-
Thông báo
-
Nội quy Lý Học Plaza
Nội quy này là bản mở rộng Nội Quy - Quy định của Diễn đàn. Khi tham gia mua bán, các thành viên phải tuân theo những quy định sau: Tiêu đề bài viết: Bao gồm: Chỉ dẫn địa lý, Loại hình Mua/Bán, Thông tin mua bán.
Chỉ dẫn địa lý: Tỉnh/thành nơi mua bán. Hoặc sử dụng định nghĩa có sẵn:TQ: Toàn quốc
HCM: TP Hồ Chí Minh
HN: Hà Nội
[*]Ví dụ: HCM - Bán Vòng tay Hổ Phách Nội dung bài viết: Mô tả chi tiết sản phẩm mua/bán
Bắt buộc phải có thông tin liên lạc, giá Mua/Bán
Bài mới đăng chỉ được phép up sau 03 ngày.
Thời gian up bài cho phép: 01 ngày 01 lần.
Các hành vi vi phạm nội quy này sẽ bị xóa bài hoặc khóa tài khoản mà không cần báo trước.
-
Leaderboard
Popular Content
Showing most liked content on 09/03/2011 in all areas
-
Tư Vấn Chữ Ký
ducnhan and 3 others liked a post in a topic by Thiên Đồng
@ Cóc Cả 3 chữ đều rất xấu. Nên nghĩ ký sao cho đơn giản hơn. @ nuhoangaicaptk21 Chữ ký tốt. Kéo dài nét gạch dưới ra thì tốt hơn. Tính tình thoải mái, có máu giang hồ, nói là làm. @ Le Linh Ngoắc nghéo quá. Giản thẳng dấu gạch dưới ra. Bỏ nghéo đầu chữ t, bỏ nghéo cuối. Người này làm việc thiếu quả quyết. @ machi Bỏ hết các chữ ký, ký lại, đơn giản lại các nét thẳng, góc cạnh, bỏ ngoắc nghéo. @DTPT Hô hấp kém, có thể đổ trộm mồ hôi tay. nên tập thể dục và tập ký lại. @ Nương Nương Thích ngọt, thích của lạ hay ôm chuyện bao đồng. Dể bị stress. Nên thư giản, bình tĩnh khi giải quyết công việc, không cảm tình, nên nguyên tắc một chút, Thiên Đồng4 likes -
Thời gian gần đây, báo chí có đưa tin về việc các nhà ngoại cảm đi tìm mộ liệt sĩ và tiếp xúc được với người "cõi âm”. Phật giáo giải thích hiện tượng này thế nào? Quan điểm của Phật giáo là thần thức sau khi chết tối đa là 49 ngày thì tái sanh vào một thế giới tương ứng với nghiệp thức. Nếu đã tái sanh vào cõi khác thì "ai” tiếp xúc với các nhà ngoại cảm? Tại sao có những người chết cách nay hàng trăm năm vẫn tiếp xúc được với các nhà ngoại cảm? "Cõi âm” mà các nhà ngoại cảm tiếp xúc được nằm ở đâu trong lục đạo. Việc các nhà ngoại cảm tìm được hài cốt của những người chết nhờ tiếp xúc với người “cõi âm” được báo chí công bố gần đây là điều có thật và rất đáng trân trọng. Thực ra, khả năng ngoại cảm của con người được biết đến từ thời xa xưa. Các nước trên thế giới, từ lâu, đã nghiên cứu và ứng dụng ngoại cảm vào nhiều lĩnh vực của đời sống, trong đó có cả quân sự. Và các nhà khoa học Việt Nam, từ khoảng 15 năm nay, đã bắt đầu nghiên cứu một cách nghiêm túc về các hiện tượng đặc biệt của con người, trong đó có ngoại cảm. Tiên phong trong lĩnh vực này là các cơ quan như Liên hiệp Khoa học Công nghệ tin học ứng dụng, Viện Khoa học Hình sự Bộ Công an, Trung tâm Bảo trợ Văn hóa truyền thống và Bộ môn Cận tâm lý Trung tâm Nghiên cứu tiềm năng con người. Trước hết, Phật giáo không hề có quan niệm về một dạng sống được gọi là “cõi âm”. Thế giới quan của Phật giáo là vô lượng vô biên thế giới, hằng hà sa số thế giới, trong đó có thế giới Ta bà gồm Dục giới, Sắc giới và Vô sắc giới. Hai cõi Sắc và Vô sắc là cõi giới của thiền định. Cõi Dục gồm lục đạo là các loài Trời, A tu la, Người, Ngạ quỷ, Súc sanh và Địa ngục. Cõi âm hoặc âm phủ chỉ là quan niệm dân gian dùng để chỉ thế giới của người chết đối lập với cõi người sống (cõi dương). Đối với các bậc chân sư Phật giáo đã chứng đạo, khả năng đặc biệt của các nhà ngoại cảm là chuyện bình thường, không có gì xa lạ cả. Những thiền sư, nhờ tu tập thiền định mà thành tựu Tam minh và Lục thông. Trong đó, khả năng của các nhà ngoại cảm hiện nay có thể xem như là một phần nhỏ của Thiên nhãn thông (năng lực thấy rõ mọi thứ, không ngăn ngại), Thiên nhĩ thông (năng lực nghe được tất cả các dạng âm thanh) và Tha tâm thông (năng lực biết được tâm ý của người cùng các chúng sanh khác). Chỉ có điều, các hành giả Phật giáo hiếm khi tuyên bố về thần thông, bởi thần thông thường thành tựu trước trí tuệ (chứng đắc Tứ thiền đã có năng lực của Ngũ thông, trừ Lậu tận thông) và chấp thủ hay lạm dụng vào thần thông sẽ chướng ngại giải thoát tối hậu. Vì vậy, các hành giả Phật giáo khi có sở đắc về thần thông thì đa phần thường im lặng. Đối với giới khoa học, Thiếu tướng Chu Phác, Chủ nhiệm Bộ môn Cận tâm lý Trung tâm Nghiên cứu tiềm năng con người, khá am tường Phật giáo khi nhận định: “Việc ‘thấy’ của các nhà ngoại cảm xét dưới góc độ khoa học hiện đại thực ra là hiện tượng Thiên nhãn thông, một trong mười lợi ích của thiền định”. Sau khi chết, thần thức thường trải qua giai đoạn trung gian, chuyển tiếp trước khi tái sanh. Khoảng thời gian cho giai đoạn mang thân trung ấm này tối đa là 49 ngày, ngoại trừ hai trường hợp cực thiện và cực ác thì tái sanh ngay lập tức vào cõi Trời hay cõi Địa ngục. Tuy nhiên, còn có trường hợp đặc biệt của thân trung ấm do chết đột ngột (đột tử) và chết một cách oan ức thì thần thức hoặc “không biết” mình đã chết, hoặc do oán hận ngút ngàn mà cận tử nghiệp bám chặt, chấp thủ kiên cố vào trạng huống “hiện tại”, được gọi là các “oan hồn”, cần phải khai thị (giải nghiệp) mới có thể chuyển kiếp, tái sanh. Ngoài các thân trung ấm, những “oan hồn”, các nhà ngoại cảm còn tiếp xúc được với những chúng sanh trong loài Ngạ quỷ. Nhà ngoại cảm Bích Hằng đã nói rất chính xác: “Thế giới người âm rất đa dạng, phong phú, chia thành nhiều giai tầng”. Chúng sanh loài Ngạ quỷ chiếm nhiều nhất so với các loài khác trong lục đạo. Những đối tượng mà con người