• Thông báo

    • Bá Kiến®

      Nội quy Lý Học Plaza

      Nội quy này là bản mở rộng Nội Quy - Quy định của Diễn đàn. Khi tham gia mua bán, các thành viên phải tuân theo những quy định sau: Tiêu đề bài viết: Bao gồm: Chỉ dẫn địa lý, Loại hình Mua/Bán, Thông tin mua bán.
      Chỉ dẫn địa lý: Tỉnh/thành nơi mua bán. Hoặc sử dụng định nghĩa có sẵn:TQ: Toàn quốc
      HCM: TP Hồ Chí Minh
      HN: Hà Nội
      [*]Ví dụ: HCM - Bán Vòng tay Hổ Phách ​Nội dung bài viết: Mô tả chi tiết sản phẩm mua/bán
      Bắt buộc phải có thông tin liên lạc, giá Mua/Bán
      Bài mới đăng chỉ được phép up sau 03 ngày.
      Thời gian up bài cho phép: 01 ngày 01 lần.
      Các hành vi vi phạm nội quy này sẽ bị xóa bài hoặc khóa tài khoản mà không cần báo trước.

Leaderboard


Popular Content

Showing most liked content on 08/01/2011 in all areas

  1. Bị ngăn cản kết hôn vì không hợp tuổi Tôi tuổi Dần và anh tuổi Hợi. Mẹ tôi và mẹ anh đã ra sức ngăn cản chuyện tôi và anh yêu nhau, rồi đưa ra các dẫn chứng vợ chồng kỵ tuổi lấy nhau, người chồng đã mất khi còn rất trẻ. Tôi đau khổ và bối rối vô cùng. From: Xuân Thu Sent: Thursday, November 25, 2010 2:44 PM Kính gửi các anh chị Ban biên tập mục Tâm sự! Tôi viết câu chuyện của tôi với mong muốn duy nhất là có thể chia sẻ lòng mình cả với những người tôi không hề quen biết dù câu chuyện của tôi có lẽ đã thuộc vào đề tài quá cũ. Hơn 4 năm trước đây tôi đã gặp và nhận lời yêu người yêu tôi bây giờ. Tình cảm của chúng tôi đã trải qua rất nhiều sóng gió với hiểu lầm, không liên lạc và xa cách. Nhưng khi gặp lại nhau vào năm ngoái, cả hai chúng tôi đã quyết định quay lại. Chúng tôi là tình yêu đầu đời trong sáng và đã có rất nhiều kỷ niệm vui buồn, những lúc vượt qua khó khăn luôn ở bên nhau. Giờ đây khi cả hai có công việc ổn định và có thể tiến đến hôn nhân thì tình yêu của chúng tôi cũng đang đi đến lúc bế tắc vô cùng chỉ vì một lý do duy nhất: tôi và anh kỵ tuổi nhau. Tôi tuổi Dần và anh tuổi Hợi. Mẹ tôi và mẹ anh đã ra sức ngăn cản chuyện tôi và anh yêu nhau, rồi đưa ra các dẫn chứng vợ chồng kỵ tuổi lấy nhau, người chồng đã mất khi còn rất trẻ. Đọc đến đây có thể rất nhiều người sẽ nói rằng thời buổi nào rồi mà còn coi trọng chuyện tuổi tác trong hôn nhân. Nhưng có thể các anh chị nằm trong số ít không coi trọng chuyện này. Trong khi đó người Việt Nam rất xem trọng chuyện tuổi tác trong hôn nhân. Nếu lấy nhau trong sự ngăn cản quyết liệt của gia đình 2 bên hẳn tôi và anh đều sẽ không thực sự hạnh phúc. Tôi có thể khẳng định chúng tôi yêu nhau rất nhiều và tình yêu đã đủ lớn, đã được thời gian chứng minh. Nhưng tôi cũng không hiểu sao giờ đây tôi đang quyết định không liên lạc với anh để chúng tôi suy nghĩ lại chuyện này. Tôi có cảm nhận rằng tình yêu của tôi sắp ra đi. Tôi đau khổ và bối rối vô cùng. Các anh chị ai đã có kinh nghiệm giải quyết vấn đề này xin hãy chia sẻ cùng tôi. Hiện tại tôi cảm thấy hụt hẫng trong lòng. Rất mong Ban biên tập đăng bài viết này của tôi để tôi có thể tìm ra hướng đi đúng đắn cho bản thân mình. Chân thành cảm ơn anh chị! Thu http://vnexpress.net/GL/Ban-doc-viet/Tam-s...10/11/3BA237EF/ Hai mối tình của tôi đều tan vỡ vì không hợp tuổi Khi cô ấy nghe nói không hợp như vậy thì tinh thần yêu đương tan biến đi đâu mất và xoay 180 độ. Cô ấy nói thôi mình chỉ có duyên phận tới đó, dừng lại là đúng mức rồi. Tôi nghe mà không tin vào tai mình nữa. (Hung) Xem tiếp : http://vnexpress.net/GL/Ban-doc-viet/Tam-s...10/12/3BA23EAB/ Đau khổ khôn nguôi sau mối tình kỵ tuổi Phải chia tay anh, tôi hụt hẫng, đau khổ, mất niềm tin. Hơn một năm đầu tiên tôi đã đi tìm anh, nấp ở một góc nào đó để đợi anh đi làm về, để thấy bóng dáng anh cho đỡ nhớ, cho đến ngày anh có người khác thì tôi không còn đến tìm anh nữa. (Hien) Xem tiếp : http://vnexpress.net/GL/Ban-doc-viet/Tam-s...10/12/3BA23E2C/ -------------------------------------- Bài trả lời của TTNC Lý Học Đông Phương Kính gửi ban biên tập mục Tâm sự và quý bạn đọc, Mấy hôm nay chúng tôi theo dõi mục tâm sự và cảm thấy khá bức xúc vì các vấn đề về tuổi hợp hay không hợp trong hôn nhân. Là những người đã và đang nghiên cứu văn hóa truyền thống, nghiên cứu hệ thống lý học Phương Đông nên chúng tôi cũng muốn có đôi lời chia sẻ với quý bạn đọc.Chúng tôi viết bài này nhằm cung cấp cho quý vị quan tâm một cái nhìn đúng đắn hơn về vấn đề tuổi và tương tác tuổi trong mối quan hệ nam nữ. Trong truyền thống văn hóa Á Đông, lúc cưới vợ gả chồng thì những người có tuổi trong gia đình đều quan tâm đến vấn đề luận tuổi. Nhưng qua thời gian cũng như thăng trầm của lịch sử, ngày nay, việc luận tuổi đã bi thất truyền dẫn tới những quan niệm chưa chính xác, lệch lạc và trở thành một nỗi lo sợ vô lý cho các cặp trai gái yêu nhau muốn tiến đến hôn nhân. Và cũng qua cả ngàn năm nay, sự thất truyền, tam sao thất bản đã dẫn đến những phương pháp luận tuổi không đầu không đuôi, gây ra những cảnh dở khóc dở cười, chia ly vô cớ và đầy nước mắt của những đôi yêu nhau. Phương pháp phổ biến hiện nay đa số các “thầy” xem tuổi đều áp dụng phương pháp cung phy. Có 8 cung phi cho nam (Càn, Đoài, Ly, Chấn, Tốn, Khảm, Cấn, Khôn) và 8 cung phi tương tự cho nữ, kết hợp lại sẽ cho ra 64 trường hợp, hay còn gọi là 64 cặp tương tác (Càn – Đoài, Càn – Khảm, Đoài – Ly, Cấn – Tốn…), và kết quả của 64 cặp sẽ tương ứng với các chữ : Sinh Khí – Diên Niên – Phúc Đức – Phục Vị - Ngũ Quỷ - Tuyệt Mạng – Lục Sát – Họa Hại. Như vậy chỉ có 64 trường hợp tương tác tuổi. Chúng ta thử làm phép tính nhỏ, với nhân loại mấy tỷ người mà chỉ có 64 trường hợp để xem tốt xấu thì xác xuất giống nhau là rất lớn. Cứ 64 cặp thì có 1 cặp giống nhau. Có thể thấy rằng đây là điều thiếu logic. Ngoài ra, còn có phương pháp ít phổ biến hơn, đó là phương pháp Cao Ly Đồ Hình. Phương pháp này lấy 10 thiên can theo tuổi nam phối 12 địa chi theo tuổi nữ, sau đó sẽ có 1 bảng phân loại và định tuổi cát-hung. Nếu ta lấy 6 tỷ người trên thế giới và giả định có 1 tỷ cặp vợ chồng với trung bình có 4 con một cặp (ứng với 6 tỷ), đem chia cho 120 trường hợp thì ta sẽ có: 1000. 000. 000: 120 = Gần 8.300.000 triệu cặp vợ chồng có chung một hoàn cảnh. Chỉ cần 3/ 10 trong số 120 trường hợp phối cung đó chia ly hoặc chết thì ta sẽ có 8.300.000 x 36 = 298. 800. 000 cặp vợ chồng ly tan. Và hơn 1 tỷ trẻ em mồ côi trên thế gian này. Phổ biến nhất hiện nay là tình trạng trong dân gian vẫn lưu giữ và truyền miệng những câu như “Dần Thân Tỵ Hợi” “Tý Ngọ Mão Dậu” “Thìn Tuất Sửu Mùi” là Tứ hành xung, hoặc “Canh cô Mậu Quả”, “gái tuổi Dần”, nhưng người ta quên rằng đằng sau những câu trên là cả 1 hệ thống lý thuyết hoàn chỉnh các mối quan hệ của Thiên can, Địa chi, mạng. Qua các phương pháp trên, các bạn cũng có thể nhận thấy thiếu sự hợp lý và khập khiễng trong phương pháp luận tuổi. Nhưng đáng tiếc là sự coi tuổi khập khiểng này đã tồn tại trên thực tế và ăn vào tiềm thức của các bậc ông bà cha mẹ, làm họ tin một cách mù quáng. Các phương pháp coi tuổi vợ chồng khập khiễng trên từ những vị thầy nửa mùa, chẳng hiểu thấu lý, nên vô tình đã để lứa đôi tan nát. Để thay đổi những quan niệm sai lầm trên, chúng tôi cần thấy phải có một phương pháp hoàn chỉnh, logic, nhằm giúp cho những đôi lứa yêu nhau đến được với nhau. Chính vì vậy chúng tôi, những người làm công việc nghiên cứu tại trung tâm nghiên cứu Lý Học Đông Phương đã tổng hợp, nghiên cứu và kiểm nghiệm để có được một phương pháp luận tuổi đúng đắn, hợp lý và mang tính khái quát cao nhất. Phương pháp này chúng tôi đặt tên là “Luận Tuổi Lạc Việt” với sự điều chỉnh mạng Thủy – Hỏa trong Lạc Thư Hoa Giáp so với Lục Thập Hoa Giáp của Trung Quốc nhằm chứng mính cách so tuổi vợ chồng còn sót lại trong dân gian hiện nay chỉ là những mảnh vụn rời rạc, không hoàn chỉnh dẫn đến những sai lầm tai hại. “Không có tuổi vợ chồng xấu trong tình yêu đôi lứa đích thực” và “yêu nhau cứ lấy” là quan điểm của chúng tôi. Ngoài ra, tương quan vợ chồng chỉ là những điều kiện ban đầu, khi gia đình có con thì tương quan này sẽ thay đổi tốt hoặc xấu phụ thuộc vào tuổi đứa con có hợp với cha mẹ hay không, đặc biệt là con út! Ông bà ta có câu “giàu con út, khó con út” Theo phương pháp này, tương tác giữa người với người xảy ra ở cả 3 yếu tố Thiên can, Địa chi và Mạng thông qua mối quan hệ về ngũ hành sinh khắc và nguyên lý âm dương. Như vậy, để dể hình dùng, ta có thể làm phép tính như sau : 60 tuổi nam phối 60 tuổi nữ, cùng với tuổi của 60 đứa con út có khả năng sinh ra theo tương quan tuổi vợ chồng, Tức là ta sẽ có: 60 x 60 x 60 = 216.000 trường hợp khác nhau. Xác xuất để tinh toán cao hơn nhiều lần so với các phương pháp trên. Ở đây, chúng tôi chưa nói đến các cách cục tốt trong việc phối tuổi vợ chồng và con cái trong gia đình. Nhưng vấn đề không dừng lại ở những con số khô khan và phương pháp lạnh lùng. Phương pháp “Luận tuổi Lạc Việt” còn có tính nhân bản ở chỗ là nó khẳng định một cách hợp lý theo thuyết Âm Dương Ngũ hành về tình yêu nam nữ -"Yêu nhau cứ lấy" và sinh đứa con chính là nguồn hạnh phúc gia đình, dù tuổi cha mẹ có khắc nhau đi chăng nữa. Và một vấn đề chúng tôi cũng muốn chia sẻ với quý bạn đọc, đó là “tuổi tác” là một trong những điều kiện tương tác mang tính căn bản ảnh hưởng đến một hoặc nhiều mối quan hệ giữa người với người, chứ không có nghĩa tuổi tác sẽ quyết định mọi thứ diễn ra xung quanh bạn. Có rất nhiều các yếu tố khác ảnh hưởng đến cuộc sống của mỗi các nhân, mỗi gia đình như : hoàn cảnh gia đình, công việc, thu nhập, tính cách cá nhân… Chính vì vậy khi gặp các vấn đề nan giải trong cuộc sống, các bạn không nên quy hết vào lý do… không hợp tuổi, để rồi có những đáng tiếc xảy ra và xã hội lại tiếp tục duy trì những quan niệm không chính xác về việc xem xét tương quan tuổi giữa người với người! Xin chân thành cám ơn quý báo và quý bạn đọc. Thiên Luân Trung Tâm Nghiên Cứu Lý Học Đông Phương.
