, cung Tình Duyên, cung Tử Tức và cung Quý Nhân, mỗi cung là mỗi hướng của căn nhà. Khoa Tử Vi cũng diễn đạt đời người qua 12 cung, cung Mệnh, cung Phụ Mẫu, cung Phúc Đức, cung Điền Trạch, cung Quan Lộc, cung Nô Bộc, cung Thiên Di, cung Tật Ách, cung Tài Lộc, cung Tử Tức, Cung Phu Thê, và cung Huynh Đệ. Trong ba bộ môn, Tử Vi, Phong Thủy và Tướng Mệnh, thì Tử Vi là khoa nặng về thiên mệnh hơn cả. Khi nghiên cứu về khoa Tử Vi Đẩu Số, chúng ta sẽ thấy rằng, một người sinh ra đời vào giờ nào, tháng nào và năm nào thì cuộc đời của người này đã được an bài từ giây phút đó. Bởi vậy, chúng ta có thể nói, đời người mười hai bến nước, Thân cư bến nào thì cuộc đời của mình sẽ có sắc thái của bến mà thuyền đời mình đã buông neo. Khi nói khoa Tử Vi chia cuộc sống của một người thành 12 lãnh vực là chúng ta chưa diễn đạt rõ trong 12 lãnh vực này thì lãnh vực nào sẽ nỗi bật nhất trong cuộc đời của người ấy? Khoa Tử Vi diễn đạt điều này bằng cung thứ mười ba, đó là cung Thân. Cung Thân không có một vị trí nhất định trong Thiên Bàn của lá số như 12 cung đã nêu trên, mà vị trí của cung Thân tùy thuộc vào giờ sinh của mỗi người và cung Thân chỉ đóng vào 1 trong 6 cung chính yếu là cung Mệnh, cung Phúc Đức, cung Quan Lộc, cung Tài Lộc, cung Thiên Di và cung Phu Thê mà thôi. Điều này phản ảnh một nhân sinh quan hợp lý của xã hội phong kiến: cuộc đời một người lúc sinh ra đã bị chi phối bởi số mệnh của mình (Thân cư Mệnh hay còn gọi là Thân Mệnh đồng cung), khi ra đời thì bị chi phối bởi xã hội (Thân cư Thiên Di), bởi công danh sự nghiệp (Thân cư Quan Lộc hay Thân cư Tài Lộc), bởi vợ chồng (Thân cư Phu Thê) và bởi phúc đức của chính mình tạo ra hoặc thừa hưởng của ông bà cha mẹ (Thân cư Phúc Đức), chứ không bị chi phối bởi con cái (Tử Tức), anh chị em (Huynh Đệ) hoặc bạn bè hay người ăn người làm của mình (Nô Bộc)... Khoa Tử Vi Đẩu Số cũng cho rằng, trong 13 cung của một lá số thì cung Mệnh và cung Thân là hai cung quan trọng nhất. Cung Mệnh nói lên nét tổng quát cả cuộc đời của người đó và nhấn mạnh giai đoạn khởi đầu của cuộc đời gọi là tiền vận, tức là từ lúc sinh ra cho đến đoạn đời trong khoảng 30 đến 36 tuổi và cung Thân là bức tranh của đoạn đời còn lại hay còn gọi là hậu vận. Bởi sự quan trọng của cung Thân như vậy, cho nên một nguyên tắc căn bản của khoa Tử Vi là: “Thân cư cung nào thì cung đó sẽ là lãnh vực sinh hoạt chính yếu trong cuộc đời của người đó”. Như chúng ta đã nói ở trên, Thân chỉ ở vào 1 trong 6 cung chính và Thân an theo giờ sinh, cho nên những người sinh vào giờ Tý hay giờ Ngọ thì Thân đóng ở cung Mệnh, gọi là Thân cư Mệnh, hay Thân Mệnh đồng cung, những người sinh vào giờ Sửu hay giờ Mùi thì Thân cư Phúc Đức, những người sinh vào giờ Dần hay giờ Thân thì Thân cư Quan Lộc, những người sinh vào giờ Mão hay giờ Dậu thì Thân cư Thiên Di, những người sinh vào giờ Thìn hay giờ Tuất thì Thân cư Tài Lộc và những người sinh vào giờ Tỵ hay giờ Hợi thì Thân cư Phu Thê. Từ ý nghĩa căn bản đó của khoa Tử Vi, khi biết một người sinh vào giờ nào, chúng ta có thể phác họa được một nét tổng quát về cuộc đời của người này sẽ như thế nào, và đó chính là một trong những sự kỳ diệu của khoa Tử Vi Đẩu Số, một trong những khoa học huyền bí của người Trung Hoa đã có từ hơn bốn ngàn năm trước. Và kỳ sau, chúng ta sẽ nói về những nét đặc điểm và ý nghĩa về cuộc đời của những người có số Thân cư Mệnh, hay còn gọi là mẫu người Thân Mệnh Đồng Cung, tức là những người sinh vào giờ Tí, giờ theo đồng hồ là từ 11 giờ đêm đến 1 giờ sáng, hay những người sinh vào giờ Ngọ, từ 11 giờ sáng đến 1 giờ chiều.3 likes
-
Sóng Thần
+Achau+ and one other liked a post in a topic by Thiên Sứ
Anh chị em Phong Thủy Lạc Việt lưu ý: Năm nào cũng có sao Thái Tuế chiếu luân chuyển khắp 12 cung Hoàng Đạo. Nhưng nó chỉ phát tác khi tất cả các yếu tố xấu cùng nhập hạn. Năm tới Thái Tuết chiếu cung Ất Thìn, Nhưng lại không có Nhị Ngũ Giao trì và sao quản vận cũng khác. Chưa nói đến các yếu tố khác phức tạp hơn. Không nên chỉ xét một sao Thái Tuế. Bởi vậy cứ việc nhậu lai rai. Có chiền thì bia hơi Tiệp với heo mọi giả chồn, ít thì rựou đế với chuối xanh muối ớt. Hi. Anh chị em cũng nên lưu ý: Sự tính toán phân cung điểm hướng hoàn toàn mang tính quy ước của con người. Vũ trụ sinh động hơn nhiều.2 likes -
