• Thông báo

    • Bá Kiến®

      Nội quy Lý Học Plaza

      Nội quy này là bản mở rộng Nội Quy - Quy định của Diễn đàn. Khi tham gia mua bán, các thành viên phải tuân theo những quy định sau: Tiêu đề bài viết: Bao gồm: Chỉ dẫn địa lý, Loại hình Mua/Bán, Thông tin mua bán.
      Chỉ dẫn địa lý: Tỉnh/thành nơi mua bán. Hoặc sử dụng định nghĩa có sẵn:TQ: Toàn quốc
      HCM: TP Hồ Chí Minh
      HN: Hà Nội
      [*]Ví dụ: HCM - Bán Vòng tay Hổ Phách ​Nội dung bài viết: Mô tả chi tiết sản phẩm mua/bán
      Bắt buộc phải có thông tin liên lạc, giá Mua/Bán
      Bài mới đăng chỉ được phép up sau 03 ngày.
      Thời gian up bài cho phép: 01 ngày 01 lần.
      Các hành vi vi phạm nội quy này sẽ bị xóa bài hoặc khóa tài khoản mà không cần báo trước.

Leaderboard


Popular Content

Showing most liked content on 06/01/2011 in all areas

  1. Tường Thuật Buổi Họp Mặt Buổi họp mặt "Những thành viên yêu thích Lạc Việt Độn Toán" đã diễn ra vào tối ngày 5/01/2011 trong không khí thân mật, vui tươi tại trà thất nhỏ xinh của quán Trà Việt. Bên bàn trà, các câu chuyện về luận giải Lạc Việt Độn Toán và những câu hỏi thắc mắc được bàn luận rôm rã, xôm tụ và khí thế không kém gì bàn luận bóng đá. Xem những hình ảnh dưới đây Trà Nô (*) xinh sắn pha trà phục vụ Viethq22, Nghịch Thuỷ Hành, Văn Lang (bìa trái). (*)Ở quán trà, nhân viên pha trà được gọi là "Trà Nô", do xuất phát từ câu "Trà nô tửu tướng". Cô Wildlavender, yeuphunam, yeuphunu, Văn Lang Anh yeuphunu đưa 2 ngón tay lên ý nói "Vợ". Nhocchantrau, HoangAnh256, HoangEm256, Thiên Đồng. Thiên Đồng, Thuận An, Bin, TrungNhan. TrungNhan và Bin so sánh một cặp âm dương mập ốm TrungNhan, Cô Wild, yeuphunam, yeuphunu. Vô đề. TrungNhan nhăn mặt vì...loạn quẻ! :lol: Say mê lắng nghe, say sưa bàn luận. TrungNhan làm Trà Nô. Hehe thoải mái. Thiên Đồng giải thích vài quẻ nghe chơi. Tàn cuộc trà, còn ngồi lại tám. Thiên Đồng
    4 likes
  2. Cảnh Xuân (Xuân Yêu) Đọc thuận ( I ) Ta mến Cảnh Xuân ánh sáng ngời Thú vui thơ rượu chén đầy vơi Hoa cài dậu trúc cành xanh biếc Lá quyện hương xuân sắc thắm tươi Qua lại khách chờ sông lặng sóng Ngược xuôi Thuyền đợi bến đông người Xa ngân tiếng hát đàn trầm bổng Tha thiết bóng ai mắt mỉm cười Đọc nghịch ( II) Cười mỉm mắt ai bóng thiết tha Bổng trầm đàn hát tiếng ngân xa Người đông bến đợi Thuyền xuôi ngược Sóng lặng sông chờ khách lại qua Tươi thắm sắc xuân hương lá quyện Biếc xanh cành trúc dậu cài hoa Vơi đầy chén rượu thơ vui thú Ngời sáng ánh xuân cảnh mến ta (Thơ Hay) Cách đọc 3 Bỏ 2 từ đầu ở mỗi câu Đọc thuận Cảnh xuân ánh sáng ngời Thơ rượu chén đầy vơi Dậu trúc cành xanh biếc Hương xuân sắc thắm tươi Khách chờ sông lặng sóng Thuyền đợi bến đông người Tiếng hát đàn trầm bổng Bóng ai mắt mỉm cười Cách đọc 4 bỏ 2 từ cuối ở mỗi câu Đọc nghịch Mắt ai bóng thiết tha Đàn hát tiếng ngân xa Bến đợi Thuyền xuôi ngược Sông chờ khách lại qua Sắc xuân hương quyện lá Cành trúc dậu cài hoa Chén rượu thơ vui thú Ánh xuân cảnh mến ta Cách đọc (5) Bỏ 3 từ cuối ở mỗi câu Đọc thuận Ta mến cảnh xuân Thú vui thơ rượu Hoa cài dậu trúc Gió lộng hương xuân Qua lại khách chờ Ngược xuôi Thuyền đợi Xa ngân tiếng hát Tha thiết bóng ai Cách đọc (6) Bỏ 3 từ đầu ở mỗi câu Đọc nghịch Cười mỉm mắt ai Bổng trầm đàn hát Người đông bến đợi Sóng lặng sông chờ Tươi thắm sắc xuân Biếc xanh cành trúc Vơi đầy chén rượu Ngời sáng ánh xuân Cách đọc (7) Bỏ 4 từ đầu ở mỗi câu Đọc thuận Ánh sáng ngời Chén đầy vơi Cành xanh biếc Sắc thắm tươi Sông lặng sóng Bến đông người Đàn trầm bổng mắt mỉm cười Cách đọc (8) Bỏ 4 từ cuối ở mỗi câu Đọc nghịch Bóng thiết tha Tiếng ngân xa Thuyền xuôi ngược Chờ khách lại qua Hương lộng gió Dậu cài hoa Thơ vui thú Cảnh mến ta Trên đây là 8 cách đọc cơ bản Ngoài ra ta còn có thể đọc biến tấu như sau Cách đọc (9) Bỏ 3 từ đầu, lấy từ 5 đảo làm 4 Đọc thuận Ánh xuân sáng ngời Chén rượu đầy vơi Cành trúc xanh biếc Sắc xuân thắm tươi Sông chờ lặng sóng Bến đợi đông người Đàn hát trầm bổng Mắt ai mỉm cười Cách đọc (10) Bỏ 3 từ cuối, lấy từ 3 làm 4 Đọc nghịch Bóng ai thiết tha Tiếng hát ngân xa Thuyền đợi xuôi ngược Khách chờ lại qua Hương xuân lộng gió Dậu trút cài hoa Thơ rượu vui thú Cảnh xuân mến ta Cách đọc (11) Đọc theo cơ bản chéo câu Đọc thuận- nghịch chéo câu vần Ta mến cảnh xuân mắt mỉm cười Thú vui thơ rượu bến đông người Hoa cài dậu trúc sông lặng sóng Ngược xuôi Thuyền đợi sắc thắm tươi Qua lại khách chờ đàn trầm bổng Lá quyện hương xuân chén đầy vơi Xa ngân tiếng hát cành xanh biếc Tha thiết bóng ai ánh sáng ngời Cách đọc (12) Đọc thuận , nghịch chéo câu vần Ngời sáng ánh xuân bóng thiết tha Vơi đầy chén rượu tiếng ngân xa Biếc xanh cành trúc Thuyền xuôi ngược Tươi thắm sắc xuân khách lại qua Sóng lặng sông chờ hương quyện lá Người đông bến đợi dậu cài hoa Bổng trầm đàn hát thơ vui thú Cười mỉm mắt ai cảnh mến ta Cách đọc (12b) Đọc nghịch ,thuận chéo câu vần Cười mỉm mắt ai cảnh mến ta Bổng trầm đàn hát dậu cài hoa Người đông bến đợi hương quyện lá Biếc xanh cành trúc khách lại qua Tươi thắm sắc xuân thơ vui thú Sóng lặng sông chờ tiếng ngân xa Vơi đầy chén rượu Thuyền xuôi ngược Ngời sáng ánh xuân bóng thiết tha Cách đọc (14) Đọc nghịch, thuận chéo câu vần Tha thiết bóng ai ánh sáng ngời Xa ngân tiếng hát chén đầy vơi Ngược xuôi Thuyền đợi cành xanh biếc Qua lại khách chờ sắc thắm tươi Lá quyện hương xuân sông lặng sóng Hoa cài dậu trúc bến đông người Thú vui thơ rượu đàn trầm bổng Ta mến cảnh xuân mắt mỉm cười Cách đọc(15) Đọc đứng Đọc chéo các cặp câu - Đọc thuận Ta mến cảnh xuân mắt mỉm cười Thú vui thơ rượu bến đông người Hoa cài dậu trút sông lặng sóng Ngược xuôi Thuyền đợi sắc thắm tươi Gió lộng hương xuân đàn trầm bổng Qua lại khách chờ chén đầy vơi Xa ngân tiếng hát cành xanh biếc Tha thiết bóng ai ánh sáng ngời Cách đọc(16) Đọc đứng Đọc chéo các cặp câu - Đọc nghịch Cười mỉm mắt ai cảnh mến ta Bổng trầm đàn hát dậu cài hoa Người đông bến đợi hương lộng gió Biếc xanh cành trúc khách lai qua Sóng lặng sông chờ thơ vui thú Tươi thắm sắc xuân tiếng ngân xa Vơi đầy chén rượu Thuyền xuôi ngược Ngời sáng ánh xuân bóng thiết tha Cách đọc (17) Lục bát Đọc thuận