• Thông báo

    • Bá Kiến®

      Nội quy Lý Học Plaza

      Nội quy này là bản mở rộng Nội Quy - Quy định của Diễn đàn. Khi tham gia mua bán, các thành viên phải tuân theo những quy định sau: Tiêu đề bài viết: Bao gồm: Chỉ dẫn địa lý, Loại hình Mua/Bán, Thông tin mua bán.
      Chỉ dẫn địa lý: Tỉnh/thành nơi mua bán. Hoặc sử dụng định nghĩa có sẵn:TQ: Toàn quốc
      HCM: TP Hồ Chí Minh
      HN: Hà Nội
      [*]Ví dụ: HCM - Bán Vòng tay Hổ Phách ​Nội dung bài viết: Mô tả chi tiết sản phẩm mua/bán
      Bắt buộc phải có thông tin liên lạc, giá Mua/Bán
      Bài mới đăng chỉ được phép up sau 03 ngày.
      Thời gian up bài cho phép: 01 ngày 01 lần.
      Các hành vi vi phạm nội quy này sẽ bị xóa bài hoặc khóa tài khoản mà không cần báo trước.

Leaderboard


Popular Content

Showing most liked content on 10/02/2011 in all areas

  1. Bị ngăn cản kết hôn vì không hợp tuổi Tôi tuổi Dần và anh tuổi Hợi. Mẹ tôi và mẹ anh đã ra sức ngăn cản chuyện tôi và anh yêu nhau, rồi đưa ra các dẫn chứng vợ chồng kỵ tuổi lấy nhau, người chồng đã mất khi còn rất trẻ. Tôi đau khổ và bối rối vô cùng. From: Xuân Thu Sent: Thursday, November 25, 2010 2:44 PM Kính gửi các anh chị Ban biên tập mục Tâm sự! Tôi viết câu chuyện của tôi với mong muốn duy nhất là có thể chia sẻ lòng mình cả với những người tôi không hề quen biết dù câu chuyện của tôi có lẽ đã thuộc vào đề tài quá cũ. Hơn 4 năm trước đây tôi đã gặp và nhận lời yêu người yêu tôi bây giờ. Tình cảm của chúng tôi đã trải qua rất nhiều sóng gió với hiểu lầm, không liên lạc và xa cách. Nhưng khi gặp lại nhau vào năm ngoái, cả hai chúng tôi đã quyết định quay lại. Chúng tôi là tình yêu đầu đời trong sáng và đã có rất nhiều kỷ niệm vui buồn, những lúc vượt qua khó khăn luôn ở bên nhau. Giờ đây khi cả hai có công việc ổn định và có thể tiến đến hôn nhân thì tình yêu của chúng tôi cũng đang đi đến lúc bế tắc vô cùng chỉ vì một lý do duy nhất: tôi và anh kỵ tuổi nhau. Tôi tuổi Dần và anh tuổi Hợi. Mẹ tôi và mẹ anh đã ra sức ngăn cản chuyện tôi và anh yêu nhau, rồi đưa ra các dẫn chứng vợ chồng kỵ tuổi lấy nhau, người chồng đã mất khi còn rất trẻ. Đọc đến đây có thể rất nhiều người sẽ nói rằng thời buổi nào rồi mà còn coi trọng chuyện tuổi tác trong hôn nhân. Nhưng có thể các anh chị nằm trong số ít không coi trọng chuyện này. Trong khi đó người Việt Nam rất xem trọng chuyện tuổi tác trong hôn nhân. Nếu lấy nhau trong sự ngăn cản quyết liệt của gia đình 2 bên hẳn tôi và anh đều sẽ không thực sự hạnh phúc. Tôi có thể khẳng định chúng tôi yêu nhau rất nhiều và tình yêu đã đủ lớn, đã được thời gian chứng minh. Nhưng tôi cũng không hiểu sao giờ đây tôi đang quyết định không liên lạc với anh để chúng tôi suy nghĩ lại chuyện này. Tôi có cảm nhận rằng tình yêu của tôi sắp ra đi. Tôi đau khổ và bối rối vô cùng. Các anh chị ai đã có kinh nghiệm giải quyết vấn đề này xin hãy chia sẻ cùng tôi. Hiện tại tôi cảm thấy hụt hẫng trong lòng. Rất mong Ban biên tập đăng bài viết này của tôi để tôi có thể tìm ra hướng đi đúng đắn cho bản thân mình. Chân thành cảm ơn anh chị! Thu http://vnexpress.net/GL/Ban-doc-viet/Tam-s...10/11/3BA237EF/ Hai mối tình của tôi đều tan vỡ vì không hợp tuổi Khi cô ấy nghe nói không hợp như vậy thì tinh thần yêu đương tan biến đi đâu mất và xoay 180 độ. Cô ấy nói thôi mình chỉ có duyên phận tới đó, dừng lại là đúng mức rồi. Tôi nghe mà không tin vào tai mình nữa. (Hung) Xem tiếp : http://vnexpress.net/GL/Ban-doc-viet/Tam-s...10/12/3BA23EAB/ Đau khổ khôn nguôi sau mối tình kỵ tuổi Phải chia tay anh, tôi hụt hẫng, đau khổ, mất niềm tin. Hơn một năm đầu tiên tôi đã đi tìm anh, nấp ở một góc nào đó để đợi anh đi làm về, để thấy bóng dáng anh cho đỡ nhớ, cho đến ngày anh có người khác thì tôi không còn đến tìm anh nữa. (Hien) Xem tiếp : http://vnexpress.net/GL/Ban-doc-viet/Tam-s...10/12/3BA23E2C/ -------------------------------------- Bài trả lời của TTNC Lý Học Đông Phương Kính gửi ban biên tập mục Tâm sự và quý bạn đọc, Mấy hôm nay chúng tôi theo dõi mục tâm sự và cảm thấy khá bức xúc vì các vấn đề về tuổi hợp hay không hợp trong hôn nhân. Là những người đã và đang nghiên cứu văn hóa truyền thống, nghiên cứu hệ thống lý học Phương Đông nên chúng tôi cũng muốn có đôi lời chia sẻ với quý bạn đọc.Chúng tôi viết bài này nhằm cung cấp cho quý vị quan tâm một cái nhìn đúng đắn hơn về vấn đề tuổi và tương tác tuổi trong mối quan hệ nam nữ. Trong truyền thống văn hóa Á Đông, lúc cưới vợ gả chồng thì những người có tuổi trong gia đình đều quan tâm đến vấn đề luận tuổi. Nhưng qua thời gian cũng như thăng trầm của lịch sử, ngày nay, việc luận tuổi đã bi thất truyền dẫn tới những quan niệm chưa chính xác, lệch lạc và trở thành một nỗi lo sợ vô lý cho các cặp trai gái yêu nhau muốn tiến đến hôn nhân. Và cũng qua cả ngàn năm nay, sự thất truyền, tam sao thất bản đã dẫn đến những phương pháp luận tuổi không đầu không đuôi, gây ra những cảnh dở khóc dở cười, chia ly vô cớ và đầy nước mắt của những đôi yêu nhau. Phương pháp phổ biến hiện nay đa số các “thầy” xem tuổi đều áp dụng phương pháp cung phy. Có 8 cung phi cho nam (Càn, Đoài, Ly, Chấn, Tốn, Khảm, Cấn, Khôn) và 8 cung phi tương tự cho nữ, kết hợp lại sẽ cho ra 64 trường hợp, hay còn gọi là 64 cặp tương tác (Càn – Đoài, Càn – Khảm, Đoài – Ly, Cấn – Tốn…), và kết quả của 64 cặp sẽ tương ứng với các chữ : Sinh Khí – Diên Niên – Phúc Đức – Phục Vị - Ngũ Quỷ - Tuyệt Mạng – Lục Sát – Họa Hại. Như vậy chỉ có 64 trường hợp tương tác tuổi. Chúng ta thử làm phép tính nhỏ, với nhân loại mấy tỷ người mà chỉ có 64 trường hợp để xem tốt xấu thì xác xuất giống nhau là rất lớn. Cứ 64 cặp thì có 1 cặp giống nhau. Có thể thấy rằng đây là điều thiếu logic. Ngoài ra, còn có phương pháp ít phổ biến hơn, đó là phương pháp Cao Ly Đồ Hình. Phương pháp này lấy 10 thiên can theo tuổi nam phối 12 địa chi theo tuổi nữ, sau đó sẽ có 1 bảng phân loại và định tuổi cát-hung. Nếu ta lấy 6 tỷ người trên thế giới và giả định có 1 tỷ cặp vợ chồng với trung bình có 4 con một cặp (ứng với 6 tỷ), đem chia cho 120 trường hợp thì ta sẽ có: 1000. 000. 000: 120 = Gần 8.300.000 triệu cặp vợ chồng có chung một hoàn cảnh. Chỉ cần 3/ 10 trong số 120 trường hợp phối cung đó chia ly hoặc chết thì ta sẽ có 8.300.000 x 36 = 298. 800. 000 cặp vợ chồng ly tan. Và hơn 1 tỷ trẻ em mồ côi trên thế gian này. Phổ biến nhất hiện nay là tình trạng trong dân gian vẫn lưu giữ và truyền miệng những câu như “Dần Thân Tỵ Hợi” “Tý Ngọ Mão Dậu” “Thìn Tuất Sửu Mùi” là Tứ hành xung, hoặc “Canh cô Mậu Quả”, “gái tuổi Dần”, nhưng người ta quên rằng đằng sau những câu trên là cả 1 hệ thống lý thuyết hoàn chỉnh các mối quan hệ của Thiên can, Địa chi, mạng. Qua các phương pháp trên, các bạn cũng có thể nhận thấy thiếu sự hợp lý và khập khiễng trong phương pháp luận tuổi. Nhưng đáng tiếc là sự coi tuổi khập khiểng này đã tồn tại trên thực tế và ăn vào tiềm thức của các bậc ông bà cha mẹ, làm họ tin một cách mù quáng. Các phương pháp coi tuổi vợ chồng khập khiễng trên từ những vị thầy nửa mùa, chẳng hiểu thấu lý, nên vô tình đã để lứa đôi tan nát. Để thay đổi những quan niệm sai lầm trên, chúng tôi cần thấy phải có một phương pháp hoàn chỉnh, logic, nhằm giúp cho những đôi lứa yêu nhau đến được với nhau. Chính vì vậy chúng tôi, những người làm công việc nghiên cứu tại trung tâm nghiên cứu Lý Học Đông Phương đã tổng hợp, nghiên cứu và kiểm nghiệm để có được một phương pháp luận tuổi đúng đắn, hợp lý và mang tính khái quát cao nhất. Phương pháp này chúng tôi đặt tên là “Luận Tuổi Lạc Việt” với sự điều chỉnh mạng Thủy – Hỏa trong Lạc Thư Hoa Giáp so với Lục Thập Hoa Giáp của Trung Quốc nhằm chứng mính cách so tuổi vợ chồng còn sót lại trong dân gian hiện nay chỉ là những mảnh vụn rời rạc, không hoàn chỉnh dẫn đến những sai lầm tai hại. “Không có tuổi vợ chồng xấu trong tình yêu đôi lứa đích thực” và “yêu nhau cứ lấy” là quan điểm của chúng tôi. Ngoài ra, tương quan vợ chồng chỉ là những điều kiện ban đầu, khi gia đình có con thì tương quan này sẽ thay đổi tốt hoặc xấu phụ thuộc vào tuổi đứa con có hợp với cha mẹ hay không, đặc biệt là con út! Ông bà ta có câu “giàu con út, khó con út” Theo phương pháp này, tương tác giữa người với người xảy ra ở cả 3 yếu tố Thiên can, Địa chi và Mạng thông qua mối quan hệ về ngũ hành sinh khắc và nguyên lý âm dương. Như vậy, để dể hình dùng, ta có thể làm phép tính như sau : 60 tuổi nam phối 60 tuổi nữ, cùng với tuổi của 60 đứa con út có khả năng sinh ra theo tương quan tuổi vợ chồng, Tức là ta sẽ có: 60 x 60 x 60 = 216.000 trường hợp khác nhau. Xác xuất để tinh toán cao hơn nhiều lần so với các phương pháp trên. Ở đây, chúng tôi chưa nói đến các cách cục tốt trong việc phối tuổi vợ chồng và con cái trong gia đình. Nhưng vấn đề không dừng lại ở những con số khô khan và phương pháp lạnh lùng. Phương pháp “Luận tuổi Lạc Việt” còn có tính nhân bản ở chỗ là nó khẳng định một cách hợp lý theo thuyết Âm Dương Ngũ hành về tình yêu nam nữ -"Yêu nhau cứ lấy" và sinh đứa con chính là nguồn hạnh phúc gia đình, dù tuổi cha mẹ có khắc nhau đi chăng nữa. Và một vấn đề chúng tôi cũng muốn chia sẻ với quý bạn đọc, đó là “tuổi tác” là một trong những điều kiện tương tác mang tính căn bản ảnh hưởng đến một hoặc nhiều mối quan hệ giữa người với người, chứ không có nghĩa tuổi tác sẽ quyết định mọi thứ diễn ra xung quanh bạn. Có rất nhiều các yếu tố khác ảnh hưởng đến cuộc sống của mỗi các nhân, mỗi gia đình như : hoàn cảnh gia đình, công việc, thu nhập, tính cách cá nhân… Chính vì vậy khi gặp các vấn đề nan giải trong cuộc sống, các bạn không nên quy hết vào lý do… không hợp tuổi, để rồi có những đáng tiếc xảy ra và xã hội lại tiếp tục duy trì những quan niệm không chính xác về việc xem xét tương quan tuổi giữa người với người! Xin chân thành cám ơn quý báo và quý bạn đọc. Thiên Luân Trung Tâm Nghiên Cứu Lý Học Đông Phương.