gọi là “ma, quỷ, thần linh nói chung…” đều thuộc “những giai tầng” của loài Ngạ quỷ này. Như vậy, “cõi âm” mà các nhà ngoại cảm tiếp xúc được bao gồm các chúng sanh đang ở giai đoạn thân trung ấm, các “oan hồn” và loài Ngạ quỷ. Nhà ngoại cảm Bích Hằng cũng nói rõ là “tôi chưa thấy địa ngục của người cõi âm bao giờ”, bởi chỉ những người tạo các ác nghiệp và các bậc Đại Bồ tát có đầy đủ thần lực mới vào được địa ngục mà thôi. Hiện nay, các nhà ngoại cảm thường tìm kiếm hài cốt theo hai hướng. Khuynh hướng thứ nhất là các nhà ngoại cảm “thấy” được hài cốt, vẽ lại sơ đồ chi tiết khu vực ấy và hướng dẫn thân nhân tìm kiếm. Trường hợp này nhà ngoại cảm chỉ sử dụng khả năng “thiên nhãn thông” của mình để tìm kiếm và phát hiện hài cốt mà không cần trợ giúp của “chủ nhân” chính hài cốt ấy. Bởi hầu hết những hài cốt này chỉ là phần thân xác vật chất đơn thuần (địa đại-đất), còn thần thức đã theo nghiệp tái sanh. Tuy nhiên, vì các nhà ngoại cảm chưa thành tựu Đại định (tam muội) nên năng lực “thấy” của họ thường chập chờn. Tùy thuộc vào cấp độ định tâm hay trạng thái tâm của họ khi làm việc mà “thấy mờ hoặc tỏ” khác nhau, phải điều chỉnh nhiều lần mới tìm ra vị trí chính xác của hài cốt. Năng lực thấy rõ không có gì ngăn ngại này của các nhà ngoại cảm còn được vận dụng để tìm kiếm khoáng sản, thăm dò lòng đất (ngành mỏ-địa chất), khả năng khám, chữa bệnh (ngành y khoa) v.v… hiện đang được nhiều quốc gia trên thế giới nghiên cứu, khai thác và ứng dụng. Khuynh hướng thứ hai thì ngược lại, nhà ngoại cảm tiếp xúc với người “cõi âm” và họ chỉ cho nhà ngoại cảm thấy hài cốt của chính họ hoặc những người khác. Trường hợp này, sự trợ giúp của người “cõi âm” vô cùng cần thiết, do đó nhà ngoại cảm và thân nhân phải có lòng thành. Vì người “cõi âm” biết được tâm ý của chúng ta cho nên nếu lòng không trong sáng, tâm không thành khẩn, làm việc vì danh lợi thì sẽ thất bại. Những chúng sanh mang thân trung ấm, những “oan hồn” và loài ngạ quỷ đều có thể tiếp xúc được với nhà ngoại cảm để truyền thông những thông tin cần thiết. Ở đây, trường hợp đặc biệt cần lưu tâm là các “oan hồn”. Như đã nói những người chết “bất đắc kỳ tử”, chết trong oán hận tột cùng rất khó tái sanh. Mặc dù phần lớn các luận sư Phật giáo đều cho rằng thời gian thích hợp cho tái sanh của thân trung ấm thường tối đa là 49 ngày nhưng “oan hồn” là một ngoại lệ. Theo luận sư Pháp Cứu (Dharmatrata), tác giả Tạp A tỳ đàm tâm luận (Samyutara Abhidharmahridaya) thì thân trung ấm tồn tại không hạn chế thời gian nếu nhân duyên chưa đủ để đầu thai (xem thêm Đại cương luận Câu xá, tác giả Thích Thiện Siêu, NXB Tôn Giáo, 2000, tr.109). Kế thừa quan điểm này, về sau vị chân sư Phật giáo Tây Tạng Sogyal Rinpoche, bằng tuệ giác chứng ngộ của mình, trong Tạng thư sống chết (Thích nữ Trí Hải dịch) khẳng định: “Toàn thể trung ấm tái sanh kéo dài trung bình 49 ngày, và ít nhất là một tuần. Nhưng cũng còn tùy, giống như hiện tại có người sống tới trăm tuổi, trong khi kẻ khác chết non. Một số lại còn bị kẹt trong thế giới trung gian để thành ma quỷ (18- Bardo tái sanh)” hay “Những người đã có cái chết kinh khủng hay đột ngột rất cần được giúp đỡ. Những nạn nhân của ám sát, tự sát, tai nạn, chiến tranh, thường rất dễ rơi vào sợ hãi đau đớn, hoặc ở mãi trong kinh nghiệm khủng khiếp về cái chết của họ, do đó không thể tiến đến giai đoạn tái sanh (19- Giúp đỡ sau khi chết)”. Vì những lý do trên, có những trường hợp tuy đã chết rất lâu nhưng vẫn chưa được tái sanh. Phần lớn những người “cõi âm” mà nhà ngoại cảm tiếp xúc, mô tả hình dáng, tính cách của họ đúng như dáng vẻ, tâm trạng lúc chết đều ở trong trường hợp này. Chính việc thần thức “ở mãi trong kinh nghiệm khủng khiếp về cái chết”, “bị kẹt trong thế giới trung gian” (lời của Sogyal Rinpoche), sự chấp thủ kiên cố, bám chặt vào trạng huống “hiện tại” trước khi chết đã tạo ra một dạng sống gọi là “oan hồn”. Do đó, Phật giáo thường lập đàn tràng Giải oan bạt độ và Chẩn tế âm linh cô hồn. Giải oan là tháo gỡ sự chấp thủ, khai thị cho “oan hồn” hiểu giáo pháp mà buông xả, tỉnh ngộ để tái sanh. Chẩn tế là ban phát thực phẩm cho loài ngạ quỷ được no đủ, đồng thời khuyến hóa họ hồi tâm hướng thiện để sớm chuyển nghiệp, siêu thăng. Như vậy, thế giới “cõi âm” vô cùng đa dạng và phức tạp, những nhà ngoại cảm nhờ có nhân duyên đặc biệt nên tiếp xúc được với họ, giúp họ truyền thông với con người. “Thông điệp” của người “cõi âm” cũng không ngoài tình thương, sự trân trọng, quan tâm lẫn nhau và đề cao các giá trị đạo đức, tâm linh. Chính những tâm tư của người “cõi âm”, nhất là các “oan hồn” đã góp phần tạo nên khí vận quốc gia, hồn thiêng sông núi. Do đó, việc cầu nguyện cho âm siêu dương thái theo pháp thức Phật giáo là điều cần làm. Ngày nay, các nhà khoa học đang nỗ lực khám phá hiện tượng ngoại cảm theo hướng trường sinh học hay năng lượng sinh học. Tuy nhiên, nếu chỉ thiên về nghiên cứu “vật chất” thì sẽ khó tiếp cận trọn vẹn vấn đề, bởi “sắc tức thị không, không tức thị sắc” (Tâm kinh). Đó là chưa kể đến hoạt dụng của tâm thức A lại da bao trùm khắp cả pháp giới, siêu việt cả tâm lẫn vật, theo Duy thức học, chỉ có tu tập thiền định mới có thể khai mở và thành tựu kho tàng tuệ giác này. (Theo Giác Ngộ)1 like
-
1 like
-
1 like
-
Sg Ngập Nắng
Hạt gạo làng liked a post in a topic by Nắng
Mỹ nhân HN nào vinh dự được đón Đông Ki sốt từ SG ra đây nhỉ??? Mắt mơ màng quá. Nhìn toàn cảnh thì thế này này. À mà a HGL toàn mải uống bia, để tụi e phải xử lý con cá chình to quá hic hic1 like -