Cảnh xuân ta mến ánh ngời Thú vui chén rượu đầy vơi hát đàn Hoa cài dậu biếc sáng xanh Hương xuân lá quyện thắm cành sắc tươi Ngược xuôi Thuyền đợi đông người Lại qua sóng lặng bến sông khách chờ Ngân xa tiếng trúc bổng trầm Bóng thơ tha thiết mỉm cười mắt ai (Bóng ai cười mỉm mắt thơ Xa ngân tiếng trúc bổng trầm thiết tha) Cách đọc (18) Lục bát Đọc nghịch Mắt ai cười mỉm thiết tha Bổng trầm tiếng trúc ngân xa hát đàn Thuyền chờ khách đợi ngược xuôi Bến sông sóng lặng đông người lại qua Bóng xanh dậu biếc cài hoa Xuân tươi quyện lá thắm cành sắc hương Vơi đầy chén rượu thú vui Cảnh thơ ta mến ánh xuân sáng ngời Cách đọc (19) Lục bát Đọc thuận Ánh xuân ngời sáng thú vui Cảnh thơ chén rượu vơi đầy mến ta Trúc xanh dậu biếc cài hoa Sắc hương lá quyện thắm cành xuân tươi Bến sông khách đợi ngược xuôi Thuyền chờ sóng lặng đông người lại qua Mắt ai cười mỉm thiết tha Bóng trầm bổng hát ngân xa tiếng đàn Cách đọc (20) Lục bát Đọc nghịch Mắt ai cười mỉm thiết tha Tiếng đàn hát bóng ngân xa bổng trầm Ngược xuôi bến đợi người đông Lại qua Thuyền khách sóng sông lặng chờ Sắc hương quyện lá biếc xanh Hoa cài dậu trút thắm cành xuân tươi Thú vui rượu chén vơi đầy Thơ ta mến ánh sáng ngời cảnh xuân Cách đọc (21) Lục bát tự do Ghép bất kỳ 56 ký tự trong bài Cảnh Xuân Thành bài lục bát tự do Bến sông cảnh đợi người đông Ánh xuân ngời sáng bổng trầm ngân xa Thuyền chờ sóng lặng thiết tha Khách xuân tươi biếc lại qua hát đàn Hoa cài dậu trúc bóng xanh Ngược xuôi lá quyện thắm cành sắc hương Vơi đầy chén rượu thú vui Tiếng thơ ta mến mỉm cười mắt ai Cách đọc (22) Lục bát tự do Thú vui ta mến cảnh xuân Mắt ai cười mỉm rượu xuân chén đầy Dậu xanh cành biếc hoa cài Sắc hương quyện lá sáng tươi ánh ngời Sông chờ sóng lặng bóng vơi Lại qua Thuyền thắm bến người đợi đông Ngược xuôi tiếng trúc bổng trầm Khách thơ tha thiết xa ngân hát dàn Xuân Bình
    4 likes
  3. Giải độc cơ thể từ đậu đen Đậu đen tên khoa học là Vigna cylindrica, thuộc họ đậu, Đông y hay gọi với tên ô đậu, hắc đại đậu... thường được dân gian sử dụng như một loại thức ăn ngon, bổ, rẻ. Theo y học cổ truyền, đậu đen tính hơi ôn, vị ngọt, quy kinh thận, có tác dụng trừ thấp , giải độc, bổ thận, bổ huyết, bồi bổ cơ thể. Nhiều sách cổ viết rằng, ăn đậu đen chữa được chứng thủy thũng, tê thấp, bổ thận, giải độc cơ thể, phụ nữ dùng lâu ngày thì làm đẹp dung nhan. Trong đậu đen có chứa nhiều sinh tố A, B, C, PP, protit, gluxit, lipit, muối khoáng. Hàm lượng axit amin cần thiết trong đậu đen rất cao gồm: lysin, methionin, tryptophan, phenylalanin, alanin, valin, leucin... do đó đậu đen được xem như một loại thuốc bổ. Ngoài ra, còn một nhóm chất rất quan trọng tạo màu sắc đỏ tím cho lớp vỏ ngoài của đậu đen được gọi là anthocyanidin, đây là nhóm chất có tác dụng kháng oxy hóa tế bào rất cao, giúp tăng cường sức đề kháng cho cơ thể, chống ung thư, kéo dài tuổi thọ, chống lão hóa tế bào. Vì vậy, đậu đen không chỉ tốt cho người già, trẻ em, phụ nữ mà nam giới sử dụng cũngt tăng cường chức năng của thận, bổ tinh, ích huyết, chữa liệt dương, tai ù, huyết áp cao. Đậu đen có thể chế biến những món dưới đây. Chè đậu đen hoặc nấu nước uống để thanh lọc cơ thể: Mỗi ngày từ 20 - 40g. Chè đậu đen, đại táo mỗi loại 30g, nấu chung ăn liên tục trong 3 - 4 ngày. chữa suy nhược, Canh nước dừa, đậu đen chữa đau nhức ở các khớp xương hoặc ngộ độc rượu lâu ngày: Lấy một quả dừa xiêm nhỏ không già quá, vạt đầu, rồi bỏ 20g đậu đen đã rửa sạch vào quả dừa, đậy nắp dừa lại sau đó đem chưng cách thủy khoảng 3 - 4 giờ cho đậu nhừ rồi đem ra uống nước, ăn cái, mỗi tháng chỉ cần ăn 1 - 2 lần là đủ, các khớp xương sẽ cử động nhẹ nhàng linh hoạt hơn. Canh đậu đen với tỏi chữa người mệt mỏi, tiểu tiện bí táo: Lấy một củ tỏi rửa sạch, đập dập múi tỏi, không làm nát quá, cho vào nồi chung với 1/2 chén đậu đen đã rửa sạch, nấu lửa nhỏ đến khi đậu mềm rồi nêm chút đường muối cho vừa miệng rồi ăn, mỗi ngày ăn một lần lúc sáng sớm sẽ tốt cho người bệnh. Đậu đen chế hà thủ ô chữa di tinh, liệt dương, tay chân mỏi yếu, râu tóc bạc sớm: Lấy 50g đậu đen nấu nước rồi lấy nước đậu chưng cách thủy với 300g hà thủ ô đỏ trong 2 - 3 giờ, vớt ra để ráo phơi khô để dành dùng dần, dạng nước sắc mỗi ngày 15 - 20g hoặc 5g dạng bột. Đậu đen rất bổ, tuy nhiên chỉ thích hợp cho người ở tạng nhiệt (người nóng), còn đối với người thể hàn khi chế biến nên thêm vài lát gừng sẽ tốt hơn. Chú ý khi chế biến cần đun lâu, kỹ vì như vậy hoạt chất trong vỏ mới thoát ra ngoài và dịch chiết có màu đỏ tím, đó chính là màu của anthocyanidin, chất này giúp tăng cường tác dụng tốt của đậu đen cho cơ thể. Ngoài ra, cần nấu cho đậu đen chín nhừ sẽ dễ tiêu hóa và dễ hấp thu. DS Lê Kim Phụng
    2 likes
  4. Biết thế thì sửa đi. Thời gian vời một đời người là dài. Nhưng với không gian vũ trụ thì - Đức Phật dạy: Tam thiên đại thiên thế giới - tức là cả tỷ tỷ thiên hà này - chỉ chứa chưa đầy đầu của sơi tóc. Với thời gian vũ trụ thì, ngàn năm chỉ thoáng qua như vó câu trong cửa sổ.Tôi thường khi trò chuyện với các vị tu hành hay hỏi: Thành Phật rồi thì làm gì nữa? Câu trả lời hay nhất là: Cứu độ chúng sinh. Tôi trả lời: Thế thì các vị làm ngay bây giờ đi, sao phải chờ đến thành Phật mới làm!
    2 likes
  5. Theo tôi hiểu - nếu thần thánh và ma quỉ có thật trên thế gian này - thì với các vị thần, chúng sinh có xin xỏ rồi quên cũng chẳng sao cả. Họ không có thời gian để ý tới việc hứa đền ơn heo quay, hoặc lễ tạ đâu. Tuy nhiên nếu nhớ mà lễ tạ thì tốt thôi. Điều này nó chứng tỏ con người mình thành tâm, trung hậu và kính trọng các Ngài. Còn nếu lỡ quên như cotaomobile mà có tâm nhớ tới thế cũng được rồi.Có nhiều người hỏi tôi thủ tục cúng bái thế nào: Có phải cùng tam sinh, heo quay, gà vịt gì không? Tôi buồn cười quá - nhưng không dám cười - trả lời họ rằng: Nếu nghèo thì thắp nén nhang (Hương) và rót chén nước lã sạch là đủ rồi. Còn nếu giàu thì tự nhiên: Gà, bò, dê, lợn cứ cúng thoải mái, để sau đó ăn nhậu thêm phần xôm tụ :lol: . Với thần thánh thì vấn đề là thành tâm, không cần câu nệ đâu. Nhưng với đám cô hồn, các đẳng thì hứa gì cố nhớ, không thì cũng hơi phiền.