    1 like
  2. Án lạ đất phương Nam Kỳ 1: Hai cái sự rơi TT - Năm 1971, lúc 22 tuổi, tôi về Bạc Liêu dạy học. Nhiều em học sinh lớp đệ nhất chỉ thua thầy vài ba tuổi đã thân ái đặt cho tôi ngoại hiệu Tùng Xua tùa hia (tiếng Triều Châu - Đường Sơn đại huynh). Một sáng tháng 10-1971, Tùng Xua tùa hia đang ăn sáng trong tiệm Xừng Ký ngoài chợ Bạc Liêu thì chứng kiến một vụ việc ngộ nghĩnh. Từ đây, những câu chuyện bắt đầu... Như thường lệ, khoảng 6 giờ sáng, chị Thạch Thị Rươl - một phụ nữ Khmer, gánh cái gánh bún nước lèo danh tiếng của mình ra chợ Bạc Liêu bán. Nồi nước luôn luôn sôi bốc lên mùi mắm thơm phức; tôm, thịt quay, cá lóc, rau xanh... tươi ngon hơn các gánh bún nước lèo của người khác. Giá của tô bún chỉ cỡ 5 đồng (giá lít xăng ngày ấy là 12 đồng) nên rất vừa túi tiền của khách hàng. Rơi cái vú giả Hôm ấy, từ trong khu gia binh có một chị vợ lính đi chợ sớm. Thấy chị Rươl gánh bún nước lèo tới, chị này có nhã ý ăn mở hàng nên cúi người nhìn vào nồi nước lèo gọi một tô bún. Trời xui đất khiến làm sao hôm ấy chị ta mặc chiếc áo hở cổ, mà mối chỉ may của chiếc nịt ngực cũng đến hồi quá đát. Cái thế cúi người “thưởng thức” đột ngột khiến sợi chỉ cuối cùng đứt luôn. Tõm một cái, một miếng mút độn áo ngực của chị, tục gọi là vú giả, rơi ngay vào nồi nước lèo thơm phức của chị Rươl. Chị Rươl túm lấy bà khách mở hàng hậu đậu, la bài hãi: “Trời ơi! Gánh bún tui chưa bán mở hàng mà bà làm rớt... vú vào đó. Giờ tui bán cho ai?”. Chị buộc bà khách phải đền tiền nguyên gánh bún 120 đồng. Bà khách vừa xấu hổ sượng sùng, vừa lo số tiền không đủ cũng lên tiếng phân bua. Sợ họ đánh nhau, mấy bà mấy chị trong chợ chỉ họ qua bên Hội đồng xã Vĩnh Lợi cho mấy ông phân xử. Chị Rươl vai gánh gánh bún, tay trái nắm tay bà khách dẫn qua hội đồng xã, cách chợ Bạc Liêu khoảng trăm mét. Chủ tịch hội đồng xã Vĩnh Lợi lúc bấy giờ là ông T.V.V.. Ông mời hai phụ nữ ngồi để nghe họ “tường trình ủy khúc” - chữ dùng thời chế độ cũ. “Nguyên đơn” Rươl giành nói trước rằng nồi nước lèo và gánh bún của chị nói chung giá 120 đồng. Nay bà khách làm rớt... vú giả vào đó, không còn ai dám ăn uống gì nữa. Vậy bà khách phải đền cho chị 120 đồng; còn những món tôm, thịt, rau, bún cứ mang về... ăn cho phỉ. Chị cũng ca cẩm việc rớt vú giả vào nồi nước lèo làm gánh bún danh tiếng của chị bị xúi quẩy, sợ khách hàng sau này không dám ăn, ảnh hưởng đến uy tín “thương hiệu” của mình. “Bị đơn” mặt tái mét, sượng sùng trình bày chị ăn bún nước lèo của chị Rươl nhiều lần, thấy ngon nên định ăn mở hàng nhưng không ngờ “nó” rớt. Chị đi chợ chỉ đem theo mấy chục đồng, thật sự không đền nổi 120 đồng. Vả chăng theo chị, vú giả chỉ rớt vào nồi nước lèo nên chất lượng mấy món tôm, thịt không ảnh hưởng gì. Chị Rươl buộc chị mang về ăn cho phỉ chắc chị ăn không nổi, mà có rủ ai chưa chắc họ chịu ăn. Ông V. thật sự bối rối. Ông nói: “Thôi được, hai chị ngồi chờ mấy phút”. Rồi ông đạp xe chạy qua Tòa án tỉnh Bạc Liêu cách đó khoảng vài trăm mét thỉnh giáo lục sự T.C.H.. Ông H. là người gốc Triều Châu, làm lục sự nhiều năm. Ông H. cố vấn cho ông V.: phần nào thật sự bị hư hao thì đền phần đó, có tính toán để châm chước, gia giảm những thiệt hại khác do sự cố này gây ra. Ông V. quay về hội đồng xã xử như vầy: chị vợ lính làm rơi vú giả hư nồi nước lèo phải đền 30 đồng. Vụ việc đáng tiếc đó cũng gây những thiệt hại thương hiệu cho gánh bún mắm nước lèo nổi tiếng của chị Rươl nên phải đền thêm 20 đồng nữa. Riêng các phần thịt, cá, tôm, rau của chị Rươl không ảnh hưởng gì nên cũng không thiệt hại gì, chị Rươl không nên buộc chị vợ lính phải đền bù. Ông cũng động viên chị Rươl về nấu... nồi nước lèo khác, bán qua trưa và chiều để khỏi thiệt hại thu nhập trong ngày. Án được thi hành tại chỗ. Chị vợ lính đền tiền ngay. Mười giờ trưa hôm ấy, chị Rươl lại gánh bún nước lèo ra chợ Bạc Liêu. Trước khi bán chị làm thủ tục xả xui: cầm hai tờ giấy báo cháy phừng phừng, nhảy qua nhảy lại trên cái đòn gánh để... đốt phong long! Suýt rớt xuống cầu Một sáng tháng 10-1971, ông Vưu Tôn - một người gốc Triều Châu cư trú tại Giồng Biển (phường Hiệp Thành, thành phố Bạc Liêu ngày nay), bưng cái mẹt bánh tiêu đi qua cầu Quay để xuống chợ Bạc Liêu bán như thường lệ. Tôi quen biết với Vưu lão hán, thường ăn bánh tiêu của ông. Ông Tôn đi lên hơn nửa cầu, mắt nhìn xuống khung cảnh buôn bán nhộn nhịp phía dưới thì bỗng nhiên đạp nhằm... một miếng ván mục. Rắc một cái, chân phải của ông lọt thỏm xuống cầu, mẹt bánh tiêu đổ tưng bừng, cái rơi xuống sông, cái lăn như bánh xe xuống tận đầu đường Trương Vĩnh Ký. Bà con qua cầu thương ông già bị tai nạn, nhẹ nhàng đỡ và kéo chân ông ra khỏi lỗ ván mục. Chân ông trầy xước đổ máu, gót chân bị sưng. Một anh xe lôi khỏe mạnh bế ông lên đưa đến nhà thương Bạc Liêu cấp cứu. Bác sĩ bảo ông cữ đi lại trong mười ngày. Ngay chiều hôm đó, ông Tôn bảo con bồng đến một chỗ đánh máy đơn thuê, viết một cái đơn kiện kỹ sư P., trưởng Ty Công chánh tỉnh Bạc Liêu. Đơn nói rõ: Ty Công chánh không làm hết nhiệm vụ, không thay ván mục để ông bị té lọt chân xuống cầu bị thương, đổ hết bánh tiêu và khiến ông mất thu nhập trong mười ngày. Ông Tôn yêu cầu trưởng Ty Công chánh phải đền bù các thiệt hại về sức khỏe và thu nhập cho ông. Đơn kiện không gửi qua tòa án mà lại gửi ngay cho... tỉnh trưởng Bạc Liêu. Tỉnh trưởng Bạc Liêu có bút phê, chuyển qua cho ông phó tỉnh trưởng hành chính - thường gọi là ông phó T., mời hai bên lên giải quyết. Ba hôm sau, kỹ sư P. và ông Tôn gặp nhau tại văn phòng ông phó T.. Bình thường ông Tôn rất hiền, nhưng có lẽ hôm ấy bực bội vì cái chân bị sưng nên ông la rùm trời. Bằng cái giọng nói tiếng Việt pha lẫn tiếng Triều Châu, ông Tôn tự xưng là hỏa (tôi), gọi ông P. khi là lứ (ông), khi là hia (anh). “Lứ coi cho kỹ li, cái chưn hỏa què dồi. Có khi nào lứ li qua li lại cái cầu ấy lâu, chỉ có pà con pình dân như hỏa li thôi. Hia phải lền lại cho hỏa tiền cơm thuốc” - ông Tôn nói cứng. Kỹ sư P. cũng là người hiền lành, thấy ông già nổi nóng nên không dám cãi vã, chỉ xuống giọng năn nỉ: “Tui thấy rồi, tui thấy rồi. Bây giờ bác muốn đền bao nhiêu?”. “Hỏa lấy dẻ thôi. Lây là piên lai thuốc năm chăm tồng, mười ngày không li pán lược là một chăm tồng, pa chục tồng tiền pánh tổ. Vị chi là sáu chăm pa chục tồng”. “Dạ, bác ngồi nghỉ, tui chạy về ty để lấy tiền. Tui đi gấp quá không đem tiền theo”. Ông P. chạy về Ty Công chánh, lát sau đem tiền qua. Ông Tôn nhận tiền đền bù, biểu con viết tờ bãi nại. Ông nói: “Lứ chưởng ty à, cho người thay dán mục li chớ không thì có người té lại lền tiền nhiều nhiều ló”. Có lẽ ông P. thấy điều đó là đúng, vài hôm sau trên mặt cầu Quay được thay nhiều tấm ván mới. VŨ ĐỨC SAO BIỂN ----------------------------------------- Số ngày mai sẽ là những câu chuyện liên quan tới vàng, tình và những sự ham muốn đầy éo le của con người. Kỳ tới: Vàng và tình Án lạ đất phương Nam - Kỳ 2: Vàng và tình Một ông chủ tiệm vàng có tiếng ở thành phố C dù lớn tuổi nhưng vẫn yêu đời, ham chơi một cách chăm chỉ. Ông quen biết một cô gái có hoàn cảnh éo le, gay cấn, tình duyên dang dở. Hai người sống với nhau như vợ chồng được ba năm. Ông có thiện chí tặng cô 10 lượng vàng ròng, cái để làm vốn, cái để đeo chơi cho cuộc sống lóng lánh thêm một chút. Vàng của bổn hiệu được đóng dấu riêng hẳn hòi, đúng 9,8 tuổi, phân lượng đầy đủ. Quả là một thứ vàng danh trấn giang hồ. Vàng lên tiếng Ba năm sau, cô gái quen biết và chung sống như vợ chồng với một thanh niên khác. Ông chủ tiệm vàng và cô gái lặng lẽ chia tay. Trong buổi đầu xây dựng tổ ấm, cô gái chợt muốn mua cái tivi. Cô đưa cho anh thanh niên một lượng vàng bảo đi bán lấy tiền, bởi có tiền mới có tivi. Sách vở dạy vậy. Chàng thanh niên cầm lượng vàng, xem địa chỉ bổn hiệu thấy cũng gần nhà bèn đến đó bán cho chắc ăn. Người đứng sau quầy phụ trách mua bán vàng là cô con gái út của ông chủ tiệm. Cô gái út xem lượng vàng, chê: “Vàng này non, không đủ tuổi”. Anh thanh niên nói: “Cái gì? Cô nói làm sao vậy? Vàng này đóng hiệu của tiệm cô mà không đủ tuổi hả? Ở nhà còn có bảy, tám lượng vậy nữa đó”. Thiệt là một tiết lộ trật bàn đạp! Cô gái út bắt đầu điều tra: “Anh mua làm của hay sao mà nhiều vậy?”. Anh thanh niên: “Tôi đâu có mua. Của người ta cho em gái tôi mấy năm vừa rồi đó”. Việc mua bán vàng xong, khách ra đi. Cô gái út giở sổ sách mua bán năm ngoái năm xưa ra xem, thấy chẳng có ai mua của tiệm vàng nhà mình cả chục lượng. Và cô chợt hiểu ông già tía đã lấy vàng “kính tặng” cô gái nào đó! Cô đem phát hiện rùng rợn ấy thỏ thẻ với mẹ. Bà già nổi xung thiên, thủ sẵn một con dao yếm bén ngót. Điều may mắn là sáng đó ông chủ tiệm vàng đi nhậu bên một thị trấn khác, không về ăn trưa. Chiều ấy, ông về. Hơi men chếnh choáng khiến ông vừa cởi chiếc quần tây vừa cao hứng ca hát râm ran: “Nhớ ai mà ánh đèn hiu hắt, lá vàng nhè nhẹ rơi, mỗi mùa tiễn đưa một người”. Nghe tiếng ca, bà nhìn từ nhà bếp ra. Thấy chồng về, lại nghe mỗi mùa tiễn đưa một người thì nhiều quá nên cơn giận của bà bùng lên. Bà cầm con dao yếm lướt tới định... tiền trảm hậu tấu. Cô gái út hoảng quá la lên: “Tía ơi, má chém tía đó!”. Tuy chưa hiểu lý do gì nhưng ông vẫn nhận ra rằng vợ mình cầm con dao lướt tới không được thân thiết và dịu dàng cho lắm. Ngặt một nỗi lúc mới vào nhà, theo quán tính ông lại đóng cổng. Mà đưa tay mở cổng thì không đủ thì giờ tránh chiêu đao pháp “thương tùng nghinh khách” của bà vợ. Bức tường rào nhà ông kiên cố, xây cao một thước rưỡi. Lần đầu tiên, một số bà con ở đường X, thành phố C được chứng kiến hình ảnh một người nghiệp dư trên 60 tuổi, nặng khoảng sáu mươi mấy ký, cái bụng không thể gọi là thon thả, nhảy một cái ào qua khỏi tường rào nhà mình như một vận động viên nhảy cao chuyên nghiệp. Bà già không rượt chém được chồng đành đứng trong sân mở hết công suất phóng thanh, chửi mấy tràng ngôn ngữ Việt - Hán lộn xộn. Đây nói về ông. Nhảy ra khỏi nhà ông đành đi lang thang qua những đường phố với mình trần, chân đất. Có tiếng xe rà một bên, tưởng xe ôm ông không thèm quay nhìn. “Trời ơi, tía đi đâu vậy?”. Ông ngẩng lên. Hóa ra là người con trai lớn. Ông đáp: “Đi đâu thì kệ tao. Mầy hỏi làm giống gì?”. Người con: “Thôi, tía về đi. Lên đây con chở tía về”. Ông chủ: “Về sao được. Má mầy rượt chém tao. Ngu sao về, mầy?”. Nói xong ông đi thẳng. Chuyện vỡ lở khi bà làm đơn thưa lên công an phường. Thiếu tá trưởng công an phường lắc đầu: “Vụ việc này thuộc gia đình, cơ quan công an không can thiệp được. Ông nhà cho thì cô ấy nhận vậy thôi. Cổ không phạm tội gì hết”. Bà thở một cái khì, bèn lui ra. Hai cục vàng khò Ngày 1-1-2002 trong đời ông L.T.Đ., chủ một tiệm vàng ở thị xã Rạch Giá (Kiên Giang), là một ngày xúi quẩy hết biết. Ông cưỡi chiếc xe Suzuki mang theo hai cục vàng khò (vàng chưa tinh chế) cả thảy 46 lượng bảy chỉ, đến thành phố Long Xuyên (An Giang). Hai cục vàng khò được gói trong giấy báo, để trong túi vải, phía ngoài có bọc nilông. Ông Đ. lên Long Xuyên đổi số vàng này ra nữ trang, bán trong dịp tết 2002. Thế nhưng, khi đến khu vực ấp Hòa Tây B (xã Phú Hòa, Thoại Sơn, An Giang), ông Đ. không nỡ... xa nơi này. Ông ghé vào quán của K.T. uống nước. Khu vực này nằm trên đoạn 10 cây số vui vẻ, yến hót oanh ca, lơ thơ tơ liễu. Nhiều động mại dâm bình dân hoạt động thường xuyên, thường được gọi là xóm Liều. Thôi thì cũng nên vui vẻ tí chút. Từ đây qua Long Xuyên chỉ có vài chục cây số, vội vàng chi khách đa tình ơi! Ông Đ. bèn gửi chiếc xe cho chủ quán nước KT rồi tìm đến một động cách đó khoảng 50m để... giải sầu. Rủi sao hôm ấy Công an xã Phú Hòa ra quân chống mại dâm. Các anh truy quét xóm Liều. Ông chủ Đ. bị bắt quả tang đang làm việc “xóa đói giảm nghèo” cho em út, bị đưa về trụ sở công an xã làm việc. Đây nói về chủ quán KT. Thấy ông Đ. bị bắt, K.T. bèn đem bọc nilông (có đựng 46,7 lượng vàng) của ông để trên bộ ván ngựa nhà mình. K.T. lại nhờ bà N. dẫn xe của ông Đ. gửi qua nhà hàng xóm. Làm xong các việc, K.T. lên trụ sở công an xã nghe ngóng tình hình, xem họ xử lý ông Đ. ra sao. Riêng bà N. gửi xe xong, quay trở về thì gặp bà T., hai bà thấy bọc đồ để trên bộ ván ngựa (của nhà K.T.) thì tò mò mở ra coi. Họ tá hỏa tam tinh khi thấy hai cục vàng khò to tổ nái. Phen này thì đại phát tài. Họ bèn tranh nhau chiếm giữ. Bà N. nói dõng dạc: “Tao nhìn thấy trước nên tao có quyền mang hai cục vàng về nhà cất”. Chiều đó, K.T. về mới biết tin bà N. và bà T. tìm thấy vàng trong bọc đồ của ông Đ.. Ức lòng, bà chủ quán K.T. liền đến nhà bà N. yêu cầu chia cho một cục (không rõ trọng lượng). Bà N. còn lấy dao chặt vàng chia cho bà T. một miếng. Sáng hôm sau, bà T. mang miếng vàng đi cân được 1,4 lượng. Bà N. mang cục vàng đi cân được 17,3 lượng, đổi ra vàng nữ trang chia thêm cho bà T. ba lượng. Nói chung, nhờ của chùa nên ai cũng phát tài, có phần. Bị tạm giữ một đêm, sau khi nộp phạt hành chính xong, ông Đ. trở lại nhà K.T. lấy xe thì thấy mất bọc vàng bèn đi báo công an. Cả ba người đàn bà đều bỏ trốn. Được sự động viên của công an, họ ra trình diện, giao nộp nhiều lần tổng cộng được 38,2 lượng vàng và 4,5 triệu đồng. Phần còn lại là 7,588 lượng vàng chưa thu hồi được. Trong phiên xử vụ trộm vàng, ba lần tòa hỏi ông Đ. muốn giải quyết thế nào về số vàng bị thất thoát, ông Đ. vẫn không yêu cầu các bị cáo trả lại số vàng ấy. Ông nói: “Thưa quý tòa, tôi hổng dám kêu nài thêm. Coi như là tôi bị xui. Xin cảm ơn quý tòa, bảy lượng rưỡi đó coi như... thí cô hồn”. Vì vậy, tòa không đề cập đến trách nhiệm dân sự (bồi thường) của các bị cáo. Hú hồn hú vía ông Đ.! Theo Tuổi Trẻ
    1 like
  3. Tôi có 1 vấn đề về Tam hợp xin mọi người phân tích dùm: Tôi sinh năm 1979(20/02/1979) vợ tôi sinh năm 1982 (07/08/1982) vợ chồng tôi có 1 con gái sinh năm Đinh Hợi (05/10/2007) năm tới vợ chồng tôi sẽ sinh 1 em bé tuổi Tân Mão(2011) như vậy là tôi và hai con sẽ có Tam hợp (Kỷ Mùi - Đinh Hợi - Tân Mão). Mọi người phân tích giúp trường hợp này nên như thế nào? Xin chân thành cảm ơn cả nhà.
