• Thông báo

    • Bá Kiến®

      Nội quy Lý Học Plaza

      Nội quy này là bản mở rộng Nội Quy - Quy định của Diễn đàn. Khi tham gia mua bán, các thành viên phải tuân theo những quy định sau: Tiêu đề bài viết: Bao gồm: Chỉ dẫn địa lý, Loại hình Mua/Bán, Thông tin mua bán.
      Chỉ dẫn địa lý: Tỉnh/thành nơi mua bán. Hoặc sử dụng định nghĩa có sẵn:TQ: Toàn quốc
      HCM: TP Hồ Chí Minh
      HN: Hà Nội
      [*]Ví dụ: HCM - Bán Vòng tay Hổ Phách ​Nội dung bài viết: Mô tả chi tiết sản phẩm mua/bán
      Bắt buộc phải có thông tin liên lạc, giá Mua/Bán
      Bài mới đăng chỉ được phép up sau 03 ngày.
      Thời gian up bài cho phép: 01 ngày 01 lần.
      Các hành vi vi phạm nội quy này sẽ bị xóa bài hoặc khóa tài khoản mà không cần báo trước.

Leaderboard


Popular Content

Showing most liked content on 05/03/2011 in all areas

  1. Đây là phần mềm thiết kế nhà 3D rất tiện dụng, có tùy chọn giao diện tiếng Việt luôn. Rất hay và dễ sử dụng. http://heanet.dl.sou...1.0-windows.exe Em đã thử xài phần mềm này, và đã vẽ lại cấu trúc ngôi nhà của mình. Nhân tiện nhờ các anh chị tư vấn cho em luôn. HiHi. Nhà em có hướng 105 độ. Chủ nhà Mạng Ly 1957. Phía sau nhà là con sông rộng khoảng 30m. Phía trước có phần nhà tạm, tiếp đó có con đường cắt ngang rộng 20m. Đây là nhà em. Anh chị xem dùm và tư vấn em sửa lại ntn. http://www.mediafire...nnax6g4ybwtn6mv Em cảm ơn nhìu.
    3 likes
  2. ÁP DỤNG PHONG THỦY LẠC VIỆT CHO MỘT CỬA HÀNG CÓ VỊ TRÍ XẤU Đó là một buổi sáng đầu tháng 9 Âm năm Canh Dần_Sau khi đã nhận lời hẹn gập _, cô gái có dáng người thấp béo,tôi thầm đoán chắc cô nặng phải đến 65 ký, mạnh dạn bước vào nhà và tự giới thiệu :” Cháu là Tr. cháu có hẹn với chú sáng nay đến gập chú, để nhờ chú giúp về Phong Thủy cho cửa hàng”. Theo lời kể của cô gái, tôi nhận thấy cô có hoàn cảnh éo le về tình cảm và hiện giờ cả vật chất cũng gặp khó khăn. Quê cô ở Đường Lâm, một địa danh văn hóa cổ nổi tiếng ở Sơn Tây, tình duyên khá lận đận. Sau khi hỏi tuổi cô ta, tôi cho biết :” Cháu sinh 1975, Át Mão thuộc cung Cấn, Tây Tứ Trạch, cháu nên chọn cửa hàng có những hướng sau : Tây, Tây bắc, Đông bắc hoặc Đông nam, còn các hướng khác không hợp tuổi “. Cô trình bầy với thái độ cương quyết :”Cháu tin lời chú, nhưng cháu rất bức xúc với gia đình nhà chồng, nên cháu đã hỏi thuê được một căn nhà mặt phố rất gần với nhà chồng, nhưng lại hướng Nam, cháu muốn chứng minh cho họ biết rằng họ đã sai khi đuổi cháu ra khỏi nhà và phần nữa là cháu muốn gần với hai đứa con, chú cố gắng giúp cháu.” Cuối cùng tôi cũng nhận lời. Vì đã biết địa chỉ, nên trên đường tôi quan sát từ xa và tìm hiểu chung quanh vị trí của cửa hàng với bán kính 200 mét. Tôi nhận thấy cửa hàng tuy nằm ở vị trí đắc địa, khu vực này cũng có nhiều vượng khí, nhưng trong vòng bán kính nói trên có những 14 cửa hàng cùng bán cơm._Nếu mở thêm cửa hàng cơm nữa thì sự cạnh tranh cũng khó khăn đây_Tôi thầm nghĩ. Sau khi xác định tâm của cửa hàng, tôi phân chia cung bát trạch theo tuổi cung Cấn và nói với cô chủ :”Hướng của cửa hàng nằm giữa Nam và Tây Nam là không hợp, vì theo Phong Thủy Lạc Việt phải đổi chỗ Tốn và Khôn cho nhau thì Tây nam cũng là hướng không hợp với cháu ”. Cô chủ nói ngay:”Cháu không biết Tốn, Khôn là cái gì mà cháu cũng chẳng cần biết, chú cứ chỉ sao, làm việc gì là cháu làm vậy! cháu chỉ biết rằng hiện nay các cơ sở kinh doanh nào mà nhờ thầy coi Phong thủy thì thấy làm ăn khấm khá cả.” Tôi suýt bật cười vì sự tin tưởng và chân chất của cô, nhưng vì vậy mà cũng dễ làm việc, đỡ phải giải thích. Cô còn cho biết thêm là chủ nhà có nhà ở nơi khác, nhà này để cho thuê, đã nhiều người thuê nhưng đều không ở được lâu vì không làm ăn được. Ngõ nhỏ và 2 cột đèn đâm vào trước cửa hàng Cửa hàng cháu bị một cái ngõ trước mặt đâm thẳng vào vàhai cái cột đèn bên kia đường chắn trước cửa, cho nên cháu phải làm cho chú hai việc. _Một là trước lối ra vào phải trộn cát và xi măng đánh một vòng cung để xung khí của ngõ trước cửa nhà đâm vào gập vòng cung không đâm thẳng vào nhà đựoc mà tỏa sang hai bên. Vòng cung chắn trước cửa đẩy xung khí hắt sang hai bên Hai là cắt kính rồi chồng lên nhau treo trên cao để hắt xung khí của ngõ đó vàbẻ cong hai cái cột đèn bên kia đường không cho luồng sát khí chiếu vào nhà Đứng ở cửa hàng nhìn raVượng khí đi từ trái qua phải theo thuận của giao thông tượng trưng cho dòng nước chẩy, cháu phải xây cho chú một cái gờ mục đích chặn Vượng khí và hắt nó vào nhà Còn nữa, trước cửa nhà có cái cống to, cháu phải xây một cái gờ nhỏ để Vượng khí không trôi tuột đi. Vào bên trong cửa hàng, tôi dặn :”Cháu phải treo gương suốt từ ngoài vào trong để tiếp thêm vượng khí lan tỏa khắp cửa hàng. Trước đây, chủ cũ chắc đã nhờ một ông thầy Phong thủy nào đó bắt xây các gờ ngăn từng phòng, làm cho Vượng khí không vào sâu trong bếp ở cuối nhà, mà đối với cửa hàng ăn uống thì quan trọng nhất lại là cái bếp, nên cháu phải đập hết các gờ chắn ngăn các cửa lại". Gương treo tường để tăng cường sinh khi. Bàn và ghế phải đặt như vậy mới đúng Cháu cần cắt một tấm gương ở vị trí này để hắt Vượng khí lên tầng trên, có như vậy những người sống ở tầng trên mới khỏe mạnh và còn góp phần cho khách sẽ đông ở tầng trên. Dưới gầm cầu thang này cháu phải thu dọn cho sạch sẽ và đặt ở góc gầm một hũ muối rang, mục đích dung hòa âm dương của cái hốc này. Đây là khu đặt bếp cũ của chủ nhà, cháu không được đặt ở đây vì bị bế khí, cháu phải xây một cái gờ chặn lại và đặt các bếp ở bên ngoài, Và nếu cháu muốn khỏe mạnh , giảm cân, cháu phải đặt tất cả các bếp đều quay về một hướng. Chú biết rằng các bếp thỉnh thoảng phải di chuyển để dọn dẹp cho sạch sẽ, nhưng khi đặt bếp xuống lại phải cùng quay về một hướng như cũ. Khu bếp cũ không được dùng vì bị bế khí. Tất cả bếp phải quay về một hướng. Đó là hướng SINH KHÍ. Sau khi dặn dò cả hướng bàn thờ và hướng giường nằm của chủ nhân, tôi an tâm ra về. Sau hơn một tháng, cửa hàng đã rất đông khách. Hịên nay, chủ nhân phát triển cả lên tầng trên them 30 ghế nữa mà cũng không còn chỗ. Không những bán tại chỗ mà các công ty liên tục gọi đến đặt cơm hộp: “ Alô, 15 suất mang đến công ty A phải không? Xin có ngay” Phòng trong cũng chật ních khách, tác giả không dám chụp trực diện, phải chụp trong gương hắt lại vì sợ khách đang ăn phản đối Tác giả kiểm tra lại cách bố trí của cửa hàng áp dụng theo phong thủy Lạc Việt Cô chủ hiện này còn 52 kg, sút từ 65kg -> 52kg sau 3 tháng
    3 likes
  3. Ý NGHĨA NGÀY LỄ HAI BÀ TRƯNG Bác sỹ Nguyễn Xuân Quang Nguyễn Xuân Quang's blog Hàng năm cứ tới ngày mồng 6 tháng 2 âm lịch người Việt, nhất là phái nữ, con cháu hai Bà Trưng, tổ chức lễ tưởng nhớ hai Bà. Có thể là ngày mồng 6 tháng 2 âm lịch này không phải là ngày hai Bà Trưng trầm mình xuống sông Hát. Ngày này cũng không phải là ngày sinh nhật của hai Bà và cũng không phải là ngày hai Bà lên ngôi vua. Vậy thì tại sao, tổ tiên chúng ta lại chọn ngày này để làm lễ tưởng nhớ hai Bà? Tại sao trong một năm có 360 ngày (tính theo âm lịch) tổ tiên ta lại chọn ngày này? Hiển nhiên ngày này phải liên hệ tới hai Bà. Vậy trước hết ta hãy tìm hiểu sơ qua một chút về dòng dõi hai Bà. Theo lịch sử, hai Bà Trưng là con cháu, dòng dõi vua Hùng Vương. Hùng Vương đóng đô ở Phong châu. Lê Ngô Các, Phạm Đình Toái, đã ghi lại rành rành trong Đại Nam quốc sử diễn ca: Bà Trưng quê ở châu Phong, Giận người tham bạo thù chồng chẳng quên. Chị em nặng một lời nguyền, Phất cờ nương tử, thay quyền tướng quân… Như thế hai Bà Trưng quê ở châu Phong thuộc dòng dõi Hùng Vương. Hai Bà khi lên ngôi đóng đô ở đất Mê Linh. Về ngôn ngữ học Mê-Linh là một từ phát gốc từ một từ cổ Việt. Theo tác giả Trần Quốc Vượng, ông dựa vào các nghiên cứu tổng hợp các tài liệu lịch sử, ngôn ngữ và truyền thuyết dân gian, Mê (Ma, Minh, Mi) Linh là Mling. Mling, mlang (cặp tên có tính chất lấp láy) theo tiếng của các dân tộc Tây nguyên có nghĩa là một loài chim… Mọi tài liệu đều nói lên một cách thống nhất huyện đó, bộ lạc đó, khi xưa mang tên một loài chim Mling với một thị tộc (bào tộc) gốc thờ chim làm vật tổ. Đó là bộ lạc gốc thời Hùng Vương dựng nước (Hùng Vương Dựng Nước, tập I, tr.154). Đúng như giáo sư Trần Quốc Vượng nói, trong dân ca Ê-Đê có bài hát nhắc đến tên loài chim này: Anh đến từ nơi xa, Anh mang theo chim mơ-linh từ nhà, Chim mơ-lang từ buôn. Anh nghĩ rằng em là con gái chưa tơ vương… (Vũ Ngọc Phan, Tục Ngữ, Cao Dao, Dân Ca, Việt Nam). Nhưng giáo sư Trần Quốc Vượng và các tác giả viết về ca dao này không biết rõ chim mơ-linh, mơ-lang là chim gì, chỉ giải thích một cách tổng quát là một loài chim to, lông đen, phía dưới cánh trắng hay lông nâu. Vậy chúng ta thử nhận diện xem thứ chim mling mlang này là chim gì? Tên chim có trong ngôn ngữ các tộc Tây nguyên mà ta đã biết rằng một số tộc Tây nguyên có liên hệ mật thiết với một số tộc ở Mã Lai, Nam Dương và ngôn ngữ Việt Nam liên hệ với ngôn ngữ Mã Lai, Nam Dương, như vậy ta hãy tìm tung tích chim mling, mlang này trong ngôn ngữ Mã Lai xem sao? Trong từ điển Malay-English Dictionary của R.J. Wilkinson có từ lang: a generic name for hauks, kites and eagles (một tên chủng loại chỉ diều hâu và ó, ưng). Như thế chim lang, chim linh chỉ chung loài mãnh cầm, loài chim mang hùng tính biểu tượng cho đực, dương, phái nam, mặt trời. Điểm này ăn khớp trăm phần trăm với hai từ lang và linh trong Việt ngữ. Việt ngữ lang là chàng, con trai. Chàng còn có nghĩa là chiếc chàng, chiếc đục (chisel). Chàng, đục là vật nhọn biểu tượng cho bộ phận sinh dục phái nam, cho đực, dương. Linh ruột thịt với Ấn ngữ linga (bộ phận sinh dục nam). Linh biến âm với đinh theo kiểu linh đinh. Đinh là con trai, thanh niên như tráng đinh, lễ thành đinh. Rõ ràng chim mlang, mling là chim lang, chim chàng, loài chim mang biểu tượng cho đực, dương, hùng tính, mặt trời. Ta thấy rất rõ tổ Hùng Vương gọi là quan lang (tiếng nôm Tầy quan có nghĩa là chàng), theo qui luật từ đôi có nghĩa như nhau (Tiếng Việt Huyền Diệu), ta có quan = lang = chàng. Như thế chim lang là chim chàng (trai, đục) chim biểu của các lang Hùng Vương. Ngoài ra từ hùng có một nghĩa chỉ chim đực (thư hùng). Lang Hùng có chim biểu là chim lang, chim hùng. Chim lang, chim hùng theo nghĩa tổng quát như đã thấy ở trên là loài mãnh cầm biểu tượng cho nọc, đực, dương, mặt trời. Theo ngày nay đó là loài diều hầu, ưng ó. Nhiều quốc gia hiện nay dùng loài mãnh cầm này làm chim biểu tượng cho quốc gia, ví dụ Hoa Kỳ lấy loài chim bald eagle làm quốc biểu. Tuy nhiên đối với Đại tộc Việt dòng dõi thần mặt trời Viêm Đế có vua tổ Hùng Vương, tức Vua Mặt Trời Hừng Rạng (Khai Quật Kho Tàng Cổ Sử Hừng Việt) thì chim Lang, chim Hùng (thuộc loài mãnh cầm) là chim tổ tất phải là chim Việt. Việt có nghĩa là vọt (que, nọc), vớt (dao dài), vác (mác), Việt biến âm với viết (que nhọn dùng để vạch, vẽ, viết trên đất sét, đá, vỏ cây, giấy), Hán Việt Việt có một nghĩa là rìu, búa nhọn. Tổng quát Việt là vật nhọn biểu tượng cho đực, dương, măt trời. Vậy chim lang, chim hùng là chim Việt, chim rìu. Chim có mỏ to như chiếc rìu là chim mỏ cắt (bồ các). Vì vậy trong Việt ngữ chim cắt còn gọi là chim rìu. Anh ngữ chim cắt gọi là “chim mỏ sừng” hornbill” trên đầu có mũ sừng. Mường ngữ gọi chim cắt là chim khướng. Khướng biến âm với Khương (Sừng). Chim cắt chim khường là chim khương, chim sừng. Theo truyền thuyết thần mặt trời Viêm Đế thủy tổ của Viêm Việt (Đế Minh là cháu ba đời thần mặt trời Viêm Đế) có họ Khương (sừng) nên có chim biểu là chim (mỏ) sừng hornbill, chim cắt. Hùng Vương có khuôn mặt tạo hóa đội lốt Viêm Đế nên cũng có chim biểu là chim Rìu, chim Việt, chim Cắt Hornbill thuộc loài chim lang, khoang trắng, sặc sỡ (lang có một nghĩa là trắng). Ta thấy rất rõ chim lang (chim hùng, chim Việt) là chim chàng (có một nghĩa là chisel) là chim đục, chim rìu, chim Việt, chim cắt (bồ các), chim tổ của Viêm Việt, của Đại tộc Việt. Điểm này ăn khớp trăm phần trăm với Mã Lai ngữ langling: the Southern pied hornbill (chim cắt có lông sặc sỡ, nhiều màu ở miền Nam). Tóm lại chim Mê Linh, mling, mlang, chim lang, chim chàng, tổng quát là chim mang hùng tính biểu tượng cho ngành, tộc dương, lửa, mặt trời. Đối với Đại tộc Việt là chim Lang, chim Chàng, chim Hùng, Chim Rìu, Chim Việt, chim Cắt, chim tổ của người Việt mặt trời rạng ngời Hừng Việt, là chim biểu của vua tổ mặt trời hừng rạng Hùng Vương ngành Lửa, thần mặt trời Viêm Đế. Hai Bà Trưng thuộc dòng ngoại Lửa Âu Cơ, nhánh Hùng Lửa, Hùng Kì thuộc dòng dõi ngành Hùng Vương-Viêm Đế vì thế mới đóng đô ở Mê Linh. Do đó ngày lễ mồng 6 tháng 2 âm lịch bắt buộc phải liên hệ với Hùng Vương. Bắt buộc. Bắt buộc. Và bắt buộc. Trong Ca Dao Tục Ngữ, Tinh Hoa Dân Việt và nhiều lần khác, tôi đã chứng minh những ngày giỗ Tết, vía, kỷ niệm trong văn hóa Việt Nam như ngày lễ Lạc Long Quân, Hùng Vương, Thánh Dóng vân vân… đều chọn ngày tháng theo Dịch lý. Vì vậy ngày lễ hai Bà Trưng bắt buộc cũng phải chọn theo Dịch lý. Vì hai Bà là dòng dõi Hùng Vương nên ngày này tính theo Dịch phải dựa vào bản thể của Hùng Vương. Hùng Vương đẻ ra từ một cái bọc trứng mang hình ảnh bọc Trứng Vũ Trụ nên có bản thể là bọc, bầu vũ trụ, bầu trời, khí gió ứng với Đoài. Ở cõi tạo hóa, Đoài là bọc khí gió và ở cõi thế gian là bọc nước ấm, ao đầm (Việt Dịch Bầu Cua Cá Cọc). Như vậy ngày 6 tháng 2 phải liên hệ với bản thể Đoài của Hùng Vương. Theo Dịch, những giỗ,Tết, vía, kỷ niệm thường có ngày tháng là một kết hợp âm (số chẵn) dương (số lẻ) ví dụ ngày giỗ tổ Hùng Vương là ngày 10 (âm) tháng 3 (dương). Nhưng ở đây ngày 6 tháng 2, cả hai số đều là số chẵn tức số âm. Tại sao? Xin thưa, vì hai Bà Trưng là phái nữ nên ngày lễ hai Bà đều là hai số âm. Hai số âm cũng cho biết hai Bà thuộc dòng ngoại Âu Cơ của Hùng Vương. Thật vậy, ngày 6 theo Dịch số 6 là số Tốn, OII (gió âm). Âu Cơ, theo dòng Lửa, có một dòng máu Tốn nên có một khuôn mặt là chim vì thế bà mới đẻ ra một bọc trứng chim nở ra trăm Lang Hùng. Tốn OII là khuôn mặt âm ngược của Đoài, IIO, theo dương Dịch, Tốn hôn phối với Đoài. Tháng 2 với số 2 là số Khảm. Khảm 2 là một số chẵn, số âm nằm ngay phía bên tay trái của số 3 (Đoài) nên số 2 là khuôn mặt âm của số 3 (Đoài) (Đoài 3 là Đoài vũ trụ có một khuôn mặt tạo hóa là bầu khí gió vũ trụ). Kiểm chứng lại, ta cũng thấy rất rõ số 2 mang khuôn mặt Đoài qua ma phương Đoài 3/18: Ma phương 3/18 (lưu ý trong ma phương này số 1 còn tương đương với 10 và số 2 tương đương với 11). Xin nhắc qua một chút về ma phương (magic square). Ma phương là gì? Nói nôm na giản dị là hình vuông thần kì có 9 ô, trong mỗi ô có một con số. Đọc theo tất cả các chiều, 3 con số cộng lại đều bằng nhau. Ma phương 3/18 có con số 3 là con số trục nằm ở ô giữa hình vuông và cộng các con số theo các chiều lại bằng 18 (lưu ý trong ma phương này số 1 còn tương đương với 10 và số 2 tương đương với 11). Như đã biết trăm Lang Hùng đẻ ra từ bọc Trứng Vũ Trụ nên có mạng Đoài vũ trụ. Số 3 là số Đoài vũ trụ ứng với ma phương 3/18. Ma phương này cho thấy rõ mồn một là số 2 = 11. Số 11 là số Đoài thế gian (theo Dịch, số 3 là số Đoài tầng 1 tức Đoài vũ trụ và số 11 = 3+8 là số Đoài tầng 2 tức Đoài thế gian, nên nhớ là cộng 8 vì các tầng cách nhau 8 quẻ). Đoài thế gian số 11 là khuôn mặt âm tức số 2 của Đoài vũ trụ số 3. Ngày 6 (Tốn) hôn phối với Đoài và tháng 2 (Khảm) là khuôn mặt âm của Đoài vũ trụ 3 và tương đương với Đoài thế gian 11. Rõ như hai năm là mười là ngày lễ hai Bà liên hệ với bản thể Đoài của Hùng Vương. Một lần nữa cho thấy muốn hiểu thông suốt văn hóa Việt ta phải dựa vào Dịch lý để tìm hiểu. Không nhìn dưới lăng kính Dịch học thì không bao giờ hiểu thấu triệt được văn hóa Việt. Tóm lại hai Bà Trưng dòng dõi Hùng Vương nên ngày lễ hai Bà mồng 6 tháng 2 âm lịch là ngày tháng liên hệ với hai khuôn mặt tạo hóa (hay truyền thuyết) và thế gian (hay lịch sử) của bản thể Đoài Trứng Vũ Trụ của Tổ Hùng Vương. Tài Liệu Tham Khảo .Trần Quốc Vượng, Hùng Vương Dựng Nước, NXB KHXH, Hà Nội, 1972, tập I, tr.154). .Lê Ngô Các, Phạm Đình Toái, Đại Nam quốc sử diễn ca. .Vũ Ngọc Phan, Tục Ngữ, Cao Dao, Dân Ca, Việt Nam. .R.J. Wilkinson Malay-English Dictionary. .Hoàng Triều Ân, Từ Điển Chữ Nôm Tầy, NXB KHXH, Hà Nội 2003. .Nguyễn Xuân Quang: -Khai Quật Kho Tàng Cổ Sử Hừng Việt (Y Học Thường Thức, 1999). -Ca Dao Tục Ngữ, Tinh Hoa Dân Việt (Y Học Thường Thức, 2002). -Tiếng Việt Huyền Diệu (Hừng Việt, 2004). -Việt Dịch Bầu Cua Cá Cọc (Hừng Việt, 2006).