    2 likes
  6. Quí vị và anh chị em thân mến. Thần chú Đại Bi là một trong những thần chú nổi tiếng của Phật Pháp và cùng với câu thần chú "Um ma ni pat mê hum" có những tác dụng vô biên với bản ngã. Tôi xin được chép vào đây trên nguồn Youtube để quí vị và anh chị em khi rảnh, hay trong những giây phút căng thẳng vì muôn nẻo chuyện đời có thể mở ra nghe và tịnh tâm thư giãn. Hy vọng sẽ giúp quí vị và anh chị em thân tâm an lạc, hướng tới một sự bình yên và hạnh phúc trong cuộc đời. "Vạn pháp duy tâm biến hiện" THẦN CHÚ ĐẠI BI THẦN CHÚ UM MA NI PAT ME HUM
    1 like
  7. Chào các bạn, Vừa xem phim documentary “The Passionate Eye – Immortal?” của đài cbc (canadian) hôm qua, thấy trong lòng một niềm hy vọng tràn đầy cho nhân loại. Đây là link của video http://www.cbc.ca/video/#/Shows/The_Passio...e/ID=1607680712 Bí mật về việc Trường Sinh Bất Tử và Bất Lão đã được 3 nhà sinh lý học Elizabeth Blackburn, Carol W. Greider và Jack W. Szostak nghiên cứu và khám phá. Đó là hiện tượng Telomere, một cấu trúc ở phần đuôi của những nhiễm sắc thể (chromosome) để bảo vệ nó. 3 nhà sinh lý này đã được nhận lãnh giải Nobel về Sinh lý học và Y học trong năm 2009. Hiện tượng Telomere có thể được loại suy như giây giày. Đoạn đuôi của giây giày là hai đầu được kết lại để giây giày không bị bung ra. Theo như sự nghiên cứu của 3 vị này thì khi nhiễm sắc trong cơ thể chúng ta được nhân đôi (duplicate), một khúc nhỏ của cái đuôi bó bị mất, cứ tiếp tục mỗi lần được duplicated, thì cứ bị mất một khoảng, cho đến khi đoạn bỏ hoàn toàn không còn thì tế bào chết. Đây củng chính là nguyên do con người từ từ già đi và đi đến tử vong. Họ đã khám phá được phương pháp bảo dưỡng những cái đuôi qúi của nhiễm sắc thể cho các tế bào mà họ nghiên cứu, và kết quả các tế bào đó tiếp tục phân chia, tạo ra tế bào mới, mà không bị suy thoái vĩnh viển. Từ đó đem đến kết luận rằng, nếu cái đuôi bó của nhiễm sắc thể không bị suy thóai và mất mác thì, nhiễm sắc thể mới sau khi tạo ra hoàn toàn giống như nhiềm sắc thể củ, và các tế bào có thể nhân chia mãi mãi và sẻ không có tình trạng già yếu và chết của những tế bào đó. Từ lý thuyết này đưa đến suy luận là tất cả cơ quan trong con người khi bị già yếu có thể tái tạo mới bằng cách dùng Gene Therapy thể hoàn chỉnh lại những cái đuôi bó của nhiễm sắc thể. Vì vậy vấn đề Trường Sinh Bất Tử không còn hão huyền nữa. Nhưng tiếc thay tất cả đều nằm trong quy luật Âm Dương tại sao vậy? Tại vì hiện tượng Telomere này chính là nguyên do con người bị bệnh ung thư. Một số tế bào trong cơ thể biến dạng và tự có thể hoàn chỉnh những cái đuôi bó của nhiễm sắc thể mớI và vì vậy làm các tế bào này sinh sản vô kỷ luật, không già không chết càng ngày càng tăng trưỡng nên đem đến bệnh ung thư!!! Đó chính là con dao hai lưỡi của sự minh triết Âm Dương. Sau một thời gian nghiên cứu, họ củng khám phá ra rằng, không phải đuôi bó của nhiềm sắc thể càng dài thì càng sống lâu mà độ dài của khúc đuôi phải thích hợp cho từng lứa tuổi. Trong một nhóm người già với sức khoẻ thật tốt ở tuổi > 80 được nghiên cứu, họ thấy độ dài của khúc đôi nhiễm sắc thể có chiều dài gần giống nhau. Sau cùng một điều mà vô cùng quý báu mà họ đã tìm được, đó chính là nếp sống có thể thay đổi Gen!!! Khi chúng ta thay đổi nếp sống thì độ dài của đuôi các nhiềm sắc thể củng được thay đổi. Họ còn nhận thấy rằng người bị Stress cao thì đuôi của các nhiễm sắc thể bị ngắn đi nhiều so với những người thư thả hơn. Những người được thư thả (relaxed) nhiều thì độ dài của các đuôi nhiễm sắc thể tăng lên. Không cần biết người đó có tập thể thao nhiều hay ít. Cái quan trọng chính là ở chổ thư thả Ralaxed. Đây không phải là những bí quyết trường sinh của đông phương như trong Đạo giáo, Phật giáo, vv…. Thiền (mediation), Yoga, Thái Cực quyền, vv… điều đem đến sự thư thả cho chúng ta. Qua những nghiên cứu này chúng ta thấy sự Trường Sinh Bất Tử và Bất Lão của con người không còn là chuyện hão huyền nữa, với cái đà phát triễn của y học ngày nay, thì con người sẻ đạt được Trường Sinh trong vòng 100 năm trở lại!!! Thân
    1 like
  8. Kính thưa quí vị quan tâm Trên Vietnamnet.vn có bài viết gây chú ý dư luận của tác giả Trần Kinh Nghi. Trong bài viết có nhiều vấn đề đặt ra. Tôi xin được đưa toàn bộ bài viết lên đây và trình bày cảm nghĩ của mình để tham khảo ý kiến quí vị về đề tài này. Xin trân trọng cảm ơn. ======================================= Lịch sử cần sự thật! Nguồn : Vietnamnet.vn Kẻ mạnh thường thắng kẻ yếu, và sự thôn tính lẫn nhau giữa các dân tộc, quốc gia vốn là một thực tế hiển nhiên trong lịch sử nhân loại, nhưng điều quan trọng có tính nguyên tắc là, mọi sự thật lịch sử cần phải được tôn trọng và giữ gìn một cách trung thực. Lịch sử đâu phải thích bẻ cong, uốn thẳng là được! Hồi đầu năm nay đã rộ lên sự kiện một nữ nghiên cứu sinh người Việt tại Mỹ tên là Đào Ngọc Bích viết bài cho BBC nói rằng Việt Nam là từ Trung Quốc mà ra(!) để rồi ngay sau đó bị đông đảo dư luận trong và ngoài nước "đánh" cho tả tơi, rơi rụng. Không chỉ vậy, chính cô cựu sinh viên Đại học Ngoại ngữ Hà Nội này, trong nỗ tự lực bào chữa cho mình, đã "đổ tại" quá trình đào tạo môn lịch sử khi cô còn ở Việt Nam. Mới đây dư luận lại được một phen bức xúc nữa khi một vị giáo sư người Trung Quốc tên là Vương Hàn Lĩnh cho rằng "kể từ năm 1885 về trước Việt Nam là thuộc quốc của Trung Quốc". Thực ra không phải chỉ một mình cô Bích hay ông Lĩnh mà còn khá đông đảo người Việt Nam và Trung Quốc đều chưa hiểu đúng về lịch sử của đất nước mình, đặc biệt là lịch sử liên quan đến mối quan hệ lâu đời của hai quốc gia dân tộc "núi liền núi, sông liền sông" này. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng hiểu biết lịch sử "lệch lạc" như vậy nhưng có một nguyên nhân sâu xa nằm ở những "góc khuất" trong sử sách khi nói về nguồn cội dân tộc của mỗi nước. Vẫn biết, kẻ mạnh thường thắng kẻ yếu, và sự thôn tính lẫn nhau giữa các dân tộc, quốc gia vốn là một thực tế hiển nhiên trong lịch sử nhân loại, nhưng điều quan trọng có tính nguyên tắc là, mọi sự thật lịch sử cần phải được tôn trọng và giữ gìn một cách trung thực. Với tinh thần đó, người viết bài này xin được nêu lên một vài điều suy nghĩ lâu nay để mọi người cùng suy ngẫm nhằm tìm ra một lời giải. Một là, về cội nguồn dân tộc, có thể nói không chỉ truyền thuyết mà cả sử sách (của cả Trung Quốc và Việt Nam) dù có nhiều điều chưa được làm sáng tỏ hoặc chưa thỏa đáng, cũng cho thấy rằng nước Việt Nam ngày nay là một thực thể thống nhất duy nhất còn lại của Bách Việt - một tên gọi chung cho nhiều tộc người Việt đã từng định cư hàng ngàn năm trước Công nguyên trên vùng lãnh thổ rộng lớn từ bờ Nam Sông Dương Tử xuống miền Bắc Việt Nam ngày nay, phía Tây giáp Tân Cương, phía Đông giáp biển Thái Bình Dương. Sử sách cũng cho thấy Người Hán "nam tiến" với thế mạnh của kỵ binh nhưng đã phải mất hàng ngàn năm (quãng giữa thiên niên kỷ thứ 2 trước CN đến đầu thiên niên kỷ thứ nhất sau CN) để xâm chiếm, chinh phục và đồng hóa hầu hết các bộ tộc hoặc vương quốc có tên tuổi của người Bách Việt (xem bản đồ minh họa*). Đó là một quá trình kéo dài với biết bao biến cố lịch sử phức tạp mà trong đó có nhiều sự kiện đã bị lãng quên hoặc bị xuyên tạc, thậm chí bị "tráo đổi" tùy theo mục đích của các triều đại phong kiến thống trị trong các thời kỳ khác nhau, đặc biệt là thời nhà Hán và nhà Đường. Tuy nhiên có một thực tại không thể bác bỏ là, riêng Lạc Việt mặc dù bị các triều đại phong kiến Hán Hoa thay nhau thống trị từ năm 179 TCN đến 905 nhưng vẫn tồn tại và phát triển với tư cách một quốc gia dân tộc độc lập như ngày nay. Sử sách thường gọi đó là "thời kỳ 1.000 năm Bắc thuộc" mặc dù đã có rất nhiều cuộc khởi nghĩa lớn nhỏ của người Việt liên tục nỗ ra trong suốt quá trình đó. Có thể nói, đó là quá trình lịch sử tang thương của Bách Việt nói chung, nhưng cũng là trang sử hào hùng đối với dân tộc Việt Nam nói riêng. Sự tồn tại và phát triển của Việt Nam không phải là trường hợp ngẫu nhiên mà là kết cục của cả quá trình đấu tranh sinh tồn của người Bách Việt nói chung mà các thế hệ người Việt Nam nói riêng và cội nguồn Bách Việt nói chung không bao giờ được phép lãng quên. Theo truyền thuyết thì nguồn gốc tổ tiên của Việt Nam bắt nguồn từ Hồ Động Đình (tỉnh Hồ Nam, Trung Quốc ngày nay) bắt đầu bằng Thời đại Hồng Bàng của Kinh Dương Vương (có sách ghi cụ thể năm 2789 TCN). Thuyết này trùng khớp với các câu chuyện cổ tích về Âu Cơ-Lạc Long Quân, các Vua Hùng, mối tình Mỵ Châu-Trọng Thủy và chiếc nỏ thần v.v... Câu dân ca Việt cổ "Công cha như núi Thái Sơn (gần Hồ Động Đình), nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra..." cũng là một sự trùng hợp. Truyền thuyết này cũng được kiểm chứng bằng một số kết quả nghiên cứu quả khảo cổ, nhân chủng và ngôn ngữ, qua các di chỉ đồ đá, trống đồng, nghề trồng lúa nước và những khác biệt gen di tuyền v.v... Kết hợp cả truyền thuyết và cổ sử ta có thể nhận thấy trong suốt quá trình "Nam tiến" và "Đông tiến" của Hán tộc, các tộc người Bách Việt như Ngô Việt, Âu Việt, Dương Việt, Đông Việt, Nam Việt, Man Việt, Di Việt v.v.... đều không