    2 likes
  2. sang năm cẩn thận về ăn nói kẻo vạ miệng đến nơi kiểm tra sức khỏe (thận) đi lại cũng lưu ý chủ yếu dễ bị nạn tai sang năm xấu nhất của đại hạn nên làm gì cũng phải cẩn thận
    2 likes
  3. Phải xem lại xem có đúng lá số không cái nhỉ? - hỌC ĐƯỢC có bằng sắc văn khoa, nhưng công việc thì không mấy thuận lợi hay gặp trắc trở trong con đường thăng tiến công danh,mẹ yếu (hoặc bệnh tật) họ hàng hay khắc khẩu
    2 likes
  4. VIỆT SỬ 5000 NĂM VĂN HIẾN VÀ VẤN ĐỀ BIỂN ĐÔNG Nguyễn Vũ Tuấn Anh Giám đốc Trung tâm nghiên cứu Lý học Đông phương. Qua bài viết của học giả Hồ Bạch Thảo phản biện nhà nghiên cứu lịch sử Trung Quốc là Hàn Chấn Hoa, chúng ta dễ dàng nhận thấy các học giả Trung Hoa dẫn tư liệu lịch sử trong các cổ thư chữ Hán để chứng minh biển Đông từ xa xưa thuộc về đất của người Hán. Nhưng có một điều rất đáng chú ý và cũng rất dễ dàng nhận ra rằng: Tất cả những tư liệu cổ ấy chỉ bắt đầu từ thời Hán trở về sau. Vậy trước đó vùng đất này thuộc về ai? Điều này có liên quan gì đến Việt sử 5000 năm văn hiến một thời huy hoàng ở miền Nam sông Dương Tử? Kính thưa quí vị quan tâm. Từ bài viết của tác giả Trần Kinh Nghi với tựa "Lịch sử cần sự thật"(*1) đăng trên Vietnamnet.vn, đến bài của học giả Hồ Bạch Thảo phản biện nhà nghiên cứu lịch sử người Trung Quốc Hàn Chấn Hoa(*2), chúng ta thấy khá rõ một nguyên nhân sâu xa trong lịch sử và là vấn đề cốt lõi liên quan đến biển Đông, đó chính là: Cội nguồn sử Việt 5000 năm văn hiến một thời huy hoàng ở miền nam sông Dương tử, hay chỉ là "một liên minh bộ lạc" với những người dân "Ở trần đóng khố"? Qua hai bài viết trên và rất nhiều bài viết của giới nghiên cứu lịch sử Trung Hoa liên quan đến biển Đông, chúng ta dễ dàng nhận thấy mục đích cuối cùng của những bài viết này của họ đều xác định rằng: Biển Đông từ trong lịch sử thuộc về người Hán. Các nhà nghiên cứu sử người Hán đều dẫn những tư liệu, những di vật khảo cổ bắt đầu từ thời Hán trở lại đây, nhằm chứng minh biển Đông thuộc Hán từ hai ngàn năm trước. Chúng tôi chưa bàn đến tính đúng sai và tính chưa rõ ràng của những sử liệu này. Việc này đã có những nhà nghiên cứu quốc tế và Việt Nam uyên bác với những nguồn sử liệu dồi dào phân tích, chứng minh và đã phản biện một cách sắc xảo. Trong bài viết này, chúng tôi đặt vấn đề từ một góc nhìn khác liên quan đến Việt sử 5000 năm văn hiến và chủ quyền ở Biển Đông thuộc Việt Nam. Trước hết, chúng tôi xác định rằng: Việc cố gắng chứng minh chủ quyền biển Đông của Việt Nam hiện nay thuộc về Trung Quốc của những nhà nghiên cứu lịch sử người Hán, hoàn toàn chỉ mang ý nghĩa tuyền truyền trong chính dân chúng Trung Quốc nhằm tạo một ý niệm rằng: Người Trung Quốc đang đòi lại quyền lợi đã mất của họ từ trong lịch sử. Đây là một sai lầm lớn nhất của họ không chỉ thể hiện ở tri thức lịch sử của các nhà nghiên cứu Hán, mà còn cả ở bản thân phương pháp ứng dụng. Hơn thế nữa, đó là sai lầm có tính chiến lược toàn cầu của mục đích thể hiện sức mạnh Trung Quốc. Chúng tôi sẽ lần lượt chứng minh luận điểm này qua từng tiêu đề mà chúng tôi đã đặt ra. I - Phương pháp minh chứng qua những chứng cứ lịch sử để xác định chủ quyền một vùng đất hiện tại liên quan thế nào với lịch sử? Đây chính là việc làm của những nhà nghiên cứu lịch sử Trung Quốc đang cố gắng chứng minh rằng: Biển Đông xa xưa thuộc về người Hán. Một ví dụ sinh động của phương pháp này chính là bài viết của ông Hàn Chấn Hoa và đã được nhà nghiên cứu Việt sử Hồ Bạch Thảo phản biện đến từng chi tiết trong nội dung bài viết. Nhìn từ một góc độ khác của bài viết này - xét về phương pháp luận qua những tư liệu trích dẫn từ bài viết của Hàn Chấn Hoa - thì các nhà sử học Trung Quốc đã mắc một sai lầm mang tính học thuật, chính là sự giới hạn thời gian lịch sử của họ. Cụ thể qua tư liệu đã dẫn trong nội dung bài viết của ông Hồ Bạch Thảo ngay trong topic này và rất nhiều bài viết của các học giả khác liên quan thì họ - những nhà nghiên cứu lịch sử Trung Quốc - đều giới hạn thời gian lịch sử xa nhất là thời Hán và không thể xa hơn. Tại sao họ lại ấn định một cái giới hạn thời gian lịch sử như vậy? Bởi vì trước thời Hán của lịch sử Trung Hoa - là giới hạn lịch sử mà họ đặt ra - họ không thể chứng minh được biển Đông của Việt Nam hiện nay thuộc Trung Quốc. Chính tính giới hạn thời gian lịch sử này, tự nó đã mâu thuẫn và thể hiện tính bất hợp lý ngay trong nội tại phương pháp đó. Chúng ta đều biết rằng: Tính hợp lý là một yếu tố cần để xác định tính chân lý trong khoa học. Do đó, với cách dẫn chứng tư liệu lịch sử của các nhà nghiên cứu Hán mang tính giới hạn thời gian mà không đáp ứng được các tiêu chí và nguyên tắc xác định lịch sử, nên nó hoàn toàn mang tính ngụy biện. Cho dù họ có ý thức, hay không có ý thức về việc này (Chúng tôi sẽ đề cập đến những tiêu chí và nguyên tắc lịch sử trong phần sau của bài viết này). Bởi vì: Nếu áp dụng phương pháp này và giới hạn thời gian vào thế kỷ 12 thì phần lớn lục địa Âu - Á trong đó có cả Trung Quốc thuộc về người Mông Cổ!? Còn với giới hạn từ thời Hán - như các nhà nghiên cứu đã xác định - thì trước đó chủ quyền biển Đông không thuộc về Trung Quốc. Hay nói một cách khác: Chính những nhà nghiên cứu lịch sử Trung Quốc, khi đang cố gắng minh chứng chủ quyền biển Đông thuộc về Trung Quốc, đã tự phủ nhận chính chủ quyền của họ trong qúa khứ lịch sử. Bởi vì trước thời Hán ghi nhận trong lịch sử Trung Hoa thì cả miền nam sông Dương Tử, tất nhiên bao gồm luôn cả biển Đông, thuộc về Bách Việt mà hậu duệ chính là dân tộc Việt trên lãnh thổ Việt Nam hiện nay. Điều này đã được ghi nhận ngay trong cuốn sử nổi tiếng của Trung Quốc là cuốn "Sử Ký" của Tư Mã Thiên, trong đó ghi rõ: "Nam Dương tử là nơi Bách Việt ở". Đây chính là tư liệu lịch sử xưa nhất và đáng tin cậy của chính người Hán. Nội dung của tư liệu này cho thấy sự xác định rằng: Trước thời Tần Hán, người Hán không hề là dân tộc làm chủ ở Biển Đông Việt Nam ngày nay. Đó chính là nguyên nhân để các sử gia Trung Quốc chỉ có thể dẫn chứng chủ quyền ở biển Đông Việt Nam ngày này thuộc về Trung Quốc từ thời Tần Hán trở lại đây. Bởi vì, ngay phía Nam dòng sông Dương Tử là nơi Bách Việt ở thì: Hàng Châu, Phúc Kiến, Quảng Đông, Quảng Tây, Vân Nam..vv.....tất nhiên cả Hồng Kong, Thượng Hải, Ma Cao và cả Đài Loan bây giờ đều thuộc về "Bách Việt" vào trước Tần Hán. Còn xa hơn dưới biển Đông Việt Nam ngày này thì không cần phải bàn. Đây là hai tấm bản đồ thời Chiến Quốc và thời Tần do chính các nhà nghiên cứu lịch sử Trung Quốc thực hiện, trong cuốn "Lịch sử Trung Quốc 5000 năm". Qua bản đồ này chúng ta thấy rằng trước Tần Hán, người Trung Quốc chưa hề là chủ sở hữu biển Đông của Việt Nam ngày nay. Vấn đề còn lại là vào trước Tần Hán biển Đông Việt Nam ngày nay có thuộc về người Việt hay không? Điều này liên quan đến cội nguồn Việt sử. 2 . Việt sử 5000 năm văn hiến và vấn đề chủ quyền lãnh thổ, nhìn từ lịch sử. Trên nguyên tắc xác định chủ quyền lãnh thổ thì việc đầu tiên là phải xác định chủ quyền quốc gia. Người ta không thể xác định chủ quyền lãnh thổ căn cứ vào sự tồn tại của những tộc người với tổ chức bộ lạc, hoặc liên minh bộ lạc. Tiêu chí cho lịch sử một dân tộc xác định rằng: Lịch sử của một dân tộc chỉ được coi là bắt đầu từ khi dân tộc đó lập quốc. Còn trước khi một dân tộc, hoặc một tập hợp các dân tộc nào đó lập quốc thì chỉ coi là lịch sử tiến hóa đến một giá trị văn minh. Đến đây, chúng tôi nghĩ rằng qúa đủ để thấy tính cần thiết cho việc xác định một cách rõ ràng trên cơ sở khoa học cho hai quan điểm sử học về cội nguồn dân tộc Việt. Cả hai quan điểm này đều nhân danh khoa học, nhưng hoàn toàn xung khắc nhau đó là: 1. Quan điểm xác định và chứng minh Việt sử 5000 năm văn hiến, mở đầu bằng quốc gia Văn Lang dưới triều đại của các Vua Hùng, bắt đầu từ năm thứ 8 vận 7, Hội Ngọ. Nhâm Tuất - 2879 trước CN. Tính đến nay gần 5000 năm lịch sử. Nước Văn Lang: Bắc giáp Động Đình Hồ, Nam giáp Hồ Tôn, Tây giáp Ba Thục, Đông giáp Đông Hải. Trong bài viết này chúng tôi gọi tắt là: Quan điểm xác định truyền thống văn hóa sử Việt. Quan điểm này được chứng minh trên cơ sở tiêu chí khoa học, căn cứ trên truyền thống văn hóa sử Việt và được ghi nhận trong chính sử Việt Nam qua các triều đại - Kể từ khi dân tộc Việt hưng quốc vào thế kỷ thứ X sau CN. 2. Quan điểm cho rằng thời Hùng Vương - cội nguồn dân tộc Việt chỉ có thể bắt đầu vào thế kỷ thứ VII trước CN và chỉ là "một liên minh gồm 15 bộ lạc, cùng lắm là một nhà nước sơ khai" với địa bàn cư trú vỏn vẹn ở đồng bằng sông Hồng. Trong bài viết này, chúng tôi gọi tắt là : Quan điểm phủ nhận truyền thống văn hóa sử Việt. Quan điểm này hoàn toàn chỉ dựa trên sự hoài nghi về những tư liệu lịch sử trong chính Việt sử. Hay nói rõ hơn: Nó chỉ là giả thiết - nếu nhân danh khoa học - dựa trên sự hoài nghi vì tính mơ hồ do thất truyền những bản văn, tư liệu từ hàng ngàn năm trước của Việt sử. Kính thưa quí vị quan tâm. Nếu quan điểm phủ nhận truyền thống văn hóa sử Việt đúng thì vào trước thời Tần Hán, Biển Việt Nam hiện nay không thuộc lãnh thổ của một quốc gia có chủ quyền nào. Không lẽ nó thuộc về liên minh 15 bộ lạc? Và vấn đề tiếp tục đặt ra là: Có hay không thời Bắc thuộc của một dân tộc mất nước là Việt tộc - Khi thời Hùng Vương cội nguồn lịch sử của dân tộc Việt chưa phải là một quốc gia, để có thể đặt vấn đề mất nước? Tiếp theo nữa là vấn đề khi các cuộc nổi dậy của Việt tộc, bắt đầu từ Hai Bà Trưng cho đến việc lập quốc vào thế kỷ thứ X là giành lại độc lập dân tộc - nếu xác định Thời Hùng Vương là một quốc gia, hay là một sự ly khai khỏi đế chế Hán , nếu xác định thời Hùng Vương chỉ là một liên minh bộ lạc? Ngược lại, nếu quan điểm xác định truyền thống văn hóa sử Việt đúng thì điều rất rõ ràng rằng: Dân tộc Việt trước thời Tần Hán đã thành lập một quốc gia của dân tộc này và hoàn toàn chính danh về chủ quyền lãnh thổ khi xác định rằng: Trước thời Tần Hán, lãnh thổ của quốc gia Văn Lang: Bắc giáp