    2 likes
  4. TƯỚNG MẠO PHẦN BA A _ĐƯỜNG SANH ĐẠO : _Nếu bị đứt quãng hay bị nối tiếp : Sức khỏe kém, dễ phát sinh bệnh tiêu hóa . _Nếu xuất phát cao sát với ngón trỏ : Đây là người tự phụ, kiêu căng có nhiều tham vọng và biết cách thỏa mãn tham vọng đó . _Nếu xuất phát thấp gần nơi ngón cái : Ngược lại . _Nếu cuối Đường Sanh Đạo rẽ về gò Thái Âm : Người này bôn ba nay đây mai đó , khó khăn lắm mới ổn định được cuộc sống . _Nếu rất ngắn, cuối đường lại có ngôi sao hoặc chữ thập : Phải tu tâm nhiều , nếu không dễ bị chết “ Bất đắc kỳ tử “. _ Nếu to, rộng lại đậm nét : Đây là người độ lượng, có nhiệt tâm giầu lòng nhân ái . _ Nếu bị thu hẹp : là người ích kỷ, hẹp hòi, lạnh nhạt . _Nếu Đường Sanh Đạo bị vấn như ruột gà : Dễ bị đau mắt hay cận thị, có thể sau này dẫn đến mù lòa . _ Đường Sanh Đạo bị nhiều nét nhỏ chắn cắt ngang : Người này nhiều tai nạn, lắm thất bại có nhiều lo âu . _ Đường Sanh Đạo có nhánh rẽ ; có thời bị thần kinh ( Thời gian bị tùy thuộc vào chỗ rẽ .) _Đầu Đường Sanh Đạo có một cù lao: Cuộc sống tình cảm có chuyện bất hạnh . có con ngoại hôn . _ Đường Sanh Đạo bị một đường từ gò Kim Tinh cắt ngang : Người nàycó trắc trở trong hôn nhân, nếu có kèm theo hình vuông thì hôn nhân dễ tan vỡ . _ Đường Sanh Đạo như dây xích : Cuộc đời nhiều khổ não, đau khổ . _Đường Sinh Đạo rộng mầu nâu thẫm : Người này hung bạo , hoang dâm . _ Đường Sanh Đaọ rõ ràng hồng hào : Người ưa làm việc phải , nhân đạo · LƯU Ý : _ Các chỉ tay ở bàn tay không thuận : nói rõ những chỉ định thiêng liêng sẽ xẩy ra _ Các chỉ tay của bàn tay thuận nói rõ những việc thực tế đã xẩy ra và sẽ xẩy ra . B_ ĐƯỜNG TRÍ ĐẠO *Phải nghiên cứu cả hai bàn tay . _ Đường Trí Đạo sâu , rõ ràng, thẳng, hồng hào : Là người sâu sắc có trí nhớ tốt, giầu lòng nhân ái, ham hoạt động xã hội . _ Đường Trí Đạo rộng, cạn, không rõ ràng : Là người thiếu tự tin, nông cạn, nhẹ dạ, dễ tin người . _ Đường Trí Đạo gẫy khúc : Dễ bị xáo trộn về thần kinh, nếu lại kèm theo có cù lao thì chắc chắn sẽ bị bệnh về thần kinh, tâm thần . _Đường Trí Đạo khởi nguồn từ Đường Sinh Đạo : Ý trí người này thiếu tự tin, nhút nhát . Làm việc hay phụ thuộc người khác . Nhưng nếu hồng hào và thẳng, rõ ràng lại át được yếu tố phụ thuộc . _Đường Trí Đạo kéo dài, thẳng chấm dứt ở dưới ngón út vàkhoảng giữa Đường Sinh Đạo : Là người giầu kiến thức, tự tin, nhiều tham vọng, sẽ vượt qua được khó khăn để đạt được tham vọng. _Đường Trí Đạo xuất phát dưới ngón trỏ và không dính vào Đường Sinh Đạo : Người này từ nhỏ đã có tính tự lập, giúp được việc gì đó cho gia đình ( Thí dụ gia đình có nghề phụ cũng góp tay làm việc ). Có ý trí và sau này đủ năng lực dẫn đến thành công . _ Đường Trí Đạo chạy dài và cong về phía gò Thái Âm cộng với bàn tay yếu : Người này giầu tưởng tượng, mơ mộng, ham kiểu cách, xa hoa . Giầu yếu tố tâm linh , nếu quá sâu sẽ là người có thể đồng bóng, mê tín dị đoan nặng. Nhung chạy thẳng về gò Thái Âm; Lại là người có năng khiếu về âm nhạc, vũ điệu . _ Đường Trí Đạo chạy cong về gò Thủy Tinh : Là người thực tế, có khả năng về kỹ thuật . Nếu cộng với bàn tay hẹp là người bất chấp mọi dư luận để đạt được tham vọng . Nếu bàn tay khỏe sẽ bớt được tính bủn xỉn nhưng vẫn đầy tham vọng . _ Đường Trí Đạo có đường nối sang Đường Tâm Đạo : Người này trong cuộc đời có nhiều mối tình ngang trái , lén lút và sễ cvó những việc làm lẫn lộn ý chí lẫn tình cảm . _ Đường Trí Đạo và Đường Tâm Đạo hòa làm một lại chạy ngang suốt bàn tay : Nếu cả hai bàn tay đều như vậy thì đó là bàn tay của HIT LE, NAPÔLEÔNG dám làm những việc lớn để cuộc đời một là tuyệt đỉnh vinh quang hay là lên đoạn đầu đài . Nếu chỉ có ở bàn tay không thuận thì người này chỉ có hoài bão mà không có điều kiện thực hiện . _ Đường Trí Đạo rất ngắn, đậm chỉ đến gò Đồng Hỏa Tinh ; Người này thô lỗ và hay phản phúc . C_ ĐƯỜNG TÂM ĐẠO *Đường này hay thay đổi so với Đường Sanh Đạo và Trí Đạo. Biểu lộ tâm tính, tình cảmvà tư cách của con người. _Một Đường tâm Đạo tốt có mầu hồng hào, sâu đậm và rõ rang không gút mắc, không gẫy. Đó là biểu hiện của người có ý chí, bền gan và chin chắn. _ Đường Tâm Đạo mỏng là người có tính lạnh nhạt, thờ ơ kiểu “ phớt AngLê “. Nhưng người nào có tất cả các đường chỉ đều mỏng thì lại dễ mến, đó là người ôn hòa . _ Đường Tâm Đạo sâu, ngoằn ngoèo : Là người hay thay đổi, ham mê dục vọng nhưng chỉ trong một thời gian ngắn. Hay say mê dục vọng, hay thay đổi nhân tình. Người nào có đường như vậy lại có nhiều đường chỉ cắt ngang sẽ gặp bất hạnh trong ái tình và trong hôn nhân . _ Đường Tâm Đạo có nhiều nhánh nhỏ chạy về đường Trí Đạo : Là người hay có xáo trộn về tình cảm nhất là về ái tình . _ Người có đường Tâm Đạo chạy thẳng qua lòng bàn tay : Là người đa cảm mù quáng trong tình ái, là người sẵn sàng dùng mọi thủ đoạn để xâm chiếm người khác xong rồi bỏ, dù phải mất danh dự. Chiếm đoạt xong thì bỏ. _Đường Tâm Đạo xuất phát gần ngón trỏ : Càng gần ngón trỏ người đó càng thanh khiết, trong sạch . Nếu càng xa ngón trỏ lại là người càng tìm về dục vọng. _ Đường Tâm Đạo xuất phát từ ngón trỏ và ngón giữa: Là người mực thước, thủy chung . _ Một số người có dường Tâm Đạo xuất phát từ 3 nhánh : +Một nhánh dưới ngón trỏ. +Một nhánh từ gò Thổ Tinh. +Một nhánh từ giữa ngón trỏ và ngón giữa. Đây là người có đường Tâm Đạo rất tốt, là người mực thước luôn đúng mức trong tình cảm và trong mọi quan hệ giao tiếp. _ Đường Tâm Đạo ngắn chỉ tới gò Thổ Tinh : Dễ chết non, chết yểu . _Đường Tâm Đạo chỉ tới ngón đeo nhẫn: Là người tự phụ, tự cao. _Đường Tâm Đạo chạy tới giữa ngón đeo nhẫn và ngón út :Biển lận , keo kiệt. _ Đường Tâm Đạo cắt Trí Đạo :Sẽ bị bệnh tâm thần . _Đường Tâm Đạo dài, chạy suốt ra hẳn mép ngoài rìa bàn tay : Nam thì rất đào hoa, những người khác giới cảm thấy dễ gần. Nữ mà có dường như vậy lại là người có tình yêu thầm kín và rất hay ghen ngầm. _ Người nào ở cuối đường Tâm Đạo gặp dính vào Trí Đạo sẽ có ái tình xằng bậy , có thể dẫn tới loạn luân. _ Người nào ở cuối cả hai đường Tâm Đạo và Trí Đạo đèu tách làm hai nhánh : Là người thông minh mưu lược nhưng nếu cần họ cũng rất xảo trá. _Người nào có dường Tâm Đạo ở cả hai tay đều sâu lại gút mắc và ngắn : Là người hung bạo sát nhân, nếu ở bàn tay gồ ghề thì càng đúng . _ Đường Tâm Đạo có nhiều gạch chéo : Là người hay gặp trắc trở trong tình yêu, hôn nhân . hay bị xáo trộn tình cảm hoặc tan vỡ hôn nhân . CÒN TIẾP….. _
    1 like
  5. 1 like
  6. T­ướng tốt thông minh, dĩnh ngộ, có tính tự tin cao tài lập luận sắc bén, nói (hơi nhiều) có tài tổ chức, phóng khoáng không thực giàu có nhưng làm được lãnh đạo,một số chức vị nhỏ..........
    1 like
  7. Hoàng nt viết: Tại sao bạn biết "thiên hà, núi đá, biển, sông hồ... không thể nhận thức chính nó" ? Trịnh Công Sơn đã viết: "Về sau sỏi đá cũng cần có nhau" mà.
    1 like
  8. Lấp giếng mắt rồng và ngôi làng có nhiều người điên 05/03/2011 08:03:26 - Từ khi 1 trong 9 chiếc giếng mắt rồng bị lấp tự dưng có rất nhiều điều không bình thường đã xảy ra. Người tin thì cho rằng đó là hệ lụy của việc phỉ báng thánh thần nhưng người không tin thì khẳng định đó chỉ là sự trùng lặp ngẫu nhiên. <br style="font-weight: bold;"> TIN LIÊN QUAN Bí ẩn "Cửu long cửu tỉnh" <br style="font-weight: bold;"> Tưởng vợ là gà, mài dao đòi… thịtTrưởng thôn Đọi Nhất, ông Trần Kim Hạ cho hay: Cả thôn chỉ có 800 nhân khẩu với khoảng 200 nóc nhà mà tính sơ sơ cũng đã hàng chục người bị điên. Đấy là số còn sống chứ nếu tính cả những người đã vĩnh biệt cõi trần thì khá nhiều. Không biết làng tui ăn phải cái gì mà lụi bại dần mòn ghê gớm như vậy? Nói rồi ông Hạ sốt sắng dẫn chúng tôi đến từng nhà có người bị tâm thần để tự mục sở thị. Ông Hạ luôn trăn trở về nguyên nhân gây bệnh tại thôn Đọi Nhất. Gia đình ông Trần Đăng Điều ở gần cuối thôn có 3 thế hệ mắc bệnh tâm thần. Em gái ông là bà Trần Thị Mến (61 tuổi) không biết vì sao, tự dưng phát bệnh rồi cuồng loạn "hát hò như ma nhập". Bao nhiêu năm nay, chữa trị khắp nơi cứ khỏi lại bị ngày một nặng hơn. Con trai ông Điều, anh Trần Đăng Lượng to khỏe vạm vỡ, nước da bánh mật mai mái là kết quả của những đêm nằm gió hứng sương. Từ khi sinh ra, Lượng lớn nhanh vù vù, thông minh hiếu học... Đến năm 22 tuổi bỗng dưng có vấn đề, suốt ngày hết khóc lại cười vật vã. Gia đình đưa Lượng đi chữa trị ở bệnh viện một thời gian, bệnh tình đỡ hẳn, anh lấy được vợ, sinh được 2 con bụ bẫm. Thế rồi, một đêm mùa đông giá buốt, Lượng nhìn vợ mình mà tưởng là gà, xuống bếp mài dao đòi... thịt. Gia đình lại lục tục đưa Lượng đi chữa trị tại Bệnh viện Tâm thần TƯ I (Thường Tín, Hà Nội). Khi bệnh tình thuyên giảm, Lượng về nhà và được vợ tảo tần chăm sóc. Ấy thế, mà vợ anh không phải là gà nữa mà lại biến thành một con... lợn rừng. Lượng lừ đừ xuống bếp, lấy dao phay chém giữa đầu vợ rồi cười khanh khách. May sao lúc ấy, gia đình đưa cô con dâu cấp cứu kịp thời. Ông Điều cho biết, giờ thì bệnh tình Lượng đỡ rồi nhưng vẫn không giấu được cái ngây ngô. Thấy chúng tôi cầm máy ảnh, Lượng cười toét miệng xin chụp vài kiểu kỷ niệm. Lượng khoe, "em chém vợ một lần rồi nhá, thế mà nó không chết anh ạ! Em được đi Thường Tín 8 lần, Cao Đà 5 lần, chắc lại sắp đi nữa đấy". Thấy con nói thế, ông Điều giải thích, đấy là nó đi điều trị ở Bệnh viện Tâm thần Thường Tín 8 lần, Bệnh viện Tâm thần Cao Đà 5 lần. Ông Điều không giấu giếm, ông linh cảm rằng đứa con của Lượng cũng sẽ chẳng khôn ngoan gì vì giờ đây, cháu đang có những biểu hiện giống y hệt cha nó khi mới phát bệnh. Chưa tìm được sự giải thoát Cách nhà ông Điều vài mái ngói là gia đình của 2 anh em dị nhân Trần Đăng Chiến - Trần Thị Bảo. Hôm chúng tôi đến, anh Chiến đã bỏ đi lang thang đâu đó từ sáng sớm. Chị Bảo yếu hơn, chỉ ngồi một góc sân cười khó hiểu. Chị Bảo sinh năm 1953 nhưng chỉ cao chưa đầy 1m. Khuôn mặt già ngô nghê, từ khi sinh ra đến giờ không biết làm gì để ăn. Cậu anh tên Chiến cũng vậy, suốt ngày chỉ ngơ ngác lang thang hết nghĩa địa này đến nghĩa trang khác. "Vừa rồi xã có làm cho hai anh em ngôi nhà tình nghĩa khang trang nhưng hầu như chẳng bao giờ thấy họ ở trong nhà", ông Hạ cho hay. Nằm ở vị trí đắc địa, giữa thôn có ngõ vào dài lát gạch đỏ là hộ ông Trần Văn Dư có mẹ già là cụ Lê Thị Huệ đã 83 tuổi bị bệnh tâm thần. Ông Dư cho biết, bà cụ bị bệnh đã lâu lắm rồi, con cháu đưa đi chữa trị hết bệnh viện này đến bệnh viện khác mà không khỏi. Các bác sĩ cho biết, bà cụ bị thần kinh mãn tính không thể chữa khỏi. Anh Đinh Trọng Phong (Lác) Trong khi chúng tôi đang nói chuyện tại nhà ông Dư thì một cậu bé hớt hải chạy đến báo tin cho ông Hạ trưởng thôn, rằng nhà anh Lác đang có chuyện. Khi chúng tôi có mặt, một thanh niên đang vơ bát đũa ném tứ tung, đập phá đồ đạc trong nhà. Sau một hồi lựa thế, ông Hạ đã khống chế được anh thanh niên đó. Đó là Đinh Trọng Phong (người làng hay gọi là Lác) sinh năm 1967, bị tâm thần phân liệt khá nặng. Cảnh la hú đập phá ở làng điên không phải là điều xa lạ. Thứ xa lạ với họ là sự yên bình của một vùng quê. Thế cho nên, người Đọi Nhất từ bao nhiêu năm nay luôn đi tìm nguyên nhân để giải thoát cho làng khỏi tiếng điên. Hết nguyên nhân này đến tác nhân khác được đặt ra... Nhưng trong đó, nguyên nhân mắt rồng bị lấp được nhiều người tin hơn cả. Trần Hòa - Quách Dương
    1 like
  9. Quý anh /chị lấy lá số thì mới xem được.
    1 like
  10. Vấn đề con cái hoặc hôn nhân có thể gặp khó khăn hoặc gặp nhiều chắc chở, khổ đau.
    1 like
  11. Hình Bóng Mẹ Tổ Âu Cơ ở Bảo Tàng Viện Lịch Sử, Hà Nội Bác sỹ Nguyễn Xuân Quang Nguồn : Nguyễn Xuân Quang's blog Theo truyền thuyết, Mẹ Tổ Âu Cơ sinh ra một bọc trứng nở ra Trăm Lang Hùng. Nhưng có lẽ chưa một người Việt Nam nào nhận diện ra được hình bóng Mẹ Tổ Âu Cơ đẻ ra bọc trứng này trong khảo cổ vật. Tôi đã tìm thấy Mẹ Tổ Âu Cơ sinh ra một bọc trứng hiện đang được trưng bầy tại Bảo Tàng Viện Lịch Sử, Hà Nội. Trước hết, muốn tìm ra hình bóng Mẹ Tổ Âu Cơ ta phải biết rõ Thần Tổ của loài người nói chung được diễn tả như thế nào? Hình bóng Mẹ Tổ Âu Cơ nói riêng được diễn tả ra sao? Có biết rõ được hình bóng của Mẹ Tổ thì chúng ta mới nhận diện ra được Mẹ Tổ Âu Cơ trong cổ vật. Xin nhắc lại ở đây, tôi đã viết nhiều lần, cốt lõi của văn hóa Việt là Vũ Trụ giáo, mặt trời giáo và Việt Dịch nòng nọc còn ghi rõ trong Sử Sách (Khai Quật Kho Tàng Cổ Sử Hừng Việt), trong Sử Miệng (Ca Dao Tục Ngữ Tinh Hoa Dân Việt) và trong Sử Đồng (Giải Đọc Trống Đồng Âm Dương Đông Nam Á, sẽ phát hành vào cuối tháng năm tới đây). Mẹ Tổ Âu Cơ bắt buộc phải mang trọn vẹn ý nghĩa cốt lõi của văn hóa Việt, phải là biểu trưng của văn hóa Việt Nam. Xin nhắc sơ qua một chút về Vũ Trụ giáo dựa trên nòng nọc âm dương. Vũ trụ khởi đầu từ Hư Vô (Vô Cực) rồi có âm có dương nhưng hãy còn quyện vào nhau tức Trứng Vũ Trụ hay Thái Cực (theo âm dương nhất thể, đây là một khuôn mặt của Bọc Trứng của Mẹ Tổ Âu Cơ). Trứng Vũ Trụ phân cực thành Lưỡng Nghi tức phân ra âm, cực âm (vũ) và dương, cực dương (trụ) (theo duy dương của Trăm Lang Hùng, ứng với hai ngành Cha Nước, Mẹ Lửa). Âm dương giao hòa sinh ra Tứ Tượng. Tứ Tượng âm và Tứ Tượng dương gom lại thành bát tượng ứng với Bát Quái của Dịch. Tứ Tượng âm và dương liên tác với nhau sinh ra vũ trụ, muôn loài gọi là Tam Thế, được biểu tượng bằng một cây, gọi là Cây Tam thế, Cây Vũ Trụ, Cây Đời Sống. THẦN TỔ LOÀI NGƯỜI Cây Đời Sống sinh ra sự sống, muôn sinh, trong đó có con người là chủ thể. Như đã biết qua các bài viết trước, Cây Đời sinh ra đời sống thấy rất rõ qua ngôn ngữ học. Việt ngữ Sống liên hệ với Cây. Trong tiếng Việt, từ sống có ít nhất ba nghĩa: sống là sự sống (life), sống là đực (male) như gà sống và sống là cột, cây như cột sống là xương cột trụ, xương sống là cột xương, sống lưng là cột lưng ăn khớp trăm phần trăm với Anh ngữ vertebral column. Như thế sống trong Việt ngữ vừa có nghĩa là Sự Sống và vừa có nghĩa là Cây, cột ăn khớp trăm phần trăm với nghĩa của Cây Đời Sống sinh ra sự Sống. Như đã biết trong giáp cốt văn từ Sinh khắc hình cây có nghĩa là mọc (grow), ruột thịt với mộc là cây. Giải tự Hán ngữ Sinh, ta có chữ tam (ba) có ba nét ngang ứng với Tam Thế và một nét thẳng đứng xuyên qua chữ tam là Trục Thế Giới. Chữ tam và nét thẳng đứng biểu tượng Cây Đời Sống. Cây này sinh ra sự sống trong đó có con người vì thế nét ngang trên cùng của chữ tam có thêm một nét phẩy ở bên trái. Nét ngang có thêm dấu phẩy này chính là chữ nhân có nghĩa là người. Rõ ràng chữ sinh diễn tả Cây Đời Sống sinh ra chữ nhân, con người. Con người là biểu tượng cho sự sống cho muôn sinh vật. Từ sống có một nghĩa là cây, cột là vậy. Con người là tiểu vũ trụ con của đại vũ trụ. Đại vũ trụ được biểu tượng bởi Cây Vũ Trụ, Cây Đời Sống, vì thế thần tổ loài người phải do Cây Đời Sống sinh ra. Điều này thấy rõ qua truyền thuyết cổ Việt-Mường là Dạ Dần, Mẹ Người (Mường ngữ Dạ là người đàn bà đã có con, là mẹ, Dần biến âm với dân, nhân là người) là Mẹ tổ của Mường Việt nói riêng và nói chung là của cả loài người do cây si sinh ra. Cây si thuộc họ cây đa, biểu tượng cho Cây Vũ Trụ, Cây Đời (người Thái ở Nghệ An có cây đa là Cây Vũ Trụ) (xem Cây Đa Rụng Lá Sân Đình trong Ca Dao Tục Ngữ, Tinh Hoa Dân Việt). Tín đồ Thiên Chúa tôn thờ chiêm ngưỡng cây giáng sinh vào ngày sinh của Chúa, một vị Thần Tổ của loài người. Cây giáng sinh hiện nay được giải thích theo nhiều cách nhưng nhìn dưới diện Vũ Trụ Tạo Sinh, hiển nhiên cây giáng sinh mang hình ảnh của Cây Đời, Cây Vũ Trụ sinh ra Thần Tổ loài người nên mới được chiêm ngưỡng tôn thờ trong ngày sinh của Chúa. Con người do Cây Đời Sống, Cây Vũ Trụ sinh ra, vì thế con người đầu tiên, con người nguyên khởi (primordial being) hay thần tổ loài người (Supreme Being) nói riêng (và cả con người nói chung), được biểu tượng bằng hình người giống hình cây. Tôi gọi là “người-cây vũ trụ” hay người vũ trụ. Dấu vết Người hình Cây còn thấy trong văn hóa của người Inuit (trước đây người Inuit được các tộc khác gọi là Eskimo, có nghĩa là Tộc Người Ăn Cá Sống) ở vùng Bắc Cực (Canadian Artic, Alaska, Greenland). Inuit có nghĩa là Người. Inuit liên hệ với Man, Mán, Mường (Mol) chúng ta vì Man, Mán, Mường cũng có nghĩa là Người. Họ có cách vẽ quang tuyến X (Xray painting) trông thấy các phần, các bộ phận bên trong của người, thú, vật giống như thổ dân Úc châu nghĩa là cùng một cách vẽ Xray của người Đông Sơn thấy trên trống đồng âm dương. Người Inuit có những kiến trúc thiêng liêng thường làm bằng những hòn đá chồng lên nhau gọi là Inuksuk (số nhiều là Inuksuit) có nghĩa là Giống Hình Người (human-like stone structures). Inuk có nghĩa là “human being”. Kỷ vật Inuksuk của người Inuit tác giả mua ở vùng Canadian Rocky Mountain. Ngày nay con cháu người Inuit giải thích Inuksuk là “Things that can act in the place of human being” hay “to act in the capacity of a human”. Các hình tượng Dạng Người này thường dùng như những chỉ thị, những mốc địa danh, bảng hiệu ví dụ như dùng để đánh dấu đường về, chỉ chỗ có thể tìm được thức ăn, nơi dự trữ đồ ăn, thực phẩm. Inuksuit cũng có thể sử dụng để chỉ những chỗ thiêng liêng, cõi chết, nơi có sự tái sinh, nơi thần linh ở. Như thế, thật sự ra hình tượng Dạng Người này của tộc Người (Inuit) ta phải hiểu tới tận nguồn cội mới chỉnh. Hình Inuksuk này cũng trông giống hình cây. Đây chính là hình ảnh của Người Vũ Trụ sinh ra từ Cây Đời Sống, hình ảnh của Thượng Đế, của Thần Tổ của con Người, Thần Tổ của Inuit, Thần Tổ của Man, Mán Mường chúng ta. Đây chính là hình ảnh Thần Tổ Dạ Dần của Mường Việt sinh ra từ Cây Si một thứ Cây Đời, Cây Vũ Trụ. So sánh người và cây ta thấy: đầu tương ứng với vòm cây biểu tượng Thượng Thế, hư không hay bầu vũ trụ, bầu thế gian; hai tay ứng với cành cây, biểu tượng cho Trung Thế, chân là gốc cây biểu tượng Hạ Thế và thân người là thân cây hình trụ biểu tượng Trục Thế Gian (với phần cổ là Núi Trụ Thế Gian). Điểm này giải thích tại sao các tộc Săn Đầu Người (Head Hunters) ở Nam Trung Hoa, ở Nam Dương (có liên hệ với người cổ Việt) chặt đầu kẻ thù làm tế vật dâng cúng Tạo Hóa, Trời Đất, Thượng Đế, Thần Tổ… Ví dụ như Cây Vũ Trụ, Cây Đời Sống của người Dayak có chiếc sọ người trên chóp đỉnh biểu tượng cho Thượng Thế, Tạo Hóa. Thờ sọ người là một thứ sùng bái thờ đấng Tạo Hóa, thờ Thượng Đế, thờ Thần Tổ loài người, Thờ Tổ Tiên, Cúng Ông Bà… thờ Cây Đời Sống, Cây Vũ Trụ. .Thần Tổ Loài Người Lưỡng Tính Phái (Bán Nam Bán Nữ). Theo đúng Vũ Trụ thuyết dựa trên âm dương, con người nguyên khởi hay thần tổ loài người sinh ra ở giai đoạn nguyên thủy từ Trứng Vũ Trụ (hạt Cây Vũ Trụ) hay Thái Cực có âm dương đề huề phải là một con người có lưỡng tính phái, có cả âm lẫn dương hay nói một cách khác phải là người bán nam bán nữ. Điều này giải thích tại sao trong nhiều nền văn minh cổ, Thần Tổ loài người là một người bán nam bán nữ hay bán nữ bán nam. Hãy lấy một vài ví dụ điển hình. Ấn giáo có vị thần tổ tối cao tối thượng là Thần Sinh Tạo, Tạo Hóa Bhrama. Để tạo ra thế giới Bhrama sinh ra bốn người con trai (sinh theo vô tính phái, tự mình tách ra làm hai, rồi hai thành bốn). Nhưng vì toàn là đực rựa nên bốn người con trai này không biết làm sao mà sinh đẻ ra các vị thần khác và loài người được. Bhrama bèn biến mình thành lưỡng tính phái, bán nam bán nữ. Lúc này Bhrama ứng với Trứng Vũ Trụ, Thái Cực do đó có dương có âm mới sinh tạo được (sinh sản theo hữu tính phái). Bhrama tạo ra thế giới gọi là Bhramanda. Bhramanda có anda có nghĩa là trứng. Bhramanda có nghĩa giản dị là Trứng Vũ Trụ Bhrama. Ta thấy rất rõ lúc Bhrama ở dạng nhất thể ứng với Trứng Vũ Trụ nên mới tạo ra được thế giới gọi là Trứng Bhrama. Đối chiếu với truyền thuyết và cổ sử Việt Bhrama nhất thể tương ứng với Viêm Đế hiệu Thần Nông còn ở dạng nhất thể (lưu ý từ hiệu cho biết Thần Nông chỉ là một thứ tên khác tức một khuôn mặt khác của Viêm Đế). Bhrama có bhra- là sáng ruột thịt với Việt ngữ Bật (làm cho sáng như bật sáng, bật đèn, bật lửa) liên hệ với lửa, lửa vũ trụ, mặt trời, cùng nghĩa với Viêm có nghĩa là Nóng liên hệ với Lửa. Viêm biến âm với Diêm (que bật ra lửa). Hiển nhiên Viêm Đế hiệu Thần Nông (nhất thể) cũng ở dạng lưỡng tính phái (Việt Dịch Bầu Cua Cá Cọc). Thần Mặt Trời Tạo Hóa Atum của Ai Cập, vào thời có Pyramid Texts, được nhận diện là Ra. Atum Nhất Thể (Totality) là một vị thần lưỡng tính nên có lưỡng phái. Atum tự nhập với bóng mình (shadow) hay thủ dâm để sinh ra các vị thần khác. Atum khạc nhổ ra con trai là Thần Không Khí Shu và ói ra con gái Teftnut. Như thế Thần Mặt Trời Ra là thần Mặt Trời Tạo Hóa, Mặt Trời Sinh Tạo (Sun as Creator), Thần Mặt Trời âm dương, Thần Mặt Trời ái nam ái nữ. Các Bodhisattvas (Bồ Tát) của Phật giáo thật sự nguyên thủy có tính vô tính (asexual) hay lưỡng tính phái, lưỡng thể. Phật Bà Quán Thế Âm (Goddess of Mercy) nguyên là một vị Bồ Tát Bhodisattva Avalokieshvara có bản thể lưỡng tính phái được giáng thế để cứu nhân độ thế. Khởi thủy ở Ấn Độ và khi mới nhập vào Trung Hoa ngài là một người nam (Đức Dalai Lama của Tây Tạng được cho là hiện thân của vị này) sau đó trở thành một người nữ. James Churchward có in lại hình một tượng người hai đầu nam nữ đào được dưới thành Karakhota, cố đô Uighur, ở sa mạc Gobi, mang hình ảnh của một Bồ Tát lưỡng phái. Người lưỡng phái mang hình bóng Bồ tát có hai đầu nam nữ đào được dưới thành Karakhota, cố đô Uighur, ở sa mạc Gobi (James Churchward). Ông Adam của Thiên Chúa giáo cũng lưỡng tính phái. Thượng Đế lấy xương sườn của ông để tạo ra bà Eva (xương sườn hình cong mang âm tính). Vì thế ta thường thấy một người ái nam ái nữ (lại cái) giữ một vai trò quan trọng trong thuật đồng bóng. Nhân vật này là hiện thân hay đội lốt Tạo Hóa, các đấng Sinh Tạo ái nam ái nữ. Với cốt này, các nhân vật đồng bóng ái nam ái nữ mới liên hệ và thay quyền hành sử của các đấng thiêng liêng ở dạng nhất thể một cách hữu hiệu hay ngay khi các thần tổ lưỡng tính phái đã phân thành hai phái riêng biệt thì với cốt ái nam ái nữ, họ cũng vẫn liên hệ với cả hai phái một cách hữu hiệu. Thần Tổ Loài Người Đơn Tính Phái Về sau Trứng Vũ Trụ hay Thái Cực phân cực thành cực âm và dương, con người lúc này có Mẹ Nguyên Khởi và Cha Nguyên Khởi. Mẹ Nguyên Khởi (Mẹ Tổ, Mẹ Đời, Tổ Mẫu, Thần Mẫu). Theo duy âm, người đầu tiên sinh ra nhân loại là một người nữ, là Mẹ Nguyên Khởi. Xã hội loài người khởi đầu theo mẫu quyền nên Cha Đời là hình bóng muộn thấy trong các xã hội phụ quyền. Chúng ta có Mẹ Đời (Dạ Dần, Âu Cơ) thuộc một nền văn hóa tối cổ. Mẹ nguyên khởi, qua dòng thời gian có các tên gọi tương đương như Mẹ Tổ, Mẹ Đời, Tổ Mẫu, Thần Mẫu, Thần Nữ, Vương Mẫu, Nữ Vương… là người nữ đầu tiên sinh ra nhân loại, là người nữ nguyên khởi, là thần tổ nữ của loài người là đấng tạo hóa, đấng sinh tạo, đấng chí tôn nữ, là mẹ tổ… Thần Tổ Nữ của loài người sinh ra từ Cây Đời Sống thường được diễn tả bằng một hình người ngồi ở tư thế sinh con hai chân dang rộng ra và hai tay đưa lên cao khỏi đầu. Xin lưu ý trong chữ viết, hình dấu nòng nọc, ngồi mang âm tính và đứng mang dương tính ví dụ trống có một nghĩa là đực, dương (gà trống) nên những người đánh trống trên trống đồng âm dương Ngọc Lũ I thường ngồi để có sự hòa hợp, hôn phối dương âm và cối mang âm tính (cối biến âm với cái) nên những người giã cối thường đứng để có sự hòa hợp, hôn phối âm dương (Chữ Nòng Nọc Trên Trống Đồng Âm Dương Đông Nam Á). Theo chính thống Mẹ Đời thường ở vị thế ngồi trong khi Cha Đời thường ở vị thế đứng (tuy nhiên trong những trường hợp không chính thống hay “rỏm”, Mẹ Đời có thể đứng và Cha Đời có thể ngồi, cần phải dựa vào các chi tiết khác như bộ phận sinh dục, vú hay các đồ trang sức như hoa tai để nhận diện). Hình ảnh Mẹ Đời, Mẹ Nguyên Khởi ở tư thế ngồi sinh con này còn thấy nhiều trong nghệ thuật nguyên sơ (primitive arts), nghệ thuật dân gian và trong nhiều nền văn hóa theo Vũ Trụ giáo, Mặt Trời giáo ở khắp nơi trên thế giới. Hãy lấy một vài ví dụ. .Các Đảo Thái Bình Dương -Indonesia .