thoát khỏi bị thôn tính và đồng hóa...., để cuối cùng đều biến thành "người Hoa" hiện đại. Nhưng riêng Lạc Việt vẫn tồn tại, có thời kỳ bao gồm cả vùng đất Quảng Tây, Quảng Đông và Bắc Bộ ngày nay. Theo dòng lịch sử, ta còn thấy một thực tế là đã từng có rất nhiều người gốc Bách Việt tham gia vào bộ máy đô hộ của phong kiến Trung Hoa trong các thời kỳ khác nhau nhưng đã chọn Lạc Việt (sau là Chân Lạp, Giao Chỉ...) làm "hậu cứ" để chống lại Vương triều trung ương (như Hồ Quý Ly, Lý Bôn, Lý Bí chẳng hạn); rất nhiều người trong số họ thực sự đã tái hòa nhập vào cộng đồng Việt Nam.Cũng đã từng diễn ra những đợt rời bỏ quê hương của người Hoa gốc Bách Việt thuộc nhiều thế hệ trước đến định cư tại Việt Nam và các nước Đông Nam Á. Sử cận đại Trung Quốc cũng cho thấy, cho mãi đến những năm 1940 danh từ "dân tộc Việt" mới bị Tôn Trung Sơn chủ trương xóa bỏ trong bản đồ dân số Trung Quốc. Cho đến này nay để ý thấy ít nhiều vẫn còn những tình cảm kỳ thị giữa các cộng đồng gốc gác Bách Việt tại Trung Quốc với người "từ phương Bắc". Bản thân người viết bài này hồi nhỏ đã có dịp học tập tại Quảng Tây nới có gần 20 triệu người dân tộc Choang (còn gọi là Tráng) vốn là họ hàng của tộc Việt, mới đây trong chuyến du lịch mấy tĩnh phía Nam Trung Quốc đã được dịp "kiểm nghiệm"điều này qua chuyện trò với một số người bản địa. Tin tức cũng cho thấy người Đài Loan gần đây đã viện dẫn đến yếu tố "người bản địa" Man Việt trong cuộc đấu tranh bảo vệ sự tồn tại độc lập với Đại lục. Nhiều thông tin, dữ liệu của các nhà nghiên cứu Bách Việt học quốc tế cũng đáng được xem xét để góp phần làm sáng tỏ hơn về nguồn gốc dân tộc và nhân văn của của Việt Nam và khu vực Đông Á và Đông Nam Á nói chung. Thiết nghĩ, những sử liệu và sự kiện trên đây ít nhiều tự chúng đã nói lên những sự thật khách quan xung quanh những "góc khuất" trong cổ sử và chính sử liên quan đến cội nguồn dân tộc và quan hệ giữa hai nước Việt-Trung. Khách quan mà nói đó là hướng đi tích cực cho mục đích xây dựng mối quan hệ hữu nghị bình đẳng lâu dài giữa hai nước và trong khu vực nói chung. Hai là, về nhân văn, tuy chỉ dựa vào các nguồn sử sách cổ để lại từ thời "1.000 năm Bắc thuộc", ta cũng có thể thấy Việt Nam là kết tinh, là đại diện của Bách Việt. Về góc độ văn hoá, kể cả phong tục tập quán, ngôn ngữ, Việt Nam và Trung Quốc ngày nay có rất nhiều điểm tương đồng, đồng thời cũng có rất nhiều điểm khác biệt. Đặc điểm này nếu được hiểu và vận dụng một cách đúng đắn sẽ có tác dụng tích cực cho việc phát triển quan hệ hợp tác hữu nghị và bình đẳng giữa hai nước, chứ không có gì là không tốt như một số người có thể nghĩ. Tuy nhiên trên thực tế không được như vậy vì có quá nhiều sự thật đã bị xuyên tạc, có những giá trị đã bị "tráo đổi" trong suốt quá trình lịch sử hàng ngàn năm qua mà trong đó phần lợi bao giờ cũng nghiêng về phía kẻ mạnh. Xin đơn cử vài ví dụ: Thế giới lâu nay vẫn tin rằng Kinh Dịch là của người Trung Quốc. Nhưng thực ra gần đây các chứng cứ khảo cổ quốc tế đã cho thấy trống đồng không phải của người Hán mà là của các dân tộc phương Nam. Kết luận này cho phép các nhà nghiên cứu suy ra rằng những hình khắc biểu tượng Kinh Dịch trên trống cũng không phải của người Hán; và do đó chủ nhân của Kinh Dịch chính là người Bách Việt, cụ thể hơn là của người Âu Việt và Lạc Việt. Về ngôn ngữ, đã từ lâu người Việt Nam an phận đón nhận chũ Nho (tốt đẹp) của người Hán (còn gọi là Hán Nôm). Nhưng có một số luận điểm khác cho rằng người Hán trong quá trình xâm lược đã sử dụng ngôn ngữ của người Bách Việt, cụ thể là của Ngô Việt (tại vùng Việt Châu, tỉnh Chiết Giang và Phúc Kiến ngày nay) để cải tiến thành chữ Hán, rồi thành tiếng Trung hiện đại. Lập luận này dựa trên cơ sở nghiên cứu về ngữ nghĩa, âm thanh, ngữ pháp v.v... cho thấy một tỷ lệ rất cao các nhân tố ngôn ngữ Bách Việt trong tiếng Hán cỗ và tiếng Trung ngày nay. Đó là hiện tượng các danh từ nhưng có tính từ được xếp sau danh từ được thấy phổ biến trong Kinh Thi và ngay ở tên gọi các vị Thần Nông, Đế Nghiêu, Đế Thuấn vốn được coi là truyền thuyết Trung Quốc ; từ "Việt" hiển thị với tầng số rất cao trong các tên địa danh ở miền Nam Trung Quốc; từ "giang" (sông) của tiếng Việt cổ được sử dụng cho hầu hết các con sông miền Nam Trung Quốc (trong khi ở miền Bắc gọi là "hà"); tuồng Kinh kịch ở phía Nam Trung Quốc ngày nay vẫn còn gọi là "Việt kich", v.v... Thuyết này đồng thời cũng đặt ra mối nghi vấn rằng di chỉ thẻ tre có khắc chữ Hán cổ là "giả mạo" vì vào thời đó người Hán chưa có mặt ở miền đất phía Nam nơi có cây tre đủ to để làm thẻ viết. Tương tự cũng có sự "nhập nhằng" về chủ thể của "con đường tơ lụa" vì đúng ra người Bách Việt mới có thể là chủ thể của sản vật tơ lụa làm từ cây dâu tằm chỉ có ở vùng đất phương Nam. Rất nhiều luận điểm và luận cứ tượng tự cũng đã được nhiều học giả Việt Nam và quốc tế nêu ra. Tóm lại, dù bị người Hán cố tình đồng hóa bằng rất nhiểu thủ đoạn tinh vi và cường bạo như đốt sách, bắt từ bỏ, xóa bỏ hoặc tráo đổi v.v..., nhưng các dấu tích Bách Việt vẫn còn đó cho đến ngày nay. Trong suốt quá trình đấu tranh sinh tồn khốc liệt bên thua trận ắt chịu nhiều mất mát, nhưng những gì là bản sắc riêng vẫn còn đó; và điều này có thể nhận thấy qua nhiều nét tương đồng giữa Việt Nam với các tỉnh phía Nam và Đông Nam Trung Quốc ngày nay cũng như với các nước Đông Nam Á. Ba là, công tác nghiên cứu và giáo dục về lịch sử cần đi sâu hơn nữa về nguồn gốc dân tộc cùng các giá trị nhân văn trên tinh thần khách quan, dựa trên chứng cứ khoa học biện chứng lịch sử, khảo cổ, nhân chủng... (chứ không chỉ dựa vào sử sách củ để lại từ thời Bắc thuộc). Thiết nghĩ, trong việc này những kiến thức xác thực về Bách Việt sẽ giúp giải mã rất nhiều điều mà lâu nay chưa cảm thấy thỏa đáng hoặc chỉ là "ngộ nhận". Công tác sử học cũng cần tập trung nghiên cứu và bổ cứu lại toàn diện, đặc biệt về lĩnh vực nguồn gốc dân tộc và nhân văn của người Việt nhằm làm sáng tỏ những kiến thức mang tính truyền thuyết kết hợp với những chứng cứ lịch sử dựa trên cơ sở các kết quả nghiên cứu khảo cổ và gen di truyền v.v... Khi có đủ dữ liệu thì công khai chỉnh sửa những mọi sự sai lệnh hoặc bị xuyên tạc hoặc bị giả mạo trong sách sử cũ dưới bất cứ hinh thức nào, của bất cứ thời đại nào. Lý do là vì toàn bộ sách sử cổ của Việt Nam đều đã bị đốt và thủ tiêu trong các thời kỳ "10000 năm Bắc thuộc"; các sách sử hiện có, kể cả Đại Việt sử ký, đều là sử "chép lại" dựa chủ yếu vào các nguồn sử của các thời Hán, Đường và "hậu Hán Đường" nên không thể đảm bảo tính chính xác, trung thực và đầy đủ được; thật nguy hại nếu đã có những sự thật đã bị xuyên tạc, thậm chí đã bị tráo đổi trong đó. Mặc khác, cũng cần thừa nhận những khiếm khuyết trong khâu giáo dục công dân về lịch sử trong thời gian qua ở nước ta với những hậu quả "nhãn tiền" như đã được nhiều lần cảnh báo trước công luận. Thật nguy hại nếu mọi công dân đều hiểu biết sơ sài, thậm chí hiểu sai lệch về lịch sử của đất nước mình. Ví dụ khi nói mình "con rồng cháu tiên" nhưng trong lòng phân vân không biết có đúng thật không vì thấy ở Trung Quốc người ta cũng nói như vậy; không biết tại sao người Việt có các họ giống như người Trung Quốc, không biết chắc nên thiếu tự tin rằng trống đồng là bảo bối của dân tộc Việt Nam; không dám đòi quyền chủ thể của Kinh Dịch, v.v... Tương tự, trong lĩnh vực ngôn ngữ, sao ta không đặt mạnh vấn đề nghiên cứu xem tiếng Việt có chữ viết cổ? Lẽ nào ta dân tộc ta chỉ có chữ Hán Nôm? Có lẽ vì không biết mình là ai, nên đến ngày nay vẫn lúng túng không biết nên bảo tồn cái gì, thay thế, xoá bỏ cái gì để thực hiện "trong sáng tiếng Việt"?.Thậm chí có người cứ "vô tư" nhận mình là "con cháu" của người Trung Quốc (trong khi phía bên kia không nghĩ như vậy). Cũng cần xem xét lại một số khái niệm và quan niệm như cho rằng văn hóa Việt "bị ảnh hưởng" của văn hóa Trung Quốc là không hoàn toàn chính xác (mà thực chất đó chỉ là một sự giao thoa và ảnh hưởng qua lại); cách hiểu về nguồn gốc đạo Phật, Đạo Khổng, về Chữ Nho và Nho Giáo cũng có nhiều điều phải bàn thêm, v.v... Chỉ khi nào hiểu đúng về nguồn gốc dân tộc và tự tin với những giá trị nhân văn riêng, người Việt Nam ngày nay mới thực sự tìm lại chính mình và thoát khỏi nỗi mặc cảm truyền kiếp luôn thấy yếu kém và phụ thuộc các thế lực bên ngoài. Thay cho lời kết Những lập luận trên đây chỉ là ý kiến cá nhân của người viết để nhắc lại rằng dân tộc Việt Nam có cội nguồn lâu đời với những giá trị nhân văn không thua kém các dân tộc khác. Đó là một lịch sử cần được tôn trọng bằng các chứng cứ khoa học khách quan chứ không chỉ bằng truyền thuyết; ngay cả sử sách cũng phải được kiểm chứng lại bằng các kết quả nghiên cứu khoa học nghiêm túc. Theo hướng đó, bài viết chỉ nêu lên một thực trạng tình hình đồng thời gợi ra một số việc cần làm thêm (chứ không nhằm phê phán ai hoặc nước nào) với hy vọng góp phần đem lại sự hiểu biết đúng đắn hơn về lịch sử và cội nguồn dân tộc của Việt Nam cũng như các bên liên quan khác trong khu vực, coi đó là cơ sở để đảm bảo mối quan hệ hữu nghị, bình đẳng lâu dài giữa Việt Nam và Trung Quốc cũng như giữa