Động Đình hồ, Nam giáp Hồ Tôn, Tây giáp Ba Thục và Đông giáp Đông Hải - thì - hoàn toàn không có vấn đề Biển Đông Việt Nam hiện nay thuộc về Trung Quốc với góc nhìn từ lịch sử khi dân tộc Việt đã hưng quốc vào thế kỷ thứ X và xác định chủ quyền lãnh thổ trên bất cứ phần lãnh thổ nào giành lại được khi phục hồi lại một phần của quốc gia Văn Lang xưa. Tất nhiên trong đó gồm cả Trường Sa và Hoàng Sa. Như vậy, chính sự xác định và minh chứng tính chân lý của hai quan điểm này sẽ góp phần xác định tính chủ quyền biển đảo của Việt Nam trên biển Đông từ góc nhìn của lịch sử. Kính thưa quí vị. Cả hai quan điểm mà chúng tôi trình bày ở trên đều nhân danh khoa học để bảo vệ quan điểm của mình. Về vấn đề này, chúng tôi đã minh chứng đầy đủ những luận cứ hoàn toàn căn cứ vào tiêu chí khoa học cho một luận cứ khoa học, để khẳng định Việt sử trải gần 5000 năm văn hiến. Có thể nói rằng: Tất cả những sách đã được chính thức xuất bản của người viết và của các nhà nghiên cứu khoa học đồng quan điểm trong nước và quốc tế và qua các bài viết, tiểu luận trên diễn đàn lyhocdongphuong.org.vn đã chứng minh và phản biện một cách sắc sảo đến từng chi tiết các luận cứ của những nhà khoa học có quan điểm phủ nhận truyền thống văn hóa sử Việt(*3). Và rõ ràng trong một thời gian quá dài trài gần 30 năm tính từ khi quan điểm phủ nhận truyền thống văn hóa sử Việt xuất hiện và chí ít tính từ cuốn sách đầu tiên của người viết bài này từ 1998 cho đến nay, đã rất nhiều bài viết của các học giả, những nhà khoa học khác - kể cả trong nước và quốc tế - cũng đã lên tiếng, mà chưa hề có một sự biện minh, phản biện của các nhà nghiên cứu lịch sử thuộc quan điểm phủ nhân truyền thống văn hóa sử Việt. Thời gian gần đây, hiện tượng Thiền Sư Lê Mạnh Thát với các bài viết của mình minh chứng Việt sử 5000 năm văn hiến với phương pháp luận căn cứ vào các thư tịch, tư liệu, chứng tích liên quan đến lịch sử Phật giáo ở Việt Nam đã gây chú ý đặc biệt của dư luận. Hội Sử học Việt Nam cũng đã lên tiếng sẽ tổ chức hội thảo để có một cuộc phản biện hiếm hoi với Thiền sư Lê Mạnh Thát. Mặc dù chưa thống nhất với một số luận cứ của Thiền Sư, nhưng chúng tôi cũng chuẩn bị đứng bên Thiền sư Lê Mạnh Thát cùng minh chứng cho Việt sử 5000 năm văn hiến. Tuy nhiên, không hiểu vì lý do gì không thấy mọi chuyện được nhắc tới, cứ như nó chưa từng xảy ra. Tất cả những sự im lặng này là bước đầu dễ nhận thấy để xác định rõ hơn về tính phi khoa học của quan điểm phủ nhận truyền thống văn hóa sử Việt. Những nhà khoa học có quan điểm phủ nhận văn hóa sử truyền thống Việt hoàn toàn lợi thế về bằng cấp, địa vị và quyền lực trong khoa học, nhưng phải im lặng thì chỉ có thể giải thích rằng: Họ không đủ tự tin vào chính những những luận cứ của họ để bảo vệ quan điểm. Trên cơ sở này quan điểm Việt sử trài 5000 năm văn hiến đã được chứng minh hoàn toàn khoa học và không hề có phản biện chính thức. Chúng tôi xác định rằng: Chủ quyền trên biển Đông của Việt Nam hiện nay, chính là sự tiếp tục xác định chủ quyền quốc gia, kể từ khi dân tộc Việt lập quốc từ năm 2879 trước CN bên bờ Nam sông Dương tử. Chính vì sự thành lập quốc gia và với một lãnh thổ rộng lớn bao trùm nam Dương Tử, nên người Việt hoàn toàn đầy đủ tính lịch sử dân tộc về chủ quyền, khi giành lại độc lập và hưng quốc trên một phần lãnh thổ quốc gia đã mất do sự xâm lược của đế chế Hán trải hơn 1000 năm. Đó chính là phần lãnh thổ Việt Nam hiện nay bao gồm cả biển Đông trong đó có Trường Sa và Hoàng Sa. Đây cũng chính là lý do mà các nhà nghiên cứu lịch sử Trung Hoa không thể dẫn chứng lịch sử của những vùng biển này trước thời Hán. Bởi vậy, chúng tôi xác quyết rằng: Sự có mặt của những lực lượng thuộc dân tộc Việt bảo vệ biển Đông của Việt Nam ngày nay, gồm Trường Sa, Hoàng Sa trước khi có cuộc chiếm đóng bằng bạo lực của Trung Quốc vào năm 1974, hoàn toàn thuộc về người Việt về cả mặt luật pháp quốc tế hiện hành và cả từ góc nhìn từ lịch sử - Nhân danh Việt sử 5000 năm văn hiến, một thời huy hoàng ở miền nam sông Dương Tử. Lịch sử - Quá khứ và thực tại Sự xác định một qúa khứ lịch sử của một dân tộc về biên giới và lãnh thổ cách đây hơn 2000 năm về trước với mục đích xác định tính chân lý cội nguồn dân tộc, hoàn toàn không có nghĩa là một yêu cầu phục hồi lại những vùng lãnh thổ đã mất của dân tộc đó, nếu như những biến cố lịch sử không dẫn tới những yêu cầu đó. Diễn tả một cách rõ ràng hơn: Đế chế Inca của người da đỏ bị khuất phục bởi những đội quân xâm lược của cường quốc da trắng và quốc gia Inca sụp đổ. Xác nhận sự thật lịch sử này, không có nghĩa tất cả những người không phải chủng tộc da đỏ phải ra khỏi Hoa Kỳ. Lịch sử đã có những diễn biến theo quy luật và logic của nó và đã xác định một quốc gia có chủ quyền tách rời các quốc gia từng xâm lược đế chế Inca. Những dân tộc trên đất nước Hoa Kỳ hiện nay, đã thừa nhận về mặt tình cảm và pháp lý của Hợp Chủng quốc Hoa Kỳ. Đó là thực tại và logic của lịch sử. Tương tự như vậy, việc xác định Việt sử 5000 năm văn hiến có khoảng cách hơn 2000 năm về trước - một thời huy hoàng ở miền nam sông Dương tử - tức là gần 1/3 lãnh thổ Trung Quốc ngày nay, không có nghĩa là sự xác định chủ quyền lãnh thổ của dân tộc Việt trong hiện tại và yêu cầu nước Trung Hoa phải trao lại vùng lãnh thổ đó cho dân tộc Việt. Nhưng điều đó, cũng có nghĩa rằng: Vùng biển Đông của Việt Nam mà nước Trung Hoa đang xác định chủ quyền của họ với căn cứ một quá khứ có giới hạn từ thời Hán trở lại đây, mà họ đưa ra về mặt lịch sử, khi mà thực tại lịch sử đã xác định với sự công nhận về luật pháp quốc tế trong lịch sử hiện đại - tức là logic của lịch sử hiện tại - đang được tôn trọng. Người Việt đã giành lại độc lập trên mảnh đất của tổ tiên từ hơn 2000 năm trước và sở hữu Biền Đông qua các triều đại lịch sử, kể từ khi dân tộc Việt hưng quốc từ thế kỷ thứ X sau CN. Bởi vậy một lần nữa tôi xác định rằng: Việt sử trải gần 5000 năm là một chân lý nhân danh khoa học, nó được chứng minh đúng trên mọi phương diện không chỉ ở tính khoa học phản ánh chân lý, mà còn cả về chủ quyền lãnh thổ quốc gia. Việc minh chứng với những tư liệu có tính giới hạn thời gian lịch sử từ thời Hán của các nhà nghiên cứu lịch sử Trung Hoa hoàn toàn phi logic và khả năng mang tính tuyên truyền, chỉ có gía trị gây sự hiểu nhầm trong cái nhìn của người dân Trung Quốc, nhằm kích động tinh thần dân tộc với chủ quyền lãnh thổ trong qúa khứ. Chính vì tính phi logic bởi tính giới hạn thời gian lịch sử của các nhà nghiên cứu lịch sử Trung Hoa, khi xác định lịch sử chủ quyền biên đảo trên Biển Đông của họ, khiến người viết hoàn toàn có cơ ở để hoài nghi động cơ của họ hoàn toàn phục vụ cho một mưu đồ nhằm thôn tính biển Đông của Việt Nam. Nhưng rất tiếc, đây lại là một sai lầm lớn hơn về chiến lược phát triển của cả một quốc gia. "Người ta không thể xác định một cái đúng từ một cái sai. Mà chỉ có thể từ một cái đúng chỉ ra những cái sai". Sự sai lầm, phi logic trong luận cứ của các nhà nghiên cứu lịch sử Trung Hoa về lịch sử chủ quyền biển Đông , chính là hệ quả của sự sai lầm trong chiến lược phát triển của quốc gia này, trong bối cảnh thế giới hiện nay. Việt Nam - Trung Quốc và bối cảnh lịch sử quốc tế hiện đại. Trong bài viết "Lịch sử cần sự thật" đăng trên Vietnamnet.vn, tác giả Trần Kinh Nghi viết: .(*3) Hoàn toàn chính xác! Nhưng lịch sử cũng cho thấy các mối tương quan giữa kẻ mạnh và kẻ yếu mỗi lúc một khác. Có lẽ do giới hạn của chủ đề bài viết, mà tác giả Trần Kinh Nghi không diễn giải cụ thể. Bởi vì, lịch sử hiện đại không phải như vài trăm năm trước với khái niệm thời gian dài đằng đẵng và không gian mênh mông. Mà trong bối cảnh lịch sử ấy, chung quanh Việt Nam chỉ có vài nước nhỏ bé với duy nhất đất nước Trung Quốc vĩ đại, gần như có thể thống trị cả thế giới. Lịch sử hiện đại thì hoàn toàn ngược lại. Không gian thật nhỏ bé và thời gian thì vận động nhanh hơn nhiều bởi chính những phương tiện của con người. Trong mối quan hệ của lịch sử hiện đại thì ngay cả sự phát triển hùng mạnh của Trung Quốc cho đến hôm nay so với Việt Nam, cũng chỉ tương đương tỷ lệ với tương quan Việt Nam và Trung Quốc cách đây hàng trăm năm trước. Nhưng nó lại được đặt trong một bối cảnh thế giới hiện đại khác hẳn, đang tác động vào mối quan hệ cổ điển này. Trung Quốc không còn là nước duy nhất hùng mạnh trên thế giới tác động đến Việt Nam. Một giá trị logic mới của lịch sử được xác lập ít nhất về mặt lý thuyết cho các mối quan hệ quốc tế và được các nhiều cường quốc trên thế giới công nhận. Thí dụ như quy chế của Liên Hiệp Quốc mà Việt Nam là một nước thành viên. Về xu hướng phát triển của văn minh hiện đại khiến cho vai trò của Trung Quốc - cho dù đang phát triển rất nhanh - cũng chỉ là một thành tố trong quá trình toàn cầu hóa được xác lập như một quy luật tất yếu thông qua tri thức của con người. Quá trình này sẽ dẫn đến hệ quả tất yếu là: Xác định một quyền lực toàn cầu để điều khiển toàn bộ sự tồn tại và phát triển tiếp theo của một thế giới toàn cầu hóa về mọi phương diện. Quyền lực toàn cầu này - hoặc là một tổ chức quốc tế gồm nhiều quốc gia nhằm phục vụ cho lợi ích chung của nhân loại; hoặc là xác lập vị trí bá chủ thế giới của một quốc gia duy nhất. Nếu theo xu hướng quốc tế hóa quyền lực toàn cầu thì rõ ràng hành vi xâm phạm chủ quyền lãnh thổ đã được xác định là không phù hợp. Nó sẽ tạo ra một thành kiến với những quốc gia có hành vi trên và nó sẽ đẩy thế giới đến xu hướng dùng sức mạnh để chỉ phối toàn thế giới với một quốc gia bá chủ. Nếu theo xu hướng một quốc gia làm bá chủ thế giới thì cái gì sẽ xẩy ra? Tất yếu đó là một cuộc chiến tranh mà Việt Nam không tham gia. Đơn giản vì đất nước nhỏ bé này không có thể làm bá chủ thế giới bằng sức mạnh về cả kinh tế lẫn quân sự. Sự xác định quyền lợi cốt lõi trên lãnh thổ của các nước láng giềng của Trung Quốc - mà hàng ngàn năm nay những người dân các nước gần Trung Quốc sinh sống, trong đó có Việt Nam - sẽ xác định tham vọng chi phối thế giới của đất nước này và thách thức quyền lợi và tham vọng của các nước khác. Ở đây tôi cũng nói thẳng: Đó là chính là Hoa Kỳ. Có lẽ, những ai ham đọc sách báo có thể chưa quên rằng: Sau khi Liên Xô và khối Đông Âu sụp đổ, chính Hoa Kỳ đã có ý định giải tán Liên Hợp Quốc và xác định quyền lực bá chủ chi phối thế giới. Nhưng vì một nguyên nhân nào đó, họ đã không thực hiện ý định này. Tuy nhiên, chỉ cần một ý định như vậy, cũng đủ xác định sự tư tin của Hoa Kỳ và tham vọng bá chủ trong việc chi phối thế giới. Sự phát triển nhanh chóng về cả kinh tế và quân sự của Trung Quốc không thôi thì chắc vấn đề sẽ chưa có gì để bàn. Nhưng với sự coi quyền lợi lãnh thổ là cốt lõi với các nước láng giềng của họ, mà trước đó họ không có trên thực tế lịch sử hiện đại - và cả tối cổ với Việt Nam 5000 năm văn hiến - đã khiến tham vọng bá chủ của Hoa Kỳ lung lay. Đừng tưởng cuộc khủng hoảng kinh tế vừa qua làm suy yếu sức mạnh kinh tế và quân sự của Hoa Kỳ với tham vọng bá chủ thế giới - ít nhất trong lúc này. Ngược lại, chính nó lại là nguyên nhân để một cuộc chiến xác định ngôi vị bá chủ thế giới đến gần hơn, nhằm xác định quyền lực chi phối thế giới để giải quyết cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu hiện nay chưa có lối thoát. Nếu người Trung Quốc đang có tham vọng chi phối thế giới (Tôi chưa nói đến tham vọng bá chủ thay thế Hoa Kỳ) thì họ đã mắc một sai lầm chiến lược khi xác định chủ quyền lãnh thổ với các nước láng giềng trong đó có biển Đông của Việt Nam - khi so với thế giới nó chỉ tỷ lệ với cái ao trong làng. Với những cảm tình còn sót lại trong tôi với đất nước Trung Quốc, tôi viết bài này muốn thành thực nói với họ rằng: Hãy trả lại tất cả các biển đảo đã chiếm đóng và long trọng xác định chủ quyền biển đảo của Việt Nam như thực tế lịch sử hiện đại đã định vị, nhún nhường khiêm tốn để phát triển kinh tế và sức mạnh quân sự chỉ đủ răn đe những quốc gia nào có ý đồ xâm phạm chủ quyền lãnh thổ của Trung Quốc. "Hãy ẩn mình chờ thời" - đó là câu nói đó của ngài Đặng Tiểu Bình, hình như cũng không lâu lắm thì phải. Cách đây không lâu, chính người Trung Quốc đã xác định "Chủ nghĩa thực dân cũ là đi xâm lược, còn chủ nghĩa thực dân mới là xâm chiếm thị trường". Tôi nghĩ chắc họ đủ tỉnh táo để có những chiến lược phù hợp với thời đại. Xu hướng hội nhập toàn cầu sẽ dẫn đến sự tập trung quyền lực mang tính quốc tế trong tương lai. Chính điều này xác định sai lầm của Trung Quốc vì những tham vọng lãnh thổ trong quan hệ quốc tế, mà đáng nhẽ họ có thể có một sự ảnh hưởng rất quan trọng trong tương lai. Nếu họ suy nghĩ lại, may ra còn kịp. Còn vài ngày nữa hai vị đứng đầu Trung Quốc và Hoa Kỳ sẽ gặp nhau. Sau đó mọi người sẽ biết, hoặc sẽ có thể tiên tri cái gì sẽ xảy ra trong một tương lai gần. Cuộc gặp này sẽ tương tự cuộc gặp của Tổng thống Goorbachop và Regan, mặc dù nó không cần bí mật như vậy. Kết luận Trong cái nhìn của người viết bài này, thì những bài viết của những nhà nghiên cứu lịch sử Trung Hoa, đại loại như Hàn Chấn Hoa, hoàn toàn chỉ là hệ quả của một tham vọng, nên nó không mang tính học thuật dù mang danh học thuật. Chỉ cần một thay đổi có tính chiến lược quốc tế là nó biến mất và các nhà nghiên cứu loại này sẽ về hưu, hoặc tìm chỗ ẩn dật vì đời không hiểu mình. Chân lý thật sự thuộc về Việt sử 5000 năm văn hiến, một thời huyền vĩ ở miền nam sông Dương tử và là cội nguồn đích thực của nền văn minh Đông phương. Nếu như có cuộc đối thoại giữa các nền văn minh thì đấy chính là văn minh Lạc Việt với thuyết Âm Dương Ngũ hành - một lý thuyết thống nhất vũ trụ - đối thoại để hòa nhập với nền văn minh khoa học kỹ thuật hiện đại, theo cái nhìn của cá nhân tôi. Một thế giới thống nhất trong tương lai, nó sẽ cần tối thiểu đến một chuẩn mực quy ước chung được chấp thuận cho cả nhân loại để tồn tại và phát triển. Lý tưởng nhất cho một sự hội nhập toàn cầu chính là con người tìm ra và xác định một lý thuyết thống nhất vũ trụ. ========================================= * Chú thích: 1/ http://www.lyhocdongphuong.org.vn/diendan/...mp;#entry112522 2/ http://www.tapchithoidai.org/ThoiDai20/201020_HoBachThao.htm 3/ http://www.lyhocdongphuong.org.vn/diendan/...hp?showforum=50
    2 likes
  5. Nói đến Thần Chú và Chân Ngôn thì nhiều người dễ ấn tượng. Nhưng hỏi trì Thần Chú, Chú vào đâu ? thì thật ít người biết hỏi và biết đáp. Chẳng lẽ nói Bùa Chú thì có nghĩa Thần...,chú trong lá Bùa ?. Chẳng lẽ trì Thần Chú vào chén nước hay đặt chén nước lên ban thờ thì Thần...sẽ Chú trong Nước ?. Như Thần Chú Đại Bi có 42 Thủ Nhãn Đồ Pháp Khí, chẳng lẽ các Thần sẽ Chú tại 42 Pháp khí ? Chú vào đâu ? Có ai trả lời chính xác câu hỏi này được thì câu hỏi cũng là một vấn đề.
    1 like
  6. Hãy học thuộc bản Lạc Thư hoa giáp để ứng dụng. Nếu muốn hiểu nguyên lý thì xem kỹ cuốn "Hà Đồ trong văn minh Lạc Việt". Dùng bảng Lạc Thư ứng dụng tìm hành khí trong tháng, ngày. So sánh sự sinh khắc của hành khí để gia giảm quẻ. Sẽ rất chính xác. Nhưng cầu kỳ quá.
    1 like
  7. Nước có thể phân biệt được tốt xấu. Hi các bạn, vừa đọc được một thông tin rất thú vị ^^. Bạn có bao giờ nghĩ nước có thể phân biệt được tốt xấu không, có tư tưởng và có thể nhận đinh. Thế mà trong một loạt các thí nghiệm của tiến sĩ Masaru Emoto, Chủ tịch của Hội Hado Quốc tế – International Hado Membership gọi tắt là IHM đã làm có thể làm người xem sửng sốt và thay đổi quan niệm của khoa học hiện đại. A1_____________________A2________________A3 A4__________________________A5A6 Liên quan đến tinh thể nước, IHM đã làm một vài thí nghiệm thú vị. Tiến trình thí nghiệm (Ảnh A-3 và A-4) như sau. Nước dùng để thí nghiệm được nhỏ vào 100 chiếc đĩa và để vào một máy ướp lạnh (Ảnh A-1) trong 2 giờ đồng hồ. Sau đó các tinh thể nước đóng băng được đặt dưới một kính hiển vi để chụp ảnh chóp của nước đá với độ phóng đại từ 200 đến 500 lần (Ảnh A-5 và A-6). Từ đây về sau tinh thể nước đóng băng được gọi tắt là tinh thể. Bài hơi dài, mình trích một số bức ảnh và thí nghiệm cụ thể nhé: A-9 Tinh thể đóng băng sau khi được nghe bản Pastorale – khúc nhạc đồng quê, một trong những bản nhạc giao hưởng nổi tiếng nhất của Beethoven (hình A-9). Trông nó sáng chói, mới mẻ và vui tươi. Tinh thể tuyệt đẹp này chứng tỏ rằng bản nhạc hay có ảnh hưởng tích cực đến nước A-10 Tinh thể đóng băng sau khi nghe bản “Farewell Song” – “Bài hát chia tay” của Chopin (hình A-10) B-1: Một người nghiệp dư thực hiện một thí nghiệm thú vị là nói “Cảm ơn” và “Đồ ngu” với cơm hàng ngày. Thí nghiệm cho nước xem chữ: Thông thái (Nhật/Anh/Đức): D-1: Tinh thể sau khi đọc “Thông thái” bằng tiếng Nhật D-2: Tinh thể sau khi đọc “Thông thái” bằng tiếng Anh D-3: Tinh thể sau khi đọc “Thông thái” bằng tiếng Đức Trông chúng khá giống nhau. Khoảng trống tối ở giữa giống hệt nhau. Vũ trụ (Nhật/Anh/Hy lạp): D-4: Tinh thể sau khi đọc “Vũ trụ” bằng tiếng Nhật D-5: Tinh thể sau khi đọc “Vũ trụ” bằng tiếng Anh D-6: Tinh thể sau khi đọc “Vũ trụ” bằng tiếng Hy lạp Tình yêu/Cảm ơn (Anh/Nhật/Đức): D-7: Tinh thể sau khi đọc “Tình yêu/Cảm ơn” bằng tiếng Anh D-8: Tinh thể sau khi đọc “Tình yêu/Cảm ơn” bằng tiếng Nhật D-9: Tinh thể sau khi đọc “Tình yêu/Cảm ơn” bằng tiếng Đức
    1 like
  8. chồng là người ở xa, tính tình độc đoán. Biết đâu đây lại là người quá lý tưởng với quý cô thì sao, anh ta có thể gian hùng với cả thế giới nhưng lại là con cún yêu của quý cô. Đừng vội vàng đòi ở vậy. CÓ khi vừa ngửi thấy mùi hôi nách của anh ta, quý cô đã mê tít và nghiện luôn ấy chứ.
    1 like
  9. chồng người thấp, ương ngạnh thích tranh đấu gò má hơi cao lông mày đậm, bụng hơi đẫy, tính hay trầm tư thâm hiểm. Tên này thật sự là bất nghĩa chung sống mệt người
    1 like
  10. 2 bố con cùng sinh nhật, sắp sinh nhật rồi. Chúc quý anh và cháu vui vẻ. Lá số cũng cho thấy đúng là 2 bố con. Số của cậu bé thì ko bàn vì còn nhỏ quá, nhưng nói chung là cũng khá giống bố nhưng được cái là Con hơn hẳn Cha. Xin chúc mừng. Xét đến đời cháu của quý anh thì có sự hơn vượt bậc cha ông. Chúc mừng quý anh một lần nữa. thật may mắn "Hổ phụ sinh hổ tử". Tuy nhiên cũng cho thấy quý anh không bỏ vợ 1 chắc là điều cực khó và có vợ 2 thì chưa chắc đã có được 2 đứa con riềng, có khi chỉ có 1 con riền nữa thôi. Số cậu bé này ít anh em.
    1 like
  11. Phải, nên làm nhiều việc thiện nguyện như: Hiến máu nhân đạo, phóng sinh , bố thí hay tìm công việc gì đó có ý nghĩa giúp cho xã hội nhớ là trong tâm phải thật sáng và thật thoải mái, như vậy sẽ bớt họa hoạn. Hãy nghĩ rằng những việc ta đang làm là giúp cho tất cả mọi người
    1 like
  12. Sẽ gặp người ngỏ lời, nhưng nên cảnh giác kẻo mắc nạn trinh tiết. Hãy cố gắng tỉnh táo vì có thể sẽ bỏ lỡ 1 người đàn ông làm chồng và cũng có thể đó là anh họ Sở.Tiền bạc vào rồi lại ra, khó tích lũy. Nếu đủ khôn ngoan và may mắn thì sẽ cưới được 1 tấm chồng. Số khá giả,
    1 like
  13. Chuyện; Cậu lo cho gia đình vợ con cậu là một chuyện, nhiều khi nếu cuộc sống cứ trôi theo dòng suy nghĩ của mình thì đâu phải là cuộc sống. Cậu không chắc ,tôi không chắc. Lá số có như thế, thì như thế
    1 like
  14. 1 like
  15. Nếu đúng lá số thì bạn là người như sau: Thủa nhỏ đã vất vả tính tình bất nhất hay thay đổi, có tính trăng hoa tuy có vợ con nhưng nếu ăn được vẫn cứ mần tự nhiên. Ưa thích sạch sẽ và đỏm dáng. Hay khoe tài tiền mà làm đâu tiêu đấy. Tính tình thì cương cường (cứng đầu cứng cổ) thích dùng vũ lực. Vợ là người trong gia đình có chút danh vọng. Nhưng cuộc sống với vợ chưa đến lúc tan. Mọi sự mỏng manh như mảnh thủy tinh đến lúc vỡ e rằng khó chữa. Nếu không phải thì xem lại giờ sinh
    1 like
  16. Em gái đã đúng giờ sinh chưa? Nếu đúng cô này rất ghê gớm, hay dỗi hờn tính tình thay đổi đành hanh và không ai chịu được
    1 like
  17. 1A Đăng Dung. Gặp Hoàng Triều Hải. Mũi gẫy, để phòng tai nạn hoặc thất bát tiền cùa năm 33 tuổi. Cần mua kính gọng vàng (model tùy chọn) mang khi gần đến tuổi đó.