Đảo Tanimbar Mẹ Tổ tối cao, tối thượng ở một bàn thờ tổ tiên tại một ngôi nhà ở đảo Tanimbar. Bàn thờ tổ tiên ở một ngôi nhà ở Tanimbar. Vị thế ngồi sinh con và đôi hoa tai khẳng định vị tổ này là một người nữ, là Mẹ Tổ. .Đảo Celebes. Trên một chiếc quan tài đá (waroega) có hình Mẹ Đời mang ý nghĩa sinh tạo, tái sinh hay siêu thoát về miền hằng cửu. Hình quan tài đá (waroega), Minahasa, Celebes (Bertling 1931, Fig.32). Từ waroega chỉ quan tài đá có nghĩa là “nơi thân xác được cởi mở hoàn toàn” (the place where the body is unbound completely) hàm nghĩa siêu thoát. -New Guinea Hình Mẹ Đời hay Thần Mẫu thấy trên một thanh gỗ ngang của một chiếc ca-nô ở đảo Trobriand, New Guinea. Hình Mẹ Tổ trên thanh gỗ ngang của một ca-nô, đảo Trobiand, New Guinea) (theo Seligman 1910, Pl.LXV). .Úc châu Trong những hình khắc trên đá (petroglyphs) có một hình biểu tượng người đàn bà ngồi ở tư thế sinh con, ngày nay hiểu là “vong linh tổ tiên” (spirit ancestor). Hình khắc trên đá của thổ dân Úc châu hiện nay được giải thích là “spirit ancestor”. Hiển nhiên đây là hình ảnh của Thần Tổ loài người, Mẹ Tổ, Thần Mẫu, Tổ Tiên… sinh ra từ Cây Đời Sống. .Mỹ châu -Nooka Hình Mẹ Đời hay Thần Mẫu ở một ngôi nhà của tộc Nooka ở đảo Vancouver. Hình vẽ ở một nhà của tộc Nooka, đảo Vancouver (vẽ lại từ hình của Provincial Archives, Victoria, B.C.) Hai hình linh thú nước (mythical water creatures) ở hai bên có đuôi là chữ nòng nọc móc câu có nghĩa là nước mang âm tính (Chữ Nòng Nọc Trên Trống Đồng Âm Dương Đông Nam Á) cho thấy rõ thêm đây là Mẹ Đời. -Aztec Hình Thần Mẫu của Aztec ngồi ở vị thế sinh con. Đây là một ví dụ điển hình cho thấy chắc chắn một người nữ ngồi ở vị thế sinh con hai tay dơ lên trời là Thần Mẫu. Thần Mẫu của Aztec, Codex Borbonicus p.13 (theo Thompsom 1939, fig.1a) -Ecuador Hình Mẹ Đời hay Thần Mẫu trên một phiến đá của Ecuador. Thần Mẫu trên một phiến đá của Ecuador, Manibí, Ecuador. Museum of the American Indian (Saville 1910, Pl. IV,6). .Châu Phi Hình Mẹ Tổ trên một tấm phướn tác giả chụp tại khu văn hóa châu Phi ở Triển Lãm Quốc Tế International Expo, Hanover, Đức quốc vào tháng 8, 2000. .Châu Âu Ở Châu Âu hình ảnh Mẹ Đời đã bị chùi xóa gần như mất hết, ngày nay chỉ còn sót lại một vài hình bóng. Ví dụ trên đầu một cột trụ với kiến trúc thời Romanesque ở nhà thờ Piacenza ở Ý có hình Mẹ Đời tay để lên đầu hai người có mình chim ở hai bên. Hình bóng Mẹ Tổ trên đầu cột trụ kiến trúc kiểu Romanesque ở nhà thờ Piacenza (Bernheimer 1931, Fig.150). Đây là hình bóng một bà hai ông (người chim có “chim” nên là phái nam), ba vị thần tổ đầu tiên của con người thấy trong nhiều truyền thuyết sáng thế (myths of creation) giống như Nàng Kịt với Đá Cần, Đá Cài của Mường-Việt cổ. Nhiều khi hình bóng Mẹ Đời đã thay đổi (như hai tay đã buông thõng xuống nhưng vẫn có hình bộ phận sinh dục nữ). Hình sheela na Gig thường cho là có gốc từ sự thờ phượng tiền-Thiên Chúa giáo (pagan) của Ireland còn thấy trong Thiên Chúa giáo ở Anh và nhiều nơi khác ở châu Âu. Hiện nay có nhiều giả thuyết giải thích về hình sheela na Gig này. Sheela na Gig (Irish Sile na gCioch) (St Mary and St David Church, Kilpeck Herefordshire, England). Nhưng tôi thấy giải thích cho đây là Celtic Goddess of creation and destruction (Nữ Thần Tạo Hóa, Sinh Tạo và Hủy Diệt của người Celtic) hay Goddess of Fertility (Nữ Thần Mắn Sinh) là gần cận nhất với hình bóng Mẹ Đời, Nữ Thần Tổ trong Vũ Trụ Tạo Sinh. Cũng xin nói thêm ở đây là từ sheela biến âm với Việt ngữ “thì la”, “thì lẩy” (s=t như sụt = tụt) chỉ bộ phận sinh dục nữ như thấy qua bài đồng dao “Thì la, thì lẩy, Con gái bẩy nghề… (Ca Dao Tục Ngữ Tinh Hoa Dân Việt). .Châu Á -Trung Hoa Hình bóng người ngồi ở tư thế sinh con cũng thấy trong văn hóa cổ Trung Hoa. Đây có thể là dấu vết bị ảnh hưởng của các nền văn hóa mẫu hệ cổ hay họ bị “đồng hóa ngược” bởi các nền văn hóa mẫu hệ mà họ xâm chiếm vì người Trung Hoa vốn gốc là dân võ biền theo phụ hệ. Dĩ nhiên họ giải thích hình người ngồi ở tư thế sinh con này theo quan điểm phụ hệ. Ví dụ điển hình là hình Thần Tổ ngồi ở tư thế sinh con thấy trên một trống làm bằng đồng (không phải là trống đồng âm dương Đông Sơn để hở đáy) đời nhà Thương. Hình Thần Tổ trên một trống đồng kiểu nhà Thương (kỷ vật tác giả mua ở Trung Hoa). Các học giả Trung Hoa dĩ nhiên giải thích hình này theo văn hóa võ biền của họ, không cho đây là hình bóng Mẹ Đời. Tuy nhiên ta thấy rất rõ hình người này khắc trên trống mà người Trung Hoa gọi là gu (cổ) có một nghĩa là “cây” (Tục Giết Trống Đồng), liên hệ với Cây Đời Sống thì như đã thấy đây phải là hình bóng của Mẹ Đời, Mẹ Đời Sống. Xin lưu ý là thân người này hình tam giác ngược có đỉnh chỉ địa, một dạng biến thể của chữ viết nòng nọc V có một nghĩa là âm, nữ, bộ phận sinh dục nữ như đã thấy trong The Da Vinci Code mà Dan Brown gọi là chalice (The Da Vinci Code và Chữ Nòng Nọc Trên Trống Đồng Âm Dương Đông Nam Á). -Việt Nam xem ở dưới. . . . . . . Hình Bóng Mẹ Đời Trên Đồ Đồng Cổ ở Đông Nam Á: .Hình mẹ đời thấy trên: -ngôi nhà nòng không gian, vũ trụ âm có mái hình vòm ô dù trên mặt trống Sangeang Malakamau, Nam Dương. Hình Mẹ Đời trên trống Sangeang Malakamau. -trên một trống moko. Hình Mẹ Đời trên một trống moko, Nam Dương. -trên một mảnh đồng tìm thấy ở Vân nam (hiện để tại British Museum). Hình Mẹ đời trên mảnh đồng Đông Sơn, Côn Minh, Vân Nam (British Museum, 1948, 10 -13). Hình xoắn cuộn ở hai bên và hình sóng ở dưới xác định người ngồi thuộc dòng âm nước tức Mẹ Đời (xem thêm chương Hình, Dấu và Biểu Tượng trên Trống Đồng Đông Nam Á). Hình Bóng Mẹ Đời Trong Chữ Viết Nòng Nọc Trong bộ sưu tập những hình khắc trên đồ đồng Đông Sơn của nhà khảo cổ học Hà Văn Tấn mà ông cho rằng đây có thể là những chữ viết cổ, theo tôi đây chính là những chữ, những hình ngữ nòng nọc (xem chương Chữ Nòng Nọc Trên Trống Đồng). Trong những chữ này, chữ thứ ba từ trái qua phải mang hình ảnh một người đàn bà đang ngồi ở tư thế sinh con giống hình Cây Đời Sống, Cây Tam Thế. Bộ sưu tập những hình khắc như chữ viết trên đồ đồng Đông Sơn của Hà Văn Tấn. Hình Mẹ Đời có hình người đàn bà ngồi ở tư thế sản phụ khoa (obstetric position) đang sinh con với hai chân bẹt ra, hai tay giơ lên đầu (chữ số 3 từ trái qua). *Xin ghi tâm điểm này: Sự hiện diện của Mẹ Tổ, Mẹ Đời (và Cha Đời) trên trống nói chung và nhất là trên trống đồng âm dương cho thấy trống đồng âm dương mang ý nghĩa biểu tượng cho sự Sống, Con Người, Thần Tổ Loài Người, cho Cây Đời Sống, Cây Vũ Trụ, Cây Tam Thế hay nói chung, trống đồng âm dương mang biểu tượng của Vũ Trụ Tạo Sinh, Vũ Trụ giáo. CHA ĐỜI Theo duy dương hay trong xã hội phụ quyền, thần tổ của loài người là một người nam, là cha đời, tổ phụ. Người này thường đứng giơ hai tay cao lên trời (xem chương Khái Lược Về Vũ Trụ Giáo trong Giải Đọc Trống Đồng Âm Dương Đông Nam Á). Nói tóm lại hình người đưa hai tay lên đầu mang hình bóng của một hình cây, của Cây Vũ Trụ, Cây Đời Sống diễn tả con người đầu tiên của nhân loại, con người nguyên khởi, là thần tổ của loài người (ngồi ở vị thế sinh con là tổ mẫu hay đứng giơ tay cao lên trời là tổ phụ), là đấng tạo hóa, đấng sinh tạo, đấng chí tôn, là thần tổ, là tổ tiên… Hình Bóng Mẹ Tổ Âu Cơ ở Bảo Tàng Viện Lịch Sử, Hà Nội. Riêng ở Việt Nam hình bóng Mẹ Đời, Mẹ Tổ Âu Cơ cũng thấy khắc ghi lại trên các mảnh đất nung hay “Gạch trang trí người theo phong cách dân gian” hiện đang trưng bầy tại Viện Bảo Tàng Lịch Sử ở Hà Nội. “Gạch trang trí người theo phong cách dân gian” (triều Lê Trung Hưng thế kỷ 15-17?,Viện Bảo Tàng Lịch Sử ở Hà Nội). Khối đất nung để đứng cho thấy hình một người ngồi ở tư thế sinh con. Hình người mặc quần không thấy rõ bộ phận sinh dục, nên không biết rõ giống phái nhân vật này một cách trần truồng (!). Tuy nhiên theo chính thống, với vị thế ngồi sinh con thì ta phải nghiêng về phía Mẹ Đời. Mấu chốt chính ở đây là tai có đeo hoa tai. Hình tai phóng lớn cho thấy hoa tai. Hoa tai có hình chữ nòng vòng tròn và nọc que mang tính lưỡng hợp, sinh tạo, tạo hóa. Quần ở đây có dây rút thắt rất chặt không phải là thứ khố dây của phái nam, trông rất sexy kiểu Victoria secret, kín hở cho thấy phần ở hai bên đũng quần trông căng phồng khiến ta có ấn tượng đây là hai mép lớn (labia majora) của bộ phận sinh dục nữ. Vú cũng căng phồng. Mặt trái soan đầy nữ tính (mặt hình trứng cũng diễn tả người vũ trụ, sinh tạo). Mũi dọc dừa. Môi mỏng thanh tao. Đầu ngả qua một bên, mặt thanh thản, hiền thục như đang mơ, không có nhiều hùng tính, nam tính. Đầu ngả về phía bên trái (của người nhìn) tức phía âm. Rõ nhất hai bên người có hình đĩa Thái Cực, Trứng Vũ Trụ cho biết nhân vật này mang nghĩa sinh tạo, tạo hóa liên hệ với âm dương, Vũ Trụ giáo. Những chi tiết trên khiến ta nghiêng về phía nữ, Mẹ Đời. Dù gì đi nữa, thì ta cũng biết chắc chắn đây là hình ảnh của một Thần Tổ loài người có mặt trong văn hóa Việt Nam. Cũng xin lưu tâm một điểm rất quan trọng là trong tất cả các hình Mẹ Đời ngồi ở vị thế sinh con ở khắp các nơi trên thế giới chỉ có hình ở Việt Nam này là có hình đĩa thái cực hay Trứng Vũ Trụ ở hai bên. Điều này trước hết khẳng định là hình tượng này là biểu tượng cho sinh tạo, tạo hóa, là Mẹ Đời dựa trên nguyên lý lưỡng hợp, nòng nọc, âm dương, dựa trên Vũ Trụ Tạo Sinh, Vũ Trụ giáo và là ý nghĩa chính gốc, là lời giải thích căn bản cho các hình tượng này của toàn thể thế giới. Những giải thích khác của các nền văn hóa khác đều có thể là đã đi xa ý nghĩa gốc cội này của dân gian Việt Nam. Thứ đến cũng khẳng định là nguyên lý lý lưỡng hợp, nòng nọc, âm dương, dựa trên Vũ Trụ Tạo Sinh, Vũ Trụ giáo là cốt lõi của văn hóa Việt Nam còn lưu truyền trong dân gian Việt Nam. Khối đất nung để nằm cho thấy một người nữ ở tư thế sinh con đang mang bầu hình tròn hay đẻ ra một cái bọc tròn. Nhìn tổng thể bọc tròn biểu tượng cho Bầu Hư Không, Bầu Vũ Trụ, Trứng Vũ Trụ, Bầu Trời Thế Gian, Trứng Thế Gian, Bầu Sinh Tạo, Bầu Tạo Hóa (bầu có một nghĩa là mang thai). Nhìn dưới diện Tổ Hùng, đây chính là hình ảnh Mẹ Tổ Âu Cơ đẻ ra một bọc trứng chim sinh ra Trăm Lang Hùng. Một lần nữa, ta thấy rõ như dưới ánh sáng mặt trời Việt hừng rạng, qua hình ảnh Mẹ Đời, Mẹ Tổ hình Cây Vũ Trụ với “phụ đề” hai hình đĩa Thái Cực, Trứng Vũ Trụ ở hai bên và hình Mẹ Tổ Âu Cơ sinh ra bọc trứng còn thấy trên cổ vật theo “phong cách dân gian” cho thấy cái cốt lõi của văn hóa Việt là Vũ Trụ Tạo Sinh, Vũ Trụ giáo, Mặt Trời giáo và Việt Dịch Nòng Nọc. Tài Liệu Tham Khảo . A. J. Bernet Kempers, The Kettledrums of SouthEast Asia .Hà Thúc Cần, The Bronze Đông Sơn Drums .Hans Scharer, Ngaju Religion, baœn dịch Anh ngữ cuœa Rodney Needham, The Hague-Martinus Nijhoff, 1963. .James Churchward: The Lost Continent of Mu, 1969 Paperback Library Edition, Coronet Communications Inc. .Nguyễn Xuân Quang: -Khai Quật Kho Tàng Cổ Sử Hừng Việt (Y Học Thường Thức, 1999). -Ca Dao Tục Ngữ, Tinh Hoa Dân Việt (Y Học Thường Thức, 2002). -Tiếng Việt Huyền Diệu (Hừng Việt, 2004). -Việt Dịch Bầu Cua Cá Cọc (Y Học Thường Thức, 2006). -Giải Đọc Trống Đồng Âm Dương Đông Nam Á (sẽ phát hành vào cuối tháng năm tới đây). -The Da Vinci Code và Chữ Nòng Nọc Trên Trống Đồng Âm Dương Đông Nam Á (khoahoc.net 18 tháng 11 năm 2007). .Phạm Huy Thông chủ biên, Đong Son Dums In Viet Nam, The Viet Nam Social Science Publishing House, 1990). .Wang Hongyuan, The Origins of Chinese Characters, Sinolingua Beijing, 2004.
    1 like
  12. Nhà này nên sinh năm Giáp Ngọ 2014 , trai hay gái gì cũng được!!!
    1 like
  13. Tham vọng khá lộ mà cũng rất kín kẽ, những ý tưởng trong đầu còn rất khói mây, thi sĩ nửa mùa, quý cậu cần có nhiều hơn nữa về thời gian để trải nghiệm và nhìn nhận cuộc sống bằng con mắt khác. Chữ ký ắt sẽ có đổi thay trong vòng 5 năm tới. Chuyện tình cảm sẽ là tập phim chưa có hồi kết, quý cậu không nên quá coi trọng sự nghiệp hay chuyện vợ chồng.
    1 like
  14. Đồ hình này giống với của Lạc Viêt, không biết có liên quan tới dòng họ Lý của nước ta không? Đi tìm dòng họ Lý ở Hàn Quốc - Kỳ 1: Hoàng tử ra đi Khoảng 800 năm trước, sau một biến cố lịch sử, nhiều người trong dòng họ nhà Lý của đất Việt đã lên thuyền vượt biển đến xứ Cao Ly (tức bán đảo Triều Tiên). Qua bao vật đổi sao dời, dòng họ Lý ly hương đã xây dựng cơ nghiệp trên đất khách đến tận ngày hôm nay với những hậu duệ thành đạt. Phóng viên Tuổi Trẻ lần giở lại sự kiện này, đồng thời tìm gặp trực tiếp hậu duệ dòng họ Lý sinh sống tại Hàn Quốc - những người luôn mang nỗi niềm hoài hương. TT - 800 năm đã qua, giờ đây có quá ít tư liệu về sự kiện lịch sử này. Những tư liệu hiếm hoi tìm được lại ít nhiều khác nhau về dữ kiện. Hoàng tử là ai? Ngày 17-10-2006, trong bài viết “Hàn Quốc và Việt Nam ngày càng xích lại gần nhau” đăng trên website của Đại sứ quán Hàn Quốc tại VN có viết về sự kiện này như sau: “Khoảng 800 năm trước, một vị hoàng tử của VN đã phải chạy trốn sang vương quốc Goryeo, chính là Hàn Quốc ngày nay. Vua Kojong của vương quốc Goryeo (1192-1259) nồng nhiệt tiếp đón vị hoàng tử của VN cùng những tùy tùng của ông và ban tặng cho họ tên gọi “dòng họ Lý ở Hwasan” vào năm 1226”. Vị hoàng tử đó là ai? Trước khi lên đường sang Hàn Quốc tìm gặp hậu duệ dòng họ Lý ở xứ người, chúng tôi đã tìm lại nhiều tài liệu chính sử như Đại Việt sử ký toàn thư, Việt Sử tân biên, Khâm định Việt sử thông giám cương mục... để biết thêm về sự kiện này. Các tài liệu này đều viết rất rõ về các đời vua nhà Lý, song tuyệt nhiên không có một chi tiết nào nhắc đến “vị hoàng tử chạy trốn”. Riêng trong Đại cương lịch sử Việt Nam (tập I, NXB Giáo Dục 1997) có một chi tiết ngắn ngủi: “Mùa xuân năm Bính Tuất (1226), Trần Thủ Độ giữ chức thái sư thống quốc, truất bỏ ngôi thượng hoàng của Lý Huệ Tông... Trần Thủ Độ thực hiện nhiều biện pháp kiên quyết, diệt trừ thế lực còn lại của nhà Lý. Một số hoàng thân tìm cách di cư ra nước ngoài như Lý Long Tường chạy sang Cao Ly”. Triều đại nhà Lý trị vì trong 216 năm (1010 -1225) với chín đời nối tiếp nhau: Lý Thái Tổ - Thái Tông - Thánh Tông - Nhân Tông - Thần Tông - Anh Tông - Cao Tông - Huệ Tông - Chiêu Hoàng. Vua Lý Thái Tổ có công dời kinh đô về Thăng Long (Hà Nội ngày nay). Thời vua Lý Nhân Tông đạt đỉnh cao sự thịnh trị, có danh tướng Lý Thường Kiệt phạt Tống bình Chiêm, mở rộng cương thổ. Đến đời Cao Tông triều Lý bắt đầu suy yếu. Lý Huệ Tông đã chấm dứt triều Lý bằng việc truyền ngôi cho con gái (Chiêu Hoàng) và tin dùng họ Trần nên mất ngôi vào năm 1225. (Nguồn: Việt sử tân biên) Vậy hoàng thân Lý Long Tường sang Cao Ly chính là vị hoàng tử chạy trốn? Theo tài liệu lịch sử, vua Lý Anh Tông có bảy người con là Long Xưởng, Long Minh, Long Đức, Long Hòa, Long Ích, Long Trát và Long Tường. Hoàng tử Long Trát được đưa lên ngôi lúc 26 tháng tuổi, hiệu là Cao Tông, sau truyền ngôi cho con là Long Sảm, hiệu là Huệ Tông. Như vậy Lý Long Tường là con thứ của vua Lý Anh Tông, em của vua Lý Cao Tông và là chú của vua Lý Huệ Tông. Một tài liệu khác còn xác định Lý Long Tường do hiền phi Lê Mỹ Nga hạ sinh vào năm Giáp Ngọ 1174. Trở lại bối cảnh lịch sử lúc giao thời nhà Lý - Trần, vào năm 1225 Trần Thủ Độ tổ chức một cuộc đảo chính khôn khéo đưa cháu là Trần Cảnh, tức Trần Thái Tông lên ngôi, lật đổ nhà Lý lập ra nhà Trần (chính thức vào ngày 12 tháng chạp năm Ất Dậu, tức ngày 11-1-1226). Năm 1226, Trần Thủ Độ thanh trừng 300 người trong hoàng tộc họ Lý vào ngày giỗ tổ Lý Công Uẩn ở Đông Ngàn. Chính sự kiện đẫm máu này đã khiến nỗi lo sợ của Lý Long Tường (lúc bấy giờ là thân vương duy nhất nắm nhiều quyền hành, tước Kiến Bình vương) lên đến đỉnh điểm, sớm muộn gì ông cũng sẽ bị diệt trừ nên đã mang gia quyến và đội thủy quân thực hiện cuộc di cư bằng đường biển. Hành trình sóng gió Cuộc di cư vượt biển của Lý Long Tường và gia quyến có nhiều tình tiết lẫn nhiều dị bản. Theo tài liệu của Bách khoa từ điển mở Wikipedia: “Lý Long Tường đã mang đồ thờ cúng, vương miện, long bào và thanh thượng phương bảo kiếm truyền từ đời vua Lý Thái Tổ cùng sáu ngàn gia thuộc qua cửa Thần Phù, Thanh Hóa chạy ra biển Đông trên ba hạm đội. Đoàn thuyền bị bão dạt vào Trấn Sơn, huyện Bồn Tân, tỉnh Hoàng Hải, trên bờ biển phía tây Cao Ly (gần Busan ngày nay)”. Cuối tháng 10-2006, phóng viên Tuổi Trẻ đã đến cảng Busan (Hàn Quốc), có dịp xác minh qua gia phả và hậu duệ dòng họ Lý, nhưng chưa tìm được bất cứ manh mối nào cho thấy đoàn thuyền của Lý Long Tường dạt vào khu vực gần Busan. Một dữ liệu khác ở diễn đàn lịch sử - văn hóa sinh viên Đông du tại Nhật viết: “Lý Long Tường cùng với Lý Quang Bật (là em của học sĩ Lý Quang Châm đã bị Trần Thủ Độ giết trong cuộc diệt trừ dòng họ Lý) mang đồ thờ cúng chạy ra biển Đông. Một thuyền bị bão dạt vào Trung Hoa không rõ sống chết ra sao”. Theo tiểu thuyết dã sử Hoàng thúc Lý Long Tường của nhà văn, nhà nghiên cứu Kang Moo Hak thì Lý Long Tường có ghé Nam Kinh, Trung Hoa, nhưng khi ấy nhà Tống đã chấp nhận sứ thần nhà Trần (đồng nghĩa với việc công nhận vương triều mới của nước Đại Việt) nên ông đành phải tiếp tục đi tìm nơi nương tựa khác. Theo thu thập cứ liệu lịch sử của nhà văn Vũ Ngọc Tiến (Hà Nội), đoàn thuyền vượt biển của Lý Long Tường “lênh đênh trên biển gần một tháng thì gặp bão lớn, phải ghé vào Đài Loan lúc đó hoang vu, thưa vắng người. Ở đó ít lâu, người chết vì đói hoặc say sóng, bệnh tật mất già nửa. Long Tường quyết định đi tiếp, nhưng con trai là Lý Long Hiền (có tài liệu viết tên là Lý Đăng Hiền) ốm nặng, cùng gia đình và 200 thuộc hạ ở lại đảo Đài Loan”. Chính chi tiết này đã làm nảy sinh một dấu hỏi khác từ nhiều học giả quốc tế thời gian qua: liệu cựu lãnh đạo Đài Loan Lý Đăng Huy có phải là hậu duệ của Lý Đăng Hiền - con trai Lý Long Tường năm xưa không? Cho đến nay vấn đề lịch sử này vẫn còn tồn nghi. Gia phả hậu duệ dòng họ Lý tại Hàn Quốc mà phóng viên Tuổi Trẻ có được cho biết vào mùa thu năm 1226, hạm đội của Lý Long Tường đã tấp vào cửa biển Ongjin-gun (Khang Linh), tỉnh Hwanghae (Hoàng Hải) thuộc phía đông bắc bán đảo Triều Tiên. Toàn bộ đoàn thuyền còn hơn 1.000 người sống sót đều lấy họ Lý để tỏ lòng trung thành và biết ơn Lý Long Tường. TRUNG NGHĨA ___________________ Tích xưa kể rằng nhà vua Cao Ly Kojong nằm mộng thấy một con chim cực lớn bay từ phương nam đậu lại bên bờ Tây Hải, như báo điềm gặp được dũng tướng phương xa. Nhưng tại sao từ một hoàng thân thất thế chạy loạn từ nước Đại Việt xa xôi, Lý Long Tường được trọng dụng và oai phong lẫm liệt nơi xứ người? nguồn: http://tuoitre.vn/Ch...g-tu-ra-di.html
