-
Thông báo
-
Nội quy Lý Học Plaza
Nội quy này là bản mở rộng Nội Quy - Quy định của Diễn đàn. Khi tham gia mua bán, các thành viên phải tuân theo những quy định sau: Tiêu đề bài viết: Bao gồm: Chỉ dẫn địa lý, Loại hình Mua/Bán, Thông tin mua bán.
Chỉ dẫn địa lý: Tỉnh/thành nơi mua bán. Hoặc sử dụng định nghĩa có sẵn:TQ: Toàn quốc
HCM: TP Hồ Chí Minh
HN: Hà Nội
[*]Ví dụ: HCM - Bán Vòng tay Hổ Phách Nội dung bài viết: Mô tả chi tiết sản phẩm mua/bán
Bắt buộc phải có thông tin liên lạc, giá Mua/Bán
Bài mới đăng chỉ được phép up sau 03 ngày.
Thời gian up bài cho phép: 01 ngày 01 lần.
Các hành vi vi phạm nội quy này sẽ bị xóa bài hoặc khóa tài khoản mà không cần báo trước.
-
Leaderboard
Popular Content
Showing most liked content on 03/02/2011 in Bài viết
-
SƯu TẦm Ảnh ĐẸp
Mihanhna and one other liked a post in a topic by Thiên Sứ
Việt Nam đẹp ngỡ ngàng trên National Geographic (II) 01/02/2011 15:10:00 - Mời bạn cùng Bee tiếp tục chiêm ngưỡng những hình ảnh một Việt Nam đẹp ngỡ ngàng trên tạp chí National Geographic. TIN LIÊN QUAN Việt Nam đẹp ngỡ ngàng trên National Geographic (I) Một cụ bà đang bán hương nhang tại Cố đô Huế. Đây là hình ảnh một loài khỉ đang có nguy cơ tuyệt chủng ở Việt Nam. Một người đàn ông đang chở lợn con ra chợ bán. Hình ảnh này được một người khách du lịch ghi lại được trong khi di chuyển từ Hà Nội xuống Hạ Long. Ruộng bậc thang ở miền núi phía Bắc Một người phụ nữ đang đạp xe qua cây gạo đầu làng trong buổi chiều tà. Cây gạo thường được trồng trước cổng làng ở vùng nông thôn Việt Nam. Phố cổ Hội An huyền ảo khi trời hoàng hôn đang dần chuyển sang màn đêm. Một bé gái Dao Đỏ đang được mẹ đeo khuyên tai. Một góc bình yên của phố cổ Hội An. Một phụ nữ người dân tộc đang may đồ thổ cẩm ở làng Tả Phìn, gần Sapa. Một em bé dân tọc H’Mông ngủ ngon lành trên lưng mẹ khi đang trên đường đi chợ. Một buổi lễ của những phật tử theo đạo Cao Đài. Một bé gái ở Thành phố Hồ Chí Minh cười hồn nhiên trước ống kính máy ảnh của người nước ngoài. Một cặp tình nhau hôn nhau tình tứ giữa phố Hà Nội. Một người phụ nữ bế con chờ chồng đi biển về. Hình ảnh này được ghi lại tại cảng Mũi Né, Bình Thuận Lê Hương (Theo National Geographic)2 likes -
Quán vắng!
Đại Phúc and one other liked a post in a topic by Thiên Sứ
Năm nay năm Mèo hay năm Thỏ? Thứ Năm, 03/02/2011 - 00:46 (Dân trí) - Cả châu Á và cộng đồng người châu Á trên toàn thế giới đang bước vào năm mới với nhiều ước vọng tốt đẹp đang mở ra. Nhưng trong khi cộng đồng theo phong tục Trung Hoa đón chào năm con Thỏ, thì người Việt khắp nơi lại chào mừng năm con Mèo. Cộng đồng theo phong tục Trung Hoa năm nay đón chào năm con Thỏ. Tại sao lại có sự khác biệt như vậy? Tại Việt Nam, như thông lệ, từ Nam chí Bắc, từ đồng bằng đến vùng cao nguyên, tất cả các thành phố, thị xã đều chăng đèn, kết hoa và tất cả đều là hình con Mèo áp đảo. Tại Trung Quốc, năm con Thỏ cũng được chào đón một cách rất hoành tráng, đúng với vị thế một cường quốc kinh tế đang lên. Còn tại Singapore, có lẽ vì loài Thỏ nổi tiếng là mắn đẻ, nên Thủ tướng Singapore trong thông điệp đầu năm đọc nhân năm mới đã kêu gọi dân chúng của mình tranh thủ năm này để sinh con. Singapore là quốc gia mà đa số dân chúng là người gốc Hoa, do đó họ xem năm nay là năm con Thỏ. Đã có nhiều cách lý giải tại sao và bắt đầu từ khi nào người Việt Nam đưa con Mèo vào thay thế con Thỏ trong danh sách 12 con giáp vốn có nguồn gốc từ Trung Quốc. Một trong những lý giải đó là có thể là bắt nguồn từ lỗi dịch thuật phức tạp từ cách tính “12 con giáp”. Trung Quốc và Việt Nam đều có cách tính “12 con giáp”, trong đó có 11 loài vật tượng trưng mỗi năm của hai nước đều giống nhau gồm: Tý (chuột), Sửu (trâu), Dần (hổ), Thìn (rồng), Tỵ (rắn), Ngọ (ngựa), Mùi (dê), Thân (khỉ), Dậu (gà), Tuất (chó) và Hợi (heo). Trong tiếng Hoa, phát âm tên con mèo là “mao”, rõ là khá giống người Việt phát âm “mèo”. Cả hai cách phát âm bắt nguồn từ âm tiếng Hán thời xưa “mão”. Ở Trung Quốc ngày xưa thường bị lẫn lộn giữa mèo và thỏ trong cách viết và phát âm. Vì thỏ là loài vật có nhiều ý nghĩa hơn mèo trong văn hóa truyền thống Trung Hoa nên người Trung Quốc về sau này đã quyết định chọn con Thỏ để đưa vào 12 con giáp. Trái lại ở Việt Nam, dường như loài thỏ không có đặc điểm gì nổi bật, ngoài việc được đánh giá là một loài vật hiền lành. Trong khi đó, từ xưa đến nay loài mèo ở Việt Nam được xem là “hổ con” và là loài vật nuôi rất gắn bó với cuộc sống của nhiều gia đình tại Việt Nam, xuất hiện trong các câu chuyện, tranh vẽ và nhiều thành ngữ, tục ngữ, ca dao... Không những thế, mèo còn được biết đến với khả năng bắt chuột hữu hiệu. Có lẽ vì vậy mà người Việt vẫn giữ nguyên âm gốc “Mão” để đặt năm con giáp là Mèo. Hãng tin Reuters lại dẫn lời một người nổi tiếng đam mê các loài vật nuôi ở Hà Nội, ông Nguyễn Bảo Sinh, nói rằng: “Người Việt đã thay đổi biểu tượng con Mèo thay cho Thỏ bởi Thỏ là loài động vật thuộc bộ gặm nhấm. Trong khi đó thì 12 con giáp đã có một con cũng thuộc loài gặm nhấm là chuột rồi. Các loài vật trong 12 con giáp nên khác nhau”. “Dân gian Việt Nam có câu “ghét nhau như chó với mèo”. Sự khác biệt hay thậm chí đối đầu nhau giữa một số con vật biểu trưng trong 12 con giáp đã thể hiện sự cân bằng âm dương trong vòng xoay vũ trụ, thể hiện sự dung hòa của các mặt đối lập và do đó, việc con mèo nằm trong 12 con giáp là điều tốt và góp phần khiến cho các cung hoàng đạo trở nên phong phú hơn”, ông Nguyễn Bảo Sinh đánh giá. Tại Trung Quốc, năm Thỏ được xem là một năm tốt lành, năm của tình bạn. Những người sinh vào năm Thỏ thường được đánh giá là đáng tin cậy, có lòng tốt và trung thành. Trong khi đó, ở Việt Nam với năm Tân Mão đến, có vẻ như việc nuôi dưỡng thú cưng như Mèo lại càng được chú ý hơn trong đời sống của người dân. Điều này sẽ giúp cho tình cảm giữa người và loài vật thêm gắn bó. Việt Hà Tổng hợp ============================================== Xem xong bài này thấy cực kỳ ngớ ngẩn! Cũng tại coi 12 con giáp xuất xứ từ Tàu. Làm như chỉ có Tàu mới có đơn vị thời gian chia 12 năm vậy. Người Nga cũng chia vậy. Các nước phương Tây cũng có 12 cung Hoàng Đạo vậy. Bởi vậy, nên xem câu này thấy muốn lên tăng xông: Chính bởi ngộ nhận khập khiễng nên xẩy ra cái ngớ ngẩn này. Trung Quốc trước khi chiếm miền nam Dương Tử làm quái gì có Trâu mà con Sửu ở đấy! Rồi cờ tướng nữa: Lấy đâu ra voi để có con Tượng vậy? Giữa phát âm tiếng Hoa với phát âm theo phiên âm Hán Việt có khoảng cách rất xa, lấy phiên âm Hán Việt rồi bảo nó gần với tiếng Việt thì không còn gì để nói. Phiên âm Hán Việt con thỏ là "Thố" - nếu nó từ Trung Hoa du nhập vào Việt Nam thì làm sao mà lẫn với phát âm "mao" được? Bởi vậy những kẻ dốt vẫn có kẻ dốt hơn vỗ tay. Vậy mà cứ đăng báo. Mà lại là báo "Dân trí" mới khổ thân tôi!2 likes -