    1 like
  4. Kính chào các anh chị em trong diễn đàn. Em tên Nguyễn Hữu Tuấn, sinh ngày 27/10/1985 DL tức ngày 14/09/1985 ÂL Lá số tử vi của em : http://www.lyhocdongphuong.org.vn/apps/LaSoTuVi.php?name=Nguy%E1%BB%85n+H%E1%BB%AFu+Tu%E1%BA%A5n&date=1985,10,27,16,30&year=2011&gender=m&view=screen&size=2 Em vừa lấy vợ năm ngoái, vợ tuổi Bính Dần 1986. Em muốn nhờ bác haithienha và các anh chị có kinh nghiệm xem giúp em xem năm Tân Mão có gì thay đổi về công việc, về gia đình bố mẹ cùng hai vợ chồng, xem năm nay liệu em có em bé không? Và vận hạn năm nay của em có gì khó khăn không ạ? Em xin cảm ơn tất cả mọi người chỉ giáo!
    1 like
  5. Nếu chưa có thai thì không nên có thai năm nay. Vì khó giữ nổi
    1 like
  6. ngoài việc trên ,thì công việc bình thường coi chừng xe cộ tai nạn ,tiểu nhân hại hạy trộm ,móc túi cướp giựt .
    1 like
  7. Cảm ơn bác haithienha nhiều ạ, con cái bây giờ là vấn đề quan trọng nhất với em đấy ah, cảm ơn bác đã nhắc nhở.Em cũng xin bác cho em thêm ý kiến về vấn đề công việc và gia đình hay bản thân năm nay có khó khăn hay vận hạn gì không ạ?
    1 like
  8. Năm nay chắc vợ có thai ,nhưng coi chừng đi đứng cẩn thận để khỏi bị hư hay sẩy .
    1 like
  9. 1 like
  10. 4. Sự khác biệt về an sao Trong 93 tinh đẩu không có sự khác biệt. Nhưng duy sau này những bộ tạp thư đưa ra an những sao mới, hoàn toàn do họ đặt ra, có sự quái gở khi an vòng Trường-sinh: Họ khởi Trường-sinh ở cả Tý, Ngọ, Mão, Dậu. Về an Khôi, Việt thì chính thư, tạp thư chỉ khác nhau có tuổi Canh mà thôi: Chính thư Khôi ở Sửu, Việt ở Mùi. Trong khi tạp thư thì cho ở Dần, Ngọ. Về an tứ hóa: Tuổi Canh cũng bị lộn như Hóa-lộc đi với Thái-dương, Hóa-quyền đi với Vũ-khúc, Hóa-khoa đi với Thiên-đồng, Hóa-kî đi với Thái-âm. Trong khi tạp thư Hóa-khoa đi với Thái-âm, trong khi Hóa-kî đi vối Thiên-đồng. 5. Đối với sách Tử-vi hiện tại Trừ bộ Tử-vi đẩu số toàn thư do Vũ Tài Lục lược dịch, một vài đoạn đúng với chính thư, còn các sách khác, chúng tôi không tiện phân tích xem sách của vị nào ảnh hưởng của phái nào bên Trung-quốc! Vân Điền Thái Thứ Lang là một đại đức Phật giáo, ông bị tử nạn xe hơi đã lâu, nên chúng tôi có thể bàn về sách của ông: Rất gần với chính phái. Ông Vũ Tài Lục là con của cụ Kép Nguyễn Huy Chiểu, hiện ở Hoa-kỳ. Còn ông Nguyễn Phát Lộc với chúng tôi có chút duyên văn nghệ, trước đây ông là phó Đặc-ủy trung ương tình báo VNCH, không rõ nay ở đâu, nếu ông còn ở Việt-nam thì có lẽ đã bị giết rồi. Chúng tôi quan niệm: Dù tất cả Tử-vi gia thuộc phái nào đi nữa, cũng cần có kinh nghiệm. Về phương diện nghề nghiệp, họ phải dùng Tử-vi làm kế sinh nhai là điều bất đắc dĩ, bới bỏ tâm não ra, an sao, chấm số, giải đoán một lá số Tử-vi không tiền nào, bạc nào trả họ nổi cả. Dù không trả tiền với tinh thần khoa học, họ cũng say mê nghiên cứu. Chính chúng tôi kiếm tiền rất dễ dàng, nhưng khi thấy một lá số kỳ lạ, cũng chẳng ngần ngại gì mà không bỏ ra cả ngày để nghiền ngẫm cho ra nguyên lý. IX.- Kết luận Tử-vi không phải là một khoa học độc lập, nó là kết tinh trong nhiều khoa học khác trong học thuật tư tưởng Á-châu. Người sáng lập ra không phải là Hy-Di tiên sinh. Ông chỉ là người kết hợp các khoa lại. Chính ông, ông cũng công nhận khoa này có trước ông. Ông chỉ là người bổ túc và đưa nó trở thành một khoa nổi tiếng. Khoa Tử-vi truyền vào Đại-Việt thời Lý do Trần Tự Mai, hay Hoàng Bính mang vào không cần thiết. Dù Tự Mai hay Hoàng Bính thì Tử-vi đó cũng thuộc chính phái. Nhưng bí truyền trong dân gian. Đợimãi đến khi ông Lê Quý Đôn đi sứ Trung-hoa về mang theo bộ Tử-vi của Nam phái, bấy giờ khoa Tử-vi mới được đại chúng hóa. Nhưng cũng chính vì vậy khoa Tử-vi ở Việt-nam có hai trường phái: Một trường chính phái, học rất mau, theo sát Hy-Di tiên sinh. Một trường phái nữa ảnh hưởng Nam phái, vì thất truyền thành ra không có hệ thống nào cả. Những người nghiên cứu Tử-vi cần phân biệt rõ hai hệ thống, để lúc học mới khỏi bị bỡ ngỡ. Tuy nhiên không phải những sách vở nào của Nam phái cũng hỗn tạp, không phải những vị nào của Nam phái đều đoán liều cả. Tử-vi cũng như y học cần đi đến đối tượng là kết quả, ai đoán trúng, người đó đạt được học thuật. Cũng như y học, nói, viết không phải là cứu cánh, mà ai trị khỏi bệnh, người đó có lý. Một vấn đề trước mắt của chúng ta là, làm sao có đủ sách cho các vị nghiên cứu tìm hiểu. Sách vở của cổ nhân chỉ là nền móng lúc đầu. Tại sao xưa kia Hy-Di tiên sinh đã tìm ra được nhiều nguyên lý Tử-vi, ngày nay chúng ta không thể đi sâu hơn tìm ra những nguyên lý khác. Cái xe hơi thế kỷ thứ 18 thô sơ, người sau cải tiến dần, nay trở thành những xe tối tân. Tử-vi là khoa học, chúng ta có thể tìm thêm, nghiên cứu rộng, để đưa ra những phát hiện mới. Bấy giờ mới đi tìm vận số con người, lại có thể đi xa hơn, phát triển phá cách, trợ cách, một lối phát huy độc đáo đời Trần, cần được đào sâu để đạt được tuyệt đích khoa học vậy.
    1 like
  11. Theo tôi năm nay mở hàng 06 đẹp nhất, thứ đến là mùng 9
    1 like
  12. Người ta đã goi là hợp, thì là hợp thôi, anh muốn hỏi vấn đề gì về Tam Hợp này?
    1 like
  13. Con cái nhiều lúc ko phải cứ tính sinh là có để sinh, cũng do duyên trời nữa. Nhưng cố gắng đứa con út hợp với cha mẹ là về sau gia đạo vững vàng rồi. Chúc gia đình chị may mắn.
    1 like
  14. thượng tam bạch nhãn , hạ tam bạch nhãn và uyên ương nhãn khác nhau chút chút , không phải giống nhau tất. em không coi đc link nên đoán cái mà bác Phi Vân nói tam bạch nhãn chắc là uyên ương nhãn rồi ??? , nếu vậy thì không phải cặp mắt này . mắt này là Thượng tam bạch nhãn - người có chí tiến thân ! Thân .
    1 like
  15. 1 like
  16. Câu chuyện của Trang Tử với học trò 08/02/2011 09:09:04 Cuối thu, thầy Trang tử một trong hai nhà hiền triết góp phần làm nên hệ tư tưởng Lão - Trang của Đạo giáo, dẫn một đám học trò đi về phương Nam. Nhà hiền triết này chỉ mong học trò thu được những điều mới lạ, những kinh nghiệm lý luận mang đầy tính ẩn dụ như thầy. Qua đất Triết, họ thấy một toán tiều phu chuẩn bị đồ nghề đốn cây. Một tiều phu hỏi: Trong hai cây này, đốn cây nào? Trưởng toán tiều phu đáp: Đốn cây cong, để cây thẳng lại. Trang Tử xây qua nói với học trò: Cái cây cong kia chết vì bất tài. Lại qua đến đất Mân, Trang Tử ghé vào thăm nhà một người bạn. Người bạn sai gia nhân làm thịt thêm con trích để đãi Trang Tử và học trò. Gia nhân hỏi: Trong hai con trích, một con gáy rất hay, một con không biết gáy, làm thịt con nào? Chủ nhà đáp: Làm thịt con biết gáy. Trang Tử xây qua nói với học trò: Con trích biết gáy kia chết vì nó có tài. Học trò hỏi: Thưa thầy cái cây cong chết vì bất tài, con trích biết gáy chết vì có tài. Nếu là thầy thì thầy đứng vào chỗ nào? Trang Tử đáp: Ta đứng vào giữa chố bất tài và có tài. Lại đi nữa sang tới đất Việt, Trang tử đưa đám môn đệ qua thành Tây Cống. Cuối thu, phương Nam hay có mưa vào buổi chiều, hôm ấy, chưa đến giờ Thân, trời chợt đổ cơn mưa vừa. Mưa mới chừng qua hai tuần trà, nước đã ngập đường lênh láng. Gặp lúc cao điểm, xe cộ ùn ùn qua đó, chết máy cũng nhiều. Người dắt xe lôi bì bõm trong nước. Trang Tử bảo học trò đứng trú mưa trên tam cấp của một viện uốn tóc. Còn đang nhìn đường phố, thầy trò trang Tử nhìn thấy một chiếc xe gắn máy đời mới vọt lên. Bỗng nhiên, người chạy chiếc xe nhảy chồm lên một cái rồi cả người và xe té nhào xuống con đường đầy nước. Mọi người xúm lại đỡ người lái xe và dựng chiếc xe dậy. Trang Tử xây qua nói với học trò: Chiếc xe kia có tài nhưng người chạy nó lại bất tài. Do vậy, anh ta té mà chiếc xe vẫn không sao. Còn đang nói chuyện, lại thấy một chiếc xe hơi đời cũ vọt lên. Tiếng máy đang gầm gừ, bỗng nhiên im bặt. Bụp một cái, đầu chiếc xe chìm nghỉm xuống nước, đuôi xe chổng lên cao. Viên tài xế may mắn mở được cửa thoát ra khỏi xe. Trang Tử xây qua nói với học trò: Chiếc xe kia bất tài nhưng người lái nó lại có tài. Do vậy, xe anh ta chìm xuống hố tử thần mà anh ta thoát ra được. Học trò hỏi: Thưa thầy, xe đời mới có tài nhưng người chạy lại bất tài, xe đời cũ bất tài nhưng người chạy lại có tài. Một đàng, xe không sao nhưng người lại té, một đằng xe chìm đầu nhưng người không té. Nếu là thầy, thầy đứng vào chỗ nào? Trang Tử đáp: Ta đứng ngoài cái tài và cái bất tài. Học trò lại hỏi: Thưa thầy, hôm trước thầy đứng giữa cái tài và cái bất tài. Hôm nay, thầy lại đứng ngoài cái tài và cái bất tài. Vậy vị trí chính xác của thầy là ở đâu? Trang Tử đáp, xem đốn cây cong, thầy trò ta có đứng cách xe mười trượng thì không có chi là nguy hiểm. Thịt một con trích biết gáy, thầy trò ta không ăn thì không có chi là nguy hiểm. Nhưng chạy một chiếc xe đời mới mà đi trên một con đường mu rùa ngập nước, lái xe đời cũ mà lao vào đúng hố tử thần của mấy anh làm đường ẩu tả thì dù có tài hay bất tài cũng mười phần nguy hiểm. Bởi vì đường mù rùa ngập tràn nước mưa và hố tử thần nằm dưới mặt nước là điều mà mấy anh làm ẩu có thể thấy và biết mà thầy trò ta và bá tánh không thể thấy và cũng không thể biết. Cho nên, ta nói là đứng ngoài cái tài và cái bất tài là như vậy. Học trò lại hỏi: Thường nghe “Quân tử nhất ngôn vị định” - người quân tử chỉ nói một lời. Nay thầy lại nói đứng giữa và đứng ngoài. E rằng thái độ này có ba phải quá chăng?. Trang Tử cười mà rằng: Ta chưa hề tự xưng là quân tử. Ta chỉ là… Trang Tử. Chúng ta là bá tánh bình thường như bao nhiêu bá tánh khác, đi qua đây thấy mưa ngập đường, người ngã, xe sụp hố tử thần vậy thôi. Ngay chủ đầu tư các công trình thoát nước, làm đường quấy quá này cũng không cần biết đường mu rùa đang ngập nước, hố tử thần này là nguy hiểm cho dân. Các trò giở báo ra đọc, coi có ai tự nhận trách nhiệm về đường mu rùa ngập nước và hố tử thần hay không? Đến họ mà cũng không nhận, cứ đứng giữa và đứng ngoài mọi tai của bá tánh, huống chi là ta? * Tiêu đề do Bee.net.vn đặt Đồ Bì (Bài đăng trên báo Thanh Niên Xuân Tân Mão 2011) ================================================== Câu chuyện này trong "Cổ học tính hoa". Giữa cái tài và cái bất tài tùy thời mà sống hoặc chết. Trang Tử than rằng: "Chỉ có Đức là tránh được tai vạ mà thôi!". Nhưng lao xuông hố tử thần thì tài đức, tiểu nhân, quân tử gì cũng tiêu cả. Chuyện này thì cũng chẳng cần tính minh triết cao siêu. Cái ngao ngán của câu chuyện này là tài đức như Trang Tử cũng botay.com trước cái vô trách nhiệm của tha nhân.
    1 like
  17. Theo bác khuyên cháu không nên chuyển việc rong năm Mão sẽ có nhiều việc không thuận lợi tài lộc sẽ kếm hơn việc hiện tại ,nếu muốn nên đợi năm Thìn thì mới tốt hơn .Mẹ cháu sức khỏe trong năm Mão vẫn còn chưa được tốt chỉ đỡ hơn năm vừa qua 1 chút ,đến năm Thìn mới thật thuyên giảm .
    1 like
  18. 2.- Sự khác biệt về sao lưu niên 2.1.Chính thư Các sao lưu niên đều an giống nhau, số sao cũng giống nhau: -Vòng Lộc-tồn với 15 sao không có Quốc-ấn, Đường-phù. (Bộ Tử-vi đẩu số toàn thư chỉ nói đến hai sao Kình, Đà thôi) - Thiên-khôi, Thiên-việt, Thiên-mã, Thiên-khốc, Thiên-hư và vòng Thái-tuế 5 sao, Vănxương, Văn-khúc. Tất cả 27 sao. 2.2.Tạp thư Vẫn gồm các sao như bộ chính thư nhưng thêm: Hỏa-huyết, Lan-can, Quân-sách, Quyện thiệt, Bạo-tinh, Thiên-ách, Thiên-cẩu, Huyết-nhận, Huyết-cổ, Ngũ-quỷ và vòng Trường sinh 12 sao.
    1 like
  19. Vợ chồng:Kỷ Mùi, Nhâm Tuất Chồng lành hiền, tình cảm, dễ bị vợ lấn lướt. Vợ đảm đang, chịu khó nhưng bướng bỉnh, hay theo ý riêng của mình. Chồng được nhờ vợ nên cũng nể vợ. Chồng tuy có lúc thấy hơi kém vị thế nhưng cũng nhường nhịn nên không đến nỗi xung đột lớn. Con gái 1: Đinh Hợi Con hợp mẹ, dễ được mẹ chiều. Bố con thương nhau nhưng không hợp nhau. Ba vượng thì con yếu. Con dự sinh: Tân Mão Con hợp mẹ, thuận cho mẹ hơn cô chị. Con hợp bố. Đứa bé này làm cả nhà vui vẻ hơn.
    1 like
  20. Thân, Tý, Thìn hợp thành Thủy cục tam tai ở các năm Dần Mão Thìn Hợi, Mẹo, Mùi hợp thành Mộc cục tam tai ở các năm Tỵ, Ngọ, Mùi Tỵ, Dậu, Sửu hợp thành Kim cục tam tai ở các năm Hợi, Tý, Sửu Dần, Ngọ, Tuất hợp thành Hỏa cục tam tai ở các năm Thân, Dậu, Tuất Lâu lâu ôn bài chơi! Thân mến!