các nước khu vực với nhau./. Tác giả: Trần Kinh Nghị ======================================= Tài liệu tham khảo - Mục Bách Việt trong Bách khoa toàn thư mở -Wikipedia, và rất nhiều tài liệu khác nhau được liên kết trong tài liệu này. - Đại Việt Sử Ký Toàn Thư - Sử Trung Quốc, Nguyễn Hiến Lê - Việt Nam Sử Lược, Trần Trọng Kim - Bộ sách giáo khoa môn sử học phổ thông của Nhà XB Giáo Dục Việt Nam. - Công trình nghiên cứu nguồn gốc chủng tộc dựa vào gen di truyền (DNA) của M. Liu thuộc Mackay Memorial hospital và được Viện Nghiên Cứu Sức Khoẻ quốc gia của Đài Loan tài trợ chứng minh là các giống dân miền Hoa Nam, Việt Nam, Thái Lan, Mã Lai, Nam Dương có liên hệ gen di truyền khác biệt với chủng tộc Hán ở miền bắc. -* Sử dụng lại bản đồ của Nhóm nghiên cứu về Bách việt trên mạng internet- Nguồn: nhatnguyen.yolasite.com Chú ý: những tên nước trong bản đồ này chỉ mang tính chất tượng trưng; trên thực tế chúng được thay đổi hoặc biến mất trong các thời kỳ lịch sữ khác nhau. ======================================= CẢM NGHĨ NHÂN BÀI VIẾT LỊCH SỬ CẦN SỰ THẬT Nguyễn Vũ Tuấn Anh Tóm tắt nội dung bài viết: Trên cơ sở hiện tượng cô Bích xác định nhà trường dạy cô ta, khiến cô ta hiểu cội nguồn dân tộc Việt có xuất xứ Trung Quốc. Từ đó tôi đặt vấn đề: Nội dung giảng lịch sử dạy trong nhà trường như thế nào để có một hệ quả như vậy. Sau đó là vấn đề cần làm để sáng tỏ sự thật lịch sử về cội nguồn dân tộc. " Sự thật" là một khái niệm miêu tả một hiện tượng mang tính phản ánh bản chất của nội dung sự kiện trong xã hội và nằm trong phạm trù lớn hơn. Đó là tính chân lý! Bởi vậy, không chỉ riêng môn lịch sử, mà con người trong mục đích tiến hóa của mình đang khao khát tìm đến chân lý cuối cùng. Con người cần biết rõ quá khứ cội nguồn của mình: Con người từ đâu đến và đi về đâu. Câu hỏi mang tính minh triết ấy đã khiến tất cả những tri thức tài năng của con người đi tìm từ hàng thiên niên kỷ trước. Lịch sử tiến hóa của con người, của xã hội, của dân tộc đều chỉ là những phương tiện để thỏa mãn câu trả lời minh triết này. Lịch sử là một bộ phận quan trong của tri thức nhân loại, nó cần cầu tìm chân lý. Hay nói như bài báo trên: Nó cần sự thật! Bài báo viết: Tôi không quan tâm đến lời nói lộng ngôn của Vương Hàn Lĩnh - mà theo quan điểm của tôi - cội nguồn tổ tiên của ông ta, nếu ở miền nam Dương Tử thì cũng có thể là một thần dân trung thành của các vua Hùng. Ông ta là nhà sử học, nhưng phát ngôn của ông rất có thể mang tính chính trị. Ở đây, tôi đang nghĩ về tính chân lý, tính sự thật của lịch sử cần được tôn trọng. Nhưng tôi không thể không có vài lời vì vế trên của đoạn trích dẫn này. Bởi vì, chính nó là bổ để, là nguyên nhân trực tiếp, hoặc gián tiếp, hoặc là cơ sở gián tiếp để cho Vương Hàn Lĩnh phát biểu lời nói lộng ngôn trên. Chúng ta xem lại đoạn này: Vậy qua lời phát biểu này, nữ nghiên cứu sinh Tiến sĩ Đỗ Ngọc Bích ở Hoa Kỳ đã xác định một cách công khai rằng: Chính những người giảng dạy môn lịch sử dân tộc Việt đã dạy cô ta rằng: Phải không nhỉ? Tại sao giới giáo sư, giảng viên Đại Học đang giảng môn lịch sử nguồn gốc dân tộc Việt - trước lời phát biểu của Nữ tiền sĩ đang học tại Hoa Kỳ - công khai xác định trên BBC - một cơ quan ngôn luận có ảnh hưởng quốc tế và được tờ báo mạng uy tín trong nước - Tuanvietnam.vn - đăng tải lại không lên tiếng phản đối rằng: - "Chúng tôi không dạy như vậy!". Rằng: - "Chúng tôi dạy cho sinh viên Việt lòng tự hào dân tộc Việt". Rằng : - "Đỗ Ngọc Bích là người trơ tráo, phản bội lại tổ tiên cội nguồn dân tộc rồi đổ thừa cho chúng tôi!". Họ có thể nói như vậy không? Hay họ thừa nhận chính họ đã dạy cô sinh viên - học trò giỏi và xuất sắc đang du học nghiên cứu sinh tại Hoa Kỳ và cô ta chỉ thể hiện kiến thức đã học của mình ở Việt Nam với tư duy tiến sĩ? Vương Hàn Lĩnh phát biểu chỉ là ý kiến cá nhân, ngông cuồng của ông ta. Còn phát biểu của nữ tiến sĩ Việt du học tại Hoa Kỳ, nó xác định tính hệ thống của việc giảng dạy của khoa sử tại Việt Nam. Cô ta không phát biểu nhân danh cá nhân mà nhân danh một hệ thống trí thức được giảng dạy tại nhà trường: Họ đã dạy cho sinh viên cái gì để một tri thức đẳng cấp nghiên cứu sinh tiến sĩ - Chứ không phải bà bán ve chai, lông vịt tốt nghiệp lớp 2 trường làng, vùng sâu, vùng xa - lại nhận thức về lịch sử cội nguồn dân tộc Việt Nam như vậy? Nếu nữ nghiên cứu sinh tiến sĩ người Việt Nam Đỗ Ngọc Bích đang học ở Trung Quốc, mà phát biểu như vậy thì tôi có thể nghĩ rằng: Cô ta chịu sức ép của chính quyền nhà nước Trung Quốc. Nhưng đây cô ta lại đang ở Hoa Kỳ - một đất nước chẳng liên quan gì để can thiệp vào lịch sử Việt Trung - và phát biểu về cội nguồn lịch sử Việt Trung. Phải chăng những điều mà các vị giáo sư sử học khả kính với tất cả những phương tiện đồ sộ và quyền lực trong học thuật đang giảng cho học sinh, sinh viên các cấp của trường học Việt Nam, đã dẫn đến một hậu quả để một trí thức đẳng cấp tiền sĩ nhận thức cội nguồn lịch sử dân tộc Việt có nguồn gốc từ Trung Quốc? Họ dạy cái gì? Họ khẳng định điều này trên các bục giảng chăng? Không! Tôi tin chắc rằng không một sinh viên lịch sử, không một chuyên viên cao cấp chuyên ngành của tất cả các cơ quan công khai và bí mật trên khắp thế giới quan tâm đến văn hóa - tìm thấy một từ cụ thể nào trong các giáo trình của môn lịch sử ở Việt Nam công khai viết rằng: "Dân tộc Việt có nguồn gốc từ Trung Quốc". Không bao giờ tìm thấy! Vậy thì tại sao cô Đỗ Ngọc Bích nữ nghiên cứu sinh Việt Nam tại Hoa Kỳ lại xác định rằng: "Tri thức ấy cô học được từ nhà trường khi ở Việt Nam"? Cô ta xuyên tạc, vu cáo và qua đó kéo cả nền giáo dục Việt sử vào sự tự lăng mạ chính dân tộc mình khi phát biểu của cô ta cho rằng "Dân tộc Việt có nguồn gốc từ Trung Quốc " là do " quá trình đào tạo môn lịch sử khi cô còn ở Việt Nam" chăng?. Hay cô ta đã nói lên một thực trạng của việc giáo dục môn lịch sử cội nguồn dân tộc Việt và thực trạng ấy đã dẫn cô ta đến một kết luận tự sỉ nhục dân tộc mình như vậy? Lịch sử cần sự thật! Vậy - Họ - Cô Đỗ Ngọc Bích - qua BBC mà cầm đầu là Nguyễn Giang - đang hoạt đông với sự cho phép của chính Phủ Anh - muốn gì khi đặt vấn đề: "Dân tộc Việt Nam có nguồn gốc từ Trung Quốc?" và xác định rằng đó là do "quá trình đào tạo môn lịch sử khi cô còn ở Việt Nam" - tức là cô ta xác định những người giảng dạy lịch sử xác định điều này với cô? Cô ta chỉ là người phát ngôn cuối cùng. Người ta đã công khai và phát biểu một chiều trên các phương tiện thông tin đại chúng, các diễn đàn chính quy và các giảng đường - mà có thể tóm gọn lại trong ý chính rằng: Thời Hùng Vương chỉ là "một liên minh gồm 15 bộ lạc" cùng lắm là "một nhà nước sơ khai" với vùng hoạt động không quá đồng bằng bắc bộ và "hình thành ở thời đại đồ đồng đầu thế kỷ thế VII, trước CN". Có thể tham khảo các bài viết với nội dung như vậy của họ mà tôi đã trích dẫn trong các sách đã xuất bản của tôi, như: "Thời Hùng Vương qua truyền thuyết và huyền thoại", "Tìm về cội nguồn Kinh Dịch"."Thời Hùng Vương và bí ẩn lục thập hoa giáp"....ngay trong trang chủ lyhocdongphuong.org.vn; hoặc theo đường link này: http://www.lyhocdongphuong.org.vn/diendan/...?showtopic=1748 http://www.lyhocdongphuong.org.vn/diendan/...?showtopic=2767 http://www.lyhocdongphuong.org.vn/diendan/...?showtopic=4164 ....... Và còn rất nhiều luận điểm tương tự trên các sách, các bài viết được xuất bản công khai, có mục đích phủ nhận cội nguồn Việt sử 5000 năm văn hiến. Nhưng chúng ta sẽ rất khó khăn nếu tìm thấy một cách bình đẳng về tính phổ biến của quan điểm minh chứng cho Việt sử với quan điểm trải gần 5000 năm văn hiến trên các phương tiện này. Nhưng cũng như những bài viết mà tôi đã trình bày ở các đường link trên và trong các sách đã xuất bản thì tất cả những luận điểm của họ với nội dung phủ định Việt sử 5000 năm văn hiến, hoàn toàn chỉ là những giả thuyết xuất phát từ suy luận chủ quan và không hề mang tính hợp lý lý thuyết có tính hệ thống chặt chẽ. Đó chỉ là những cái nhìn và giải thích cho từng hiện tượng riêng lẻ. Tất nhiên hoàn toàn phản khoa học. Nếu quả là "lịch sử cần sự thật" thì sự thật ấy cần được minh chứng một cách khoa học để sáng tỏ. Không thể có tính độc quyền áp đặt luận điểm lịch sử lên học sinh , sinh viên và dẫn đến sự tự phủ nhận cội nguồn dân tộc như cô Đỗ Ngọc Bích - nghiên cứu sinh tiến sĩ tại Hoa Kỳ - đã phát biểu công khai trên BBC. Đã có một hiện tượng khiến dư luận trong đặc biệt chú ý: Đó là việc giáo sư Lê Mạnh Thát công bố công trình của mình dựa trên cơ sở sứu tầm những tư liệu liên quan đến Phật giáo ở Việt Nam và xác định Việt sử 5000 năm văn hiến. Hội sử học cũng công khai lên tiếng sẽ mở một cuộc hội thảo để tạo điều kiện cho những tranh luận cầu tìm chân lý cho cội nguồn lịch sử Việt. Nhưng mọi chuyện chìm trong im lặng một cách khó hiểu cho đến ngày nảy sinh hiện tượng phủ định cội nguồn dân tộc của nữ tiến sĩ Đỗ Ngọc Bích trên BBC. Lịch sử cần sự thật. Đúng. Nhưng không nên coi đó là một khẩu hiệu mà nên là một hành vi và cần tranh luận công khai với những hội thảo khoa học nghiêm túc có tính quốc tế với các quan điểm khác nhau về cội nguồn dân tộc Việt .
