• Thông báo

    • Bá Kiến®

      Nội quy Lý Học Plaza

      Nội quy này là bản mở rộng Nội Quy - Quy định của Diễn đàn. Khi tham gia mua bán, các thành viên phải tuân theo những quy định sau: Tiêu đề bài viết: Bao gồm: Chỉ dẫn địa lý, Loại hình Mua/Bán, Thông tin mua bán.
      Chỉ dẫn địa lý: Tỉnh/thành nơi mua bán. Hoặc sử dụng định nghĩa có sẵn:TQ: Toàn quốc
      HCM: TP Hồ Chí Minh
      HN: Hà Nội
      [*]Ví dụ: HCM - Bán Vòng tay Hổ Phách ​Nội dung bài viết: Mô tả chi tiết sản phẩm mua/bán
      Bắt buộc phải có thông tin liên lạc, giá Mua/Bán
      Bài mới đăng chỉ được phép up sau 03 ngày.
      Thời gian up bài cho phép: 01 ngày 01 lần.
      Các hành vi vi phạm nội quy này sẽ bị xóa bài hoặc khóa tài khoản mà không cần báo trước.

Leaderboard


Popular Content

Showing most liked content on 16/01/2011 in all areas

  1. Năm-nguyên-tố và Ba-tính-chất của sự sống Các hiện tượng thông linh như ma ám, lên đồng, gọi hồn, luân hồi… và đặc biệt hơn là các trường hợp cận tử, hay phương pháp thực hành hành tâm linh như thiền, yoga… đã ghi nhận rằng, có sự tồn tại điểm trung chuyển linh hồn sau cái chết trong khi chờ đợi kiếp luân hồi. Vì vậy, “cõi âm” - cái tên gọi tồn tại xưa nay và ám ảnh con người từ thế hệ này sang thế hệ khác hiễn nhiên có tồn tại. Và linh hồn khi chu du bên kia cõi vô hình họ khoát lên bên ngoài cái hình dạng ra sao, hay vẫn là khuôn mặt cũ tô điểm bằng đường nét vô minh? Năm nguyên tố và ba tính chất (Gunas) của sự sống Các trường phái Yoga xem tất cả chúng sinh hiện hữu trong thế giới này được tạo thành bởi năm-nguyên-tố chính đó là: Đất (Earth), Nước (Water), Lửa (Fire), Khí (Air), Chất-dĩ-thái (Ether). Trong quá trình hiện hữu trong cõi trần, tùy theo đời sống của mỗi chúng sinh (người, thú, cây cỏ, đất đá…) mà năm-nguyên-tố lại tạo ra ba-tính-chất của ý chí hay chính là những rung động tin thần trong vũ trụ: Tính-trung (Satva), Tính-động (Raja), Tính-tịnh (Tama). Tính-tịnh không có nghĩa là yên lặng, mà có nghĩa là sự rung động có liên quan đến năng lượng xấu như Tà-khí, Âm-khí, Năng-lượng-đen…những dòng khí này làm sức khỏe suy nhược, thần kinh yếu ớt… Ví dụ như động vật chết, thịt thối, cá khô… Tính-động là những rung động làm kích thích thần kinh gây ra các triệu chứng như đứng ngồi không yên (trạo cử), buồn ngủ (trạo cử), kích dục… Nó là các thực phẩm như rượu, hành, tỏi… Biểu đồ rung động của Ba-tính-chất Tính-trung là những rung động có lợi cho sức khỏe, tinh thần. Các rung động này làm con người hỉ lạc, từ bi, dũng cảm…Các thực phẩm như trái cây, khoai, đậu…thuộc loại này. Từ năm-nguyên-tố, ba-tính-chất và tinh thần hợp lại tạo thành bốn thể cơ bản của con người trong đời sồng vũ trụ. Bốn thể cơ bản của con người Qua kinh sách Veda và phương pháp thực hành yoga, các vị Đạo sư đã chỉ ra con người có bốn thể cơ bản như sau: * Thể-vật-lý: Bao gồm 2 thể khác là Thể-xác (Sthula Sharira) và Thể-phách (Linga Sharira). * Thể-vía hay Thể-dục-vọng * Thể-trí (A-lại-da-thức) * Thể-thượng-trí (Đại Ngã/Atma) Trong đó Thể-phách gắn liền với Thể-xác và tồn tại song song với nhau, khi cái chết xảy ra, Thể-xác phân hủy thì Thể-phách cũng tan rã theo. Thể-phách đóng vai trò là đường dẫn các Kinh mạch vi tế và là nơi tồn tại các trung tâm Luân xa, hay huyệt đạo. Ba thể còn lại có hình dạng một đốm sáng hình cầu, được bao bọc theo thứ tự từ trong ra ngoài là Đại-ngã, Thể -trí, Thể-vía. Ba thể này được cấu tạo bởi tinh chất được Yoga gọi là Jiva (năng lượng của ý chí). Trong tiến trình của một cái chết, ban đầu các tinh lực Jiva được thu gom và cấu tạo lại theo thứ tự nhẹ ở bên trong nặng ở bên ngoài. Kế đến, linh hồn bị hút ra khỏi thân xác bởi một năng lượng bí ẩn qua Luân xa số 7 trên đỉnh đầu, đây là thời điểm cuối cùng linh hồn ở bên trong thể xác và khi trình tự này chấm dứt, nó sẽ trở thành một thành viên cũa cõi âm. Do được cấu tạo bởi những tinh chất và các rung động vật chất khác nhau, mỗi thể của con người sẽ có những rung động phù hợp với thể đó, các rung động này hợp lại tạo ra một con người có tính cách không ai giống ai. 1. Thể xác Thể xác phát triển khi con người ở giai đoạn từ 1-7 tuổi, trong bảy năm đầu thể vật lý (thể xác) một mình hình thành và phát triển, các thể khác còn đang ở dạng mầm. Lúc này con người giống như một con vật, không có trí tuệ, xúc cảm hay ham muốn. 2. Thể phách Thể xác phát triển khi con người ở giai đoạn từ 7-14 tuổi, đây là giai đoạn trưởng thành về xúc cảm của cá nhân, và dục tính phát triển. Đôi khi một số người bị mắc kẹt và trì trệ trong giai đoạn này, họ sẽ không phát triển khả năng xúc cảm, dục tính… Thể phách có đặc tính là sợ hãi, căm ghét, giận dữ và bạo hành. Hoặc ngược lại là tình yêu, từ bi, dũng cảm, thân thiện. 3. Thể vía Thể-vía phát triển khi con người ở giai đoạn từ 14-21 tuổi, trong thời kỳ này con người có khả năng lập luận, tư duy và trí tuệ được nâng cao. Nó có đặc tính là hoài nghi và suy nghĩ, hay ngược lại là tin cậy và tĩnh lặng (vivek). 4. Thể trí Thể trí là nơi lưu trữ Nghiệp Quả. Phẩm chất tự nhiên của Thể-trí là tưởng tượng và mơ. Nếu tưởng tượng được phát triển đầy đủ nó sẽ trở thành quyết tâm và ý chí. 5. Thể thượng trí Thể thượng trí chính là tư duy bất nhị. Nó đã loại bỏ hẳn trạng thái vô ý thức, nghĩa là người này không ngủ, chỉ có xác thân anh ta ngủ, nhưng mọi diễn biến của anh ta hoàn toàn tỉnh giác. Hình dáng của Linh hồn Liêm Pha tổng hợp từ site: http://www.spiritualresearchfoundation.org
    3 likes
  2. Nói rõ hơn là thế này:Các cụ nhà ta ngày xưa thường dùng hai cái kệ gọi là con ngựa để kê những tấm gỗ dày lên năm, gọi là Phản. Một cái phản có khi có đến 4 miếng gỗ ghép lận. Hoặc giường ngày nay thường có hai cái vạt giường ghép để nệm lên. Cũng ghép vậy. Nệm ghép cũng được, ko sao, nhưng nên chỉ có một tấm gra phủ trùm lên hai tấm nệm này.
    2 likes
  3. Thống nhất tâm linh và khoa học Đào Thanh Oai Ths. Kỹ Thuật Điện, KS Kinh Tế Giả thuyết về trường sự sống 1.1 Sự cần thiết phải đưa ra giả thuyết về trường sự sống Trước hết ta xem vũ trụ là một thể thống nhất. Nghĩa là dù vũ trụ mà ta đã biết có nằm trong một nguyển tử, một lỗ đen, lỗ đen đó lại nằm trong vũ trụ khác, hay có muôn vàn vũ trụ song trùng, vũ trụ vô hình hữu hình….thì đều gộp tất cả các vũ trụ đó thành một vũ trụ thống nhất. Hệ quả 1: Mọi sự vật, hiện tượng dù là vật chất hay ý thức, dù là hữu hình hay vô hình đều là sự vật hiện tượng trong vũ trụ thống nhất đó. Hệ quả này cho thấy rằng dù có linh hồn thì linh hồn đó cũng chỉ là một sự vật trong vũ trụ chứ không thể là cái gì khác. Hiện tượng tâm linh cũng là hiện tượng trong vũ trụ, thế giới tâm linh cũng là thế giới trong vũ trụ,… Hệ quả 2: Bất kỳ sự vật hiện tượng gì cũng có bản chất vật lý (bản chất của hiện tượng sự trong vũ trụ đó) của nó. Nhiệm vụ của khoa học là: Làm rõ bản chất của các sự vật hiện tượng, tìm ra các mối liên hệ của các sự vật hiện tượng trong vũ trụ thống nhất đó. Hiện tượng nhà ngoại cảm tìm mộ, xem bói, dùng ý thức bẻ cong thìa, đọc được suy nghĩ người khác... khoa học hiện nay vẫn chưa giải thích được. Đó là nguyên nhân mà nhiều người ban đầu vốn không tin là có thế giới tâm linh, có linh hồn bất tử....nhưng rồi dần dần lại tin. Cách hiểu thông thường nhất về thế giới tâm linh là một thế giới ở bên kia, thế giới ở đằng sau cái chết, thế giới của các linh hồn, thế giới của thần linh và ma quỷ... khoa học ngày nay cần phải trả lời là câu hỏi cái thế giới đó có thật không? Nếu có thật thì bản chất của thế giới đó là gì trong vũ trụ thống nhất ở trên? Thế giới mà ta biết gồm những vật thể sống và những vật thể không chứa đựng sự sống. Có những sự vật hiện tượng hữu hình và hiện tượng sự vật vô hình….Các hiện tượng điện, từ, cơ, nhiệt...có thể tạo ra một cách dễ dàng phải chăng đó là một nguyên nhân dẫn đến thành tựu khoa học dựa trên việc nghiên cứu về các hiện tượng này đã tiến xa. Người ta có thể tạo ra và thu sóng vô tuyến, tia laze; người ta có thể tạo ra vật liệu mới, tạo ra phản ứng hạt nhân... Từ đó người ta có thể chế tạo ra điện thoại, máy vi tính, tàu vũ trụ, điện hạt nhân, bom nguyên tử... Như thế thành tựu khoa học trên lĩnh vực liên quan đến sự vật hiện tượng không chứa đựng sự sống là rất đáng kinh ngạc. Quá trình tiến hóa từ các vật vô cơ đến vật thể sống như ngày nay trải qua hàng nhiều triệu năm, trong các điều kiện thuận lợi nhất định. Việc tạo ra một vật thể sống từ vật thể không sống là một việc làm vô cùng khó khăn.Việc chưa chưa tạo ra được vật chất có ý thức từ thế giới vô cơ phải chăng là nguyên nhân dẫn đến khoa học chưa giải thích được các hiện tượng sau. Hiện tượng nhà ngoại cảm tìm mộ, xem bói, dùng ý thức bẻ cong thìa, đọc được suy nghĩ người khác, chưa bệnh không cần thuốc…cơ sở của các hiện tượng này là gì? Môi trường để các hiện tượng trên xảy ra là gì, thông qua đâu? Các máy mọc hiện đại có thể đo được hào quang xuất hiện trên vật thể con người, thực vật….các hào quang đó có năng lượng gì? Trong hiện tượng thần giao cách cảm môi trường để thực hiện việc chuyển đổi thông tin giữa hai người không thông qua vật chất đã biết (âm thanh, hình ảnh) vậy qua tín hiệu gì, thông qua trường gì? Ông Nguyễn Văn A đánh một cây Xương Rồng nhiều, khi ông A đi đến gần cây Xương Rồng đó người ta đo được tín hiệu điện khác thường do cái cây Xương Rồng phát ra. Ngược lại khi người khác chưa từng đánh cái cây khi đến gần cái cây cái cây không phát ra tín hiệu điện nào khác thường cả. Thí nghiệm này chứng tỏ cái cây biết cảm nhận. Cái cây đó cảm nhận tín hiệu phát ra từ ông Nguyễn Văn A bằng trường gì, giác quan nào? Cần phải nhấn mạnh các hiện tượng trên là có thật, nếu có thật mới cần phải giải thích nó, mới cần phải tìm ra bản chất của các hiện tượng đó. Theo hệ quả của “tiên đề vũ trụ thống nhất” bất kỳ sự vật hiện tượng nào cũng là sự vật hiện tượng trong vũ trụ, đã là sự vật hiện tượng trong vũ trụ đều phải có bản chất vật lý. Mà bất kỳ một quá trình vật lý nào xảy ra cũng kèm theo một quá trình năng lượng tương ứng. (Có ai phủ định điều này không?) Ta thấy các hiện tượng trên đều diễn ra ở vật thể có sự sống. Đặc điểm khác biệt nhất của vật thể sống và vật thể không chứa đựng sự sống là vật thể sống có cảm nhận và vật thể không chứa đựng sự sống không có cảm nhận. Về mặt năng lượng hai loại vật thể sống và vật thể không chứa đựng sự sống chắc chắn có sự khác biệt nhau. Như trên ta thấy bất kỳ một quá trình vật lý nào xảy ra cũng kèm theo một quá trình năng lượng tương ứng. Quá trình xảy ra các hiện tương bí ẩn ở trên đi kèm với quá trình năng lượng mà ở đây gọi là năng lượng sống. (Cần hiểu rằng năng lượng sống là năng lượng có thật, vì đó là quá trình năng lượng đi kèm với các hiện tượng có thật, gán một khái niệm với sự vật hiện tượng có thật để nghiên cứu chứ không phải tự bịa ra). Để giải thích các hiện tượng bí ẩn trên ở đây, tác giả đặt ra một giả thuyết lấy tên là “giả thuyết về trường sự sống”. Nội dung giả thuyết trường sự sống như sau: Vật thể sống phát ra xung quanh nó một trường gọi là trường sự sống. Trường sự sống có năng lượng sống, có sóng sự sống, thông tin sự sống, con người được mô hình như cỗ máy tối tân nhất của vũ trụ... Một điểm lưu ý lượng sống là năng lượng hoàn toàn khác với các dạng năng lượng đã biết: như cơ năng, điện năng, nhiệt năng,….. Cũng cần phải làm rõ hai vấn đề liên quan đến trường này: Một là, trường sự sống do phần vật chất trong vật thể sống phát ra hay phần phi vật chất trong vật thể sống phát ra. Hai là, trường sự sống có mối liên hệ như thế nào với ý thức. Sau đây là những thí nghiệm để xác định hai câu hỏi trên. 1.2 Thí nghiệm kiểm tra trường sự sống do phần vật chất của vật thể sống phát ra hay phần tinh thần của vật thể sống phát ra 1.2.1 Thí nghiệm kiểm tra năng lượng sống phát ra từ phần vật chất hay phần tinh thần. Vì vật thể sống có phần vật chất và phần tinh thần, năng lượng sống đó do phần nào phát ra? Phần vật chất hữu hình trong vật thể dễ dàng bị tiêu diệt bởi bom đạn, lửa, từ trường …. Do đó nếu năng lượng sống đó phát ra từ phần vật chất, và được lưu trữ trong phần vật chất thì nó sẽ bị tiêu diệt bởi bom đạn, lửa, từ trường… Nếu năng lượng sống không phải do phần vật chất trong vật thể sống phát ra và lưu trữ thì nó rất khó có thể tiêu diệt bởi bom đạn, lửa, từ trường…. Cần làm thí nghiệm hủy hết phần vật chất của vật thể mà dẫn đến hết hẳn các hiện tượng tâm linh phát ra từ vật thể đó chứng tỏ rằng năng lượng sống đó do phần vật chất của vật thể sống phát ra và được lưu trữ trong phần vật chất của vật thể.