    1 like
  15. Trong vòng ba ngày nữa thì cụ rùa sẽ xuất hiện và được đưa đi cứu chữa. Nhanh thì sau khi tôi gõ xong hàng chữ này.
    1 like
  16. 1 like
  17. @hoangtho892 Có khiếu văn chương, học hành kém tập trung hay lo xa, làm việc hay nể nang. Có nhiều ý tưởng phong phú, nhưng dể xa rời thực tế. Có tâm hồn nhạy cảm, dể xúc động, dể stress. Nên tham gia sinh hoạt đội nhóm nhiều hơn. Viết câu "thần chú" này để trên đầu giường: "Ngày mai chẳng biết ra sao nữa, dù có ra sao cũng chẳng sao" Thiên Đồng
    1 like
  18. Phần tiếp theo . . . TƯỚNG MẠO 10 _ BỘ RÂU : * Râu dài như tơ : Là người phong lưu , vinh hiển .nhàn hạ . * Râu tốt , cắt lại mau dài : Về già mới nhàn hạ . * Râu sáng ánh như bạc : Người này sớm thành đạt . * Râu cứng như mác : có quyền cao chức trọng . * Râu tía , lông mày hinh lưỡi kiếm cộng với tiếng nói như chuông , thần cốt thanh kỳ : Người này có biểu hiện của sự thành đạt , chức tước cao về nghành quân chính . *Râu xoắn chôn ốc : Người thông minh , khoáng đạt . * Râu rậm mày thưa hoặc ngược lại mày rậm râu thưa : Không tốt . CHÚ Ý : 10 điều kỵ về bộ râu : _ Râu mọc dài không đúng chỗ ( Cổ , má . .). _ Không có râu ở nhân trung . _ Lông mũi thò ra tiếp với ria ( Vận khó hanh thông ) _ Râu phủ xuống miệng : bất đắc chí , khó làm ăn . _ Râu nhiều ria ít : Bôn ba , lao khổ . _ Râu rậm phủ cả xuống kín yết hầu : Người thô tục , đói khổ . _ Râu rẽ ra như đuôi chim : Người này hay gặp tai nạn . _ Râu mọc ngược cộng vối chân mày xoắn : Người hung ác . _ Râu vàng khè , khô khan : lắm bệnh , nhiều tật . _ Râu đỏ như bị cháy : Dễ bị cô độc . 11 _ PHÁP LỆNH Pháp lệnh hay còn có tên gọi khác đôn giản là Râu Thịt . Đó là một đường hằn bắt đầu từ hai cánh mũi kéo vòng cung xuống hai bên khóe miệng , có thể còn xuống nữa hai bên cằm . Vì Lốc Cốc Tử tôi “rất khiêm tốn “ về sử dụng máy vi tính, cho nên đành vẽ và viết ra giấy. Mong quý độc giả bỏ quá cho. PHẦN BA TƯỚNG PHỤ NỮ A- TƯỚNG QUÝ NHÂN . Đầu ngăy ngắn, trán tròn và rộng . Tóc đen va mượt . Mắt trong sáng lông mày thanh tú kéo dài đến cuối đuôi mắt . Quyền cốt bằng phẳng không nhô cao . Tai đầy đủ thành quách. Nhân trung rõ rệt . Răng trắng , môi hồng . Ngón tay nhỏ dài thuôn . Lúc nói , nhìn, đi, đứng , ngồi . . .mỗi cử chỉ đều dứt khoát , rõ ràng không bao giờ tất tưởi hoặc lả lơi . Thái độ cẩn trọng là tốt nhất , đẹp hay xấu là phụ . Có được những điểm trên là là điều lý tưởng đối với đàn bà . A_ TƯỚNG PHÚC HẬU . Người phụ nữ có tướng phúc hậu là người có đôi mắt sáng và dài thần thanh tú, không lộ thần .Hai tai như ép vào đầu đầy đận . Hai cánh mũi phân minh . Nhân trung dài hơi sâu . Địa các nở . Gò má rộng . Góc miệng triều thượng ( hơi nhếch lên ). Đôi bàn tay hồng nhuận . Cổ tròn . lưng đầy .Thân thể tương đối mập mạp ( Không nên nhầm lẫn với béo phì ) Đó là người phụ nữ phúc hậu và giầu có . Nhưng đang mập mạp mà tự nhiên gầy đi ( Không do bệnh tật ) thì phải đề phòng vì đó là trệu chứng sẽ mất của trong những ngày tới . C _ TƯỚNG TRINH TIẾT : Người phụ nữ có tướng trinh tiết là người có cặp mắt hai lòng đen và lòng trắng phân minh. Cái mũi đày đặn mà ngay ngắn . Tai đầy đặn . Khi cười không lơi lả . Dáng đi thong thả , bước nhẹ , thân thể ngay ngắn . tính tình nhu thuận . tiếng nói nhẹ và dễ nghe . D_ TƯỚNG KHÔNG BIẾT CAI QUẢN GIA ĐÌNH . _ Nói rụt rè như có gì mắc trong cổ họng . _ Đầu hai chân mày giao nhau. _ Sống mũi bẹt . _ Sơn căn gẫy , nói năng hàm hồ . _ Ham chơi , ham đánh bạc , hay tụ tập để mục đích “ Buôn Dưa Lê “. _ Cặp mắt lúc nào cũng như khiếp sợ . E _ TƯỚNG KHẮC PHU . - Tóc cứng cuốn rối , tóc khô hay hay vàng ệch . Lúc thiếu thời mà tóc đã rụng . - Trán dài hoặc vuông mà hẹp, trán lệch hay trán có xoáy. Trán có 3 vệt ngang chạy dài hoặc có vết dọc chạy giữa thiên trung .Trán bóng, cặp lông mày lớn . - Cặp lông mày lớn , mi thưa lông mi dựng ngược . phần cốt ở chân mày gồ cao . - Mắt đỏ , mắt vàng ,mắt cực lớn , mắt rất tròn , mắt ốc nhồi . Mắt bốn phía có lông mi trắng. - Mắt hình tam giác , da thịt quanh mắt khô . - Mũi bẹp dí , sống mũi gẫy khúc . Sơn căn có nốt ruồi . - Môi cong răng lộ , miệng rúm . - Bàn tay cực lớn , mặt vênh , xương thô . - Tiếng nói như đàn ông . - Quyền ngang , quyền cốt cao . CÒN TIẾP . . . NGUYỄN THỨC – ĐẶNG THẾ QUANG
    1 like
  19. Anh Vuivui thân mến.Toán học phát triển ở Châu Âu vượt trội so với Đông phương chỉ vài thế kỷ nay thôi - tất nhiên là xét theo quan điểm toán học hiện đại - do sự phát triển khoa học nên kéo theo Toán học phát triển. Cái bàn tính xuất phát từ Đông phương đấy chứ. Bát quái không phải là danh từ trong cấu trúc ngôn ngữ. Vậy nó biểu hiện cái gì?Theo tôi bát quái chính là ký hiệu toán học rất cao cấp.Còn nữa: Những sự biến thiên của những con số trong Huyền không Phong thủy, Thái Ất..... chính là những sự ứng dụng toán trong sự vận động của vũ trụ. Chúng hoàn toàn mang tính quy luật.
    1 like
  20. Để tiện cho việc tham khảo, đối chiếu, tôi chép lại bài viết theo đường link của Thế Trung đưa lên đây. Cảm ơn sự quan tâm của quí vị và anh chị em. Anh chị em các lớp Phong thủy thân mến. Đây là một bài viết rất tuyệt vời vì tính tổng hợp và khái quát cao với những ý tưởng rất mới trong mối liện hệ văn hóa và tri thức Đông Tây - liên quan đến Lý học. Anh chị em cần chép về tham khảo và suy nghiệm. Bài viết này có thể coi như kiến thức căn bản sẽ phát triển trong tương lai của những anh chị em nào nghiên cứu kết hợp giữa Lý học Đông phương và khoa học hiện đại. Cảm ơn Thế Trung ========================================================== Không, Hư vô, Chân không trong khoa học tự nhiên Đi xa ngàn dặm bắt đầu từ một bước chân Đạo đức kinh Hà Dương TuấnĐể kính mừng Giáo Sư Hoàng Tuỵ thượng thọ 80. Đã đăng trong Kỷ Yếu tặng Giáo Sư Hoàng Tuỵ : Sĩ Phu thời nay, nxb Tri Thức, Hà Nội tháng 12-2007. Tiểu luận này trình bày những cách hiểu khác nhau trong lịch sử của khoa học tự nhiên 1 về cái không và cái chân không – bằng cách sử dụng khái niệm mô hình. Khái niệm then chốt của khoa học luận này ít khi được nhấn mạnh đầy đủ, có lẽ do hai lý do trái ngược nhau: hoặc như các nhà khoa học, coi đó là hiển nhiên vì phải vận dụng hàng ngày; hoặc không hề để ý đến nó do truyền thống văn hoá, không phân biệt hai thế giới khác nhau của ý thức và vật chất. Sơ bộ, thao tác mô hình hoá là việc dùng một ngôn ngữ chính xác để mô tả và khảo sát sự vật. Xin trở lại với nó rõ hơn sau. Có thể hiểu một lý thuyết khoa học như sự mô hình hoá các hiện tượng cơ bản của thế giới vật chất bằng cách phát biểu các quy luật của nó. Những quy luật này trở thành những tiên đề, và để áp dụng những tiên đề trong một hoàn cảnh đặc thù cần diễn dịch nó chung với những tham số của hoàn cảnh đó để rút ra những kết luận hữu ích. Thí dụ như người ta có thể từ định luật hấp dẫn vũ trụ của Newton và những đặc điểm của thái dương hệ để suy ra việc làm vệ tinh nhân tạo. Ngôn ngữ khoa học vì thế thường được gọi là một hệ thống tiên đề - diễn dịch. Ngôn ngữ có tính hệ thống, các khái niệm tự xác định ý nghĩa lẫn nhau trong một quan hệ tổng thể. Nhưng ngôn ngữ nói chung không chỉ có tính hệ thống; một mặt ý nghĩa của các khái niệm thay đổi với thời gian, và mặt khác các từ ngữ trừu tượng dùng cho những khái niệm mới thường thoát thai từ những từ ngữ và khái niệm có sẵn; do đó mỗi khái niệm thường phải được đặt trong một "vùng ngữ nghĩa" nào đó mà những người đối thoại cần hiểu ngầm với nhau, và không chắc như nhau... Với tính chất tiên đề - diễn dịch hoàn toàn chặt chẽ và chính xác, người ta có thể nghĩ rằng ngôn ngữ khoa học có tính hệ thống tuyệt đối, không có quá khứ, một ngôn ngữ lý tưởng để mọi người đều hiểu như nhau. Tuy nhiên, trong nghĩa rộng, ngôn ngữ mà các nhà khoa học dùng để suy tư, sáng tạo, và thảo luận với nhau, thì không hẳn thế. Những khái niệm căn bản nhất, trên đó khoa học chính xác đã xây dựng được những hệ thống tiên đề - diễn dịch rất bao quát và thống nhất như hiện nay, chẳng hạn như : cái có và cái không, khẳng định và phủ định... vẫn thoát thai từ trực giác. Có từ lâu đời trên mọi nơi của địa cầu, những trực giác ấy đã được phát triển thành khái niệm theo những hướng khác nhau. Do đó ngôn ngữ khoa học không chỉ là một mớ những khái niệm ròng lý thuyết, mà ở nơi sâu thẳm nhất nó còn vương vấn những sắc thái văn hoá đặc thù. Trong một giai đoạn ổn định, các sắc thái ngôn ngữ ấy đã được vượt qua và không còn ảnh hưởng gì trong khoa học. Nhưng đến khi có khủng hoảng, thí dụ với những nghịch lý của cơ học lượng tử, thì đào sâu nhận thức về thế giới tự nhiên còn là đào sâu vào nền tảng của tư tưởng 2, và khi đó những sắc thái văn hoá đặc thù của ngôn từ có thể xuất hiện trở lại : người ta đã nhận thấy điều ấy trong những luận thuyết về một sự tương hợp nào đó của tư tưởng Á Đông 3 và khoa học hiện đại... Điều cần trân trọng ở đây là ý thức về sự dung hợp văn hoá đó, tối cần thiết và khẩn cấp trong thời đại toàn cầu hoá kinh tế hiện nay. Nhưng chính vì thế có lẽ nên nhận định rõ đâu là ước mong và đâu là thực tế. Có chắc gì những từ tương đương giữa các ngôn ngữ – như hư vô / néant, chân không / vide... – đã được cảm nhận hoàn toàn như nhau giữa một người thấm nhuần văn hoá Á Đông và một nhà khoa học Tây phương ? trong cuộc đối thoại giữa một thiền sư và một nhà vật lý lý thuyết ? Ở đây sự đồng cảm đích thực sẽ rất quý giá, nhưng chắc không dễ dàng. Tác nhân của những hiểu lầm và ảo tưởng có thể xẩy ra, ngoài cái bất đối xứng về sức mạnh vật chất giữa Á Đông và Tây phương – nguồn gốc của những mặc cảm có khả năng bóp méo nhận định và suy luận – , còn là sức nặng lịch sử của ngôn từ. Cho nên tưởng cũng không thừa nếu chúng ta bắt đầu con đường đi đến đồng cảm và dung hợp ấy bằng cách tìm hiểu ý nghĩa trong khoa học hiện đại của những ngôn từ / khái niệm cơ bản, dựa trên những trực giác sâu thẳm, như cái có và cái không... Tiểu luận này gồm ba phần chính, phần đầu tóm lược một đặc tính của khoa học có liên quan tới chủ đề, đó là sự chấp nhận hiện thực khách quan, và coi hoạt động khoa học là sự mô hình hoá hiện thực khách quan đó; phần hai dựa trên đặc tính này để phát triển rõ hơn các khái niệm "không" và "hư vô" trong luận lý học và toán học, và phần ba trình bày những quan niệm về "chân không" như một đặc tính của không gian chúng ta đang sống, với những biến chuyển trong lịch sử khoa học. 1. Thực tại và mô hình 1.1. Có chăng Hiện thực khách quan ? Để mọi người có thể đồng ý với nhau trên câu hỏi "hiện thực là cái gì ?" "có chăng một hiện thực khách quan ?" thật không dễ. Trong khung cảnh khoa học tự nhiên của tiểu luận này, xin chỉ có vài phân biệt ngắn gọn, rồi hy vọng các thuật ngữ sẽ phần nào tự xác định rõ thêm trong các ngữ cảnh. Theo thiển ý có ba cách hiểu chữ "hiện thực" : Một là tất cả những hiện tượng vật chất của đời thường, mà mọi người có lý trí và giác quan bình thường đều nắm bắt được. Xin gọi chung là "hiện thực vật chất nghiệm sinh" ("hiện thực", nếu ngữ cảnh cho phép) theo nghĩa đó là tất cả những hiện tượng cụ thể trong nghiệm sinh của con người, cảm nhận được bằng giác quan, trực tiếp hay gián tiếp qua đo lường. Hai là một cái gì bao trùm tất cả, vừa sâu sắc hơn, vừa thống nhất hơn, vừa đơn giản hơn "hiện thực vật chất nghiệm sinh" nói trên, nó "nằm ở đằng sau", và làm nảy sinh mọi hiện tượng. Xin gọi nó là "bản thể của hiện thực", nói gọn là "bản thể" trong ngữ cảnh của tiểu luận này. Đây không phải là "bản thể" theo nghĩa triết học, mà ở đây không đề cập đến. "Bản thể của hiện thực", vì không thể được trực tiếp nghiệm sinh, chỉ thuần tuý là một khái niệm sơ khởi, mà việc có thể được hiểu toàn bộ và thấu đáo hay không, là tuỳ thuộc niềm tin của từng người. Cách hiểu thứ ba gộp hai cách hiểu trên làm một, cho rằng mọi hiện tượng vật chất đều đã được khoa học giải thích thoả đáng và đầy đủ bằng một số quy luật cơ bản và thống nhất. Hiện tượng chỉ là sự biểu hiện của bản thể, người ta giải thích được tại sao và như thế nào các hiện tượng nảy sinh, cũng như biết đi ngược từ hiện tượng đến bản thể, tuy không thể chính xác 100% do giới hạn của các công cụ đo lường. Đây là cách hiểu của một thời khi người ta nghĩ rằng khoa học đã giải thích được tất cả, chỉ còn một vài vấn đề nhỏ... xin gọi cách hiểu như thế là sự khẳng định "hiện thực tuyệt đối". Khoa học chỉ nói về các hiện tượng, cho nên thế giới vật chất mà các nhà khoa học mô tả nếu hiểu một cách nghiêm ngặt thì chỉ là hiện thực hiểu theo nghĩa thứ nhất nói trên. Nhưng trong tinh thần khoa học có một niềm tin tiên thiên (a priori) sâu hơn thế: thế giới hiện tượng này là biểu hiện của một bản thể tồn tại và biến chuyển theo những quy luật độc lập với ý thức con người, biết được xuyên qua việc khảo sát hiện thực nghiệm sinh. Cho đến nay chưa có luận cứ có tính thuyết phục nào đi ngược lại niềm tin này 4. Xin gọi đó là niềm tin về hiện thực khách quan. Niềm tin này không hẳn là niềm tin vào một hiện thực tuyệt đối. Đại đa số các nhà khoa học, trong hoạt động khoa học của mình, luôn luôn hành xử với niềm tin về hiện thực khách quan, vì chính hoạt động khoa học là sự tìm hiểu những mối liên hệ nhân quả giữa các hiện tượng. Có thể coi những quy luật nhân quả đó như sự biểu hiện của "một cái gì đó" mà ta đã gọi là "bản thể", vì nếu giữa hai hiện tượng chỉ là hư vô, thì không thể có một quy luật nhân quả nào nối liền chúng với nhau. Thí dụ khi người ta bắn một hạt điện tử (electron) lên một màn huỳnh quang, chỉ biết lúc bắn ra và lúc nó chạm vào màn huỳnh quang thì nó có những tính chất vật lý đã đo được, ở hai thời điểm đó có hai hiện tượng mà ta gọi là điện tử; giữa hai thời điểm đó ta vẫn gọi "nó" là điện tử, nhưng thực ra không biết "nó" là cái gì. Tuy nhiên "nó" hiện hữu và biến chuyển theo một quy luật khách quan mà người ta đã dùng để làm nên màn ảnh huỳnh quang hiện ra phong cảnh đẹp đẽ. Khái niệm bản thể hiểu như thế không thể được coi là trống rỗng. Mặt khác, những mô hình toán học hiện đại dùng để biểu diễn các quy luật và tiên đoán các hiện tượng trở nên rất khác biệt với chúng, phức tạp, kỳ lạ và đi ngược lại trực giác. Do đó có những nhà khoa học lớn phủ nhận bất cứ cái gì "đằng sau" hiện thực nghiệm sinh. Theo thiển ý, có lẽ những phát biểu đó phản ảnh sự bất lực của lý trí trước những nghịch lý của vật lý hiện đại, từ đó đi quá đà đến sự phủ nhận bản thể. Theo những phân tích ở trên, đây thực chất là phủ nhận hiện thực tuyệt đối. Có một số quan điểm thoạt đầu nghe rất khác niềm tin về hiện thực khách quan, nhưng thực ra không khác. Thí dụ như : cái thế giới vật chất duy nhất này chỉ là một ảo tưởng chung, liên chủ quan (intersubjectif – tuy thuộc chủ quan của mỗi người, nhưng lại đồng nhất với nhau), của mọi sinh vật có ý thức. Sở dĩ thế giới đó mang những trạng thái và những quy luật xác định được cũng như tiên đoán được, là vì tất cả các sinh vật có ý thức có cùng chung những ảo tưởng, do đã trải qua cùng những quan hệ nhân quả (có thể gọi cái Ý Thức lớn, viết hoa, mẫu số chung của mọi ý thức cá nhân đó là "cộng nghiệp"). Nhưng như thế không có gì cho phép phân biệt hiện thực và ảo tưởng. Nếu ảo tưởng (kể cả sống, chết, mất, còn) là của tất cả, thì ảo tưởng cũng là hiện thực sắt đá của tất cả: Có thì muôn sự có,Không thì tất cả không 5. Cho nên nếu hiểu niềm tin "cộng nghiệp" như thế thì nó hoàn toàn có thể được đồng hoá với niềm tin thứ ba này : Thượng Đế đã sáng tạo tất cả vũ trụ cách đây bốn nghìn năm trước (mà nói chỉ một sát na trước thì cũng không khác), rồi sau đó Thượng Đế không can thiệp vào thế giới vật chất nữa; sáng tạo ấy bao gồm tất cả những quy luật vật lý cũng như tất cả các chi tiết hợp quy luật cho phép người ta nghĩ rằng vũ trụ đã có từ 13 tỷ năm trước, và loài khủng long đã để lại những bộ xương từ hơn một trăm triệu năm. Sự khác biệt chỉ nằm ở nguồn gốc của hiện thực khách quan, một vấn đề siêu hình. Thế giới của ý thức bao gồm những cảm giác và những khái niệm diễn ra trong tâm tư và trí tuệ con người, có thể được biểu thị qua hành động hay trao đổi với nhau qua ngôn ngữ. Thế giới ý thức vừa có ảnh hưởng hỗ tương, vừa độc lập tương đối với thế giới vật chất. Ý thức dĩ nhiên có thể làm thay đổi thế giới vật chất, nhưng để làm được điều đó cho đến nay nó phải vận dụng những quy luật độc lập với nó của thế giới vật chất. Niềm tin về hiện thực khách quan được hình thành do con người đã tích tụ những kinh nghiệm ngày càng phủ định về tác động của ý thức lên thế giới vật chất một cách trực tiếp, không thông qua môi giới vật chất. Một trong những bí ẩn đầu tiên, có thể nói là huyền bí, của cơ học lượng tử (CHLT) là hiện tượng lưỡng tính hạt và sóng, điều đó khiến cho những nhà khai phá hàng đầu như Bohr và Heisenberg đã có những tuyên bố dễ làm người ta hiểu lầm về vai trò của ý thức, nhưng thực ra trong ngữ cảnh của những tuyên bố này luôn luôn có sự hiện diện của môi giới vật chất, đó là các thí nghiệm cụ thể với các thiết bị đo lường cụ thể, một cấu hình thí nghiệm nào đó sẽ cho thấy tính chất hạt của lượng tử (hay nguyên tử), và một cấu hình khác sẽ cho thấy tính chất sóng của nó 6. Nhưng tại sao lại có hai hiện tượng – của tự nhiên, độc lập với ý thức người quan sát – bất nhất như thế ? Làm sao có được cái nhìn về thế giới vật chất dung hợp được những hiện tượng mà thuyết tương đối (TTĐ) và CHLT đã thiết lập ? Theo thiển ý, hiện nay chưa ai trả lời được rốt ráo những câu hỏi loại này. Chính vì thế chúng ta càng nên thận trọng phân biệt rõ bản thể – hiểu trong tính tổng thể và tính thống nhất của nó, và vẫn còn nằm ở chân trời phía xa – với những mô hình mô tả được những khía cạnh khác nhau của hiện thực, rất hiệu quả và là nguồn gốc của cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật vũ bão hiện nay, tuy chưa có một mô hình hoàn chỉnh và tổng thể để cho phép hiểu hiện thực (một cách) tuyệt đối. 1.2. Mô hình và giới hạn của mô hình Trong nghĩa thông thường, "mô hình hoá" một hiện tượng nào để khảo sát nó, là dùng một ngôn ngữ chính xác để mô tả hiện tượng ấy trong những khía cạnh liên hệ và bỏ đi những mặt không liên hệ đến mục đích khảo sát, đây chính là "trừu tượng hoá" hiểu theo nghĩa đen, vì "trừu tượng" nguyên nghĩa là giữ lại cái đặc trưng, đã được dùng để dịch "abstraction" mà nguyên nghĩa là bỏ đi cái không cần thiết. Nhưng mô hình hoá không phải chỉ là giữ và bỏ mà còn là thêm vào.Chính vì qua việc khu biệt hoá và thuần khiết hoá những lớp bài toán đặc thù, nó là một công cụ cho phép hiểu rõ hiện thực hơn, từ đó khám phá những những quy luật còn bị ẩn dấu của tự nhiên, giải thích những hiện tượng chưa giải thích được, khám phá những hiện tượng mới. Mặt khác, bản thể của hiện thực, nếu hiểu được, phải thống nhất và bao trùm, nhưng mô hình cho một khía cạnh nào đó của hiện thực thì không cần như thế, tuy sự tìm hiểu hiện thực ngày càng được mở rộng, để hy vọng đi đến một mô hình tổng thể. Khái niệm "mô hình", rất quen thuộc trong văn hoá Tây phương, hình như hoàn toàn vắng bóng trong văn hoá Á Đông. Có thể coi khái niệm mô hình bắt nguồn từ "thế giới ý tưởng" của Platon 7. Nếu không quen với khái niệm triết học này người ta rất dễ đánh đồng thực tại với mô