Tản mạn vui XUÂN VỀ GIẢI MÃ PHƯƠNG VỊ HÀ ĐỒ PHỤC HY Hậu Duệ Thiên Lương - Lê Hưng VKD BBT: Đây là bài viết của con trai cả cụ Thiên Lương, đã từng đăng trên diễn đàn Khoa Học Huyền Bí trước năm 1975, bút danh Lê Hưng VKD, đã xuất bản sách " Nghiệm Lý Phong Hòa Thủy Tú " và sách " Tâm Thiền lẽ Dịch Xôn Xao " và Sách tử vi " Nghiệm Lý Linh Khu Thời Mệnh Học " do nhà XB Tổng Hợp TP.HCM xuất bản vào các năm 2007, 2008, 2010 I/ Huyền thoại về Hà đồ Phục Hy: Mỗi độ Tết đến Xuân về, mọi người đều có ít nhiều thời khắc hồi hướng và mong cầu điều may mắn – hanh thông sẽ đến với mình & gia đình mình! Thực tế hiển nhiên này đã phát sinh nét văn hóa tâm linh từ nhiều đời nay ở Á Châu nói chung (và ở Việt Nam ta nói riêng) đó là vận dụng các “khả năng tiên tri” để dự đoán các sự việc sẽ xảy ra… Người tích cực thì tìm cách phòng ngừa – hạn chế điều xui rủi (bằng nỗ lực tự thân điều chỉnh cách hành sử hằng ngày của mình), còn người tiêu cực thì cố công cầu cạnh “tha lực” ban cho mình điều may mắn (bằng nỗ lực cung phụng – cúng bái thần linh….). Trong số các “kiểu bói toán” cổ truyền được đông đảo người tín nhiệm là bốc Dịch! Bốc Dịch dựa trên sự ngẫu nhiên về thời gian cảm hứng, tương thích với 64 kênh thông tin cận tâm lý (trong bộ sách luận giải về quan hệ nhị phân Âm Dương của người Trung Hoa cổ); sách này được nhiều thế hệ nho gia vùng khí hậu Châu Á gió mùa (tức các nước Đông – Nam Á ngày nay) tôn trọng là minh thư và đặt tên là Kinh Dịch (1). Cụ học giả Nguyễn Hiến Lê khi sinh tiền (trước 1984) đã quan niệm về bộ sách Kinh Dịch như sau : - Triết lý trong Kinh Dịch tức vũ trụ quan, nhất là nhân sinh quan: cách xử thế trong Kinh Dịch mà tôi gọi là Đạo Dịch, đạo của bậc chính nhân quân tử thời xưa.. (lời nói đầu của sách “ Kinh Dịch đạo của người quân tử” - NXB.Văn Học năm 1994) Theo như nhiều đầu sách đã xuất bản từ trước đến nay (nhất là các tác giả Trung Quốc viết về Kinh Dịch) chỉ cho biết nét chính về truyền thuyết xuất xứ của 8 quẻ đơn và 64 quẻ kép trong Kinh Dịch là do ông vua Phục Hy ( tộc họ Bào Hy, cầm quyền được 115 năm ở miền Sơn Tây – Trung Quốc, vào khoảng thế kỷ 43 trước Tây lịch) nhìn thấy trên lưng ngựa thần (Long Mã) ở sông Hoàng Hà có một bản đồ minh triết, dạy ông cách cai trị thiên hạ, gọi là Hà Đồ. Nhờ đó mà vua huyền thoại Phục Hy đã “thần khải” theo Hà Đồ (một cách nghĩ được, là do thần linh mách bảo) mà vạch ra tám ký hiệu tương tác của hai chủ thể Âm & Dương, đặt tên là bát quái tiên thiên (plan cosmique à priori ) theo thứ tự quĩ đạo tiên thiên : Ghi chú ( ký hiệu của bát quái Phục Hy): Càn ═> (ba gạch không đứt đoạn ) Khôn ═> (ba gạch đứt đoạn ) Ly ═> (2 gạch không đứt đoạn ở trên và ở dưới, giữa là gạch bị đứt đoạn) Khảm ═> (2 gạch bị đứt đoạn ở trên và ở dưới, giữa là gạch không bị đứt đoạn) Tốn ═> (2 gạch trên không đứt đoạn, gạch dưới cùng bị đứt đoạn) Chấn ═> (2 gạch trên bị đứt đoạn, gạch dưới cùng không đứt đoạn) Đoài ═> (gạch trên cùng đứt đoạn, hai gạch dươi không đứt đoạn) Cấn ═> (gạch trên cùng không đứt đoạn, hai gạch dưới bị đứt đoạn) Ngoài nguồn truyền thuyết (thuộc phạm vi huyền sử thần thoại) nêu trên, không ai hiểu được lý do và căn cứ vào đâu (trên cơ sở nào ?) mà ông vua Phục Hy (Trung Hoa cổ đại) đã bố cục được mô hình phương vị của Tiên thiên bát quái ? Nhiều tác giả nghiên cứu văn hóa triết nhị phân Âm Dương mỗi khi lý giải Dịch Lý (của Kinh Dịch) đã mặc nhiên công nhận cấu trúc tiên thiên bát quái như là chân lý (không chứng minh ) của một tiên đề (sách toán học gọi là Định đề - postulatum). Còn như các “ thầy bói dân gian” từ lâu đều đã tâm phục khẩu phục (thần linh hóa nhân vật Phục Hy) như một vị thánh sư mầu nhiệm, mỗi khi đoán quẻ cho ai thì phải lâm râm cầu nguyện Phục Hy, để được “ngài” ban cho quẻ bói….dị đoan! II/ Giải mã cấu trúc tiên thiên bát quái: Giới học giả nghiên cứu Kinh Dịch ở Châu Âu (như Regis – 1834 : Meclatchie – 1876: De Harley – 1889 : Raymond de Becker – 1870 : Legge – 1899: Wilhem – 1950: Blofeld – 1965: Alfred Douglas – 1972, nhất là Z.D.Sung năm 1934…) đều đã biết cấu trúc toán học của Bát Quái (nền tảng của Dịch Lý) là “ hằng đẳng thức bậc 3 của Âm & Dương” hòa hợp như sau : Nhưng vẫn chưa ai hiểu được cấu trúc phương vị tuần tự trên vòng tròn tiên thiên của Phục Hy ? Tại sao từ đất thấp “Khôn” lên trời cao “Càn” lại có 2 lối đi: - lối đi âm phải là Khôn - Cấn - Khảm - Tốn ? - lối đi dương phải là Chấn – Ly – Đoài – Càn ? hoặc là tại sao từ Trời (cao) xuống đến Đất (thấp) bắt buộc phải trải qua hành trình: - lối đi âm là chiều lượng giác ? - lối đi dương là chiều kim đồng hồ ? Năm nay Tân Mão 2011, các thế hệ thừa kế học phái Đẩu Sơn – Thiên Lương (dòng họ Lê Lã tỉnh Hưng Yên năm xưa....) đã nghiệm lý được cách sắp đặt vòng tròn tiên thiên bát quái của Phục Hy bằng cơ chế nhị phân (numération binaire) xếp chồng lên nhau đến lần thứ ba, theo toán học đại số phổ thông ngày nay, với tiến trình 4 bước như sau : Bước 1: (chẻ đôi thái cực thành lưỡng nghi) Tạm giả thiết Thái cực có tham số là số nguyên 1 (số đầu tiên phát sinh “Có” của khái niệm vạn vật Khả Hữu) Bước 2: (Chẻ đôi lưỡng nghi thành tứ tượng) Bước 3: (Chẻ đôi tứ tượng thành bát quái) Bước 4 : (Vòng tròn bát quái tiên thiên) Tôn trọng nguyên lý vạn vật đồng nhất thể (vòng tròn Thái cực khả Hữu sinh lưỡng nghi – tứ tượng – bát quái – trùng quái …) và qui tắc âm dương dạng “lưỡng cực đối xứng”, ta luận lý được phương vị của các quẻ (quái) căn cứ vào số đại số của mỗi quẻ: - 7/8 đối xứng với + 7/8 -> Khôn đối xứng với Càn - 5/8 đối xứng với + 5/8 -> Cấn đối xứng với Đoài - 3/8 đối xứng với + 3/8 -> Khảm đối xứng với Ly - 1/8 đối xứng với + 1/8 -> Tốn đối xứng với Chấn Ta có ngay vòng tròn phương vị 8 quái Phục Hy (tiên thiên) Ghi chú: vì Khôn quan niệm là đất (thấp nên ở phiá dưới) và Càn quan niệm là Trời (Cao nên phải ở phía trên) nên Càn – Khôn là trục tung (dọc) và ly - Khảm là trục hoành (ngang), trong hệ thống tọa độ “tiên thiên bát quái” của vua Phục Hy cổ đại. Kết luận tạm Người viết cống hiến tản văn này đến bạn đọc, cũng là muốn : ngày Xuân của thế kỷ văn minh hiện đại 21 này, mỗi chúng ta khi thư giãn & nhàn lãm bộ sách minh triết Kinh Dịch của người xưa, nên chăng cần hiểu hơn cho các thế hệ tổ tiên : các cụ cũng đã biết trải nghiệm cuộc sống thường ngày qua lập trình toán học như chúng ta bây giờ ! Kính nhi viễn chi (nhìn từ xa mà kính trọng) trí tuệ khôn ngoan đã có từ thời cổ đại vậy ! Lê Hưng VKD (Bình Dương) ==========================Chú thích : Bác Hồ đã nói với cụ Nguyễn Thế Đoàn (nhiếp ảnh gia miền Nam tại chiến khu Việt Bắc thời kỳ kháng chiến chống Pháp, thập kỷ 50 của thế kỷ 20): - Nếu các chú có thời gian đi sâu tìm hiểu về Kinh Dịch, sẽ biết được nhiều điều thú vị và bổ ích, mà người xưa đã đúc kết được trong lãnh vực này của nền văn hóa phương Đông. (sách “ Nghiệm Lý Hệ Điều Hành Âm Dương” NXB Tổng Hợp Tp HCM – 2010, trang 7)1 like
-
Tôi có vài lời lạm bàn với những người có tâm và có tầm nghiên cứu tử vi ,để vạch ra những khuyết điễm và sự thất truyền tam sao mất bản , vấn đề cụ thể tôi xin mạn phép đưa ra thực nghiệm mà suốt nhiều năm qua tôi đã trãi qua .Đầu tiên khi tập xem tử vi tôi cũng dùng cách lấy lá số theo 2 quyển tử vi đẫu số tân biên và tử vi ảo bí và xét nghiệm thì hầu hết các sách khác đều có trình tử vi giống nhau ,đơn cử trường hợp của tôi ; cung thê của tôi có thiên khôi ,thì cũng như mọi sách vỡ hay bất kỳ cao thủ nào khi nhận xét về lá số có như vậy ; vợ hay chồng sẽ là trưởng nữ hay đoạt trưởng ,vợ là người học thức trình độ cao v.v. /về lá số bà vợ tôi cung mệnh cũng có thiên khôi tọa thủ thì cũng như nhận định trên theo sách vỡ thì không sai... nhưng suốt mấy chục năm trăn trỡ tôi vẫn chưa tìm được câu trả lời thích đáng vì cặp sao khôi -việt cũng là bộ sao khá quan trọng mặt dầu chưa được là chính diệu vì được mệnh danh là thiên ất quí nhân /nhưng nếu dụng trình tử vi của lạc việt thì cung mệnh của vợ tôi và cung thê của tôi đều không có cặp sao nầy . Trên thực tế ngoài đời thì vợ tôi là con thứ 3 trong gia đình bên trên còn có 2 thằng anh trai ,như vậy đã không là trưởng nữ được và vợ tôi học rất kém... ,vã lại 2 thằng anh của bà ấy còn rất ư là khỏe mạnh trông không thể chết yểu được thì bà vợ tôi không có cơ hội đoạt quyền nam trưởng trong kiếp nầy /như vậy theo các cách trình tử vi truyền thống đã có sự sai sót nhầm lẫn nào không ??? Theo tôi không có trình tử vi nào hoàn toàn đúng cả ngay cả còn phụ thuộc vào người giải tử vi nữa ,dầu đầy đủ 2 yếu tố nầy thì tử vi vẫn còn chổ chừa cho đương số quyết định phần mệnh số của mình mà thiên hạ nôm na gọi lànhân lực ,yếu tố nầy cũng góp phần không kém trong sự định hướng số phận của từng người , với khả năng của người giải cao nhất thì lá số chỉ có chỉ số tuyệt đối là 80% . Theo thiễn nghĩ của tôi , không có trình tử vi nào sai mà chỉ có thể được xếp hạng như các vì sao sao chính diệu trong tử vi như ; đúng nhất [miếu địa] , khá đúng [ vượng địa ], đúng vừa [đắc địa] , [hảm địa] cao thủ nghề còn non . Sự thật trình tử vi lạc -việt chỉ khác các trình tử vi khác ở chổ cặp sao khôi việt và các sao trong vòng trường sinh các phần còn lại đều giống nhau ,như vậy ngoại trừ các sao kể trên thì người luận giải tử vi khi gặp phải bất cứ trình nào đều giải giống nhau ,như vậy cũng không thể nói là cái nào sao chép giống cái nào cả ... xin đơn cử trường hợp thứ 2 trong vòng sao trường sinh đây là chổ khác biệt trình tử vi lạc việt và trình tử vi mà cho là truyền thống . Trong các sách đều giải rằng ; khi sao Thai đóng tại mệnh cung có thêm 1 vài sao nào đó thì đương số lúc sanh ra phải bị trường hợp như sau ; sanh non thiếu tháng thiếu ngày , sanh già ngày tháng hay có tật bệnh khi vừa lúc mới sanh ra ; trường hợp 3 ,khi sao Thaiđóng tại Tật cung hay tử cung thì đối với đàn bà chắc chắn là có vấn đề liên quan đến sanh sản như bị lệch tử cung hay ở bộ phận sinh sản [ nếu ai cho rằng những điều nầy sai thì đã phũ nhận lập luận theo tử vi truyền thống ] trên thực tế tôi cũng đã kiễm chứng và theo dõi trường hợp nầy thì rất chính xác trong rất nhiều lá số đã trãi nghiệm . Như vậy tóm lược ,nếu trường hợp sao Thai được an theo trình tử vi tuyền thống thì không có ở tại cung mệnh hay cung tật ,đối với siêu cao thủ tử vi cũng sẽ không nhìn ra khi đuơng số là người sanh ra non ngày tháng hay có tật nguyền ,và khi sao thai không được an tại cung tật với phụ nữ thì cao thủ nào dám xác nhận rằng đương số có bị lệch tử cung hay bị bệnh nơi bộ phận sinh sản ??? nếu cao thủ nào đó xác định được những điều trên không qua saoThai ,như vậy họ đã đi ra ngoài lý luận của tử vi truyền thống hay họ đã dụng các vì sao nào mà xác định được việc trên ? Đơn cử trường hợp bản thân tôi theo trình tử vi truyền thống thì sao Thai được an tại cung Nô ,theo sách luận thì tôi thường phải gian dâm với những người nữ bên ngoài hay những người cộng sự , nhưng may thay theo trình tử vi lạc -việt thì sao Thai lại rơi vào 1 nơi khác ,thật tế bên ngoài đời thì tôi chúa ghết nơi nào làm việc có đàn bà ỏng ẹo ,và từ xưa đến giờ tôi đều nhận việc làm toàn là đực rựa một nòi không . Như vậy các cao thủ có tầm hay có tâm nghiên cứu về tử vi ,nên học lấy kinh nghiệm để thực dụng xem phương pháp nào đạt nhiều tỉ lệ chính xác nhất hơn là khư khư theo lối cha truyền con nối , hay a dùa theo bang phái nào đông người được ưa chuộng .1 like
-
Quán vắng!