    1 like
  21. các tuổi Thân, Tý, Thìn tam tai ở các năm Dần, Ngọ, Tuất
    1 like
  22. Tuổi Tý và tuổi Thìn đều có 3 năm tam tai giống nhau là Dần, Mão, Thìn!
    1 like
  23. Xin nhờ bác Thiên Luân cho cháu biết là Tuổi Giáp tý thì tam tai vào năm nào? Tuổi Mậu thìn tam tai vào những năm nào? Chân thành cảm ơn bác :(
    1 like
  24. Máy rót bia từ đáy cốc rót lên (Dân trí) - Hãng GrinOn của Mỹ đã phát minh ra một chiếc máy rót bia rất tài tình: sử dụng hệ thống nam châm để rót bia từ đáy rót lên. Cốc được giữ cố định bằng van bằng nam châm ở đáy ly. Miếng nam châm này sẽ nổi lên theo mực nước. Khi rót đầy, nó sẽ chìm xuống để chốt lỗ ở đáy cốc. Biện pháp này vừa giúp tiết kiệm bia rơi vãi triệt để, vừa vô cùng sành điệu. Đây được cho là loại máy rót bia nhanh nhất thế giới vì chỉ rót đầy cốc trong vài giây. Xem video: Nguyễn Thuý Theo Metro
    1 like
  25. 4.- Tinh hoa khoa Tử-vi đời Trần Hầu hết những bậc vua chúa, vương hầu nhà Trần đều nghiên cứu Tử-vi, để làm chìa khóa biết kẻ trung, người nịnh, biết vận hạn, mưu đồ đại sự. Như khi triều đình phân vân không biết nên hòa với Mông-cổ, cho Mông-cổ mượn đường đánh Chiêm-thành, hay nhất định chống lại, vua Thái-tông do dự không quyết, Huệ- Túc phu nhân chấm số cho tất cả vua, hoàng-hậu, vương hầu, tướng sĩ, thấy đa số là những vĩ nhân, làm nên những chuyện kinh thiên động địa. Có một số bị chết thảm nhưng tiếng tăm vang dậy. Phu nhân quyết định rằng: nên đánh. Bởi đánh thì sẽ thắng, có thắng các vương hầu mới có sự nghiệp vĩ đại như vậy. Một vài người tuy tuẫn quốc thật nhưng danh thơm muôn thuở. Có ai ngờ việc quyết định vận số quốc gia như thế, mà do khoa Tử-vi chiếm một phần. Khoa Tử-vi đời Trần cũng dựa theo bộ Tử-vi chính nghĩa, rồi nghiên cứu rộng ra về phá cách và trợ cách. Tỷ dụ, Tử-vi kinh nói rằng : Thiên-hình, Thất-sát cương táo nhi cô. Nghĩa là, người có thiên-hình, Thất-sát thủ mệnh thì tính tình nóng nảy, cứng rắn quá mà hóa cô độc. Muốn khuyên răn, chế ngự bớt sự cuồng táo đó, phải dùng người mệnh có Thái-dương, Thiên-đồng, Thiên-lương, Văn-xương, Văn-khúc, Đào-hoa, Hồng-loan. Bởi các sao này có thể giảm bớt sức nóng nảy của Hình, Sát. Tuyệt đối không dùng người mệnh có Kiếp, Không, Kình, Đà, Tang, Hổ đã đành mà còn tránh dùng người có Tử-vi, Thiên-phủ, bởi Tử, Phủ kỵ Hình, Sát. Như muốn phá người mệnh có Tử, Phủ thì dùng người có Kiếp, Không, Kỵ, Hình thủ mệnh. Tử, Phủ thì ngay thẳng, Kiếp, Không thì gian trá, tiểu nhân vậy dùng những mánh lới hạ cấp sẽ làm cho người Tử, Phủ khốn khổv.v.... Khoa Tử-vi còn đi sâu hơn nữa. Như người có cung Phúc tại Thìn được Thái-dương tọa thủ, tức là được hưởng phúc ngôi mộ ông hoặc bố. Muốn ếm người đó, thì dùng cách ếm mộ ông nội hay cha y, thì y khốn khổ ngay. Lối này trước đây người ta đã dùng để ếm mộ ông nội nhà văn Phạm Quỳnh, sau này ếm mộ nhà Ngô. Khi cố Tổng-thống Ngô Đình Diệm còn tại vị, nhiều người thù ghét, sau biết ngôi mộ tổ được cách Long phụng triều thì con trai, con gái, con dâu sự nghiệp đều vĩ đại cả. Người ta đã ếm ngôi mội này. Thành ra khi con long bị đau, nó dẫy lên, lại một người nam bị nạn, khi con phụng dẫy lên thì có một người nữ bị nạn. Cái lối ếm này rất thất đức, nên chúng tôi không trình bày chi tiết vào đây. Tỷ dụ: Nhà Trần đã dùng lối ếm đó để diệt dòng dõi họ Chế ở Chiêm-thành. Trần Khắc Chung vì thương yêu Huyền Trân công chúa, mà công chúa bị triều đình nhà Trần gả cho Chế Mân, Khắc Chung tìm biết số Tử-vi của Chế Mân, rồi tìm ngôi mộ cung Phúc đức ếm, nên chỉ một năm sau Chế Mân chết. VII. Khoa Tử-vi các đời sau Khi nhà Trần bị nhà Hồ cướp ngôi (1400), con cháu họ Trần tản mác đi khắp nơi, có người dùng khoa Tử-vi làm kế sinh nhai, khoa này đã do nẻo đó truyền ra khắp dân chúng. Tương truyền Trần Nguyên Hãn, một danh tướng Khi nhà Trần bị nhà Hồ cướp ngôi (1400), con cháu họ Trần tản mác đi khắp nơi, có người dùng khoa Tử-vi làm kế sinh nhai, khoa này đã do nẻo đó truyền ra khắp dân chúng. Tương truyền Trần Nguyên Hãn, một danh tướng đã giúp vua Lê Thái-tổ đánh đuổi quân Minh. Nhưng ông là cháu nội của Trần Nguyên Đán, một vị Tể-tướng cuối đời Trần, nên khi đuổi giặc Minh rồi, vua Lê Thái-tổ muốn giết ông. Ông biết ý nói với bạn bè rằng: Ông xem số Lê Thái-tổ là chỉ có thể ở với nhau khi hoạn nạn, lúc đại nghiệp thành thì nhà vua sẽ giết công thần. Vì vậy ông cáo quan về ở ẩn trong dân. Tuy vậy nhà vua vẫn sai 42 vệ sĩ xá nhân về quê bắt ông. Khi đi đường về kinh, ông dùng võ giết các xá nhân rồi trốn đi (sử chép thuyền chìm xá nhân và ông đều chết hết). Ông trốn vào Thanh-hóa ếm ngôi mộ kết long mạch của nhà Lê, nên sau khi vua Lê Thái-tổ băng, tiếp theo vua Lê Thái-tông bị thượng mã phong mà băng lúc 20 tuổi. Con vua Lê Thái-tông mới hai tuổi lên ngôi vua cũng bị anh là Lê Nghi Dân giết chết. Một giai thoại nữa diễn ra dưới triều Lê. Khi Lê Thái-Tổ thành đại nghiệp, về quê tế tổ, một ông lão người cùng quê hỏi rằng: - Tôi với bệ hạ sinh cùng ngày, cùng giờ, cùng tháng, cùng năm, cùng quê, thế sao bệ hạ làm vua, mà tôi thì vẫn làm dân? Trần Nguyên Hãn đáp: - Đó là cung Phúc cả. Cung Phúc của Chúa tôi với ông đều có Thiên-đồng tọa thủ tại Hợi. Nhưng ngôi mả tổ ông lại không để trúng long mạch, ngược lại ngôi mộ của Chúa tôi để trúng long mạch nên được hưởng mệnh trời. Bởi số giống nhau, nên tướng mạo ông với Chúa tôi tương tự. Tôi nghĩ số ông có phần nào giống Chúa tôi chứ? Ông làm nghề gì nào? - Tôi làm nghề nuôi ong, hiện nuôi chín tổ ong. - Đó tôi nói có sai đâu. Bệ hạ làm Chúa chín châu, thì ông làm Chúa chín tổ ong, tổ nào cũng có vua, có quan, có tướng mà.” Sau này ông Lê Quý Đôn đi sứ Trung-quốc mua được bộ Tử-vi âm-dương chính nghĩa, Nam-tông đem về nghiên cứu. Ông có diễn giải ra bằng thơ lục bát khá đầy đủ. Khoa Tử-vi theo Nam-tông truyền vào Việt-nam từ đó.
    1 like
  26. Bác Đại Phúc vui tính thật. Đọc bài viết này mắc cười quá!! =)) Chúc bác thật sáng suốt trong khoảng 7 phiên giao dịch sắp tới nhé.
    1 like
  27. Những tiên đoán về năm 2011 Vietnamnet.vn Cập nhật lúc 01/01/2011 11:10:15 AM (GMT+7) Nikki Pezaro, thầy bói nổi tiếng ở Toronto, Canada, người từng tiên đoán đúng như in về nhiều sự kiện của năm 2010 như vụ giải cứu các thợ mở ở Chile, động đất ở Toronto và Quebec, cũng như động đất và lũ lụt ở Indonesia… đã đưa ra tiên đoán của mình về năm 2011. Ảnh minh họa: Psychic - Hai máy bay qua Washington DC, Hoa Kỳ sẽ va chạm và gặp tai nạn - Sông Thames ở Anh sẽ bị bỏ thuốc độc trong một vụ khủng bố. - Israel và Iran sẽ có chiến tranh. - Có một trận động đất mạnh ở Chicago, Illinois, Mỹ. - Tổng thống Obama phải cẩn thận trong các cuộc diễu hành. - Ca cấy ghép não người đầu tiên sẽ diễn ra ở Mỹ hoặc Anh. - Hillary Clinton được đề cử giải Nobel Hòa bình. - Trong y học có bước đột phá trong việc chữa bệnh Alzheimer và mất trí nhớ. - Triều Tiên và Hàn Quốc sẽ có chiến tranh. - Một vụ lở đất tồi tệ nhất trong lịch sử ở California, Mỹ phá hủy hàng nghìn ngôi nhà. - Gia đình Tổng thống Mỹ Obama có thể có 1 thành viên mới hoặc 2 thành viên sinh đôi. - Cựu ứng viên Tổng thống Mỹ Sarah Palin sẽ ly dị chồng. - UFO hình móng ngựa được nhìn thấy ở Roswell, New Mexico. Phương Linh (theo PsychicNikki) http://vietnamnet.vn/vn/tin-nhanh/4908/nhu...e-nam-2011.html
    1 like
  28. Năm nay là năm nào? Canh Dần thì làm sao sinh kịp? Dần - Thân hay mão - Thân đều không đẹp! Năm Thìn 2012 cũng được, hoặc năm Ty. Nếu chả may năm tới em có bầu thì em nhẫn tâm bỏ con à? Chọn năm sinh con chỉ mang tính tham khoa,r còn trời cho năm nào thì ai mà biết được. Nếu được đúng năm tốt thì phúc cho cả nhà!
    1 like
  29. Rin che hết trán và lông mày . làm sao NTH tôi xem được rõ ràng đây ! nhưng nhìn sơn căn và gò má thì thấy rằng tiền vận khá lận đận và rất nhiều chuyện phiền muộn . tuổi Dần và gò má cao thì e rằng tình duyên sẽ không tốt đẹp . Rin cần xem kỷ can chi của người yêu ! để tránh những tuổi xung khắc nhé . xin nói vài nét về Rin ! Rin là người khá thẳng tính nên có phần hơi nóng nảy và rất dễ làm phật lòng người khác . nhưng mặt khác thì Rin cũng hay nhẹ dạ và cả tin người nên cũng rất dễ bị người khác làm tổn thương ! NTH xin chia sẻ vài điều này với Rin thôi hihi ... thân chào !
    1 like
  30. Nếu là độc thủ thì như 1 mình 1 cỏi mặc sức tung hoành ,có chính tinh thì cũng lệ thuộc chia xẻ với chính tinh ,nhưng đối với nữ thì không nên có Đà La nằm tại cung mệnh thân hay phu cung , dầu có chính diệu tốt cũng khóc khổ vì chồng con .
    1 like
  31. Tam hợp thì hòa thuận, gần gũi thương yêu nhau , chỉ là 3 người trong tuổi tam hợp thì có 3 năm tam tai giống nhau! Tuổi Hợi Mão Mùi tam tai ở các năm Tỵ Ngọ Mùi!
    1 like
  32. Buồn quá cả nhà ko ai vào phân tích giúp mình à, rất mong các cao thủ vào phân tích giúp. Xin cám ơn mọi người
    1 like
  33. Luận tuổi thì phải luận cả Thiên Can - Địa Chi - Mạng. Luận trong quan hệ chồng - vợ. Luận trong quan hệ giữa con cái với cha mẹ và con cái với nhau. Như thế mới đưa ra được kết luận rõ ràng được. Còn vấn đề bạn nêu chỉ mới luận về Thân Mạng thôi. Bạn chờ các cao thủ luận chi tiết thế nào nhé!