Sinh Con Năm Thìn
học tập liked a post in a topic by Học Trò
Chào các bác giải đoán tuổi. Tôi có đứa cháu đang khăn gói quả mướp chuẩn bị cho kế hoạch sinh con năm Rồng. Với mong muốn tốt cho cả nhà và tốt cho cả bé. Chẳng hiểu cu cậu được các Thầy truyền thụ cho kiến thức bắt Rồng thế nào, thấy cu cậu hót líu lo rằng bắt Rồng vào tháng 2, 3 âm lịch là tốt nhất (thăng quan tiến chức, giầu có không lường, hạnh phúc gia đạo), Trong 2 tháng này thì tháng 3 tốt hơn tháng 2 vì là tháng 3 là tháng của Rồng. Tốt kém hơn chút là tháng 7 và 8. Được coi là tháng Mưa gió bão bùng, Rồng tha hồ bay lượn, vờn mây, quấn thủy, nhất là tháng 8 âm (nhưng kém hạnh phúc gia đạo). Tháng tệ nhất là tháng 11 và 12, Rồng Tuyết dễ bị cô đơn, ghẻ lạnh nên cần tránh sinh con tháng này. Tháng tang tóc nhất lại là tháng 1 bởi Long Hổ tranh Bá. Các tháng còn lại là 456,9,10 nói chung là gia đạo bất an vì Rồng hoặc đối tác hôn nhân không chung thủy. Nghe xong câu chuyện này mà thấy khá thú vị. Rất mong các bác luận tuổi cho ý kiến về việc săn bắt Rồng hợp pháp. Ta coi như chuyện Tuổi của bé Rồng là hợp hoàn toàn với Cha và Mẹ từ Mệnh đến Cục, từ Can tới Chi. Theo các bác thì bé Rồng sinh vào tháng nào thì tốt nhất? Tôi cũng nghĩ rằng các bác nên mở ra các mục như thế này hàng năm để các bậc cha mẹ sau khi luận được tuổi sinh bé rồi thì chọn cho mình tháng sinh con tốt nhất, nếu làm chủ được hành vi của mình, còn ý trời thì có giỏi tính mấy mà không có phúc cũng chẳng được hưởng. Ví như hiện giờ là đầu năm Mão, mình nên mở mục tư vấn tuổi sinh con năm Rồng và từ đầu năm sau mở mục tư vấn tuổi năm Tị. Tôi nghĩ rằng sẽ có nhiều bạn trẻ hưởng ứng.1 like -
Trích từ mục Tử bình - Tứ trụ: Pháp Vân: Kính Bác Hà Uyên, anh Thiên Sứ và quí vị, Xin được có đôi dòng: 1. Theo Quyển Hòang Việt Giáp Tí Niên Biểu của Tác giả Cụ Nguyễn Bá Trác Năm – 2879, Nhâm Tuất VN Đời Hồng Bàng , nguyên niên TQ Vua Nghi, năm 10 Năm – 2877, Giáp Tí thứ nhất VN Đời Hồng Bàng, năm 3 TQ Vua Nghi, năm 12 Năm – 2697, Giáp Tí thứ 4 VN, Đời Hồng Bàng, năm 183 TQ Vua Hòang Đế, nguyên niên. Năm – 2217, Giáp Tí thứ 12 VN Đời Hồng Bàng, năm 663 TQ Vua Thuấn, năm 39 Năm – 1 Canh Thân VN Thuộc nhà Hán, năm 111 TQ Hán Ai Đế, Nguyên Thọ, năm 2 Năm 1 Tân Dậu VN Thuộc nhà Hán, năm 112 TQ Hán Bình Đế, Nguyên Thủy, Nguyên niên Năm 4 Giáp Tí thứ 49 VN Thuộc nhà Hán, năm 115 TQ Hán Bình Đế, Nguyên thủy, năm 4 Năm 1804, Giáp Tí VN Hòang Triều Thế Tổ, Gia Long, năm 3 TQ Thanh Nhân Tông, Gia Khánh, năm 9 Năm 1813. Quí Dậu VN Hòang Triều Thế Tổ Cao Hòang Đế, Gia Long, năm 12 TQ Thanh Nhân Tông, Gia Khánh, năm 18 Hiện nay 2010 VN CHXHCN Việt Nam TQ CHNDTH 2. Theo sách Thái Ất Thần Kinh – TT NBKhiêm; NXBVHDT năm 2001 Số năm tính từ Thượng Cổ Giáp Tí (Tích Tuế) đến năm 2000 (Canh Thìn) là : 10.155.917 năm. Lịch Việt được 4879 năm. 3. Theo Bác Hà Uyên dẫn trên thì, Ngài Thiệu Khang Tiết chọn Hội Ngọ từ năm – 2217. 4. Năm – 2217 Giáp Tí là năm khởi mới cùa một Nguyên, hoặc một Hội, hoặc một Vận, hoặc một Thế (Nguyên Hội Vận Thế) tùy theo người chọn độ dài năm của Nguyên Hội Vận Thế : 129.600; 10.800; 4.320; 360. Nếu chúng ta tin số Tích Tuế 10.155.917 năm là đúng đến năm 2000 DL (Canh Thìn) thì, tính đến năm 2000 DL đã trải qua 78,36 Nguyên có độ dài 129.600 năm. Ta có : 129.600 * 78 nguyên = 10.108.800 năm Hiện nay chúng ta đang sống trong Nguyên thứ 79. Ta lấy 10.155.917 năm – 10.108.800 năm = 47. 117 năm Tìm Hội chúng ta đang sống. 47.117 năm : 10.800 năm = 4,36 Hội Suy ra chúng ta chúng ta đang sống trong Hội Thìn chứ không phải Hội Ngọ. Hội Thìn bắt đầu từ năm – 2217 Giáp Tí Năm – 2217, Giáp Tí VN Đời Hồng Bàng, năm 663 TQ Vua Thuấn, năm 39 Đây cũng là căn cứ lý giải các Hòang Đế Phương Đông chọn Rồng làm biểu tượng quyền lực. Lịch Việt của Tổ Tiên chúng ta là chính xác, hợp với truyền thuyết con Rồng cháu Tiên. Vài dòng suy đoán1 like