(1) Ngược lại khi hủy hết phần vật chất của vật thể sống mà các hiện tượng tâm linh phát ra từ vật thể đó vẫn còn chứng tỏ nó là một năng lượng đặc biệt không phát ra từ phần vật chất mà phát ra từ phần phi vật chất(có thể là ý thức)(2). Năng lượng sống đó rất khó bị thiêu hủy bởi từ trường, điện trường, bom đạn, lửa….tất nhiên đã là năng lượng thì sẽ được chuyển hóa cho nhau theo cơ chế nào đó. 1.2.2 Thí nghiệm kiểm tra xem năng lượng sống là thuần túy năng lượng hay liên quan đến cả ý thức nữa. Vật thể sống và vật thể không chứa đựng sự sống có đặc điểm khác biệt hẳn nhau đó là vật thể sống có khả năng cảm nhận còn vật thể không chứa đựng sự sống không có khả năng cảm nhận. Khả năng cảm nhận đó có thể thông qua trường sự sống điển hình là thí nghiệm với cái cây Xương Rồng. Người ta cho rằng người chết có linh hồn và linh hồn người chết biết làm ăn sinh hoạt, biết việc con cháu trên trần, có thể phù hộ độ trì cho con cháu…. Muốn biết được người chết có khả năng cảm nhận việc con cháu trên trần hay không cần làm thí nghiệm kiểm tra có linh hồn như trên không? Thí nghiệm cho kết quả linh hồn người chết có khả năng cảm nhận chứng tỏ rằng năng lượng sống đó có mối liên hệ chặt chẽ với phần ý thức của con người, và rất có thể là ý thức của con người có bản chất vật lý là năng lượng sống. Nếu người chết không có khả năng cảm nhận chứng tỏ linh hồn của con người chỉ là quá trình thuần túy liên quan đến năng lượng. Một cụ Nguyễn Văn A chết đi thời gian đủ ngắn (để các nhà ngoại cảm không nói rằng vong người chết đã đi chuyển nghiệp đầu thai thành kiếp mới). Sau khi chết rồi gia đình con cháu cụ có rất nhiều thứ thay đổi. Một người B1 hoàn toàn không biết gia đình con cháu cụ A đó như thế nào (để không cảm nhận được một chút thông tin nào của gia đình này) truyền một thông điệp đến các nhà ngoại cảm yêu cầu đến hỏi chị Bích Hằng (nhà ngoại cảm nổi tiếng nhất Việt Nam hiện nay chuyên tìm mộ liệt sĩ) rằng: Nhờ chị ra mộ nói chuyện với vong người chết cụ A đó để tìm hiểu về thông tin của con cháu gia đình cụ A, ghi chép biên bản. Tất cả những người chứng kiến không một ai quen biết gì gia đình con cháu cụ A kia (để tránh ảnh hưởng của sóng thông tin sự sống từ người sống sang người sống, thậm chí thông qua nhiều bước trung gian B2,B3,… Bn để đảm bảo chị Bích Hằng chỉ gặp cái vong của người chết). (không cho gia đình con cháu cụ A biết để tránh tình trạng sóng từ con cháu cụ chuyển sang nhà ngoại cảm). Sau đó đối chiếu với thực tiễn. Kết quả thí nghiệm. Trường hợp thứ nhất: Nếu chị Bích Hằng nói sai hoặc không cảm nhận được thông tin xác thực, chứng tỏ không có linh hồn theo cách hiểu thông thường biết mọi thứ, ăn ở sinh hoạt... cái mọi người vẫn gọi là linh hồn đó chỉ là dạng thông tin sự sống do nguồn năng lượng sự sống phát ra. Cái gọi là linh hồn thực chất là quá trình thuần túy liên quan đến năng lượng sống. Năng lượng sống đó phát ra từ phần vật chất hoặc phi vật chất mà không phải ý thức. Từ đây đặt thêm một cái tên linh hồn chết để phân biệt với linh hồn của người sống. (3) Trường hợp ngược lại: Nếu như thí nghiệm cho kết quả có vong hồn vậy chứng tỏ rằng trường sự sống có mối liên hệ mật thiết với ý thức. Năng lượng sống có thể được phát ra từ phần ý thức của vật thể sống hoặc phần phi vật chất khác mà ta chưa biết, nhưng dù sao cũng có liên hệ với ý thức. (4) Tóm lại nếu xảy ra các trường hợp: + Nếu trường hợp (1) xảy ra và trường hợp (3) xảy ra: Kết luận năng lượng sống phát ra từ phần vật chất. Những hiện tượng linh hồn có bản chất vật lý là những hiện tượng thuần túy liên quan đến năng lượng sống, không liên quan đến ý thức của người chết. + Nếu trường hợp (1) xảy ra và trường hợp (4) xảy ra. Năng lượng sống do phần vật chất trong vật thể sống phát ra. Năng lượng sống chính là ý thức. + Nếu trường hợp (2) xảy ra và trường hợp (3) xảy ra: kết luận năng lượng sống phát ra từ phần phi vật chất không phải ý thức. Những hiện tượng linh hồn là những hiện tượng thuần túy liên quan đến năng lượng sống. + Nếu trường hợp (2) xảy ra và trường hợp (4) xảy ra: Kết luận năng lượng sống phát ra từ phần phi vật chất và có thể là ý thức. Năng lượng sống liên quan mật thiết với ý thức. (Ở đây dùng chữ phi vật chất để phân biệt với những vật chất đã biết) Vận dụng giả thuyết về trường sự sống giải thích các hiện tượng tâm linh. 2.1 Giải thích hiện tượng xem bói của các nhà ngoại cảm Như trên ta đã biết vũ trụ gồm vật thể không có sự sống và vật thể có sự sống. Con người thuộc về loại vật thể có sự sống. Xét về mặt tiến hóa con người là sinh vật tiến hóa cao nhất. Nếu mô hình con người như những cỗ máy thì mỗi con người có thể xem là một cỗ máy tối tân nhất của vũ trụ. Vật thể sống phát ra xung quanh một trường sự sống. Vật thể sống cũng có năng lượng sống, năng lượng này rất đặc biệt, nó là một năng lượng hoàn toàn mới để phân biệt với các dạng năng lượng thông thường đã biết. Năng lượng này có khả năng chuyển đổi thành các dạng năng lượng khác. Cũng như hoạt động cơ bắp của vật thể do ý thức điều khiển thì năng lượng này cũng có thể được điều khiển bởi ý thức. Nhưng ý thức không thể làm mất đi năng lượng này được. Giống như ý thức có muốn hay không muốn thì khi mình còn sống tim mình vẫn còn đập vậy. Qua hoạt động của cỗ máy tối tân(con người) mọi thông tin về sự sống không những đang thu đang phát mà còn được lưu trữ lại tạo thành tập dữ liệu chứa đựng thông tin sự sống. Một số nhà ngoại cảm có khả năng đặc biệt (khả năng truy cập) có thể đọc được tập dữ liệu trên. Mặc dù ý thức người đó không hề trao đổi những gì trải qua với nhà ngoại cảm trên. Đó là lý do mà một số nhà ngoại cảm, có thể dùng khả khả năng ngoại cảm để biết được thông tin quá khứ cho nhiều người khác (mà không biết được tương lai). Nhưng thông tin sự sống, kho dữ liệu liên quan đến sự sống không phải ai cũng đọc ra được. Giống như người biết sử dụng máy tính có thế lấy được nhiều thông tin lưu trữ trong máy tính, ngược lại người không biết sử dụng máy tính thì không lấy được những thông tin trong máy tính. Theo thuyết tương đối của Anhxtanh không thể có chuyện kết quả có trước nguyên nhân do đó nhà ngoại cảm không thể biết trước được tương lai. Tuy nhiên một nhà ngoại cảm có thể họ cảm nhận được tương lai của một số người nhưng không nhiều. Điều này cũng dễ hiểu ví dụ dùng máy móc người ta có thể phân tích sóng điện từ mà biết được tuổi đời còn lại của nguồn sóng đó là bao nhiêu, qua việc phân tích năng lượng của nguồn sóng tương tự như thế thì cũng chẳng có gì là khó hiểu khi nhà ngoại cảm nếu biết trước được điều gì đó. 2.2 Giải thích hiện tượng tìm mộ của các nhà ngoại cảm. Khi con người ta sinh ra thì năng lượng sống, và thông tin về sự sống theo đó cũng được hình thành và lớn lên, và được lưu trữ ở đâu đó. Người chết đi năng lượng sống vẫn còn, thông tin về sự sống từ kho năng lượng đó vẫn phát ra nên nhà ngoại cảm có thể truy cập vào đó tìm được mộ của người chết. Thậm chí có thể biết được thông tin quá khứ của người chết. 2.3 Giải thích hiện tượng dùng ý thức bẻ cong thìa, giải thích hiện tượng tập Yoga có thể ít ăn ít thở. Hiện tượng chữa bệnh từ xa không cần thuốc. Một số rất ít người trên thế giới có thể dùng ý thức điều khiển năng lượng sống để bẻ cong cái thìa cầm trên tay. Điều này có thể hiểu thông qua tính chất chuyển đổi năng lượng sống thành năng lượng cơ dưới sự điều khiển của ý thức. Một số nhà ngoại cảm có thể chữa bệnh cho người khác từ xa mà không cần thuốc. Giải thích điều này nhà ngoại cảm dùng sóng sự sống xác định tọa độ người bệnh sau đó là quá trình thu phát năng lượng sống giữa hai vật thể. Người tập yoga ít ăn, ít thở vì họ có khả năng hấp thụ trực tiếp năng lượng sống từ vũ trụ. 2.4 Bản chất hiện tượng đầu thai Chúng ta biết việc chia sẻ dữ liệu, chia sẻ chương trình(chương trình tự cài đặt) giữa hai máy tính thông qua mạng không dây như thế nào? Nhưng quá trình đó đi kèm với quá trình sóng điện từ và năng lượng điện từ. Về phương diện vật lý hiện tượng đầu thai cũng tương tự như thế, đó là kết quả chia sẻ dữ liệu và chương trình tự cài đặt của một người chết đi và một người sắp được sinh ra. Quá trình này đi kèm theo quá trình sóng sự sống và năng lượng sống. Tại sao có người nhớ được kiếp trước có người không nhớ được. - Nếu chia sẻ cả chương trình (tự cài đặt) và cả dữ liệu(thông tin kiếp trước) thì nhớ được kiếp trước - Nếu chỉ chia sẻ chương trình thì không nhớ được kiếp trước Ở đây có sự khác biệt giữa chia sẻ dữ liệu trong hai máy tính với chia sẻ dữ liệu giữa hai vật thể sống. Đối với máy tính một máy tính có thể chia sẻ dữ liệu chương trình với nhiều máy tính khác. Ở hiện tượng đầu thai khi có một nguồn thu thích hợp thì năng lượng sống tập trung toàn bộ vào nguồn thu đó, quá trình này diễn ra trong thời gian rất nhanh. Đó là quy luật tự nhiên như thế đến đức Phật Thích Ca Mâu Ly giác ngộ chân lý rốt ráo cũng còn phải thừa nhận đó là quá trình tự nhiên như thế. Hướng phát triển và phạm vi ảnh hưởng của giả thuyết trường sự sống 3.1 Hướng phát triển của giả thuyết trường sự sống Giả thuyết trường sự sống sẽ trở thành học thuyết trường sự sống. Học thuyết trường sự sống sẽ trở thành trụ cột thâu tóm nhiều học thuyết khác như yoga, khí công, chữa bệnh bẳng điểm huyệt, tìm mộ, chữa bệnh từ xa, xem bói, phong thủy..... tất cả các học thuyết, môn phái trên đều trở thành phân ngành học của lý thuyết này. Khoa học hiện nay gồm khoa học tự nhiên, khoa học xã hội, và khoa học tư duy. Tương lai sẽ có khoa học “Nhân Học’’ ra đời. Và lúc đó thì phân ngành sinh học mà đối tượng là con người sẽ trở về với khoa học Nhân Học. Ở giai đoạn cao của nhân học, con người có thể kết hợp lý thuyết về trường điện từ, trường hấp dẫn và Trường sự sống để có thể hiểu được bản chất của vũ trụ, của thời gian, và của con người cũng như các hiện tượng bí ẩn khác trong tự nhiên và xã hội. Lúc đó khoa học sẽ trả lời được những câu hỏi mà ngày nay khoa học vẫn chưa trả lời được. 3.2 Phạm vi ảnh hưởng Giả thuyết về trường sự sống có một ý nghĩa vô cùng to lớn là nó thông nhất tâm linh và khoa học thành một không còn sự đối lập giữa hai lĩnh vực này, đây là bước ngoặt lớn của khoa học. Đó là cơ sở để đặt dấu chấm hết cho hiện tượng mê tín. Tôn giáo tồn tại như là sản phẩm của lịch sử con người, của văn hoá. Tiềm năng của con người ngày càng được nghiên cứu và phát huy hơn nữa. Lúc đó con người sẽ có nhiều khả năng siêu phàm ví dụ có thể nhịn ăn nhiều ngày mà không đói, có thể nín thở nhiều phút mà không chết,… Giả thuyết về trường sự sống có phạm vi ảnh hưởng vô cùng to lớn đối với nhận thức của con người, đối với chính trị, kinh tế văn hóa xã hội và khoa học của toàn nhân loại. Kết Luận 1. Vũ trụ là một thể thống nhất. Dù vũ trụ mà ta đã biết có nằm trong một nguyển tử, một lỗ đen, lỗ đen đó lại nằm trong vũ trụ khác, hay có muôn vàn vũ trụ song trùng, vũ trụ vô hình hữu hình….thì đều gộp tất cả các vũ trụ đó thành một vũ trụ thống nhất. Cái thế giới gọi là thế giới tâm linh không phải là thế giới của ma quỷ thần linh, thế giới đó chỉ là bộ phận của vũ trụ mà chúng ta đang sống . Mọi sự vật, hiện tượng dù là vật chất hay ý thức, dù là hữu hình hay vô hình đều là sự vật hiện tượng trong vũ trụ thống nhất đó. Có linh hồn thì linh hồn đó cũng chỉ là sự vật trong vũ trụ chứ không thể là cái gì khác. Hiện tượng tâm linh cũng là hiện tượng trong vũ trụ, thế giới tâm linh cũng là thế giới trong vũ trụ. Bất cứ sự vật nào cũng có bản chất vật lý, bất kỳ hiện tượng nào cũng kèm theo quá trình năng lượng. 