hình của thực tại, là những lý thuyết khoa học, vì thông thường người ta chỉ có thể nói với nhau về thực tại bằng ngôn ngữ khái niệm, tức ngôn ngữ của mô hình. Đến khi phải dùng những cách nắm bắt thực tại khác nhau cho những hoàn cảnh thực nghiệm khác nhau... người ta mới không khỏi vò đầu bứt trán : tại sao thực tại khi thì thế này, khi thì thế kia ? khi thì là hạt, khi thì là sóng ? Nếu đổi lại thành một câu hỏi chính xác hơn : tại sao mô hình của thực tại lại khi thế này khi thế kia... thì có lẽ dễ thở hơn, ít ra về mặt tâm lý. Sau đây là một thí dụ phổ biến của sự đánh đồng thực tại với mô hình, rồi từ đó đi đến ngộ nhận: người ta nói đến "hiệu ứng cánh bướm" (một con bướm vỗ cánh ở Brasil liệu có thể gây nên bão tố ở Texas) như là thí dụ của việc một nguyên nhân nhỏ có thể gây nên hậu quả lớn. Vậy có gì lạ đâu ? đó là một hiện tượng ai cũng biết, tục ngữ có câu "rút dây động rừng". Ý nghĩa của câu nói này không phải thế, không có một quan hệ nhân quả nào giữa một con bướm cụ thể nào và cơn bão; mỗi lúc tại Brasil có hàng triệu con bướm vỗ cánh, vậy con bướm nào gây ra bão tố đây ? "Hiệu ứng cánh bướm" không nói đến điều ấy, mà nói đến khả năng có hạn của mô hình khoa học trên một số bài toán, đặc biệt bài toán dự báo khí tượng. Do vì, từ khác biệt ban đầu rất nhỏ (như cái vỗ cánh của một con bướm) mô hình sẽ cho ra những kết quả khác biệt rất lớn (như có bão hay không có bão) sau một thời gian nào đó, cho nên khi đó mô hình trở thành vô ích. Khi hiểu đúng văn cảnh 8 của ẩn dụ nổi tiếng này thì con bướm và bão tố đều chỉ là những hình tượng văn vẻ (và rất đáng tiếc dễ gây hiểu nhầm) cho các đại lượng trừu tượng trong mô hình, không phải những hiện tượng thật. Điều oái oăm ở đây là hình ảnh quá cụ thể này đã đẩy người ta vào cái sai lầm mà chính nó muốn nói đến. Thực vậy, về mặt nhận thức luận ý nghĩa của "hiệu ứng cánh bướm" quan trọng hơn rất nhiều cách hiểu "rút dây động rừng". Đó là : không thể dự báo (cũng có nghĩa là không thể tác động đến như ý muốn) về tương lai lâu dài của một số hệ thống. Sự bất lực có tính lý thuyết này có hệ luận là : trên thực tế không thể đánh đồng thực tại với mô hình, và sẽ không bao giờ làm được như thế. Khoa học luận hiện đại cần chúng ta có ý thức thường trực và rõ rệt về sự phân biệt này. Chúng ta có thể tin tưởng hay không là một ngày nào đó sẽ có một lý thuyết bao quát và thống nhất về thực tại trên mọi khía cạnh 9 – khi đó sẽ có thể nói là con người đã hoàn toàn hiểu thế giới vật chất – , nhưng dù có như thế thì sự áp dụng lý thuyết đó trên một số khía cạnh thực tế để dự phóng về tương lai cũng sẽ chỉ cục bộ và giới hạn trong một khoảng thời gian nhất định. Trong một số bài toán hiện nay có thể nói : tiên đoán được không có nghĩa là hiểu, nhưng trong một số bài toán khác thì mãi mãi hiểu cũng không có nghĩa là tiên đoán được quá xa. 2. Chữ "không" trong luận lý học và toán học Lôgích học là công cụ của toán học, nó cho phép bảo đảm tính chặt chẽ khi xây dựng một lý thuyết toán. Và, trong phạm vi của tiểu luận này, toán học là công cụ của vật lý học, nó cho phép xây dựng những mô hình của thực tại với những đại lượng cơ bản nhất như không gian, thời gian, năng lượng, vật chất... và những quy luật tương tác giữa những đại luợng ấy. Những mô hình thích hợp với thực nghiệm sẽ cho phép quan sát hay/và tác động lên thực tại, rồi tiên đoán chính xác kết quả... Do đó khoa học trở thành nguồn gốc của những tiến bộ kỹ thuật đã làm thay đổi đến chóng mặt cuộc sống con người. Trong mối liên hệ đa tầng đó, chữ "không" vừa vẫn mang cái trực giác ban đầu : ngược lại với "có một cái gì" là "không có gì cả", vừa mang những sắc thái khác nhau vì mỗi tầng của cái cấu trúc trí tuệ đó có những đối tượng riêng. Trước hết, để khảo sát thế giới cần một ngôn ngữ ngắn gọn và chính xác, đó là ngôn ngữ toán học. Từ đầu thế kỷ thứ 17 sau tuyên ngôn nổi tiếng của Galileo Galilei (1564-1642) "cuốn sách của tự nhiên được viết bằng ngôn ngữ toán", các nhà bác học đã tìm ra nhiều quy luật của tự nhiên trong cơ học, quang học, hoá học, điện từ học... và những quy luật rất hiệu quả ấy là cơ sở cho sức mạnh vật chất của phương Tây. Công cụ toán học cần thiết cho việc khám phá những quy luật đó và phát triển chúng cho những tính toán ứng dụng, chính là toán vi tích phân, đồng thời được Newton và Leibniz sáng tạo độc lập với nhau. Nhưng khởi đầu toán vi tích phân được các nhà vật lý vận dụng một cách tương đối không chặt chẽ, công cuộc phát triển toán học kéo dài trong suốt các thế kỷ 17, 18 cho đến cuối thế kỷ 19 mới coi như làm chủ được hoàn toàn cái vô cùng tận hiện hữu (infinité réelle) 10, cần thiết cho toán vi tích phân để định nghĩa rõ rệt thế nào là sự liên tục của không gian. Để đặt nền móng lý luận chặt chẽ cho toán học, ngành học về lôgích có từ thời Aristotle đã phát triển mạnh trở lại, nó có tên mới là "toán luận lý" (logique mathématique) hay "luận lý học hình thức" (logique formelle), để cho gọn xin gọi là lôgích học. Kết quả là toán học đã được xây dựng trên nền tảng của thuyết tập hợp tiên đề hoá 11 (théorie axiomatique des ensembles); nằm giữa hai tầng cấu trúc tri thức, nó vừa được coi là toán học vừa được coi là lôgích học. Cuộc xây dựng thuyết này khá trắc trở, phải vượt qua nhiều nghịch lý (paradoxes) mới được chặt chẽ như ngày nay. Tính chặt chẽ này được bảo đảm bằng một phương pháp hai giai đoạn, dĩ nhiên "hai giai đoạn" ở đây không hàm ý trước sau theo thời gian mà chỉ là một thứ tự thuần lý. Giai đoạn thứ nhất là xây dựng thuyết tập hợp tiên đề hoá bằng lôgích học, trong giai đoạn này một thuyết tập hợp hạn chế, hay thuyết tập hợp hồn nhiên (naif), được sử dụng. Điều mặc nhiên được công nhận là như sau : đối tượng của lôgích học chỉ là những chuỗi ký hiệu (của toán học hay của bản thân lôgích học), trong một tập hợp hữu hạn (hữu hạn cũng có nghĩa là rời rạc), mà trong khung cảnh hữu hạn thì trực giác con người là tuyệt đối giống nhau khi nhận biết, lý luận và tính toán (đi từ một chuỗi ký hiệu này đến một chuỗi ký hiệu khác) một cách hồn nhiên. Thêm nữa, tuy lôgích học hình thức không dùng đến khái niệm vô tận, nó không cần và không thể xác định con số hữu hạn của những ký hiệu là bao nhiêu. Trong bài này xin dùng thuật ngữ "thế giới diễn ngôn" để chỉ tập hợp tất cả các mệnh đề đúng cú pháp viết bằng các ký hiệu lôgích và toán học, trong một lý thuyết tiên đề - diễn dịch. Đây quả thực là một ngôn ngữ có tính hệ thống tuyệt đối, không quá khứ, như đã nói ở đầu bài. Giai đoạn thứ hai: với những chuỗi ký hiệu, mà sự vận dụng theo lôgích chỉ cần cái trực giác hồn nhiên nói trên, không những người ta xây dựng được trongthuyết tập hợp tiên đề hoá những tập hợp có vô tận phần tử, mà còn xây dựng được nhiều loại vô tận khác nhau, cái vô tận "đếm được", và cái vô tận liên tục. Những tập hợp vô tận này là khởi đầu của việc "xây dựng" được những lý thuyết toán học đáp ứng được việc mô hình hoá không gian, thời gian... và những quy luật vật lý. Thực ra những lý thuyết này đã có từ trước, hoặc được sáng tạo theo nhu cầu áp dụng, hoặc như những sáng tạo trừu tượng đi trước yêu cầu; chữ "xây dựng" viết ở đoạn trên, do đó, chỉ có nghĩa là củng cố chặt chẽ về mặt lý luận mà thôi. 2.1. Chữ "không" trong Luận lý học hình thức Thuyết tập hợp hồn nhiên chỉ là sự phát biểu lại những nguyên tắc lý luận đã có từ cổ đại, theo một cách khác. Thí dụ tam đoạn luận nổi tiếng : "làm người ai cũng phải chết, Socrate là người, vậy Socrate cũng phải chết", có thể được phát biểu như sau : "Tập hợp người nằm trong tập hợp những thực thể sẽ phải chết, Socrate là một phần tử của tập hợp người, vậy thì Socrate cũng có trong tập hợp những thực thể sẽ phải chết". Như thế mọi lý luận được đưa về một loại quan hệ độc nhất : quan hệ "có trong" giữa một phần tử và một tập hợp. Một quan hệ phái sinh rất thuận tiện, định nghĩa được từ quan hệ đầu, là quan hệ "nằm trong" giữa hai tập hợp. Đó chỉ là một cách nhìn, nhưng cách nhìn này đưa đến nhiều thuận lợi: Viết ra được những ký hiệu ngắn gọn: thí dụ (phần tử a có trong tập hợp A), (tập hợp B nằm trong tập hợp A)... Xác định được rõ ràng ý nghĩa của những khái niệm lôgích căn bản : phủ định, hay, và, dẫn đến... Tránh được những nghịch lý do sự thiếu chặt chẽ của những lý luận bằng ngôn ngữ tự nhiên đưa đến, Và sau cùng, ở thời đại chúng ta không thể không nhấn mạnh : những thao tác trên các ký hiệu do đó hoàn toàn có thể tự động hoá được. Khả năng này được sử dụng đại trà trong các máy tính điện tử dưới nhiều hình thức. Thí dụ chuỗi ký hiệu : được đọc như sau : điều kiện cần và đủ (xem ký hiệu 1) để B nằm trong A là, với bất cứ phần tử x nào (xem ký hiệu 2), nếu x có trong B thì x cũng có trong A (xem ký hiệu 3). Bằng một một số rất nhỏ các thao tác hoàn toàn máy móc để thay đổi các ký hiệu, người ta (hay máy tính) có thể "nhắm mắt" viết chuỗi ký hiệu: ; đọc như sau : điều kiện cần và đủ để B không nằm trong A (xem ký hiệu 7) là có một phần tử a (xem các ký hiệu 4 và 5), có trong B và (xem ký hiệu 8) không có trong A (xem ký hiệu 6). Xin xem giải thích của các ký hiệu trong khung đi kèm dưới đây, trong đó hàm không(...) là hàm phủ định tổng quát của lôgích. Ngay ở đây ta thấy có hai chữ "không" khác nhau. Đoạn trên là một thí dụ về chữ không trong tính toán lôgích. Chữ "không" thứ hai ta gặp khi đem áp dụng lôgích trong đời thường. Phủ định trong đời thường là phủ định của một tính chất nào đó của một sự vật (hay tập hợp sự vật) nào đó, "xe của ông Nguyễn màu đen" là một mệnh đề, và phủ định của mệnh đề đó là : "xe của ông Nguyễn không phải màu đen". Như vậy lôgích hình thức là một phép lý luận tổng quát dựa trên việc biến đổi các chuỗi ký hiệu trừu tượng một cách máy móc; và lý luận bằng ngôn ngữ trong đời thường là nói về tính chất của các sự vật cụ thể trong đời thường. Ở giữa hai bên là thao tác mô hình hoá, đi từ cụ thể đến trừu tượng, và thao tác diễn tả, đi từ trừu tượng đến cụ thể. Thí dụ câu nói P : "Có một chiếc tải xe màu đen do hãng Ford sản xuất". P đúng hay sai ? Có hai cách để có câu trả lời. Một là điểm qua tất cả các xe có trên đời này, điều trên nguyên tắc làm được, vì số xe ấy hữu hạn. Hai là tin tưởng vào một đặc tính nào đó phổ quát hơn, và suy ra kết luận trên, thí dụ : hãng Ford làm đủ mọi loại xe, mỗi loại xe của hãng Ford đều một nửa là màu đen; cách này cho phép suy luận nhanh hơn, nhưng phức tạp hơn, và để chế ngự cái phức tạp thì việc áp dụng những mô hình lôgích là có ích. Không thể làm cách thứ nhất với những tập hợp vô tận, vậy để áp dụng lôgích hình thức, cần có những mệnh đề tiên thiên được chấp nhận là đúng, nói đơn giản là muốn có kết luận đúng thì cần lý luận chặt chẽ và khởi đi từ những điều đúng; thêm nữa những mệnh đề tiên thiên đó phải không mâu thuẫn với nhau 12. Chúng được gọi là những tiên đề (axiomes). Thuyết tập hợp tiên đề hoá cũng là một hệ thống tiên đề, được mở rộng 13 từ lôgích hình thức hồn nhiên, và một lý thuyết toán học là một hệ thống tiên đề được mở rộng từ thuyết tập hợp tiên đề hoá. Khi tất cả được quy về tiên đề thì miền áp dụng của lôgích không cần thiết phải hữu hạn, vì chỉ cần suy luận bằng cách biến đổi các mệnh đề, không bao giờ cần "điểm qua tất cả những sự vật" nữa. Người ta yêu cầu tiên đề sau đây được chấp nhận: có một tập hợp không chứa một phần tử nào cả. Nói cách khác, khái niệm về "cái không" là khái niệm có thực. Người ta gọi nó làtập hợp rỗng (ensemble vide), và viết bằng ký hiệu Ø. Ø có trong thế giới diễn ngôn nhưng không biểu thị cái gì trong đời thường, nó là một cái hộp rỗng không, cái hộp ấy có thực. Tại sao phải như thế ? người ta cần viết ra và suy luận một cách tự nhiên trên những mệnh đề rất giản dị như "những xe tải do hãng Ford sản xuất", đó là một tập hợp gồm những xe vừa là xe tải vừa là xe do hãng Ford sản xuất; tập hợp đó có thể chứa một số xe nhất định, cũng như không chứa một cái xe nào; nhưng, trước khi tìm hiểu và suy luận, người ta không biết rõ điều ấy. Vì vậy cần thiết gán cho "cái không" vai trò của một tập hợp, nghĩa là cũng có thể được thao tác như mọi tập hợp khác. Có thể nói bằng lạm dụng ngôn từ là "ở trong tập hợp rỗng chỉ có hư vô", theo nghĩa không có gì trong thế giới thực tương ứng với hư vô: thời gian, không gian, màu sắc... đều không liên hệ gì với hư vô. Hư vô không phải là một khái niệm khoa học, nó khác với "chân không" mà ta sẽ bàn kỹ hơn sau, nhưng sự không phân biệt rõ ràng hai khái niệm này là nguồn gốc của một số lý luận sai lầm, ngay cả từ Descartes (1569-1650) và Leibniz14 (1646-1716). 2.2. Sơ lược về thuyết tập hợp tiên đề hoá, hạt nhân của thế giới toán-lý Như đã trình bày ở trên, thế giới các thực thể (entité) toán học phải là một thế giới có vô tận phần tử, trong khi thế giới diễn ngôn toán học là hữu hạn. Để cho thực rõ ràng xin hình dung một "siêu thế giới" gồm bốn tầng "thế giới": tầng dưới cùng là thế giới hiện thực; hai tầng giữa là thế giới (vô tận) của các thực thể và cấu trúc toán học (xin gọi tắt là thế giới toán) bên trên, và thế giới vật lý học bên dưới, dùng toán học như một công cụ để mô hình hoá những sự vật và hiện tượng trong thế giới hiện thực (xin gọi chung cả hai tầng này là thế giới toán-lý); tầng trên cùng là thế giới hữu hạn của diễn ngôn toán học (xin gọi tắt là thế giới diễn ngôn toán, bao gồm thế giới diễn ngôn lôgích). Bảng A tóm tắt các "thế giới" khác nhau của khoa học luận, mà sự hình thành có thể mường tượng như những vòng xoáy ốc theo trục nằm ngang, đi từ hiện thực (cụ thể) đến mô hình (trừu tượng) rồi trở về hiện thực... đồng thời phát triển rộng hơn và phức tạp hơn với thời gian theo hướng từ trái sang phải. Vòng xoáy giữa cụ thể và trừu tượng này là một vận động không ngừng của trí tuệ loài người, có thể giản lược thành ba giai đoạn lớn : thời tiền sử bắt đầu với sự xuất hiện của ngôn ngữ, rồi tới thời bùng nổ tư duy, từ khoảng một thiên niên kỷ trước công nguyên cho tới khi xuất hiện khoa học hiện đại, và cuối cùng là thời đại khoa học, từ đầu thế kỷ 17 cho tới nay: Bảng A: Mô hình hoá và hiện thực Thế giới toán có vô tận tập hợp, và có những tập hợp có vô tận phần tử, do đó không còn có thể tin tưởng vào sự đồng thuận giữa trực giác của mọi người để xác định một thực thể toán học là có trong hay không có trong một tập hợp (đồng nghĩa với việc nó mang một đặc tính nào đó). Người ta chỉ còn cách duy nhất là dựa trên nguyên lý sau : nếu một mệnh đề lôgích nào suy ra được từ các tiên đề của một lý thuyết toán thì mệnh đề đó là đúng. Việc chỉ cần lý luận trên các tiên đề cho phép người ta đồng thuận trên các kết quả đạt được mà không cần cùng nhau kiểm qua tất cả các sự vật trong một thế giới có thể vô tận. Dĩ nhiên nói chung phần lớn các tiên đề đã được đúc kết từ những tính chất hiển nhiên trong thế giới hữu hạn, mà dưới đây ta sẽ xem vài thí dụ. Tiên đề tập hợp rỗng : Có một tập hợp rỗng, không chứa một phần tử nào 15. Tiên đề ngoại diên – axiome d'extensionnalité yêu cầu rằng : nếu hai tập hợp có cùng những phần tử như nhau thì hai tập hợp đó là một. Tiên đề này cũng có hậu quả là mọi phần tử của tập hợp đều phân biệt được với nhau. Tiên đề có đôi – axiome de la paire : nếu có a và có b thì cũng có tập hợp {a,b} chứa cả a lẫn b và không chứa gì khác. (Xin dùng "{" và "}" để chỉ một tập hợp với các phần tử bên trong). Tiên đề gộp lại được – axiome de la réunion : với bất cứ hai tập hợp bất kỳ nào cũng có một tập hợp mà những phần tử của nó gồm, và chỉ gồm, các phần tử của hai tập hợp đầu. Tới đây ta thử xem, với 4 tiên đề vừa liệt kê, thế giới toán đã có thể chứa những gì ? Trước hết thế giới toán có ít nhất một thành viên : đó là tập hợp rỗng Ø (bây giờ ta đặt tên cho nó là số không), Ø ≡ 0 (ký hiệu ≡ có nghĩa hai vế phải trái là hai tên khác nhau của cùng một thứ) Sau đó : có một tập hợp {Ø} (tên của nó là số một), đó là trường hợp đặc biệt của tiên đề có đôi, khi cả a và b đều là Ø, khi đó theo tiên đề ngoại diên thì {Ø} chỉ có 1 phần tử. Số một là tên của tập hợp chứa số không, 1 ≡ {Ø} ≡ {0}. Vậy, lại theo tiên đề có đôi, có một tập hợp {Ø, {Ø}} ≡ {0,1}, chứa hai phần tử : số không và số một. Tên của nó là số hai. Như thế cũng lại có thêm một tập hợp nữa chứa số một và số hai {1,2}. Bây giờ sử dụng tiên đề gộp lại được với {1,2} và {0}, ta có một tập hợp chứa ba phần tử, là số không, số một và số hai. Tên nó là số ba. Tới đây ta nhận ra bằng cách nào các nhà luận lý học đã định nghĩa được các con số không, số một, số hai, ba, bốn... tới lớn bao nhiêu cũng được 16.Trong khuôn khổ bài này không thể trình bày tiếp tục làm thế nào, và với những tiên đề phụ trội cần thiết nào, người ta đã thiết lập được một thế giới toán có khả năng mô hình hoá những bài toán đơn giản của đời thường, như số phân, số lẻ, số âm... vòng tròn, đường thẳng... và cả những thực thể vật lý rất phức tạp như những không gian có nhiều chiều, những không gian "cong"... Thế giới toán đó đầy đặc vô tận những phần tử và những tập hợp, trong đó có một "cái không" duy nhất tên là Ø. Một miền của không gian vectơ toán học ba chiều có thể dùng để làm mô hình cho một khoảng không gian vật lý trong đó người ta có thể tin là "không có thực thể vật chất nào". Điều này đúng hay không đúng đều có nghĩa, nhưng miền không gian vectơ toán học tương ứng với khoảng không gian vật lý ấy chứa vô tận và đầy đặc những điểm toạ độ, thực sự là có trong thế giới toán.2.3. Con số không trong Toán học Toán học là một ngôn ngữ công cụ dùng để viết ra những quy luật vật lý. Nhưng nếu chỉ có thế thì vẫn còn hoàn toàn trừu tượng, "chân vẫn chưa chạm đất"; việc áp dụng toán học vào đời sống cuối cùng phải thoả mãn hai yêu cầu, thứ nhất là để trực tiếp biết về một đại lượng nào đó của một sự vật nào đó qua đo lường, thí dụ như chiều dài, chiều rộng, chiều cao, của một bể nước hình khối vuông góc ; yêu cầu thứ hai cũng là để biết, một cách gián tiếp, về một đại lượng nào đó qua tính toán từ những đại lượng đo lường được, bằng cách dùng những công thức vật lý thích hợp, thí dụ như để tính toán xem bể nước ấy chứa được bao nhiêu nước, bằng cách tính thể tích của nó qua phép tính nhân ba cạnh của bể nước với nhau. Trong vai trò đo lường, con số không không có ý nghĩa gì đặc biệt. Nó chỉ là cái mốc được chọn theo quy ước. Khi một đầu của chiều ngang (chẳng hạn) được áp vào vạch không của cái thước thì ở đầu kia người ta đọc được ngay giá trị của chiều ngang của bể nước. Trong vai trò tính toán thì con số không quả có những "ứng xử" khác các con số khác. Trong tính cộng thì nó là một phần tử trung lập : a + 0 = a, và a - a = 0 ; ở đây vai trò "tập hợp rỗng" vẫn tồn tại, nhưng hơi khác với khái niệm rất tổng quát "rỗng tức là không chứa gì cả" của ngôn ngữ lôgích học. Khi đem toán học áp dụng trên thế giới hiện thực, thì tuỳ khung cảnh áp dụng mà số không mô hình hoá một cái "không có" cụ thể hơn. Nếu a (khác 0) có thể là ba hay là bảy hòn sỏi thì 0 bây giờ là "không có hòn sỏi nào". Trong tính nhân ta lại có a*0 = 0. Vì a*x là sự mô hình hoá "x lần a", nên với bất kỳ đại lượng a nào, 0 lần a cũng là không. Nhưng điều cần để ý ở đây là : nhìn trên khía cạnh thao tác trong diễn ngôn toán thì chỉ cần định nghĩa +0 và *0 như hai hàm số đặc biệt, có các tính chất nói trên. Định nghĩa này vì độc lập với mọi áp dụng, nên không thể và không cần diễn tả ý nghĩa cụ thể của nó, ý nghĩa cụ thể chỉ có khi đem toán học áp dụng vào những trường hợp cụ thể. Cũng không thể quên vai trò của con số không trong việc hình thành hệ thống đếm thập phân. Những công trình khảo cổ cho biết có khả năng lớn là cách đếm thập phân như hiện nay chúng ta dùng đến từ Ấn Độ, niên đại vào khoảng năm -300. Trước đó, một nền văn minh vĩ đại như nền văn minh Babylone cũng đã đến gần thành công này từ khoảng -1800, nhưng không có được bước nhảy quyết định: họ có một hệ thống đếm theo cơ số 60 (một lần 10 và một lần 6), nhưng thật kỳ lạ: thay vì sáng tạo ra số không, họ chỉ để trống một khoảng cách. Người Hy Lạp cổ đại, với nền khoa học và triết học sâu sắc đồ sộ là thế, cũng không có số không. Người Trung Quốc với bàn toán tiện lợi một cách thần kỳ, cũng vậy. Tại sao sáng tạo số không khó khăn như thế ? Hiển nhiên là vào thời cổ đại ký hiệu chỉ được dùng để đại biểu cho những gì có thực trong đời thường, không có một ký hiệu nào đại diện cho cái "không có gì" vì ngay cả cái "không có gì" cũng là cái không ai nghĩ tới. 3. "Chân không" trong Vật lý học 3.1. Truyền thống Hy Lạp Có thể định nghĩa "chân không" 17 là đặc tính của một vùng không gian nào đó, mà trong đó tuyệt đối "không có gì". Tại Hy Lạp cổ đại, hai bậc thầy vĩ đại là Platon và Aristote đều coi là "không có cái chân không", "tự nhiên ghê tởm chân không"... cái chân không là không thể hiện hữu, quan niệm này thoát thai từ nhận định về vật chất, mỗi sự vật trong tự nhiên kể cả khí trời là bao gồm các thể chất (substance) liên tục, có thể rất cứng rắn hoặc rất mềm dẻo, chia nhỏ được mãi mãi, và ở vùng nào trong không gian cũng phải có một thể chất nào đó. Điều này đi ngược hẳn lại quan điểm của Leucipe và Democrite: sự vật do các nguyên tử cấu thành, nguyên tử, theo định nghĩa là rời rạc, tuyệt đối cứng rắn, không thể chia cắt, vậy để vật chất có thể biến chuyển được thì các nguyên tử phải chìm trong một môi trường "không có gì". Cho nên trường phái nguyên tử cũng chủ trương có chân không. Hai luồng tư tưởng hoàn toàn tư biện và hoàn toàn trái ngược nhau này tranh luận tự do, nhưng rồi tới thời Trung cổ thì ý tưởng nguyên tử rơi vào quên lãng trong vòng hơn một nghìn năm, cùng với nó là khái niệm chân không. 