-
1 like
-
Sóng Thần
fengshui enjoy liked a post in a topic by Thiên Sứ
Yên tâm đi. Đến Mão thôi. Còn Ất Thìn để sang năm tính.1 like -
TRAO ĐỔI LẠI VỚI NHÀ NGHIÊN CỨU NGUYỄN CUNG THÔNG VỀ “TẢN MẠN VỀ TỪ HÁN VIỆT” Hà Văn Thùy Mấy năm nay, công trình “Nguồn gốc Việt Nam của 12 con giáp” của nhà nghiên cứu Nguyễn Cung Thông đã đi vào cuộc sống. Từ chỗ hầu như không thể bàn cãi về hai con giáp là của văn hóa Trung Hoa, đến nay nhiều người tin rằng đó là của Việt. Ngay những học sinh phổ thông Trung Quốc sau khi ngỡ ngàng về thông tin này, cũng ghi nhận để rồi sẽ tìm hiểu thêm… Đó là điều đáng mừng. Nay trong bài viết mới Tản mạn về từ Hán Việt, tác giả cùng ông Trần Ngọc Giang cung cấp cho người đọc những hiểu biết lý thú về sự hình thành từ Hán Việt hiện đại. Tuy nhiên, tác giả Nguyễn Cung Thông còn những hạn chế làm ảnh hưởng tới kết quả nghiên cứu. Vì sự nghiệp văn hóa chung, tôi xin bàn với anh đôi điều. Trong bài “Nguồn gốc việt (nam) của tên 12 con giáp - mão/mẹo/mèo (4b)” tác giả viết: “Tóm lại, ta có cơ sở đề nghị cấu trúc dạng cổ phục nguyên *tlam? hay *klam? đã nhập vào tiếng Hán cho ra dạng đảm 膽. Trường hợp âm cổ phương Nam *tlam?/klam? (lòng, một lòng) trở thành đảm (can đảm, đảm lược ...) khi nhập vào tiếng Hán không phải là hiếm (HVT tô đậm), ta còn có những trường hợp như *krong (sông) khi nhập vào tiếng Hán trở thành *kong hay jiāng BK (giang HV), ...v.v... Nhìn rộng ra hơn, tên 12 con giáp Tý, Sửu, Dần, Mão, Tuất, Hợi… khi nhập vào tiếng Hán đã mất đi phần nào ý nghĩa nguyên thuỷ của tên gọi các loài động vật rất gần gũi với nhà nông. Không những thế, chúng còn được tô son điểm phấn (Hán hoá) và rất khó nhận ra các liên hệ cụ thể nguyên thuỷ: chúng trở thành những khái niệm trừu tượng (được ‘nâng cấp’) trong bói toán và cách ghi ngày tháng (kết hợp với Thập Can); Đây cũng là một lợi thế của nhóm thống trị có chữ viết sẵn (chữ Hán) và khả năng tổ chức. Lợi thế của một hệ thống chữ viết có sẵn như chữ ô vuông (chữ Hán) có thể là chỉ thêm một dấu phẩy nhỏ mà nghĩa lại đổi hẳn đi (HVT tô đậm). Thí dụ như chữ quốc5 chẳng hạn, một dạng chữ quốc 囯 cổ đại viết bằng bộ vi 囗 hợp với chữ vương 王 hàm ý lãnh thổ có giới hạn/biên giới và có vua đứng đầu, tuy nhiên khi thêm một dấu phẩy nhỏ vào bên phải chữ vương thì vương 王 lại trở thành ngọc 玉. Chữ quốc cổ đại 囯 với chữ vương - phản ánh chế độ vua chúa phong kiến - nay đã thay bằng chữ quốc với chữ ngọc 国 hàm ý lãnh thổ (bộ vi) chứa những tài sản quý báu (như dân chúng, ngọc ngà châu báu/đất đai ...). Chữ quốc với chữ ngọc 国 cũng là loại chữ giản thể rất thông dụng hiện nay. Hiện tượng 'thay đổi chữ viết' một cách thâm thuý6 trên có thể giải thích được chữ thố/thỏ 兔 đã dùng thay cho chữ miễn/*mãn/ vãn 免 - âm *mãn đã từng có nghĩa là mèo trong tiếng Việt7. Sự lẫn lộn8 giữa mèo và thỏ còn thấy trong cách dùng dã miêu 野猫 để chỉ loài thỏ hoang (wild rabbit)9 và mèo hoang trong văn hoá TQ và đáng được đào sâu hơn, Còn trong bài Tản mạn về từ Hán Việt: "Từ Hán Việt (HV) là kết quả rất tự nhiên sau bao nhiêu thế kỷ bị người Hán đô hộ cũng như sống bên cạnh nhau: đây là những từ gốc Hán thâm nhập vào và làm vốn từ Việt thêm phong phú.” Như vậy là, xuyên suốt quá trình khảo cứu của mình, tác giả dựa theo quan niệm tộc Hán có trước, chữ Hán có trước rồi thâm nhập vào ngôn ngữ Việt trong thời kỳ Bắc thuộc và quá trình chung sống bên nhau. Quan niệm như vậy được đưa ra vào thập niên 20 thế kỷ trước bởi các học giả thời thực dân như E. Aymonier, L. Aurousseau, G. Coedès … Từ lý thuyết Đa trung tâm về nguồn gốc loài người cộng với sự hiểu biết chưa đầy đủ các phát hiện khảo cổ và nhân chủng học Á Đông, các học giả trên cho rằng, người Hán được hình thành từ chân dải Thiên Sơn rồi di cư theo hướng đông nam, mang văn minh xuống khai hóa các sắc dân Đông Nam Á. Riêng về ngôn ngữ, người Việt vay mượn tới 70% từ Hán ngữ. Quan niệm như vậy trở thành chính thống, tồn tại trong thời gian dài và chi phối mọi hoạt