    1 like
  18. Năm 2011 là một năm rất xấu với đương số. cẩn thận chuyện tình cảm và ngay cả công việc cũng không ổn lắm năm 2012 còn nhiều chuyện hơn đang chờ đón. Cố gắng sống tốt vượt qua hạn này
    1 like
  19. CHồng tốt, công danh bình thường.2010 chắc mắc nạn tình ái, khó thoát. 26 tuổi lấy chồng (2014) 2011 mà ra trường thì xin được việc ngay, chỗ làm tốt, gắng mà làm lâu dài.
    1 like
  20. THay đổi công việc rất tốt, đặc biệt tốt khi có Hỉ sự.Ở mối tình từ 1 đến 3, chắc chắn quý cô đã bỏ lỡ 1 người đàn ông tốt nhất mà quý cô có thể nương tựa. Mối tình ở đây có thể hiểu là 2 người có quan hệ tình yêu, đi lại với nhau, năm tay năm chân nhau rồi và cũng có thể là người thổ lộ tình cảm mà quý cô đã từ chối không thương tiếc. Số khổ mà ko muốn thoát khổ nên vẫn khổ, chồng quý cô sau này chắc chắn là đồng sàng dị mộng, nên đừng than thở hay oán trách ai nhé. Dù sao, cũng lấy chồng đi cho Thế giới đàn ông bớt đông đúc, thế giới đàn bà bớt cô liêu.
    1 like
  21. 2007 lấy vợ, 2010 mới có con, kế hoạch đẻ Hổ hay bị vô sinh nhất thời hay không biết cách thụ thai? Xét theo lá số, chắc yêu thì chiều đến lúc cưới thì phải uống nước để Chiêu rồi. Vợ chồng không hạnh phúc chút nào cả. Phải chăng vì lý do này nên không muốn có con sớm? Nếu đúng thế thì ngu quá, bỏ luôn cho rồi, giờ có đứa con thì lại sắp làm khổ nó. Quý anh đã tung "Giáng Long Thập Bát Chưởng" vào mẹt vợ chưa? hay dùng gậy khai chiêu "Thiên hạ vô Cẩu" với vợ? 2011 chắc là chuẩn bị thủ lục ly dị rồi. Nếu không cũng chỉ vài nằm nữa và cũng không quá 10 năm nữa cũng vẫn chia ly. Năm ngoái quại được cô bồ ngon quá (2010) nên chắc năm nay dứt điểm sớm rồi. 2012 cưới cô khác. Chỗ người nhà (cùng diễn đàn) mà lại là chỗ xa lạ (chẳng ai biết ai) quý cậu cứ sống thẳng, nói thật đỡ phải bị hỏi xoáy rồi đáp xoay làm gì cho mệt mỏi và lệch lạc các quan điểm nhé.
    1 like
  22. nếu chuyển được nghề Tư vấn về những gì gọi là Mới ở VN thì sẽ khá hơn. Thời vàng son của anh đã qua lâu rồi.
    1 like
  23. Nhìn ảnh của bạn thì đúng là Thất Sát mệnh rồi, bạn nên đưa ra câu hỏi cụ thể không biết bạn muốn mọi người tư vấn điều gì?
    1 like
  24. 1 like
  25. Mộng lớn chưa thành ,mã đầu đới kiếm mệnh vô chính diệu thiếu niên cơ khổ tự lập từ nhỏ
    1 like
  26. Gò má không phải là cao nên không phải là sát chồng. nhưng số cũng nên lấy chồng muộn một chút sau này sẽ tốt số ngoài 30 tuổi sẽ khá nhờ chồng. 2năm nay không tốt lắm nhưng dần sẽ khá hơn. số này ăn nhau về hậu vận
    1 like
  27. Những hình ảnh mà vussonganh đưa lên nằm ở "khu thể thao" hay "Làng Thể thao Tuyên Sơn"? Tôi xác định: "Khu thể thao" thì vượng hơn. Còn "Làng Thể thao Tuyên Sơn" thì ế - thịnh suy theo sóng thủy triều lên xuống :D - mặc dù ăn được cái loan đầu, nên ngáp ngáp. Anh chị em phong thủy Lạc Việt từ lớp nâng cao đến lớp do tôi phụ trách lưu ý: Sự tác động do khí của dòng sông đồng dạng với tương tác khí của dòng xe trên đường. Suy luận trên cơ sở dòng xe một chiều để liên hệ với sự tương tác khí của dòng sông.
    1 like
  28. "Lọ lem không được chơi quá 12 giờ đêm!". Ngày xưa khi túng tiền Thiên Sứ tôi phải độn quẻ để ....đánh đề. Ngày nào cũng trúng và ngày nào cũng độn quẻ vào sau giờ....sổ xố! Kết quả: Quẻ không nghiệm vì thiếu tính cảm ứng. Do nó bị chi phối một cách vô ý thức của tính quy luật là luôn độn quẻ sau giờ xổ số. Cảm ứng là một yếu tố cần và quan trọng cấu thành nên sự chính xác của quẻ trong khả năng tiên tri. Nhưng nó không phải điều kiện duy nhất để cấu thành khả năng tiên tri. Cũng như việc giải một bài toán. Học sinh tiếp thu dữ kiện như nhau = tương đượng với dữ kiện độn quẻ. Nhưng học sinh nào thông minh, cảm ứng tốt thì có đáp số đúng. Cảm ứng sai thì giải bài toán sai. Bài toán chỉ có một đáp án duy nhất đúng, hoặc một số nghiệm được công nhận đúng. Nhưng quẻ là tập hợp những sự kiện được phân loại của nhiều mặt trong cuộc đời và định hướng kết quả suy luận hợp lý cho kết quả sự kiện. Bài toán ảo này tất nhiên khó hơn nhiều lần những bài toán mà chúng ta học được ở ngay ....chương trình Đại học chuyên toán.
    1 like
  29. Chào bạn tôi hiểu ý bạn và ngày trước tôi cũng suy nghĩ như bạn, nhưng nếu bạn nói 1 con người sống ... năm mà vẫn khổ thì bạn có hỏi lại tại sao, trong ngần ấy thời gian mà ko gây dựng được cho mình cuộc sống tốt hơn theo ý mình (cái tốt mà ta nghĩ là tốt) Tôi cũng ko tin lắm vào thuyết kiếp này kiếp kia, hay nhân quả gì cả, nhưng nếu ta có câu hỏi đi thì ta hãy có câu hỏi ngược lại Tôi không hay nghe các bài giáo lý của các nhà sư nói ra, nhưng tôi hay xem phim, và xem các bài thuyết giảng về đạo đức, đạo làm người và tôi có xem bộ phim Sư Tổ Bồ Đề Đạt Ma, sau khi xem phim song, tôi nghiệm ra rằng, phật không mong chúng ta hay đi lẽ phật, phật cũng không mong mâm cao cỗ đầy, đúng như bác thiên sứ đã nói, nếu ăn chay cả đời thì con bò cũng thành phật, ko khác gì ta lấy cái bát sành ra mài thì đến bao giờ mới thành kim Những người họ chua ngoa, sống ko tốt mà họ cứ khỏe phây phây, cuộc sống ko cơ cực còn ta ko được như họ, do ta không có các điều kiện sống bằng họ, vì thế ta phải cố gắng bằng chính sức lực của mình, bằng chính quỹ thời gian mà ta có để bằng họ hoặc hơn họ, nếu mà ta thất bại thì ta phải biết chấp nhận, vì đó cũng như 1 cuộc chơi, ta thua thì ta phải chịu thôi, than ai Mỗi con người nhìn mỗi sự vật với ánh mắt và suy nghĩ khác nhau, có người giàu có đứng top 10 người giàu nhất VN năm nay có nói, họ khổ vô cùng, nếu được chọn kiếp sau họ sẽ nhận làm phó thường dân, có người ăn xin tôi gặp và nói chuyện họ lại nói là họ thấy mãn nguyện với cuộc sống này lắm rồi, ko còn gì để luyến tiếc, nếu ta chỉ nhìn bằng ánh mắt của ta thì ta sai toẹt mất rồi, có người bệnh tất đầy mình nhưng họ lại rất vui vì họ thấy khi họ không bị bệnh tật thì ko ai quan tâm ngó ngàng, khi bị bệnh tật thì ai cũng quan tâm chăm sóc, lại muốn ốm cả đời, đó thế thì cái sướng và cái khổ có phải do cảm nhận mỗi người, nhiều khi ta nhìn và mang suy nghĩ của ta ra áp đặt có phải là sai hết rồi không
    1 like
  30. Chà chà ...khó khăn nhỉ tình duyên nên giữ vậy tất được yên lành sang năm nữa cưới nhau. Hạn năm tới không nhỏ (2011) coi chừng bệnh tật về máu huyết
    1 like
  31. Không phải là em bị gì? mà tháng 9Al hết sức cẩn thận vì năm sau là năm xấu cho đại hạn 10 năm. tháng 11AL dễ có tang người thân nơi xa, và là tháng hoạnh phá
    1 like
  32. 1 like
  33. Năm sau tất cả mọi việc đểu phải cẩn trọng, công việc hay chỗ ở đều bất định. Thường hay chần chừ khi có 1 quyết định gì. Có lá số của cô em gái?
    1 like
  34. Chồng là người đỏm dáng lúc nào cũng sạch sẽ phong lưu. Người này dễ thay đổi thích gái, vợ chồng hay xung đột. Sang năm có khả năng cưới nhưng thủy chung trước sau có sự xung khắc
    1 like
  35. Làm giống công việc hiện nay thích hợp. Năm sau thấy có sự thay đổi về nhà cửa, việc làm, hoặc có 1 chuyến đi khá xa, có nhiều tài lộc nhưng cũng hao tốn tiền bạc khá nhiều.