2. Thế giới gồm những vật thể có sự sống và những vật thể không có sự sống. Vật thể có sự sống thì có cảm nhận, vật thể không có sự sống thì không có cảm nhận. Vật thể có sự sống và vật thể không có sự sống, tương tác, trao đổi với nhau về năng lượng, về chất... Vật thể sống phát ra xung quanh một trường sự sống. Năng lượng của trường này gọi là năng lượng sống. Năng lượng sống đó có thể chuyển hóa cho thành các dạng năng lượng khác. Năng lượng sống này liên hệ với ý thức như thế nào cần phải được tiếp tục nghiên cứu làm rõ. Mọi hiện tượng tâm linh tạo ra từ nguồn năng lượng sống. Con người là cỗ máy tối tân nhất của vũ trụ. 3. Hiện tượng dùng ý thức bẻ cong thìa là hiện tượng chuyển hóa năng lượng sống thành cơ năng. Hiện tượng xem bói bằng ngoại cảm, tìm mộ là bản chất là hiện tượng truy cập thông tin sự sống. Hiện tượng nhịn ăn là do hấp thụ năng lượng sống. Hiện tượng luân hồi có bản chất là quá trình thu phát năng lượng sống,…. Đào Thanh Oai
    2 likes
  4. Quí vị và anh chị em thân mến. Thần chú Đại Bi là một trong những thần chú nổi tiếng của Phật Pháp và cùng với câu thần chú "Um ma ni pat mê hum" có những tác dụng vô biên với bản ngã. Tôi xin được chép vào đây trên nguồn Youtube để quí vị và anh chị em khi rảnh, hay trong những giây phút căng thẳng vì muôn nẻo chuyện đời có thể mở ra nghe và tịnh tâm thư giãn. Hy vọng sẽ giúp quí vị và anh chị em thân tâm an lạc, hướng tới một sự bình yên và hạnh phúc trong cuộc đời. "Vạn pháp duy tâm biến hiện" THẦN CHÚ ĐẠI BI THẦN CHÚ UM MA NI PAT ME HUM
    1 like
  5. Chú Đại Bi In Thiếu Trong Các Kinh Tụng Trong bài Chú Đại Bi hay Đại Bi Thần Chú, chúng tôi nhận thấy hầu hết kinh tụng chữ Việt ngày nay đều bị thiếu 5 âm Na ma bà tát đa (那摩婆萨多), Vấn đề này, chúng tôi đã có đề cập tới trong một bài viết cách nay hơn mười năm, nhưng bài viết ấy chưa được phổ biến rộng rãi, cho nên đến nay trên những kinh vẫn còn thiếu 5 chữ này.Để kiểm chứng lại, trước tiên chúng tôi lên Mạng, tìm nguyên bản chữ Phạn, bản phiên âm chữ Hán, để thấy những bản đó đã ghi đầy đủ. Chúng ta biết rằng Chú Đại Bi vốn lấy ra từ Kinh Thiên Thủ Thiên Nhãn Quán Thế Âm Bồ Tát Quảng Đại Viên Mãn Vô Ngại Đại Bi Tâm Đà Ra Ni, hiện nay chúng tôi tìm thấy có ba bản dịch Bản dịch của Hòa Thượng Thích Thiền Tâm, có thể xem tại: http://www.buddhismtoday.com/viet/niemphat/thienthuthiennhan.htm Bản bài giảng của Hòa Thượng Tuyên Hóa ở Vạn Phật Thánh Thành (chỉ có 5 phần, nên còn thiếu), có thể xem tại đây: http://www.dharmasite.net/daibidalani1.htm Bản dịch của Bồ Tát Giới Tại Gia, Ưu Bà Tắc Nguyên Thuận, có thể xem tại: http://dharmasound.net/Tripitaka/Viet/?f=Kinh-Thien-Thu-Thien-Nhan-Quan-The-Am-Bo-Tat-Quang-Dai-Vien-Man-Vo-Ngai-Dai-Bi-Tam-Da-La-Ni Ba Bản dịch này đều có đủ 5 âm nêu trên. Chúng tôi cũng tra cứu những kinh tụng in từ trước cho đến hiện nay, có ba loại: một loại có in bài Chú Đại Bi đầy đủ, một loại có in bài Chú Đại Bi nhưng thiếu 5 âm và một loại không có in bài Chú Đại Bi, cụ thể như sau: Chúng tôi có những Kinh, in Chú Đại Bi đầy đủ là: Kinh DI ĐÀ - HỒNG DANH – VU LAN - PHỔ MÔN, không thấy ghi tác giả, chỉ có ghi Pháp danh THIỆN HIỂN “Hộ Niệm” dưới có hàng chữ Kinh Này Ấn Tống (không được phép bán), In Tại Nhà In THẠNH MẬU 147 đường Quản Hạt số 1 GIA ĐỊNH (Có thể là đường Nơ Trang Long ngày nay ?). Quyển Kinh này trong phần Khai kinh có in ĐẠI BI CHÚ ở trang 9, có đủ 5 âm, mà những kinh khác sau này in thiếu: … Nam mô na ra cẩn trì, hê rị ma ha bàn đá sa mế, tát bà a tha đậu du bằng, a thệ dựng, tát bà tát đa, na ma bà tát đa, na ma bà dà. Ma phạt đạt đậu, … KINH THỦY SÁM, dịch giả THIỀU CHỬU, chùa ĐỨC HÒA, Suối Lồ Ồ, Biên Hòa Ấn Tống, in Phật Lịch 2514. NGHI THỨC TỤNG NIỆM, Chùa Việt Nam SEATTLE, in Phật Lịch 2532 – 1988 (Quyển này tái bản từ bản Kinh của Tổng Hội Phật Giáo Việt Nam, có thêm Hòa Thượng Thích Thiện Hòa chứng minh và thêm 5 âm thiếu của bản gốc) Những kinh in thiếu 5 âm trong Chú Đại Bi, chúng tôi có gồm: NGHI THỨC TỤNG NIỆM, của Tổng Hội Phật Giáo Việt Nam Xuất Bản, do Hội Phật Học Nam Việt Ấn Hành. Đây là quyển Kinh tái bản in chui sau nằm 1975, nên không có ghi năm in, và in tại nhà in nào, nhưng chắc chắn bản gốc in trước năm 1964, vì Tổng Hội Phật Giáo Việt Nam được thành lập từ năm 1951 đến cuối năm 1963. Bản này không rõ vị nào soạn nhưng được ghi chư Hòa Thượng chứng minh: Thích Tịnh Khiết, Thích Giác Nhiên, Thích Khánh Anh, Thích Giác Nguyên. TỪ BI TAM MUỘI THỦY SÁM, dịch giả Thích Huyền Dung, Thích Tuệ Hải xuất bản, in Phật lịch 2506 - 1962 KINH NHỰT TỤNG, in Phật Lịch 2531 và quyển khác in Phật Lịch 2533, cả hai quyển này dành cho tu sĩ, ngoài Nghi thức Hồng Danh Sám Hối, Cầu An, Cầu Siều, Vu Lan, còn có Công Phu Khuya, An Vị Phật, Quá Đường, Cúng Ngọ, Phóng Sanh … NGHI THỨC TỤNG NIỆM, Chùa Vĩnh Nghiêm, Pamona, Cali, in Phật Lịch 2530 - 1986 KINH LƯƠNG HOÀNG SÁM , Trí Quang dịch, Phật Học Viện Quốc Tế Xuất Bản, in Phật Lịch 2534 – 1990 CỐT TỦY NGHI LỄ PHẬT GIÁO, soạn giả Thích Tín Nghĩa, Hội Phật Giáo Ba La Mật in Phật lịch 2535 – 1991 NGHI THỨC TỤNG NIỆM, Của Gia Đình Phật Tử, NXBTPHCM, in năm 1998. Những kinh tụng in không có bài Chú Đại Bi, như: ĐỊA TẠNG BỒ TÁT BỔN NGUYỆN, Thích Trí Tịnh, Nhà in Sen Vàng tái bản, in năm 1967 KINH PHÁP HOA, Thích Trí Tịnh, Phật Học Viện Quốc Tế Xuất Bản, in Phật Lịch 2537 – 1993 ĐẠI PHƯƠNG QUẢNG PHẬT HOA NGHIÊM KINH, Thích Trí Tịnh, THPGTPHCM, in Phật lịch 2538 – 1994 Theo sự phân chia bài Chú thành 84 hàng thì hàng thứ 16 bản phiên âm chữ Việt thiếu 5 âm so với các bản dịch và các bản Kinh tụng xưa. ......................... 12.Nam mô na ra cẩn trì 13.Hê rị, ma ha bàn đa sa mế 14.Tát bà a tha đậu du bằng 15.A thệ dựng 16.Tát bà tát đa Na ma bà tát đa 17.Na ma bà dà 18.Ma phạt đạt đậu đát điệt tha ........................ Câu hỏi đặt ra là vì sao bài Chú in thiếu ? Chúng ta nên nhớ rằng trước khi có máy vi tính, muốn in một bản văn, người ta phải sắp chữ - chữ được đúc chì từng mẫu tự, những mẫu tự nào có dấu, chẳng hạn như á, ạ, ã, ă, â, ắ, ằ … đều phải đúc riêng như một mẫu tự hay phụ âm - sắp chữ là lấy những mẫu tự cái hay có dấu và phụ âm xếp thành chữ đặt vào khung, sau khi xếp chữ vào khung thành bản văn, từ khung đó đặt vào máy in, đó là in thường hoặc từ bản in thường thưòng người ta chụp hình làm ra phim rồi làm bản kẻm để in typo (mỗi lần in một màu) hay in offset (một lần in nhiều màu). Do từ bản in sai đầu tiên, những bản sau người ta sắp chữ theo đó rồi in sai theo hoặc những bản sau do chụp ảnh làm bản kẽm từ bản sai nên in sai. Nguyên do có thể vì tin vào bản của Tổng Hội Phật Giáo Việt Nam là đúng là mẫu mực đã được bốn vị Hòa Thượng chứng minh, nhất là trong đó có Hòa Thượng Thích Tịnh Khiết, Hội Chủ Tổng Hội Phật Giáo Việt Nam, do vậy mà đã bị sai dây chuyền. Chúng tôi viết bài này, mong được sự quan tâm của chư Tôn đức Tăng, Ni quý Cư sĩ in ấn Kinh, quan tâm bổ khuyết cho sự thiếu sót kể trên, để những bản kinh in sau này đúng với nguyên bản, kinh điển được in trang trọng hơn, không bị nạn “tam sao thất bổn” như trong thời gian qua. Bởi vì Chú Đà La Ni là câu nói phát ra từ sự tu thiền định của chư Phật và Bồ Tát, đó là định lực của chư Phật và Bồ Tát để hộ trì cho người trì tụng chú, cho nên không thể thiếu được. Và chúng tôi cũng kèm theo những bản Chú, đã tìm thấy trên các Trang Mạng để quý vị độc giả khỏi phải tìm kiếm. (còn tiếp)
    1 like
  6. Dự đoán tuổi Mèo năm Tân Mão Tháng 8, tháng 10 và tháng 12, tình hình tài chính được cải thiện, may mắn mỉm cười giúp bạn có thêm nhiều khoản lợi nhuận bất ngờ. Sôi nổi, đáng yêu và giàu nữ tính, những cá nhân tuổi Mèo (tuổi Thỏ theo quan niệm của người Trung Quốc) luôn tạo cho đối phương cảm giác ấm áp, dễ chịu khi tiếp xúc. Tính cách bí ẩn, dễ thay đổi song những bạn tuổi Mèo luôn là trung tâm của mọi sự chú ý - điều mà họ yêu thích. Với bạn bè, họ là những chủ nhà vui vẻ và nhiệt tình, dù đôi khi họ tỏ ra cẩn thận quá mức và khiến người khác thấy tẻ nhạt. Với tính cách như vậy, các chú mèo luôn được đánh giá là gặp nhiều may mắn hơn so với các tuổi khác. Cũng giống như tuổi Tý, Dần, đây là năm mà các chú mèo gặp phải một vài khó khăn trong công việc - do tác động từ một vài chòm sao xấu. Tuy nhiên, sự giúp đỡ kịp thời có thể giúp bạn vượt qua khó khăn, áp lực. Tinh thần xáo trộn, dễ nóng nảy chính là nguyên nhân dẫn đến cãi vã, và vì thế, lời khuyên cho bạn là cố gắng tạo cho mình tâm lý tích cực, mạnh mẽ, đồng thời cải thiện kỹ năng giao tiếp cộng đồng. Về sự nghiệp Đây là một năm mà sự nghiệp của các chú Mèo sẽ không có thay đổi đáng kể nếu bạn không mạnh dạn, hoạt bát. Bên cạnh việc gặp nhiều áp lực, quan hệ của bạn với sếp hoặc đồng nghiệp cũng không tốt đẹp, cãi vã dễ xảy ra làm rạn nứt tình cảm giữa hai phía. Để cải thiện tình trạng này, thái độ kiềm chế, làm việc cẩn trọng là giải pháp an toàn cho bạn, đây còn là chìa khóa giúp bạn chinh phục mọi người và nắm được vị trí quan trọng trong công sở. Trong chặng đường sự nghiệp của 2011, bạn sẽ gặp được quý nhân phù trợ để vượt qua chướng ngại vật, tuy nhiên để đi đến thành công, trong mỗi công việc được giao, hãy thực hiện từng bước một thật chậm rãi, chắc chắn. Đây cũng là thời điểm hợp lý để bạn cân nhắc thay đổi công việc. Tháng 3 tới tháng 5, hoặc tháng 10 tới tháng 12 chính là thời điểm đẹp nhất cho dự định này. Ngoài ra, lời khuyên cho bạn là nên thận trọng khi chọn lựa đối tác làm ăn. Về tài chính Ảnh hưởng của các sao xấu khiến bạn có một năm làm ăn không mấy thuận lợi, thậm chí có thể dẫn đến vướng mắc tài chính nếu không thận trọng. Với các bạn kinh doanh, hãy cân nhắc kỹ trước khi đầu tư, tuyệt đối không đảm nhận vai trò người bảo lãnh, đặc biệt với việc đầu tư lớn là sự mạo hiểm nhiều rủi ro. Tháng 8, tháng 10 và tháng 12, tình hình tài chính được cải thiện, may mắn mỉm cười giúp bạn có thêm nhiều khoản lợi nhuận bất ngờ, nhiều khả năng bạn còn được nhận quà giá trị từ bạn bè, người thân ở xa. Về tình cảm Dù bạn đã kết hôn hay còn đang cô đơn thì khả năng có một năm “xuôi chèo mát mái” cũng không được như mong đợi. Với những người đang tìm kiếm một nửa, dù rất nhiều cơ hội gặp gỡ tìm đến thì rốt cuộc bạn vẫn rất chật vật để có được người yêu. Với những người đã có đôi, tâm tính nóng nảy khiến cả hai hay cãi vã, gia đình lục đục, thậm chí còn có sự xuất hiện của người thứ ba làm hạnh phúc rạn nứt. Về sức khỏe Sức khỏe của các chú Tiểu Hổ năm nay cũng không được sung mãn, cần điều chỉnh chế độ ăn uống hợp lý và đề phòng các bệnh liên quan đến dạ dày, tiêu hóa. Tránh sử dụng các vật dụng kim loại, khi tâm lý không thoải mái bạn cũng không nên lái xe. Stress, lo lắng có thể làm tiêu hao sinh lực của bạn, vì thế hãy nghỉ ngơi, thư giãn và đừng quên gọi điện cho bạn bè, người yêu để tìm kiếm sự động viên trong những khoảng thời gian mệt mỏi. Bùa may mắn: Đá: Ngọc trai Giờ may mắn: 5 tới 7h sáng Mùa may mắn: mùa xuân Màu may mắn: Màu xám, trắng Theo Nguyễn Hương Ngoi sao