động nghiên cứu văn hóa và ngôn ngữ Việt suốt thế kỷ XX và cả hôm nay. Trong cuốn Nguồn gốc và quá trình hình thành cách đọc Hán Việt. (Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội. H, 2000, trang 305–307), Giáo sư Nguyễn Tài Cẩn viết: “Nếu gạt bỏ những trường hợp không đủ nhiều thì có thể nói rằng quy luật diễn biến từ hệ thống tứ thanh của tiếng Hán trung cổ đến hệ thống thanh điệu Hán-Việt như sau”… “Qua bảng tổng kết trên, điều đầu tiên mà chúng ta nhận thấy là hệ thống tứ thanh tiếng Hán đã nhân đôi số lượng, chuyển thành hệ thống tám thanh trong cách đọc Hán-Việt. Sự nhân đôi này là một sự nhân đôi căn cứ về mặt âm vực.” (Tài liệu do Đỗ Thành cung cấp) Giáo sư Trần Quốc Vượng, một trong “tứ trụ” của giới Sử học Việt Nam cũng từng tuyên bố trên sóng Đài phát thanh BBC Việt ngữ (phỏng vấn thực hiện năm 2003, được phát lại khi ông Vượng qua đời): “Tôi đã nói rồi, nói với ông Phạm Văn Đồng là, nước ta có một nghìn năm Bắc thuộc. Tính cách nào thì cũng một nghìn năm. Quan sang này, rồi lính tới này, kết quả là chúng ta bị Hán hóa đứt đuôi!” Và, trong phỏng vấn khác cũng của BBC, ông khẳng định: “Quan điểm của Việt Nam là ủng hộ thuyết Đa trung tâm!” Mới đây nhất, trả lời Thời báo Kinh tế Sài Gòn ngày 2 tháng 3 năm 2011, thạc sĩ Hán Nôm Trần Trọng Dương cho biết: “PV: Có người coi Hán Nôm là văn hóa Hán, là văn minh Trung Quốc, nếu vậy thì ngành học này có ý nghĩa gì với chúng ta hôm nay? TTD: Quả là, chữ Hán là của người Hán, và thuộc về văn minh Trung Hoa thật. Nhưng, nó đã trở thành một công cụ ghi chép của toàn khu vực Á Đông.” Trong tình hình chung của học thuật như vậy, quan điểm của anh Nguyễn Cung Thông cũng là dễ hiểu. Rất mừng là, những tri thức như vậy đã bị thực tế khoa học vượt qua khi di truyền nhân học phát hiện ra nguồn gốc châu Phi của loài người. Cũng nhờ đó ta biết rằng, khoảng 70000 năm trước, người tiền sử từ châu Phi theo ven biển Nam Á tới Việt Nam và khoảng 40000 năm trước, người Việt đi lên khai phá Trung Hoa để 4000 năm TCN, xây dựng trên địa bàn Đông Á nền văn minh nông nghiệp phát triển nhất thế giới. Tiến thêm một bước, ta được biết, người Hoa Hạ, nhóm hạt nhân của dân cư Trung Hoa ngày nay, chỉ ra đời khoảng 2600 năm TCN do sự lai giống giữa người Mông Cổ và người Việt khi người Mông Cổ xâm lăng vùng hoàng thổ phía nam Hoàng Hà. Do nhân số ít và văn hóa kém phát triển, người Mông Cổ du mục và con cháu họ, học nghề nông cùng với tiếng nói và chữ viết cuả người Việt để xây dựng các vương triều Trung Hoa. Từ đó phơi bày sự thật lịch sử là: “Tất cả văn hóa vật thể và phi vật thể trên đất Trung Hoa trước 2600 năm TCN là của người Việt. Bản thân văn hóa Trung Hoa cũng được xây dựng trên cơ sở con người cùng văn hóa Việt” Dựa trên khám phá lịch sử này cùng những hóa thạch ngôn ngữ Việt trong cổ thư Trung Hoa, năm 2006 tôi công bố tiểu luận “Tiếng Việt, chủ thể tạo nên ngôn ngữ Hán.” Đề xuất động trời đó như sự thách thức các nhà ngữ học khoa bảng. Tiếc rằng cho tới nay chưa có tiếng đáp trả nào. Không phản bác được nhưng không khỏi có người mong rằng điều gàn dở nghịch nhĩ sẽ nhanh chóng rơi vào im lặng! Rất may là từ đầu năm 2010, xuất hiện loạt bài viết của nhà nghiên cứu Đỗ Thành: “Phát hiện lại Việt nhân ca”, “Phục nguyên Duy giáp lệnh của Việt vương Câu Tiễn”, “Chữ Nôm có trước”… Bằng vốn tri thức phong phú, sâu sắc, tác giả chứng minh rằng: hầu hết chữ cổ khắc trên xương thú và đồ đồng thời nhà Thương là chữ của người Việt. Tác giả cũng chứng minh không thể phản bác rằng, thứ ngôn ngữ dùng để viết kinh Thi, kinh Thư, Đạo đức kinh, Sở từ, Sử ký … là chữ Việt. Rất nhiều chữ trong các văn bản đó đến nay chưa được hiểu chính xác nhưng nếu được đọc và giải nghĩa bằng âm Việt, sẽ thông nghĩa. Từ thực tế này, tác giả cho rằng, cần phải làm một cuốn Bách Việt đại từ điển, phục nguyên tiếng Việt cổ rồi từ đó giảng giải lại những kinh sách hơn 2000 năm nay bị hiểu lầm. Hoàn toàn không ngỡ ngàng khi một lần nữa giới ngôn ngữ học khoa bảng lại làm ngơ với phát kiến như vậy! Với thiên niên