Sg Ngập Nắng
Hạt gạo làng liked a post in a topic by Nắng
HGL và thanhphuc bị nắng chiếu chói chang nè loa đài, home theatre, hitech, ... - hihi, chủ đề này rất sôi nổi vì a HGL rất hợp cạ với đàn ông HN nhá1 like -
Sg Ngập Nắng
Hạt gạo làng liked a post in a topic by Nắng
E gửi lại ảnh a Hạt Gạo Làng ra thăm Hà Nội. Phía HN có e và a thanhphuc tiếp đón. Yêu cầu của a HGL rất đơn giản, được uống bia tươi HN. Thế là chị e nhà e quyết định chọn nhà hàng Cối xay gió. Bia tuyệt ngon. Món ăn miễn chê, nóng sốt. View đẹp. Không gian của 1 biệt thự cổ. Một nhà hàng rất phong cách, và chi phí ko quá đắt đỏ như các nhà hàng ngang tầm. Đây là màn khởi đầu, nhìn qua một bình hồng vàng rực rỡ1 like -
Cụ rùa Hồ Gươm nổi bật trên báo nước ngoài Công cuộc rước Rùa lên cạn để chữa bệnh tại Hà Nội lên trang chủ New York Times, và chân dung cụ xuất hiện trên nhiều bào và hãng thông tấn như AP, AFP, BBC, Washington Post... Cụ rùa nổi rõ nhiều vết thương trên mình. Ảnh: AP "Việt Nam lo cho tính mạng rùa thiêng quốc gia" là tiêu đề của bài báo trên BBC đăng hôm qua. Hãng này đưa tin các nhà động vật học tại Việt Nam đang cố gắng cứu chữa con rùa khổng lồ vốn được coi như một báu vật quốc gia. Cụ rùa gần đây được phát hiện mang một số vết thương ở chân và cổ. Nhiệm vụ cứu rùa càng trở nên cấp bách hơn bao giờ hết khi nó thuộc một trong những loài nguy cấp trên thế giới và là một trong 4 con thuộc loài này còn sót lại trên trái đất. Trong khi đó, New York Times tường thuật lại chi tiết cuộc quây bắt rùa tại Hồ Gươm hôm qua, theo đó "hàng nghìn người trèo lên các cây cối xung quanh hồ để theo dõi, trong khi các thợ lặn và thuyền viên cố gắng lùa con rùa lên hòn đảo nhân tạo ở giữa hồ - nơi có một bệnh viện được dựng tạm để chữa trị cho con vật". Cụ Rùa lên trang nhất NYT sáng nay. Ảnh chụp màn hình "Tuy nhiên, họ đã thất bại khi con vật nặng 200 kg xé rách lưới và lặn sâu xuống làn nước lạnh lẽo và âm u", NYT mô tả kèm tấm ảnh to trên trang home, thể hiện cảnh bắt Rùa. Theo Telegraph, hàng trăm người tham gia vào cuộc giăng lưới rùa tại hồ Hoàn Kiếm bởi họ hy vọng rằng con vật dài 1,8 m và rộng 1,2 m sẽ mang lại cho họ may mắn. "Tôi thực sự vui mừng vì mình là một phần trong cuộc giải cứu này, và hy vọng nó sẽ mang lại may mắn cho gia đình tôi", Telegraph dẫn lời Nguyen Thanh Liêm, 65 tuổi, một đại úy quân đội về hưu tham gia kéo lưới nói. "Tôi mong rằng cụ sẽ bất tử để phù hộ cho cả dân tộc". Từ người già tới thanh niên đều hào hứng tham gia kéo lưới. Ảnh: AP. Một số báo như Independent và The Guardian của Anh đưa tin kèm giải thích cho độc giả hiểu về truyền thuyết liên quan đến con Rùa "bí ẩn và huyền thoại" ở thủ đô của Việt Nam. Hãng thông tấn AP đưa tin đây là lần đầu tiên một cuộc vây bắt rùa được thực hiện và người Việt Nam đổ xô đến hồ để hy vọng được nhìn thấy con vật - một dấu hiệu của sự may mắn. "Đối với người Việt Nam, rùa hồ Hoàn Kiếm là con vật linh thiêng nhất", AP dẫn lời một nhân viên nhà nước nghỉ hưu Nguyẽn Thị Xuân, 63 tuổi, nói. Bà đã đi từ ngoại thành vào tận đây để hy vọng được nhìn thấy rùa. "Cụ đã giúp người dân Việt Nam chống lại giặc ngoại xâm và cũng giúp mang lại hòa bình cho đất nước. Tôi hy vọng cụ sẽ sống mãi". Bài viết của AP được nhiều báo trong đó có Washington Post, Forbes... đăng lại. Blog của trang MNSBC, ngay trên tiêu đề của bài viết mô tả cuộc vây bắt rùa là "hoành tráng", và cho biết thêm cụ Rùa đã thoát khỏi lưới. Các báo cũng đưa ý kiến của một số người dân lo lắng rằng việc dùng lưới bắt rùa có thể gây hại hơn là có lợi. "Không an toàn khi dùng lưới để bắt rùa. Nó có thể làm vết thương của cụ nặng hơn", The Guardian dẫn lời Nguyễn Hùng Cường, một sinh viên 19 tuổi, nói. "Các quan chức nên để cụ rùa tự bơi vào đảo và tại đó họ có thể bắt để chữa trị". Song Minh nguồn vnexpress.net1 like
-
Đại ý Đức Phật tổ nói:Sau này sẽ có những kẻ nói giống như ta, nhưng xuyên tạc ý tưởng của ta. Đó là "ma" nói. Nó giống như câu: "Nhiệt tình công dốt nát thành phá hoại". Tương tự thôi. Chịu khó xem kinh Phật sẽ hiểu. Tôi cũng không nhớ chính xác đức Phật nói trong kinh nào. Cái này nhờ Kim Cương tìm hộ. Xin cảm ơn.1 like
-
1 like
-
Vậy bạn thử mô tả tướng mạo, mắt, mũi của đương số. Bố mẹ và anh chị em như thế nào. Còn bạn muốn tìm hiểu cách an Khôi-Việt như thế nào trong Tử Vi Lạc Việt, thì bạn đọc quyền Hà Đồ trong văn minh Lạc Việt của tác giả Nguyễn Vũ Tuấn Anh.1 like
-
1 like
-
Thời Giờ
Thiên Đồng liked a post in a topic by Lãn Miên
Ngày đầu Xuân Tân Mão khai bút viết bài Thời Giờ Ngày xưa cách nay 400 năm, người Việt gọi cái Thời phải sống chung với lắm cái gian là “Thời Gian”. Tôi cứ vào cái “ ngàn năm “Bia Miệng” vẫn còn trơ trơ” của người Việt Nam để viết bài này chứ không cứ vào cái “bia mồm” của thiên hạ. Vì người Việt Nam đã nói rằng “Mặc ai nói ngả nói nghiêng, Lòng ta vẫn vững như kiềng ba chân”. Trơ Trơ=Trôi Trôi= Trời Trời= Thời Thời=Đời Đời. Người nông dân Việt Nam là người đầu tiên làm ra nền “Văn minh Lúa nước” đầu tiên cho nhân loại. Mọi khái niệm trừu tượng, người nông dân của nền “văn minh lúa nước” đều lấy tên những vật cụ thể mình mắt thấy tay sờ để đặt thành tên khái niệm. Vỏ là cái bao bọc tất cả những gì bên trong nó, bao bọc lâu gọi là “ấp ủ”. (Ai là người gọi mẹ là U đầu tiên và đến nay vẫn gọi?). Cái “VỎ bao la ấp Ủ hết