    1 like
  7. Chất Hóm Hỉnh Trong Ca Dao Tình Yêu Nam Bộ Sự mộc mạc hồn nhiên ở từ ngữ, cách thể hiện dung dị và ngộ nghĩnh gây nên những bất ngờ thú vị là chất hóm hỉnh thường thấy trong ca dao tình yêu Nam Bộ. Đó cũng là biểu hiện tính cách đặc trưng của người dân nơi đây. Trước hết là chất hóm hỉnh không cố tình, không dụng công, toát ra một cách tự nhiên qua những từ ngữ mộc mạc; không hề chau chuốt chân thật đến độ người nghe phải bật cười. Một anh chàng quá đỗi si tình đã trở thành "liều mạng": "Dao phay kề cổ, máu đổ không màng Chết thì chịu chết, buông nàng anh không buông" Một cô nàng thật thà cả tin đã giật mình "hú vía" vì kịp thời nhận ra "chân tướng" đối tượng: "May không chút nữa em lầm Khoai lang khô xắt lát em tưởng Cao Ly sâm bên Tàu" Có những nỗi niềm tương tư ấp ủ trong lòng, nhưng cũng có khi người ta không ngại ngần thổ lộ trực tiếp với bạn tình: "Tôi xa mình hổng chết cũng đau Thuốc bạc trăm không mạnh, mặt nhìn nhau mạnh liền" Họ là những người lao động chân chất, nên cũng bày tỏ tình cảm với nhau bằng thứ khẩu ngữ thường ngày không chưng diện, màu mè, tuy vậy, cái tình trong đó cũng mãnh liệt và sâu sắc. Đây là lời tâm sự của một anh chàng đêm hôm khuya khoắt lặn lội đi thăm người yêu: "Thương em nên mới đi đêm Té xuống bờ ruộng đất mềm hổng đau May đất mềm nên mới hổng đau Phải mà đất cứng ắt xa nhau phen này" Chàng thật thà chất phác, nhưng mà cũng có chút ranh ma đấy chứ? Chất hóm hỉnh đã toát ra từ cái "thật thà tội nghiệp". Nhưng phần lớn vẫn là sự hóm hỉnh mang tính chất đùa nghịch. Một chàng trai đã phóng đại nỗi nhớ người yêu của mình bằng cách so sánh ví von trào lộng: "Vắng cơm ba bữa còn no Vắng em một bữa giở giò không lên" Nỗi vấn vương tơ tưởng đi vào tận giấc ngủ khiến chàng trở nên lú lẫn một cách buồn cười: "Phòng loan trải chiếu rộng thình Anh lăn qua đụng cái gối, tưởng bạn mình, em ơi!" Nhưng cái độc đáo là ở đây nỗi niềm đó lại được bộc lộ một cách hài hước: "Tôi xa mình ông trời nắng tôi nói mưa Canh ba tôi nói sáng, giữa trưa tôi nói chiều" Có một chút phóng đại làm cho lời nói nghe hơi khó tin! Nhưng hề gì. Chàng nói không phải cốt để đối tượng tin những điều đó là sự thật mà chỉ cốt cho nàng thấu hiểu tấm tình si của mình. Nàng bật cười cũng được, phê rằng "xạo" cũng được, miễn sao hiểu rằng mình đã phải ngoa ngôn lên đến thế để mong người ta rõ được lòng mình. Lại có một chàng trai đang thời kỳ tiếp cận đối tượng, muốn khen cô nàng xinh đẹp, dễ thương mà khó mở lời trực tiếp. Để tránh đột ngột, sỗ sàng, chàng đã nghĩ ra một con đường vòng hiếm có: "Trời xanh bông trắng nhụy huỳnh Đội ơn bà ngoại đẻ má, má đẻ mình dễ thương". Mục đích cuối cùng chỉ đơn giản là khen "mình dễ thương" mà chàng đã vòng qua năm non bảy núi. Bắt đầu từ thế giới tự nhiên - trong thế giới tự nhiên lại bắt đầu từ ông trời - tạo hóa sinh ra những loại cây, hoa đẹp đẽ - rồi mới bước qua thế giới của loài người - trong thế giới loài người lại từ hiện tại ngược dòng lịch sử để bắt đầu từ tổ tiên ông bà, tới thế hệ cha mẹ, rồi tới nhân vật chính - "mình". Thật là nhiêu khê, vòng vo tam quốc làm cho đối tượng hoàn toàn bất ngờ. Những lời ngộ nghĩnh kia dẫn dắt tới sự hiếu kỳ háo hức muốn biết "chuyện gì đây", cho đến khi cái kết cục thình lình xuất hiện làm cho cô nàng không kịp chống đỡ... Nhưng mà nó thật êm ái, thật có duyên biết bao, nên dù phải đỏ mặt, cô hẳn cũng vui lòng và không thể buông lời trách móc anh chàng khéo nịnh! Ngược lại, cũng có những lời tỏ tình khá táo bạo, sỗ sàng, nhưng hình ảnh thì lại hết sức ngộ nghĩnh, dí dỏm: "Con ếch ngồi dựa gốc bưng Nó kêu cái "quệt", biểu ưng cho rồi" Những người nghe câu "xúi bẩy" này không thể không bật cười, còn đối tượng xúi bẩy cùng lắm cũng có thể tặng cho người xúi có phần trơ tráo kia một cái nguýt dài. Những câu ca dao hóm hỉnh không chỉ bật lên từ tâm trạng đang vui, tràn đầy hy vọng, có khi "rầu thúi ruột" mà họ vẫn đùa. Những trắc trở trong tình yêu nhiều lúc được trào lộng hóa để ẩn giấu nỗi niềm của người trong cuộc: "Thác ba năm thịt đã thành bùn Đầu thai con chim nhạn đậu nhánh tùng chờ em" Quả là "khối tình thác xuống tuyền đài chưa tan", nên chàng lại quyết tâm chờ tiếp ở kiếp sau cho đến khi nào nên duyên nên nợ. Kiên nhẫn đến thế là cùng! Khi chàng trai cố gắng đến hết cách vẫn không cưới được người mình yêu, không biết trút giận vào đâu, bèn đổ lỗi cho một nhân vật tưởng tượng: "Quất ông tơ cái trót Ổng nhảy tót lên ngọn cây bần Biểu ông xe mối chỉ năm bảy lần, ổng không xe" Thái độ quyết liệt trong tình yêu lắm lúc được thể hiện đầy ấn tượng. Anh chàng hay cô nàng trong câu ca dao dưới đây đã xem cái chết nhẹ như lông hồng. Thà chết còn hơn là lẻ bạn! "Chẳng thà lăn xuống giếng cái "chũm" Chết ngủm rồi đời Sống chi đây chịu chữ mồ côi Loan xa phượng cách biết đứng ngồi với ai?" Có chàng trai thì quyết tâm đem tuổi thanh xuân gửi vào cửa Phật: "Nếu mà không lấy đặng em Anh về đóng cửa cài rèm đi tu" Chàng vừa muốn tỏ lòng mình vừa muốn thử lòng người yêu. Và cô nàng cũng tỏ ra quyết tâm không kém. Chàng đi đến đâu nàng theo đến đó để thách thức cùng số phận: "Tu đâu cho em tu cùng May ra thành Phật thờ chung một chùa" Bằng câu đùa dí dỏm của mình, cô nàng đã làm nhẹ hẳn tầm nghiêm trọng của vấn đề trong tư tưởng anh chàng và cũng hóa giải tâm tư lo âu, phiền muộn của chàng - "Có gì đáng bi quan đến thế? Cái chính là em vẫn giữ vững lập trường" - đồng thời cũng hàm thêm chút chế giễu - "Mà có chắc là tu được không đấy?". Khi yêu, nhiều cô gái cũng mạnh dạn bày tỏ tình cảm của mình không kém các chàng trai. "Phải chi cắt ruột đừng đau Để em cắt ruột em trao anh mang về" Không tiếc cả thân thể, sinh mạng của mình, nhưng cô gái chỉ... sợ đau, thật là một cái sợ đầy nữ tính rất đáng yêu. Hay khi chàng trai muốn liều mình chứng tỏ tình yêu, nhưng cũng lại "nhát gan" đến bật cười: "Gá duyên chẳng đặng hội này Tôi chèo ghe ra sông cái, nước lớn đầy... tôi chèo vô" Tinh nghịch, hóm hỉnh những lúc đùa vui và cả những khi thất vọng, đó là vũ khí tinh thần của người lao động để chống chọi những khắc nghiệt của hoàn cảnh. Những chàng trai, cô gái đất phương Nam đã lưu lại trong lời ca câu hát cả tâm hồn yêu đời, ham sống, hồn nhiên của họ trên con đường khai mở vùng đất mới của quê hương tiếp nối qua bao thế hệ - Đó là tinh thần phóng khoáng, linh hoạt, dày dạn ứng biến của những con người "Ra đi gặp vịt cũng lùa; Gặp duyên cũng kết, gặp chùa cũng tu"...
    1 like
  8. Huynh bào VCD nên anh em tuy giỏi giang mà khó giúp gì cho nhau hoặc phải có một người tật bệnh hoặc yểu tử, cung phụ mẫu có mẹ chắc cũng không được khỏe, khắc con cái được cái số cậu tốt phúc nhưng nên lấy vợ muộn một chút nếu lấy trước tuổi 30 sẽ bị hình khắc
    1 like
  9. 1 like
  10. Chú Đại Bi Tiếng Phạn (Sankrit) Trang Web: http://quantheambotat.com/Có tổng cộng 84 hàng1. Namah Ratnatrayaya. 2. Namo Arya- 3. VaLokitesvaraya. 4. Bodhisattvaya 5. Mahasattvaya. 6. Mahakaruniakaya. 7. Om. 8. Sarva Rabhaye. 9. Sudhanadasya. 10.Namo Skrtva i Mom Arya- 11.Valokitesvara Ramdhava. 12.Namo Narakindi. 13.Herimaha Vadhasame. 14.Sarva Atha. Dusubhum. 15.Ajeyam. 16.Sarva Sadha. 17.Namo Vaga. 18.Mavadudhu. Tadyatha. 19.Om. Avaloki. 20.Lokate. 21.Karate. 22.Ehre. 23.Mahabodhisattva. 24.Sarva Sarva. 25.Mala Mala 26.Mahe Mahredhayam. 27.Kuru Kuru Karmam. 28.Dhuru Dhuru Vajayate. 29.Maha Vajayate. 30.Dhara Dhara. 31.Dhirini. 32.Svaraya. 33.Cala Cala. 34.Mamavamara. 35.Muktele. 36.Ehe Ehe. 37.Cinda Cinda. 38.Arsam Pracali. 39.Vasa Vasam 40.Prasaya. 41.Huru Huru Mara. 42.Huru Huru Hri. 43.Sara Sara. 44.Siri Siri. 45.Suru Suru. 46.Bodhiya Bodhiya. 47.Bodhaya Bodhaya. 48.Maitriya. 49.Narakindi. 50.Dharsinina. 51.Payamana. 52.Svaha. 53.Siddhaya. 54.Svaha. 55.Maha Siddhaya. 56.Svaha. 57.Siddhayoge 58.Svaraya. 59.Svaha. 60.Narakindi 61.Svaha. 62.Maranara. 63.Svaha. 64.Sirasam Amukhaya. 65.Svaha. 66.Sarva Maha Asiddhaya 67.Svaha. 68.Cakra Asiddhaya. 69.Svaha. 70.Padmakastaya. 71.Svaha. 72.Narakindi Vagaraya. 73.Svaha 74.Mavari Samkraya. 75.Svaha. 76.Namah Ratnatrayaya. 77.Namo Arya- 78.Valokites- 79.Varaya 80.Svaha 81.Om. Siddhyantu 82.Mantra 83.Padaya. 84.Svaha. Thiên thủ thiên nhãn vô ngại đại bi tâm đà la ni http://www.chudaibi.com/ 1. Nam mô hắc ra đát na đa ra dạ da 2. Nam mô a rị da 3. Bà lô yết đế thước bát ra da 4. Bồ Đề tát đỏa bà da 5. Ma ha tát đỏa bà da 6. Ma ha ca lô ni ca da 7. Án 8. Tát bàn ra phạt duệ 9. Số đát na đát tỏa 10.Nam mô tất kiết lật đỏa y mông a rị da 11.Bà lô kiết đế thất Phật ra lăng đà bà 12.Nam mô na ra cẩn trì 13.Hê rị, ma ha bàn đa sa mế 14.Tát bà a tha đậu du bằng 15.A thệ dựng 16.Tát bà tát đa (Na ma bà tát đa) 17.Na ma bà dà 18.Ma phạt đạt đậu đát điệt tha 19.Án. A bà lô hê 20.Lô ca đế 21.Ca ra đế 22.Di hê rị 23.Ma ha bồ đề tát đỏa 24.Tát bà tát bà 25.Ma ra ma ra 26.Ma hê ma hê rị đà dựng 27.Cu lô cu lô yết mông 28.Độ lô đồ lô phạt xà da đế 29.Ma ha phạt xà da đế 30.Đà ra đà ra 31.Địa rị ni 32.Thất Phật ra da 33.Giá ra giá ra 34.Mạ mạ phạt ma ra 35.Mục đế lệ 36.Y hê di hê 37.Thất na thất na a 38 Ra sâm Phật ra xá lợi 39.Phạt sa phạt sâm 40.Phật ra xá da 41.Hô lô hô lô ma ra 42.Hô lô hô lô hê rị 43.Ta ra ta ra 44.Tất rị tất rị 45.Tô rô tô rô 46.Bồ Đề dạ Bồ Đề dạ 47.Bồ đà dạ bồ đà dạ 48.Di đế rị dạ 49.Na ra cẩn trì 50.Địa rị sắc ni na 51.Bà dạ ma na 52.Ta bà ha 53.Tất đà dạ 54.Ta bà ha 55.Ma ha tất đà dạ 56.Ta bà ha 57.Tất đà dũ nghệ 58.Thất bàn ra dạ 59.Ta bà ha 60.Na ra cẩn trì 61.Ta bà ha 62.Ma ra na ra 63.Ta bà ha 64.Tất ra tăng a mục khê da 65.Ta bà ha 66.Ta bà ma ha a tất đà dạ 67.Ta bà ha 68.Giả kiết ra a tất đà dạ 69.Ta bà ha 70.Ba đà ma kiết tất đà dạ 71.Ta bà ha 72.Na ra cẩn trì bàn đà ra dạ 73.Ta bà ha 74.Ma bà rị thắng yết ra dạ 75.Ta bà ha 76.Nam mô hắc ra đát na đa ra dạ da 77.Nam mô a rị da 78.Bà lô kiết đế 79.Thước bàn ra dạ 80.Ta bà ha 81.Án. Tất điện đô 82.Mạn đà ra 83.Bạt đà gia 84.Ta bà ha nguồn chanhhanh.com
    1 like
  11. Bản đồ được phân cung theo Bát Trạch Lạc Việt.
    1 like
  12. ================================ Nhời bàn của Thiên Sứ: Qua bài viết trên, chúng ta hoàn toàn có cơ sở để nhận thấy rằng: Những chu kỳ vận động của vũ trụ ảnh hưởng sâu sắc tới khí hậu trên trái Đất.Tất nhiên, những chu kỳ này - về trực quan nhận thức thì có thể nói rằng: ảnh hưởng gián tiếp đến sự thay đổi bộ mặt xã hội con người - được mô tả rất kỹ trong các cổ thư Đông phương với những hậu quả có tính tiên tri của nó liên quan đến các diễn biến thiên nhiên, xã hội và con người. Những tổng kết khoa học của bài viết trên hé mở điều này và đã được tổng kết sâu sắc trong tri thức Lý học Đông phương. Những năm gần đây, khí hậu ngày càng khắc nghiệt, tất nhiện hậu quả tiếp theo là xã hội loài người ngày càng nhiều biến động. Trong bài viết có nội dung dự báo mang tính tham khảo của một thành viên trong Trung tâm do chị Wildlavender đưa lên trong topic này, xác định: Thiên tai rất nặng nề trong năm 2011. Cá nhân tôi vẫn đang cân nhắc với ý niệm cho rằng: Những hậu quả thiên tai có tính tiên tri trong bài viết đó, có thể là một quá trình kéo dài trong ba năm từ Tân Mão đến hết Quý Tỵ theo Việt lịch. Không dám tự cho là đúng. Xin được ý kiến nhận xét của các cao thủ.