kỷ XXI này, lịch sử đã sang trang mà thành tựu vĩ đại nhất là người Việt tìm lại được cội nguồn cùng văn hóa của mình. Với cơ sở vững chắc từ di truyền nhân học cùng những dữ liệu khảo cổ học, nhân chủng học, văn hóa học quá đầy đủ hiện có, những phát hiện kể trên là không thể đảo ngược! Chính phát hiện trên giúp ta khả năng nhìn sâu sắc, thông tuệ vào mọi hiện tượng văn hóa không chỉ của Đông Á mà còn của cả nhân loại. Trong khi theo phương pháp quy nạp, tác giả Nguyễn Cung Thông phải dùng quá nhiểu câu chữ để chứng minh (mà chưa thật thuyết phục) rằng 12 con giáp có nguồn gốc Việt Nam, thì ta có thể đi tới kết quả đó nhanh chóng hơn từ phương pháp diễn dịch nếu thấu suốt quan điểm lịch sử mới: Truyền thuyết Trung Hoa nói rằng Phục Hy làm Dịch. Phục Hy sinh khoảng 3000 năm TCN, có nghĩa là Dịch được làm ra ít nhất nửa thiên niên kỷ trước khi người Hoa Hạ ra đời. Vì vậy, cố nhiên, người Hoa Hạ, ông tổ của người Trung Hoa, không thể là tác giả của Dịch. Việt Dịch gồm Âm, Dương, Tứ tượng, Bát quái… cũng như Thiên can, Địa chi trong đó có Mão được người Lạc Việt tại Việt Nam sáng tạo rồi đưa lên Trung Nguyên. Người Hoa Hạ đã học tri thức này cùng văn hóa của tổ tiên Viêm Việt như ngôn ngữ và chữ vuông. Nhưng khi xây dựng nền chính thống của các vương triều Trung Hoa, vì tính tự tôn, họ đã không chấp nhận con Mèo xa lạ với người phương Bắc nên đổi Mão (卯) thành con Thỏ (兔). Thỏ trở thành con vật trong Địa chi của đa số dân sống trên địa bàn Trung Quốc. Tuy nhiên, sự học tập này vẫn để lại dấu vết: trong khi người Việt nói Tý, Sửu, Dần, Mão… thì người Trung Hoa – để ghi chú chữ khó – buộc phải viết cặp đôi: Tý-Thử, Dần-Hổ, Sửu -Ngưu, Mão –Thố… Vào thời Chiến quốc, do đại loạn, nhiều nhóm dân cư từ Trung Quốc di tản sang các vùng đất láng giềng: Lào, Thái, Nhật, Triều Tiên… Những sắc dân này mang theo Địa chi với con Thỏ về địa bàn mới. Chính những người Việt vùng Sơn Đông, thế kỷ IV TCN di cư vào Triều Tiên, Nhật Bản đã tạo nên lớp dân cư Nhật hiện đại, chủ nhân văn hóa Yayoi, với con Thỏ trong Địa chi. Với người Lào, Thái, con thỏ xa lạ và hoàn toàn không có vai trò gì trong đời sống, bỗng nhiên trở thành linh vật ngồi trong Địa chi thì… chỉ có vay mượn! Do chưa có tài liệu nghiên cứu sự hình thành dân cư Lào, Thái nhưng căn cứ vào việc gọi con Thỏ trong Địa chi, ta có thể đoán rằng người Thái, Lào cũng di cư từ Trung Quốc vào thời Chiến Quốc. Trong khi đó, là người sáng tạo ra Thiên can, Địa chi và trụ vững trên lãnh thổ cố cựu của mình, người Việt duy trì con Mão. Thật là tuyệt vời, nghiên cứu ngôn ngữ học công phu của tác giả Nguyễn Cung Thông đã chứng minh một cách ngoạn mục cho phương pháp luận quy nạp mang tính lý thuyết và cùng khẳng định: 12 con giáp có nguồn gốc từ văn hóa Việt! Điều cần nói ở đây là, tuy xác tín rằng, 12 con giáp có gốc Việt nhưng do chưa tin vào quan niệm mới về cội nguồn và văn hóa Việt nên trong thao tác nghiên cứu, anh Nguyễn Cung Thông còn vướng mắc, do dự, vẫn nương theo quan niệm chữ Hán có trước. Điều này làm cho nghiên cứu của anh trở thành thiếu nhất quán. Tác giả cũng lầm lẫn khi viết: “Nhìn rộng ra hơn, tên 12 con giáp Tý, Sửu, Dần, Mão, Tuất, Hợi… khi nhập vào tiếng Hán đã mất đi phần nào ý nghĩa nguyên thuỷ của tên gọi các loài động vật rất gần gũi với nhà nông. Không những thế, chúng còn được tô son điểm phấn (Hán hoá) và rất khó nhận ra các liên hệ cụ thể nguyên thuỷ: chúng trở thành những khái niệm trừu tượng (được ‘nâng cấp’) trong bói toán và cách ghi ngày tháng (kết hợp với Thập Can).” Hoàn toàn không phải vậy! Thực tế là, người Việt rất có mục đích khi dùng danh xưng Tý cho chuột, Sửu cho trâu… Bởi lẽ lúc này chúng không còn là con vật thường trong cuộc sống mà được cách điệu trở thành linh vật trong Dịch, trong tử vi, bói toán, tính ngày giờ – những công cụ hữu dụng được sáng tạo để khám phá tự nhiên và trong khoa học dự báo. Không phải người Hoa đã (làm) mất đi phần nào ý nghĩa nguyên thuỷ của tên gọi các loài động vật rất gần gũi với nhà nông hay tô son điểm phấn, trừu