Đại Phúc liked a post in a topic by Thiên Đồng
Một nét văn hóa có "tuổi đời" tồn tại tính...ngàn năm, lưu truyền trong khấp vùng Á Đông lại được Hãng tin Reuters gửi gấm sự tin tưởng cho việc giải thích sự tồn tại Mèo và Thỏ trong 12 con giáp chỉ qua lời một "Nhà"..."nổi tiếng đam mê các loài vật nuôi ở Hà Nội". Quả là chuyện lạ! Đúng là...lá cải hết chổ nói! Cứ theo cái "sở kiến" của ông Nguyễn Bảo Sinh thì con Trâu và con Dê thuộc loại động vật mống guốc và nhai lại cũng nên đổi luôn cho khác chứ nhỉ? Chán thiệt!1 like -
@Blue cloud, hi hi nhờ Thiên Đồng xem cho Blue Cloud 1 Que nhé. 18h40p ngày 1/1/Tân Mão, tử lưu niên 1. Cho hỏi năm nay có làm ăn gì được không? Khó khăn. Hòa vốn là may. Coi chừng bị lừa gạt. 2. Dự định làm giấy tờ có thành công không ? thành công, nhờ người có chức phận cao to giúp sẽ được. người này mập mập vui vẻ cởi mở. 3.nhà cử có thay đổi gì không? Có. sửa lại cái cửa hay mặt tiền, sơn lại toàn thể. làm lại WC. Chúc Thien Đồng một năm mới an khang thịnh vượng, vạn sự như Ý .phát tài phát lộc. Chúc thuận lợi @Phale, Năm mới nhờ chú Thiên Đồng bói cho cháu 1 quẻ nhé! 18h43' 3/2/2011 dương, kinh tốc hỷ. Cháu là nữ sn 1991 1. Năm nay sức khỏe của mẹ và chị gái cháu thế nào ạ? bất ổn về mặt tinh thần và huyết áp. Mẹ thì huyết áp. Chị thì thần kinh. Nhưng hong sao, cấp độ nhẹ. xem lại cái bếp có đối diên WC không? 2. Học hành thi cử của cháu năm nay ra sao? phải chuẩn bị kỹ. Cực hơn, sẽ vượt qua. 3. Năm nay cháu có nhiều chuyện đau đầu ko ạ? Đau đầu về chuyện tình cảm, tình yêu tình báo. Bình thường thôi à. Chúc chú năm mới VẠN SỰ NHƯ Ý! Chúc muốn gì được nấy. @giọt sương Tuổi :kỷ tỵ (1989) - nam Thời gian : 18:56 ngày 1/1 năm Tân Mão, Khai xích khẩu. 1. Công việc năm nay như thế nào? ngóng như cò, chạy như vịt. Không có thì chờ, có thì tất tả, đáng đồng tiền bát gạo. 2. Tiền tài năm nay ra sao? Có vào thì ắt có ra. Riêng anh vào ít mà ra thì nhiều. thu vào chỉ một xíu xiu ăn xài cắc cỡm chi tiêu dè chừng 3. Chuyện tình cảm năm nay có tốt không ? không tốt. ráng cũng cố trau chuốt, dùng tình cảm yêu chìu. Không thì mệt mỏi nhiều hơn. Cháu cảm ơn chú và chúc chú năm mới an khang thịnh vượng- vạn sự như ý. Chúc Vạn an. Thiên Đồng1 like
-
Làm công hay tư chức ,thuọc về hành chánh văn phòng bên nào cũng được cả /năm mão là năm tài tài lộc yếu kém chi nhiều hơn thu ,coi chừng sức khỏe yếu hay bệnh vặt và có bệnh về đường tiêu hóa / cũng là năm sẽ có sự tranh chấp với anh chi em trong nhà có thể đưa đến tranh chấp thưa kiện nhờ đến pháp lý giải quyết hộ .1 like
-
Lễ cúng giao thừa (Lễ trừ tịch) Giao thừa là thời khắc mà trời đất giao hoà, âm dương hoà quyện để vạn vật bừng lên sức sống mới. Giao thừa là thời khắc mà trời đất giao hoà, âm dương hoà quyện để vạn vật bừng lên sức sống mới. Đối với người Việt Nam phút giao thừa thật thiêng liêng và trang trọng. Lễ Trừ tịch được cử hành đúng vào lúc giao thừa(hết giờ hợi ngày 30 sang giờ Tý mở đầu ngày Mồng một Tết). Theo phong tục của người Việt Nam từ cổ xưa, tại thời điểm giao thừa nhà nhà đều cúng lễ ngoài trời và cúng lễ trong nhà. A. LỄ CÚNG GIAO THỪA NGOÀI TRỜI Ý nghĩa: Người xưa tin rằng: mỗi năm có một vị hành khiển trông coi việc nhân gian, hết năm thì vị thần năm cũ lại bàn giao công việc cho vị thần năm mới, nên phải cúng giao thừa ở ngoài trời để tiễn đưa thần năm cũ và đón rước thần năm mới. có 12 vị hành khiển và 12 phán quan (phán quan là vị thần giúp việc cho các vị hành khiển). Mỗi vị làm một năm dưới dương gian và cứ sau 12 năm thì lại có sự luân phiên trở lại. vương hiệu của 12 vị hành khiển và các phán quan là: Năm Tý: Chu Vương Hành Khiển, Thiên Ôn hành binh chi thần, Lý Tào phán quan. Năm Sửu: Triệu Vương Hành Khiển, Tam Thập lục thương hành binh chi thần, Khúc Tào phán quan. Năm Dần: Nguy Vương Hành khiển, mộc tinh hành binh chi thần, tiêu tào phán quan. Năm Mão: TrịnhVương Hành khiển, thạch tinh hành binh chi thần, liễu tào phán quan. Năm Thìn: Sở Vương Hành khiển, hoả tinh hành binh chi thần, biểu tào phán quan. Năm Tị: Ngô Vương Hành khiển, thiên hao hành binh chi thần, hứa tào phán quan. Năm Ngọ: Tần Vương Hành khiển, thiên mao hành binh chi thần, ngọc tào phán quan. Năm Mùi: Tống Vương Hành khiên, ngũ đạo hành binh chi thần, lâm tào phán quan. Năm Thân: Tề Vương Hành khiển, ngũ miếu hành binh chi thần, tống tào phán quan. Năm Dậu: Lỗ Vương Hành khiển, ngũ nhạc hành binh chi thần, cự tào phán quan. Năm Tuất: Việt Vương Hành khiển, thiên bá hành binh chi thần, thành tào phán quan. Năm Hợi: Lưu Vương Hành khiển, ngũ ôn hành binh chi thần, nguyễn tào phán quan. Chú ý là trong các bài văn khấn giao thừa khi dâng hương ngoài trời đều khấn danh vị của các vị quan hành khiển cùng các vị phán quan nói trên, năm nào thì khấn danh vị của danh vị của quan hành khiển năm ấy. Sắm lễ: Lễ cúng giao thừa ngoài trời gồm: hương, hoa, đèn nến, trầu cau, quần áo, mũ thần linh và mâm lê mặn. với thủ lợn luộc, gà trống luộc, xôi, bánh chưng. . . tất cả được bày lên bàn trang trọng đặt ở trước cửa nhà. Mâm lễ cúng giao thừa giao thừa phải được chuẩn bị chu đáo, trang trọng với lòng thành kính. Vào đúng thời điểm giao thừa,' người chủ gia đình phải thắp đèn, nến, rót rượu, rồi khấn vái trước án. Văn khấn có thể viết vào giấy để đọc, sau khi hết 3 tuần hương thì hoá tờ giấy viết văn khấn cùng vàng mã dâng cúng. VĂN KHẤN GIAO THỪA NGOÀI TRỜI Nam mô a di đà phật! Nam mô a di đà phật! Nam mô a di đà phật! - Con lạy chín phương Trời, mười phương Chư Phật, Chư Phật mười phương - Con kính lạy Đức Đương lai hạ sinh Di Lặc Tôn Phật - Con kính lạy HoàngTthiên, Hậu Thổ, chư vịTtôn thần. - Con kính lạy Ngày Cựu niên Đương cai Hành khiển. - Con kính lạy Đương niên Thiên quan (năm nào khấn danh vị của vị Hành khiển năm ấy) năm………… các Ngài NGũ phương, Ngũ thổ, Long Mạch, Táo quân, chư vị Tôn thần. Nay là phút giao thừa năm…………… Tín chủ (chúng) con là:………… Ngụ tại:………… Giao thừa chuyển năm Năm cũ qua đi Năm mới đã đến Tam dương khai thái Vạn tượng canh thân. Ngài Thái Tuê Tôn thần trên vâng lệnh thượng đế giám sát vạn dân, dưới bảo hộ sinh linh, tảo trừ yêu nghiệt. Quan cũ về triều cửa khuyết, lưu phúc, lưu ân. Quan mới xuống thay, thể đức