    1 like
  13. Lá số đẹp tướng tốt nhưng huynh bào không mấy tốt
    1 like
  14. Sự khác biệt giữa nghiệp và số mệnh ? Đời sống của con người vốn rất đa dạng, muôn màu và vô cùng sai biệt. Mỗi cá nhân có một cấu trúc tâm sinh lý và hoàn cảnh, điều kiện sống hoàn toàn khác biệt nhau. Cùng là con người, nhưng có sự bất đồng rõ rệt giữa giàu nghèo, xấu đẹp, khoẻ mạnh và đau yếu, trường thọ và chết yểu, thành công và thất bại, hạnh phúc và khổ đau… Để trả lời câu hỏi nhân sinh vĩ đại này, các tôn giáo và triết học đều có những kiến giải theo quan niệm của riêng mình. Phật giáo giải thích căn nguyên của sự dị biệt đó bằng thuyết Nghiệp hoàn toàn khác biệt với quan niệm Số mệnh của Nho giáo. Số mệnh hay số phận là quan niệm của các trường phái triết học như Túc mệnh luận, Định mệnh luận và Thiên mệnh luận của Nho giáo. Túc mệnh luận cho rằng, mỗi con người đều có một số mệnh do quá khứ an bài và xếp đặt. “Nhất động nhất tác giai do tiền định”, mỗi cử chỉ, mỗi động tác đều được quyết định trước ở quá khứ. Mọi cố gắng hay nỗ lực của con người đều vô ích. Định mệnh luận có cùng quan niệm như Túc mệnh luận nhưng cường điệu hơn tính chất bất khả kháng của số mệnh. Số mệnh là quyết định, không thể thay đổi, phủ nhận hoàn toàn mọi nỗ lực cá nhân. Thiên mệnh luận của Nho giáo quan niệm Thiên mệnh có nhiều nghĩa. Thiên mệnh là Thiên đạo, tức đạo Trời. Ông Trời quy định cho mỗi cá nhân một số mệnh. Con người không thể cãi lại mệnh Trời, “ Trời kêu ai người nấy dạ”. Mọi cố gắng của con người không ngoài ý Trời. Nếu hiểu Thiên mệnh theo cách này thì Thiên mệnh luận gần với Thần ý luận của các tôn giáo sùng kính Thượng đế. Tuy nhiên, Thiên mệnh hay Thiên đạo còn được hiểu là luật tắc của tự nhiên (Khổng Tử ), là nguyên lý vận hành và biến hoá của tự nhiên (Chu Hy), thì quan niệm này không phải Số mệnh luận. Như vậy, số mệnh hay số phận dù theo Túc mệnh luận, Định mệnh luận hoặc Thiên mệnh luận đều có chung tính chất tiêu cực, thụ động, cứng nhắc và triệt tiêu mọi nỗ lực cải tạo, hướng thiện của con người. Con người đã có một số mệnh, được an bài, định đoạt ở quá khứ hoặc bị quyết định bởi ý chí của một đấng siêu nhiên. Khi đã an phận vào số phận, con người xuôi tay cho số phận đẩy đưa, phó mặc cho số mệnh quyết định. Phật giáo không chủ trương và không chấp nhận số mệnh. Con người hiện hữu và tồn tại với các đặc tính khác nhau là kết quả của Nghiệp được tạo tác bởi chính họ trong hiện tại và quá khứ. “Con người là chủ nhân của Nghiệp, là kẻ thừa tự Nghiệp…” ( Kinh Tiểu Nghiệp Phân Biệt – Trung Bộ III ). Nghiệp là hành động có tác ý, hay hành động phát sinh từ tâm được thể hiện qua hành động (Thân nghiệp), ngôn ngữ (Khẩu nghiệp) và tư duy (Ý nghiệp). Nghiệp lực là sức mạnh của Nghiệp, là động lực thúc đẩy, dẫn dắt để hình thành một thân phận chúng sanh. Nghiệp do mình tạo ra rồi trở lại chi phối chính mình. Nghiệp có nhiều loại, mỗi loại có một tính chất và công năng khác nhau. Hai loại Nghiệp chính thường được đề cập là Dẫn nghiệp và Mãn nghiệp. Dẫn nghiệp là Nghiệp do con người tạo ra trong đời sống hiện tại hay quá khứ thông qua thân, khẩu và ý hoặc thiện hoặc ác, để rồi chính Nghiệp này dẫn dắt con người ấy sanh vào một trong sáu nẻo của Lục đạo ( Trời, Người, A tu la, Súc sanh, Ngạ quỷ và Địa ngục ). Phạm tội Ngũ nghịch thì bị đoạ vào A tỳ địa ngục hoặc tu tập Thập thiện thì sanh vào cõi Trời hay tu tập Ngũ giới sẽ sanh vào cõi Người… Tuy nhiên, cùng là người nhưng có người khỏe mạnh, người lại ốm đau; người đẹp, kẻ xấu; người này sang trọng, người kia lại nghèo hèn vv… tất cả những sai biệt ấy là quả báo của Mãn nghiệp. Con người tạo ra Nghiệp lại không trốn thoát những Nghiệp do mình tạo ra. Nhưng Nghiệp không phải là Định mệnh hay Số mệnh. Điểm khác nhau cơ bản giữa Nghiệp và Số mệnh ở chỗ, Nghiệp do chính con người tác tạo, có tính chất duyên sinh, bất định tính và vô ngã nên Nghiệp có thể chuyển hoá được. Do đó, con người có thể thay đổi, chuyển hoá Nghiệp báo của chính mình từ xấu thành tốt, từ ác thành thiện hoặc ngược lại. Năng lực chuyển hoá Mãn nghiệp trở thành tốt hơn hoặc xấu đi được gọi là Năng tiêu nghiệp. Tác dụng của Năng tiêu nghiệp trong đời sống hiện tại rất lớn. Một người có tư chất thông minh và cơ thể khỏe mạnh là kết quả của Mãn nghiệp. Thế nhưng, người ấy không lo học tập, rèn luyện thân thể lại còn sống buông thả, đắm say tửu sắc, ma tuý. Kết quả từ chỗ khỏe mạnh anh ta trở nên ốm yếu, tiều tụy; từ chỗ thông minh thành ra ngu đần, thác loạn. Năng tiêu nghiệp đã làm tiêu hủy Nghiệp tốt của người này. Ngược lại, một người với quả báo Mãn nghiệp có cơ thể ốm yếu, tật bệnh nhưng nhờ biết giữ gìn sức khỏe, luyện tập dưỡng sinh, ăn uống điều độ, làm việc giờ giấc, người này vẫn khỏe mạnh, chiến thắng bệnh tật, thậm chí còn trường thọ. Bác sỹ Nguyễn Khắc Viện chỉ có một phần ba lá phổi màvẫn làm việc bình thường, trường thọ (80 tuổi) là một điển hình của Năng tiêu nghiệp theo hướng tích cực. Đối với Dẫn nghiệp, một loại Nghiệp có cường độ mạnh trong việc quyết định hướng tái sanh nhưng vẫn chuyển hoá được. Trong sách Đồng Mông Chỉ Quán, ngài Trí Giả đại sư có kể chuyện một Sa Di yểu mạng nhưng nhờ cứu sống một đàn kiến nên được chuyển Nghiệp. Đáng lẽ, vị Sa Di này phải chết trong vòng một tuần lễ lại được sống an ổn, trường thọ. Năng lực chi phối Dẫn nghiệp là Năng huỷ nghiệp. Một người thọ mạng vẫn còn, nghiệp lực của Dẫn nghiệp (Tái sanh nghiệp) vẫn còn nhưng vì người này trong đời trước hoặc ngay trong đời này đã tạo ra những Nghiệp cực mạnh, có khả năng tiêu hủy đời sống của họ, khiến họ có thể mất mạng như thường. Đó là những trường hợp đột tử, bất đắc kỳ tử, tai nạn. Đây không phải là số mệnh, định mệnh hay tới số, tận số. Phật giáo gọi là Nghiệp, tác động của Năng hủy nghiệp đã tiêu hủy một Dẫn nghiệp được tạo ra trước đó, chấm dứt một đời sống. Năng hủy nghiệp trong trường hợp này giống như cơn gió thổi tắt đèn trong khi đèn vẫn còn dầu và bấc. Tóm lại, Nghiệp là một phạm trù triết học lớn trong hệ thống giáo lý Phật giáo không thể phân tích hết trong mục Hỏi – Đáp này. Nghiệp theo Phật giáo là một cơ chế vận hành của đời sống được khám phá bởi tuệ giác của Đức Phật chứ không phải một tín ngưỡng vu vơ, siêu hình và hoàn toàn khác biệt với quan niệm Số mệnh của Nho giáo. Nghiệp do con người tạo ra trong quá khứ và từng phút từng giây trong hiện tại bằng ba con đường thân, miệng và ý rồi trở lại chi phối chính người ấy. Nghiệp tuy có năng lực mạnh mẽ, chi phối và quyết dịnh đời sống của chúng sanh trong hiện tại và tương lai nhưng Nghiệp không có định tính, vô ngã. Nghiệp có thể chuyển hoá và thay đổi được thông qua nỗ lực tu tập của cá nhân, chứ không cứng nhắc, tiêu cực như Số mệnh. Thuyết Nghiệp rất tích cực, khoa học và công bằng. Nó tôn vinh trách nhiệmvà giá trị con người, thúc đẩy con người hướng thiện, sống đạo đức, theo lẽ phải. Thuyết Nghiệp khích lệ con người hành động và tiến bộ, hoàn toàn vắng mặt bóng dáng tiêu cực, yếm thế. Đó là nét đặc sắc của giáo lý Nghiệp và là điểm khác biệt cơ bản nhất của quan niệm Nghiệp và Số mệnh. Tổ Tư Vấn Giacngovn.com
    1 like
  15. Đại Phúc cứ hỏi đùa thế! Thấy ĐP mới có làm quen với LVDT từ tháng 10/2010 mà độn quẻ, luận quẻ cứ như cháo chảy. Rồi phân tích chứng khoán, TA, FA... làu làu. Quả thực là rất khâm phục sự tiếp thu kiến thức quá nhanh của ĐP. Chắc hẳn ĐP phải có 1 bộ vi xử lý với các vấn đề cực nhạy. ĐP hỏi mình như vậy chắc hỏi chơi mình rồi :D
    1 like
  16. Hồ Sơ Tuyệt Chiêu thứ 2 : "Không có khái niện Dụng thần thay đổi - của Đoàn Kiến Nghiệp" (trước tôi viết nhầm là Đoàn Viết Hoạt), Chủ đề: “Tạp lục về tử bình” của Phieu Dieu trong mục Tử Bình bên tuvilyso.net Đoàn Kiến Nghiệp đã viết: “Hắn sanh vào ngày AL 23/8/1964 giờ thân, bát tự là: Giáp Thìn - Quý Dậu - Canh Thìn - Giáp Thân Đại vận: Giáp tuất (3)/ ất hợi (13)/ bính tý (23)/ đinh sửu (33) Ta đối với mệnh này nghiệm lý hơn 5 năm, vẫn không tìm ra được giải thích. Lúc đầu ta mê hoặc hiểu lầm là: Mệnh này thân cường, có thủy tiết, nên xem là thân vượng có tiết, dụng thần ắt là thủy. Đến vận Bính Tý, chi tý quản 5 năm; thân tý thìn hợp thủy cục, ứng là đại cát, thực tế vận này hắn ta không kiếm được tiền mà còn bị ngồi tù vài lần. Vì vậy, ta hỏi qua các cao thủ “mệnh lý” khác, xong có 2 lời giải thích sau: 1. Thân dậu không vong, kim không vô lực, mệnh này xem là thân nhược, sợ thủy tiết, cho nên vận tý hung. 2. Trong mệnh cục có quý thủy thương quan, sợ kiến quan tinh, vận bính tý, thương quan kiến quan hung. Ta nghe bọn họ giải thích liền biết là xằng bậy, nhưng ta lại không dễ phản bác bọn họ được. Bởi vì mệnh lý học là một môn huyền học, “nhìn không thấy sờ không được”, cho nên cực khó phản bác. Biện pháp tốt nhất là tìm ra những dẫn chứng ngược lại, tức là mệnh khác cũng giống như vậy, nhưng không xảy ra kết quả giống vậy, chỗ này chỉ khi tích lũy nhiều ví dụ thực tiễn mới có thể làm được. ............................................................. Đoàn tiên sinh cùng Vương Hổ Ứng tiên sinh, một cao thủ về dịch lý. 2 ông này hợp thành 1 bộ song kiếm hợp bích lẫy lừng nổi tiếng từ Đài Loan, TQ, Nhật bản, ... đến cả Mỹ. ” VULONG đã viết: “Nếu quả thực Đoàn Kiến Nghiệp “…lẫy lừng nổi tiếng từ Đài Loan, TQ, Nhật bản, ... đến cả Mỹ.” thì đoạn viết trên là một ngụy tạo bởi vì không một ai khi được phong là cao thủ Tử Bình…. lẫy lừng như vậy mà lại không biết một điều đơn giản là vào đại vận Bính Tý có tam hợp Thân Tý Thìn hóa thành Thủy cục thì làm sao Nhật Chủ Kim còn vượng được nữa khi mà Nhật Chủ Kim mất điểm vượng của chi Thân và điểm vượng Lộc ở Thân còn Thủy được thêm điểm vượng của 2 Thìn và Thân.” Sau đây là sơ đồ của Tứ Trụ trên: Theo sơ đồ trên thì trong Tứ Trụ có Thìn trụ năm và Thìn trụ ngày tranh hợp với Dậu trụ tháng, vì vậy tổ hợp này không thể hóa Kim. Điểm hạn và điểm vượng của ngũ hành trong vùng tâm như sau: -0,5.........-0,5...........1.............0,5............-1 Mộc..........Hỏa.........Thổ...........Kim..........Thủy 3,24...........#...........3,75.........23,83.........9,3 Ta thấy Tứ Trụ này Thân Kim quá vượng mà Kiêu Ấn (Thổ) đủ, vì vậy dụng thần đầu tiên phải là Thực Thương (Thủy) là Nhâm tàng trong Thân trụ tháng. Vào đại vận Bính Tý có tam hợp Thân Tý Thìn phá tan lục hợp Thìn Dậu trong tứ trụ để hóa Thủy thành công (theo quy tắc ưu tiên hợp hóa). Vì trong Tứ Trụ có ít nhất 2 chi hợp với tuế vận hóa cục thay đổi hành của chúng (theo giả thiết...) nên điểm vượng vùng tâm phải tính lại. Kim có 23,83 đv mất 8,43 đv của Thân trụ giờ (hóa Thủy) còn lại 23,83 đv - 8,43 đv = 15,4 đv. Thủy có 9,3 đv được thêm 8,43 đv của Thân trụ giờ, 3 đv của Thìn trụ ngày và 0,75 đv của Thìn trụ năm thành (9,3 + 8,43 + 3 + 0,75) đv = 22,23 đv. Điểm hạn và điểm vượng của ngũ hành trong vùng tâm được tính lại như sau: ..1.............0,5...........-1............-0,5............0,5 Mộc...........Hỏa..........Thổ..........Kim...........Thủy 3,24............#............#3...........15,4..........22,23 Ta thấy Thân đã trở thành nhược mà Thực Thương là kỵ thần số 1 (kỵ thần có điểm vượng trong vùng tâm lớn nhất so với các kỵ thần), vì vậy dụng thần đầu tiên phải là Kiêu Ấn (Thổ) Mậu tàng trong Thìn trụ năm. Thân nhược khi vào vận Quan Sát có Thực Thương quá mạnh thì dĩ nhiên có sự tương tranh của Thực Thương với Quan Sát, vì vậy người đó dễ dính dáng đến phạm pháp, lao tù là chuyện bình thường. Thân đã nhược lại còn bị xì hơi mạnh bởi Thực Thương (quá vượng) thì là sao có thể phát tài cơ chứ. Vậy mà Đoàn Gia ta đã phải thừa nhận "Ta đối với mệnh này nghiệm lý hơn 5 năm, vẫn không tìm ra được giải thích" chắc vì ông ta không biết dụng thần đã thay đổi (?). Nghe không thể chấp nhận được bởi vì Đoàn gia cũng chỉ là hậu sinh như chúng ta chả nhẽ ông ta không đọc được một cuốn sách cổ, kim nào về Tử Bình hay không nghe ai nói gì về khái niệm dụng thần thay đổi hay sao ? Để mà rồi cố ép cho Tứ Trụ này Thân phải nhược từ khi mới sinh cho phù hợp với thực tế đã diễn ra trong đại vận Bính Tý của người này. Chả nhẽ điều này đã làm cho tên tuổi ông ta “…lẫy lừng nổi tiếng từ Đài Loan, TQ, Nhật bản, ... đến cả Mỹ. " hay sao ? (nói vậy cho vui tí thôi chứ tôi đã khẳng định ngay từ đầu là ông ta cũng như cụ Thiệu thỉnh thoảng Ngụy Tạo vài chiêu cho vui cửa vui nhà mà thôi).