    1 like
  34. 12 Thiên thần trong môn Đại Lục Nhâm 1 TÝ: THÂN HẬU (THIÊN HẬU)........................................................................................................ 2 SỬU: ĐẠI CÁT (QUÝ NHÂN).......................................................................... ............................... 3 DẦN: CÔNG TÀO (THANH LONG)........................................................................... ...................... 4 MÃO: THÁI XUNG (THIÊN HỢP).......................................................................... ......................... 5 THÌN: THIÊN CƯƠNG (CÂU TRẬN)......................................................................... ...................... 6 TỊ: THÁI ẤT (ĐẰNG XÀ)............................................................................ .................................... 7 NGỌ: THẮNG QUANG (CHU TƯỚC)........................................................................ .................... 8 MÙI: TIỂU CÁT (THÁI THƯỜNG)...................................................................... .......................... 9 THÂN: TRUYỀN TÔNG (BẠCH HỔ)........................................................................... ................... 10 DẬU: TÒNG KHÔI (THÁI ÂM)............................................................................ ........................ 11 TUẤT: HÀ KHÔI (THIÊN KHÔNG)......................................................................... ...................... 12 HỢI: ĐĂNG MINH (HUYỀN VŨ)............................................................................ .................... 1 TÝ: THÂN HẬU (THIÊN HẬU)Tý đứng đầu trong 12 chi nên gọi là đạo vua, Tý tại phương chính Bắc là ngôi của thượng đế nên gọi Tý là Đế Quân. Tý là Nguyệt tướng trong tháng Chạp (12) cuối năm nên có lập đàn lễ rượu, Tý cũng thuộc thủy hay rượu nên gọi Tý là Thân Hậu. HÀNH TIẾT Tý tức Thân hậu là thủy thần (dương thủy) bản gia tại Tý địa bàn, tương tỷ với can Nhâm và sao Thiên Hậu là nguyệt tướng thứ 12, được dùng trong khoảng khí Đại Hàn và tiết Lập Xuân khoảng tháng 12 âm lịch. TƯỚNG SẮC Tý hay Thân hậu là vị thần mặt tròn, sắc ngăm đen, xưa là người đàn bà dâm loạn. CUNG VỊ Tý thuộc cung thủy, chữ Pháp gọi là Verseau, lấy hình người xối nước tượng trưng. Ngôi tại chính Bắc, không có can ký, là tượng của sao Thiên hậu, màu đen, vị mặn, trong ngũ âm thuộc âm cung. Cầm thú là loài dơi chuột, chim én. Tinh tú là sao Dũ, sao Hạ, sao Nguy Dũ, Bức hư nhật, Thủ Nguy, Nguyệt Yếm. SỞ CHỦ Tý chuyên ứng về các việc của phụ nữ, gian dối, ám muội, tư riêng. PHÂN LOẠI Trên trời Tý là sao Hoa cái, Tý cũng là vợ vua, người đàn bà thường dân, người vú nuôi, con hát, nhạc công, thợ nhuộm, trộm cướp, người chết chìm, con nít: • Ngày Bính Đinh mà Tý thiên bàn gia Can chi là loại quỷ thần dưới sông. • Ngày Tý thấy Tý thiên bàn thừa Thanh long hay Huyền vũ là điềm có mưa lớn • Trong khí Đông chí về sau mà thấy Tý thiên bàn gia Tị địa bàn là điềm có mưa tuyết, sương mù • Ngày Ất có Tý gia Tị là quẻ Lục Dương, bị tận tuyệt rất xấu, ứng điềm đau buồn khóc lóc, nhưng có cát tướng lâm Đức hương hay thừa Đức thần thì chuyển họa thành phúc. • Tý thừa các sao: - Huyền vũ, Thanh long: điềm mưa to - Bạch hổ: trẻ con gặp họa, nếu bị địa bàn khắc thì đứa trẻ đó sẽ chết - Thiên hợp: ứng vào người mai mối - Thiên hợp gia Ngọ, hoặc thừa thiên không: lúa non - Bạch hổ gia Thìn địa bàn: người đàn bà làm lính - Câu trận: người lưng gù - Thái thường: người đàn bà ca hát - Thiên không gia Mão địa bàn: thầy tu tà đạo - Quý nhân hay Thiên hợp gia Thân, Hợi: thày tu, bà vãi - Thái âm: là vợ lẽ con đòi, gia Thìn Tị địa bàn là ông bà • Tý thiên bàn gia các địa bàn: - gia Mão: có sự gian tà - gia Tị: điềm bi ai khóc lóc, kể lể sầu bi Tý cũng là con gái nhỏ, việc thai sản, việc dâm dật lén lút, ứng các việc sau: • Trái cật, bọng đái, bệnh đái dắt. Tý thừa Bạch hổ khắc can là bệnh lậu máu • Con sông, ngòi, rãnh, cát, đá, ao sen, bồn hoa. Tý gia Dần Thân là đường lộ • Đá vôi, tro, cây, châu ngọc, địa đồ, sách vở văn chương, bút mực. • Đồ trang sức trên đầu, lồng tre, giỏ tre, sợi dây, đồ đong lường nhỏ. • Đậu hột lớn, Tý thừa Thiên hậu gia Dần Mão là tơ Vải • Tý thừa Huyền vũ gia Hợi là đường đi • Con ó, chim én, cá biển. • Họ Tôn, Tề, Tạ, Nhiếp, Mộc, Tất. Can Canh, Sửu Mùi gia Tý là hộ Phàn, Mùi gia Tý là họ Khương, Thiên hợp gia Tý là họ Khổng, Tý gia Mão là họ Trần, Thân gia Tý là họ Truyên, Ngọ gia Tý là hộ Phùng, cùng các chữ bộ thủy. TÝ THỪA THIÊN TƯỚNG • thừa Quý Nhân: điềm cúng vái thánh thần, việc liên quan tới quỷ thần • thừa Đằng Xà: việc tắm gọi • thừa Châu Tước: sớm ứng với chim én, chiếu ứng với chuột • thừa Thiên Hợp: ứng việc gian dâm, ngày Bính Đinh trai dụ gái, ngày Nhâm Quý gái dụ trai • thừa Câu Trận: việc công vụ • thừa Thanh Long: việc sóc vọng. • thừa Thiên không: sầu bi khóc kể • thừa Bạch Hổ: người đi đường, ngày Nhâm Qúy ứng tắm gội • thừa Thái thường: giống Quý Nhân • thừa Huyền vũ: đạo tặc quấy nhiễu. ngày Nhâm Qúy: đi đường thủy, thế yếu, ngày Bính Đinh: đi đường bộ, thế mạnh • thừa Thái Âm: việc ám muội, thầm lén • thừa Thiên Hậu: thê nữ hầu hạ các nhà quyền quý 2 SỬU: ĐẠI CÁT (QUÝ NHÂN) Sửu là một Nguyệt tướng ở khí Đông Chí trong tháng 11, lúc sự nhỏ đi qua điều lớn trở lại, đạo người thì quân tử được trường tồn, đại nhân gặp điều tốt lớn nên gọi Sửu là Đại Cát. Lại nói Sửu có một hào dương sinh, thượng đế về ngôi của mình nên là điềm lành lớn nên gọi Đại cát. HÀNH TIẾT Sửu thiên bàn là thổ thần, bản gia tại Sửu địa bàn, tương tỷ với can Kỷ và sao Quý Nhân là nguyệt tướng thứ 11, được dùng trong khí đông chí và tiết tiểu hàn vào quãng tháng 11 âm lịch. TƯỚNG SẮC & CUNG VỊ Ngày xưa gọi Sửu là thần giữ trâu, thuộc cung Hạ Yết hay Hạ Kiệt, tiếng pháp gọi là Capriorne lấy hình con trâu làm tượng trưng. Trên có ký can Quý, dưới là mộ của loại kim, tượng của sao Quý Nhân, số 3, vị ngọt, trong ngũ âm thuộc âm chủy, về cầm thú là loại trâu, về tinh tú là sao Đẩu sao Ngưu (Đẩu mộc trại, Ngưu kim ngưu). SỞ CHỦ Chuyên ứng về ruộng đất, vườn tược, tranh đấu. Sửu và Mùi chuyên ứng về điền sản, tiền tài, tiệc lễ vui mừng. CHƯ LOẠI THUỘC Trên trời Sửu là sao Khiên ngưu tinh (dắt trâu), sao Thiên nhĩ (tai trời), Phong bá (thần gió), Vũ sư (thần mưa). • Chồng, cha mẹ, người lớn tuổi, tăng ni, thần phật, người giàu có, tướng quân • Lục súc, con nít, gia Tý là con ba ba • Sửu thuộc về tiến cử, phúc đức, tước vị, oán thù, trù rủa. • Sửu thừa Chu tước gia Dần là biểu tấu dâng vua • Sửu thừa Thái thường gia Thân Dậu là Thiên cù (ngã tư đường trời) • Mão gia Sửu hay Sửu gia Mão là Lôi vũ (mưa sấm) • Sửu gia Thái tuế là nắm quyền tể tướng • Lá lách, ruột non, trọc tóc, mắt • Hợi gia Sửu, Sửu gia Hợi là lòi ruột • Lầu gác, đài các hội họp, vườn dâu, kho lúa, ruộng nương, vách tường • Sửu thừa Quý nhân gia Dần là bảo điện của quan lại vua chúa • Sửu thừa Quý nhân gia Thân là nhà của thày tu, ẩn sĩ • Sửu thừa Thanh long gia Hợi là cây cầu • Sửu là vật trang sức để trên đầu (lược trâm, kẹp tóc...) • Giày dép, cái cân, nhà cửa, khí cụ cân đo đong đếm • Sửu vào ngày Mão là cái xe, kiệu của quý nhân • Sửu gia Mùi là vật chẳng còn nguyên • Sửu gia Thiên không là người chết non • Sửu đoán tiên người là họ Điền, Tiên Ngưu, Ngô, Triệu, Dương, Uông, Đổng Nhạc - Sửu Mùi gia Hợi Tý là họ Uông - các họ chữ thổ SỬU THỪA THIÊN TƯỚNG • Sửu thừa Quý Nhân: là hạng trưởng giả, hạng cao cả trong một khu, cũng là điềm được mời thỉnh. • Sửu thừa Đằng Xà: là con ba ba, trâu, rắn, cũng là loại ma quái • Sửu thừa Chu tước: ứng việc tiến cử người hiền, ngày Bính Đinh thì ứng chắc, ngày Nhâm Quý ứng việc quan, kiện tụng, khẩu thiệt • Sửu thừa Thiên hợp: là chiếc xe, Sửu lâm Mão địa bàn cũng thế • Sửu thừa Câu trận: là vị tướng quân, gia Mão càng chắc • Sửu thừa Thanh long: ứng việc cầu, cảng, bến vì Sửu thổ có ký can Quý thủy là nước, thanh long là cây cầu mộc nên có tượng là cây cầu bắc qua bến nước, ngày Tân càng ứng chắc. • Sửu thừa Thiên không: là loại ba ba, súc vật, rắn làm quái. • Sửu thừa Bạch hổ: là thần gió • Sửu thừa Thái thường: ứng việc ruộng nương, nhà cửa • Sửu thừa Huyền vũ: sửu Thiên bàn không bao giờ thừa Huyền vũ • Sửu thừa Thái âm: là chỗ hoang phế, tha ma, mộ địa • Sửu thừa Thiên hậu: là thần làm mưa 3 DẦN: CÔNG TÀO (THANH LONG) Dần tức Công tào là nguyệt tướng trong tháng 10, là lúc vạn vật tựu chứa, công cán, một năm đã thành tựu, hợp tất cả các sổ sách của các chi bộ mà gom về một tào (quan thụ) nên gọi Dần là Công tào, nghĩa là công cán về một tào. HÀNH TIẾT & TƯỚNG SẮC & CUNG VỊ Dần thuộc dương mộc, bản gia tại Dần địa bàn, tương tỷ với can Giáp và sao Thanh long là nguyệt tướng thứ 10, được dùng trong khí tiểu tuyết vào quãng tháng 10 âm lịch. Dần là thần Công tào, mặt vuông, sắc xanh, có râu, thể lực lớn, tài năng, xưa là chức Cải bệnh. Dần thuộc cung Nhân mã, tiếng pháp gọi là Eagittere, dùng hình người quân đội hay người dương súng bắn tượng trưng, ở ngôi Đông Bắc (cung Cấn) nhưng gần bên đông hơn bên Bắc, trên có ký can Giáp, dưới là chỗ khởi sinh ra loại hỏa (loại hỏa khởi trường sinh tại Dần), tượng của sao Thanh long, số 7, vị chua, màu xanh. Luận về ngũ âm là tiếng Chủy, về cầm thú là loài mèo, beo, hổ, về tinh tú là sao Vĩ sao Cơ (Vĩ hỏa hổ, Cơ thủy báo). SỞ CHỦ Dần cũng như Thanh long chuyên ứng các vật liệu về cây, về văn thư hôn nhân, tài bạch, các sự việc của quan lại. CHƯ LOẠI THUỘC • Tam tiêu, mật, gân, mạch máu, tóc, mắt • Xã tắc, công nha, chùa chiền, am chùa, cây to có thần ở, núi rừng • cây có bông, tấm che gió, gươm báu, máy đập, quan quách, lò lửa, lư hương, ghế ngồi thiền. Dần gia Ngọ là rường cột. Trên trời Dần là ngôi sao Tam thái, thừa Bạch hổ gia Thân thì ứng điềm gió lớn. Dần cũng là quan thừa tướng, người khách, đốc bưu (quan kiểm duyệt về thư tín), gia trưởng, chàng rể. Gặp Thiên hợp, Thanh long là hạng tú tài, thừa Chu tước gia Thân là chư tăng. Gia Hợi là khách đi thuyền. Dần cũng ứng về sự mời thỉnh, lễ tiệc vui vẻ. Cũng là bốn góc. Gia Mão là văn chương, gia lục hợp hay tam hợp là tin tức. Thừa Đằng xà gia Tị Ngọ là ngũ sắc. TÊN HỌ • Dần thuộc về những họ Tô, Tăng, Kiều, Trình và các chữ có bộ mộc • Tuất gia Dần là họ Đỗ • Thái âm gia Dần là họ Châu • Dần gia Mão hay Mão gia Dần là họ Lâm DẦN THỪA THIÊN TƯỚNG • Dần thừa Quý nhân: điềm được mời thỉnh • Dần thừa Đằng xà: là loại miêu ly (mèo đồng) là ma quái • Dần thừa Châu tước: là vật liệu làm bó đuốc • Dần thừa Thiên hợp: ngày Nhâm Quý là bụi cây, ngày Bính Đinh là củi (vì Bính Đinh thuộc hỏa làm cây khô). • Dần thừa Câu trận: là chức quan phụ thuộc • Dần thừa Thanh long: là người đạo sĩ • Dần thừa Thiên không: là loại quái miêu ly (mèo chồn) • Dần thừa Bạch hổ: ban ngày ứng hổ beo, ban đêm ứng miêu ly • Dần thừa Thái thường: là sách vở • Dần thừa Huyền vũ: nhiều màu sắc tạp loạn, tô điểm lộn xộn • Dần thừa Thái âm: quan thì được điềm tốt, dân thì không hay • Dần thừa Thiên hậu: là người tòng sự, theo giúp việc 4 MÃO: THÁI XUNG (THIÊN HỢP) Mão và Dậu là hai cái cửa lăng ngọc của Nhật Nguyệt và Ngũ tinh, lại tương xung, và mão là chỗ xung chiếu nên gọi là Thái xung, loại luân xung, có 12 nguyệt tướng luân chuyển trong tháng, là lúc hai khí âm dương bị xung động, triệt xé, hủy hoại, ly tán, xung tán nên gọi là Thái xung. HÀNH TIẾT & TƯỚNG SẮC & CUNG VỊ Mão hay Thái xung là mộc thần (âm mộc) bản gia tại Mão địa bàn, tương tỷ với Can Ất và sao Thiên hợp, là nguyệt tướng thứ tư, được dùng trong khí sương giáng và tiết lập đông vào quãng tháng 10 âm lịch. Mão là vị thần mặt dài sắc xanh, trán cao, có râu, thân hình tròn, cao, nhỏ, gian xảo, bất chính. Xưa là quan coi việc nhạc. Mão thuộc cung thiên yết, tiếng pháp gọi là Scorpion dùng hình tượng con bọ cạp hay con rết làm hình tượng, ngôi tại chính đông (cung Chấn), không có can ký, là tượng của sao Thiên hợp, số 0, vị chua, màu xanh. Luận về ngũ âm là âm Vũ. Cầm thú là loại thỏ, chồn, lạc đà, tinh tú là sao Đệ, Phòng. CHƯ LOẠI THUỘC Mão chuyên ứng việc xe ngựa, ngựa trạm. Trên trời Mão là thần sấm sét, lại cũng là chim trời (thiên cầm), tai, mắt, điện xẹt. Mão là con trưởng, ông chủ, người đàn ông lớn tuổi, người mẹ, cô, anh em, con cái trẻ nhỏ, thày tu, trộm cắp. Mão thừa Thiên hợp gia Dần, Thân là nghệ thuật. MÃO THỪA THIÊN TƯỚNG • Mão thừa Quý nhân: là người thuật sĩ • Mão thừa Đằng xà: chủ về sự nước nôi • Mão thừa Châu tước là sấm sét, điện • Mão thừa Thiên hợp: Mão thiên bàn không hề thừa Thiên hợp? • Mão thừa Câu trận: là thày tu, nhưng ngày Giáp thì thày tu không tinh khiết, ít pháp bảo. • Mão thừa Thanh long: là rừng cây, là mưa, ngày Kỷ thì mưa rất to • Mão thừa Thiên không: là thày tu, nhưng ngày Giáp thì thày tu không tinh khiết, ít pháp bảo. Còn ngày Bính Đinh thì thày tu chân chính, giảng dạy rành dọt. • Mão thừa Bạch Hổ: chủ sự việc trên đất cạn • Mão thừa Thái thường: Thái thường tức Mùi, Mùi với Mão tam hợp nên ứng thuận hợp về việc thuyền xe • Mão thừa Huyền vũ: là con sông, Giang Hà • Mão thừa Thái Âm: ứng việc anh em, ngày Giáp càng chắc • Mão thừa Thiên hậu: Mão là cái cửa riêng, Thiên hợp là đàn bà, gặp nhau tất chủ sự dâm loạn. 5 THÌN: THIÊN CƯƠNG (CÂU TRẬN) Thìn là một nguyệt tướng luân chuyển trong khoảng tháng 3, là lúc sinh khí và sự cứng chắc của thảo mộc được thâm nhập vào bên trong thân cây, Thiên cương có nghĩa là như vậy. HÀNH TIẾT & TƯỚNG SẮC & CUNG VỊ Thìn tức Thiên cương, là thổ thần (dương thổ) bản gia tại Thìn địa bàn tương tỷ với can Mậu và sao Câu trận, là nguyệt tướng thứ 3, được dùng trong khoảng thời gian của khí Thu phân và tiết hàn lộ vào quãng tháng 8 âm lịch. Thiên cương là vị thần sắc vàng mặt tròn đầy, có râu. Thời xưa làm người giữ ngục. Thìn thuộc cung Thiên xứng, tiếng Pháp gọi là Ezicace, dùng cái cân làm tượng trưng. Ngôi tại Đông Nam (cung Tốn) nhưng gần bên Đông hơn bên Nam, trên có ký can Ất, dưới là thủy mộ và thổ mộ (thủy thổ mộ tại Thìn), tượng là sao Câu trận, số 7 màu vàng, vị ngọt, luận ngũ âm là tiếng Thương. Cầm thú là loài cá, rồng, tinh tú là sao Giác sao Cang (giác mộc giao, cang kim long). SỞ CHỦ & CHƯ LOẠI THUỘC • Thìn chuyên ứng về các vụ đánh đập, kiện tụng, chết chóc, ruộng đất, nhà cửa, việc cũ trở lại mới, Thìn cũng là cái ngục, ruột, thây người chết, chột mắt, nhòm ngó • Thìn là mái nhà, chùa chiền, lan can, ngòi rãnh, mồ mả, ruộng vườn, mạch đất. Thừa Thiên hậu gia Hợi là nước biển, thừa Huyền vũ gia Tị là nước giếng, thừa Thiên không là dốc núi. • Thìn cũng là áo mũ bằng sắt, nước lọc, gông cùm, cái vò đựng nước, đựng rượu. Tiền đồng, vật liệu. Thìn gia hỏa (Tị Ngọ Bính Đinh) là chài lưới. • Thìn cũng là sắc thờ, việc ngang ác, ngang ngạnh hung dữ, khinh bỉ, tranh đấu động dao mác. Như thừa Châu tước hay Câu trận lại khắc Can (ngày Nhâm Quý) thì ứng có việc quan sự. Thìn làm sơ truyền khắc Can (tác Quỷ) là điềm có tranh đấu chết chóc. Thìn thừa Bạch hổ tất có chuyện bi ai khóc lóc. Thìn gia Can chi là điềm có kinh sợ. Thìn làm sơ truyền hay mạt truyền lại gia vào Thìn địa bàn là điềm có sự lo buồn. Thìn thừa Thiên hậu ứng thai nghén, thừa Đằng xà hay Bạch hổ lại khắc can thì ứng chuyện tự sát. Lại nói Thìn là thiên lao, Tuất là địa ngục đều chuyên ứng về tù ngục và các chuyện cửa quan. Trên trời Thìn là ngôi sao Đẩu (một trong chòm sao Bắc Đẩu), lại cũng gọi là sao Thiên khốc, Ngục thần, Thiên la, Tả thiên mục. Thìn cũng là chức tể công, đại tướng quân, quản gia, cháu, đánh cá. Thìn gia Nguyệt kiến là quan giám tu. Thìn thừa Bạch hổ gia Mão địa bàn (tử địa) hay gia kim (Canh Tân Thân Dậu) là người làm nghề giết mổ súc vật. THÌN THỪA THIÊN TƯỚNG Thìn thừa Quý nhân: Thìn thiên bàn không hề thừa Quý nhân Thìn thừa Đằng xà: là điềm bị trói buộc, quán buộc. ngày Nhâm mà Thìn thiên bàn tác hào phụ mẫu cũng là điềm trai gái ràng buộc nhau. Thìn thừa Châu tước: ứng điều dối trá Thìn thừa Thiên hợp: là người đồ tể Thìn thừa Câu trận: tất có sự chiến đấu Thìn thừa Thanh long: mùa Xuân Hạ là con công, mùa Thu Đông là con Cá hoặc cũng có khi ứng loài công. Thìn thừa Thiên không: Thìn thiên bàn không hề thừa sao Thiên không. Thìn thừa Bạch hổ: Bạch hổ là ác thần, Thìn cũng là hung thần, nay gặp nhau tất ứng cho loại người hung tợn Thìn thừa Huyền vũ: là tả tướng quân, trong chòm sao Bắc Đẩu là vị Thiên cương trấn nhiếp bọn yêu tà, trộm cướp Thìn thừa Thái âm: là bọn người đứng hai bên chầu quan. Thìn thừa Thiên hậu: là đất lồi lõm, ao hồ lởm chởm. 6 TỊ: THÁI ẤT (ĐẰNG XÀ) Tị là một nguyệt tướng dùng vào quãng tháng 7, tháng này trăm thứ hạt đều thành thục, cứng cáp nên gọi tị là Thái Ất. HÀNH TIẾT & TƯỚNG SẮC & CUNG VỊ Tị tức Thái Ất là hỏa thần (âm hỏa) tương tỷ với can Bính và sao Đằng xà, nguyệt tướng thứ bảy dùng trong khoảng khí xử thử và tiết bạch lộ vào tháng 7 âm lịch. Thái ất là vị thần trán dô, hình mạo cao, miệng rộng tóc vàng, mắt lớn mắt nhỏ. Ngày xưa là người thợ rèn đúc. Tị là cung xử nữ hay song nữ, tiếng pháp gọi là Vierge, dùng hình hai người nữ tượng trưng. Ngôi tại Đông Nam mà gần Nam hơn Đông. Trên có ký can Mậu, dưới là chỗ sinh ra loại Kim (kim trang sinh tại Tỵ). Tị là tượng sao Đằng xà, số 4, vị đắng, màu đỏ sẫm lấm chấm. Trong ngũ âm thuộc tiếng Dốc, về cầm thú là con ve, con giun, rắn. Về tinh tú là sao Dực và sao Chân (Dực hòa xà, chân thủy dân). SỞ CHỦ & LOẠI THUỘC Chuyên ứng các việc tranh đấu, gây cãi, lo sợ quái lạ, cũng ứng về tai họa bất ngờ, sự ban thưởng. Tị gia Thìn gọi là tiến phục, tốt. Thìn gia Tị gọi là thoái phục, xấu. Trên trời Tị là sao Thái Ất, khoảng sau khí đông chí thì ứng về tuyết. • Tị ứng về xe đánh ngựa, cô gái, người đàn bà có huyền thuật, họa sĩ, người thợ mộc, người đầu bếp, người bán hàng hóa, người ăn xin, kẻ điếu tang (Tị thừa Bạch hổ là ngoại tang), là ca nhi (Tị thừa Thái âm là người nữ ca sĩ). • Tị ứng về thai sản (thừa Đằng xà gia Thìn là song thai), buồn lo, văn học, tìm kiếm, khinh rẻ, cuồng vọng. Tị khắc Can chi là điềm bị lăng mạ, chửi rủa. Tị gia Dậu hay Dậu gia Tị là bị lưu đày. • Tị là trái tim, là tam tiêu, yết hầu, răng chấm đỏ, nốt ruồi nhỏ, tan nhang. • Tị là chiếc xe, xe tang, vàng, sắt, châu ngọc, cái khuôn, cái hộp, tơ lụa, khí cụ âm nhạc, ống tiêu, ống so, đồ gốm, gạch ngói, cung tên hoa quả, cái búa, cái rìu, lò bếp. • Tị gia Mùi hay Mùi gia Tị là giếng nước và cái bếp liền nhau. Ngày Tị Hợi mà thấy Tuất gia Tị là bếp và cầu tiêu (nhà xí) liền nhau. • Tị thuộc lửa, ánh sáng • Tị thuộc loại côn trùng biết bay, chim, thằn lằn, con lươn, rắn. Nguyệt yểm gia Tị là điềm nằm mộng thấy rắn (xem bài 35) • Tị thuộc họ Trần, Thạch, Triệu, Điền, Trương, Kinh, Xa, Chu, Sở - Sửu gia Tị: họ Kỷ - Thiên hợp gia Tị: họ Sở - Dần gia Tị: họ Địch - Tý gia Tị: họ Lũng TỊ THỪA THIÊN TƯỚNG • Tị thừa Quý nhân: điềm được biếu tặng, khen thưởng • Tị thừa Đằng xà: ngày Tân ngày Dậu có tai họa bất ngờ, tháng 6 có Tị thừa Nguyệt yểm tất có tai họa liên miên và gặp điều quái lạ, nếu chiếm bệnh thì gọi là điếu khách: chết. Chiếm ngày Tân ngày Dậu càng chắc. • Tị thừa Châu tước: điềm bị mắng chửi, nhục mạ. - Ngày Giáp thì do tiền tài mà gây ra tranh cãi, - ngày Mậu do quan nhân, văn tự, ruộng đất mà gây ra tranh cãi, - ngày Canh tuy không hung cũng tối tăm bế tắc • Tị thừa Câu trận: điềm thổi tiêu, sáo, điềm giải thoát kiện tụng, tù ngục được tha. • Tị thừa Thiên hợp: gọi là Thiên minh sát, chủ sự ve kêu. • Tị thừa Thanh long: có khách, có chiêu đãi ăn uống trong lễ tiệc (nữ chiêu đãi viên) • Tị thừa Thiên không: là loài thủy trùng. • Tị thừa Bạch hổ: Tị là cái xe, Bạch hổ chủ có tang nên gọi là xe tang. Cũng là mũi tên để bắn, vật quanh co. • Tị thừa Thái thường: là lò bếp, ngày Bính Đinh thấy Thái thường gia Tị địa bàn càng ứng chắc việc bếp núc nấu nướng. • Tị thừa Huyền vũ: gọi là Phá hoại sát, tức là mưu sự bị phá hại, bị giải tán, chủ về bất thành. • Tị thừa Thái âm: ứng việc bếp núc • Tị thừa Thiên hậu: phụ nữ bất chính, điềm bất lợi cho phụ nữ. 7 NGỌ: THẮNG QUANG (CHU TƯỚC) Ngọ thuộc hỏa, ở chính cung Ly là nơi chiếu sáng bốn phương, ánh sáng không ngừng nên gọi ngọ là Thắng Quang, vì Thắng là có sức lực mạnh hơn lên, còn Quang là sáng rõ. Giờ Ngọ cũng là giờ mặt trời chiếu sáng bốn phương và rực rỡ hơn hết nên mới gọi ngọ là Thắng quang. HÀNH TIẾT & TƯỚNG SẮC & CUNG VỊ Ngọ là dương hỏa, bản gia tại Ngọ địa bàn, tỷ với can Bính và sao Châu tước là nguyệt tướng thứ 6, được dùng trong khoảng khí Đại thử và tiết lập Thu vào quãng tháng 6 âm lịch. Thắng quang là vị thần mặt tròn đỏ, thân thể to lớn, xưa làm chức quan giữ ngựa cho vua. Ngọ là cung sư tử, tiếng Pháp gọi là Lion dùng hình con sư tử tượng trưng. Ngồi tại chính Nam tức cung Ly, không có can ký, tượng sao Châu tước, số 9, vị đắng, màu đỏ. Luận ngũ âm là tiếng Cung, cầm thú là con ngựa, con hoẵng, con nai. Tinh tú là sao Tinh và sao Trương (Tinh nhật mã, Trương nguyệt lộc). SỞ CHỦ & CHƯ LOẠI THUỘC Ngọ chuyên ứng các điều quái lạ, sáng láng văn minh, tơ vải, văn thư, việc quan. Trên trời Ngọ là sao Thiên vương lưỡng tính, cũng gọi là Tả thiên mục là hình tượng của lửa. • Ngọ cũng là cung phi, là kẻ đi sứ cho vua, là người đàn bà ca hát, đình trưởng, người hiền, thầy tu, người cưỡi ngựa, người con gái nuôi tằm. • Ngọ ứng việc kinh sợ, thưa kiện, tin tức, màu mè, sáng láng - gia Thân là điều nghi hoặc, gây gổ, trù rủa - thừa Chu tước gia Dần là văn thư - gia Hợi là thai ngén (hỏa lâm tuyệt hương) • Ngọ là trái tim, chính giữa, con mắt, miệng. Ngọ gia Hợi là đau tim • Ngọ là cung điện, nhà cửa, mái nhà, cửa thành, ruộng nương, đường xá, lò gốm, lò luyện kim. Ngọ thừa Thái thường gia Thân Dậu là nhà bếp • Ngọ là đuốc lửa, hơi lửa, cờ tinh, quần áo, tờ thêu, sách vở, mắc áo • Ngọ là con ngựa, tơ tằm, chim trĩ, đậu nhỏ • Ngọ thuộc các họ Tiêu, Trương, Hứa, Lý, Châu mã, Chu - Ngọ thừa Thiên hợp là họ Liễu - thừa Câu trận gia Hợi là họ Địch - thừa Đằng xà gia Tý là họ Bằng. NGỌ THỪA THIÊN TƯỚNG • Ngọ thừa Quý nhân: là người hiền lành. Ngày Tân tuy Ngọ khắc Tân nhưng việc xấu hóa ra tốt. • Ngọ thừa Đằng xà: điềm có kinh sợ. Ngày Tân Mùi thì sự kinh sợ mau đến, các ngày khác chậm hơn • Ngọ thừa Châu tước: điềm có tin tức chân thật, vị Ngọ thuộc hỏa có tính lễ nghĩa, Châu tước thuộc văn thư tin tức. • Ngọ thừa Thiên hợp: chữ nghĩa thông đạt, ngày Bính Đinh ứng sự hội họp đông người ở nha môn. Ngày Nhâm Quý ứng người đàn bà làm mai mối. • Ngọ thừa Câu trận: Câu trận là tượng quan võ, hương kỳ, quan bản thổ. Ngọ là chỗ cao nhất, nay Ngọ sinh Câu trận tất là người lớn tuổi nhất trong khu. • Ngọ thừa Thanh long: Thanh long là tượng quan văn, nay thừa Ngọ tức là rồng bay lên trời, ám chỉ người đi xứ hay đại sứ nước ngoài. • Ngọ thừa Thiên không: Thiên không thổ được Ngọ sinh, gọi là thổ công, thợ đắp đất, nền nhà. • Ngọ thừa Bạch hổ: ứng về đường ngõ, lối đi, bạch hổ là sao bạch lộ, đao kiếm, binh khí. Bạch hổ kim được ngọ hỏa hun đúc thành binh khí. • Ngọ thừa Thái thường: ứng về ruộng nương, nhà cửa, ngũ cốc. • Ngọ thừa Huyền vũ: gọi là Tả mục tướng quân, lại nói mặt trời đã mở, điềm trộm cướp bị bại. • Ngọ thừa Thái âm: Thái âm là tỳ thiếp, Ngọ là bậc cao cả, nên nói là cung phi. • Ngọ thừa Thiên hậu: thiên hậu là cung nữ: - ngày Giáp: người đàn bà nhỏ, tươi tốt - ngày Mậu: người nữ da sắc vàng, mập và xấu - ngày Canh: người nữ gày ốm, hay bệnh mà có lễ nghĩa - ngày Nhâm Quý: người nữ có nhan sắc đẹp mà dâm - ngày Nhâm: dâm dật - ngày Quý: loạn luân 8 MÙI: TIỂU CÁT (THÁI THƯỜNG) Mùi là một tiểu tướng luân chuyển ở quãng tháng 5 trong khí hạ chí và tiết tiểu thử, lúc ấy vạn vật biến trở: lớn quá nhỏ lại, cái lớn đang tiêu tàng mà cái nhỏ đang nảy nở, muôn việc đều được tiểu thành nên gọi Mùi là Tiểu Cát. HÀNH TIẾT, TƯỚNG SẮC & CUNG VỊ Mùi là thổ thần (âm thổ) bản gia tại Mùi địa bàn, tương tỷ với can Kỷ và sao Thái thường là nguyệt tướng thứ 5 được dùng trong khoảng khí Hạ chí và tiết tiểu thử tháng 5 âm lịch. Mùi là thần làm gió (Phong bá), xưa là quan coi giữ âm nhạc. Mùi thuộc cung Cự Giải, tiếng Pháp gọi là Cancer, dùng con cua làm tượng. Ngôi tại Tây Nam, gần Nam hơn Tây. Trên có ký can Đinh và can Kỷ, dưới là mộc mộ (loại mộc mộ tại Mùi), là tượng của sao Thái thường, số 8, màu vàng. Về ngũ âm là tiếng Chủng, về cầm thú là loài dê, cừu, chim ưng. Tinh tú là sao Quỷ, sao Tỉnh (Quỷ kim dương, Tỉnh mộc can), vị ngọt. SỞ CHỦ & SỞ THUỘC Mùi chuyên ứng các việc lễ tạ, cúng vái, ăn uống, rượu tiệc. Trên trời mùi là Thiên tửu tinh, lại là thần làm gió, quỷ thần ở trong nhà, gia Tị Ngọ thì gọi là Thiên nhĩ. • Mùi là người bảo vệ, lễ nhạc, cúng tế. • Cha mẹ, người già cả, cô dì, chị dâu, em gái, người làm mối, người đàn bà nghèo khó, thợ nấu rượu, thợ làm nón. - gia Hợi: cha kế - gia Mậu? là mẹ kế • là lễ tiệc, hội hè ăn mừng - ngày Mậu Kỷ mà Mùi thừa Thanh long: được mời thỉnh - Mùi gia hành niên, lại thừa ly thần là điềm ly biệt • Mùi cũng là điềm nóng/hạn, thừa Châu tước gia Hợi Tý là hoàng trung (sâu cắn lúa) • Mùi là