thảy trong nó”, người Việt đã lướt thành “VỎ ấp Ủ”, rồi lướt nữa thành VŨ, là khái niệm để chỉ Bầu không gian. Người Việt cổ đại làm “nông nghiệp trồng trọt” là đã văn minh, biết rõ Trời luôn luôn ấp ủ một cái gọi là Thời. “Trời ấp Ủ”, người Việt lướt thành Trụ, là khái niệm để chỉ Thời. Chữ nho của người Việt viết là VŨ TRỤ 宇 宙, nghĩa là “không gian và thời gian”. Người nông dân Việt Nam vẫn nói “Thời Giờ là vàng bạc”. Người Việt cổ đại tính thời giờ căn cứ Trời. Vì Trời luôn Trôi trong dòng Thời cũng như Tuổi luôn Trôi trong dòng Đời. Có Trời mới có Thời, có Thời mới có những khoảng Giữa của ngày đêm. Những khoảng Giữa để đo Thời đó người Việt chia ra gọi là khoảng Giữa Chờ vì nó đang chờ cho Thời đang Trôi đi. Giữa Chờ đã lướt thành Giờ. Vì Thời có trước là do Trời làm ra, còn Giờ có sau do người đặt ra, nên cái khái niệm Thời để dùng cho người khi tính toàn làm ăn, gọi bằng từ ghép Thời Giờ. Hai khái niệm Thời và Thời Giờ là hai khái niệm khác nhau trong tư duy Việt, Thời là của Trời, Thời Giờ là của người làm việc ( Nhưng Thời Giờ = Thai Mờ = “Time” cho thấy tư duy người Việt luôn đi đầu, vì tư duy tạo ra ngôn ngữ, ngôn ngữ lại là công cụ để tư duy. Chỉ mới một từ Thời Giờ này đã cho thấy người Việt cổ đại đã tiên đoán “hội nhập Đông Tây” như đang diến ra ngày nay. Cũng như “Không” tiếng Việt cố ở dòng Cả vùng Bản Cũ nói là “Nỏ”, tiếng Anh viết “No” đọc là “Nâu”). Thời của Trăng là Thời Trăng, lướt thành Tháng. Người Việt là người đầu tiên làm ra Lịch Trăng dùng cho nông nghiệp, “ nhà Nông dùng Lịch ấy” lướt thành “Nông Lịch”. Từ “Lịch” cũng do lướt mà ra. Theo tư duy của người Việt thì Trôi là cách đi của Trời, cũng như dân Việt của văn minh lúa nước nói Lội là cách đi của Người (Lội bước, Lội bộ, có Lội mới tìm ra được Lối là hướng tư duy, và làm ra được Lộ là cái phương tiện cụ thể để đi). Thời mà người đ lấy để dùng cho tính toán thì nó cũng phải đi theo cách đi của người, tức nó cũng phải “Lội chầm chậm như Dịch từng bước”, lướt thành Lội Dịch, lướt nữa thành Lịch. Thời đã Qua lướt thành Thời Qua, lướt nữa thành Thưở. “ Thưở trời đất nổi cơn gió bụi…”. Người nông dân Việt hiểu “Thời Giờ là vàng bạc” vì phải luôn luôn nắm bắt cái mà Thời nó Tiết ra gọi là Thời Tiết để mà làm cho kịp mùa vụ. Từ khi người Việt sáng tạo ra Thuyết Âm Dương Ngũ Hành, để lại cho nhân loại phát minh ấy, ghi trên một cái Bằng là cặp “Bánh Dấy Trên Trốc Bánh Chưng” tức Dầy/Chưng, mà Tôi gọi là cái Bằng Vô Ngôn, chẳng nói năng gì, nhưng là khi người Việt đã tiên đoán cho nhân loại biết rằng: Thiên niên kỷ thứ 3 là Thiên niên kỷ con Người (=Ngôn) hiểu biết tường tận Vũ trụ (=Vô). (Đó là khẳng định của giáo sư Nguyễn Hoàng Phương tại Hội thảo quốc tế đầu tiên về Việt Nam học do Đại Tướng Võ Nguyên Giáp chủ trì tại Hà Nội năm 1998). Nếu không hiểu minh triết Dầy/Chưng của người Việt thì Chưng sẽ thành Chẳng=0=zero và Dầy sẽ thành Dóc=0=zero. Muốn tránh được hậu quả đó thì phải bằng Người=Ngôn=Đối Thoại, để giữ được trái đất Xanh (cái bánh Chưng) và bầu trời Sạch (cái bánh Dầy). Nếu không thì tất cả sẽ Sạch Sành Sanh=0.Cái bánh Chưng Vuông là Đất phải Xanh để giữ cho cái bánh Dầy là Trời ở Trên được Sạch và Vững như Vuông, vì ở Vuông loài người đã có luật Lạc Hồng=Luật Rộng nhưng rất Nền Nếp( cái Nền bằng Nếp của bánh Chưng), vì Luật đó đã qua Luộc bánh , nên nó là Luộc Chín=Luật Chính. Dân tộc Việt Nam ngót vạn năm trước đã biết tế Thần bằng thực phẩm Chín là đã văn minh đến nhường nào rồi.( Chẳng thế mà chuyện cổ tich Việt Nam nói ,Vua Hùng đòi dâng cho Vua phải là “ voi Chín ngà, gà Chín cựa, ngựa Chín hồng mao” tức phải bằng sản phẩm của cái lao động Chính đáng của mình, chứ không phải là của ăn cướp của người khác, không phải là của “đạo văn” hay của “tầm chương trích cú”). Người Việt Nam đã xưng mình là Việt từ thuở khai thiên lập địa. Tư tưởng Việt là tư tưởng văn minh đầu tiên của nhân loại, nảy sinh được do nền văn minh “nông nghiệp trồng trọt” xuất hiện đầu tiên trên thế giới ở Vuông đất ĐNÁ. (Chứ không phải từ nền “văn minh du mục”). “Trồng” mới là thuận “Trời”, bởi nó Vững mãi, như cấu thành ngữ của người Việt “Đứng như Trời Trồng”, chứ “Du” chỉ dẫn đến Mục, như những khái niệm “du côn”, “du đãng” trong ngôn ngữ Việt. Nền văn minh “nông nghiệp trồng trọt” trải qua hàng vạn năm , dẫn đến nền “văn minh lúa nước”. Duy nhất trên thế giới này chỉ có người Việt Nam gọi xứ sở mình là Nước.Vì người Việt Nam vẫn giữ nguyên cái Bằng Vô Ngôn=(lướt)=Bổn, do họ là hậu duệ đích tôn của tộc Việt cổ đại đã sáng tạo ra thuyết Âm Dương Ngũ Hành và Kinh Dịch. (Ở Việt Nam có biết bao nhiêu là chùa Ông Bổn). Nền văn minh “nông nghiệp lúa nước” của người Việt cổ đại trải ngót vạn năm là nền Văn minh Văn Lang Lạc Việt hiến cho nhân loại , nên người Việt gọi là Văn Hiến.Câu thơ của Vua Minh Mạng đề ở điện Thái Hòa: “Văn hiến thiên niên quốc. Xa thư vạn lý đồ. Hồng Bàng khai tịch hậu. Nam phục nhất Đường Ngu”, Tôi dịch là: “ Nước Văn hiến ngót vạn năm. Tinh hoa trải rộng khắp vùng gần xa. Hồng Bang xưa lập quốc gia. Dân Nam mở mặt con nhà Thuấn, Nghiêu”. Văn minh Văn Lang Lạc Việt đã từng rực rỡ 5000 năm trước ở bờ nam sông Dương Tử. Tư tưởng của người Việt cổ đại là tư tưởng văn minh sớm nhất của nhân loại, thể hiện ở Thuyết Âm Dương Ngũ Hành và Kinh Dịch của người Lạc Việt. Văn minh Văn Lang là “Người Ta là hoa của đất”, thể hiện trong tư duy ngôn ngữ của người Việt như sau: Mẹ=Máu=Mạng(cũng là internet)=Mắt=Bắt=Biết=VIỆT=Viết=Biệt=Bút=Bụt=”Bít”=Bè=Bánh=Xanh=Mạnh=Minh=Mênh Mông=Mãi Mãi=Mẹ. Đó là cái BẦU bao la mà người Lạc Việt đã vẽ ra, là cái “Bầu biểu tượng Âm Dương”. Tư duy ngôn ngữ kiểu đó là theo trình tự hệ quả, logic Nhân-Quả: Có Mẹ mới có Máu, có Máu mới có Mạng, có Mạng mới có Mắt, có Mắt mới nắm Bắt, có Bắt mới có Biết, có Biết mới là người VIỆT, có Việt mới biết Viết, có biết Viết mới biết phân Biệt, có biết phân biệt mới thành cây Bút (trên mảnh đất Việt Nam chỗ nào mà chẳng có tháp bút), cây Bút chứa nặng tri thức thì thành Bụt, (Bút Viết mang nặng tri thức thì thành Bụt Việt, chuyện cổ tích nào của người Việt Nam mà chẳng có Bụt),nhưng Bụt chỉ là cái “Bit” của công nghệ thông tin ngày nay, sáng tạo ra mọi văn minh cho nhân loại tương lai, mà người Việt đã có cái “bít” ấy từ thời cổ đại ở hệ đếm nhị phân của người Lạc Việt với con số Mô/Một=0/1, nếu không thì làm sao có được “nhị nguyên sinh tứ tượng, tứ tượng sinh bát quái, bát quái sinh 64 quẻ dịch”), có “Bit” của công nghệ thông tin mới giúp nhân loại xích lại gần nhau kết thành cái Bè, cái Bè ấy mới thành cái Bánh chưng xanh , cái Bánh chưng là biểu tượng mong trái đất Xanh, trái đất có Xanh mới thành Mạnh, có Mạnh mới hiểu cái Minh của minh triết, cái Minh triết mới là Mênh Mông, cái Mênh Mông lại là như lòng Mẹ, chỉ có Mẹ mới còn Mãi Mãi, đó là cái đạo Mẫu của người Việt cổ đại (đã có ở người Việt Nam hàng ngót vạn năm trước Phật Giáo). Cùng khi với thờ Mẫu, người Việt Nam còn thờ Thần, Thần là ông tượng trưng tính nhân bản của người Việt, vì “Thần” là từ lướt của “ Thầy Thấy Dân” =(lướt)=Thần,( đâu phải ai cũng thấy được ở dân là muôn trí tuệ, câu của Hồ Chí Minh: “ Dễ trăm lần không dân, cũng chịu. Khó trăm lần, dân liệu cũng xong”); Và thờ Thánh, Thánh là ông tượng trưng cho đức tính người Việt luôn ngưỡng mộ tinh hoa của mọi dân tộc, “Thánh” là từ lướt “Thấy Thật Thành Mạnh”=(lướt)=Thánh. Bởi vậy một cá nhân nhưng là kết tinh tiêu biểu cho tinh hoa của bất cứ dân tộc nào, người Việt Nam đều tôn là Thánh: Thánh Khổng Tử, Thánh Găng Đi, Thánh Trần Hưng Đạo. Chữ viết của người Việt xuất hiện từ thời cổ đại cũng theo qui luật chu kỳ Trôi của Trời : chữ tượng hình (có di tích) rồi đến chữ ký âm (chữ Nòng-Nọc. Thưở dùng chữ Nòng-Nọc, người Việt đã đánh vần y như ta đánh vần bây giờ, ví dụ : “Mẹ Âu Mâu Là Mẫu”. Bởi vậy chuyện cổ tích người Việt có mẹ Âu, bố Cơ ở dòng sông Cả, do tư duy đạo Mẫu nên ngôn ngữ Việt có kết cấu “ Mẹ Cha”, “Vợ Chồng”, nên “Âu Cơ” là “mẹ Âu, bố Cơ”, người Việt là người biết nói câu “Lady First” đầu tiên của nhân loại, và đã tiên đoán “hội nhập toàn cầu” vì người Việt cổ đại đã từng có mẹ Âu), rồi đến chữ tượng hình (chữ nho), rồi lại đến chữ ký âm (như ta dùng ngày nay). Cũng theo tư duy ngôn ngữ của người Việt, có: Việt=Phiệt=Phật. Thời Đông Tấn (trước công nguyên), ông Hứa Thận trong sách “Thuyết văn giải tự” đã giải thích: Việt=Vương Phiệt, mà trong tư duy ngôn ngữ của người Việt Nam thì “Vương Phiệt”= “Vùng đất Phát triển minh Triết”. Do đạo Mẫu của người Việt Nam có trước Phật Giáo nên khi đi đền chùa niệm Thần, Thánh hay Phật, câu niệm thầm đầu tiên vẫn là, như thứ tự các chữ sau: “Nam (1) Mô (2) Hương (3) Vân (4) Cái (5) Bồ (6) Tát (7)”! Nghĩa là: Người Việt Nam (1) khi Mở (2) Làng (3) vẫn Nói (4) tiếng Mẹ (5) đẻ nguyện giữ cái Bổn (6) để mà Phát (7) triển mãi mãi. (4): “Vân” nghĩa là “nói”, nay hay dùng trong văn viết là “vân vân”. Người dòng Cả vẫn nói là “ Van” ví dụ: “ Ai van chi rứa hầy”. Người Lưỡng Quảng tức Quảng Tây, Quảng Đông nói là “Và”, đó là tiếng Pạc Và= Bạch Thoại. (6) “Bổn” tức cái Bằng Vô Ngôn, là minh triết thể hiện qua biểu tượng cặp “bánh Dầy trên trốc bánh Chưng”, Dầy/Chưng=Vô/Ngôn=Trời/Người. Tư tưởng của văn minh Văn Lang là: NGƯỜI TA HOA CỦA ĐẤT, câu đó chính là 5 chữ của tư duy ngôn ngữ của người Việt Nam là: VIỆT=HIỆT=HIỆP=HÒA=HOA , thể hiện bằng 5 chữ nho của người Việt là: Việt 越 = Dẫn đầu tư tưởng, Hiệt 黠 = Tài giỏi xuất chúng, Hiệp 協 = Đoàn kết giúp nhau, Hòa 和 = Sống lành như lúa, Hoa 華 = Tinh hoa nhân loại. Đó là 20 chữ vàng (không hề đồng âm đồng chữ ) mà người Lạc Việt đã có từ cổ đại. Chính tư tưởng “Người là hoa của Đất” ấy của người Lạc Việt mới làm cho Văn Lang có được Vuông rộng mênh mông, với hàng trăm sắc tộc nối vòng tay lớn quay chung quanh một chữ Đồng là cái Trống Đống, chứ làm gì có chế độ nô lệ hay chế độ phong kiến trung ương tập quyền. Bởi vậy dòng Cả mới sinh ra hàng trăm dòng Thứ tức lắm dòng Thứ Hai=Chư Hầu, gọi là Bách Việt. Năm chữ nho trên thì “cứ Việt mà xài” tức phải cứ cái “bia miệng” Việt nói ra Tiếng Việt, vạn năm vẫn còn Trơ Trơ = Trôi = Trời = Thời = Đời Đời sẽ thấy đúng nghĩa của 20 Chữ Vàng là như trên, còn nếu cứ “bia mồm” thì không luận ra được mà lại trôi tuột hết.( Nghĩa của mỗi chữ biểu ý ấy đều có trong ca dao, đồng dao cổ của người Việt Nam, tôi không dẫn ra trong bài này).1 like -
@FMS ngày 5/tân mão/tân mão giờ thìn Cảnh đại an Chuyển sang kinh doanh thì vốn lớn hơn. Lúc này mở ra có thể chưa đúng lúc, bởi cơ hội và khả năng mở rộng hay giao dịch còn rất hạn chế. Mở ra mà hòa vốn là thành công. Mà hòa vốn là nguy cơ thoái hóa, không phát triển. Lời khuyên: nên tính chuyện khác thì hơn. Thiên Đồng1 like
-
Nếu chỉ giới hạn như một hình tượng sáng tạo nghệ thuật thì không có vấn đề gì. Nếu coi như một biểu tượng minh triết thì đây là triết lý của "ma ba tuần".1 like