    1 like
  17. năm tới trong gia đạo sức khỏe của mẹ hay của người chị em gái rất yếu kém, trong họ có thể có cái tang của người nữ cũng gần. Trong năm tới ngoài người bạn gái ra còn đèo bồng thêm 1 cô đào nữa, người này có thể đã quen hay là bạn từ trước ( không biết thế gọi là may hay rủi? ). Công việc có quý nhân nâng đỡ nhưng đề phòng trong quan hệ với đồng nghiệp kẻo bị dính tiếng thị phi, thù ghét... nhất là đồng nghiệp nữ nhé! Năm tới cũng thấy có ý định cưới nhưng chắc không được, còn hơi lâu nữa. Chờ bác haithienha tư vấn thêm cho chính xác nhé, thân chào!
    1 like
  18. 1 like
  19. TƯ LIỆU THAM KHẢO Bão Mặt trời có thể đe dọa Olympics 2012 Cập nhật lúc 15/01/2011 08:00:00 AM (GMT+7) Thế vận hội mùa hè sẽ diễn ra ở London vào năm tới có thể bị đe dọa bởi trận bão Mặt trời cực mạnh đã được báo trước. Tờ Daily Mail của Anh mới đây dẫn lời các chuyên gia của nước này cảnh báo rằng Olympics London diễn ra vào năm tới có thể phải đối mặt với một trận bão Mặt trời cực mạnh. Olympics London 2012 có thể bị bão Mặt trời đe dọa. Ảnh: Getty Image Theo các chuyên gia khí tượng Anh quốc thì bão Mặt trời có thể gây ra mất điện, phá hủy hệ thống thông tin vệ tinh cũng như buộc máy bay phải thay đổi đường bay. Tuy nhiên, ban tổ chức Thế vận hội mùa hè khẳng định với báo giới rằng họ đã “theo dõi rất sát sao tình hình khí hậu vũ trụ” kể từ sau khi Cục Khí tượng nước này cảnh báo rằng bão Mặt trời có thể đổ bộ xuống Trái đất vào thời điểm diễn ra Olympics. “Những hiện tượng khí hậu vũ trụ cực đoan thường xảy ra khi Mặt trời bước vào giai đoạn hoạt động mạnh nhất. Chu kỳ hoạt động của Mặt trời khoảng 11 năm. Theo đó, thời gian từ 2012 – 2013 sắp tới chính là thời điểm Mặt trời hoạt động mạnh nhất và rất có thể nó sẽ diễn ra vào đúng thời điểm diễn ra Thế vận hội”, một chuyên gia khí tượng giải thích. Các nhà tổ chức hy vọng rằng những cơn bão Mặt trời sẽ không quá cực đoan và sẽ không gây ra bất cứ cản trở nào. Tuy nhiên họ cũng đã chuẩn bị sẵn sàng cho những trường hợp xấu nhất. “Chúng tôi đang làm việc với các đối tác và các bên hữu quan để tìm ra những phương án xử lý tất cả những tình huống có thể xảy ra”, đại diện ban tổ chức Olympics London cho hay. Trong khi đó, Cục khí tượng quốc gia Anh cảnh báo rằng, nếu như Trái đất bị một cơn bão Mặt trời mạnh nhất tấn công thì lưới điện quốc gia sẽ hư hỏng dẫn đến thiếu điện trong nhiều lĩnh vực quan trọng từ 12 giờ cho đến vài tuần. Ngoài ra, khoảng 30% các vệ tinh nhân tạo sẽ mất tác dụng trong thời gian dài từ đó gây rối loạn trong thông tin liên lạc, các thiết bị quan sát Trái đất, cho đến hệ thống định vị toàn cầu GPS. Bão Mặt trời từng gây ra những ảnh hưởng không nhỏ đến Trái đất. Vào tháng 3/1989, khí hậu vũ trụ cực đoan đã ảnh hưởng đến Québec, Canada, thậm chí còn tấn công hệ thống điện lực của Anh. Vào tháng 10/2003, các vệ tinh, lưới điện cho đến mạng lưới hàng không của Thụy Điển cũng đã gặp tình trạng tương tự. Ảnh hưởng lớn nhất mà bão Mặt trời gây ra là vào năm 1859 do nhà thiên văn Carrington quan sát được. Siêu bão này đã gây ra sự rối loạn toàn bộ hệ thống điện tín của Bắc Mỹ và châu Âu vào thời điểm đó. L.V
    1 like
  20. Trí huệ Khổng Tử về cách đối sử với người khác Bài viết của Zhi Zhen [MINH HUỆ 22-06-2008] Khổng tử đã chỉ ra rằng lòng tốt là gồm cả hai một tư tưởng chính trị và một tiêu chuẩn đạo đức. Lòng tốt nhấn mạnh việc chăm lo cho người khác và chú trọng tư tưởng về lòng trung thành và sự khoan dung tha thứ. Một tư tưởng như vậy đã có một ảnh hưởng sâu rộng đến đạo đức truyền thống Trung Hoa về lương thiện, trung thực, nhẫn nại và khoan dung. Nó vẫn có ý nghĩa sâu sắc trong xã hội ngày nay. Lòng chân thành, chân thật là cơ sở nền tảng đầu tiên quan trọng nhất Một lần khi Khổng Tử đang thảo luận cách đối nhân xử thế với những học trò của ông, Zily nói: “Nếu người khác đối xử tốt với con, đổi lại con cũng sẽ đối xử tốt với họ; Nếu họ không tốt với con, con cũng sẽ không tốt với họ.” Khổng Tử đã luận: “Đây là cách xử thế của những người không tốt.” Zigong nói: ” Nếu người khác đối xử tốt với con, con sẽ đáp lại tốt với họ; Nếu họ không tốt với con, con sẽ hướng dẫn họ đến cái tốt.” Khổng Tử đã luận: “Đây là cách xử thế giữa những người bạn.” Yanzi nói: “Nếu người khác đối xử tốt với con, con sẽ tốt với họ; Nếu họ không tốt với con, con cũng sẽ tốt với họ và dẫn họ đến cái tốt.” Khổng Tử đã luận: “Đây là cách xử thế trong gia đình và người thân. Nếu các con có thể mở rộng tư tưởng và đối xử với tất cả mọi người trong thế giới này bằng lòng chân thành, thành thật, nó sẽ thực sự tốt!” Đối xử với người khác bằng lòng tốt lương thiện Yanzi đã hỏi Khổng Tử: “Làm sao con có thể đạt được mục tiêu đối xử với người khác bằng lòng tốt? con mong ước con có thể làm được việc đối xử với mọi người như nhau bất kể họ giàu hay nghèo; can đảm mà không hiển thị khoe khoang mình dũng cảm; làm bạn chỉ với những người có mục đích cao quý và tránh gian khổ suốt cuộc đời. Điều đó có đúng không?” Không Tử nói: ” Để là người tốt, một người cần phải tu thân và liên tục nâng cao đạo đức bản thân. Điều mà con nói là tốt. Đối xử như nhau cho dù họ giàu hay nghèo, con sẽ thấy hài lòng và không bị điều khiển bởi ham muốn dục vọng. Hành xử như nhau bất kể con ở địa vị cao hay là người dân bình thường, con sẽ luôn luôn khiêm tốn và lịch sự. Can đảm mà không hiển thị khoe khoang lòng dũng cảm, con sẽ đối xử với mọi người bằng lòng kính trọng. Làm bạn với những người có mục đích cao quý và tránh gian khổ suốt cuộc đời, con có thể lựa chọn những người bạn của mình, con sẽ thận trọng trong lời nói và hành động mình. Đây là một mục đích rất tốt!” Cách cai trị Qi Gaoting đã hỏi Khổng Tử : “con đã đi một đoạn đường dài và đã trải qua nhiều khó khăn thử thách, mặc quần áo sờn rách và mang quà đến cho thầy, con đến với hy vọng rằng thầy có thể dạy con cách phò tá hoàng đế cai trị đất nước.” Khổng Tử đã nói: “Hãy dựa vào những nguyên tắc luân lý đạo đức và công bằng, Ngay cả khi xúc phạm đến hoàng đế, con cũng không thể từ bỏ sự chính trực và những nguyên tắc đạo đức. Phò tá hoàng đế không có nghĩa là làm mọi việc cho hoàng đế, mà là làm việc cho đất nước và cho người dân dưới sự cai trị của hoàng đế. Tóm lại là làm những việc chân chính và phò tá hoàng đế truyền bá lòng tốt lương thiện. Con cần phải đối xử với mọi người bằng lòng chân thành. Con cần phải làm một tấm gương tốt và ngay thẳng công bằng. Tiến cử những người có khả năng với hoàng đế đồng thời loại đi những kẻ xấu xa; loại bỏ phần xấu ra khỏi bản thân con và cùng với hoàng đế sống theo luật pháp và chuẩn mực đạo đức. Con cần phải thông minh nhưng cẩn thận trong lời nói và hành động; tu thân và dẫn dắt người dân sống theo lòng tốt lương thiện. Nếu con có thể làm như vậy, con có thể giống như một đạo hữu bên cạnh hoàng đế ngay cả khi con ở cách xa ông ấy ngàn dặm. Nếu không, con không thể làm được điều đó ngay cả khi con ở ngay bên cạnh ông ta.” Khổng Tử nói rằng một người cần phải tu thân để đối xử tốt với người khác. Đối xử với người khác không phải là mục đích, mà mục đích là thăng tiến bản thân đến một tầng cao hơn. Khổng Tử xem trung, nghĩa, trí và tín là những điều kiện tiên quyết để là một người cao quý. Một người cao quý có thể đạt đến “từ bi” qua tự phê bình và đối xử với người khác bằng lòng tốt và khoan dung. Một người cao quý sẽ duy trì đạo đức cao trong bất kể tình huống nào và sẽ giữ tâm anh ta trong sạch, đối xử tốt với mọi người và trân quý sinh mệnh. Cho dù họ giàu hay nghèo, anh ta sẽ không bị dao động. Quyền lực và sự ép buộc cũng không ảnh hưởng anh ta được.
    1 like
  21. Bản đồ tập hợp các khu vực khảo cổ chính thuộc ba thời kỳ Hạ (đồ đá mới), Thương và Chu (tập hợp theo Trung Quốc - Triều Tiên - Nhật Bản, đỉnh cao văn minh Đông Á, Gina L. Baner): Địa điểm phát hiện dấu vết nông nghiệp trồng lúa sớm nhất là Hà Mẫu Độ (9000 năm trước). Trên bản đồ quá rõ ràng đây là khu vực của người Bách Việt ở Nam Dương Tử. Nhà Hạ trồng lúa bên cạnh biển thì không thể ở khu vực Nhị Lý Đầu của Hà Nam tận trong sâu đất liền trồng kê được. Hiện nay người Tàu dựa vào địa điểm khảo cổ Ân Khư để xác định nhà Ân Thương nằm ở vùng quanh Hoàng Hà. Thế nhưng địa điểm Ân Khư là địa điểm khảo cổ thời Ân muộn. Những địa điểm khảo cổ đồ đồng thời Thương sớm hơn là ở Trịnh Châu, Bàn Long Thành và đặc biệt là Tân Cán. Trích công bố về phát hiện mộ lớn thời Thương ở Tân Cán của tác giả Trung Quốc (theo sách Bí ẩn khảo cổ, Tôn Yến): ... Năm 1989 từ xã Đại Dương Châu huyện Tân Cán tỉnh Giang Tây ... đã ngẫu nhiên phát hiện một ngôi mộ cổ có nhiều đồ đồng thau, đồ ngọc, đồ gốm... Căn cứ vào đặc trưng các hiện vật tìm được các chuyên gia suy đoán niên đại của ngôi mộ táng tương đương với cuối thời nhà Thương, cách ngày nay hơn 3000 năm... Trong lịch sử khảo cổ mộ lớn thời Thương đã được khai quật nhiều, nhưng qui mô và di vật phát hiện được nhiều như mộ thời Thương ở Tân Cán thì hiếm... Ngôi mộ thực sự được bảo tồn hoàn hảo có thể so sánh được với mộ thời Thưởng Tân Cán thì chỉ có mộ Phụ Hảo ở Ân Khư... ... Qui mô mộ táng lớn với đồ tùy táng phong phú như vậy có thể suy đoán địa vị của chủ ngôi mộ là rất hiển hách, có thể so với lăng vua nhà Thương cùng thời kỳ... ... Sự phát hiện mộ lớn thời Thương ở Tân Cán với những tư liệu vật chất đã chứng minh một cách mạnh mẽ nền văn minh Thương đã truyền đến vùng trung hạ lưu sông Cán Giang... Việc phát hiện nhóm đồ đồng trong mộ thời Thương ở Tân Cán buộc lịch sử nền văn minh cổ ở miền Nam phải được viết lại... Nhìn vị trí của Bàn Long Thành và Tân Cán ta thấy ngay đây chính là vùng đất của người Bách Việt. Vậy mà từ đầu nhà Thương ở đây lại có những tòa thành, những ngôi mộ táng lớn hàng vua chúa, không kém gì ở Ân Khư. Không có cách nào khác để giải thích ngoài: nhà Thương chính là một triều đại của người Bách Việt. Dấu vết từ Tân Cán qua Bàn Long Thành, Trịnh Châu lên Ân Khư chính là con đường dời đô năm lần bảy lượt của Ân Bàn Canh. Địa bàn gốc của nhà Thương phải là ở vùng sông Dương Tử chứ không phải Hoàng Hà. Đây cũng chính là địa bàn của nước Sở thời Chiến Quốc. Người Sở cũng tự xưng mình là con cháu nhà Thương Ân hay Âu Nhân. Âu Nhân thiết là Ân. Văn minh Bách Việt không vào Tàu theo đường nước Thục phía Tây thượng đạo, mà theo đường "chính đạo", là đường ven biển, trên các đồng bằng châu thổ lớn của sông Dương Tử. Từ Hà Mẫu Độ, Lương Chử là đất nhà Hạ, sang vùng Giang Tây, Hồ Bắc là nhà Thương, tới nhà Ân đã vượt sông Hoàng Hà ở chính "Trung Nguyên".