tượng hóa các con vật quen thuộc! Chính người Việt đã làm chuyện đó, còn người Hoa Hạ học tri thức này từ người Việt! Có lẽ cũng cần nói thêm điều nữa là, những bài viết của anh Nguyễn Cung Thông quá dài, lê thê, lặp lại những kiến thức vô bổ khiến người đọc theo dõi rất khó tới mức không còn đủ kiên nhẫn để đọc. Chẳng hạn, khi dẫn một chữ nào đó thực ra chỉ cần so sánh với các ngữ Trung-Anh-Pháp là đủ thì anh đưa ra quá nhiều ngôn ngữ khác không cần thiết. Khi có người lầm chữ Tân trong Tân Mão là mới, đáng lẽ chỉ cần đưa ra chữ Tân cay đắng là đủ thì anh dẫn ra hơn chục nghĩa của chữ Tân không ăn nhập gì. Vừa và đủ là quy luật của tự nhiên. Những bài viết như vậy thể hiện tính thiếu chuyên nghiệp của tác giả, khác nào đem ngọc thảy vào rơm rạ rồi bắt người đọc bươi tìm! Có điều rất đáng để suy nghĩ. Anh Cung Thông với tôi là chỗ thân tình, nhiều năm nay anh em vẫn trao đổi sách vở cùng bài viết. Tuy chưa một lần phản bác những đề xuất của tôi nhưng trong công việc, anh vẫn làm theo quan niệm xa xưa của mình! Phải chăng do tôi chỉ là kẻ tay ngang, không phẩm tước, học hàm học vị nên chưa đáng tin? Nếu có vậy có thì cũng là thường tình. Một người bạn thời phổ thông của tôi, nay là nhà báo, nhà văn tên tuổi. Chị bảo: “Tôi đọc sách của cậu rồi. Nói chung là cũng chẳng hiểu được bao nhiêu. Nhưng này, thế giới nó công nhận cậu chưa?” Tôi mỉm cười im lặng. Tại sao lại cứ phải chờ thế giới công nhận? Chẳng lẽ sau bao năm cắp sách học theo, chúng ta lại không có điều gì dạy lại thiên hạ?! Sao người Việt hèn thế, nhục thế?! Mả tổ sau bao năm mất dấu nay tìm được nhưng lại phải ngồi chờ thiên hạ đến chứng thực mới dám thờ cúng?! Trên mạng đôi khi tôi gặp những comments đại loại thế này: “Thầy tôi là T. Q. V. đã dạy…” Có một thực tế là, các vị như Trần Quốc Vượng, Nguyễn Tài Cẩn… đã bỏ nhiều tâm lực cho khoa học. Nhưng, do gới hạn của tri thức thời đại, các vị đã theo một quan niệm, một phương pháp luận sai là thuyết Đa nguồn gốc của loài người, vì vậy thật đáng tiếc là không khỏi có những ý tưởng của các vị bị sai theo. Tự nhiên, sai lầm của các vị được nhân bản trong lớp lờp học trò. Đáng buồn là uy tín thầy càng cao thì di hại càng sâu! Tháng Ba Tân Mão Hà Văn Thùy1 like
-
Cảm ơn anh khi đưa luận giải của bác Gấu Mèo lên. Tôi không có bình luận gì thêm (ko khen hay chê, cũng không nói chuyện đúng sai). Đọc thế thì biết kiến giải là vậy, họa chăng chỉ thốt lên 1 câu: Giá mà mình có con mắt lạc quan như bác ấy thì đỡ bị mọi người sợ.1 like
-
Tin tích cực là CPI được NDHmoney dự đoán tháng 3 chỉ 1.9% (các tháng trước họ dự đoán rất chuẩn). Nếu đúng đây là một tin rất tốt. Tin xấu là DN và người dân đang hoang mang không thể tiếp cận được USD, nếu NHNN chỉ đạo được các NH cung đô theo nhu cầu và dòng đô vào NH mạnh nên thì tin xấu đã vào dĩ vãng Lựa thời thế thôi1 like
-
vậy ông ấy luận về lá số của con trai anh thế nào? Lá số của vợ anh, theo tôi cũng bình thường.1 like
-
1 like
-
Chuyến đi có sự tham gia của hai nhà hảo tâm trẻ tuổi, Phụng Nhi và bé trai của Thảo Nguyên. Cũng phải đến lúc chia tay.... Tạm biệt Sư Cô ....1 like
-
Vừa xuống xe, ACE đã chuyển quà vào chánh điện, được sư Cô đón tiếp. giới thiệu với tôi về những sinh hoạt nơi đây. Chúng tôi đã lễ Phật và hồi hướng công đức này đến chư Phật gia trì cho các em sớm thành thân nơi cửa Phật. Số quà được tặng gồm : 10 chai dầu gội Lifebuoy = 590,000 đ (năm trăm chín mươi ngàn đồng) 4 thùng sữa nước Vinamilk = 1.000,000 đ (một triệu đồng) 5 hộp kẹo = 125,000 đ (một trăm hai mươi lăm ngàn đồng) Dầu ăn loại 5 lit x 5 thùng = 800,000 đ (tám trăm ngàn đồng) Kem đánh răng 12 cây x 10,800 = 129,600 đ (một trăm hai mươi chín ngàn sáu trăm đồng) Xà bông tắm 40 cục x 4900 = 196,000 đ (một trăm chín mươi sáu ngàn đồng) Bột ngọt 10 gói = 255,000 đ (hai trăm năm mươi lăm ngàn đồng) Tổng cộng : 3,095,600 đ (Ba triệu không trăm chín mươi lăm ngàn đồng) Sẽ bổ sung biên nhận tại topic này. Ngoài ra còn có 6 thùng Mì chay, 10 kg Gạo, và 10 kg Quần áo trẻ em của Chị Minh Hiếu góp tặng.1 like