3.2. Từ Galilei tới Newton Đó là thời kỳ trước cuộc cách mạng khoa học mà người mở đường tiêu biểu là Galilei. Galilei cho rằng sự ghê tởm chân không của tự nhiên là có giới hạn, và giới hạn đó có thể đo được bằng một cột nước cao khoảng 10 m, quy luật này do ông phát hiện khi quan sát hiện tượng những máy hút nước bằng pít-tông không thể hút nước cao hơn thế, vì khi đó trong pít-tông tự nhiên hiện ra một khoảng "chân không" ở bên trên cột nước. Người thư ký của Galilei, Torricelli (1608-1647) năm 1643 nảy ra sáng kiến dùng cột thuỷ ngân thay cho cột nước, và thấy rằng sau khi tạo ra chân không thì áp suất của cột nước và cột thuỷ ngân ngang nhau. Ông giải thích chiều cao của cột thuỷ ngân bằng sức đẩy thuỷ ngân lên cao do sức ép của không khí trong khí quyển (đặt cơ sở cho phong vũ biểu Torricelli). Khái niệm "tự nhiên ghê tởm chân không, nhưng có giới hạn" hay khái niệm "sức hút của chân không" không còn cần thiết nữa, chân không là một trạng thái bình thường của tự nhiên, cũng như vật chất. Thuyết của Torricelli được Pascal (1623-1662) chứng minh hùng hồn bằng cuộc thí nghiệm nổi tiếng năm 1648 khi đo nhiều lần áp suất khí quyển từ dưới chân núi Puy de Dôme lên đến trên cao. Từ đó phe "bình thường hoá chân không" bắt đầu thắng thế, nhưng cuộc tranh luận với phe "chân không = hư vô = không thể hiện hữu" còn tiếp tục lâu dài, như chúng ta đã thấy với Descartes và Leibniz 14. Phải đến Newton (1642-1727) với quy luật vạn vật hấp dẫn thì trong thế kỷ thứ 18 mới hình thành một mô hình vũ trụ hoàn chỉnh trong đó vật chất quy tụ thành các ngôi sao, mặt trời và các hành tinh vận động trong một không gian cố định, vô tận, trống rỗng, và nhất là đo đạc được trong hệ thống toạ độ của Descartes. Ngoài những khoảng không gian chứa vật chất là chân không. Như vậy, phía ngoài trái đất, và bầu khí quyển bao bọc nó, chủ yếu là chân không.Mô hình này, do sự hoàn chỉnh của nó, được đánh đồng với thế giới hiện thực một cách vô thức, vũ trụ là như thế. Thế nhưng, nếu theo đúng định nghĩa "chân không" là cái nằm trong một khoảng không gian trong đó "không có gì cả", thì phải đặt câu hỏi : vậy trong vũ trụ chỉ có vật chất thôi sao ? Trong các thế kỷ 17 và 18 các bác học khi khảo sát thế giới vật chất đã gặp những khái niệm / hiện tượng không dễ quy về vật chất một cách hiển nhiên, nếu không muốn nói là hiển nhiên không quy về vật chất được : ánh sáng và năng lượng. Cho nên nếu người ta vẫn chấp nhận khái niệm chân không là rất hữu ích để quan niệm về một môi trường "có trước", như một sân khấu trong đó có vật chất vận động cũng như có ánh sáng truyền qua, thì cũng không thể nói dứt khoát một khoảng không gian trong đời thường là "không có gì cả" khi nó không chứa vật chất. Newton cho rằng ánh sáng cũng là một thứ hạt tương tự như vật chất; Huyghens lại cho rằng ánh sáng là sóng, và tương tự như sóng nước hay sóng âm thanh, nó không có bản chất riêng, mà chỉ là dao động của môi trường, do đó vũ trụ phải chìm trong một chất gọi là ête (éther), môi trường qua đó ánh sáng được truyền đi. 3.3. Khủng hoảng Vấn đề còn để ngỏ cho đến đầu thế kỷ 19 khi những nghiên cứu về ánh sáng của Young và Fresnel, kế thừa những công trình của Huyghens, giải thích được gần như toàn bộ các hiện tượng của ánh sáng. Trong thế kỷ 19 trường phái ête thắng thế, và như vậy không hề có "chân không". Nhưng ête vẫn là một cái gì rất lạ kỳ, vừa tuyệt đối "trong suốt", hoàn toàn không cản trở sự vận động của vật chất, vừa phải tuyệt đối "cứng rắn" để có thể truyền đi "tức thời" và với hiệu suất 100% trọng trường và năng lượng, và không ai làm được một thử nghiệm nào có khả năng trực tiếp hay gián tiếp phát hiện ra gì thêm về ête cả. Đến cuối thể kỷ 19, Maxwell thiết lập một phương trình truyền sóng duy nhất cho điện từ và cho ánh sáng, vừa thống nhất hai hiện tượng này, vừa cho thấy đây là một hình thức sóng mới, có thể được mô tả một cách hoàn toàn độc lập với mọi môi giới. Tiếp theo đó là thí nghiệm của Michelson nhằm tìm ête qua chuyển động của trái đất, mà kết quả là phủ định : vận tốc ánh sáng không thay đổi, dù được đo theo chiều chuyển động của trái đất hay ngược lại; trong khi nếu ánh sáng cần ête để truyền đi, và nếu trái đất bay quanh mặt trời trong vũ trụ thì đáng nhẽ kết quả phải khác, theo những nguyên lý của Newton. Khủng hoảng. Và như chúng ta đã biết, đầu thế kỷ 20 hai lý thuyết vật lý mới đã xuất hiện, mang lại những giải thích thoả đáng cho rất nhiều hiện tượng mà trước nay chưa giải thích được, do đó cũng mang lại rất nhiều ứng dụng hiệu quả trong đời sống... Đó là TTĐ và CHLT mà chắc độc giả đã quen thuộc với các khái niệm 18. Riêng về khái niệm chân không, hai thuyết này không thống nhất. 3.4. Einstein và Thuyết tương đối TTĐ ràng buộc thời gian, không gian và vật chất với nhau trong một mô hình toán học theo đó cấu trúc của vũ trụ ở mỗi điểm cục bộ có thể được mô tả gần đúng như một không gian ba chiều cổ điển, với chiều thứ tư là thời gian, nhưng toàn bộ vũ trụ thì không còn có thể được mô hình hoá với không gian ba chiều độc lập với thời gian nữa. Thời gian phụ thuộc vào vị trí và vận tốc của người (hay thiết bị quan sát) đang chuyển động, và không gian thì bị "uốn cong" theo sự hiện diện của các vật thể trong vũ trụ. TTĐ có hai bước phát triển : TTĐ hẹp khởi đi từ hai tiên đề : 1) tính tương đối của các hệ quy chiếu chuyển động thẳng đều với nhau – với ý nghĩa chính xác của chữ "tương đối" là các quy luật vật lý phải hoàn toàn như nhau trong các hệ quy chiếu này – và 2) vận tốc ánh sáng là hằng số trong tất cả các hệ quy chiếu 19. Từ đó suy ra công thức chuyển hoá vật chất - năng lượng E = mc2 lừng danh, và phát hiện không gian cũng như thời gian đều không tuyệt đối 20. Không gian và thời gian trở nên không độc lập với nhau, mà chỉ tồn tại như một dạng hợp nhất mô tả được bằng không-thời-gian của Minkowski 21. Nhưng TTĐ hẹp vẫn giữ một không-thời-gian Minkowski phẳng, nó là một tiệm cận gần đúng của TTĐ rộng trong trường hợp trọng trường rất nhỏ như tại những nơi trong vũ trụ cách xa các thiên thể, hoặc trong các bài toán mà hấp lực của trọng trường là không đáng kể so với các lực khác. TTĐ rộng "mở rộng" TTĐ hẹp theo nghĩa thuyết này khẳng định tính tương đối (vẫn theo nghĩa trên) của các hệ quy chiếu chuyển động bất kỳ. Để viết ra được những quy luật vật lý thống nhất trong mọi hệ quy chiếu như thế, Einstein đã phải nghiên cứu và tự mình phát triển toán học trong nhiều năm, cuối cùng ông đã đi tới một mô hình vũ trụ theo hình học phi Euclide kiểu Riemann. Chúng ta đã biết hình học trên bề mặt trái đất không phải là hình học phẳng mà là một hình học của bề mặt hình cầu có độ cong, mặt phẳng chỉ là tiệm cận của mặt cầu khi độ cong không đáng kể. Tương tự như vậy, trong vũ trụ của TTĐ rộng, thế giới cục bộ được diễn tả một cách tiệm cận như không-thời-gian bốn chiều Minkowski, nhưng khi nhìn tổng thể thì không-thời-gian của vũ trụ có độ cong, và lực hấp dẫn vũ trụ của Newton không gì khác hơn là độ cong của không-thời-gian theo hình học Riemann nói trên, và bài toán cơ học rốt cục được chuyển thành bài toán hình học thuần túy. Để dễ tưởng tượng ta giả thử không gian chỉ có hai chiều thôi, như thế ở mỗi lúc không gian đó như một bề mặt không bằng phẳng có các khối lượng (dẹp, vì hai chiều) và khoảng trống, có đồi núi và lũng sâu, nơi mật độ vật chất càng cao thì bề mặt càng lún sâu, hình dạng của bề mặt không cố định với thời gian mà liên tục trồi lên sụt xuống, uốn lượn, cùng với sự di chuyển của các khối lượng. Trong "không gian" đó có một con đường ngắn nhất giữa hai điểm nhất định, gọi là đường trắc địa (ligne géodésique) – đó là cái tương đương với đường thẳng nhưng không phải là đường thẳng vì ta giả định không gian hai chiều nên nó phải được vẽ lên bề mặt cao thấp quanh co – và nếu không có lực nào tác động lên nó, mọi vật đều sẽ đi theo một đường trắc địa. Với không gian "cong" ba chiều cũng thế, ta có thể tưởng tượng một vùng không gian ở đó trọng trường rất mạnh so với khoảng không gian xa hơn, thì đấy là một "lũng sâu" trên "bề mặt ba chiều" của không gian cong; và "đỉnh đồi" là một nơi mà trọng trường bằng không. TTĐ giải quyết sự chuyển động của sóng điện từ (bao gồm ánh sáng) như là chạy theo một đường trắc địa một cách tự nhiên, không cần môi trường nào khác. TTĐ cũng giải quyết bản chất của năng lượng vì vật chất là năng lượng, và khi vật chất phát ra sóng điện từ thì nó cũng nhẹ bớt, sóng điện từ không có trọng lượng nhưng có năng lượng do vật chất mất đi chuyển hoá thành. Vậy có thể nói trong TTĐ vẫn có chân không, đó là một khoảng không "tối đen" không có sóng điện từ, vì ngoài vật chất và sóng điện từ ra thì "không có gì khác", TTĐ đã giữ lại chân không của vật lý Newton và còn thuần khiết hoá bằng cách giải quyết hai vướng mắc cơ bản như đã nói trên. TTĐ khi áp dụng trong tầm vĩ mô của vũ trụ (và cả tầm trung mô của các vật thể ở tầm con người nhận thức được) là rất chính xác, vì ở kích cỡ đó lực hấp dẫn vũ trụ là quan trọng nhất, và cho đến nay không có phản nghiệm (réfutation, theo nghĩa của Popper) nào. Không-thời-gian của mô hình tính toán trong TTĐ có thể được đồng hoá với không-thời-gian đời thường một cách (rất) gần đúng ở kích cỡ cục bộ vi mô và trung mô, vì cũng chỉ có bốn chiều cơ bản, vận động trong đó là sóng điện từ và vật chất. Nhưng xin nhấn mạnh, không-thời-gian không "có trước", hay độc lập, với vật chất. Tất cả là một thể thống nhất, nếu không có vật chất thì cũng không có không-thời-gian. 3.5. Cơ học lượng tử CHLT được áp dụng một cách rộng khắp và rất chính xác cho những vật thể có kích cỡ vi mô, "hạ nguyên tử" (và hiện nay có thể lên đến kích cỡ phân tử), tuy nhiên như thế không có nghĩa ảnh hưởng của nó không có gì trên kích cỡ lớn hơn. Ngược lại, CHLT là cơ sở lý thuyết để hiểu sâu sắc hơn ngành hoá học và khoa học vật liệu, từ đó đã nảy sinh một cuộc cách mạng kỹ thuật từ nửa sau thế kỷ 20 cho đến nay, với bán dẫn, sợi quang học, lade, mạch tổ hợp ngày càng nhỏ với khả năng tính toán ngày càng lớn... như ta đã biết. Ở kích cỡ hạ nguyên tử thì lực vạn vật hấp dẫn là rất nhỏ so với ba loại lực khác mà người ta đã phát hiện là lực điện từ (1042 lần mạnh hơn, lực duy nhất đo được ở kích cỡ đời thường), lực tương tác yếu và lực tương tác mạnh, hai lực này chỉ có ý nghĩa bên trong hạt nhân các nguyên tử, và ở kích cỡ đó đến lượt lực điện từ cũng trở thành không đáng kể. Sự khác biệt về kích cỡ này giải thích một phần nào những khó khăn nếu người ta muốn thực hiện một thí nghiệm có cả vai trò của TTĐ rộng lẫn CHLT. Khi người ta muốn đo một cách có ý nghĩa các lực điện từ, lực tương tác yếu và mạnh thì chỉ có thể coi trọng trường bằng không, nghĩa là làm mô hình tính toán trong một không-thời-gian "phẳng". Có lẽ phần nào vì thế mà đứng về mặt lý thuyết hiện nay người ta mới chỉ kết hợp được CHLT và TTĐ hẹp. Kết hợp này vừa rất cần thiết vừa được thực nghiệm hỗ trợ, vì các hạt lượng tử có thể xuất hiện với vận tốc rất cao. Những nghiên cứu cơ bản của vật lý và toán học hiện nay là nhằm thống nhất vật lý lượng tử và TTĐ rộng. Cũng như những thí nghiệm vật lý khác, một thí nghiệm CHLT là một tình huống khách quan trong đời thường mà những nhiễu loạn ngoài ý muốn được thanh lọc (điều kiện để thí nghiệm có thể được lập lại). Người ta phải xác định rõ tình huống thí nghiệm một cách rất tổng thể ở điểm khởi đầu, mà những tham số được đem vào mô hình tính toán, sau đó kiểm nghiệm kết quả bằng đo lường trong một khung cảnh cũng được xác định rõ một cách tổng thể. Tuy nhiên, thí nghiệm CHLT có một số đặc điểm rất khác với các thí nghiệm cổ điển, đó là : Sự phân bố lượng tử trong thời gian và không gian ở điểm khởi đầu và điểm kết thúc của thí nghiệm đều chỉ có thể là một sự phân bố có tính xác suất. Ở giữa hai thời điểm đó là sự vận động thuần tuý trong mô hình, một cách tất định, của sóng xác suất, và trong mô hình chỉ có sóng xác suất. Một trong những kết quả của phương trình sóng của CHLT (phương trình Schrödinger, được Dirac mở rộng cho TTĐ hẹp) có nghĩa như sau : bình phương của biên độ sóng ở một điểm trong không gian là xác suất xuất hiện của lượng tử ở điểm đó. Đây là nguyên uỷ của sự diễn tả lượng tử như có lưỡng tính hạt và sóng. Trong cơ học cổ điển người ta không nghi ngờ gì về khả năng có thể phóng chiếu một cách liên tục mô hình của vũ trụ vào vũ trụ của đời thường (và ngược lại). Giả thử hai thí nghiệm được chuẩn bị với tình huống khởi đầu giống nhau ở thời điểm T0. Ở lần thí nghiệm đầu kết quả được đo vào thời điểm T2 là A. Trong thí nghiệm thứ nhì người ta ta đo một kết quả trung gian ở thời điểm T1 với T0 < T1 < T2 , và sau đó kết quả đo được tại T2 là A'. Trong vật lý cổ điển (kể cả TTĐ) hai kết quả A và A' rất gần nhau, có thể coi sự khác biệt là không đáng kể, do những sai số của điều kiện thí nghiệm và sự nhiễu loạn do đo lường ở thời điểm T1. Trong CHLT thì không như thế. Không phải chỉ vì sự nhiễu loạn do đo lường là rất mạnh trên lượng tử, mà còn vì những lý do khác sâu sắc hơn 22. Hai thí nghiệm là hoàn toàn khác nhau, có khi một bên làm tỏ rõ tính chất hạt, và một bên làm tỏ rõ tính chất sóng. Trong CHLT không có sự phóng chiếu liên tục giữa mô hình và hiện thực, không (chưa ?) thể nói lượng tử là gì trong khoảng thời gian giữa hai đo lường, ngoài việc có thể tính toán với nó để tiên đoán những kết quả đo lường ở những thời điểm rời rạc. Mà kỳ lạ thay, những tiên đoán đó lại vô cùng chính xác. Mô hình dùng để tính toán trở nên rất phức tạp, khi được phát triển để dung hợp với TTĐ hẹp nó càng phức tạp hơn. Người ta sử dụng những không gian vectơ có vô tận chiều kích (dimensions), sử dụng một lý thuyết "trường lượng tử ", kết quả của sự lượng tử hoá lý thuyết trường cổ điển. Người ta sử dụng hai toán tử mới : "toán tử tạo sinh" (opérateur de création) và "toán tử huỷ diệt" (opérateur d' annihilation) để mô tả những tương tác giữa các lượng tử. Lý thuyết "trường lượng tử" hiện nay là lý thuyết nền tảng của "mô hình chuẩn" trong CHLT, đó là mô hình được sự đồng thuận của các nhà vật lý vì nó bao quát các kết quả lý thuyết và thực nghiệm tốt nhất cho đến nay, để từ đó nghiên cứu xa hơn, và một lý thuyết mới dù sao cũng sẽ phải dung hợp được mô hình chuẩn. Điểm xuất phát của CHLT là hiện tượng một vật thể chỉ trao đổi năng lượng với bên ngoài qua từng đơn vị tối thiểu E = hλ, trong đó λ là tần số dao động của sóng điện từ mà nó phát ra. Vì h (hằng số planck) rất nhỏ nên trước cuối thế kỷ 19 hiện tượng này không được khám phá. h rất nhỏ nhưng hậu quả thật to lớn : ở tầng tế vi nhất của vật chất người ta gặp sự rời rạc. Cho đến nay sự rời rạc, sự bất định, và sự ngẫu nhiên, được coi là ba tính chất cơ bản của thế giới lượng tử. Xin thêm là công thức E = hλ tự nó đã biểu thị lưỡng tính sóng - hạt của lượng tử, vì tần số là một biểu hiện của sóng, và năng lượng phát ra thành từng gói cố định là biểu hiện của hạt.Những tiên đề làm nảy sinh CHLT bắt nguồn từ những hiện tượng của đời thường quan sát được ở kích cỡ vi mô, lý thuyết – gồm mô hình tính toán – được sáng tạo để giải thích các hiện tượng đó. Nhưng đến lượt nó các mô hình này đã tiên đoán nhiều vấn đề rất kỳ lạ, rất khó chấp nhận vì đi ngược lại với trực giác con người cũng như với những niềm tin tất định luận đã hằn sâu trong lý trí qua gần ba thế kỷ áp dụng vật lý học cổ điển. Đại đa số nhưng chưa phải tất cả các tiên đoán lần lượt được thực nghiệm khẳng định, với độ chính xác rất cao. Những điều ấy, cộng với việc cần dung hợp TTĐ rộng và CHLT trong một nền vật lý học tương lai 23, là những chủ đề còn đang được nghiên cứu. Dòng "bản thể" trong Bảng B muốn nêu ra khung cảnh của những bàn cãi hiện nay về những diễn tả khác nhau của CHLT. Theo cách hiểu chủ quan của người viết bài này, những diễn tả đó là những cố gắng sáng tạo một loại mô hình nằm giữa mô hình lý thuyết dùng để tính toán và những hiện tượng đời thường, một vũ trụ lý tưởng – mà những tham số được dùng trong lý thuyết và thực nghiệm – bao quát mọi hiện tượng của vũ trụ đời thường như sự tiệm cận gần đúng của nó. Một vũ trụ lý tưởng như thế có thể được gọi là bản thể. Khung "bản thể" của mô hình chuẩn hiện nay còn là một màu xám trống rỗng, vì các nhà vật lý tuy đồng ý với nhau khi áp dụng CHLT, chưa đồng ý với nhau về cách "có thể hiểu" một vũ trụ khách quan của CHLT. Bảng B : Hiện tại và những vấn đề tương lai Những đề nghị khác nhau về bản thể có thể được coi là những ý tưởng gợi hứng cho việc phát triển nghiên cứu khoa học của mỗi trường phái, nhưng dù sao sự phát triển cũng vẫn phải theo phương pháp khoa học, đó là bằng cách lập hệ thống tiên đề diễn dịch, tính toán, và thực nghiệm. Ở trên viết "có thể hiểu" vì lý do đó, vì chỉ "hiểu được" thế nào là bản thể, trong nghĩa một vũ trụ khách quan, khi nó là duy nhất và bao quát mọi hiện tượng. Khi đó với thời gian, với sự trợ giúp của giáo dục, truyền thông, và nhất là của những ứng dụng diệu kỳ có ích cho cuộc sống mỗi người, thì vũ trụ lý tưởng đó do khoa học diễn tả sẽ trở thành vũ trụ đời thường của mọi người. Và chúng ta sẽ trở về một thời hoàng kim như thời hoàng kim của vật lý cổ điển, thời mà người ta không có nghi ngờ gì về bản thể của vũ trụ, "nó là như thế "; không nên quên rằng vũ trụ của Copernic-Galilei-Kepler-Newton đã cần cả thế kỷ để trở thành sự "hiển nhiên" phổ quát. Đây là nói như những người mang niềm tin "có thể hiểu". Có những nhà vật lý học lớn cho rằng vĩnh viễn con người sẽ không hiểu được "bản thể". Nhưng dù sao đi nữa, ngoài lưỡng tính hạt và sóng, ít nhất có thêm hai hiện tượng chúng ta phải chấp nhận. Một là hiện tượng "không cục bộ" vô cùng nhức nhối, theo đó hai lượng tử được tạo thành từ một biến cố nào đó sẽ "vương vấn" với nhau dù đã xa nhau sau một khoảng thời gian. Vương vấn theo nghĩa nếu ta đo trị số của một đại lượng nào đó của lượng tử thứ nhất – một điều bí hiểm nữa là lượng tử chỉ có trị số đó một cách ngẫu nhiên khi được đo – thì lượng tử thứ hai lập tức sẽ mang một trị số của đại lượng ấy, có tương quan (correlation) mật thiết với trị số thứ nhất (khi được đo). Lập tức ở đây không có nghĩa chúng "thông tin" rất nhanh được cho nhau, mà ở đây cách hiểu giản dị nhất là phải coi chúng như một thực thể duy nhất, tuy chúng vẫn ở hai vị trí khác nhau trong không gian. Hiện tượng này không những đã được kiểm chứng bằng thực nghiệm, mà người ta đã dùng nó trong một thủ thuật truyền tin để bảo đảm bí mật tuyệt đối. Và hai là "chân không" theo thuyết lượng tử không phải "không có gì". Nó hàm chứa năng lượng 24, mật độ năng lượng của chân không đã được tính toán. Hiệu ứng Casimir là một tiên đoán về tác động có thực của năng lượng này trên vũ trụ đời thường, hiệu ứng này cũng đã được thực nghiệm chứng minh là có. Vậy "chân không" theo CHLT là gì ? xin trích dẫn nhà vật lý học Phạm Xuân Yêm : "Chân không lượng tử được định nghĩa như trạng thái cơ bản tận cùng của vạn vật, nó vô hướng, trung hoà, mang năng lượng cực tiểu trong đó vật chất, tức là tất cả các trường lượng tử, bị loại bỏ hết." 25. Chỉ xin thêm là người ta đã đi đến khái niệm chân không lượng tử sau khi trải qua cả một thời kỳ xây dựng lý thuyết và thực nghiệm để kiểm chứng, nên chỉ có thể nắm bắt được khái niệm này trong toàn bộ khung cảnh của CHLT. Chẳng hạn như việc chân không lượng tử hàm chứa năng lượng chính là một hệ luận của nguyên lý bất định 25. 