    1 like
  22. xem lại cách bày đặt trong nhà, cách ăn ở ra sao. Tốt nhất là mời thầy Phong thủy về chỉnh trang nơi ở. 2011 hạn khá nặng.
    1 like
  23. TƯ LIỆU THAM KHẢO Một thành viên thuộc Trung Tâm nghiên cứu Lý Học Đông phương đã trình bày những lời dự báo "khủng" của mình cho năm 2011. Đây chưa phải là dự báo chính thức của Trung Tâm nghiên cứu Lý học Đông phương - sẽ công bố trong những ngày cận tết Tân Mão - nhưng có nhiều điểm trùng hợp với một số dự báo ban đầu của nhiều thành viên trong Trung Tâm với mức độ tăng nặng hơn. Chúng tôi đưa lên đây với hy vọng các cao thủ quan tâm tham khảo và cho ý kiến. ============================== Dự báo năm 2011 I. Về thiên tai: a) Động đất, núi lửa: Năm 2011 sẽ có động đất lớn và núi lửa hoạt động mạnh, ảnh hưởng nghiệm trọng ở một số lục địa tại khu vực Bắc Mỹ (Alaska, Canađa, phía Bắc Hoa Kỳ) và Tây Bắc Châu Âu (Aixơlen, Anh, Tây Ban Nha, Pháp, Đức, Bỉ, Hà Lan, Italia, CH Séc, Slôvênia, áo..., Ba Lan, Thuỵ Điển, Phần Lan, một phần phía Tây của nước Nga và 1 phần phía đông của Nga - bắc Kanchátka, phần lớn Bắc Cực) - các khu vực bị ảnh hưởng mạnh nhất là xung quanh vành đai sụt lún (có sơ đồ cảnh báo). Sơ đồ các khu vực nghi ngờ sẽ xảy ra động đất và núi lửa hoạt động (Vành đai màu vàng: động đất, sụt lún ; Mầu đỏ: Núi lửa hoạt động)Thời gian xảy ra sẽ vào khoảng đầu năm Tân Mão (khoảng tháng 3 – Việt lịch). Nghiêm trọng hơn, có thể có một phần lục địa sẽ bị biến mất trong khu vực trên, nhưng diện tích không lớn (có thể là 1 phần nằm ở ngoài khơi Châu Âu, hoặc Canađa, hoặc Hoa Kỳ). Các nước Châu Âu sẽ có sóng thần (khu vực các nước gần biển đại Tây Dương). Núi lửa sẽ hoạt động mạnh, gây ảnh hưởng lớn, tới mức nghiêm trọng. Nhìn chung, Châu Âu, Canađa và một phần phía Bắc Hoa Kỳ hãy hết sức cẩn thận và cảnh báo cho người dân ở các khu vực này tránh được thiệt hại nặng nề. Thế giới cần đề phòng việc sụt đất trên diện rộng của vùng Bắc Cực cũng khiến làm vỡ một loạt các tảng băng ở Bắc Cực khiến mực nước biển dâng cao. b ) Hạn hán, lũ lụt: Năm 2011 sẽ là năm lụt lội lớn ở khu vực xung quanh xích đạo, khu vực Bắc Phi – lưu vực sông Nin, khu vực miền trung và nam ấn Độ mức độ nghiêm trọng hơn. Hạn hán, cháy rừng xảy ra trên diện rộng ở một số vùng của Châu á (Tây á, Trung Bắc á). c) Sẽ có hiện tượng một số thiên thạch rơi xuống trái đất gây cháy nổ với mật độ dày hơn (khu vực nam Châu Âu). II. Chiến tranh, xung đột, khủng bố, bạo loạn...: Sẽ có nổ súng ở những nơi ít ai ngờ tới (phía đông khu vực Nam Châu Phi). Không có chiến tranh tầm cỡ thế giới xảy ra, nhưng xung đột cục bộ tăng mạnh Iran ( chiến sự sẽ xảy ra ở 2 bên bờ sông, nhưng chẳng đi đến đâu); Nam Hàn - Bắc Triều sẽ có vài cuộc đấu súng – quy mô nhỏ); ápganixtan – Pakixtan (có xung đột). Sẽ có khủng bố xảy ra ở Hoa Kỳ, tầm cỡ không thua kém vụ 11/9 – khu vực phía Bắc miền Trung Hoa Kỳ (xung quanh khu vực các Bang Ohio, Indiana, Illionis, Michigan...). Trung Quốc sẽ phải đối mặt và cứng rắn giải quyết một vài cuộc bạo động quy mô lớn. III. Kinh tế: Bức tranh kinh tế thế giới không có gì sáng sủa hơn năm 2010, chưa nói là nhiều mảng tối hơn, tập trung ở Châu Âu (Hy Lạp, Tây Ban Nha, Italia...số người thất nghiệp tăng vọt, kinh tế sụp đổ, khủng hoảng nghiêm trọng), một số nước dẫn đến khủng hoảng chính trị, xã hội và để lại những dấu ấn cho lịch sử nhân loại. Nền kinh tế lớn nhất toàn cầu cũng chống chọi khá vất vả với khủng hoảng; một số hãng hàng không, một số công ty liên quan đến dầu mỏ tuyên bố phá sản. Đồng đô la sẽ được giữ giá bằng mọi giá. Giá vàng: dự kiến sẽ có hình sin có đỉnh vào giữa năm, hai đầu là đáy. Giá dầu mỏ: sẽ có hình cái bể (đầu năm đi ngang, giữa năm tụt đáy, cuối năm đi lên nhưng lại đi ngang). IV. Văn hoá: Xu hướng giao lưu vẫn tiếp tục phát triển, sẽ có sự dịch chuyển văn hoá xuất phát từ đất nước ấn Độ (Phật giáo sẽ ảnh hưởng rất mạnh mẽ đến khắp thế giới), các giá trị văn hoá truyền thống, gần gũi tự nhiên được coi trọng đặc biệt. Loài người sẽ kinh ngạc về những bí mật của các nền văn minh trước đây và sự kỳ vĩ của nó (người ta sẽ đổ xô vào để giải mã và giải mã được rất nhiều tài liệu văn hoá cổ). Một số lý luận sẽ mất chỗ đứng. V. Tai nạn: Tại nạn lở đất, lở đá xảy ra nhiều và nghiêm trong hơn. Thiệt hại do lật tàu, đắm phà, tràn dầu xảy ra mức độ dày đặc hơn, nghiêm trọng hơn. VI. Dịch bệnh: Một số dịch bệnh mới xuất hiện (dạng ruồi, muỗi, côn trùng đốt) ở một số vùng, làm chết nhiều người; các bệnh liên quan đến lở loét gia tăng. Nhìn chung, là các bệnh liên quan đến ngoài da phát tác và hành hoành nghiêm trọng
    1 like
  24. Năm Dần thấy có tin hỉ mà không đậu con sao? Hay có rùi mà không giữ được?
    1 like
  25. Số này cần lưu ý: - Họa lời ăn tiếng nói - Cảnh giác cao độ kẻo dễ/hay bị lừa đảo/ám hại - Dị ứng/ngộ độc thực phẩm - Vô tình làm chồng bị ảnh hưởng *tình cảm, sức khỏe*. Các vấn đề khác thì không lo lắm.
    1 like
  26. Nốt ruồi đó là phá tướng ...Phá được thì phá nhưng nên nhớ phá đi thì mức độ hại tăng lên gấp đôi
    1 like
  27. Tính tình cô : Ưa tắm gội sạch sẽ, nói trước nghĩ sau, có nhiều vệ tinh thích bám theo nhưng may mà có Lộc nên cũng đỡ được tính ham mê nhục dục nên khả năng có bồ là ít,
    1 like
  28. 1 like
  29. Phương ngữ Nam Bộ trong ca dao về tình yêu Phương ngữ Nam Bộ là một dạng từ ngữ địa phương của vùng đất Nam Bộ. Nó thể hiện cách nói, cách sử dụng từ ngữ, kiểu phát âm riêng của con người Nam Bộ. Phương ngữ Nam Bộ còn là nơi chứa đựng các yếu tố văn hóa, phong tục tập quán, sinh hoạt xã hội của con người và vùng đất Nam Bộ. Tìm hiểu phương ngữ Nam Bộ được thể hiện qua ca dao Nam Bộ là một cách nhằm khẳng định thêm tính độc đáo, sắc sảo, phong phú và đa dạng của con người Nam Bộ xưa trong việc sử dụng lời ăn tiếng nói của mình. 1. Ca dao Nam Bộ trước hết là ca dao của người Việt ở Nam Bộ nên nó mang đầy đủ yếu tố của vùng đất Nam Bộ, trong đó có việc sử dụng từ ngữ của con người ở đây. Sống giữa thiên nhiên hài hòa và đa dạng với rừng tràm bạt ngàn và một vùng sông nước bao la cho nên trong lời ăn tiếng nói của con người ở đây không khỏi ảnh hưởng của các hình tượng thiên nhiên này. Cho nên, có thể nói, giàu tính hình tượng là một đặc điểm trong cách dùng từ của ca dao Nam Bộ: Chồng chèo thì vợ cũng chèo Hai đứa cùng nghèo lại đụng với nhau. “Đụng” ở đây là “lấy”, “lấy nhau” hay nói cho văn hoa một chút là “kết duyên” nhau. Với các từ trên, người Nam Bộ có thể hoàn toàn sử dụng được, nhưng đôi khi con người ở đây không dùng những khuôn mẫu có sẵn đó, mà lại dùng từ “đụng” rất giàu hình tượng này để tạo điểm nhấn, mang sắc thái mạnh. Chính điều này đã làm phong phú thêm cho kho tàng phương ngữ Nam Bộ. 2. Giàu tính so sánh và cụ thể cũng là một đặc điểm của ca dao Nam Bộ. Nam Bộ là một vùng sông nước, có hệ thông sông ngòi chằng chịt nên hình ảnh chiếc ghe, con đò, con cá, con tôm, cần câu, cái lờ... là những vật rất quen thuộc đối với người dân nơi đây. Quen thuộc đến mức đã đi vào tâm thức của họ và được thể hiện qua lời ăn tiếng nói hằng ngày, cũng như đã âm thầm đi vào ca dao: Thân em như cá trong lờ Hết phương vùng vẫy không biết nhờ nơi đâu. “Cá - lờ” là một hình tượng cụ thể, tác giả dân gian đã lấy hình tượng cụ thể này để làm đối tượng so sánh với con người, cụ thể ở đây là cô gái. Trường hợp này, ta cũng sẽ bắt gặp rất nhiều trong ca dao Nam Bộ. 3. Một đặc điểm nữa trong việc sử dụng phương ngữ Nam Bộ trong ca dao Nam Bộ là tính giàu cường điệu, khuếch đại. Đây là cách nói thể hiện rõ nét sự lạc quan và tính cởi mở của con người Nam Bộ. Tính giàu cường điệu, khuếch đại này được con người Nam Bộ sử dụng mang tính chất phác, mộc mạc, độc đáo, gây được ít nhiều cảm xúc cho người đọc: Anh than một tiếng nát miễu xiêu đình Cây huệ kia đang xanh lại héo, cá ở ao huỳnh vội xếp vi. Rõ ràng, chỉ than có một tiếng mà “nát miễu xiêu đình” thì quả là nói quá. Nhưng chính cách nói quá này mới tạo được ấn tượng, gây được cảm xúc, tạo được sự chú ý cho đối phương. Hay để bộc lộ tình thương của mình, người Nam Bộ không ngại nói thẳng, nói quá, nói cường điệu, nói khuếch đại. Họ nói cốt sao cho hết cái thương đang cháy bỏng trong lòng mình: Anh thương em, Thương lún, thương lụn, Thương lột da óc, Thương tróc da đầu, Ngủ quên thì nhớ, Thức dậy thì thương 4. Giàu tính dí dỏm, hài hước cũng là một trong những đặc điểm trong cách sử dụng từ ngữ trong ca dao Nam Bộ. Ca dao Nam Bộ, ngoài những cách nói cường điệu, giàu hình tượng, đôi lúc có phần thâm trầm, sâu lắng còn có những cách nói mang tính hài hước, dí dỏm. Đây là tinh thần lạc quan trong tính cách của con người Nam Bộ. Chính tinh thần lạc quan này đã tiếp thêm cho họ sức mạnh trong việc chống chọi lại với thiên nhiên khắc nghiệt, với thú dữ hoành hành. Tuy là nói dí dỏm, hài hước nhưng không hẳn là một cách nói chơi, mà là có ngụ ý, ngụ tình. Đó cũng là kiểu nói: “nói chơi nhưng làm thiệt”: Bên dưới có sông, bên trên có chợ Hai đứa mình kết vợ chồng nghen. Rõ ràng, đây là cách nói mang tính chất vừa nói chơi lại vừa nói thiệt. Bông đùa đấy nhưng cũng là thật đấy. Nếu đối phương không chịu thì bảo là “nói chơi”. Còn nếu ưng thuận thì tiếp tục lấn tới tán tỉnh. Và trong bài ca dao sau, cũng không hẳn là dí dỏm, hài hước, nói cho vui một cách đơn thuần: Trời mưa cóc nhái chết sầu Ễnh ương đi cưới nhái bầu không ưng Chàng hiu đứng dựa sau lưng Khều khều móc móc cứ ưng cho rồi. 5. Có cách nói hài hước, dí dỏm, lại có cách nói cường điệu, khuếch đại, ca dao Nam Bộ cũng có những cách nói rất giản dị, chân tình. Trong hoàn cảnh tự tình với nhau, đôi khi họ không dùng những từ hoa mỹ, không nói những từ chứa đựng nhiều tầng ý nghĩa, mà chỉ nói một cách mộc mạc, bình dân, cốt sao bày tỏ được lòng mình: Anh về em nắm vạt áo em la làng Phải bỏ chữ thương chữ nhớ giữa đàng cho em. Quả là mộc mạc, quả là chân tình. Trong từng câu từng chữ không có gì khó hiểu cả, tạo được sự cảm thông và gây được cảm xúc cho người đọc. Hay: Tưởng giếng sâu anh nối sợi dây dài Ai dè giếng cạn anh tiếc hoài sợi dây Qua tới đây không cưới được cô hai mày Qua chèo ghe ra biển đợi nước đầy qua chèo trở vô. Phương ngữ Nam Bộ ra đời tuy có muộn hơn so với phương ngữ của các vùng khác, nhưng không vì thế mà nó nghèo nàn, hời hợt, mà trái lại nó rất đa dạng, phong phú và sâu lắng. Nó chứ đựng các yếu tố văn hóa, phong tục tập quán cùng tính cách của con người Nam Bộ. Phương ngữ Nam Bộ không chỉ đơn thuần là khẩu ngữ của người Nam Bộ mà nó đã bước vào văn học nghệ thuật với một tư thế rất đường hoàng. Những câu ca dao Nam Bộ vừa dẫn trên là một minh chứng cho điều này. Trần Phỏng Diều Giảng viên Khoa Ngữ văn, Trường Cao đẳng Sư phạm Cần Thơ
    1 like