-
Thứ bảy ngày 12/3 chúng tôi có 14 người gồm : Achau, Thảo Nguyên, M Hiếu, Ánh Xuân, Nhóc chăn Trâu, An Thanh, Thiên Đồng, Bé Phụng Nhi, và 3 trà nô xinh đẹp của TRÀ VIỆT(quên tên rùi) bạn Th Đồng đã lên đường đến Tịnh xá Ngọc Tuyền. Sư Cô bảo hiện nay đã lên đến 31 trẻ mồ côi và 6 Cụ già được nuối dưỡng nơi đây. . Chị Minh Hiếu (PGĐ Nhà Hàng & Khách sạn Đông Kinh) cũng đã kết hợp trao tặng 6 thùng Mì Gói, 1 thùng Quần Áo trẻ em, Gạo. Có một cháu bé được Sư Cô nuôi từ lúc 2 tuần tuổi, Mẹ cháu bị cưỡng hiếp khi tròn 16 t đã đem đến chùa giao cháu và gởi gắm rồi đi biệt. Cháu thuộc làu một bài thơ kể về cuộc đời mình, Cha con 70 t Mẹ Con 17 tuổi , đã bỏ con lại đây, xin nương nhờ cửa phật, may nhờ ơn biển của Sư Cô, con có nơi ăn ngủ, con lại được học hành, lại thuộc thông kinh kệ, con cũng nhờ lòng từ bi, của các Ông các Bà mà chúng con ấm áp, Ơn này sẽ báo đáp .....1 like
-
Ông thầy đó xem chuẩn thật đấy, anh có thể cho xem lá số của vợ anh không?1 like
-
Tại vì tôi không có thời gian nhiều để trả lời. Hàng tỷ người trên thế giới này đều nhìn nhận Lý học Đông phương là của Tàu - tôi bảo không. Tất nhiên tôi không thể trả lời cho một tỷ người thắc mắc. Bởi vậy, nếu quả là người nghiên cứu học thuật thật sự thì hãy xem kỹ các sách tôi viết và những luận cứ mà tôi đã trình bày để hiểu tại sao tôi an Khôi Việt hơi khác sách Tàu như vậy.Anh Vovi nói là: Vậy chính anh và anh AThao cũng không chịu tìm hiểu và tham khảo tôi đã căn cứ vào đâu để xác định việc thay đổi một số cách an sao. Nhưng đã vội vã có ý kiến. Vậy làm sao mà tôi có thể trả lời được? Hơn nữa tôi chỉ có thể trả lời khi rảnh.1 like
-
1 like
-
1 like
-
1 like
-
TẠI SAO TÂN MÃO THUỘC HÀNH MỘC MÀ KHÔNG PHẢI HÀNH THỦY ? HÀNH HỎA ? HAY HÀNH NÀO KHÁC ? (Tặng bạn đọc vốn yêu thích triết luận phương Đông) Lê Hưng VKD ( Lê Hưng VKD là con trai cả cụ Thiên Lương, từng tham gia viết bài trên tập san Khoa Học Huyền Bí trước 1975 với bút danh GS Lê Trung Hưng) I/ Hệ thống can – chi : Trong các triết luận của văn hóa phương Đông châu Á, khái niệm thời gian dịch chuyển được diễn tả bằng thuật danh Can & Chi: Can là hệ đếm thời gian theo chu kỳ 10 giai đoạn, gọi là thập thiên can (Gíáp, Ất, Bính, Đinh, Mậu, Kỷ, Canh, Tân, Nhâm, Qúi) tương thích với vận động của thế giới vũ trụ (được qui chiếu vào phương vị của trái đất theo tư duy của người trần gian). Chi là hệ đếm thời gian theo chu kỳ 12 giai đoạn, gọi là thập nhị địa chi (Tý, Sửu, Dần, Mão, Thìn, Tỵ, Ngọ, Mùi, Thân, Dậu, Tuất, Hợi) tương thích với vận động của trái đất (được qui chiếu theo vị trí sinh sống của người trần gian). Khi ghép nối Can & Chi gọi là “nạp âm Can Chi” và bản chất vận động của tổ hợp thời gian này (tức: nạp âm Can Chi – NÂCC) chính là việc làm của một hành trong hệ 5 hành (ngũ hành: kim, mộc, thủy, hỏa, thổ) Ngày nay mọi người đều đã hiểu : 1/ Cốt tủy tinh hoa minh triết phương Đông, là cổ thư Kinh Dịch 2/ Cốt tủy nội dung của Kinh Dịch, là luận bàn của học thuyết Âm Dương 3/ Cốt tủy vận động của Âm Dương, là lý giải (biện chứng) của học thuyết Ngũ hành Thế nên, việc kết hợp hệ đếm Can – Chi ( tức NÂCC ) chính là một “ hình thái ma trận” (10 hàng 12 cột), để có 60 số đếm thời gian (thuật ngữ cổ gọi là lục thập hoa giáp) theo tiêu chí “âm cư âm vị - dương cư dương vị = can âm đi với chi âm; can dương đi với chi dương” được người xưa áp dụng vào lịch biểu xác định cho 4 thời điểm của mọi sự việc : thời dụng (giờ) – nhật dụng (ngày) - nguyệt dụng (tháng) và niên dụng (năm)….Khởi đầu cho một hoa giáp (tức 60 đơn vị NÂCC) là Giáp Tý (can khởi đầu của 10 can & chi khởi đầu của 12 chi) kết thúc một hoa giáp là Qúi Hợi (can cuối cùng của 10 can & chi cuối cùng của 12 chi) II/ Hệ thống ngũ hành: Vạn vật có sự sống ở trần gian này, được người xưa tích lũy trải nghiệm bằng luận thuyết Ngũ hành ( Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ ) tức là 5 cách vận động – dịch chuyển – biến thái – chuyển hóa… của mọi quá trình phát triển & hủy diệt sự vật (cũng có thể khái quát hơn : số lượng & chất