    1 like
  36. 1 like
  37. Người ngộ Ðạo tu thiền, bởi chẳng phải là việc tầm thường, nên dễ bị các thứ ma trong ngoài não loạn chánh định. Nếu tự mình không làm chủ được, liền sinh ái trước các cảnh. Nhân cảnh tâm động, kẹt vào rọ ma. Thế thì, vốn là nhân lành, trái lại gặt quả chẳng lành. Kẻ sơ cơ đời sau nên thận trọng đề phòng đó. Ở đây, nêu ra 10 điều biện ma, tự phải gẫm xét. Gặp tâm ma và thiên ma nên dùng trí tuệ quán chiếu, ma nghiệt liền tiêu. Tâm nhơ nếu sạch thì các chướng tự bặt, cái gì lại sợ thiên ma? Nó làm gì mê hoặc được tâm người chơn chánh? Nay 10 thứ ma này sẽ thuật rõ sau đây: (01) Ma oan nghiệt nhiều đời (02) Ma bên ngoài đến làm mê hoặc (03) Ma phiền não (04) Ma sở tri (05) Ma tà kiến (06) Ma vọng tưởng (07) Ma khẩu nghiệp (08) Ma bệnh khổ (09) Ma ngủ (10) Thiên ma Bởi mười thứ ma này vừa nêu nó hay làm nhiễu loạn kẻ mộ Ðạo tu hành, nhất là người tu Thiền chơn chánh, nên các hành giả phải đề phòng cẩn mật. 1. Ma Oan Nghiệt Nhiều Ðời Loại ma này chính là nghiệp chướng nhiều đời của ta. Bởi từ nhiều kiếp đến nay, chúng ta bị luân hồi, quanh quẩn trong phàm vi, lầm tạo những nghiệp chẳng trung, chẳng hiếu, chẳng nhân, chẳng nghĩa. Sát, đạo, dâm, vọng, tham, sân, si, ái. Kết chặt những oan gia đời nay gặp gỡ. Trong khi chúng ta muốn học đại đạo, nó lại quấy nhiễu chẳng an, làm chướng ngăn việc tu hành khiến chẳng thành tựu được. Chúng ta phải hổ thẹn khẩn thiết cầu sám hối. Trông mong uy lực Tam Bảo gia hộ khiến những oan nghiệt nhiều đời đó tự sẽ tiêu diệt, tự nó thối tan. Lại, chúng ta phải phát nguyện lớn làm lợi ích tất cả chúng sanh, để mau được quả vô lậu, chứng Ðạo Bồ Ðề. Là kẻ mới học tu Thiền phải tự sám hối và mãnh tỉnh lấy. Chú Giải: Luân hồi tiếp nối, biển khổ mênh mang chúng sanh trôi giạt, hạt bụi trời kẻ chưa tỉnh không làm thế nào nhận ra sự kiện này! Ai là kẻ biết được ngày mai của mình ra sao? Và thấy được oan khiên túc trái của mình thế nào? Có kẻ nghe nói: ” Tuổi thọ của ta sánh bằng trời đất”, liền bảo: “Gớm thế! Ta là quái gì mà tuổi thọ thênh thang và mênh mang đến thế!”. Người xưa nói: “Sanh như đắp chăn bông. Tử như cởi áo hạ” là đạo lý gì? Thử nói xem! Chỉ thêm một trường huyễn mộng. Tuy nhiên, chỗ thênh thang mênh mang này ít người vào, không ai chịu nhận. Thì thôi, cứ rong chơi cho hết cuộc phong trần. Một lúc nào đó, quày đầu nhìn lại đoạn nhân duyên phù trầm này, chắc y không khỏi một phen tan thân mất mạng. Thế nhưng, nếu chưa phải là hạng đại lực lượng thì phải ai khẩn sám hối, nương uy lực vô song của Tam Bảo, mọi mộng mơ phía trước tiêu tan. Ðã thế, lại cần phát đại nguyện như hư không, vào cõi huyễn, độ chúng sanh huyễn, để hoàn thành Phật đạo như huyễn. 2. Ma Bên Ngoài Đến Làm Mê Hoặc Loại ma này còn gọi là người làm chướng, kẻ bất tín hay nhỏ mọn. Sang hèn chẳng đồng bực. Họ não loạn định tâm khiến người tu chẳng được yên ổn. Nói chung là do hành giả tự thiếu quyền chước, hoặc thiếu lễ nghĩa, hoặc tự cao, hoặc ngã mạn, hoặc hay nói thẳng, hoặc hành động thô, hoặc dựa thế lực, hoặc ỷ tài hơn, hoặc nói ác, hoặc cho mình giỏi, hoặc nói điều dở của người, hoặc thiếu dáng vẻ hòa dịu, hoặc không cung kính, hoặc lượng hẹp hòi, hoặc thiếu nhẫn nại nên người chẳng tin. Họ làm hoặc loạn việc tu hành khiến tâm động niệm, che chướng bản minh. Kẻ mộ đạo lớn, phải tự hạ mình, nuôi dưỡng đạo đức, mới khỏi người ngoài làm chướng. Người trong Tông môn đời sau nên học đức khoan dung nhẫn nại cố gắng hành Ðạo. Chú Giải: Luận về tánh giác thì vật vật như nhau, người người bình đẳng, nhưng căn trung hạ cần đức hàm đạo dưỡng mới xong. Nếu kém đạo kém đức, thêm nỗi mê mờ dầy cộm thì đường tiến thiên nan vạn nan. Lối sống người đời còn dạy: “Với mình thật nghiêm cẩn, xử thiên hạ thì hạ mà khoan”, huống là đạo lớn giải thoát, lấy trí tuệ làm gốc, tiêu diệt bản ngã là chỗ đắc lực, mà còn u mê ôm ấp những tình chấp ngô ngã hẹp hòi đó được ư? Phật dạy: “Các hành vô thường là pháp sanh diệt”. Tổ khuyên: “Nên tiêu chảy đầy đất mới có chỗ an thân lập mạng”. Trên chiều dọc mà nhìn, chúng ta nhiều kiếp trôi lăn trong sáu nẻo, bởi đeo mang cái thấy hai: “ta người, kia đây, có không, xấu tốt” . Do đó và từ đấy mà xuống lên trong ba cõi, xoay quanh trong bốn loài. Chần chờ gì? Ðợi kiếp nào? Sao chưa một phen lay mình chuyển hóa, tạo một niềm vui, thắp sáng một niềm tin cho mai sau … Kìa nhìn xem! Trời đất liếc trông chừ sao thênh thang Chống gậy rong chơi chừ phương ngoại phương Hoặc cao cao chừ mây đỉnh núi Hoặc sâu sâu chừ nước trùng dương. 3. Ma Phiền Não Ma phiền não cũng gọi là sự chướng. Người tu hành mà chẳng trừ được sự chướng thì rối rắm thánh đạo. Thế nào là phiền? Sao gọi là não? Phiền là chạy theo ngoại cảnh, não ấy là tự sanh trong tâm, người tu Thiền quyết phải dứt hẳn. Nếu chẳng dứt sớm thì tánh định khó hiện. Như thấy sắc tâm sanh là tâm dâm phiền não. Khi thấy giết tâm sanh là tâm ác phiền não. Thấy của tâm sanh là tâm trộm phiền não. Thấy vật tâm sanh là tâm tham phiền não. Với người sanh mạn là ngã tướng phiền não. Ðối kẻ thấp kiêu ngạo là phiền não tự đại. Gặp cảnh nghịch sanh sân là tâm khuể phiền não. Gặp cảnh thuận vui mừng là phiền não thích ý. Gặp oan gia sanh ghét là tâm hận phiền não. Cùng thân thích sinh ưa là tâm tư phiền não. Nói tóm lại: Với tất cả cái thấy bên ngoài mà trong sanh tâm thủ xả, đều là phiền não khó nói cho cùng. Thế nên những người tham thiền phải quyết dứt sự chướng. Sự chướng nếu chẳng không, chánh định bị não loạn. Người tu đời sau, đâu nên xem thường nó ư! Chú Giải: Còn lầm ngoại cảnh nên còn phiền não. Bởi chưa thấy thật tánh giả cảnh rối rắm, lăng xăng mờ ảo, tháo gỡ cách nào cho xong! Người xưa nói: “Vật từ cửa đem vào, không phải là của báu trong nhà”. Của báu trong nhà là gì? Mọi người sẵn có, luôn luôn đầy đủ, tánh tự bản nhiên, vào phàm vào thánh không đổi, không xanh không diệt, xưa nay bình đẳng, một đạo sáng suốt. Như đã nói, bởi thật giả chưa phân nên bao nhiêu điều vụn vặt trước mắt “Nắm đông bắt tây” luống sanh phiền bực. Ðáng thương! Cũng bậc vương giả, gặp loạn trầm luân, uổng đời trôi giạt, vùi thân trong chỗ bùn lầy, nát phận cùng loài man mọi. Mặt mũi thật xưa nay khó nhìn. Ðường về quê cũ vẫn còn diệu vợi, chưa dễ một sớm một chiều mà biết được. Khổ thay! Khổ thay!! 4. Ma Sở Tri Ma nầy tức lý chướng. Người tu thiền mà lý chướng chẳng trừ, thì chánh định bị nhiễu loạn, không thể nào yên ổn được. Vì sao sở tri có lỗi như thế? Chính vì biết ta đắc ngộ, biết ta thông Tông, biết ta minh giáo, biết ta hội lý, văn ta lỗi lạc, ta thấy sâu rông, ta giữ giới nghiêm, ta được chánh định, ta có trí tuệ, ta đã chứng không, ta được tự tại, ta không còn ngại, biết ta được thông, biết ta được diệu, ta đã chứng đạo, ta được thành Phật … Tất cả cái biết đó đều là lý chướng. Lý chướng này chẳng trừ, thì chấp pháp khó quên, chấp pháp chưa quên thì chân tâm chẳng hiện. Người trong Tông môn, nên phải tự xét. Sớm dứt chướng này. Chú Giải: Vừa quay lưng với giả cảnh lại nắm bắt nội tâm, cứ như thế mà chạy mà tìm, thật là một trường ảo mộng! Si mê lui, phiền não dứt, ma sở tri này thuộc pháp chấp nên khó đoạn. Hàng Bồ Tát đến Ðệ thập nhất địa vẫn còn chút sở tri ngu. Với loại ma này hành giả đã dầy công, chân trí đã phát triển, lại luôn luôn nhắm thẳng Phật đạo mà tiến, dần dần hàng phục nó. Tóm lại biên cương ma Phật không thật có. Còn thấy có hai, còn chấp là thế này, thế nọ, là ma. Phá vỡ các cái thấy biết hai bên thiên lệch “có không” đó, tiến thẳng vào vực Ðệ Nhất Nghĩa không, tức là Như Lai địa bất sanh, bất diệt. Khi này, cả hai danh từ Phật ma không chỗ lập cước, không còn bóng dáng pháp hay phi pháp, tất cả quét sạch là chỗ “không pháp có thể tu, không Phật có thể thành”. Chỗ này tối kỵ lý thuyết suông, phải buông thân mạng, nỗ lực hành trì mới có chút phần tương ưng. Cố gắng! Cố gắng!! Hình ảnh và lời quả quyết của bậc Ðại Sĩ dưới cội Bồ Ðề năm xưa như còn đồng vọng: “Nếu không đạt Ðạo dù thân này tan nát thành tro bụi, ta quyết chẳng rời chỗ ngồi này”. Dũng mãnh tinh tấn vô biên! Lời cả quyết của đấng cha lành ba cõi. Từ bi tri tuệ vô tận! Lời quả quyết của bậc Ðạo Sư muôn loài! Lời quả quyết cuả Người, gông cùm ba cõi tiêu tan. Ánh huệ nhật chiếu rạng, quét sạch mọi mê mờ của chúng sanh. Chúng con, những chúng sanh bất hạnh! Chỉ nương chút âm vang diệu vợi của người. Ðau đớn, cố gắng, nguyền xếp mình làm tròn di huấn muôn thuở. 5. Ma Tà Kiến Ma này thường gọi là chấp chướng. Người tu thiền định muốn khỏi rơi vào định tà, thì phải dứt tà kiến. Vì sao tà kiến làm mất chánh định như thế? Bởi các cố chấp như: Chấp tánh chẳng hoại gọi là chấp có, chấp tánh vốn không gọi là chấp không. Chấp vốn bất tử gọi là chấp thường. Chấp theo hơi hám diệt gọi là chấp đoạn. Chấp không sanh ra có là kiến chấp thuộc tự nhiên. Chấp khí hóa ra hình là thuộc chấp tà nhân… Như thế gồm các loại cố chấp chẳng có, chẳng không, tức có, tức không và tất cả tà chấp, tà kiến, nhân duyên tự nhiên, đều chẳng rời hai đầu có không, đoạn thường, tự chướng bản lý, dần dần xa vào các ngõ tẻ. Chú Giải: Còn thấy hai, còn vọng tưởng; muốn dứt vọng tưởng, chớ thấy hai. Muốn đến chỗ chẳng thấy hai, chỉ một phen “biết vọng liền buông”. Buông hết, bố thí sạch, tự nhiên yên ổn. Người xưa nói: “Tìm tâm chẳng được”. Chỉ câu “tìm chẳng được” này là chỗ dứt bạch sạch hết, chẳng còn gì để mò bắt. Thế nên, liền khi đó được xác minh một cách tỏ rằng: “Ta đã an tâm cho ông rồi”. Thật là một thủ thuật giản dị lạ thường, chưa từng có, là phương pháp không phương pháp, không để dấu vết,là không tam muội. Chỗ độc đáo này chỉ thầy trò tương đắc, người ngoài không chỗ dùi mài. Tuy nhiên cửa cam lồ đã mở, lòng từ bi của Phật Tổ tràn khắp nơi nơi. Chúng ta phải tự nỗ lực, không việc gì ngoài mình, đừng chạy lăng xăng vô ích. Người tu hành nào không điều được tâm, cứ để buông lung, ruổi theo cảnh ngoài, sẽ vướng các chấp, hoặc có, hoặc không, hoặc đoạn, hoặc thường… Xa dần chánh đạo, bản lý bị chướng. Bản lý tức là pháp môn không hai, cũng chính là Trung Ðạo Ðệ Nhất Nghĩa không. Bản lý này đã không sáng, tức nhiên các lối tẻ hiện bày và như thế hành giả này lạc vào đường tà bị tà ma ốp. Thân tu Ðạo chánh, tâm đã theo tà, miệng nói việc tà, dự trước đoán sau, lấy làm kế sống. Lâu dần tà lực cũng mất. Hành giả tự mất thăng bằng, hiện thân mang họa. Cuối cùng bị đọa đường ác. Thế nên các thiền giả thận trọng từng bước, chớ vọng cầu, phải triệt để hoàn toàn cơ sở chấp ngã. Ðồng thời mạnh mẽ siêng năng áp dụng công phu quyết một đời xô ngã núi sê mi, phá tan hành trì ngã chấp. Nên nhớ! “Nam nhi tự hữu xung thiên chí …” Vừa nói gì ?? 