  30. Nét mộc mạc và tinh tế trong ca dao Nam bộ So với các vùng miền khác, ca dao Nam bộ có cách dùng từ mộc mạc gần như “bê nguyên xi” từ cuộc sống chứ ít dụng công gọt giũa cho bóng bẩy, êm ái, nhưng vẫn không mất đi sự tinh tế.Người Nam bộ chuộng cách nói thẳng, nói thật nên đã mang vào trong ca dao lời ăn tiếng nói hằng ngày của mình. Nhiều câu vì thế đọc lên cảm thấy rất trúc trắc, “thô ráp” nhưng có sự ý vị, ngọt ngào ẩn chứa bên trong. Chẳng hạn, khi nói về nỗi niềm đơn chiếc, trống vắng, người dân Nam bộ mượn hình ảnh con cá, con tôm có cặp, có đôi, đối lập với hoàn cảnh của mình: “Ví dầu cá bống hai mang Cá trê hai ngạnh, tôm càng hai râu Anh về bên ấy đã lâu Để em vò võ canh thâu một mình”. Quả là hay về ý, đẹp về vần. Không cần những từ ngữ bóng bẩy, những lời hoa mỹ đẩy đưa cũng nói lên tâm trạng của người con gái chờ đợi nhớ thương người yêu. Một chàng trai buồn vì mẹ mình đã mượn những khẩu ngữ hằng ngày của người Nam bộ để tâm sự: “Gió đưa bụi chuối tùm lum Mẹ dữ như hùm ai dám làm dâu”. “Tùm lum”, “tà la” là những từ rặt Nam bộ không lẫn vào đâu được, là từ láy rất đặc trưng cho miền đất này, cũng như "te rẹt, tét lét, tèm lem"... Tất cả những từ này rất khó tạo vần để thành thơ, thế mà dân gian Nam bộ đã không chỉ làm được mà còn làm hay. Chẳng hạn, để chỉ hình ảnh trai gái chọc ghẹo nhau, dân gian sẵn sàng dùng những từ rất ư là bình dân: “Con chi rột rẹt sau hè Hay là rắn mối tới ve chuột chù?”. Nếu nói về sự vụng trộm của các đấng ông chồng khi cuộc sống đã có phần ổn định thì: “Đói cơm lạt mắm tèm hem No cơm ấm áo lại thèm nọ kia”. Từ “tèm hem” ở đây được dùng rất đắc địa. Cái phép dụng vần cho thơ không phải cốt để đọc nghe trơn tru mà cao hơn, nó phải tham gia thể hiện chiều sâu của ý, phải góp phần tạo hình tượng cho thơ. Người Nam Bộ mang vào ca dao lời ăn tiếng nói hằng ngày của mình. Hay như từ “thắt thẻo” được dùng trong câu ca dao này làm cho người đọc cảm thấy buồn đến đứt ruột, đứt gan: “Gió mùa đông trăng lồng lạnh lẽo Năm canh chày thắt thẻo ruột gan”. Đâu chỉ là sự gieo vần thuần túy, sự góp mặt của từ này đem đến cho ta nỗi cô quạnh, lạnh lẽo, tê buốt trong lòng. Chỉ một từ thôi mà câu thơ như sắp òa khóc, như ướt đẫm nước mắt đêm trường. Lối gieo vần trong ca dao Nam bộ quả là biến hóa linh hoạt, nhưng rất gần gũi với đời thường. Người Nam bộ cũng sử dụng những từ ngữ vay mượn từ các dân tộc sống trên địa bàn để vào ca dao. Đặc biệt, sự ghép đôi giữa một từ tiếng Việt với một từ tiếng Hoa làm cho nhiều câu ca dao trở nên độc đáo và hay đến lạ thường: “Gió đưa chú tửng từng tưng Gặp chị bán gừng na nả nị ơi”. Câu đầu được hiểu là ngọn gió khởi lên sự vui vẻ từ lòng người chú Tiều (Từng Náng) khi gặp gỡ cô gái. “Nị” là đại từ ngôi thứ hai theo âm Quảng Đông, “na” là từ chỉ phụ nữ, "nả" được dùng tương tự như từ "đấy, nhé" ở cuối câu tường thuật của tiếng Việt. Chờ đợi là một nghệ thuật kỳ diệu. Câu ca dao có khi là cách tỏ tình, giãi bày nỗi niềm của người thiếu nữ khắc khoải trong đêm, chờ đợi người tình. Cánh đồng thì mênh mông, trại ấp thì thưa thớt, người của đất Ngồ Ố, Láng Dài nói lên sự xa cách của đôi lứa: “Chim kêu Ngồ Ố, Láng Dài A hia xùa bố a mùi ùm chai” (Chim kêu Ngồ Ố, Láng Dài Anh cưới vợ rồi em chẳng được hay!). Cho nên đã yêu là phải chủ động, là phải “tam tứ núi cũng trèo". Có những câu ca dao Nam bộ cải biên từ một câu của người Việt, thay một từ tiếng Hoa, rất ngộ nghĩnh và độc đáo: “Ta về ta “xực” cơm ta Dầu hơi quá lửa cơm nhà vẫn hơn”. “Xực”, tiếng Quảng Đông có nghĩa là ăn. Như vậy câu ca dao thuần Việt là: “Ta về ta ăn cơm ta Dầu hơi quá lửa cơm nhà vẫn hơn”. Ca dao Nam bộ cũng sử dụng một lượng lớn các từ Hán Việt, làm cho nên những vần thanh thoát, mượt mà và vô cùng sang trọng. Chẳng hạn, gặp nhau, chàng trai hỏi cô gái: “Anh gặp em vừa mừng vừa hỏi Phụ mẫu ở nhà có mạnh giỏi hay không?”. Cô gái đáp lại: “Tại gia đàng phụ mẫu em cũng được bình an Em xin hỏi lại phụ mẫu của bạn lang thế nào?”. Từ Hán Việt xuất hiện nhiều cũng khiến ca dao Nam bộ bớt đi phần nào “nôm na” về mặt hình thức: “Cây gie bần ngã Bất khả viển vông Tới đây em nói cho anh vừa lòng Em đây có chốn loan phòng từ lâu”. Khi muốn thể hiện sự trách móc, giận hờn trong tình yêu, các tác giả dân gian Nam bộ mượn từ Hán Việt để cho lời trách móc đó trở nên ý vị hơn, không lộ liễu mà lại bộc lộ được niềm tiếc nuối, xót xa cho sự nhầm lẫn của người yêu: “Bình tích thủy đựng bông hoa lý Chén chung vàng đựng nhụy bông ngâu Trách ai làm trai hữu nhãn vô châu Chim oanh không bắn, bắn con sâu đậu nhành tùng”. Từ Hán Việt trong ca dao Nam bộ còn khá đắc dụng khi khắc họa tâm trạng, tình cảm phức tạp của tình yêu đôi lứa: “Mưa sa, lác đác, gió táp lạnh lùng Thấy em lao khổ anh mủi lòng nhớ thương Đường đi biết mấy dặm trường Hỏi em đã kết cang thường đâu chưa?”. Và lời đáp của cô gái cũng là một lời hẹn ước: “Ngọc trầm thủy thượng anh ơi Bách niên giai ngẫu ở đời với em”. Những từ Hán Việt xuất hiện khá nhiều trong ca dao Nam bộ còn cho thấy, không chỉ có tầng lớp nhân dân lao động mà cả các ông đồ Nho, những người đã qua “cửa Khổng sân Trình” cũng tham gia đặt lời làm phong phú cho ca dao. Theo Báo Cần Thơ
    1 like
  31. Giải mã bí mật về những thây ma sống ở Haiti 30/10/2010 06:26:14 - Rất nhiều người lính Mỹ trở về từ Haiti trong những năm 1920 và 1930 đã từng kể lại những câu chuyện kỳ bí về những thứ thuốc ma thuật giúp người chết sống lại, về ma thuật đen hay những thây ma sống. Câu chuyện của họ sau được chuyển thể thành các tiểu thuyết kinh dị và nó cũng là cảm hứng cho các nhà làm phim cho ra đời một loạt các phim kinh dị hút khách trong dịp lễ Halloween. Tại Haiti, thực sự những câu chuyện về người Zombie (thây ma sống lại nhờ phù phép) cũng vẫn còn tồn tại cho tới ngày nay. Các dữ liệu thu thập được từ trước cho thấy, vào năm 1937, nhà nhân chủng học người Mỹ tên là Zora Neale Hurston cũng đã từng đặt chân tới Haiti và được chứng kiến một trường hợp thây sống. Đó là trường hợp của một người phụ nữ tên là Felicia Felix-Mentor. Bà được tuyên bố đã chết từ năm 1907 ở tuổi 29 nhưng 20 năm sau đó đột ngột trở về và vẫn còn sống. Hurston đã tiến hành một cuộc điều tra nhỏ về những tin đồn tà thuật và tìm thấy những bằng chứng cho thấy có một loại biệt dược rất mạnh được sử dụng để tạo ra trạng thái giống như chết. Năm 1982, nhà khoa học Wade Davis cũng đã tới Port-au-Prince để nghiên cứu về một số loài thực vật bản địa có độc nhưng không gây chết người có liên quan tới truyền thuyết về những người zombie ở Haiti. Ông phát hiện ra rằng, truyền thuyết về người zombie cũng không khác những truyền thuyết về người sói hay ma cà rồng. Ông kết luận rằng các thầy phù thủy biết dùng phép thuật chỉ là một sự bịa đặt. Họ đã dùng tetrodotoxin, một loại chất độc được chiết xuất từ cá nóc có thể gây ra hiện tượng tê liệt giống như chết. Mặc dù nó độc hơn xy-a-nua gấp 100 lần nhưng với sự kết hợp khéo léo nó có thể khiến một người rơi vào trạng thái ngủ sâu giống như chết trong một thời gian dài. Sau đó, ông còn tìm ra một loại chất được gọi là zombification - loại chất có khả năng kiểm soát thần kinh được chế từ cây cà độc. Mặc dù đã giải mã được cơ sở hóa học của hiện tượng này, nhưng Davis tin rằng, việc sử dụng chất zombification để đem tới hiệu quả như trong truyền thuyết thì không hề đơn giản chút nào. Nó là một sự pha trộn phức tạp được tích lũy trong một thời gian dài. Truyền thuyết về tà thuật đen ở Haiti đã có hàng trăm năm tuổi. Ba mươi năm sau, nhà sản xuất chương Santiago Stelley-Fernandez của đài VBS. TV - một công ty truyền thông độc lập có trụ sở tại Brrooklyn, New York và là một mạng lưới truyền hình băng thông rộng - dưới sự chỉ dẫn của một người dân Haiti lớn tuổi, người đã sống sót sau khi bị 14 viên đạn găm vào mặt, đã tiến hành một cuộc điều tra riêng lẻ của mình về zombie. Cuối năm 2009, anh và đoàn làm phim đã tìm tới Haiti ngay trước thời điểm diễn ra trận động đất mạnh tàn phá đảo quốc này. Sau khi hỏi thăm ở thủ đô Port-au-Prince, họ bắt đầu hướng tới một vùng đất được biết đến với tên gọi là Nzambi. Santiago cho biết, anh đã đi tới rất nhiều các vùng nông thôn, nói chuyện với rất nhiều thầy phù thủy địa phương và thu thập được một số mẫu chất độc huyền thoại. Sau nhiều tháng lao động không mệt mỏi, tiến hành phân tích hóa học các mẫu một cách kỹ lưỡng và cuối cùng anh đã sẵn sàng chia sẻ phát hiện của mình cho mọi người và dự kiến sẽ sắp được ra mắt trên VBS.TV. Câu chuyện về hành trình khám phá zombie của Santiago: Xem Video ở link này: http://bee.net.vn/channel/1984/201010/Giai...-Haiti-1775750/ Nguyễn Hường (Theo CNN, VBS.TV)
    1 like
  32. THẦN DƯỢC CỦA PHẬT PHÁP Các bạn có thể quán tưởng về sự vô thường....
    1 like
  33. THẦN CHÚ UM MA NI PAT MÊ HUM Những hình ảnh của mantra trong clip này hy vọng sẽ có những tương tác tốt với trí tuệ của bạn.
    1 like
  34. Nói chung đến bây giờ thì tôi có thể tổng kết là các Cao Thủ Tử Bình Việt Nam có 2 nhóm đặc thù. 1 - Những người học Tử Bình qua các sách của các Đại Sư sứ Đài Loan và Hồng Công. Những người này thường đến bây giờ đã trở thành các Lão Làng có thâm niên 30 đến 40 năm trở lên Ngâm Cứu Tử Bình (như Chindonco.... chẳng hạn). Do vậy họ có rất nhiều đệ tử theo học. 2 - Những người mới biết Tử Bình qua cuốn Dự Đoán Theo Tứ Trụ của thầy trò Thiệu Vĩ Hoa (như Cutu1... chẳng hạn). Những người này đến giờ lâu nhất cũng chỉ tới 17 năm Ngâm cứu Tử Bình (tính từ năm 1993 khi cuốn sách này được dịch ra tiếng Việt và bán ở việt nam) cho nên phần lớn là họ tự học không có thầy và cũng chưa có đệ tử theo học. Có một điều xấu là có nhiều người thuộc nhóm 1 đã tỏ ra khinh bỉ, coi thường những người thuộc nhóm 2 qua các lời vô học của họ ở trên các diễn đàn, nhất là tuvilyso.net. Và dĩ nhiên tôi đã tranh thủ sự kình địch này để kiểm tra các ý tưởng của tôi đã được viết thành sách trong cuốn "Gải Mã Tứ Trụ". Cho nên tôi yêu cầu họ trích dẫn các bài của các cao thủ sứ Đài Loan, Hồng Công hay Hoa Lục đã chê bai sách của cụ Thiệu hay yêu cầu họ đưa ra các ví dụ mà cụ Thiệu đã luận đúng từ các Tứ Trụ sai.... chẳng hạn. Lập tức họ đã đưa ra một số bài của các Đại Sư Tầu chê bai cụ Thiệu. Sau đó tôi đã chứng minh các bài luận của các Đại Sư này là sai về cơ bản đến mức độ tôi phải gọi họ là các Đại Sư Vịt Bầu. Vậy mà các Cao Thủ VN nhóm 1 tôn thờ họ đã không có một lời phản biện nào với bài viết của tôi để chứng minh cho các Đại Sư này không phải là Vịt Bầu. Còn các ví dụ họ đưa ra để chứng minh cụ Thiệu dự đoán đúng trên các Tứ Trụ sai thì tôi đã chứng minh rằng cụ không hề sử dụng các Trụ đã xác định sai đó để luận cũng như một số ví dụ cụ đã chọn nhầm khi muốn chứng minh ý cụ muốn nói (vì sao cụ "đãng trí" như vậy thì tôi chịu). Những người thuộc nhóm 1 đã thua và họ đã phải xử sự một cách "Quân Tử" là xoá các bài viết này. Đó là lý do vì sao tuvilyso.net đã xoá chủ đề "Các Tuyệt Chiêu nổi tiếng trong Tử Bình" và khoá nick, ID của tôi. Còn dĩ nhiên có các Đại Sư Vịt Bầu thì sẽ có các đệ tử Vịt Bầu con thì có gì là lạ. .
    1 like
  35. Bản tính thường hay thay đổi, giận hờn vô lý, ít lo xa, thích phiêu lưu. Cuộc sống chìm nổi thất thường, rày đây mai đó, ít nghĩ đến tương lai. Thích thể hiện tài năng. Làm gì cũng muốn làm 1 mình, không muốn làm phiền ai. Hay mơ mộng, có bao nhiêu xài bấy nhiêu. May mắn trong tình duyên, có khả năng thu hút người khác phái, cho dù có xấu đi chăng nữa, có số đào hoa. Công danh thường không được lên cao, người không xem trọng công danh sự nghiệp. Xem công danh sự nghiệp như luồng gió thoảng. Thích sự an nhàn, đôi khi sầu buồn bằng mọi giá. Tiền tài, lúc nhiều lúc ít, không có căn bản, có bao nhiêu cũng hết vì hay xài rộng rãi với mọi người, thường không quan tâm lắm đến vấn đề tiền bạc. Cuộc sống thường buồn tẻ cô đơn, thường có những giọt mưa ngâu đổ ngập trong lòng. Thấy tên đẹp nên xem cho em :lol:
    1 like