    1 like
  9. Cảnh Xuân (Xuân Yêu) ( I ) Ta mến Cảnh Xuân ánh sáng ngời Thú vui thơ rượu chén đầy vơi Hoa cài dậu trúc cành xanh biếc Lá quyện hương xuân sắc thắm tươi Qua lại khách chờ sông lặng sóng Ngược xuôi Thuyền đợi bến đông người Xa ngân tiếng hát đàn trầm bổng Tha thiết bóng ai mắt mỉm cười Đọc ngược ( II) Cười mỉm mắt ai bóng thiết tha Bổng trầm đàn hát tiếng ngân xa Người đông bến đợi Thuyền xuôi ngược Sóng lặng sông chờ khách lại qua Tươi thắm sắc xuân hương lá quyện Biếc xanh cành trúc dậu cài hoa Vơi đầy chén rượu thơ vui thú Ngời sáng ánh xuân cảnh mến ta (Thơ Hay) Cách đọc 3 Bỏ 2 từ đầu ở mỗi câu Đọc xuôi Cảnh xuân ánh sáng ngời Thơ rượu chén đầy vơi Dậu trúc cành xanh biếc Hương xuân sắc thắm tươi Khách chờ sông lặng sóng Thuyền đợi bến đông người Tiếng hát đàn trầm bổng Bóng ai mắt mỉm cười Cách đọc 4 bỏ 2 từ cuối ở mỗi câu Đọc ngược Mắt ai bóng thiết tha Đàn hát tiếng ngân xa Bến đợi Thuyền xuôi ngược Sông chờ khách lại qua Sắc xuân hương quyện lá Cành trúc dậu cài hoa Chén rượu thơ vui thú Ánh xuân cảnh mến ta Cách đọc (5) Bỏ 3 từ cuối ở mỗi câu Đọc xuôi Ta mến cảnh xuân Thú vui thơ rượu Hoa cài dậu trúc Gió lộng hương xuân Qua lại khách chờ Ngược xuôi Thuyền đợi Xa ngân tiếng hát Tha thiết bóng ai Cách đọc (6) Bỏ 3 từ đầu ở mỗi câu Đọc ngược Cười mỉm mắt ai Bổng trầm đàn hát Người đông bến đợi Sóng lặng sông chờ Tươi thắm sắc xuân Biếc xanh cành trúc Vơi đầy chén rượu Ngời sáng ánh xuân Cách đọc (7) Bỏ 4 từ đầu đọc xuôi Ánh sáng ngời Chén đầy vơi Cành xanh biếc Sắc thắm tươi Sông lặng sóng Bến đông người Đàn trầm bổng mắt mỉm cười Cách đọc (8) Bỏ 4 từ cuối đọc ngược Bóng thiết tha Tiếng ngân xa Thuyền xuôi ngược Chờ khách lại qua Hương lộng gió Dậu cài hoa Thơ vui thú Cảnh mến ta Trên đây là 8 cách đọc cơ bản Ngoài ra ta còn có thể đọc biến tấu như sau Cách đọc (9) Bỏ 3 từ đầu, lấy từ 5 đảo làm 4 Đọc xuôi Ánh xuân sáng ngời Chén rượu đầy vơi Cành trúc xanh biếc Sắc xuân thắm tươi Sông chờ lặng sóng Bến đợi đông người Đàn hát trầm bổng Mắt ai mỉm cười Cách đọc (10) Bỏ 3 từ cuối, lấy từ 3 làm 4 Đọc ngược Bóng ai thiết tha Tiếng hát ngân xa Thuyền đợi xuôi ngược Khách chờ lại qua Hương xuân lộng gió Dậu trút cài hoa Thơ rượu vui thú Cảnh xuân mến ta Cách đọc (11) Đọc theo cơ bản chéo câu Đọc xuôi, ngược chéo câu vần Ta mến cảnh xuân mắt mỉm cười Thú vui thơ rượu bến đông người Hoa cài dậu trúc sông lặng sóng Ngược xuôi Thuyền đợi sắc thắm tươi Qua lại khách chờ đàn trầm bổng Lá quyện hương xuân chén đầy vơi Xa ngân tiếng hát cành xanh biếc Tha thiết bóng ai ánh sáng ngời Cách đọc (12) Đọc xuôi , ngược chéo câu vần Ngời sáng ánh xuân bóng thiết tha Vơi đầy chén rượu tiếng ngân xa Biếc xanh cành trúc Thuyền xuôi ngược Tươi thắm sắc xuân khách lại qua Sóng lặng sông chờ hương quyện lá Người đông bến đợi dậu cài hoa Bổng trầm đàn hát thơ vui thú Cười mỉm mắt ai cảnh mến ta Cách đọc (12b) Đọc ngược ,xuôi chéo câu vần Cười mỉm mắt ai cảnh mến ta Bổng trầm đàn hát dậu cài hoa Người đông bến đợi hương quyện lá Biếc xanh cành trúc khách lại qua Tươi thắm sắc xuân thơ vui thú Sóng lặng sông chờ tiếng ngân xa Vơi đầy chén rượu Thuyền xuôi ngược Ngời sáng ánh xuân bóng thiết tha Cách đọc (14) Đọc ngược, xuôi chéo câu vần Tha thiết bóng ai ánh sáng ngời Xa ngân tiếng hát chén đầy vơi Ngược xuôi Thuyền đợi cành xanh biếc Qua lại khách chờ sắc thắm tươi Lá quyện hương xuân sông lặng sóng Hoa cài dậu trúc bến đông người Thú vui thơ rượu đàn trầm bổng Ta mến cảnh xuân mắt mỉm cười Cách đọc(15) Đọc đứng Đọc chéo các cặp câu - Đọc xuôi Ta mến cảnh xuân mắt mỉm cười Thú vui thơ rượu bến đông người Hoa cài dậu trút sông lặng sóng Ngược xuôi Thuyền đợi sắc thắm tươi Gió lộng hương xuân đàn trầm bổng Qua lại khách chờ chén đầy vơi Xa ngân tiếng hát cành xanh biếc Tha thiết bóng ai ánh sáng ngời Cách đọc(16) Đọc đứng Đọc chéo các cặp câu - Đọc ngược Cười mỉm mắt ai cảnh mến ta Bổng trầm đàn hát dậu cài hoa Người đông bến đợi hương lộng gió Biếc xanh cành trúc khách lai qua Sóng lặng sông chờ thơ vui thú Tươi thắm sắc xuân tiếng ngân xa Vơi đầy chén rượu Thuyền xuôi ngược Ngời sáng ánh xuân bóng thiết tha Cách đọc (17) Lục bác đọc xuôi Cảnh xuân ta mến ánh ngời Thú vui chén rượu đầy vơi hát đàn Hoa cài dậu biếc sáng xanh Hương xuân lá quyện thắm cành sắc tươi Ngược xuôi Thuyền đợi đông người Lại qua sóng lặng bến sông khách chờ Ngân xa tiếng trúc bổng trầm Bóng thơ tha thiết mỉm cười mắt ai (Bóng ai cười mỉm mắt thơ Xa ngân tiếng trúc bổng trầm thiết tha) Cách đọc (18) Lục bác đọc ngược Mắt ai cười mỉm thiết tha Bổng trầm tiếng trúc ngân xa hát đàn Thuyền chờ khách đợi ngược xuôi Bến sông sóng lặng đông người lại qua Bóng xanh dậu biếc cài hoa Xuân tươi quyện lá thắm cành sắc hương Vơi đầy chén rượu thú vui Cảnh thơ ta mến ánh xuân sáng ngời Cách đọc (19) Lục bác đọc xuôi Ánh xuân ngời sáng thú vui Cảnh thơ chén rượu vơi đầy mến ta Trúc xanh dậu biếc cài hoa Sắc hương lá quyện thắm cành xuân tươi Bến sông khách đợi ngược xuôi Thuyền chờ sóng lặng đông người lại qua Mắt ai cười mỉm thiết tha Bóng trầm bổng hát ngân xa tiếng đàn Cách đọc (20) Lục bác đọc ngược Mắt ai cười mỉm thiết tha Tiếng đàn hát bóng ngân xa bổng trầm Ngược xuôi bến đợi người đông Lại qua Thuyền khách sóng sông lặng chờ Sắc hương quyện lá biếc xanh Hoa cài dậu trút thắm cành xuân tươi Thú vui rượu chén vơi đầy Thơ ta mến ánh sáng ngời cảnh xuân Cách đọc (21) Lục bác tự do Ghép bất kỳ 56 ký tự trong bài Cảnh Xuân Thành bài lục bác tự do Bến sông cảnh đợi người đông Ánh xuân ngời sáng bổng trầm ngân xa Thuyền chờ sóng lặng thiết tha Khách xuân tươi biếc lại qua hát đàn Hoa cài dậu trúc bóng xanh Ngược xuôi lá quyện thắm cành sắc hương Vơi đầy chén rượu thú vui Tiếng thơ ta mến mỉm cười mắt ai Cách đọc (22) Lục bác tự do Thú vui ta mến cảnh xuân Mắt ai cười mỉm rượu xuân chén đầy Dậu xanh cành biếc hoa cài Sắc hương quyện lá sáng tươi ánh ngời Sông chờ sóng lặng bóng vơi Lại qua Thuyền thắm bến người đợi đông Ngược xuôi tiếng trúc bổng trầm Khách thơ tha thiết xa ngân hát dàn Xuân Bình
    1 like
  10. 1 like