-
1 like
-
Giờ này em được quẻ Hưu Tốc Hỷ: Theo em sao một thời gian trì trệ bác sẽ có tin vui từ lãnh vực kinh doanh mới, tin vui đến nhanh, thành công lớn (em chưa rõ cách luận quẻ này lắm, mong các bác cao thủ khác cùng vào bạn :) )1 like
-
Một trong những dự đoán tương lai gây chú ý nhiều nhất của Cayce, khi ông nói “ngày tận thế” xảy ra vào năm 1999 trong một đợt chiến tranh không chỉ diễn ra ở phạm vi toàn cầu và còn ở lĩnh vực tinh thần. Cayce mượn điển tích “trận Armageddon” trong Kinh Thánh để nói về cuộc đấu tranh giữa các Đấng cao cả và lực lượng hắc đạo, nhằm tạm thời ngăn chặn những linh hồn chưa tiến hóa không được đầu thai trong thời gian 1.000 năm. Khi đó chỉ có những linh hồn đã giác ngộ mới được tái sinh trong thể xác của giống dân thứ năm, và họ sẽ sống hòa bình dài lâu trong vương quốc của các vị thần. Nhưng tính từ thời điểm chuyển giao thế kỷ đến nay đã hơn 12 năm trôi qua, mọi sự điều bình yên; và liệu có phải như mọi người đã hiểu, với lời tiên tri này ông ta bị thất bại hoàn toàn? Tiên tri về ngày tận thế Hơn bốn mươi năm đi vào giấc ngủ thôi miên để tiên tri, rất nhiều lần Cayce nói nhân loại sẽ sớm chịu “ngày phán xét, và Chúa Giesu sáng sinh lần thứ hai trong năm 1998. Cho đến nay, rất nhiều nhà nghiên cứu Cayce cho rằng ông đã dự đoán sai, khi chẳng có một dấu hiệu nào cho thấy ngày đền tội đã đến. Còn theo người viết, có nhiều người trong chúng đã nhầm lẫn khi tưởng tượng rằng, Chúa cùng các thiên thần sẽ cưỡi mây đáp xuống Trái đất làm “chủ tọa” vào năm 1998. Sự giáng lâm ở đây là việc đầu thai trong một thể xác mới, và nếu Chúa tái sinh vào năm này thì ắt hẵn hiện giờ Ngài vẫn còn là một đứa trẻ. Nostradamus cũng tiên tri về sự xuất hiện của một người và tôi tin đó là Chúa, “Vào năm 1999 và bảy tháng, từ bầu trời sẽ xuất hiện vị Đại Vương gây sợ hãi. Ông ta sẽ gợi lại hình ảnh của vị vua người Mông Cổ. Cả trước và sau thời điểm này, thời đại tranh giành không thể kiểm soát”. Tại sao phải đến “từ bầu trời”, Nostradamus ám chỉ điều gì, theo người viết câu này nói về một linh hồn tiến hóa ngụ ở thiên đường và đầu thai xuống trái đất vào năm 1999; và hình tượng vị vua gây sợ hãi của người Mông Cổ có thể là Thành Cát Tư Hãn. Khi dự đoán hai nhân vật “chống Chúa” trước đây, Nostradamus đã dùng biện pháp đảo từ, hoán vị ký tự, chơi chữ…để giấu thông tin. Ông gọi Napoleon là Napaulon Roy, Hitler là Hister, và kẻ chống Chúa cuối cùng có tên “Mabus” – một từ ngữ rất Đông Âu? Chống chúa không phải là chống lại Giáo hội Thiên chúa giáo hay Vatican, mà Chúa trong lời tiên tri này là một biểu tượng thuộc về tâm linh, sự thánh thiện… nghĩa là có ai đó hoặc tổ chức nào lôi kéo số động đi ngược lại tình yêu thương, gieo rắc thù hận, hay kích động chiến tranh. Cayce dự báo trong một tương lai không xa, con người sẽ trở về lối sống tâm linh và ứng dụng nó rất nhiều vào cuộc sống của mình. Tuy không nói rõ thời điểm nào điều nào xảy ra, theo người viết có lẽ nó sẽ đến sau ngày tận thế. Theo giả thuyết tận thế của Cayce, phần đông nhân loại sẽ bị thanh lọc qua thảm họa thiên nhiên và chiến tranh. Cuộc chiến thế giới lần thứ III, được ông mô tả có khởi đầu từ cuộc xung đột gần eo biển Davis, tại Ai Cập, Ankara (Thổ Nhĩ Kỳ), Syria; các khu vực của Úc, Ấn Độ Dương và vịnh Ba Tư. Liệu có phải dấu hiệu chiến tranh đã lộ diện, khi ngay từ đầu năm hàng loạt bất ổn xã hội đã xảy ra tại Ai Cập, Tunisia,… và vùng đất Libya đang có nguy cơ đứng bên bờ nội chiến. Theo tin tức từ các hãng truyền thông, ông Đại tá Gaddafi có tính tình lập dị và từng ôm mộng làm ông trùm cả vùng đất Châu phi. Nay thì cơ hội trở thành vua của ông tuy mong manh, nhưng khi bị phe đảo chính (hay phương Tây) dồn vào thế bí có lẽ Gaddafi sẽ chọn giải pháp liên minh với Iran. Cùng với tình hình xã hội khối Ả Rập đang rối ren, và trong lúc tâm trạng quần chúng hưng phấn thì khả năng phe Hồi giáo cực đoan lên nắm chính quyền tại các nước này là rất lớn. Và nếu điều đó xảy ra, châu Âu và Mỹ sẽ đứng trước sự một sự đe dọa lớn chăng? Về các siêu thảm họa thiên nhiên trong tương lai, Cayce cung cấp nhiều thông tin không vui cho chúng ta. Ông nói khi hai núi lửa lớn Vesuvius (Ý) hoặc Pelee tái hoạt động, trong vòng ba tháng sau nhiều vùng đất sẽ ngập lụt do động đất, trong đó vùng Nam và Bắc bán cầu bị ảnh hưởng nhiều nhất. Vùng bờ biển phía Tây nước Mỹ như Los Angeles và San Francisco bị phá hũy; Nhật Bản sẽ biến mất; địa hình châu Âu thay đổi trong nháy mắt. Và đặc biệt hơn, nhiều vùng đất bị chìm xuống đái biển trước kia sẽ trồi lên. Sau cơn mưa trời lại sáng Sau thời gian biến động lớn của nhân loại, một tân kỷ nguyên thiên về tâm linh sẽ xuất hiện trên địa cầu. Khi đó toàn bộ môi trường xã hội, kinh tế, mối quan hệ… sẽ được thay đổi hoàn toàn. Một vùng đất Atlantis mới sẽ tồn tại trong một ngàn năm, cùng với những linh hồn giác ngộ chuẩn bị cho bước tiến hóa cuối cùng. Trong một lần tự soi kiếp cho mình, Cayce thấy ông được đầu thai vào khoảng năm 2100 ở Nebraska, một thành phố ở phía Tây có bờ biển. Ông được sinh ra trong một gia đình có cái tên rất lạ lùng, và ngay lúc nhỏ ông vẫn còn lưu giữ được ký ức trong tiền kiếp của mình ở nước Mỹ. Ông tuyên bố, chừng 200 năm trước đây ông chính là Edgar Cayce, một nhà tiên tri người Mỹ lừng danh. Nhiều nhà khoa học thời đó tìm đến Edgar Cayce kiếp sau, và hỏi ông những chuyện về quá khứ. Edgar Cayce mô tả những người này đeo hạt