hiếu sinh, ban tài tiếp lộc nhân ngày đầu xuân, tín chủ chúng con thành tâm, sắm sửa hương hoa phẩm vật dâng lên trước án, cúng dâng phật thánh dâng hiến Tôn thần, đốt nén hương thơm, thành tâm bái thỉnh. Chúng con kính mời: ngài cưu niên đương cai Ngài Tân niên đương cai Thái tuế chí đức Tôn thần; ngài bản cảnh thành hoàng chư vị dại vương, ngài bản xử thần linh thổ địa, phúc đức chính thần, các ngài ngũ phương, ngũ thổ, long mạch tài thần, các bản gia táo quân và chư vị thần linh cai quản ở trong xứ này. Cúi xin các vị giáng lâm trước án thụ hưởng lễ vật, phù hộ cho gia chúng con luôn luôn mạnh khoẻ, mọi sự bình an, vạn sự tốt lành, gia đình hoà thuận, làm ăn phát đạt. Chúng con lễ bạc tâm thành, cúi xin chứng giám, Phù hộ độ trì. Nam mô a di đà phật! Nam mô a di đà phật! Nam mô a di đà phật! GIAO THỪA LÀ GÌ? Theo từ điển Hán Việt của Ðào Duy Anh nghĩa là cũ giao lại, mới đón lấy. Chính vì ý nghĩa ấy, nên hàng năm vào lúc giao tiếp giữa hai năm cũ, mới này, có lễ trừ tịch. + Lễ trừ tịch Trừ tịch là giờ phút cuối cùng của năm cũ sắp bắt đầu qua năm mới. Vào lúc này, dân chúng Việt nam theo cổ lệ có làm lễ trừ tịch. Ý nghĩa của lễ này là đem bỏ hết đi những điều xấu của năm cũ sắp qua để đón những điều tốt đẹp của năm mới sắp đến. Lễ trừ tịch còn là lễ để "khu trừ ma quỷ", do đó có từ "trừ tịch". Lễ trừ tịch cử hành vào lúc giao thừa nên còn mang tên là lễ giao thừa. + Cúng ai trong lễ giao thừa Tục ta tin rằng mỗi năm có một ông hành khiển coi việc nhân gian, hết năm thì thần nọ bàn giao công việc cho thần kia, cho nên cúng tế để tiễn ông cũ và đón ông mới. Lễ giao thừa được cúng ở ngoài trời là bởi vì các cụ xưa hình dung trong phút cựu vương hành khiển bàn giao công việc cho tân vương luôn có quân đi, quân về đầy không trung tấp nập, vội vã (nhưng mắt trần ta không nhìn thấy được), thậm chí có quan quân còn chưa kịp ăn uống gì. Những phút ấy, các gia đình đưa xôi gà, bánh trái, hoa quả, toàn đồ ăn nguội ra ngoài trời cúng, với lòng thành tiễn đưa người nhà trời đã cai quản mình năm cũ và đón người nhà trời mới xuống làm nhiệm vụ cai quản hạ giới năm tới. Vì việc bàn giao, tiếp quản công việc hết sức khẩn trương nên các vị không thể vào trong nhà khề khà mâm bát mà chỉ có thể dừng vài giây ăn vội vàng hoặc mang theo, thậm chí chỉ chứng kiến lòng thành của chủ nhà. + Sửa lễ giao thừa Người ta cúng giao thừa tại các đình, miếu, các văn chỉ trong xóm cũng như tại các tư gia. Bàn thờ giao thừa được thiết lập ở giữa trời. Một chiếc hương án được kê ra, trên có bình hương, hai ngọn đèn dầu hoặc hai ngọn nến. Lễ vật gồm: chiếc thủ lợn hoặc con gà, bánh chưng, mứt kẹo, trầu cau, hoa quả, rượu nước và vàng mã, đôi khi có thêm chiếc mũ của Ðại Vương hành khiển. Ðến giờ phút trừ tịch, chuông trống vang lên, người chủ ra khấu lễ, rồi mọi người kế đó lễ theo, thành tâm cầu xin vị tân vương hành khiển phù hộ độ trì cho một năm nhiều may mắn. Các chùa chiền cũng cúng giao thừa nhưng lễ vật là đồ chay. Ngày nay, ở các tư gia người ta vẫn cúng giao thừa với sự thành kính như xưa nhưng bàn thờ thì giản tiện hơn, thường đặt ở ngoài sân hay trước cửa nhà. + Tại sao cúng Giao thừa ngoài trời Dân tộc nào cũng coi phút giao thừa là thiêng liêng. Các cụ ta quan niệm: Mỗi năm Thiên đình lại thay toàn bộ quan quân trông nom công việc dưới hạ giới, đứng đầu là một ngài có trí như quan toàn quyền. Năm nào quan toàn quyền giỏi giang anh minh, liêm khiết thì hạ giới được nhờ như: được mùa, ít thiên tai, không có chiến tranh, bệnh tật...Trái lại, gặp phải ông lười biếng, kém cỏi, tham lam thì hạ giới chịu mọi thứ khổ. Các cụ hình dung phút ấy ngang trời quân đi, quân về đầy không trung tấp nập, vội vã (nhưng mắt trần ta không nhìn thấy được) thậm chí có quan quân còn chưa kịp ăn uống gì. Những phút ấy, các gia đình đưa xôi gà, bánh trái, hoa quả, toàn đồ ăn nguội ra ngoài trời cúng, với lòng thành tiễn đưa người nhà Trời đã cai quản mình năm cũ và đón người nhà trời mới xuống làm nhiệm vụ cai quản hạ giới năm tới. Vì việc bàn giao, tiếp quản công việc hết sức khẩn trương nên các vị không thể vào trong nhà khề khà mâm bát mà chỉ có thể dừng vài giây ăn vội vàng hoặc mang theo, thậm chí chỉ chứng kiến lòng thành của chủ nhà.. + Lễ cúng Thổ Công Sau khi cúng giao thừa xong, các gia chủ cũng khấn Thổ Công, tức là vị thần cai quản trong nhà. Lễ vật cũng tương tự như lễ cúng giao thừa. + Mấy tục lệ trong đêm trừ tịch - Sau khi làm lễ giao thừa, các cụ ta có những tục lệ riêng mà cho đến nay, từ thôn quê đến thành thị, vẫn còn nhiều người tôn trọng thực hiện. - Lễ chùa, đình, đền: Lễ giao thừa ở nhà xong, người ta kéo nhau đi lễ các đình, chùa, miếu, điện để cầu phúc, cầu may, để xin Phật, Thần phù hộ độ trì cho bản thân và gia đình và nhân dịp này người ta thường xin quẻ thẻ đầu năm. - Kén hướng xuất hành: Khi đi lễ, người ta kén giờ và hướng xuất hành, đi đúng hướng đúng giờ để gặp may mắn quanh năm. - Hái lộc: Ði lễ đình, chùa, miếu, điện xong người ta có tục hái trước cửa đình, cửa đền một cành cây gọi là cành lộc mang về ngụ ý là "lấy lộc" của Trời đất Thần Phật ban cho. Cành lộc này được mang về cắm trước bàn thờ cho đến khi tàn khô. - Hương lộc: Có nhiều người thay vì hái cành lộc lại xin lộc tại các đình, đền, chùa, miếu bằng cách đốt một nắm hương, đứng khấn vái trước bàn thờ, rồi mang hương đó về cắm và bình hương bàn thờ nhà mình.Ngọn lửa tượng trưng cho sự phát đạt được lấy từ nơi thờ tự về tức là xin Phật, Thánh phù hộ cho được phát đạt quanh năm. - Xông nhà: Thường người ta kén một người "dễ vía" trong gia đình ra đi từ trước giờ trừ tịch, rồi sau lễ trừ tịch thì xin hương lộc hoặc hái cành lộc ở đình chùa mang về. Lúc trở về đã sang năm mới và ngưòi này sẽ tự "xông nhà" cho gia đình mình, mang sự tốt đẹp quanh năm về cho gia đình. Nếu không có người nhà dễ vía người ta phải nhờ người khác tốt vía để sớm ngày mồng một đến xông nhà trước khi có khách tới chúc tết, để người này đem lại sự may mắn dễ dãi. VĂN KHẤN GIAO THỪA 1- Văn khấn gia tiên: ( Cúng giao thừa trong nhà trước, nếu có thờ Ông bà ) - Kính nghe: Tổ đức vĩnh thùy thiên tải thịnh Gia phong hàm lạc tứ thời xuân. Nhân tiết giao thừa năm Tân Mão, tử tôn chúng con là: 1.