  11. Trong thập niên 1960 trở lại đây, Việt Nam ở hoàn cảnh chiến tranh, biến cố diễn ra liên miên. Hôm nay thế này, ngày mai bừng mắt dậy đã khác, nên khiến con người muốn tìm hiểu số mệnh mình bằng các khoa học huyền bí. Trong các khoa học huyền bí, thì khoa Tử-vi được coi là có nhiều tính chất khoa học, giải đoán được mọi sự kiện của cuộc đời và mở rộng. Bởi vậy khoa Tử-vi được nghiên cứu rất nhiều. Từ những người cao niên, học thức uyên thâm, tới những sinh viên học sinh, thi nhau tìm hiểu khoa này. Cho đến năm 1973-1975, một bán nguyệt san được xuất bản với tên khoa học huyền bí do ông Nguyễn Thanh Hoàng sáng lập và làm chủ nhiệm. Tạp chí này mang tên Khoa học huyền bí nhưng gần như là nơi quy tụ những kết quả của các nhà nghiên cứu Tử vi. Người yêu khoa Tử vi thì nhiều, mà sách vở ấn hành không được là bao. Tựu trung có các bộ sau đây : - Tử-vi đẩu số tân biên của Vân-Điền Thái-Thứ Lang. - Tử-vi áo bí của Hà-Lạc Dã Phu. - Tử-vi Hàm-số của Nguyễn Phát Lộc. - Tử-vi đẩu số toàn thư của La Hồng Tiên do Vũ Tài Lục dịch nhưng chỉ có một phần ngắn. Trong bốn bộ sách Tử-vi trên thì từ tính chất các sao, đến cách an sao, giải đoán hầu như quá khác biệt nhau, khiến cho người nghiên cứu không biết đâu là phải, đâu là trái, đâu là sự thật mà đi theo. Thậm chí có sách đi vào những chi tiết thần kỳ chí quái, hoang đường trái hẳn với khoa Tử-vi nguyên thủy, đó là bộ Tử-vi Áo-bí của Hà-lạc Dã Phu. Hiện (1977) khoa Tử-vi ở Việt-nam, bị coi là một khoa nhảm nhí bị cấm tuyệt, người coi Tử-vi bị kết tội ngang với những tội đại hình. Tuy nhiên trong dân chúng, vẫn nghiên cứu, và các thầy Tư-vi vẫn đông khách. Tại hải ngoại, người Việt lại tiếp tục nghiên cứu khoa này, số người nghiên cứu hầu như đông đảo hơn hồi 1975 về trước nữa. Lý do, khi tiếp xúc với văn minh cơ giới Âu-Mỹ không giải quyết được lẽ huyền bí của con người với vũ trụ. Hơn nữa khoa Tử-vi nhiều tính chất khoa học hơn các khoa chiêm tinh khác. Lý do thứ ba khiến khoa Tử-vi được nhiều người nghiên cứu là, khi ra ngoại quốc, người Việt không ít thì nhiều đều tìm cách học thêm. Học nhiều thì kiến thức rộng. Kiến thức càng rộng thì việc nghiên cứu càng sâu rộng hơn. Một vài nơi như Pháp, Canada, Úc, Hoa-kỳ, họ đã thành lập những hội nghiên cứu Tử-vi, hơn nữa có nhiều bạn trẻ dùng vi tính lập lá số, giải đoán lá số; thực là một điều đáng khuyến khích. Tuy nhiên trong hoàn cảnh khó khăn hiện tại, lấy đâu ra sách vở tài liệu để họ nghiên cứu ? Sách vở căn bản không có, rất dễ dàng đi đến sai lạc, khiến cho khoa Tử-vi bị mất giá trị, mà mất luôn sự tin tưởng và mất luôn ngày giờ của người nghiên cứu. Bởi vậy chúng tôi mạo muội mở đầu cho phong trào, bằng một bài nghiên cứu về lịch sử khoa Tử-vi, để độc giả có một cái nhìn tổng quát, khiến nó không bị ngộ nhận là nhảm nhí và đồng hóa với những khoa huyền bí thiếu biện chứng khác. . I.- Thư tịch về khoa Tử-vi Khoa Tử-vi bắt nguồn từ thời nào ? Ai là người khai sáng ra nó, cho đến nay sử sách không ghi lại. Các Tử-vi gia thường chỉ chú ý đến việc giải đoán Tử-vi hơn là đi tìm hiểu lịch sử. Bởi vậy cho đến lúc này, lịch sử khoa này vần còn lờ mờ. Thậm chí có người còn lầm lẫn khoa Tử-vi với những chuyện truyền kỳ chí quái ma trâu đầu rắn đầy hoang đường của tiểu thuyết Phong- thần hoặc Tây du ký và nói rằng: Khoa Tử-vi do một ông tiên tên Trần Đoàn đặt ra, và Trần Đoàn lão tổ là một Tiên ông trường sinh bất lão, có tài hô phong hoán vũ, phép tắc nhiệm mầu. Nhiều vị còn thờ Trần Đoàn lão tổ. Khi xem số cho thân chủ còn thắp hương khấn vái, để lão tổ linh ứng cho một quẻ, thật là nhảm nhí và vô lý hết sức. Kể từ khi khoa Tử-vi được đắc dụng vào niên hiệu Càn-đức nguyên niên, đời vua Thái-tổ nhà Tống (863), cho đến nay trên một ngàn năm chưa có sử gia nào chép về lịch sử cả. Trên đường nghiên cứu, chúng tôi tìm được một số thư tịch rải rác sau đây, biên tập sơ lược về khoa này. Tôn trọng đúng nguyên tắc sử gia Đông phương, những gì nghi ngờ thì để nguyên, mà cổ nhân gọi là nghi dĩ truyền nghi. 1.- Tử-vi chính nghĩa Bộ này do Hy Di tiên sinh truyền cho Tống thái-tổ là Triệu Khuông Dẫn. Bản chúng tôi có là bản chép tay của Hoa-yên tự. Bản này được tàng trữ tại Quốc sử quán triều Nguyên, năm 1955 trong một cuộc chính biến lật đổ Quốc trưởng Bảo-Đại chúng tôi sưu tầm được. 2.- Triệu Thị Minh Thuyết Tử-vi kinh Chúng tôi có hai bản. Bản chép tay gia truyền, cũng chép từ chính bản của Hoa-yên tự. Một bản nữa của Cẩm-chướng thư cục Thượng-Hải ấn hành năm 1921. Hai bản không khác nhau là bao. Bởi gốc của bộ sách này là bộ Tử-vi chính nghĩa. Sau khi được Hy Di tiên sinh truyền cho, Triệu Khuông Dẫn và con cháu nhà Tống nghiên cứu rộng ra mới đặt cho một tên mới là Triệu Thị Minh Thuyết Tử-vi kinh. Có nghĩa là họ Triệu giảng giải rõ ràng về bộ Tử-vi kinh. Bộ này được Hoàng Bính truyền sang Việt Nam vào niên hiệu Nguyên phong thứ 7 đời vua Trần Thái Tông (1257), Hoa-yên tự chép lại và lưu truyền tới nay. 3.- Đông-a di sự Bộ này không phải là bộ sách nghiên cứu về Tử-vi, mà là bộ sách chép các học thuật đời Trần, trong đó có phần chép về Tử-vi. Bộ sách do ba người liên tiếp chép, đó là Huệ Túc phu nhân vợ của Trần Thái Tông; Đoàn Nhữ Hài, một vị Tể tướng đời Trần, học trò của Huệ Túc; Trần Nguyên Đán, một vị bác học cuối đời Trần. Bản chúng tôi có là bản do Trần Nguyên Đán khắc bản mộc năm 1388. 4.- Tử-vi đại toàn Bộ này do các văn thần nhà Thanh nghiên cứu, tổng hợp hết các sách cổ kim về Tử-vi, chép lại. Đây không phải là bộ biên tập, nghiên cứu mà chỉ là bộ sao chép lại mà thôi. Bản chúng tôi có là bản sao, đề rằng do Cẩm-Chướng thư cục Thượng-hải xuất bản năm 1921. 5.- Tử-vi đẩu số toàn thư Do La Hồng Tiên biên soạn rất giản lược, nhưng giống bộ Tử-vi chính nghĩa. Có thể nói đây là bộ Tử-vi chính nghĩa yếu lược. Bộ này do Cẩm Chướng thư cục xuất bản năm 1921 tại Thượng-hải. Sau này ông Vũ Tài Lục có dịch nhưng dịch một phần rất ngắn, và không chú giải. La Hồng Tiên sống vào đời Minh. Trên đây là 5 bộ Tử-vi được coi là chính thư hay do chính phái biên tập. Ngoài ra còn một vài bộ dưới đây bị coi là tạp thư, tá phái nhưng chúng tôi vẫn nghiên cứu đầy đủ. 6.- Tử-vi Âm-dương chính nghĩa Bộ này do Lã Ngọc Thiềm và các tử-vi gia thuộc Bắc phái biên tập, nên thường thêm chữ Bắc-tông để phân biệt với Nam-tông. Bản chúng tôi có là bản chép tay. 7.- Tử-vi Âm-dương chính nghĩa Do Ma-y biên soạn vào đời Tống, sau được các Tử-vi gia thuộc Nam-phái bổ túc sửa đổi, nên thường thêm chữ Nam-tông để phân biệt với Bắc-tông. Bộ này khắc bản in vào đời Thanh triều Khang-Hy, nhưng không ghi rõ năm nào. 8.- Tử-vi thiển thuyết Bộ tổng luận về Tử-vi do Lưu Bá Ôn, một đại thần khai quốc nhà Minh biên soạn. Bản chúng tôi có là bản khắc in vào đời Thanh triều Khang Hy, nhưng không ghi rõ năm nào. 9.- Lịch số tử-vi toàn thư Bộ này do Hứa Quang Hy đời Minh biên soạn. Bản chúng tôi có là bản chép tay. Ngoài ra chúng tôi sưu tầm được khoảng trên hai mươi bộ sáchkhác, nhưng tựu trung mô phỏng các bộ sách trên đây cả nên không bàn tới.