4. Tạm kết Tiền nhân nhiều khi có những trực giác kỳ diệu về thế giới và về nhận thức của con người. Trong các triết gia Á Đông hay Tây phương đều có những người như thế. Tuy nhiên nếu nhìn khuynh hướng chung thì có thể nói nhị nguyên là đặc điểm của tư tưởng Tây phương, phân biệt rõ thế giới ý tưởng và hạ giới, từ đó có ảnh hưởng đến sự phát triển của toán học như là ngôn ngữ của tự nhiên. Mặt khác tinh thần khoa học thực nghiệm – đã trở thành một sở hữu tư tưởng của cả loài người từ thế kỷ thứ 17 – là sự kết hợp của tinh thần thực dụng (mà ở đâu cũng có ít hay nhiều trong đời sống thực tế) và tinh thần trọng lý thuyết, vì thực nghiệm là so đọ giữa lý thuyết với quan sát hay đo lường. Do đó thiển nghĩ định lượng là một yếu tố nội tại của khoa học tự nhiên, kể cả về mặt lý thuyết. Một lý thuyết hay một quan niệm triết học về thực tại, nếu không có yếu tố định lượng thì chỉ có thể gọi là "tiền khoa học" mà thôi. Tiền khoa học ở đây có thể hiểu theo hai nghĩa : đó có thể là một tư tưởng của thời kỳ trước thời kỳ khoa học hiện đại, và đó cũng có thể là một tư tưởng manh nha gợi hứng cho một lý thuyết khoa học chưa hoàn chỉnh vì chưa được mô hình hoá thành ngôn ngữ toán học với các tham số định lượng. Hai nghĩa này không loại trừ nhau. Sự sáng tạo luôn luôn hiếm có và bí ẩn, để sáng tạo một lý thuyết khoa học thì cảm hứng có thể đến từ bất kỳ đâu, kể cả cảm năng thẩm mỹ. Tuy nhiên có lẽ những ý tưởng sáng tạo không đến từ hư vô, những tư tưởng kỳ vĩ và phong phú của các tiền nhân Á Đông cũng như Tây phương là một nguồn cảm hứng lớn cho phép chúng ta hy vọng. Nhưng rồi mọi sự vẫn phải trở thành một lý thuyết vật lý, và với khoa học hiện đại thì lý thuyết đó, vì đã rời xa trực giác, chỉ có thể mang nặng tính hệ thống tiên đề - diễn dịch của luận lý học và toán học. Lấy hai chữ không và chân không làm thí dụ, chúng ta đã thấy ý nghĩa của chúng, mặc dù thoát thai từ những trực giác đầu tiên của loài người, đã biến chuyển tuỳ theo thời đại. Sự biến chuyển đó có thể nói là do hai nguyên nhân chủ yếu: thứ nhất, học thuật và sáng tạo luôn luôn cần một môi trường tự do tư tưởng, tranh luận hoà bình, có như vậy mới giàu ý tưởng và mới có thể cọ sát những ý tưởng khác nhau rất cơ bản, nảy sinh từ những niềm tin, những nền tảng văn hoá sâu thẳm, của những người thực sự bác học và yêu chân lý. Thứ hai, tư tưởng nào được chấp nhận hay không trong khoa học là tuỳ theo yêu cầu nội tại của khoa học trong từng thời kỳ. Để lấy một thí dụ của thời hiện đại, cuộc tranh luận không nhân nhượng suốt 30 năm về những bí ẩn của lượng tử giữa hai người khổng lồ đồng thời là hai người bạn như Einstein và Bohr, là một tấm gương tuyệt vời về văn hoá khoa học. Cuối cùng, khi một tư tưởng khoa học tương đồng với những tư tưởng cổ đại thì điều ấy có thể làm cho chúng ta sửng sốt và vui thú, tuy nhiên có lẽ không nên quên rằng những tư tưởng cổ đại đó là những tư tưởng tiền khoa học, mà sự phát triển thành một tư tưởng khoa học được đồng thuận rộng rãi là cả một quá trình gian khổ. Người viết tiểu luận này xin cảm tạ các nhà khoa học Nguyễn Mai Ninh, Nguyễn Ngọc Giao, Hà Dương Tường, Nguyễn Xuân Xanh và Phạm Xuân Yêm, đã đọc trước bản thảo, khích lệ, và cho những góp ý quý giá. Mọi sai lầm và thiếu sót hoàn toàn thuộc trách nhiệm của tác giả. Tháng 8.2007 Hà Dương Tuấn Chuyên gia công nghệ thông tin Sách tham khảo : (ngoài các trang mạng đã ghi chú) Dẫn trong bài (theo thứ tự xuất hiện): Nguyễn Xuân Xanh, Einstein, nxb Tổng Hợp, tp HCM, 2007 Fung Yu Lan, A short story of Chinese philosophy, The free press, NewYork, U.S.A. 1948, 1976. Đây là bản rút gọn của tác phẩm tiếng Trung Quốc, A History of Chinese philosophy, nxb Princeton university press, 1983. do Derk Bodde lược dịch. Ông cũng là dịch giả nguyên bản đầy đủ mà người viết vì không biết Trung văn nên không thể dẫn bản nguồn. Tác phẩm lớn này có bản dịch tiếng Việt : Phùng Hữu Lan, Lịch sử triết học Trung Quốc, bản dịch của Lê Anh Minh, nxb Khoa học Xã hội, 2007. Trang quy chiếu ở đây do một người bạn tìm hộ. Maurice Eduard Berthon, Les grands concepts scientifiques et leur évolution, nxb Publication Universitaire, Paris 2000. Các sách tham khảo khác : Richard Feynman : La Nature de la physique, nxb Seuil, coll. Points Sciences, Paris 1980, bản dịch tiếng Pháp này tập hợp 7 bài nói chuyện tổng quát về vật lý học cho sinh viên tại đại học Cornell, Hoa Kỳ, 1964; có thêm bài diễn từ nhận giải Nobel. G. Cohen-Tannoudji & M. Spiro : La matière-espace-temps, nxb Fayard, coll. folio, Paris 1986,1990. Bertrand Russell : ABC of relativity, nxb Routledge, 1993 (in lần đầu 1925). Nhiều tác giả : Demain la physique, nxb Odile Jacob, 2004, tác phẩm phổ biến khoa học do 10 bác học đương đại người Pháp viết, với sự bảo trợ của Hàn lâm viện Khoa học. Nguyễn Quang Riệu : Vũ trụ, phòng thí nghiệm thiên nhiên vĩ đại, nxb Giáo dục, 1995 Trịnh Xuân Thuận : La mélodie secrète, nxb Fayard, 1988, bản dịch tiếng việt của Phạm Xuân Thiều : Giai điệu bí ẩn. Và con người đã tạo ra vũ trụ, Nxb Khoa học và Kỹ thuật, 2001, Mathieu Ricard & Trịnh xuân Thuận : Cái vô hạn trong lòng bàn tay, bản dịch của Phạm Văn Thiều & Ngô Vũ, nxb Trẻ - Tia sáng, 2005. Nguyên bản : L'infini dans la paume de la main, nxb Robert Lafont, Paris, 2000. Đối thoại hiếm có giữa một tu sĩ Phật giáo vốn nghiên cứu sinh học và một nhà vật lý thiên văn học thấm nhuần đạo Phật. Chú thích 1 Xin giới hạn "khoa học tự nhiên" trong nghĩa rất hẹp của ba bộ môn: luận lý học hình thức, toán học và vật lý học. 2 Điều này được biểu lộ rất rõ trong những tranh luận về hiện tượng và bản thể của các nhà khoa học đã đặt nền tảng cho Cơ học lượng tử, thí dụ như để thiết lập "diễn giải Copenhagen"... nhưng đây là một chủ đề khác. 3 Nhân bài này xin đề nghị thay thế từ Đông phương bằng từ Á Đông để nói về vùng văn hoá Hoa-Ấn bằng nguồn gốc địa lý của nó. Nếu Tây phương tương đốikhông mơ hồ là vùng văn hoá gốc Hy Lạp - La Mã, và bây giờ bao gồm cả Hoa Kỳ... thì từ Đông phương (Orient) do "Tây phương" tạo ra và đuợc hiểu rất khác nhau tuỳ văn cảnh. 4 Có một số nhà vật lý học lớn, thí dụ như Eugene Wigner, giải Nobel vật lý 1963, đã từng khẳng định vai trò của ý thức trong sự vận động của vật chất. Nhưng sau khi ông đã nhận ra những sai lầm của mình thì những sai lầm đó vẫn tiếp tục gợi hứng cho nhiều người khác (nhận định đó của Wigner viết năm 1962, và năm 1973 ông đã tự bác bỏ điều ấy). xem http://philsci-archive.pitt.edu/archive/00001574/01/ReviewOfWigner'sWork.pdf . 5 Đó là hai câu đầu, hai câu sau là : Có, không, trăng đáy nước,/ Đừng mắc có cùng không. Do hoà thượng Thích Thanh Từ dịch từ bài kệ nổi tiếng của Từ Đạo Hạnh : Tác hữu trần sa hữu Vi không nhất thiết không. Hữu không như thủy nguyệt, Vật trước hữu không không. Danh nhân phật giáo Việt Nam, Thích Thanh Từ, trích theo trang nhà Quảng Đức : http://www.quangduc.com/Danhnhanvn/91thiensuvietnam02.html 6 Để có thể có một ý niệm về vấn đề này, xin đọc chương 7, đọc kỹ hai đoạn 11&12 (tr. 174-224), đặc biệt hai trang 190-191 về diễn giải Copenhagen, trong tác phẩm : Einstein, Nguyễn Xuân Xanh, nxb Tổng Hợp, tp HCM, 2007. Đoạn này dài 50 trang, nhưng khó có thể viết sáng rõ hơn mà ngắn như thế. Không có con đường đế vương, dù chỉ để bước đầu nắm bắt vấn đề khoa học cốt lõi này, khi nó là chủ đề tranh luận suốt 30 năm giữa hai người khổng lồ Einstein và Bohr! 7 Học giả Trung Quốc Phùng Hữu Lan (1895-1990) khi bàn về chữ "lý" của Chu Hi (1130-1200), một trong hai bậc thầy của nho giáo (Trình-Chu) trong giai đoạn cuối, cho rằng ông rất gần Platon. Mỗi thực thể trên đời này đều có cái "lý" của nó, và cái "lý" đúng là tinh chất của thực thể, là cái xác định chức năng của nó và quan hệ của nó với các thực thể khác. Tuy nhiên có điểm khác biệt với Platon là Chu Hi coi cái "lý" như một thành tố gắn liền vào bên trong của thực thể, không phải nằm trong một thế giới khác như "thế giới ý tưởng" của Platon. Xem: Phùng Hữu Lan, Lịch sử triết học Trung Quốc, bản dịch của Lê Anh Minh, nxb Khoa học Xã hội, 2007; tập II, tr. 601. Hoặc Fung Yu Lan, A short story of Chinese philosophy, The free press, NewYork, U.S.A. 1948, 1976. pp. 294-303. 8 Nhà khí tượng học Lorenz trong một hội nghị khoa học năm 1972 đã đọc tham luận có tựa là "Về khả năng dự báo : một con bướm vỗ cánh ở Brasil liệu có thể gây nên bão tố ở Texas ?". Sau khi ẩn dụ này bị giới truyền thông hiểu nhầm (tội lỗi của nó là quá đẹp) mặc dù đoạn đầu của cái tựa (ở đây được in đậm), do ban tổ chức hội nghị đặt, là rất rõ, ông đã lên tiếng cải chính nhưng không ăn thua gì, sai lầm có khi lan truyền nhanh hơn sự thật. xem : http://fr.wikipedia.org/wiki/Effet_papillon 9 Câu hỏi đặt ra là khi đó liệu có đi ngược lại định lý không đầy đủ của Godel ? xin để ngỏ vấn đề, nếu quả thực không-thời-gian là liên tục thì có lẽ như thế, vì một mô hình chứa cái liên tục hiện hữu (infinité réelle), như không gian toán học hiện nay, sẽ chứa những câu hỏi không có trả lời. Nhưng có thể là những câu hỏi loại đó không có liên hệ với hiện thực khách quan. Và biết đâu trong tương lai người ta sẽ không nghĩ rằng không-thời-gian là liên tục nữa ? Xin xem thêm các chú thích 12 và 23. 10 Bước đột phá là những công trình của Cantor (1848-1918). Nhà toán học lớn Hilbert (1862-1943), năm 1925, đã nói : "Không ai có thể đuổi chúng ta ra khỏi thiên đường mà Cantor đã sáng tạo cho chúng ta". Về vô cùng tận hiện hữu và câu trích dẫn này, xin xem: http://en.wikipedia.org/wiki/Actual_infinity 11 Có thể có nhiều thuyết tập hợp tương đương, tuỳ theo sự lựa chọn tiên đề. 12 Định lý thứ hai của Godel cho biết là không thể chứng minh tính không mâu thuẫn của một hệ tiên đề - diễn dịch bằng bản thân nó, nếu nó có vô tận phần tử. Điều này làm phá sản hy vọng có thể xác lập sự tin tưởng tuyệt đối vào toán học qua lý luận, tuy nhiên sự tin tưởng vẫn đến qua những áp dụng rất hiệu quả của toán học. Người ta viết thứ hai để phân biệt với định lý nổi tiếng hơn, thường được gọi là "định lý của Godel" hay "định lý không đầy đủ của Godel", theo đó một hệ như trên luôn luôn hàm chứa những mệnh đề "bất định" (không thể chứng minh được là đúng, cũng không thể chứng minh được là sai). Về lôgích học và định lý Godel có thể xem giáo trình rất hay của John L. Bell : Notes on Formal Logic : http://publish.uwo.ca/~jbell/LNOTES.pdf 13 Ngoài những tiên đề "hồn nhiên" người ta thêm vào những tiên đề khác để bảo đảm thao tác được với khái niệm vô tận. 14 Leibniz là người đã phát biểu rành mạch "nguyên lý lý do đầy đủ (principe de la raison suffisante)", theo đó mọi sự vật đều phải có lý do đầy đủ để hiện hữu (mọi sự đều có nguyên nhân), "chân không" nếu thực là chân không thì không thể có lý do hiện hữu (chân không từ đâu ra ?); Descartes thì coi ngay cả việc nằm trong không gian cũng là một sự hiện hữu, vậy trong không gian không có "chân không"... Hai ông đều suy ra khái niệm "chân không" từ những đặc tính siêu hình của "hư vô" mà không thấy có thể có một định nghĩa "chân không" rất thực tế, đó là là đặc tính của một khoảng không trong đó "không có gì"; thế mà hình học giải tích của Descartes với không gian ba chiều cho phép quan niệm rất dễ dàng một điều như vậy. Sau Leibniz (và Kant), nguyên lý "lý do đầy đủ" được giảng dạy như một nguyên tắc của luận lý học, với niềm tin tuyệt đối vào tất định thuyết trong suốt hai thế kỷ 18 và 19 người ta không ai nghi ngờ điều này. Nhưng đến nay đã rõ đây chỉ là một niềm tin tiên thiên, không áp dụng được trong cơ học lượng tử. Niềm tin này còn đậm nét trong Einstein khi ông thốt lên "Thượng đế không chơi trò súc sắc". Và phải nói rằng nguyên lý này vẫn mãi mãi hữu ích trong học thuật nói chung, khi nó thúc đẩy người ta không bao giờ bằng lòng ngay với một khẳng định, mà phải đi tìm những lý do sâu xa của chúng. Về nguyên lý này và sự đánh giá của Kant, xem : http://lyc-sevres.ac-versailles.fr/p_leibniz_pub.synth.php 15 Để thí dụ, tiên đề này có thể viết như sau : . 16 Ở đây người ta không khỏi liên tưởng đến Đạo Đức kinh : Đạo sinh ra một, một sinh ra hai, hai sinh ra ba, ba sinh vạn vật. (câu 42). Và "Đạo" là gì : Có một vật hỗn độn mà thành trước cả trời đất. Nó yên lặng (vô thanh) trống không (vô hình), đứng một mình mà không thay đổi (vĩnh viễn bất biến), vạn hành khắp vũ trụ mà không ngừng, có thể coi nó là mẹ của vạn vật trong thiên hạ. (câu 25). Những trích dẫn ở đây, cũng như câu đề từ, được chép từ bản dịch của Nguyễn Hiến Lê, nguồn : wikisource. Có lẽ sự tương đồng không ngẫu nhiên. Cả hai đều muốn khởi đi từ cái "có" cơ bản nhất, và như thế chỉ có thể là "có" "cái không", và cái "có" này đến lượt nó lại là cái "có" thứ hai... Nhưng trong khi thuyết tập hợp chỉ là một mô hình của nhận thức, được xây dựng trầy trật để làm nền tảng cho toán học; thì Đạo Đức kinh có lẽ không phân biệt rõ nhận thức và bản thể, và cuốn sách nền tảng này dĩ nhiên không liên hệ gì đến toán học. 17 Các tiểu đoạn 3.1, 3.2 và 3.3 trong bài này đa phần được tóm tắt từ mục "Vide" (tr. 428-438) của tác phẩm "Les grands concepts scientifiques et leur évolution", Maurice Eduard Berthon, nxb Publication Universitaire, Paris 2000. 18 Đã có nhiều cuốn sách rất hay về những chủ đề này được viết bằng tiếng Việt hoặc dịch ra tiếng Việt, ngoài cuốn Einstein đã dẫn, còn có các tác phẩm của các nhà vật lý thiên văn học Nguyễn Quang Riệu và Trịnh Xuân Thuận. Xin xem phần sách tham khảo. Sách ngoại quốc thì không thể kể xiết. 19 Gallilei đã khẳng định sự tương đối giữa các hệ quy chiếu chuyển động thẳng đều với nhau, nhưng thời ông người ta chưa nghiên cứu về ánh sáng. Cơ học của Newton coi điều đó là đương nhiên. Nhưng sau Huyghens tất cả các nhà khoa học đều tin vào ête, như thế vô hình trung là bỏ ý tưởng tương đối vì xác định có một hệ quy chiếu "tuyệt đối" trong đó ête không di chuyển. Einstein là người đầu tiên khẳng định lại ý tưởng tương đối trong nghĩa trên. 20 Theo nghĩa kết quả việc đo lường không gian và thời gian trong hai hệ quy chiếu chuyển động với nhau là khác nhau. 21 Xem thêm Nguyễn Xuân Xanh, sách đã dẫn, tr. 50-57. 22 Đó là nguyên lý bất định của Heisenberg, theo đó sai số của vị trí nhân với sai số của xung lượng phải lớn hơn hằng số planck chia cho 2π. Đây là nguyên lý của thế giới vật chất chứ không phải giới hạn của khả năng đo lường, nói cách khác: càng muốn đo chính xác vị trí của một hạt, càng mất chính xác trên xung lượng của nó, và ngược lại. 23 "Theo tôi hiểu thì cái khó khăn để hoà hợp CHLT và TTĐ rộng là ở chỗ CHLT đã "lượng tử hoá" vật chất, trong khi không-thời-gian của TTĐ rộng hãy còn liên tục. Vì thế Alain Connes (nhà toán học Pháp) muốn đề nghị "lượng tử hoá" cả không-thời-gian bằng hình học không giao hoán (non commutative geometry) của ông. Không gian và thời gian cũng đứt quãng thành gói hết, chẳng còn liên tục nữa. Nhưng Connes cũng như Poincaré ngày xưa chắc còn thiếu một cái gì để mở đường cho một chân trời mới... một trực giác vật lý học của một Einstein mới." (Trích Phạm Xuân Yêm, thư riêng). Và như thế, biết đâu trong tương lai người ta sẽ hiểu tính liên tục như một tiệm cận của tính rời rạc ? 24 Vậy biết đâu Leibniz và Descartes lại không sai ! nhưng không sai không hẳn là "có lý" ! xin xem chú thích 14. 25 Đặc biệt liên hệ với chủ đề của tiểu luận này là bài "Cái Không trong lượng tử" của nhà vật lý học Phạm Xuân Yêm, http://vietsciences.free.fr/ số tháng 8-2007. Bài này không chỉ nói về "cái không", nó còn cho thấy một toàn cảnh về vật lý đương đại. Đây là bản tác giả đã cập nhật từ bản đăng trong Chim Việt Cành Nam, số 21, tháng 11.2005: http://chimviet.free.fr/index2.htm
    1 like
  21. Không phải là tôi cho Trung không hiểu cơ bản về toán, mà là với khái niệm tập hợp, tôi nhận thấy nó như là khái niệm âm dương vậy. Người học rất dể tưởng mình đã hiểu, và rất tự nhiên, cứ học tiếp, học mãi học mãi, lên rất cao. Có thể hiểu được những cấu trúc toán học rất phức tập. Nhưng điều đó không có nghĩa là hiểu sâu sắc được cái khái niệm cơ bản nào đó. Ngay cả tôi cũng vậy, có thể hiểu được khái niệm này, nhưng chắc gì đã hiểu được các khái niệm khác mà có khi với Trung lại rất dễ hiểu. Nếu hiểu được ý của tôi, xin hãy nghiền ngẫm kỹ tại sao anh Thọ lại không định nghĩa hay định dạng thẳng về khái niệm tập hợp sao cho tương thích với lý thuyết của anh ấy. Như tôi đã nói ở trên, hoàn toàn không ngẫu nhiên chút nào !Thân ái.