đình viện, vách tường, thổ sản, giếng nước, suối nước, lò gốm, phòng trà, quán rượu, nơi tiếp đón khách - ngày Ất Giáp là phân địa (nơi chôn người) - gia Thìn là vười hoa - gia Mão là rừng cây • Mùi là cá biển, chén, mâm, áo, mũ, ấn tín, thuốc chữa bệnh, mạ, lúa, bức rèm, cây dâu, chai, chén - thừa Thanh long or Thiên hậu lại gia Dần Mão là vừng mè. • Mùi thuộc họ Châu, Tấn, Cao, Dương. Theo hán tự là những chữ có bộ thổ hay có chữ Dương. MÙI THỪA THIÊN TƯỚNG • Mùi thừa Quý nhân: gia Hợi địa bàn hay Hợi thừa Quý nhân gia Mùi địa bàn tất có chuyện giết lợn để cúng tế thần (Hợi là lợn, Mùi là dê, Quý nhân là thần thánh). • Mùi thừa Đằng xà: Mùi là cúng vái còn Đằng xà tức Tị là cái xe tang: ứng điềm cúng tế người chết. Nếu thừa Tang xa, Táng phách (bài 47) là điềm phải đội khăn tang. • Mùi thừa Châu tước: ứng kiện tụng, giấy tờ tới cửa công • Mùi thừa Thiên hợp: Mùi không khi nào thừa Thiên hợp. • Mùi thừa Câu trận: ngày Nhâm Quý ứng việc tranh nhau, vì Mùi & Câu trận thuộc thổ, khắc với Nhâm Quý thủy. • Mùi thừa Thiên không: là suối nước, giếng nước. Thừa thêm các ác sát như Kim thần, Đại sát, Chi hình/hại (bài 3) là giếng bị hư hại. Tháng 4 chiếm thì Mùi thừa Thiên nhĩ, mà Thiên nhĩ gặp Thiên không thì cái tai thông suốt, nếu đi tìm bắt kẻ gian là có tin đích xác. • Mùi thừa Bạch hổ: ngày Giáp Ất gọi là "Phần mộ sát" ứng việc mồ mả. Chôn cất ngày Ất, Kỷ Tân ứng có gió to • Mùi thừa Thái thường: Mùi tức thần cốc, ứng về lúa nếp vừng đậu ngô khoai: - ngày Nhâm Quý: mùi thừa Thái thường lâm Can thì ứng về rượu. Lại luận là: Mùi và Thái thường thuộc âm thổ, ứng về gạo nếp hay rượu tiệc, lại khắc can Nhâm Quý tức là tự hại bản thân (ý nói say xỉn rượu chè). - ngày Bính Đinh thấy Thái thường ở Mùi thiên bàn và Quý nhân ở Hợi ứng điềm dùng lợn để tế thần. • Mùi thừa Huyền vũ: mùi không bao giờ thừa Huyền vũ. • Mùi thừa Thái Âm: có liên hệ tới cô dì • Mùi thừa Thiên hậu: có việc liên hệ tới mẹ, bà 9 THÂN: TRUYỀN TÔNG (BẠCH HỔ) Thân hay truyền tông là một nguyệt tướng trong tiết tháng 4, lúc vạn vật được đến cùng tột, lúc này truyền âm mà tông dương (rước âm đưa dương) nên gọi là Truyền Tông. HÀNH TIẾT, TƯỚNG SẮC, CUNG VỊ Thân là kim thần (dương kim) bổn gia tại Thân địa bàn, tương tỷ với can Canh và thiên tướng Bạch Hổ là nguyệt tướng thứ 4, được dùng trong khoảng thời gian khí Tiểu Mãn và tiết Mang Chủng vào quãng tháng 4 âm lịch. Truyền tông hình dáng thấp ngắn, mặt tròn tai nhỏ, để râu tóc, thân hình to, ngày xưa là người đi đường. Thân là cung song tử (sinh đôi), dùng hình tượng cặp sinh đôi làm hình tượng, tiếng pháp gọi là Cémeeux. Ngôi tại Tây Nam nhưng gần bên Tây hơn bên Nam, trên có ký can Canh và dưới là nguồn sinh ra thủy thổ (thủy thổ trường sinh tại Thân), tượng của sao Bạch hổ, số 7, vị cay, màu trắng. Luận về ngũ âm là tiếng Chủng, luận cầm thú là loại khỉ, vượn. Tinh tú là sao chủng (chủng hỏa hầu). SỞ CHỦ, CHƯ LOẠI THUỘC Thân chuyên ứng về việc đưa truyền, việc đi đường, đưa tin tức, tật bệnh. Trên trời Thân là thiên tiền tinh (sao ứng tiền bạc) cũng gọi là sao Thiên Quý, lại cũng gọi là Thiên y. Thân là người đi đường, người dân, người làm việc công, thợ bạc, người có tang chế, người đi đánh giặc, binh sĩ dùng cơm chiều, người buôn bán, cái thây bị giết. • Thân là phổi, ruột dài, xương, thịt, tiếng nói • Thân ứng tật bệnh, tang chế, thây người chết • Thân là vú cho con bú, tiền đưa biếu tặng • Thân là nơi chiêu an, thờ phụng, thành trì, mái nhà, đường xá, ao hồ, lăng tẩm, linh cữu • Thân là gấm vóc lụa là, sợi dây, kinh sách, dây nhạc cụ, nếp lớn hột. Thân gia Tị, Dần là đao binh (gia hình) • Thân gia Tý Ngọ địa bàn: quân lính đào ngũ • Thân thừa Thiên hợp: thầy thuốc chính danh • Thân thừa Bạch hổ: người đi săn bắn • Thân thừa Thanh long gia Dần Thân Tị Hợi: người cậu hay thầy tu • Thân gia Hợi khắc Can: thủy nạn • Thân thừa Câu trận: cừu thù, cướp bóc • Thân thừa Huyền vũ gia Hợi Tý: sai lời, thất hứa, ngày Nhâm Quý thì ứng việc tồi tệ dâm ô • Ứng với quan Đình Úy hay Nguyên soái vào các trường hợp: - Thân gia Hợi vào các ngày Hợi Mão Mùi - Thân gia Dần vào ngày Thân Tý Thìn • Thân thuộc họ Viên, Quách, Thân, Tấn, Hầu, Hàn, Đặng, những họ có chữ kim trong hán tự. THÂN THỪA THIÊN TƯỚNG • Thân thừa Quý nhân: Quý nhân thổ chủ về ruộng đất, Thân là chỗ sinh thủy bị Quý nhân khắc, nên nói về việc đi thu thuế ruộng đất • Thân thừa Đằng xà: Đằng xà tức Tị là cái xe tang, Thân tức Bạch hổ chủ sự chết, toàn ứng sự tang lễ chết chóc: - ngày Giáp: đám tang của hạng quan quý (vì Giáp là Thanh long ứng hạng quan quý) - ngày Mậu: đám tang của bọn tôi tớ (vì Mậu tức Thiên không ứng hạng nô tỳ) cũng có khi ứng hạng quan nhân tử trận - ngày Canh: đám tang người không bệnh mà tự cuồng loạn hủy mình chết - ngày Bính Đinh: hỏa táng, lò thiêu • Thân thừa Chu tước: chủ sự săn bắn ở đồng ruộng • Thân thừa Thiên hợp: chủ về sự mua bán trao đổi: - ngày Nhâm Quý: ứng người nữ mua bán hoặc đem lễ vật mai mối - ngày Bính Đinh: ứng người nam mua bán, có sự trao đổi mua bán với quan lại • Thân thừa Câu trận: Câu trận chủ tranh đấu: - ngày Kỷ do oan cừu mà tranh đấu, vì ngày Kỷ can Đức tại Dần, nên Dần mộc bị Thân kim khắc, khắc nên sinh oán cừu. • Thân thừa Thanh long: Thân ứng con đường, Thanh long ứng thiên lý mã: - ngày Giáp: do việc tiền bạc mà phải xuất hành, hoặc được tiền bạc, tin tức nơi xa nên xuất hành - ngày Mậu: có việc liên quan tới giấy tờ mà bọn nô tỳ ra đi - ngày Nhâm thấy tam truyền là thủy cục (Thân Tý Thìn) mà sơ truyền là Gian thần: đàn bà dâm loạn bị bại lộ mà phải lên đường. Gian thần: mùa Xuân tại Dần, Hạ tại Hợi, Thu tại Thân, Đông tại Tị. • Thân thừa Thiên không: ứng về sự mài giã, hao mất, tiêu mòn • Thân thừa Bạch hổ: đều ứng với đao binh tang thương, sát hại: - ngày Giáp: Thanh long chủ sự nên vì tiền tài mà sinh thương tổn, nhưng kim với thổ tương sinh nên không sinh ra chiến đấu - ngày Canh: Bạch hổ chủ sự nên ắt động đao binh, nhưng vì ngày Canh can Đức tại Thân nên chẳng bị thương tàn. Ngày Canh có lợi về việc gặp đại nhân nhưng cũng có ẩn điều bất nghĩa. - ngày Nhâm: Thiên hậu chủ sự nên do đàn bà mà thương tàn lẫn nhau - ngày Quý: Huyền vũ chủ sự nên ứng điềm đạo tặc làm hại lẫn nhau, nhưng không hung tợn • Thân thừa Thái thường: có việc đánh cướp • Thân thừa Huyền vũ: có việc cướp giật đánh phá • Thân thừa Thái âm: chiếm nhằm ngày Tân mà Thân được vượng tướng khí thì ứng lúa mì, tù tử khí ứng việc giữ thành. • Thân thừa Thiên hậu: Thiên hậu thủy trường sinh tại Thân, nên ứng về việc hồ ao: - ngày Giáp, Mậu: ứng cái hồ - ngày Bính Đinh: mây che, sự việc rất ám muội, đề phòng mưu kế mà bị tổn hao (Thân kim sinh Thiên hậu thủy, Thiên hậu khắc Bính Đinh) 10 DẬU: TÒNG KHÔI (THÁI ÂM) Dậu = Tòng khôi, khôi là sao Đầu mà tòng là theo, vì vậy sao Tòng khôi là sao khôi thứ nhì (sao đẩu thứ nhất là Hà khôi). Ứng vào tháng 3, lúc ấy các loại thảo mộc đều tòng theo, sự sống phát triển cây lá nảy nở. Dậu là kim thần (âm kim) bổn gia tại Dậu địa bàn, tương tỷ với can Tân và sao Thái âm, là nguyệt tướng thứ 3 được dùng trong khí Cốc Vũ và tiết Lập Hạ vào quãng tháng 3 âm lịch. TƯỚNG SẮC, CUNG VỊ Tòng khôi thần hình đoan chính, khí sắc vàng trắng, xưa là cô đồng bà bóng. Dậu thuộc cung kim ngưu, chữ Pháp gọi là Taureau dùng con bò sừng làm tượng trưng. Ngôi tại chính Tây, không có can ký và không thừa can lộc. Dậu là tượng sao Thái âm, số 6, vị cay, màu trắng. Luận ngũ âm là tiếng Vũ, luận cầm thú là loại trĩ, chim. Tinh tú là sao Vị sao Hào (Vị thổ trĩ, Hào nhật kê). SỞ CHỦ, SỞ THUỘC Dậu chuyên ứng các việc gian dấu, giải tán, thưởng tặng, tin tức, đao kiếm, nô tỳ, phụ nữ. Trên trời Dậu là văn tinh, ứng về văn học. Dậu là cung đoài tức cái đầm nước, vì vậy Dậu gia Tý là mưa dầm, gia Tuất là sương, gia Sửu là tuyết, gia Hợi là sông, gia Dậu lại thừa Thiên hậu hay Huyền vũ là sông Cửu Giang. • Dậu là cánh cửa của kẻ làm việc ám muội (tử môn) • Đàn bà quý trọng, tớ gái, người thợ, người bán rượu: - vượng địa: thiếu nữ - hưu, suy thừa Thiên không: à đào, đào hát, gái mãi dâm - thừa Thanh long, Thiên hợp: tỳ thiếp, vợ nhỏ ở riêng - thừa Thái âm gia Can chi: vợ nhỏ thành vợ lớn - thừa Thiên không: tớ nhỏ tuổi - thừa Thiên không gia Tý Sửu: tớ già - thừa Thiên hợp gia Dần Thân: cô vãi - thừa Thái thường: gái đờn ca - gia Dần địa bàn: lộc quan, cái thây của người bị xử tử - gia Dần thừa Bạch hổ: tang chế, ngày Ất là áo tang sẽ đến - thừa Bạch hổ gia Dần Thân Tị Hợi: binh sĩ ở biên thùy. • Dậu là lông, da, lỗ miệng (đoài), lỗ tai, mắt, móng, xương, tinh huyết. Gia Thìn Tuất Sửu Mùi là tính mệnh, là tiểu trường (ruột non) • là tháp trắng, đường đi, đường mòn, miếu, nhà thờ, lẫm, nếp nhỏ hột. Tấm bia, vàng bạc, vật trang sức, trân châu, gương soi, đồng, chì, sắt, đá, cỏ, cành, sợi. • là rượu, nước tương, rau cải, gừng tỏi • là họ Triệu, Kim, Lạc, Thạch. • • DẬU THỪA THIÊN TƯỚNG • Dậu thừa sao Quý nhân: xem vào mùa Thu thì dậu được vượng khí, xem vào tháng tứ quý thì Dậu được tướng khí nên ứng với điềm tốt được thưởng tặng. Nếu xem vào mùa Xuân thì Dậu bị tù khí, vào mùa Hạ thì dậu bị Tử khí, tất ứng với điềm bị Quý nhân quở trách, chiếm hỏi tù ngục kiện tụng ắt bị gông cùm. • Dậu thừa sao Đằng xà: ứng điềm ma quái, xem vào tháng 2 thì Dậu là Nguyệt Yểm, là vị thần hay sinh ra việc quái gở. • Dậu thừa Châu tước: ứng về loại chim, gà. Ngày Giáp, Ất là điềm tù ngục, kiện tụng, vì văn thư mà có chuyện nhiễu hại (vì Dậu khắc Can). • Dậu thừa Thiên hợp: Thiên hợp tức Mão, Mão với Dậu đều thuộc "tư môn" (cánh cửa riêng) cho nên ứng cả trong lẫn ngoài, tả hữu đồng tính việc âm thầm ám muội. • Dậu thừa Câu trận: Câu trận là sao chiến đấu, hoạt động, tất có giải tán. Như ngày Giáp chiếm quẻ thì Giáp khắc Câu trận, Câu trận thổ sinh Dậu nên cả hai bên đều có thế lực để đánh nhau. Chiếm vào ngày Mậu Canh thì Mậu Canh đối với Câu trận và Dậu tương sinh tương tỷ nên không có việc đánh nhau mà tự giải tán. Ngày Nhâm Quý chiếm thì Câu trận khắc Nhâm Quý cho nên được, giải tán mà không có ơn nghĩa gì cả. • Dậu thừa Thanh long: Dậu vượng tướng khí thì việc ứng về tiền bạc, nếu Dậu làm sơ truyền thì sự việc ắt có thủy có chung. Dậu hưu tù tử khí là con dao nhỏ. • Dậu thừa Thiên không: Thiên không là tớ trai, Dậu là tớ gái, 2 đứa ở cùng nhau tất sẽ trao đổi lời lẽ, tư thông cùng nhau. • Dậu thừa Bạch hổ: Dậu và Bạch hổ đều thuộc kim, nếu Dậu được vượng tướng khí thì kim đó ứng vào vàng bạc, ngọc ngà châu báu; nếu Dậu bị tù tử khí thì kim đó ứng vào con dao. • Dậu thừa Thái thường: là loại nếp nhỏ, ngày Nhâm Quý thì lúa nếp hạt to chắc vì Dậu được Nhâm Quý tương sinh. Ngày Mậu sinh hạt to chắc, ngày Canh thì hạt quá già, bởi Canh và Dậu đều thuộc kim là loại cứng rắn. • Dậu thừa Huyền vũ: Dậu kim sinh Huyền vũ thủy nên gọi là bờ nước, nhưng ngày Kỷ chiếm thì khô cạn vì Kỷ thổ khắc Huyền vũ thủy. • Dậu thừa Thái âm: ngày Tân chiếm quẻ thì Tân với Thái âm cùng một loại (đều là âm kim), nếu Dậu được vượng tướng khí thì ứng vàng ngọc. Nếu Dậu hưu tù tử khí thì ứng vào con dao hay chuyện chém giết. Ngày Bính Đinh thì ứng về tiền tài vì Dậu là kim khí gặp Bính Đinh hỏa được đúc thành tiền. Ngày Giáp mùa Xuân thì Dậu và Thái âm bị tù khí, ắt ứng việc tôi tớ trai cùng vợ lẽ tính điều gian xảo. Ngày Mậu thổ sinh Dậu và Thái âm tất có sự hôn nhân. Ngày Canh thì Dậu và Thái âm cùng can ngày đồng là kim, tỷ hòa và làm vượng khí cho nhau, ứng vào việc tiền bạc. • Dậu thừa Thiên hậu: Dậu thuộc cung Đoài là cái đầm, gặp Thiên hậu là thủy, vậy ứng việc nguồn nước dồi dào, quẻ ứng các việc liên quan tới nước, đầm, lại là điều bên trong và bên ngoài tư thông nhau; Dậu là cái cửa riêng, Thiên hậu là phụ nữ nay gặp nhau tất ứng chuyện đàn bà làm chuyện thầm lén. 11 TUẤT: HÀ KHÔI (THIÊN KHÔNG) Tuất thiên bàn hay Hà khôi, cũng gọi là Thiên khôi, là sao đẩu thứ nhất ngôi ở cung Tuất. Hà khôi ứng động trong tháng 2 ở giữa mùa Xuân, lúc vạn vật đều sạch sẽ, gọn gẽ và thu hút sinh khí nên gọi là khôi (khôi là tụ lại). HÀNH TIẾT, TƯỚNG SẮC, CUNG VỊ Tuất là thổ thần (dương thổ), bổn gia tại Tuất địa bàn. Tương tỷ với can Mậu và sao Thiên không là nguyệt tướng thứ hai được dùng trong khoảng khí Xuân phân và Tiết Thanh minh. Ngày xưa Tuất là kẻ giữ ngục, canh nhà giam. Tuất là cung Bạch Dương, dùng con chim đực làm tượng trưng. Ngôi ở phương Tây Bắc, nhưng ở gần bên Tây hơn, trên có ký can Tân, dưới là hỏa mộ (hỏa chết tại Tuất). Tuất tượng sao Thiên không, vị ngọt, màu