6. Ma Vọng Tưởng Ma vọng tưởng này là tự chướng. Tự chướng chẳng không thì dòng sanh diệt tiếp nối, điên đảo tán loạn chê chướng bản tâm, do đó người tham Thiền cần phải lư tâm nhiều ở điểm này. Nay xin đưa ra một vài vọng chướng tiêu biểu để trình bày như: Vọng tưởng ta ngộ đạo Vọng tưởng ta tu chứng Vọng tưởng ta được định Vọng tưởng ta phát Huệ Vọng tưởng ta biết nhiều Vọng tưởng ta giỏi văn Vọng tưởng ta có danh hiển đạt Vọng tưởng nhiều người cung phụng ta Vọng tưởng ta làm thầy thiên hạ Vọng tưởng nhiều người qui hướng ta Vọng tưởng ta nối tiếp Tổ đăng Vọng tưởng ta sẽ làm trụ trì Vọng tưởng ta hoá Ðạo Vọng tưởng ta truyền lục Vọng tưởng nhiều người nối dõi ta Vọng tưởng ta sẽ được nhập tạng Vọng tưởng ta có thần thông Vọng tưởng ta được huyền diệu Vọng tưởng ta rất kỳ đặc và có nhiều quái lạ như: ta sẽ sống lâu, ta sẽ cải lão hoàn đồng, ta sẽ bay cao, ta sẽ thành Phật… Các cuồng vọng như thế làm rối rắm động niệm, trái với chân thể thanh tịnh của mình. Vì thế, người sơ cơ học Ðạo phải biết mà dứt nó. Chú Giải: Mê mờ bản lý, nên điên đảo vọng tưởng. Vọng tưởng sinh động thì bản tâm bị che chướng. Loanh quanh mãi trong mê mờ cuồng vọng, tức chân thể thanh tịnh chìm lặng. Khác gì kẻ đi trong đêm đen không đèn đuốc. Người xưa nói: “Ðất tâm nếu không, mặt trời trí tuệ tự chiếu”. Nơi đây chúng ta có thể nói cách khác rằng nếu chúng ta chịu dừng thì chuyện gì điên đảo? Vọng tưởng là gì? Thử nhìn lại xem! Vốn dĩ là ảo mộng mà! Lỗi chúng ta cứ chấp rồi lao theo. Lao theo nên điên đảo. Ðã điên đảo thì vọng càng thêm vọng. Ngay đây nếu chúng ta biết dừng, còn gì lăng xăng nắm bắt! Còn chăng hư không thênh thang rỗng suốt, cái gì mê mờ chướng ngại cái gì? Thử nói xem! Tóm lại là chúng ta có chịu dừng hay không? Dừng thì trời “Không” sáng suốt, đất tâm yên ổn, huệ nhật hằng soi, thiếu sót chỗ nào? Trái lại rong rêu mải miết, nên hóa điên cuồng. Khổ thay! Khổ thay! Có thi rằng: Lớn thay! người sức mạnh Biết vọng liền khôngtheo Quê xưa trăng tỏ rạng Tùng xanh tiếng suối reo Khoái thay! người biết vọng Miền “chân không” mở ra Ðường xưa tự bày hiện Quê nhà thật không xa Hương quê thoảng trăng sao Tình quê miền bất nhị Hư không trải gấm hoa Người quê một mình đi Gió ngát hương giải thoát Hoa đơm đóa từ bi Tuyết tuôn thành định lực Trăng soi bất tư nghì Một tiếng quát! 7. Ma Khẩu Nghiệp Ma này là cuồng chướng. Người tu mà chẳng kiểm điểm ngôn ngữ của mình mặc ý cao đàm hùng biện, làm tổn thần lao niệm, sẽ mất Thiền định chân chánh. Nhân sao mà khẩu nghiệp có lỗi lớn như thế? Bởi hay: Ðàm huyền thuyết diệu, giảng giáo nói tông. Khoe mình đắc ngộ, chê người ngu mê. Luận chỗ hay dở. Nói điều phải quấy của người. Ngâm ca thi phú, nói bừa những việc không đâu. Bình nghị những việc hưng phế xưa nay của quốc gia, xưa thì cho người hiền mà ngu, nay thì bảo người hung mà giỏi. Toàn những việc chẳng dính líu về mình mà cứ gân cổ tranh luận. Lại vô cớ khen chê việc hơn thua của người. Phô diễn các cảnh dục lạc, khiến người sanh đắm trước. Bàn cãi những chuyện bất bình làm cho kẻ nghe phát phẫn. Trước mắt thì công kênh đề cao. Sau lưng thì lại chê bai biếm nhẽ. Ðó là những lời nói lợi hại làm mất chánh định của người. Người tu Thiền đời sau phải thận trọng nghiêm ngặt. Bởi loại cuồng chướng này, chẳng những làm cho chúng ta chẳng kiệm ngôn, dưỡng đức mà còn khiến cho tâm chúng ta tán động. Thế nên những kẻ sơ cơ, phải ngừa phòng khẩu nghiệp cẩn thận! Chú Giải: Ba nghiệp thân miệng ý. Miệng có bốn lỗi là: nói lời dữ, nói dối vọng, nói thêu dệt, nói hai chiều. Công phu đến đây, hành giả không khéo điều phục khẩu nghiệp có thể sanh ra đại ngôn cuồng vọng, buông lời bừa bãi làm chướng ngăn con đường vào thánh. Vì lẽ đã có chút công phu, lại nếm trải và thu hoạch phần nào kết quả trong sự tu tập, luôn luôn hành giả tự thấy mình được chút gì gì đó gọi là “sở đắc”. Từ căn cứ này, nếu tâm chưa thật an thì chính “chút sở đắc” đó làm hại hành giả. Ngay đây, người có mắt sáng liền khám phá kịp thời những cuồng vọng, tạo thế an bình cho chánh định. Trái lại, với người biện biệt chưa rành, thủ thuật chưa khéo thì ngô ngã phân ranh, si mê chồm dậy. Cứ thế buông xuôi lao theo, chẳng khác nào thùng rỗng khua vang. Thực tế mà nhận sở đắc gì? Mình được cái gì? Tương lai mù mịt, đường trước lờ mờ. Dự phóng gì? Nhìn trước ngó sau, khối si mê nhiều kiếp chưa chuyển nổi, núi nhân ngã lâu đời chưa đập tan. Khổ thay! Ngồi đó mà khua động môi lưỡi. Chính mình chưa yên, thì nói gì đến việc hay dở của người, sự hưng phế của nước. Thì thôi! Ðã biết nói nhiều loạn tâm tổn thần, thì sao ngang đây chưa chịu dứt bặt, sống lại cho chính mình để tâm mình được an ổn, định lực của mình được kiên cố. Tóm lại: Người hay nói – Loạn Người nói nhiều – Tổn Người xưa bảo: “Hãy bịt lỗ đít lại mới có chút phần tương ưng” . Lời này của người xưa, bọn ta hết chỗ cắm mỏ. Khoái thay! 8. Ma Bệnh Khổ Ðây là khổ chướng. Thân có nhiều bệnh tật là do nghiệp nặng. Hoặc tự mình làm mất sự điều hòa, biến sanh các thứ bệnh, làm cho người học đạo tu hành chẳng an, chẳng thọ dụng được pháp lạc thù thắng. Nay xin nêu dẫn một vài điều thiết yếu để người tu hành đề phòng. Trước hết phải điều hòa tì vị, chỉ nên dùng những thức ăn thích hợp với cơ thể. Bớt ăn những vị quá đậm đà. Chớ ăn đồ sống và lạnh, khi đói chớ tụng đọc, khi no chớ làm việc nặng, sau khi ăn không nên ngủ liền. Về đêm chớ ăn no quá. Tóm lại người ưa ăn những thứ nhừ nát, hoặc thích những thứ rang nấu. Khoái ăn đồ ướp ngũ vị, dùng nhiều những thứ không hợp với thân. Lại, ngồi thiền chỗ đất thấp, ngủ nghỉ chỗ gió nhiều. Lúc ra mồ hôi mà xuống nước. Ðang dang nắng mà dùng đồ lạnh mát. Tắm rửa ngoài trời trống gió, ngủ nghỉ dưới chỗ nhiều sương. Cùng các trường hợp: no quá, đói quá, mừng quá, giận quá, nóng quá, lạnh quá. Chỗ mưa nhiều, sương nhiều, trong thương ngoài cảm tất cả tại lỗi không biết điều hòa, nên hay sinh các chứng thương nhọt, thân không làm sao an được. Kẻ tu học đời sau phải biết để phòng bị đó. Chú Giải: Người tu hành trước nhất phải thấy thân này và ngoại cảnh đều không thật, là báo nghiệp không tự tại của mình. Nó hư giả, mỏng manh, bại hoại, là pháp sinh diệt vô thường. Tuy nhiên chúng ta cần nó, đang dùng nó trong việc tu hành thì phải điều chỉnh thế nào cho nó được yên ổn,để Ðạo nghiệp của ta được viên mãn. Kinh nghiệm sống ở đời. Việc ăn uống ngủ nghỉ, chúng ta phải luôn luôn điều hợp thích đáng. cái gì thái quá hay sanh bất cập. Ðã vậy việc áp dụng thân tâm tu hành hàng ngày chúng ta cũng phải tiết chế, không nên cố chấp. Như ta đã biết, thân này tạm bợ như rắn độc chung lồng, việc kích động chống trái nhau không lúc nào vắng thiếu. lại thêm cảnh nóng lạnh bức ngặt bên ngoài phụ họa, làm cho đã khổ lại càng khổ, nên nói: “khổ, khổ”. Chúng ta là người đã thấy được phần nào nguyên nhân các khổ. Chúng ta cũng có sẵn phương pháp dứt trừ nguyên nhân các khổ đó. Nắm chắc bảo đảm và rõ ràng. Như vậy chúng ta còn ngần ngại gì? Chần chờ lúc nào nữa? Chưa chịu hạ thủ cho rồi? Người xưa nói: “Nay đây quyết một đời này cho xong”. Chúng ta cũng thấy rằng: “Muốn dứt tai ương về sau, ngay đây phải quyết định. Trong lúc chúng ta còn đủ sáng suốt, đủ điều kiện, nắm sẵn cơ hội trong tay, mà chúng ta chưa chịu dứt khoát còn đợi gì nữa?” Chớ để ngày qua, già suy bệnh hoạn thân thể suy hao, tinh thần mờ tối, chẳng đủ sức dụng công đắc lực, không còn hạ thủ một cách quyết liệt nổi. Gắng lên! Cảnh huyễn, người huyễn, ta mượn tạm các cái huyễn để làm việc huyễn, mọi việc xong rồi huyễn pháp đều buông. Tổ sư nói: “Thân huyễn nhà mộng, vật sắc hư không đời trước không định, kiếp sau đâu thông. Xuống lên xuôi ngược, thay đổi mất công, ba cõi ràng buộc biết thuở nào xong…” Ngay đây quyết định là xong, một buông tất cả đều buông, không thì nhiều kiếp mang tai họa! Cố gắng! Quỉ dữ vô thường không phân biệt thân sơ, chẳng nhận đồ đút lót. Chúng ta tự liệu trước, việc đến trở tay không kịp, khi đó kêu khổ ai cứu cho? Chi bằng ngay bây giờ tự xoay lại mình hỏi thử: Ta là gì? Ôi chao! 9. Ma Hôn Trầm Tức là chướng ngại của ngủ nghỉ quá nhiều. Nếu người tu hành không tự rèn luyện để thời gian ngủ nghỉ quá nhiều thì chân tâm chẳng sáng, tánh huệ lặng chìm, sẽ rơi vào chỗ mờ tối, núi đen hang quỷ. Nguyên nhân nào mà ngủ nghỉ nhiều sanh chướng như thế. Ðấy cũng bởi do ăn nhiều, dùng toàn chất vị đậm đà. Nói nhiều tổn hơi, thân nhọc, tỳ khốn tinh thần không minh mẫn, hơi trược hỗn loạn. Kẻ ngu si nhiều bực tức, lại lười nhác buông lung, chẳng nhớ việc sanh tử, chỉ thích vui giả tạm. Người dụng công tu hành phải khắc tỉnh tinh tiến, noi gương người xưa dùng đùi đâm bắp thịt, đụng đầu vào gốc cột, lạy Phật và đốt đèn, đi kinh hành chỗ hiểm, thân chịu khó mài luyện, ma ngủ mới nhẹ dần. Kẻ thiếu khổ luyện hay mặc tình rong rêu, chân tâm bị mờ tối, những người tu thiền, dũng mãnh hàng phục chướng nàỵ Chú Giải: Các chướng kể trên trừ oan chướng nhiều đời và cách đề phòng những lỗi thái quá trong lúc dụng công. Ngoài ra đều do hành giả chưa nhận được bản tâm, chưa thấy thật tánh, rong ruổi bên ngoài, cuồng loạn vọng tưởng mà gây nên. Nay xét về những chướng ngại của ma ngủ như đã nói: “Cái gì thái quá thì sanh bất cập”. Cũng vậy để cho ma ngủ tự do quá, thì việc dụng công cuả chúng ta không tiến. Tâm huệ không phát là ngủ ngà ngủ gật, thiếu sự sáng suốt là cảnh giới núi đen hang quỉ. Người tu hành lọt vào đó, họa tan thân mất mạng không thể tránh khỏi, nói gì là tiến đạo nghiêm thân? Hơn nữa ma ngủ cùng loạn tưởng là hai ác chướng khó trị nhất của các thiền giả. Có thể nói rằng hai chướng này là hai gọng kìm luôn luôn kẹp chặt hai đầu, bao vây hành giả, lẩn quẩn trong đó. Với hai chướng này, hành giả phải siêng năng, mạnh mẽ lập thệ quyết định buông bỏ thân mạng khắc trị bọn chúng đạt Ðạo mới thôi. Mặt khác hành giả phải khẩn cầu sám hối những chi tập đời trước, đồng thời phòng bị nghiêm nhặt không để cho chúng có cơ hội nhỏ nào hẻo lánh được. Hội đủ những điều trên rồi, hành giả còn phải khéo léo điều thích thân tâm đối với ngoại cảnh, chớ nên để lệch ngã mà lý sự phải viên dung. Ngừời xưa bảo: Khắc chữ Tử trên trán. Hoặc phải nhớ khẩu hiệu: Sinh tử việc lớn vô thường nhanh chóng. Trong lúc dụng công, hành giả chỉ một bề ngó thẳng tới trước mà tiến. Quăng ném tất cả sở hữu, dẹp bỏ liên hệ chung quanh, ngay khi nhào nặn công phu không để việc ngoài dính mắc. Giả sử ốm đau cũng được, đói khổ cũng xong, lành lặn cũng được, rách rưới cũng chả sao, sống đến 120 tuổi cũng được, ngã chết tại chỗ cũng thế