chuổi dài, ít tóc, đeo kính dày. Và Edgar Cayce đã dẫn họ tìm lại vùng đất Mỹ xưa kia mà ông từng sinh sống và làm việc như Kentucky, Alabama, New York, Michigan, và Virginia. Cayce thấy mình đi cùng các nhà khoa học trên một con tàu kim loại có hình dáng điếu xì-gà, và bay với tốc độ rất nhanh. Từ trên bầu trời cao ông nhìn thấy một phần Alabama bị chìm xuống biển; còn Norfolk, Virginia, trở thành một hải cảng. Thành phố New York không biết bị tàn phá bởi chiến tranh hay động đất mà chỉ còn lại đống tro tàn, một khu vực đang được xây dựng lại. Kỷ nghệ phát triển ở cả vùng nông thôn. Nhà cửa chủ yếu xây dựng bằng kính. Và nhiều tài liệu ghi công việc tiên tri trước đây của Cayce được tìm thấy. Những dự đoán đúng trong quá khứ của Cayce liệu có đủ sức thuyết phục cho chúng ta rằng “ngày tận thế” không quá xa lắm, chỉ tối đa 90 năm nữa hay không? Xem tiếp kỳ 3. Luật luân hồi nhân quả qua các linh hồn được Cayce soi kiếp.1 like
-
Thời Giờ
Lãn Miên liked a post in a topic by Minh Xuân
Câu cuối dịch sai nghĩa rồi! Câu này lấy ý từ Kinh Thư, Nghiêu điển: " ...mệnh Hy thúc trạch Nam Giao...". Nên dịch: Phương Nam khai phá nhất là Thuấn Nghiêu.1 like -
1 like
-
Tướng Mạo
Phuoc liked a post in a topic by Lốc Cốc Tử
Tiếp theo phần Sắc thái bàn tay . B/ NGÔI SAO TRONG LÒNG BÀN TAY NÓI LÊN ĐIỀU GÌ ? C / CÁC CÙ LAO TRONG LÒNG BÀN TAY NÓI LÊN ĐIỀU GÌ CHƯƠNG BA CÁC ĐƯỜNG CHỈ CHÍNH TRONG LÒNG BÀN TAY Thường thì các nhà xem tướng tay ít khi xem các phần tôi đã trình bầy ở trên mà chỉ đi sâu vào các đường chỉ tay . Đó là một thiếu sót mà chúng ta cần lưu ý không được bỏ qua . Các ngôi sao , các cù lao . các hình tam giác . . . thường không xuất hiện trong suốt cả cuộc đời mà chỉ xuất hiện trong một thời gian nhất định , nó là điềm báo trước vận hạn hoặc điềm may mắn của người đó , nếu người xem phát hiện , nắm bắt được thì phần luận đoán mới chính xác . Ngay cả các đường chỉ tay tôi trình bầy tiếp theo đây cũng có thay đổi theo thời gian , cứ sáu tháng ta nên xem lại . Duy có các đường chỉ chính ít thay đổi ( Ít thay đổi chứ không phải là không ). Những đường chỉ chính là : _ĐƯỜNG SINH ĐẠO _ĐƯỜNG TRÍ ĐẠO _ ĐƯỜNG TÂM ĐẠO Sau đó là đường Định Mạng , đường Sinh Đạo Đôi . Và như tôi đã trình bầy ở phần đầu , ta phải lưu ý xem cả hai bàn tay . Có nhiều người ở bàn tay không thuận xuất hiện đường Định Mạng ( Nhiều người còn cho là Đườnh Sinh Đạo Đôi ) , nhưng ở bàn tay thuận lại xuất hiện đường này . Vậy ta phải luận đoán là thời kỳ còn nhỏ ít được gia đình quan tâm ( Có thể do hoàn cảnh nhà nghèo , hoặc lý do nào đó . . . ) nhưng lớn lên , bước ra cuộc sống lại có sự giúp đỡ của nhiều người . . .Hoặc có nhiều người ở bàn tay không thuận 3 đường Sinh Đạo , Trí Đạo , Tâm Đạo tách bạch , riêng rẽ từng đường . Nhưng ở bàn tay thuận thì hai đường Trí Đạo và Tâm Đạo lại hòa nhập thành một dường , lại chạy xuyên suốt ngang bàn tay . ta phải hiểu rằng đây là một người sẽ và đã làm nhiều công việc mà người khác không dám làm . ( Cộng với nhiều yếu tố khác tại khuôn mặt , đôi mắt .v . v.mà ta luận đoán mức độ việc làm của họ : Nhẹ thì buôn lậu , trộm cắp , nặng thì dám cướp của , giết người . . .Có những người 3 dường nói trên tách bạch nhưng có một đường chỉ nhỏ nối từ Tâm Đạo sang Trí Đạo , người này khi ra cuộc sống sẽ có ngững mối tình ngang trái , ở bàn tay không thuận cũng như vậy thì người này chắc chắn cũng đồng ý , thuận lòng với mối tình đó . Hoặc sẽ có những việc làm lẫn lộn giữa lý trí với tình cảm . Trước khi đi vào phần chi tiết của các đường chỉ tay , tôi sẽ trình bầy khái quát về các đường chỉ đó . 1/ Đường chỉ rộng : Người này thiếu chiều sâu của sự xét đoán , sự suy nghĩ không sâu sắc , kiến thức có thể rộng nhưng chung chung . 2/ Đường chỉ mập mờ : Người này trong cuộc sống không xác định dứt khoát , thiếu ý chí , không nhất định . Tuổi thọ có thể ngắn ngủi . 3/ Đường chỉ sâu : Là người dám làm , gan góc , dám lăn lộn trong cuộc sống , già dặn kinh nghiệm . Nếu chẳng may bị vấp ngã cũng tự mình vượt qua được . 4/ Đường chỉ mỏng , nhưng tất cả các đường đều như vậy :Cuộc sống của người này thanh thản , ít gập trở ngại trong cuộc đời .( Tất nhiên là phải cộng với yếu tố có ít đường cắt ngang các đường chỉ chính .) 5/ Đường chỉ rõ ràng : Người có suy nghĩ và công việc , việc làm tốt , ít bị sai lệch . 6/ Đường chỉ vừa mờ vừa ngoằn nghoèo : Là người đa nghi , thâm hiểm , thiếu dứt khoát . 7/ Đường chỉ hay bị cắt : Là người lắm tai họa , hay gập nguy nan , lắm bênh nhiều tật . CÒN TIẾP . . .1 like -
Tôi có đọc được vài mãng tin trên báo ,có nhiều người đàn bà đến 49t -50t mà vẫn sanh con tự nhiên và khỏe mạnh cũng có người người sanh đôi nữa chứ ! Năm nầy thấy bạn có nhiều sao hỹ tín ,nếu vợ không có bầu thì chắc bạn có bồ nhí ?1 like
-
1 like
-
Sg Ngập Nắng
+Achau+ liked a post in a topic by Nắng