lượng sự vật luôn tiếp biến cho nhau !) - Hành vi “bản năng” là động thái hành Mộc (sinh sôi, nẩy nở…) - Hành vi “hành động” là động thái hành Hỏa (phát huy, phát triển...) - Hành vi “kinh nghiệm” là động thái hành Thổ (thu gọn, qui nạp…) - Hành vi “phương pháp” là động thái hành Kim (chắt lọc, chọn lựa…) - Hành vi “phản xạ” là động thái hành Thủy (phát tán, thanh lý,đối phó…) Các bộ môn xã hội – nhân văn cổ (như : đông y học, phong thủy, thiên văn, nông lịch khí tượng, tử vi, dịch lý…) đều đã sử dụng “ nạp âm can chi” (NÂCC) qui đổi ra “ ngũ hành” để giải thích “ ngưỡng vô thường” của mọi cấu trúc sự vật luôn biến & hóa ở thế giới này (théorie des changements d’ici- bas). Bảng qui đổi 60 số đếm thời gian Can + Chi ra ngũ hành đã được người xưa công bố rộng rãi (và người đời nay đã nhuần nhuyễn thuộc lòng như định đề hiển nhiên – postulatum – của toán học phổ thông !).Thí dụ : Tân Mão thuộc bản chất hành Mộc, Ất Mão thuộc bản chất hành Thủy , Kỷ Mão là hành Thổ… Nhưng một thực tế nghịch lý đang hiện có (trong các đầu sách đã xuất bản bấy lâu nay) là: - Chưa sách nào giới thiệu được cách qui đổi từ nạp âm Can Chi ra hệ ngũ hành ? - Trình tự nào, căn cứ nguyên do nào mà người xưa đã biến hóa số đếm Can Chi (số lượng ) thành ra 1 hành trong 5 hành ( chất lượng) ? - Tại sao Giáp Ngọ phải là hành Kim? mà không phải là hành Hỏa?...v…v III/ Đề xuất kỹ thuật lượng hóa hệ đếm Can Chi thành hệ ngũ hành : Trước các thắc mắc khái quát nêu trên, gia tộc của học phái Thiên Lương – Đẩu Sơn xin phép đề xuất một qui trình nhỏ chuyển đổi nạp âm Can+ Chi ra ngũ hành, như sau : Bước 1 (Bảng A) Lượng hóa cho mỗi Can (trong 10 Can) bằng ký tự số đếm thập phân (numération décimale) từ số 0 (zéro) rồi tiếp theo 1, 2, 3, … Bước 2 (Bảng :( Lượng hóa cơ chế tam phân của lưỡng nghi Âm - Dương: * 3 phân nghi âm: Thiếu âm, Quyết âm, Thái âm * 3 phân nghi dương: Thiếu dương, Dương minh, Thái dương cũng bằng ký tự số đếm thập phân (0, 1, 2, 3…) Bước 3 (Bảng C) Lượng hóa cho mỗi chi ( trong 12 chi ) phân phối theo trình tự cơ chế 3 phân của Âm Dương: - Từ Tý đến Tỵ thuộc nghi Dương, từ Ngọ dến Hợi thuộc nghi Âm, cùng ra ký tự số đếm hệ thập phân ( 0, 1, 2, 3…) Bước 4 (Bảng D) Căn cứ tín hiệu “ nạp âm” của hệ ngũ âm trong nhạc lý cổ phương Đông (cung, thương, giốc, chủy, vũ ) được ghi trong sách Nội Kinh ( bộ y thư cổ nhất của y học cổ truyền Trung Hoa ) : tại âm vi giốc, khí hóa vi Mộc tại âm vi chủy, khí hóa vi Hỏa tại âm vi cung, khí hóa vi Thổ tại âm vi thương, khí hóa vi Kim tại âm vi vũ, khí hóa vi Thủy chuyển đổi ra ký tự số đếm hệ thập phân ( 0,1,2,3…) Ghi chú: hành gốc (biến) căn cứ theo sách Nội Kinh, còn hành ngọn (hóa) thì theo luật sinh xuất ngũ hành (Thổ sinh Kim, Thủy sinh Mộc….) Bước 5 (Bảng E) Đây là bảng tổng hợp tất cả số đếm của mỗi Can + Chi (gọi là “nạp âm” Can Chi – NÂCC): chuyển đổi ra ký tự số thập phân ( 0, 1, 2, 3…) Thí dụ 1: Nạp âm Tân Mão có số ký tự : * Can Tân là 3 (theo bảng A) * Chi Mão là 1 (theo bảng C) ═> NÂCC “Tân Mão” = 3+1 = 4 Thí dụ 2: nạp âm Qúi Hợi = 4 (bảng A) + 2 (bảng C) = 6 Bước 6 (Bảng F) Vì hệ ngũ âm nhạc lý cổ chỉ vận hành từ ký tự 0 (zéro) đến 4 (tức là nhịp 5), nên số đếm của nạp âm Can Chi (NÂCC) ở bảng E cũng chỉ sử dụng nhịp 5 (từ 0 đến 4), do đó nếu nạp âm Can Chi có ký tự 5 hoặc ký tự 6 , ta làm phép trừ cho 5 để tìm số dư (là số còn lại sau phép tính trừ) và lấy số dư này làm ký tự cho hành ngọn (hóa) theo bảng D; Thí dụ 1 : * nạp âm Canh Thìn (theo bảng E) có ký tự 5; ta có số dư: 5 - 5 = 0 ═> Canh Thìn hành Kim (theo bảng D) Thí dụ 2 : * nạp âm Nhâm Tuất (theo bảng E) có ký tự 6; ta có số dư: 6 - 5 = 1 ═> Nhâm Tuất hành Thủy (theo bảng D) Toàn bộ ngũ hành của lục thập hoa giáp như sau : Tạm kết: ngày xuân “nhàn lãm” hệ đếm Can Chi của người xưa, ta không thể không “kính nhi viễn chi” (dù nhìn từ xa, mà đã bái phục) tầm cao “huệ & tuệ”(1) của học thuật và văn hóa dân gian cổ đại Đông phương ! Ghi chú: (1) Huệ là vô tư trong sáng Tuệ là thấu đáo mọi hiểu biết Lê Hưng VKD (Bình Dương)1 like