thôi. Tóm lại, đối với cảnh ngoài thế nào cũng được, hành giả chớ nên bận tâm, chỉ dồn mọi nỗ lực, áp dụng công phu sao cho đắc lực, được như thế mới có ngày xong. Người xưa dùng dùi đâm vào bắp thịt, đụng đầu vào gốc cột…Gương sáng còn đó, chúng ta phải lấy đó noi theo, chớ cho dễ dàng, để một đời trôi suông vô ích. Trong phần nói về ma oan nghiệt nhiều đời ở trước và phần nói về ma mê ngủ này, ngoài cách tự tỉnh, tự tiến, còn dặn hành giả phải khẩn thiết sám hối. Ở đây, theo thiển ý của bút giả, xin nêu ra phương pháp sám hối có hai: Tác pháp sám hối – Cách này như trong các kinh Ðại Thừa dạy: Sám hối bằng cách thống trách tự mình, ai khẩn trông cầu mười phương Tam Bảo xót thương chứng biết. Lại phát chí kiên quyết dứt bỏ những lỗi lầm đã gây. Ðồng thời nương vào bi trí vô biên của mười phương Tam Bảo, nguyện giữ vững tâm niệm, sống theo lời dạy của các Hiền Thánh. Tâm niệm sám hối – Sám hối tự tâm, tức là trong sinh hoạt hàng ngày. Vừa có một niệm khởi lên liền buông không theo. Luôn tự khám phá, khéo làm việc này cho được liên tục. Càng buông định lực càng mạnh. Huệ giác càng sáng, được thế oan nghiệp nhiều đời sẽ chuyển. Vọng nhiễm chấp trước truyền kiếp tiêu tan. Huệ-không bày hiện. Khi này, gì là tội? Sám hối cái gì? 10. Thiên ma Loại ma này chẳng giống các ma kể trên. Ðây là người tu hành chân chánh sắp được chứng Ðạo. Tâm tình đã thông hợp trạm nhiên chẳng động, khiến bọn thiên ma và các quỉ thần thảy đều kinh hoảng, cung điện của chúng sụp đổ, cõi đại địa chấn động. Ma chúa mất hồn, ma dân té hoảng. Các loại ma mị, phần nhiều có ngũ thông, bọn chúng kéo đến não loạn hành nhân làm cho chẳng vào được vị thánh. Chúng biến các cảnh quái dị, và các cảnh dục làm rối loạn tâm định của hành giả. Nếu trong tâm hành giả vừa có mảy may niệm thủ xả, thì bọn kia nắm được tiện lợi. Hành giả sẽ bị hại, tự phát điên cuồng cho rằng mình thành Phật. Hiện đời không thoát khỏi vương pháp. Khi chết sa vào ngục vô gián. Vì thế những kẻ tham thiền, phải chánh niệm phân minh, trí huệ luôn sáng suốt, một lòng thường chẳng động. Mặc cho bọn ma kia tác uy, tác quái, ta như chẳng thấy, chẳng nghe. Dùng chánh định hàng ma như thế, tự nhiên loài ma mị tiêu diệt. Các hành giả đời sau dè dặt biện rành đó. Chú Giải: Ma cũng tự tâm, không ma cũng tự tâm; ma, không ma gì cũng tự tâm; còn mống tâm dấy niệm là còn tâm ma. Từ trên mười thứ ma chướng, chẳng ngoài tâm ta mà có ra. Tâm ta nếu lặng yên chẳng động, ngàn thánh còn chẳng biết, huống loài ma mị làm gì biết được. Tuy nhiên các hành giả trong Tông môn là người tu hành chân chánh phải luôn luôn phòng bị tâm mình cho cẩn mật, chớ để cho bọn ma mị bên ngoài có cơ hội thuận tiện. Công phu càng đắc lực, hành giả càng cẩn mật hơn, bởi tâm càng tịnh, ma lực càng mãnh liệt. Giai đoạn này chánh niệm phải tỏ rõ, trí huệ luôn chiếu suốt, tâm an trụ chẳng động. Ðã vậy, thì mặc cho loài ma quái kia quấy phá, khác nào bọn chúng nắm bắt hư không. Ðể đúc kết những điều trình bày trên, các hành giả sơ cơ nên nhận rằng: “Tâm là gốc, ma không ma gì cũng tự tâm ta. Tâm động ma loạn, tâm bất động là chỗ không thể nghĩ bàn, cảnh giới này ngàn thánh xuất thế cũng chẳng biết huống nữa là ma”. Như vậy: Muốn ngồi yên trị ma thì phải thế nào? Chỉ có bất động. Tâm bất động thì đất nước yên lành, các bóng dáng ma mị dứt bặt. Người xưa nói: Một tâm chẳng sanh, muôn pháp đều bặt”. Hoặc nói: Mê ngủ nếu không, các mộng tự trừ . Còn nói mớ, nói mộng làm gì? Đức Kiên Ngồn: gdptbaoan.com http://dobatnhi.wordpress.com
    1 like
  38. Đại ý: Năm 2010,khủng hoảng mang cấp độ quốc gia ========================================================== Nợ nần đang “chôn sống” đồng euro! Thứ Tư, 29/12/2010, 07:53 (GMT+7) TT - “Đồng euro đang tuột giá tuần lễ thứ ba liên tiếp so với đồng USD như là dấu chỉ của việc một số nước có thể không có khả năng trả nợ, càng mất tín nhiệm tín dụng. Đồng tiền chung châu Âu nay tuột giá so với 14-16 đồng tiền khác sau khi các nhà lãnh đạo châu Âu vẫn còn chia rẽ về cách thức giải cứu cuộc khủng hoảng ở Hi Lạp và Ireland...”. Người biểu tình Ireland mang biểu ngữ phản đối việc chính phủ nhận cứu trợ nước ngoài trước tòa nhà quốc hội tại Dublin ngày 15-12 - Ảnh: Getty Images Mẩu tin tài chính của Bloomberg hôm lễ Giáng sinh phản ánh bối cảnh của một luồng tâm lý đang “lên” ở châu Âu: chạy trốn khỏi đồng euro! Tâm lý này được AFP ngày 15-12 mô tả: “Đồng euro đã bị kết án (tử) rồi!”. Tạp chí Marianne của Pháp ngày 20-12 chạy tít “Đồng euro, mạnh ai nấy chạy thôi!”. Cùng ngày, tờ Le Figaro la làng: “Cơn điên loạn chạy trốn đồng euro!” và hô hào ngược lại: “Những kẻ chủ trương bỏ đồng euro có thật sự nghĩ rằng một đồng franc Pháp mới sẽ giúp chúng ta tự vệ tốt hơn trong tình trạng cô độc huy hoàng ấy? Ai có thể tin được rằng quay trở lại đồng franc là đủ để tái công nghiệp hóa đất nước trong một thế giới như hiện nay?”. Vấn đề đặt ra đã quá rõ: không chỉ do công nợ đang là bao nhiêu mà còn là sẽ cạnh tranh như thế nào để sống còn trong thế giới như hiện nay? “Thế giới hiện nay” ra sao? Website http://www.questionchine.net/ của người Trung Quốc hãnh diện trả lời hôm 26-12: “Sau thượng đỉnh Á - Âu tháng 10 vừa qua, người phát ngôn Bộ Ngoại giao Khương Du từng nhắc lại rằng Bắc Kinh sẵn lòng giúp đỡ các nước khu vực đồng euro ra khỏi khủng hoảng và khôi phục thành công kinh tế. Chẳng hạn như mua lại 5 tỉ euro nợ nần của Bồ Đào Nha!”. Website này còn khoe: “Bắc Kinh, vốn đang có quả đấm là 2.648 tỉ USD dự trữ, đang quan sát các khó khăn tài chính của châu Âu, nhất là khi các khó khăn này đang mở ra những vận hội tài chính, kinh tế và cả chính trị...”. “Vận hội tài chính, kinh tế và cả chính trị” này là gì? 110 năm trước, ngày 14-8, Trung Quốc chịu mất Bắc Kinh sau vụ nổi dậy 55 ngày của phe “quyền phỉ”. Quyền cước của giới võ lâm so làm sao được với súng ống của liên quân Âu - Mỹ, để rồi năm sau Từ Hi thái hậu phải cúi mình trước hòa ước Tân Sửu! 110 năm sau, với 2.648 tỉ USD thặng dư dự trữ, đến lượt Trung Quốc đợi EU giãy chết để thí cho vài tỉ euro hay USD (có gì khác?) cùng với cái “thòng lọng” cũng đủ để trả hận năm xưa! Vài tỉ USD hay euro cũng đủ để “bán linh hồn” rồi. Bằng cớ là nước Pháp vừa bán cho Nga hai tàu đổ bộ và chỉ huy Mistral cùng các bí mật quân sự kèm theo, một hành động “đâm sau lưng” NATO chỉ để đổi lấy “công ăn việc làm cho 1.000 người trong vòng bốn năm”, theo giải thích của Phủ tổng thống Pháp! Pháp có đến 2.564.900 người thất nghiệp, vậy sẽ còn phải “bán độ” bao nhiêu máy bay, tàu chiến nữa cho đủ? May mà Pháp còn có sản phẩm kỹ thuật cao để mà bán, chứ hầu hết các nước EU khác lấy gì bán để cứu 21 triệu người thất nghiệp? May mà Pháp còn là một trong hai “đầu máy” đang kéo chuyến xe lửa EU cùng với Đức. Pháp chưa “chết dở” như Hi Lạp, Ireland, Tây Ban Nha... song cũng đang “sống dở” - ngày 1-1 tới, lương tối thiểu tăng từ 8,86 lên 9 euro/giờ, tức 1.365 euro/tháng, trừ thuế còn lại 1.073 euro làm sao sống! “Đầu máy” Đức dù có của ăn của để, song nay đang cố kéo cày trả nợ giùm các nước kia, cũng đang sợ đến lượt mình kiệt sức! Tất nhiên, việc “giải thể” đồng euro vẫn chưa có gì hiển hiện, song ít nhất Tổng thống Pháp Sarkozy đã phải đăng đàn để bảo vệ đồng tiền đang mất giá lẫn mất niềm tin này: “Ý tưởng rút khỏi đồng euro là không thể hình dung được và là vô trách nhiệm. Đồng euro chính là trái tim của châu Âu. Giải thể đồng euro chính là giải tán châu Âu...!”. Từ kẻ cho viện trợ nay có nguy cơ trở thành kẻ đi vay nợ. Thế cho nên ông Sarkozy mới hét vào mặt các đồng sự “chuyên gia vay nợ”: “EU cần hợp nhất chính sách!”, tức là các ông nên bớt chủ quyền kinh tế quốc gia đi để chấp hành lệnh giải cứu! Thà là “nhục với nhau” còn hơn là nhục với người ngoài! Năm 1901, nhà Thanh phải chịu nhục ký với Âu - Mỹ hòa ước Tân Sửu. Năm tới Tân Mão, EU sẽ phải ký “nợ ước” gì để chữa chạy bệnh “vung tay quá trán” đã qua? DANH ĐỨC ========================================================== Nhời bàn của Thiên Sứ Chưa đâu! Năm 2008 là khủng khoảng "kinh thế" toàn cầu: Các đại gia lăn ra chết! Năm 2010 (Tức Canh Dần theo Việt lịch): Các quốc gia hắt hơi, cảm cúm! Tất cả những điều này không nằm ngoài dự đoán của Lý học Đông phương. Còn năm 2011? Mặc dù chưa chính thức công bố - vì chưa tới năm Tân Mão Việt lịch, nhưng có thể phác thảo cho các quí vị chính khứa tàn cầu vài nét rằng: Đây là năm khó khăn nhất của các quí vị. Bởi vì hậu quả của cuộc khủng khoảng lúc này sẽ đánh thẳng vào dân thường. Lúc ấy, tài kinh bang tế thế của quí vị sẽ có dịp thể hiện để được lịch sử ghi nhận. Còn nếu không thì về hưu, từ chức...vv...Cũng chẳng chết thằng Tây nào. Tất nhiên sự rối loạn trong các vấn đề an sinh xã hội sẽ xẩy ra và bất ổn xã hội bắt đầu. Khi xẩy ra trường hợp này, quí vị chịu khó chờ đến đầu năm 2012 - năm kết thúc của lịch Maya - chúng tôi sẽ tiếp tục dự báo theo thông lệ để quý vị tham khảo. Thiên Sứ tôi vốn hay mơ mộng (giống như việc "đuổi mưa" vậy). Bởi vậy, đang nghĩ tới việc bổ xung chức năng cho hoạt động của Trung tâm nghiên cứu Lý học Đông phương một quyền hạn là: Nghiên cứu kinh tế xã hội theo phương pháp luận của Lý học Đông phương. Lúc ấy, chúng tôi sẽ tổ chức một cuộc hội thảo quốc tế với tiêu đề: "Khủng khoảng kinh tế toàn cầu và giải pháp khắc phục". Chúng tôi sẽ in phù hiệu: "Việt sử 5000 năm văn hiến" để gắn vào ngực các khách mời. Chúng tôi tin rằng: Với cái gim cài áo nhỏ xíu trên phù hiệu sẽ không làm ảnh hưởng tới bộ ves sang trọng, hàng hiệu của quí vị. Cho dù quí vị có vay được vài trăm tỉ dola (Chứ chưa nói vài tỷ, chuyện nhỏ) thì quý vị cũng chỉ như được thở oxy thôi, còn thuốc chữa không có. ========================================================== PS: Hãy đợi đến năm Tân Sửu cho đủ chu kỳ Âm Dương 120 năm (+ & - 3 năm) sẽ biết. 60 năm trước là Dương. 60 năm sau là Âm. Ấy là cái Lý học Đông phương phục hồi nhân danh 5000 năm văn hiến bảo thế ("Văn hiến" Chứ không phải "văn minh", "văn hóa" đâu nhá!).
    1 like
  39. Mắt phượng ngủ, Gò má đầy sống có hậu, thông minh học tốt thi cử dễ dàng.
    1 like
  40. hết người để yêu nên Lợn dâng thịt tới miệng Hùm. 2 lá số chẳng thấy có gì ăn nhặp với nhau cả, đáng đời kẻ Dê sớm. 2012 lấy vợ, gặp là yêu, yêu là cưới, cưới là đẻ, khỏi cần phải chửa lâu. Phúc dầy lắm mới được thế nên ko phải thắc mắc chuyện yêu đương hay hoa với không gì nhé.
    1 like
  41. Có tấm nào cận cảnh mà không lấp lấp ló ló không? Cao bi nhiu?
    1 like
  42. Nghi ngờ bạn sinh giờ Dần đang bận bạn chờ các bác khác tư vấn thêm nhé
    1 like