@khangduong: Tết này mà ra được HN, thế nào a CM cũng xuống HP. 2 mẹ con e cứ khỏe để còn tiếp đón nhé :huh: http://www.lyhocdongphuong.org.vn/forum/public/style_emoticons/default/happy.gif http://www.lyhocdongphuong.org.vn/forum/public/style_emoticons/default/happy.gif . Mà thu xếp được thì 2 mẹ con chị gái e cũng sẽ bám càng xuống thăm e và Haji. @Hạt Gạo Làng: Cô em khangduong hồi đầu năm nhờ Nắng nhờ huynh trưởng xem tử vi, huynh trưởng Nắng đã nói năm nay T11 sinh e bé. Khi có bầu, cô bé nửa tin nửa ngờ, vì đúng ngày đúng tháng sẽ sinh vào T10 chứ ko thể sang T11, nhất là con so thường sinh sớm. Không ngờ, thai hiện bị già quá 41 tuần và thực tế là sang T11. Sự vi diệu của huyền thuật mới bao la cỡ nào??? Thai già nên khangduong cũng khá lo lắng, Nắng chỉ có thể tư vấn về cách sinh cho ko mất sức, cách chăm con chăm mẹ, thực đơn bà mẹ, ... nhưng chờ mãi mà bé vẫn chưa ra đời. Bởi vậy, khangduong có nguyện vọng xem ngày giờ đẹp để có thể mổ và rất tin tưởng vào huyền thuật bởi câu chuyện Nắng nói trên. Bật YM, thấy có a online nên Nắng mạo muội nói khangduong nhờ a là thế. Dù Nắng biết, biết ngày giờ đẹp là một chuyện, còn có đẻ hoặc mổ được đúng ngày giờ đã chọn hay không còn phụ thuộc vào ý trời.1 like -
Theo tôi biết muốn tính ngũ cách, phải biết số nét chữ tạo nên cái tên đó. Với chữ Hán thì dễ tính số nét hơn. Nhưng với chữ Việt (hiện đại) thì không hiểu bác P/A tính số nét thế nào? Quy về chữ Hán để tính? Mong được chỉ giáo.. Đa tạ.1 like
-
Bài này sưu tầm từ website http://tuvinghiemly.com do Haidang - một thành viên tài năng và nhiệt huyết trong làng lý số xây dựng. Mời các ACE quan tâm đến Tử bình cùng "ngâm cứu" và bàn luận. Hình Thức và Chổ Đứng cũa Tứ Trụ Tứ trụ Dương chủ sự cỡi mỡ, thành thật và có sức khỏe. Tứ trụ Âm chủ về kín đáo, mật, cẫn thận và nhiều lý trí. Tứ trụ thuần Dương làm cho đương số rất thẵng thắn, can đãm, đáng tin cậy và dấn thân hết mình cho lý tưỡng. Nhiều người tuẫn tiết, chết vì lý tưỡng đều rơi vào trường hợp này. Họ là những người rất trung thành. Tuy nhiên, có một sự đòi hỏi là phải sinh trong tháng Dương (tháng mùa Xuân và mùa Hè). Những trụ Dương này phãi được xác thực với đầy đũ Dương lực mới có thể phát uy được sức mạnh, uy quyền. Người sinh trong tháng Âm (trụ Dương, nhưng sinh trong tháng mùa Đông, mùa Thu) thiếu sự can đãm đễ đứng ra bão vệ chủ thuyết, lập trường. Dưới đây là thí dụ của một người hy sinh cho cách mạng. Tên tuổi được nêu danh. Tuy nhiên, không ở trong địa vị cao bỡi vì sinh trong tháng Tuất (Âm vì sinh vào tháng mùa Thu) Giáp Tuất Giáp Tuất Giáp Dần Giáp Tuất Tứ trụ thuần Âm là người tính toán, kín mật, cẫn thận và rất dễ thân thiện. Những người này không bao giờ lộ ra bất đồng ý kiến với ai. Luôn luôn giữ sự nhận xét cho chính mình. Và hay hơn nữa là hoạch định kế hoạch và đi đến mục đích mà không làm tổn thương ai. Họ giữ mình trong một khuôn khổ riêng của họ. Tuy nhiên, sự đòi hỏi là phải sinh trong tháng Âm (tháng mùa Thu, mùa Đông). Nếu sinh trong tháng Dương (mùa Xuân, mùa Hè) thì người đó sẽ đôi lúc nóng nãy và rất ích kỹ. Đây là kết quã của sự bất dung hòa trong trụ. Hãy nhớ rằng: tất cã những sự tốt chỉ đến nếu tứ trụ được dung hòa (harmony), ngay cả bản tính của con người. Ví dụ dưới đây là của một vị quan Trung Hoa rất uy quyền. Người này rất thông minh, xão quyệt, nhiều thủ thuật. Suốt đời chỉ dôc tâm đễ được làm vua, và thành công lên ngai vàng, nhưng chỉ được 83 ngày. Không có Dương lực trong trụ, quã là khó có thể ở trên ngai vàng được lâu dài. Kỹ Mùi Quý Dậu Đinh Tị Đinh Mùi Những người có trụ Dương ở ngoài (ở trụ năm và trụ giờ), trụ Âm bên trong (trụ tháng và trụ ngày) là người thích giao du, xã giao, chia sẻ, ân cần chăm sóc, nhưng giữ sự mong muốn cho chính mình. Đây là những người hoạch định rất cẩn thận và hưỡng thụ. Ngược lại, những người có trụ Âm ở ngoài, trụ Dương bên trong thì bề ngoài rất là dể đồng ý cho bất cứ vấn đề gì, nhưng không bao giờ thay đổi thành kiến, ý nghỉ. Đừng bao giờ dụ dổ họ chấp nhận những trào lưu, tư tưỡng mới. Thí dụ dưới đây là của 1 vị quan Tàu quyền lực rộng rãi và giàu có. Canh Thìn Ất Dậu Quý Mão Canh Thân Tứ trụ có sự xen kẽ vị trí của trụ Âm, trụ Dương là người có kỹ luật và trách nhiệm. Họ là người công bằng và sẵn sàng bão hộ cho việc đó khi hoàn cảnh cho phép. Họ cũng kiễm soát bãn thân họ và là người bạn tốt. Đa số những người có cách này đều thành công, và khá giã. Thí dụ dưới là của 1 bộ trưỡng tài chánh Trung Hoa. Rất giàu có và đầy quyền lực. Giáp Ngọ Ất Hợi Canh Thìn Kỹ Mão Môn Tử Bình có nhiều thứ tinh diệu, có thể dùng một cách đơn giản. Trong bài đăng duới đây của Oak_HN, chúng ta thấy danh sách các cặp thiên can và chi phối hợp với nhau là cách khó khăn trong hôn nhân, thuờng là do quan hệ của mình đối với bên chồng hay vợ. Hải Đăng thực chứng cách dùng trụ ngày thấy có xuất hiện 1 trong các cặp ghi ra trong bài của Oak_HN. Tuy nhiên nếu cung vợ chồng trong lá số Tử Vi khá tốt thì sự khó khăn đó có thể thông qua, và hôn nhân cũng đặng tốt nếu đuơng số lập gia đình trể, bị trải qua hoàn cảnh như mô tả. Theo thiển ý, cách khó khăn trong lúc tìm đối tuợng hôn nhân hay cảnh bất ưng trong gia đình thuờng xãy ra khi trụ ngày trúng cách Âm Duơng Lệch Lạc, còn nếu các trụ khác trúng cách đã ghi thì chúng ta không nên vội cho là sẽ bị như vậy. Quan Hệ (relationship): Tân Mão, Nhâm Thìn, Quý Tị, Bính Ngọ, Đinh Mùi, Mậu Thân, Tân Dậu, Nhâm Tuất, Quý Hợi, Bính Tý, Mậu Dần, Đinh Sửu. Những người có trụ như trên có thể sẻ có bất hòa với bên vợ, bên chồng (in-laws). Hoặc khó khăn tìm được đối tượng. Những trụ này có thể có sự bất hòa trong gia đình đưa đến sự đổ vở. Tình trạng nặng hay nhẹ cũng còn tùy thuộc vào vị trí của trụ và bao nhiêu trụ trên trong lá số tứ trụ. Xấu nhất là trụ ngày có 1 trong những trụ trên (Ngày Âm Dương). Nếu trong trụ có 2 trụ trên hoặc nhiều hơn, và 1 là trụ ngày có thể dẩn đến sự bất hòa với bên vợ, chồng hoặc con ghẻ (step children) thường xuyên. Biết để mà tránh . (Hết)1 like