    1 like
  22. Lý học Đông phương và sự vô tận của Toán hiện đại. Một lý thuyết thuộc về một nền văn minh vượt trội phải có khả năng giải thích những trường hợp của những giá trị thấp hơn. Hoàn toàn chính xác! Bởi vậy Lý học Đông phương và bài toán bốn màu đã một lần trở thành topic được quan tâm. Bài mở đầu của topic này trên trang lyhocdongphuong.org.vn viết: ===========================================Kính thưa các quí vị trí giả quan tâm. Tôi có nhận được một email của một độc giả quan tâm - tiến sĩ toán lý đã từng du học tại Úc - đặt một vấn đề như sau:Có một bài toán cao cấp ra đề - Đại ý - rằng : Bạn hãy chứng minh rằng chỉ cần 4 màu khác nhau là có thể minh họa một bản đồ thế giới. Anh ấy cho biết hiện tri thức toán học hiện đại chưa ai chứng minh được. Nếu lý học Đông phương chứng minh được điều này thì sẽ chứng tỏ tính vượt trội của Lý học Đông Phương so với tri thưc toán học hiện đại. Vì nguyên nhân này, tôi xin mở một chủ đề mới , mong các trí giả quan tâm trong lĩnh vực Lý học Đông Phương và Toán Lý cho biết nội dụng chính xác của bài toán này và xin cùng các trí giả nghiên cứu các lĩnh vực trên tham gia tìm hiểu. Xin trân trọng cảm ơn. http://www.lyhocdong...oc-dong-phuong/ =========================================== Lần này cũng lại là những mệnh đề làm đau đầu nhiều nhà toán học. Georg Cantor (1845-1918) nhà toán học vĩ đại người Đức – cha đẻ lý thuyết tập hợp hiện đại đã chứng minh được là: 1. Có nhiều sự vô tận bằng nhau: ví dụ sự vô tận của số tự nhiên và số nguyên ( khác nhau 1 số 0) là như nhâu, sự vô tận của số tự nhiên và số hữu tỉ ( phân số) cũng là như nhau – phương pháp chứng minh đơn giản là ánh xạ 1-1. 2. Nhưng có những sự vô tận lớn hơn sự vô tận khác: đó là sự vô tận của các số vô tỉ ( căn 2, hay số Pi) lớn hơn sự vô tận của số tự nhiên – vì không thể ánh xạ được. 3. Và hay hơn nữa: một tập hợp bất kỳ đều tìm được một tập hợp lớn hơn nó – có vô tận các vô tận. Điều hấp dẫn ở đây là những mệnh đề toán học này được đặt ra trong sự miêu tả một bộ phim khoa học viễn tưởng loại "bom tấn" như Avata và nội dung của bộ phim ấy lại đặt ra cho con người những vấn đề của minh triết Đông phương. Bộ phim ấy tên là "Tron". Một lần nữa nó lại liên hệ giữa tính vượt trội của thuyết Âm Dương Ngũ hành - lý thuyết thống nhất - với bài toán của Cantor. Đây là bài viết đầu tiên của topic này. =========================================== Khai bút đầu xuân Tân Mão. Sau khi là một ủng hộ viên bất đắc dĩ của phim 3D ( theo yêu cầu của con trai), Thế Trung có thêm câu chuyện vui về bom tấn 3D mới: TRON-the legacy sau bài viết về Avatar trước đây. Câu chuyện vui được kể ở phần đầu hi vọng sẽ gắn kết với những trao đổi ở phần sau nơi thể hiện chủ đề của bài viết này, nói trước như vậy mong người đọc them chút kiên nhẫn. Ra đời vào năm 1982, TRON được biết đến như một tác phẩm tiên phong sử dụng đồ họa vi tính với mật độ cao. Cho dù không quá thành công tại phòng vé (thu 33 triệu $ khi mà chi 17 triệu $ sản xuất) nhưng TRON vẫn xứng đáng đi vào lịch sử điện ảnh thế giới nhờ cuộc cách mạng kỹ xảo. 28 năm sau, câu chuyện tiếp tục được hãng Walt Disney phát triển và đưa lên màn ảnh rộng với TRON: Legacy. Có thể coi TRON: Legacy như là phần tiếp (sequel) nhưng lại có nội dung hoàn toàn độc lập với bộ phim gốc. Sau khi sinh Sam vài năm thì vợ Kevin mất, một mình ông phải vừa lèo lái tập đoàn Encom - nay đã là tập đoàn phát triển game và công nghệ mạnh nhất thế giới, vừa phải nuôi đứa con trai nhỏ tuổi ở nhà, vừa phải chăm chút cho thế giới ảo do ông tạo ra bên trong cỗ máy tính của mình ở phòng thí nghiệm đằng sau máy chơi game TRON ở khu trò chơi mà ông từng điều hành trước khi trở thành chủ tịch của Encom (Flynn's Arcade). Để bớt gánh nặng trong việc chăm chút cho The Grid (Mạng lưới), ông đã tạo ra một phiên bản kỹ thuật số của chính mình và đặt tên là CLU 2.0 (CLU 1.0 đã bị tiêu diệt trong TRON phần 1), và giao cho nó trọng trách kiến tạo The Grid thay cho mình, cùng với sự giúp đỡ của TRON (phần mềm bảo mật do Alan Bradley tạo ra, xuất hiện từ ở phần 1). Nhưng cuộc sống thật bộn bề đã khiến Kevin ngày càng xa rời The Grid và không thể tiếp tục thường xuyên quay lại thế giới này nữa, dồn tất cả trách nhiệm, gánh nặng đó sang cho CLU 2.0 và TRON. Ông quên rằng một ngày ở thế giới thật đã bằng 1 năm trong The Grid, và quãng thời gian vắng mặt "Đấng Sáng Tạo (The Creator)", có quá nhiều thứ đã xảy ra ở đây và một mình CLU 2.0 phải giải quyết hết sức vất vả. Mọi chuyện đặc biệt khó khăn khi bên trong The Grid bỗng nhiên xuất hiện 1 cộng đồng các programm - chương trình (người kỹ thuật số trong The Grid) tự phát sinh, chứ không hề do Kevin và CLU tạo ra. Cộng đồng này tỏ ra có khả năng tư duy độc lập và muốn tách ra khỏi thế giới chỉn chu, hoàn hảo, có trật tự mà CLU đã dày công tạo ra bao lâu. Kevin rất khoái chí với hiện tượng các chương trìh tự sinh ra thế này và muốn để mặc cho cộng đồng này tự phát triển một cách tự nhiên. Nhưng CLU 2.0 lại phản đối, nó muốn đưa cộng đồng này vào khuôn khổ giống như bao chương trình khác trong cái thế giới mà nó điều hành bấy lâu. Mâu thuẫn giữa CLU và Kevin lớn dần khi cộng đồng tự phát kia bắt đầu phản kháng lại sự điều hành của CLU và hắn bắt đầu sử dụng các biện pháp mạnh đối với cộng đồng này - các cuộc đấu game trong đấu trường và Derezz bớt những kẻ cứng đầu. (Derezz là thuật ngữ sử dụng thường xuyên trong phim, có nghĩa tương đương với việc 1 chương trình - người kỹ thuật số bị tiêu diệt, chết. Đây là từ viết tắt từ De-resolution, có nghĩa là giảm độ phân giải). CLU chất vấn trách nhiệm của Kevin - Đấng sáng tạo của The Grid khi ông vắng mặt quá lâu nhưng vẫn đòi kiểm soát cái thế giới mà rõ ràng là do một tay CLU tạo ra bấy lâu nay. Và đó là lúc câu chuyện của phim bắt đầu. Năm 1989, Kevin Flynn, một kỹ sư phần mềm sáng tạo và Giám đốc điều hành của ENCOM quốc tế, biến mất.Hai mươi năm sau, con trai của Kevin, Sam người trở thành cổ đông kiểm soát ENCOM sau khi cha mình biến mất không còn hứng thú với công ty ENCOM. Tuy nhiên sau khi một người bạn của cha mình và là một thành viên ban giám đốc ENCOM Alan Bradley tới thăm và chỉ cho Sam đến điều tra một khu vực bí ẩn có nguồn gốc từ khu vui chơi cũ của Flynn. Trong khi khám phá khu vui chơi cũ kỹ này, Sam phát hiện ra một phòng thí nghiệm máy tính bị che dấu và vô tình đưa mình vào lưới điện toán, một thế giới ảo bên trong máy tính. Sam bị bắt và đưa tới đấu trường game, nơi cậu phải đọ sức với Rinzler, nhà vô địch của các trò chơi. Trong trận đấu của họ, Rinzler thông báo rằng Sam không phải là một chương trình, mà là một người dùng. Rinzler đưa Sam đến gặp CLU, một bản sao kỹ thuật số của Kevin Flynn, ông chủ của mạng lưới điện toán. CLU gần giết Sam trong một trận đấu trước khi Quorra kịp giải cứu Sam. Đưa đến một nơi ẩn náu xa ngoài lưới điện, trong "Outlands," Sam gặp lại cha mình. Flynn giải thích rằng ông đã làm việc để xây dựng một hệ thống mới "hoàn hảo" và đã bổ nhiệm CLU là tác giả của nó. Sau khi làm việc nhiều, Flynn đã phát hiện ra một loạt các chương trình "thuật toán đẳng cấu" (ISO), có khả năng tự sinh sản và mang theo tiềm năng để mở khóa những bí ẩn về khoa học, tôn giáo, và y học. CLU coi Chương Trình này là một sự bất toàn và để phù hợp với chỉ thị của mình về "tạo nên hệ thống hoàn hảo", CLU phản bội Flynn và xóa sổ các ISO. Flynn cũng tiết lộ rằng trong khi ông trốn khỏi CLU, người có tham vọng để tiếp cận với thế giới thực, các cổng thông tin trở lại với thế giới thực sự đã đóng cửa, và ông trở thành một kẻ bị bắt trong sáng tạo của riêng mình cho đến khi Sam mở lại nó từ bên ngoài. (Vì CLU là bản sao của Flynn, nên Flynn không có cách nào hóa giải được CLU, ông tìm đến với tu Thiền như là phương pháp giảm quyền năng của CLU và kiến tạo cũng như bảo toàn Outlands – Cõi ngoài, ông dành thời gian nghiên cứu các sách cổ như Kinh Dịch để tìm ra cách giải quyết tình trạng tiến thoái lưỡng nan của mình,và ông cũng nuôi dạy Quorra.) Để trở lại thế giới thực, nơi tự mình có thể xóa sổ CLU, Sam trốn cha trở lại vào The Grid ( Mạng điện toán) để tìm một chương trình có tên là Zuse, người ông tin rằng có thể cung cấp thông qua về cổng thông tin an toàn. Ông chủ End of Line Club, Castor hóa ra chính là Zuse, và thay vì giúp đỡ, hắn đã phản bội và báo cho quân lính của CLU tới bắt Sam. Mặc dù Flynn và Quorra tới vừa kịp để giúp Sam thoát, Quorra bị thương nặng và Zuse đã nhanh tay cướp được đĩa chương trình gốc của Flynn ( mỗi nhân vật trong mạng lưới điện toán đều được gắn 1 đĩa hình tròn sau lưng giữ chương trình gốc của mình). Biết rằng chiếc đĩa này là chìa khó chủ của The Grid, Zuse cố gắng sử dụng nó để thương lượng với CLU, nhưng CLU lạnh lùng cướp đoạt nó và phá hủy câu lạc bộ. Flynn và Sam mang theo Quorra bị thương đi trên một tàu chở hàng hướng tới cổng. Trong khi Flynn chữa cho Quorra, ông tiết lộ Quorra chính là nhân vật sống sót cuối cùng ISO. Cả ba bất ngờ bị dừng lại tại một trạm trên một tàu chiến lớn và gặp Rinzler. Trong lúc Quorra cố gắng để đánh lạc hướng anh ta, Flynn nhận ra Rinzler chính là Tron lập trình lại ( với chiếc đĩa của Flynn – Tron). Ở một nơi khác trên tàu, CLU chỉ đạo quân đội của mình, thể hiện mong muốn của mình là bước vào thế giới thực và "hoàn hảo" nó. Sam cứu được Quorra từ Rinzler và lấy lại được đĩa của Flynn. Bộ ba thoát đi bằng một tàu con thoi trên không nhưng CLU phát hiện và đuổi theo, cùng với quân lính và Rinzler. Quorra và Sam sử dụng phương pháp làm rối loạn phương hướng và tấn công từ phía sau để bắn hạ hết quân lính của CLU. Trong khi Rinzler di chuyển để tiêu diệt tàu con thoi, đã bắt gặp ánh mắt của Flynn và đột nhiên lấy lại danh tính thật của mình là Tron và tuyên bố: "Tôi chiến đấu cho các người dùng," Tron cố tình va chạm với CLU và làm cả hai Chương Trình ngã nhào. CLU vật lộn thoát khỏi Tron và tạo ra một phản lực ánh sáng, bay ra đến cổng. Tron rơi vào biển mô phỏng, làm cho giáp áo của mình trở về màu xanh của nó ban đầu. Sam, Flynn và Quorra cuối cùng đến được cổng thông tin, nhưng tại đó họ gặp CLU đang chặn đường. Sau khi cố gắng giải thích với CLU, Flynn hy sinh thân mình để chấm dứt bế tắc, kéo CLU về phía anh ta và làm cả hai hợp nhất, trong khi Sam và Quorra sử dụng đĩa của Flynn đi thông qua các cổng thông tin về thế giới thực. Flynn và CLU hợp nhất gây ra một vụ nổ lớn. Quay lại trong tầng hầm của khu vui chơi của Flynn, Sam lưu bản sao lưu của lưới điện vào ổ đĩa flash của mình. Sau đó ông gặp Alan và nói với ông rằng Sam sẽ bắt đầu làm việc tại ENCOM, với vai trò là cổ đông kiểm soát, ông đưa Alan làm Chủ tịch hội đồng quản trị. Quorra gặp Sam bên ngoài, và hai cùng lên xe máy phóng đi. Bộ phim kết thúc với Sam đưa Quorra đi xem mặt trời mọc, hình ảnh mà cô đã luôn mong muốn được nhìn thấy. Phần tóm tắt kịch bản phim này lấy từ wikipedia và diễn đàn hdvietnam – Thế Trung chỉ thêm vào những phần trong ngoặc do đã xem phim. Cũng trên Wikipedia có thông tin sau: “Bridges brought on board Bernie Glassman (http://en.wikipedia....ernard_Glassman), a Zen Buddhist, to consult on the story and add spiritual subtext." - Diễn viên Bridges mời nhà thiền tông Phật học Bernie Glassman đến tư vấn về cốt truyện và đưa vào các ẩn dụ tư tưởng. Việc này, chỉ sau này tìm hiểu tôi mới biết, còn ngay sau khi xem phim tôi đã nói với con trai mình, con có biết Tron là gì không – chính là TRÒN đó – đó là hình ảnh của Thái Cực. Việc có Bernie tư vấn đã khẳng định những ẩn dụ về Tron-Chân Tâm, CLU-vọng tâm và ISO-tình thương không chỉ là những trùng hợp ngẫu nhiên. Tuy nhiên có một điều lạ là TRON tên chính của phim – hình ảnh ẩn dụ cao nhất có từ bộ phim gốc từ 1982 hình ảnh của chiếc đĩa chương trình gốc đồng nhất với hình TRÒN và là tượng của Thái Cực vẫn là một trùng hợp bí ẩn phải chăng đã nằm ngoài cả những toan tính của đoàn làm phim? Dùng ẩn dụ Tron-Chân Tâm, CLU-vọng tâm và ISO-tình thương đọc lại nội dung trên chắc cũng đã đủ thú vị và xứng đáng với số tiền bỏ ra để xem phim này, nhưng như là TRON sẽ còn tập tiếp theo, chúng ta hãy cùng khám phá thêm một chi tiết thú vị nữa – tại sao CLU đánh ngã được TRON xuống biển mà lại tan biến vào Flynn – vậy đâu là quyền năng cao nhất? Trong diễn đàn có lẽ nhiều cao thủ dễ dàng trả lời được câu hỏi này từ góc độ Phật học và Lý học, Thế Trung xin đóng góp từ góc nhìn toán học / khoa học hiện đại. TRON và CLU hay Chân Tâm và Vọng Tâm đều là những đại lượng vô tận, với đa số mọi người thì đã là vô tận thì chắc đều vô tận như nhau. Các nhà toán học thì nghĩ khác, Georg Cantor (1845-1918) nhà toán học vĩ đại người Đức – cha đẻ lý thuyết tập hợp hiện đại đã chứng minh được là: 1. Có nhiều sự vô tận bằng nhau: ví dụ sự vô tận của số tự nhiên và số nguyên ( khác nhau 1 số 0) là như nhâu, sự vô tận của số tự nhiên và số hữu tỉ ( phân số) cũng là như nhau – phương pháp chứng minh đơn giản là ánh xạ 1-1. 2. Nhưng có những sự vô tận lớn hơn sự vô tận khác: đó là sự vô tận của các số vô tỉ ( căn 2, hay số Pi) lớn hơn sự vô tận của số tự nhiên – vì không thể ánh xạ được. 3. Và hay hơn nữa: một tập hợp bất kỳ đều tìm được một tập hợp lớn hơn nó – có vô tận các vô tận Ta tạm dừng ở đây và thử xét về TRON và CLU – CLU có thể hoàn hảo hóa được thế giới hay không – điều đó phụ thuộc vào định nghĩa thế giới nào – nếu thế giới đó dù là vô tận nhưng nhỏ hơn sự vô tận của CLU thì chắc hẳn việc này khả thi – CLU sẽ kiểm soát được thế giới số tự nhiên dễ dàng – nhưng khi ISO ra đời – hay còn gọi là số vô tỉ thì CLU không thể hoàn thành được sứ mệnh của nó. Người canh gác TRON không có quyền năng khống chế CLU, thậm chí bị CLU biến thành tay sai, nhưng căn nguyên của TRON vẫn luôn ở đó, chỉ cần được hé mở tiếp xúc với chân lý, nó trở về ngay. Flynn luyện thiền phải chăng là một cách để dần cứu lại TRON? Quay trở lại toán học, Cantor cũng chứng minh được - một chứng minh mà ông cho là điên rồ – rằng số điểm trên một đường thẳng bằng với số điểm trên một đoạn thẳng ( chắc ai cũng biết đường thẳng là đoạn thẳng kéo dài vô tận về 2 phía) – và rộng hơn nữa số điểm của một hình đa chiều liên tục cũng chỉ bằng số điểm trên một đoạn thẳng ( dù nhỏ bé đến đâu chỉ cần > 1 điểm) mà thôi. Thái Cực – sinh lưỡng nghi rồi trùng trùng duyên khởi – phải chăng vô tận mà thực ra chỉ là lưỡng nghi khác Thái Cực một chút mà thôi. Thế còn Thái Cực là vô tận gì? Cantor nổi tiếng về một nghịch lý khác nữa – một nghịch lý làm đau đầu đến phát điên ( theo nghĩa đen) nhiều nhà toán học: Tập hợp của tất cả các tập hợp trên đời là cái loại gì? Nếu nó lớn nhất thì mâu thuẫn với định lý 3. ở trên nhưng nếu nó chưa lớn nhất thì còn cái gì lớn hơn được nó nữa? Không lớn – không bé – không hình tướng ….. Nghịch lý này cùng với một giả thuyết về sự liên tục của vô tận ( chứng minh rằng giữa sự vô tân của số vô tỷ và vô tận của số tự nhiên không tồn tại của một loại vô tận nào khác – hoặc có) là một đánh đố toán học của thế kỷ 20 đến khi Godel và Paul Cohen chứng minh được rằng giả thuyết này không thể chứng minh được bằng nền tảng toán học hiện tại. Georg Cantor, Godel được cho là đã chết trong sự điên và hoảng loạn, một định mệnh cho những nhà khoa học về vô tận. Nhưng vẫn còn đó cái gốc của Cantor, những người thực hành Kabbalah. =========================================== Các bạn chia sẻ với tôi thân mến. Thuyết Âm Dương Ngũ hành đã giải bài toán của Cantor từ lâu rồi và nó đã miêu tả ngay trong khái niệm của nó. Trong bài trước tôi đã phác thảo mối liên hệ. Nhưng tôi sẽ nói rõ hơn ở đây. KHÁI NIỆM NGŨ HÀNH & TẬP HỢP CỦA NHỮNG TẬP HỢP Cantor xác định: 3. Và hay hơn nữa: một tập hợp bất kỳ đều tìm được một tập hợp lớn hơn nó – có vô tận các vô tận. Tôi không phải nhà toán học, nhưng xác định ngay rằng: Cantor đúng. Bởi vì, Lý học Đông phương đã ứng dụng điều này từ lâu. Đó chính là sự phân loại vạn vật trong vũ trụ theo Ngũ hành. Các bạn nghiên cứu Lý học Đông phương và những anh chị em các lớp Phong Thủy thân mến. Chúng ta hãy nhìn vào hình ảnh cái bể cá mà tôi chụp dưới đây: Các bạn sẽ thấy các con cá màu đỏ thuộc hành Hỏa theo sự phân loại của Ngũ hành, những con cá màu xanh thuộc hành Thủy, màu vàng thuộc hành thổ.....Nhưng tất cả những con cá trong tập hợp được phân loại theo ngũ hành đó, nằm trong một tập hợp lớn hơn: Tập hợp của chính cái bể cá thuộc hành Thủy. Nhưng chính cái bể cá hình vuông này lại là một phần tử thuộc tập hợp những vật dụng thuộc hành Thổ trong căn phòng này. ....cứ như thế, sự phân loại theo Ngũ hành là vô tận cho đến tận khởi nguyên của vũ trụ được phân loại theo Ngũ hành - Thuộc Âm. Một linh vật của nền văn hiến Việt trải gần 5000 năm, một thời huy hoàng ở bở nam sông Dương Tử chính là chiếc bánh chưng bánh dày, mà tất cả con cháu Lạc Hồng đã dâng lên tổ tiên trong những ngày Tết vừa qua, xác định điều này. Định đề thứ ba này của Cantor không hề mâu thuẫn với nghịch lý của ông. Định đề thứ ba của Cantor phát biểu rằng: Định đề thứ ba này của Cantor có vẻ như mâu thuẫn với nghịch lý của chính ông - đã trích dẫn - như sau: Nhưng nền Lý học Đông phương mà nền tảng của nó là thuyết Âm Dương Ngũ hành - lý thuyết thống nhất mà nhân loại đang mơ ước - thuộc về lịch sử văn hiến Việt trải gần 5000 năm một thời huyền vĩ bên bờ nam sông Dương tử - xác định rằng: Hoàn toàn không hể mâu thuẫn với định đề thứ ba của Cantor. Tập hợp của tất cả các tập hợp chính là khái niệm Thái Cực trong Lý Học Đông Phương - Đó chính là Tính thấy, là Đạo, là Thượng Đế..... Với Thái Cực không nên dùng khái niệm to/ nhỏ mà nên dùng khái niệm "Tuyệt đối". Tôi đã xác định khái niệm Thái Cực trong tiểu luận "Định Mệnh có thật hay không?" và đã trình bày trong sách đã xuất bản với các lần thể hiện qua tiểu luận cùng tên trên các diễn đàn Lý học. Khái niệm này không có thay đổi về căn bản trong lần xuất bản này. Godel và Paul Cohen chứng minh được rằng giả thuyết này không thể chứng minh được bằng nền tảng toán học hiện tại. Hoàn toàn chính xác.Đức Phật đã xác định rằng: "Không thể có hai cái tính thấy xác định nhau" (Cái tính thấy này nhìn thấy cái tính thấy kia). Vâng! Đấy chính là nguyên nhân để Godel và Paul Cohen xác định rằng: Giả thuyết của Cantor không thể chứng minh được bằng nền tảng toán học hiện tại. Bởi vì, nếu có những cấu trúc toán học xác định được Tính Thấy/ Thái Cực thì chính là " Cái tính thấy này nhìn thấy cái Tính thấy kia" và đó là điều vô lý. Vì sẽ có hai cái vô tận không nằm trong một tập hợp của tất cả mọi tập hợp. Chính xác gơn là chúng không nằm trong nhau. Các bạn chia sẻ với tôi thân mến! Thuyết Âm Dương Ngũ hành đã chứng tỏ tính tương đồng về khái niệm với ngay cả những trí thức toán học cao cấp nhất. Nó xác định ngay cả những vấn đề của Toán học hiện đại và đã ứng dụng trong nền văn minh Đông phương. Đây chính là Lý thuyết thống nhất mà nhân loại đang mơ ước được gìn giữ trong nền văn hiến Việt với gần 5000 năm lịch sử.
    1 like
  23. TƯỚNG MẠO Lốc cốc tử biên soan Sau hàng chục năm được xem nhiều sách của nhiều tác giả và , nhất là được nghiên cứu thực tế trên hàng nghìn bàn tay của mọi lứa tuổi , mọi nghề nghiệp , tôi cũng rút đúc được một số kinh nghiệm về TƯỚNG MẠO của con người .Tôi xin được mạnh dạn trình bầy rất mong được các bạn nghiên cứu và góp ý . -Tâm con người nhà Nho gọi là LINH ĐÀI - Đạo GIÁO gọi là LINH QUAN - Đạo PHẬT gọi là LINH SƠN. *Tâm là chủ gia của hồn phách , lo cho sự động tĩnh của Tinh, Khí, Thần . *Tâm là chỗ của Tinh khí ngự , không có Tâm , Tính không tồn tại . Tính với Tâm hợp thành một khối. Nói:”Tâm hay Tính tốt .” Hai cái đó chỉ là một . * Người đời có hàng trăm tâm tính. Xin đúc kết lại điển hình những lọai sau : _Tính Trung lương từ thiện . _Tính cao thượng cương trực _Tính cẩn thận chừng mực _Tính an thường , thủ phận . _Tính tham lam quá quắt . _Tính hồ đồ đa nghi _Tính bủn xỉn keo bẩn _Tính đó kỵ ghen ghét * Tâm là gốc của hình mạo . Từ Tâm mà xét ra hình mạo , hoặc ngược lại từ hình mạo mà suy ra Tâm của con người . Tất cả những cái đó đều thể hiện ra Tướng mạo . Từ Tâm mà thể hiện ra Tướng . Từ Tâm (Tính ) sự thể hiện của Tâm ra thái độ , chúng ta sẽ đúc kết được những kết quả như sau : - Tâm tính cha mẹ không công bằng: Con cháu hư đốn . - Tâm tính hòa bình: Con cháu vinh hiển - Tâm tính cố chấp: Dễ gây tai họa . - Đại phú quý mà vẫn bình thản: Sẽ được hưởng Phúc Thọ vô cương . - Kính già , thương trẻ: Người đáng tin cậy . - Ngôn ngữ nhiều câu phản phúc: Là con người quỷ quyệt . - Cúi đầu nói nhỏ: Là con người gian tham. - Thái độ hùng hùng hổ hổ: Không phải kẻ anh hùng hào kiệt. - Trọng giầu khinh nghèo: Là người bất nhân. - Có mới nới cũ: Là kẻ bất lương . -Quên ơn, nhớ oán: Công danh bất thành. - Gập ai cũng là tri kỷ mà chơi thân: Là kẻ phản trắc. - Mới có chút tiền mà đã kiêu căng: Là kẻ tiểu nhân , dễ gặp tai họa. - Người hay hứa hẹn, kể công: Là kẻ bất nghĩa . Tất cả những điều nói trên chúng ta có thể quan sát bên ngoài mà họ thể hiện ra TƯỚNG MẠO và qua cử chỉ hành động của người ấy trong một thời gian nào đó . A - Quan sát ngôn ngữ. - Chính nhân quân tử: Nói điềm đạm , mạch lạc. Âm phát ra nghe mạnh . - Người ngay thẳng bác ái: Nói năng ôn tồn thư thái . - Người mềm yếu bạc nhược: Nói bầy nhầy, âm thanh phát ra như đi trong bùn . - Người đa nghi , thiếu nghị lực: Nói quanh co, ậm ừ. - Người cố chấp: Âm thanh phát ra nghe như tiếng cắt sắt, nghe lạnh, vô tình . B - Quan sát thái độ . - Chính nhân quân tử: Thái độ và cách cư xử trang nghiêm đứng đắn. - Lão thành kinh lịch: Thái độ và cách cư xử trước sau như một. - Người cương trực: Thái độ và cách cư xử cẩn thận nhưng không câu nệ - Bọn tiểu nhân: Nói khéo ưa làm thân, quen cầu cạnh. C - Quan sát mục đích và cách làm việc: -Thấy hoạn nạn hay giúp người nhưng không kể công: Là người chuộng nghĩa. Những người này thương hay hy sinh nhận phần thiệt thòi về mình để nhường phần lợi cho người khác. (Họ có thể nói dối. Nhưng câu nói dối đó lại có lợi cho người khác. Thí dụ: Trong một lần ăn cơm, thấy cơm trong nồi còn ít, họ nói với anh bạn: ”Tôi ăn no rồi, anh ăn nốt đi!” Nhưng thực ra họ chưa ăn. Loại người này thường khỏe mạnh và thọ lâu, it ốm đau bệnh tật . -Thấy lợi hay tranh giành: Là những người ti tiện hẹp hòi.( Tất nhiên hiện nay trong kinh doanh là phải cạnh tranh, nhưng đó là sự cạnh tranh lành mạnh . Trong thể thao người ta hay dùng từ fairplay để chỉ những ngừoi có tinh thần thượng võ . - Nay phải, mai trái, hồ nghi bất quyết: Đó là bọn gian trá. - Người quân tử: An phận thủ kỷ. - Kẻ ngu xuẩn: lúc nào cũng gây sự. D - Quan sát đôi mắt: - Mắt sáng, linh hoạt: Người thông minh, gan dạ. - Mắt ôn hòa: Là người chính nhân quân tử. - Kẻ gian ác: Mắt ba góc, có những tia đỏ đầy săc khí . - Kẻ dung tục: Nhãn quang trầm trệ. - Người kiêu căng: Mắt ưa nhìn lên. - Kẻ ích kỷ hại nhân: Mắt ưa nhìn xuống. - Kẻ âm mưu bất chính: Mắt có tà thị , không dám nhìn thẳng. - Kẻ ngạo ngược bất nhân: Mắt dê (Dương nhãn) E - Quan sát tướng mạo. - Người ôn hòa: Ngũ quan chính trực. - Kẻ thủ đoạn: Quyền cốt cao, mặt xanh xanh. - Bọn cơ hội: Đầu nhọn mắt nhỏ . - Kẻ gian giảo: Đầu mũi nhọn, không có thịt . - Kẻ bất nghĩa: Mặt xạm đen. (Chú ý không nên nhầm với nước da ) - Da mặt mỏng: Dễ thay đỏi lòng dạ - Người huyết dũng: Lúc giận thì mặt đỏ . - Người mãnh dũng: Lúc giận thì mặt xanh. - Người cốt dũng: Lúc giận thì mặt trắng bệch. - Người thân dũng: Vui buồn không lộ ra nét mặt . - Người lộ hầu: Dễ xẩy ra nhiều tai ách. - Đầu nhỏ: Nghèo nàn. - Người có dáng đi như rắn bò (Lắc người, uốn lượn): Bôn ba lao khổ . Còn tiếp ……
    1 like