…… 2 3 4 5 cung nghinh tiên tổ hồi giáng gia đường, chứng giám lòng thành, thụ kỳ lễ vật, khuôn phù gia nội đắc bình an. Con nhất tâm bái thỉnh: Bản cảnh Thành hoàng đại vương, Truy hồn sứ giả, thiếp phách quan quân, trì phan đồng tử, dẫn lộ tướng quân, bản gia thổ địa, bản xứ long thần tiếp dẫn vong linh chư vị gia tiên … (đọc tên những người thờ phụng) lai đáo gia đường, chúng minh công đức. Duy nguyện, chư tôn hiền thánh, khứ tự xuy phong, lai như xiết điện, bảo hộ tiên tổ giang phó gia đường, duy nguyện: tổ tiên giám cách, nguyện than phục chỉ, hiếu phụng xuân thu, giáng phó gia đường, chứng minh công đức. Con nhất tâm bái thỉnh: Cao cao chi tổ, viễn viễn chi tông, thúc bá đệ huynh, cô di tỷ muội, bà cô ông mãnh; Hữu danh vô vị, hữu vị vô danh, đẳng đẳng sảnh linh, trùng trùng quyến thuộc, phục hồi gia nội, tả hữu phân ban, thượng hạ trung bàn, chứng minh công đức. Con nhất tâm bái thỉnh. Gia tiên bản phái, nội ngoại túc thanh, hương kỳ phần đại anh hiền, hoặc văn thư lễ, hoặc lược điền viên, pong thanh thụ lập, văn vọng lưu truyền, dư thanh đồng cảm, thức lễ mặc khiên, khí số chung linh, tài năng tế mỹ.Nguyện giáng gia đường, chứng minh công đức. Con nhất tâm bái thỉnh: Gia trung phụng tự, tứ thời bát tiết, liệt vị tôn linh: Cung thỉnh: (thờ ai thì đọc tên người đó kèm theo chữ :chân linh vị tiền). Duy nguyện: tử tôn bất thác, bảo hộ tử tôn, giang phó gia đường thụ tử cúng dàng. Khất cầu: Tiên tổ phù trì, tôn linh bảo hộ chúng tôn, xuân lai cát khánh, hạ đáo bình an, thu miễn tam tai, đông nghinh bách phúc, cầu tài đắc tài, cầu lộc đắc lộc, cầu bình an đắc bình an.( hết ) 2-KHẤN GIAO THỪA NGOÀI TRỜI : ( Văn khấn cúng giao thừa ) Nam mô A Di Đà Phật (3 lần) - Kính nghe: Năm cũ đã hết kính cẩn tiễn đi Năm mới vừa sang hân hoan rước đến! Vào thời giao thừa, giờ Tý, mồng Một tháng Giêng năm Tân Mão, khánh đản Đức Di Lặc Tôn Phật. Nay đệ tử chúng con: .................................................. ............................ .................................................. ................................................. Tại (địa chỉ): .................................................. .................................. Kính mừng tiết Nguyên Đán đã đến, làm lễ trừ tịch, sửa soạn hương, hoa, đăng, trà, quả, thực hiến cúng giao thừa. Nam mô Đương Lai Giáo Chủ Hạ Sinh Di Lặc Tôn Phật. Nam mô Đông Phương Giáo Chủ Dược Sư Lưu Ly Quang Vương Phật. Nam mô Thiên Thủ Thiên Nhãn Đại Từ Đại Bi Linh Cảm Quán Thế Âm Bồ Tát. Nam mô Hộ Pháp Thiện Thần Chư Thiên Bồ Tát. Cung tống cựu niên: Canh Dần niên, Ngụy Vương hành khiển. Tam thập lục phương chi thần, Khúc Tào phán Quan. Cung nghinh tân niên: Tân Mão niên, Trịnh Vương hành khiển Mộc tinh chi thần, Khúc Tào phán quan. - Cẩn cáo: Tôn thần bản gia, Thổ công địa chủ, Ngũ phương vạn phúc phu nhân. Bản gia Đông Trù tư mệnh Táo phủ thần quân. Bản xứ Thổ địa phúc đức chính thần. Ngũ phương long mạch, Tiền hậu địa chủ tiếp dẫn Tài thần, Hỷ thần các vị tôn thần cùng chân linh gia tiên nội ngoại, lai lâm án toạ, chứng giám lòng thành, thụ tư cúng dàng. - Khấn nguyện: Gia hộ toàn gia an lạc, bốn mùa không hạn ách nghĩ lo, tám tiết hưởng vinh quang phúc thọ, hoạ đi phúc đến, sở cầu như ý, sở nguyện tòng tâm. - Kính mong: Chứng giám lòng thành ân chiêm vạn vọng. Đệ tử đồng gia kính lễ. VĂN KHẤN GIAO THỪA TRONG NHÀ ( Trong nhà) Nam mô a di Đà Phật! Nam mô a di Đà Phật! Nam mô a di Đà Phật! - Con lạy chín phương Trời, mười phương Chư Phật, Chư Phật mười phương. - Con kính lạy Đức Đương lai hạ sinh Di Lặc Tôn Phật. - Con kính lạy Hoàng Thiên Hậu Thổ chư vị Tôn thần. - Con kính lạy Long Mạch, Táo Quân, Chư vị tôn thần. - Con kính lạy Tỗ Tiên nội ngoại, Chư vị Tiên linh Nay phút giao thừa năm Tân Mão. Tín chủ chúng con tên là: Ngụ tại: Phút giao thừa vừa tới, giờ tý đầu xuân, đón mừng nguyên đán, tín chủ chúng con thành tâm sửa biện hương hoa phẩm vật dâng lên trước án, cúng dâng Phật Thánh, Dâng hiến Tôn thần, tiến cúng Tổ tiên, đất nén tâm hương, thành tâm kính lễ. Chúng con kính mời: Ngài Bản cảnh Thành Hoàng Chư vị Đại Vương, Ngài Bản xứ thần linh Thỗ địa, Phúc đức chính thần, các ngài ngũ phương ngũ thổ, Long mạch Tài thần, các bản gia Táo quân, và các chư vị thần linh cai quản ở xứ này. Cúi xin các vị giáng lâm trước án thụ hưởng lễ vật. Con lại kính mời các cụ Tiên linh cao tằng tỗ khảo, Cao tằng tổ tỷ Thúc Bá Huynh đệ, Cô Dì, Tỷ Muội, nội ngoại Gia tộc, Chư vị Hương linh, các vong linh hữu vị vô danh cúi xin giáng về linh sàng thụ hưởng lễ vật. Tín chủ con lại kính mời vong linh các vị Tiền chủ, Hậu chủ, y thảo thụ mộc, ngụ tại đất này, nhân tiết giao thừa, giáng lâm trước án thụ hưởng lễ vật. Cúi xin các vị phù hộ độ trì cho toàn gia chủ chúng con năm mới tốt lành, sức khỏe dồi dào, tấn tài tân lộc, vạn sự tốt lành, vạn điều như ý. Cầu cho mưa thuận gió hòa Quanh năm tươi tốt trái hoa ngợp trời Con tàu vượt biến xa khơi Một miền thông thoáng bầu trời bình yên. Đất nước sinh nhũng tài hiền Một thời trỗi dậy lên tiên, thành rồng. Cầu xin: Con cháu Lạc Hồng Thiên tài xuất chúng rạng bung đất trời Ở giữa thiên hạ ngời ngời Tâm phục khẩu phục nhiều đời vang xa. Đi ra không thua người ta Ở nhà yên ấm hợp hòa tinh thương Bước lên ở trốn chính trường Ngửng nhìn thiên hạ, thẳng đường tiến ra. Cầu xin sức khỏe ông bà Quanh năm vui vẻ cửa nhà ấm êm Mọi người đi sớm về đêm Dù đi hải ngoại, dù lên bầu trời Dù ra biển cả xa vời Dù trèo rừng núi, dù bơi dưới hầm Nắng mưa lao lực dãi dầm Bình yên vô sự, trong tầm chở che. Mùa đông cho tới mùa hè Kinh thương phát đạt mua ghe bán tàu Anh em gắn kết cùng nhau Chung lưng gánh vác xây cầu đắp sông. Kính xin Thượng Đế vui lòng Ban cho thỏa nguyên như trong lời cầu! Cầu xin Bồ Tát trên đầu Ở bên che chắn nhiệm mầu hiển linh Cầu xin Thần Thánh anh minh Ra tay cứu giúp chúng sinh lỡ lầm. Câu xin vong vị lai lâm Mọi nơi nâng đỡ, thành tâm cứu người Cầu xin Tiên Tổ muôn nơi Phù trì bảo hộ suốt đời cháu con! Thay lời ước nguyện nước non ? Con xin kính cẩn lòng son kính ngài! Chúng con lễ bạc tâm thành, nhất tâm kính lễ, cúi xin phù hộ độ trì. Nam mô a di Đà Phật! Nam mô a di Đà Phật! Nam mô a di Đà Phật! (Sưu tầm)1 like