vàng, trong ngũ âm là tiếng Thương, về cầm thú là loại chó, chó sói. Trong tinh tú là sao Khuê sao Lâu (Khuê mộc lang, Lâu kim câu). SỞ CHỦ, VẬT LOẠI Tuất sở chủ các việc có liên quan tới ấn thọ (huân huy chương), việc dối trá, tiêu thoát, hư hao, mất tài vật, việc nô tỳ, sự tụ tập đông người. Tuất dụng làm sơ truyền thì ứng việc cũ trở lại mới. Trên trời Tuất là sao đẩu, là thiên la, Tuất cũng là địa hộ, Tuất thừa Huyền vũ gọi là ép thần hay êm thần. • Tuất là chức Tư trực, người hiền, thầy tu, trưởng giả, thợ săn bắn, sát hại, người hung ác, tiểu đồng, nô bộc. • Tuất là người cậu, ông, em gái. • Tuất thừa Bạch hổ khắc Can: kẻ cướp mạnh mẽ • Tuất gia Nguyệt kiến (cung tháng địa bàn): quan ty tra xét • Tuất gia Thái tuế (cung năm địa bàn): quan đô hạt (quản khu vực lớn). • Tuất thừa Chu tước gia Can hay Chi là quan trưởng • Tuất thừa Huyền vũ: kẻ ăn xin • Tuất gia Dậu, Tuất: binh sĩ • Tuất là mệnh môn, bọng đái, chân đi. • Tuất là thành quách, chùa chiền, nhà hư, những vật sinh trong đất: - ngày Giáp thấy Tuất gia Dần: vách tường hư hỏng - thừa Bạch hổ và được dùng làm sơ truyền: mồ mả - thừa Câu trận: là lao ngục - thừa Đằng xà lại gia Tị Ngọ: lò vôi gạch, lò sứ hay lò đúc kim khí • Tuất là sắc phục của công nhân, giày dép, khí giới của binh lính: - thừa Chu tước: huy, huân chương - thừa Huyền vũ lâm hình (Sửu, Mùi) là cái gông cùm - thừa Câu trận gia Thân: đá • Tuất cũng là ruộng nương, ngũ cốc, vừng đậu lúa ngô • Tuất thuộc về họ Ngụy, Vương, những chữ có bộ thổ hay chữ túc. TUẤT THỪA THIÊN TƯỚNG • Tuất thừa Quý nhân: không bao giờ Quý nhân thừa Tuất thiên bàn, cũng không bao giờ lâm Tuất địa bàn. • Tuất thừa Đằng xà: ứng về loại chó sói, chó, yêu quái quấy nhiễu: - mùa Xuân chiêm nhằm các ngày Thìn Tuất Sửu Mùi: gọi là Thiên cẩu, tất có loại ma quái do loại khuyển hóa thành - ngày Mậu: gọi là Vàng yểm sát: ứng với việc nguy hại - ngày Giáp Ất, Dần Mão: gọi là Thi ứng, ứng với điềm vui mừng. Tuất thừa Đằng xà và các ngày Thìn Tuất Sửu Mùi tất ứng với loại ma quái, còn ngày Giáp Ất Dần Mão Tuất thừa cát tướng thì ứng với các việc tốt như thai sản, hôn nhân. • Tuất thừa Chu tước: gọi là Chu tước nhập mộ, trong việc kiện tụng ắt có hệ thuộc vào hạng người thư ký, tùy phái. • Tuất thừa Thiên hợp: Thiên hợp tức Mão, Mão với Tuất lục hợp, Mão đứng trước Tuất 5 cung nên gọi là Đức thần của Tuất (theo cách an Chi Đức). Vì vậy Tuất thừa Thiên hợp gọi là Đức hợp, chiếm việc gì cũng tốt lành. • Tuất thừa Câu trận: Tuất là sao Thiên khôi chủ sự tụ tập đông người, Câu trận cũng chủ sự nhóm góp, nên Tuất thừa Câu trận thể nào cũng có cuộc hội họp đông người như hội nghị, liên hoan, văn nghệ. • Tuất thừa Thanh long: Tuất là vị thần tập chứng, Thanh long là nơi đô hội, luận về quan vị là người có quyền cai trị một địa hạt. • Tuất thừa Thiên không: Tuất với Thiên không tương tỷ đồng ngôi, ứng các việc có liên quan tới nô tỳ, sự trốn mất, sai lạc, điềm tôi tớ bất lương, chẳng trốn mất cũng trộm cắp của mình. • Tuất thừa Bạch hổ: Tuất là địa hộ (cửa đất) Bạch hổ là táng môn (cửa chôn cất) ứng chuyện chôn người xuống huyệt. Ngày Nhâm Quý hỏi bệnh mà gặp Tuất là hào quan quỷ lại thừa sao Bạch hổ gọi là lũy hổ sát, người bệnh ắt chết. • Tuất thừa Thái thường: Tuất là cái ấn, Thái thường là huy chương, vậy tất ứng điềm được thưởng tặng huy chương. • Tuất thừa Huyền vũ: Huyền vũ chủ đạo tặc, Tuất chủ đào vong, nay gặp nhau là điềm vì sự trộm cắp mà phải đi trốn tránh (cũng ứng tương tự như Tuất thừa Thiên không). • Tuất thừa Thái âm: Thái âm là tỳ thiếp, ứng vụ hôn nhân, lại cũng ứng việc gian, giấu, trốn tránh, cũng giống như Tuất thừa Thiên không. • Tuất thừa Thiên hậu: ngày Bính chiếm quẻ: Thiên hậu thủy khắc Bính hỏa tác quan tinh, điềm có lợi cho hàng quan nhân, quân tử. Rất có lợi cho sự yết kiến người trên. 12 HỢI: ĐĂNG MINH (HUYỀN VŨ) Hợi là chỗ bắt đầu sinh một hào dương, tức là chỗ ánh sáng phát ra nên gọi Hợi là Đăng minh (sáng lên) cũng gọi hợi là Thiên môn (cửa trời). HÀNH TIẾT, TƯỚNG SẮC, CUNG VỊ Hợi là thủy thần (âm thủy), bản gia tại Hợi địa bàn, tương tỷ với can Quý và sao Huyền vũ là nguyệt tướng thứ nhất, được dùng trong khoảng khí Vũ thủy và tiết Kinh trập vào tháng riêng âm lịch. Hợi là người thợ, mặt dài, tóc vàng, da đen. Hợi là cung Song ngư, tiếng pháp gọi là Poissone tượng trưng bởi hình hai con cá. Ngôi tại Tây Bắc, ngôi ở gần bên Bắc hơn bên Tây. Trên có ký can Nhâm, dưới là chỗ sinh ra loại mộc (mộc trường sinh tại Hợi). Hợi là tượng sao Huyền vũ, số 4, vị mặn, màu đen, về ngũ âm là tiếng Dốc, về tinh tú là sao Thất (thất hỏa trú) và sao Bích (bích thủy), về cầm thú là các loại heo, gấu. Hợi là ngôi tại cửa trời, nơi âm khí cùng tận và khí dương bắt đầu hưng khởi. SỞ CHỦ, CHƯ LOẠI THUỘC Hợi vốn ứng điềm lành, thường là điềm được mời thỉnh, có việc âm thầm tư riêng, việc chẳng trong sạch. Hợi thừa hung tướng là có điềm tranh tụng tù ngục, bị đắm đuối, nếu là ngày Tỵ Dậu Sửu thì ứng điềm trốn mất, có sự tìm kiếm. Trên trời Hợi là vũ sư (thần làm mưa), cũng gọi là Thiên mã, Thiên nhĩ. • là con trẻ, tướng quân, người đàn bà, thương khách, kẻ đi xin, Hợi gia Dậu là người say rượu • là lá gan, quả thận, con cá, mắt lé - Hợi gia Thân vào các ngày dương (Giáp Bính Mậu Canh Nhâm) là đầu tóc - Hợi gia Mùi vào các ngày âm (Ất Đinh Kỷ Tân Quý) là cái chân (chân để đi) - Hợi gia Thìn: bệnh khốc - Hợi gia Thìn Tuất Sửu Mùi: bệnh tả - Hợi gia Tỵ hay Tỵ gia Hợi: cái đầu, mặt • Hợi thừa các thiên tướng: - thừa Huyền vũ: trộm cắp - thừa Thiên hậu: bọn cướp, sát hại, bọn gian thần - thừa Quý nhân gia Dần: nơi vua chúa ở thừa - thừa Thanh long: cao lâu, gia Dần là lầu gác thừa (thừa thãi) - thừa Thiên hợp: cái gác, gia Mão là cái đài, nơi đăng đàn • Hợi là cái đình, cung viện, vườn tược, hang lỗ, nền vách, tường. Hợi gia Tuất hoặc ngày Giáp Ất Hợi gia Thiên không, gia Tị là nơi chó heo tiểu tiện hay nhà ngục. • Hợi là bức địa đồ, sách vở, mực viết, tàn lọng, nón lá, vòng tròn. Hợi gia Tỵ là ông sao. • Hợi là kho lẫm, cung điện, pho tượng • Hợi gia Dậu là lúa gạo, Châu tước gia Hợi (địa bàn) là muối. HỢI THỪA THIÊN TƯỚNG • Hợi thừa Quý nhân: gọi là Quý nhân lên cửa trời, điềm được bề trên mời thỉnh, nếu có sao Dịch mã càng ứng chắc. Quý nhân lâm Hợi địa bàn cũng đoán tương tự. • Hợi thừa Đằng xà: • Hợi thừa Chu tước: chu tước là thần gió (phong thần) còn Hợi là thần thổi tiêu, Hợi thừa Chu tước thì ứng việc thổi tiêu sáo, điềm được giải tỏa khỏi những chuyện hung hại nhất là việc thưa kiện, ắt sẽ giải hòa, tù tội được phóng thích. • Hợi thừa Thanh long: thừa Thanh long lại lâm Hợi địa bàn thì ứng việc có quan hệ lâu dài. • Hợi thừa Thiên hợp: Hợi thủy sinh Thiên hợp mộc, mộc cũng tràng sinh tại Hợi nên ứng việc con cái, tiểu nhi, ấu tử mới sinh. • Hợi thừa Câu trận: Câu trận chủ tụng sự, nay Câu trận khắc Hợi tất ứng việc tù ngục: - ngày Giáp Nhâm Quý: ứng việc chiến đấu, người đi xa giận hờn - ngày Mậu Canh: không có hại gì, vì Câu trận tỷ hòa với Mậu, tương sinh với Canh • Hợi thừa Thiên không: Hợi là heo, Thiên không là chỗ bỏ không, hang lỗ. Hợi thừa Thiên không là chỗ heo tiểu tiện dơ bẩn. • Hợi thừa Bạch Hổ: Hợi là chỗ sinh ra mộc, Bạch hổ kim khắc mộc nên ứng điềm họa hoạn, thương tàn. • Hợi thừa Thái thường: Thái thường là lúa nếp, bổn gia tại Mùi, Mùi với Hợi tác tam hợp nên ứng về kho lẫm, lương lộc. • Hợi thừa Huyền vũ: Hợi là bổn gia của Huyền vũ, Huyền vũ là đạo tặc nên nói đạo tặc về nhà. • Hợi thừa Thái âm: Hợi là tượng của Huyền vũ chủ gian tà, Thái âm chủ việc ám muội. Gặp nhau thường ứng với các việc lén lút ẩn giấu. • Hợi thừa Thiên hậu: Hợi và Thiên hậu cùng là thủy, gặp nhau tất thủy quá vượng nên ứng việc đắm đuối, bị lôi cuốn, bị chết chìm.
    1 like
  35. 3.- Sự khác biệt về đại hạn Chính phái an đại hạn như sau: - Từ lúc đẻ ra tới số cục thì đại hạn an tại cung Mệnh. - Đại hạn thứ nhất sẽ an vào cung phụ mẫu, hoặc huynh đệ. Tỷ như: Người Hỏa-lục-cục, thì từ 1 tới 5 tuổi thì đại hạn ở cung Mệnh. Từ 6 tuổi trở đi thì đại hạn ở cung Huynh đệ hoặc Phụ-mẫu. Nam phái lại an ngay đại hạn thứ nhất ở cung Mệnh, rồi đại hạn thứ nhì ở cung Phụ mẫu hoặc Huynh đệ. Như vậy từ lúc đẻ ra tới số tuổi “số cục” không có đại hạn. Sự khác biệt này, đã khiến cho Nam phái phải đi tìm nhiều sao khác, hoặc nhiều thuật khác, để đoán cho đúng, nhất là đoán vận hạn chết rất quan trọng. Bắc phái đoán rất trúng, nhưng theo Nam phái lại khó khăn. Sự khác nhau về hạn, khiến cho Nam phái không dùng bài phú đoán của Hy-Di tiên sinh được. Bởi phú đoán thì an đại hạn theo Bắc phái. Những người học theo Nam phái thường tỏ ý nghi ngờ các bài Phú. Họ phải dò dẫm, tìm hiểu lâu năm mới đưa ra lối giải quyết. Trong khi những người học theo Bắc phái, thì ngay sau khi học an sao, học có thể học cách giải đoán bằng cách xử dụng phú đoán được. Hạng Vũ anh hùng hạn ngộ Thiên-không nhi táng quốc. Thạch Sùng hào phú, vận phùng Địa-kiếp dĩ vong gia. Chính phái đoán số Hạng Vũ, căn cứ vào phú đoán: Nghĩa là Hạng Vũ anh hùng nhưng hạn ngộ Thiên-không nên mất nước. Thạch Sùng giàu có nhưng hạn gặp Địa-kiếp nên tan nhà nát cửa. Theo Bắc phái chỉ có sao Thiên-không, Địa-kiếp đi đôi với nhau, không có sao Địa-không. Sao Thiên-không không đóng ở vị trí sao Địa-không của Nam phái và không có sao Thiên-không trước Thái-tuế một cung. Hạng Vũ, đại hạn tới Dần gặp Địa-kiếp, tiểu hạn ở Thân gặp Thiên-không. Đại, tiểu hạn Kiếp, Không gặp nhau nên táng quốc. Dù đại hạn có Đồng, Lương, Quyền cũng không giải nổi. Bàn về số Thạch Sùng cũng tương tự. Nếu đoán theo Nam phái bài phú trên cũng không đúng: - Đại hạn đang tới cung Mão, gặp Thái-tuế, mà Thiên-không đóng ở Thìn. Như vậy không có vụ Hạng Võ chết về Kiếp, Không lâm nạn, Sở vương táng quốc. Mà chỉ có việc Hạng Võ gặp hạn Địa-không ở Thân mà thôi. Hồi còn ở Việt-nam, chúng tôi dạy Tử-vi cho các vị yêu khoa này, thường thì những vị chưa biết gì học mau hơn. Còn các vị học theo Nam phái, học thêm mấy chục bài phú nữa, mất công chỉnh đốn lại. Bởi vậy chúng tôi có lời khuyên: Các vị học theo Nam phái thì không nên học những bài phú của Hy-Di, mà học các bài phú của Ma-Y thuộc Nam phái mà thôi. Nếu không đầu óc sẽ lộn tùng phèo.
    -1 likes
  36. Năm mới Kính chúc Bác Thiên Luân, Kinh chúc diễn đàn Lý học đông phương ngày càng phát triển dực dỡ! Đúng năm mới cũng là một năm khởi đầu bàn tính chuyện của cả một năm, trong đó chuyện cưới hỏi cũng là một chuyện lớn đc bàn tới. Quả thật, Cháu rất thích nghiên cứu tử vi, thích say mê đọc và tìm luận các thuyết của tử vi, kinh dịch...Nhưng để ngộ dc thì đúng là phải tùy duyên :), Thời gian đầu do còn nhiều thắc mắc còn chưa tỏ, nên có gì Bác bỏ qua và giúp đỡ. Cháu sẽ dành thời gian để nghiên cứu, để thấm nhuần luận thuyết của cổ nhân. Năm nay cháu muốn tổ chức Cưới Vợ, Cháu thích (Dự định) vào khoảng đông chí năm 2011 hoặc đầu năm 2012: Thông tin của chúng cháu như sau: Cháu: Sinh khoảng 10h30 - 12h ngày 12/11/1985 dl tức 01/10/1985 al Ban gái: Sinh khoảng 1h đêm ngày 02/03/1989 dl tức 25/01/1989 al Kính Bác Thiên Luân Xem giúp cháu ngày giờ, tháng, năm cưới hỏi thế nào cho tốt ạ? Cảm ơn Bác nhiều!
    -1 likes
  37. Đầu Xuân, Chúc gia đình www.lyhocdongphuong.org.vn/ 1 năm mới an khang thịnh vượng! Đầu xuân, Nhờ các cao nhân xem, tư vấn giúp tử vi: 1. Lá số của tôi, phạm Minh Đức theo Tử vi lạc việt http://www.lyhocdongphuong.org.vn/apps/LaS...reen&size=2. (Cuối năm, đi nhờ thầy lập cho cái lá số nhưng chưa thấy thỏa mãn nên nhờ các bác xem giúp. Hơn nữa, với việc đổi 2 quẻ Khôn và tốn trong Hậu thiên bát quái, v..v đang từ Thiên Thượng Hỏa --> Thủy nên lá số đã khác trước, nên muốn tìm kết quả tiệm cận hơn với thực tế bản thân). Kính nhờ các cao nhân nhiệt tình luận giải! Kính thư!
    -1 likes
  38. Kính gửi bác haithienha, Mong bác giúp con xem giờ sinh chính xác của con ạ. Vì bố mẹ con sinh con ra chỉ áng áng giờ Dần chứ cũng không biết chính xác là mấy giờ ạ. Vì các cụ nhà con không có đồng hồ ạ :D Con xin miêu tả 1 vài nét ạ: Con là con trưởng, gia đình có 3 anh chị em. Hồi bé chết hụt lúc 2 tuổi do ngã xuống ao. Cao 1m53, da ngăm hơi tái, người nhỏ nhắn. 22 tuổi mới có người yêu ạ :D. Năm ngoái, con ra trường và đang đi làm tại cơ quan nhà nước. Đây là lá số 3 giờ khác nhau của con ạ: Giờ Sửu: http://www.lyhocdong...w=screen&size=2 Giờ Dần: http://www.lyhocdong...w=screen&size=2 Giờ Mão : http://www.lyhocdong...w=screen&size=2 Kính mong bác giúp con ạ.
    -1 likes