-
TẠI SAO TÂN MÃO THUỘC HÀNH MỘC MÀ KHÔNG PHẢI HÀNH THỦY ? HÀNH HỎA ? HAY HÀNH NÀO KHÁC ? (Tặng bạn đọc vốn yêu thích triết luận phương Đông) Lê Hưng VKD ( Lê Hưng VKD là con trai cả cụ Thiên Lương, từng tham gia viết bài trên tập san Khoa Học Huyền Bí trước 1975 với bút danh GS Lê Trung Hưng) I/ Hệ thống can – chi : Trong các triết luận của văn hóa phương Đông châu Á, khái niệm thời gian dịch chuyển được diễn tả bằng thuật danh Can & Chi: Can là hệ đếm thời gian theo chu kỳ 10 giai đoạn, gọi là thập thiên can (Gíáp, Ất, Bính, Đinh, Mậu, Kỷ, Canh, Tân, Nhâm, Qúi) tương thích với vận động của thế giới vũ trụ (được qui chiếu vào phương vị của trái đất theo tư duy của người trần gian). Chi là hệ đếm thời gian theo chu kỳ 12 giai đoạn, gọi là thập nhị địa chi (Tý, Sửu, Dần, Mão, Thìn, Tỵ, Ngọ, Mùi, Thân, Dậu, Tuất, Hợi) tương thích với vận động của trái đất (được qui chiếu theo vị trí sinh sống của người trần gian). Khi ghép nối Can & Chi gọi là “nạp âm Can Chi” và bản chất vận động của tổ hợp thời gian này (tức: nạp âm Can Chi – NÂCC) chính là việc làm của một hành trong hệ 5 hành (ngũ hành: kim, mộc, thủy, hỏa, thổ) Ngày nay mọi người đều đã hiểu : 1/ Cốt tủy tinh hoa minh triết phương Đông, là cổ thư Kinh Dịch 2/ Cốt tủy nội dung của Kinh Dịch, là luận bàn của học thuyết Âm Dương 3/ Cốt tủy vận động của Âm Dương, là lý giải (biện chứng) của học thuyết Ngũ hành Thế nên, việc kết hợp hệ đếm Can – Chi ( tức NÂCC ) chính là một “ hình thái ma trận” (10 hàng 12 cột), để có 60 số đếm thời gian (thuật ngữ cổ gọi là lục thập hoa giáp) theo tiêu chí “âm cư âm vị - dương cư dương vị = can âm đi với chi âm; can dương đi với chi dương” được người xưa áp dụng vào lịch biểu xác định cho 4 thời điểm của mọi sự việc : thời dụng (giờ) – nhật dụng (ngày) - nguyệt dụng (tháng) và niên dụng (năm)….Khởi đầu cho một hoa giáp (tức 60 đơn vị NÂCC) là Giáp Tý (can khởi đầu của 10 can & chi khởi đầu của 12 chi) kết thúc một hoa giáp là Qúi Hợi (can cuối cùng của 10 can & chi cuối cùng của 12 chi) II/ Hệ thống ngũ hành: Vạn vật có sự sống ở trần gian này, được người xưa tích lũy trải nghiệm bằng luận thuyết Ngũ hành ( Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ ) tức là 5 cách vận động – dịch chuyển – biến thái – chuyển hóa… của mọi quá trình phát triển & hủy diệt sự vật (cũng có thể khái quát hơn : số lượng & chất lượng sự vật luôn tiếp biến cho nhau !) - Hành vi “bản năng” là động thái hành Mộc (sinh sôi, nẩy nở…) - Hành vi “hành động” là động thái hành Hỏa (phát huy, phát triển...) - Hành vi “kinh nghiệm” là động thái hành Thổ (thu gọn, qui nạp…) - Hành vi “phương pháp” là động thái hành Kim (chắt lọc, chọn lựa…) - Hành vi “phản xạ” là động thái hành Thủy (phát tán, thanh lý,đối phó…) Các bộ môn xã hội – nhân văn cổ (như : đông y học, phong thủy, thiên văn, nông lịch khí tượng, tử vi, dịch lý…) đều đã sử dụng “ nạp âm can chi” (NÂCC) qui đổi ra “ ngũ hành” để giải thích “ ngưỡng vô thường” của mọi cấu trúc sự vật luôn biến & hóa ở thế giới này (théorie des changements d’ici- bas). Bảng qui đổi 60 số đếm thời gian Can + Chi ra ngũ hành đã được người xưa công bố rộng rãi (và người đời nay đã nhuần nhuyễn thuộc lòng như định đề hiển nhiên – postulatum – của toán học phổ thông !).Thí dụ : Tân Mão thuộc bản chất hành Mộc, Ất Mão thuộc bản chất hành Thủy , Kỷ Mão là hành Thổ… Nhưng một thực tế nghịch lý đang hiện có (trong các đầu sách đã xuất bản bấy lâu nay) là: - Chưa sách nào giới thiệu được cách qui đổi từ nạp âm Can Chi ra hệ ngũ hành ? - Trình tự nào, căn cứ nguyên do nào mà người xưa đã biến hóa số đếm Can Chi (số lượng ) thành ra 1 hành trong 5 hành ( chất lượng) ? - Tại sao Giáp Ngọ phải là hành Kim? mà không phải là hành Hỏa?...v…v III/ Đề xuất kỹ thuật lượng hóa hệ đếm Can Chi thành hệ ngũ hành : Trước các thắc mắc khái quát nêu trên, gia tộc của học phái Thiên Lương – Đẩu Sơn xin phép đề xuất một qui trình nhỏ chuyển đổi nạp âm Can+ Chi ra ngũ hành, như sau : Bước 1 (Bảng A) Lượng hóa cho mỗi Can (trong 10 Can) bằng ký tự số đếm thập phân (numération décimale) từ số 0 (zéro) rồi tiếp theo 1, 2, 3, … Bước 2 (Bảng :( Lượng hóa cơ chế tam phân của lưỡng nghi Âm - Dương: * 3 phân nghi âm: Thiếu âm, Quyết âm, Thái âm * 3 phân nghi dương: Thiếu dương, Dương minh, Thái dương cũng bằng ký tự số đếm thập phân (0, 1, 2, 3…) Bước 3 (Bảng C) Lượng hóa cho mỗi chi ( trong 12 chi ) phân phối theo trình tự cơ chế 3 phân của Âm Dương: - Từ Tý đến Tỵ thuộc nghi Dương, từ Ngọ dến Hợi thuộc nghi Âm, cùng ra ký tự số đếm hệ thập phân ( 0, 1, 2, 3…) Bước 4 (Bảng D) Căn cứ tín hiệu “ nạp âm” của hệ ngũ âm trong nhạc lý cổ phương Đông (cung, thương, giốc, chủy, vũ ) được ghi trong sách Nội Kinh ( bộ y thư cổ nhất của y học cổ truyền Trung Hoa ) : tại âm vi giốc, khí hóa vi Mộc tại âm vi chủy, khí hóa vi Hỏa tại âm vi cung, khí hóa vi Thổ tại âm vi thương, khí hóa vi Kim tại âm vi vũ, khí hóa vi Thủy chuyển đổi ra ký tự số đếm hệ thập phân ( 0,1,2,3…) Ghi chú: hành gốc (biến) căn cứ theo sách Nội Kinh, còn hành ngọn (hóa) thì theo luật sinh xuất ngũ hành (Thổ sinh Kim, Thủy sinh Mộc….) Bước 5 (Bảng E) Đây là bảng tổng hợp tất cả số đếm của mỗi Can + Chi (gọi là “nạp âm” Can Chi – NÂCC): chuyển đổi ra ký tự số thập phân ( 0, 1, 2, 3…) Thí dụ 1: Nạp âm Tân Mão có số ký tự : * Can Tân là 3 (theo bảng A) * Chi Mão là 1 (theo bảng C) ═> NÂCC “Tân Mão” = 3+1 = 4 Thí dụ 2: nạp âm Qúi Hợi = 4 (bảng A) + 2 (bảng C) = 6 Bước 6 (Bảng F) Vì hệ ngũ âm nhạc lý cổ chỉ vận hành từ ký tự 0 (zéro) đến 4 (tức là nhịp 5), nên số đếm của nạp âm Can Chi (NÂCC) ở bảng E cũng chỉ sử dụng nhịp 5 (từ 0 đến 4), do đó nếu nạp âm Can Chi có ký tự 5 hoặc ký tự 6 , ta làm phép trừ cho 5 để tìm số dư (là số còn lại sau phép tính trừ) và lấy số dư này làm ký tự cho hành ngọn (hóa) theo bảng D; Thí dụ 1 : * nạp âm Canh Thìn (theo bảng E) có ký tự 5; ta có số dư: 5 - 5 = 0 ═> Canh Thìn hành Kim (theo bảng D) Thí dụ 2 : * nạp âm Nhâm Tuất (theo bảng E) có ký tự 6; ta có số dư: 6 - 5 = 1 ═> Nhâm Tuất hành Thủy (theo bảng D) Toàn bộ ngũ hành của lục thập hoa giáp như sau : Tạm kết: ngày xuân “nhàn lãm” hệ đếm Can Chi của người xưa, ta không thể không “kính nhi viễn chi” (dù nhìn từ xa, mà đã bái phục) tầm cao “huệ & tuệ”(1) của học thuật và văn hóa dân gian cổ đại Đông phương ! Ghi chú: (1) Huệ là vô tư trong sáng Tuệ là thấu đáo mọi hiểu biết Lê Hưng VKD (Bình Dương)1 like
-
Trong Tử Vi, người ta ít chú trọng đến sao Thiên Không, một phụ tinh nhỏ xếp vào hàng em út so với đại sát tinh Không Kiếp mà chúng đã đề cập trong chương trước, nhưng rất đáng lưu ý khi giải đoán nhất là lúc xem hạn. Ngoài những ý nghĩa căn bản và đơn giản của một ác tinh, Thiên Không còn mang nhiều sắc thái đối nghịch nhau rất lý thú mà chúng ta phải cân nhắc thận trọng khi giải đoán một lá số có Thiên Không thủ Mệnh để khỏi đi đến những kết luận sai lầm đáng tiếc. Thiên Không thuộc hành Hỏa, đắc địa ở Dần, Thân, Tỵ, Hợi và đó cũng là nơi đắc địa của Không Kiếp, cho nên tại những vị trí này, Thiên Không sẽ có uy lực không kém gì Không Kiếp, và cũng như các đàn anh, Thiên Không chủ sự phá tán, thất bại, gãy đổ nửa chừng. Người có Thiên Không hãm địa thủ mệnh thì tính xảo quyệt, chuyên dùng sự gian dối, thủ đoạn để ăn ở với người, để mưu sự với đời, nhưng rốt cuộc cũng không làm được việc gì ngoài những trò tiểu xảo hầu thủ lợi cho cá nhân mình, nhưng chung cuộc thì cũng tự hại mình mà thôi. http://' target="_blank">Người có Thiên Không đắc địa thủ mệnh tính tình táo bạo, thăng trầm, túc trí đa mưu, thích toan tính những chuyện lớn lao, nhưng nếu không có những sao chế giải thì từ anh hùng trở thành gian hùng dễ như trở bàn tay. Bởi vậy, như đã nói ở trên, ý nghĩa lý thú của Thiên Không là chúng ta có thể ví người Thiên Không là người “nhị trùng bản ngã”. Trong con người Thiên Không có một người thiện, một người ác, có chính, có tà…Một lá số với cách cục tốt đẹp nào đó khiến chúng ta kết luận đương số là anh hùng, nhưng cẩn thận, anh hùng có thể là gian hùng nếu có thêm Thiên Không đồng thủ mệnh. Cái bản ngã thứ nhì của Thiên Không hiểu theo triết lý nhà Phật thì Thiên Không còn có ý nghĩa “sắc sắc không không” Cho nên, người có Thiên Không đắc địa thủ mệnh gần giống với mẫu người Tử Tham Mão Dậu, bẩm sinh từ lúc còn trẻ đã có khuynh hướng yếm thế, có những ý nghĩ và cuộc sống gần gũi với tôn giáo. Cái khổ của người Thiên Không là sự dằn vặt trong nội tâm bởi hai cánh tay của Thiên Không, một thiện một ác, một chánh một tà, một đời một đạo, lôi kéo, giằng co cả cuộc đời: Mệnh tọa Thiên Không định xuất gia, có nghĩa là người Thiên Không thủ mệnh lòng chỉ muốn xa lánh cõi đời, nhưng thực hiện được hay không đớ còn tùy thuộc vào những sao phối hợp mà chúng ta đề cập sao đây. Với lá số Thiên Không lại càng nên thận trọng hơn đối với hai sao Đào Hồng, là biểu tượng cho sắc đẹp, nghệ thuật và nhất là nữ. Có nhiều sách cho rằng Thiên Không thủ mệnh gặp Đào Hoa, dù nam hay nữ, cũng là những người có khả năng quyến rũ người khác phái bằng những ngón nghề riêng của mình. Theo thiển ý của người viết, chúng ta phải phân biệt hai trường hợp. 1) Đối với nam, Thiên Không biểu tượng cho bản chất của đương số, và Đào Hoa là đối tượng đeo đuổi. Cho nên nam phái có Thiên Không và Đào Hoa ở mệnh là người đào hoa và biết dùng những ưu điểm trời phú cho mình như nhân dáng, lời ăn, tiếng nói ngọt ngào, địa vị, quyền thế..v.v…Nói chung là dùng mọi khả năng quyến rũ của mình dễ lợi dụng đàn bà vào một mục đích nào đó. Nếu gặp thêm những sao như Phục Binh, Quan Phù, Quan Phủ… thì mức độ lợi dụng sẽ đi đến chuyện dụ dỗ, lừa gạt, phản bội một cách trắng trợn. 2) Đối với nữ, Đào Hoa là biểu tượng chính của đương số, là cánh hoa biết nói, còn Thiên Không là lửa trên trời. Đào Hoa gặp lửa thì làm sao không khô héo? Bởi vậy, nữ phái gặp cách này là người có nhan sắc nhưng lại không có duyên. Chữ duyên ở đây bao hàm cả hai ý nghĩa: Sự duyên dáng và duyên phận. Chúng ta thường thấy những người đàn bà có sắc đẹp bên ngoài nhưng khi tiếp xúc thì không tìm thấy một nét hấp dẫn nào qua tính tình hay nội tâm. Hữu sắc vô hương, vì vậy mà Đào Hoa ngộ Thiên Không thì duyên kiếp phải bẽ bàng, chứ không hẳn có sức quyến rũ nam phái. Và tương tự, Mệnh có Thiên Không, Hồng Loan là người có tư cách thanh cao, thích an nhàn, ẩn dật, và khuynh hướng xa lánh trần tục rất rõ ràng. Hai chữ “không hồng” với quan niện triết lý của nhà Phật, phải chăng là không vướng bụi hồng trần? Một ý nghĩa đáng kể mà chúng ta đã nói ở trên là sự thất bại, sự đổ gãy nửa chừng của người có Thiên Không thủ mệnh. Sự gãy đổ này có thể xảy ra trên mọi lãnh vực từ công danh, sự nghiệp cho đến chuyện tình cảm gia đạo v.v…Bởi vậy, chúng ta có thể gọi người Thiên Không thủ Mệnh là mẫu người Bán Thiên Triết Sỉ (Lưng Trời Gãy Cánh). Người có cách Tham Vũ Đồng Hành là người làm nên sự nghiệp từ thương trường. Nhưng nếu mệnh có Thiên Không thì chắc chắn thì đương số ít nhất cũng phải một lần thất bại đau thương rồi mới làm nên sự nghiệp. Tùy theo mỗi lá số, có người đổ vỡ trên đường công danh, có người gãy đổ trên đường tình ái… Và cho đến việc tu hành cũng không phải là con đường nhẹ nhàng đối với những người đã có lòng thoát tục. Cho nên cuối cùng họ đành chấp nhận cuộc sống nửa đời nửa đạo, hoặc là bỏ đạo trở lại với đời. Chúng ta cũng thấy rất rõ đặc tính lưng trời gãy cánh khi Thiên Không nhập hạn. Một tay chọc trời khuấy nước như Hạng Võ mà hạn gặp Thiên Không cũng đành phải mất nước, biệt Ngu Cơ và tự vẫn bên dòng Ô Giang. Hạn gặp Thiên Không thì tốt nhất là khoanh tay ngồi yên, chớ mưu tính chuyện gì cho tốn công phí sức. Dù có mưu cầu toan tính tới đâu thì chung cuộc cũng chỉ là đầu voi đuôi chuột mà thôi. Nếu gặp hạn xấu thì kết quả có thể còn tệ hại hơn, kể cả chuyện tán gia bại sản hay gia đình ly tán. Tác hại của Thiên Không sẽ nhẹ nhàng hơn đối với những người Vô Chính Diệu vì Mệnh của họ vốn đã là “không” nếu gặp thêm không nữa thì cũng không gì đáng ngại. Nhật Nguyệt thủ mệnh không sợ Thiên Không vi hai vầng nhật nguyệt lại càng sáng dưới bầu trời không gợn áng mây. Cuối cùng, một đặc điểm oái oăm khác của mẫu người Thiên Không là cho dù hôm nay có làm nên công danh sự nghiệp, có quyền cao chức trọng, thì cũng nên hiểu rằng chung cuộc của mình rồi cũng hai bàn tay trắng mà thôi. Nguon:quehuongyeudau.blogtiengviet.net1 like