    1 like
  12. Một nghiên cứu cho thấy những người nghĩ về tổ tiên trước khi làm bài kiểm tra hay phỏng vấn xin việc sẽ đạt kết quả tốt hơn. Trước khi làm bài kiểm tra hay phỏng vấn xin việc, thí sinh sẽ thấy tự tin và đạt kết quả tốt hơn nếu nghĩ về tổ tiên trong vài phút. Los Angeles Times đưa tin các nhà nghiên cứu của Đại học Graz tại Áo cùng các đồng nghiệp tại Đức tuyển 80 sinh viên để thực hiện một thử nghiệm. Ban đầu các chuyên gia chia ngẫu nhiên sinh viên thành hai nhóm rồi yêu cầu một nhóm tưởng tượng về dung mạo và cuộc sống của tổ tiên, còn nhóm kia nhớ lại một lần mua sắm. Ngay sau đó nhóm nghiên cứu hỏi sinh viên về mức độ tự tin của họ trước những kỳ thi sắp tới. Phần lớn sinh viên trong nhóm nghĩ về tổ tiên tỏ ra tự tin hơn. Nhóm nghiên cứu yêu cầu tất cả sinh viên thực hiện một số bài kiểm tra trí tuệ. Kết quả cho thấy điểm trung bình và điểm tuyệt đối của nhóm nghĩ về hoạt động mua sắm đều thấp hơn nhóm nghĩ về tổ tiên. “Chúng tôi đã chứng minh được rằng việc nghĩ về tổ tiên có thể làm tăng khả năng tư duy của con người”, nhóm nghiên cứu kết luận trong bài viết trên tạp chí Social Spychology tại châu Âu. Các thành viên trong nhóm nghiên cứu cho rằng, mỗi khi ai đó chuẩn bị đối mặt với những tình huống đòi hỏi hoạt động trí não, như kỳ thi hay cuộc phỏng vấn xin việc, người ấy nên dành ít nhất 5 phút để nghĩ về tổ tiên. Đó là một biện pháp đơn giản để tăng khả năng thành công. Tiến sĩ Peter Fischer, nhà nghiên cứu của Đại học Graz, phát biểu: “Tổ tiên chúng ta đã vượt qua hàng loạt thử thách trong cuộc sống của họ, như bệnh hiểm nghèo, chiến tranh, nỗi đau do mất người thân, suy thoái kinh tế. Vì thế, khi nghĩ tới họ, chúng ta nhận ra rằng những con người giống hệt chúng ta về mặt di truyền có thể vượt qua nghịch cảnh đáng sợ nhất. Nhờ đó mà chúng ta cảm thấy tự tin hơn”. Minh Long (Vnexpress.net)
    1 like
  13. PTKT-HSC: Ngày 6/01/2011, VNINDEX tăng 0.40 điểm, tương đương 0.08 % đóng cửa ở mốc 482.31 điểm. Tổng khối lượng khớp lệnh là 27.62 triệu cổ phiếu, thấp hơn 13.51% so với phiên trước và thấp hơn 30.90% so với khối lượng trung bình 90 ngày. Độ rộng thị trường vẫn tiêu cực và mở ra, với số mã giảm nhiều hơn số mã tăng (A/D ratio là 0.5) với 125 mã giảm, và chỉ có 69 mã tăng. Quan điểm phân tích ngắn hạn : Thị trường đóng cửa tăng nhẹ với thanh khoản giảm mạnh xuống mức thấp nhất trong vòng 1 tháng trở lại đây. Cùng với độ rộng thị trường tiêu cực, thanh khoản thấp cho thấy sự do dự của nhà đầu tư và cho thấy phiên tăng điểm hôm nay là thiếu sức thuyết phục. Chỉ báo ROC(14) và MFI(14) tiếp tục dao động dưới đường trend line hướng xuống, chỉ báo sức mạnh HSC market strength – index vẫn giao động dưới đường tín hiệu, cho thấy áp lực giảm điểm vẫn khá mạnh. Tín hiệu tiêu cực từ những chỉ báo kĩ thuật cùng với sự xuất hiện của mẫu hình nến Evening Doji Star, cho thấy phiên tăng điểm hôm nay thiếu tính thuyết phục và khả năng đợt điều chỉnh vẫn còn tiếp tục. Tóm lại, mặc dù thị trường đóng cửa tăng, bức tranh kĩ thuật vẫn không thay đổi nhiều, vùng hỗ trợ 475 nhiều khả năng vẫn sẽ được kiểm định. Với điều kiện thanh khoản duy trì ở mức thấp như hiện nay, thị trường nhiều khả năng vẫn sẽ tiếp tục tích lũy dưới 490 điểm và mẫu hình điều chỉnh/tích lũy Flag hoặc Pennant nhiều khả năng sẽ hình thành trong vòng 1-2 tuần tới. Thách thức đối với đà tăng điểm : Vùng 494-498 nơi có đường internal trendline, ngưỡng Fibonacci Retracement 61.8% của đợt suy giảm tháng 05/2010, Fibonacci Extension 161.8 % và đỉnh ngắn hạn vào ngày 20/05/2009 trở thành vùng kháng cự gần nhất cho thị trường. Vùng hỗ trợ đáng chú ý : Vùng hỗ trợ gần nhất xung quanh 470-469, đường trendline hướng lên và ngưỡng Fibonacci 38.2 %, đây cũng là đường confirmation line của mẫu hình “ Double bottoms – Adam & Adam “. Quan điểm phân tích kỹ thuật trung hạn: Xu hướng trung hạn là tăng. Trong xu hướng tăng trung hạn, thị trường được kỳ vọng sẽ phá vỡ vùng kháng cự mạnh tại 497 và hướng về vùng kháng cự 545 trong khoảng 2-3 tháng tới. Chúng tôi kỳ vọng vùng hỗ trợ mạnh xung quanh 450 sẽ được giữ trong những đợt điều chỉnh ngắn hạn. Chiến lược giao dịch: Tiêu cực ngắn hạn. Nhà đầu tư trung hạn mua khi điều chỉnh. Nhà đầu tư lướt sóng, ngắn hạn có thể giải ngân một phần tại vùng hỗ trợ 475-470.
    1 like
  14. Cổ vật ở Hoàng Thành Thăng Long khanhhoathuynga 5. 10. 2010 Cổ vật ở Hoàng Thành Thăng Long Hàng vạn người đã xếp hàng vào Hoàng Thành Thăng Long để chiêm ngưỡng những cổ vật nghìn năm. Không chỉ Điện Kính Thiên, mà khu vực khảo cổ ở 18 Hoàng Diệu cũng mở cửa đón du khách. Vào lúc 8h sáng trước cửa Đoan Môn – Điện Kính Thiên đã diễn Lễ Khai trương và giới thiệu di tích, di vật Hoàng Thành Thăng Long “Lịch sử 1000 năm từ lòng đất”. Buổi lễ do Bộ VH, TT&DL, UBND TP Hà Nội phối hợp với Viện Khoa học Xã hội đã tổ chức. Bà Irina Bokova – Tổng Giám đốc UNESCO, người đã trao bằng Di sản văn hóa Thế giới khu trung tâm Hoàng Thành Thăng Long cho Hà Nội vào ngày hôm qua (1/10) cũng tới dự. Lễ Khai trương và giới thiệu di tích, di vật Hoàng Thành Thăng Long “Lịch sử 1000 năm từ lòng đất” Sau phần lễ người dân được vào tận Điện Kính Thiên chiêm ngắm cổ vật. Tại đây người ta chia thành 5 nhà trưng bày với 1.000 hiện vật, trong đó gồm những hiện vật được khai quật từ địa chỉ 18 Hoàng Diệu và 300 hiện vật của nhà sưu tầm cổ vật Dương Phú Hiến. Ngoài ra người dân còn được xem những tư liệu về Hà Nội xưa của Viện Viễn Đông Bác cổ. Bà Irina Bokova – Tổng Giám đốc UNESCO (ngoài cùng, bên trái) và lãnh đạo UBND TP Hà Nội Ngay từ sớm, đông đảo người dân đã háo hức tới phố Hoàng Diệu để chờ được vào tận bên trong chiêm ngắm cổ vật ngàn năm. Và cho tới tận 11h trưa, lượng khách không những không giảm, thậm chí còn tăng lên. Đông đảo người dân đến thăm Hoàng Thành Thăng Long Ít ai có thể thờ ơ với sự kiện này. Được tận mắt chiêm ngắm những báu vật đẹp nhất trong cuộc khảo cổ Hoàng Thành Thăng Long là một cơ hội hiếm có với người dân Hà Nội nói riêng, người dân cả nước và du khách nước ngoài nói chung. Ông Dương Phú Hiến, nhà sưu tập cổ vật, người có bộ sưu tập gốm Bát Tràng cổ tham gia trưng bày tại Hoàng Thành cho biết ông cảm thấy rất tự hào: “Là một công dân Hà Nội tôi rất vinh dự được góp mặt, trưng bày cổ vật tại Hoàng Thành Thăng Long. Đối với tôi, những cổ vật của Hoàng Thành trước hết là những cổ vật có giá trị tinh thần hết sức linh thiêng, về mặt mỹ quan đó là những tạo tác tuyệt mỹ và về mặt văn hóa đó là những đỉnh cao”. Mời bạn đọc cùng chiêm ngưỡng những cổ vật ngàn năm Một hiện vật đẹp tuyệt mỹ ngay tại lối vào trong gian trưng bày tại Nhà Cục tác chiến Ngói chữ nhật trang trí mặt linh thú thời Đại La (trái) và Ngói úp nóc gắn lá đề trang trí hình chim Phượng thời Lý Gạch vuông in hình cá sấu bơi trong nước. Đây là một trong những hiện vật đặc biệt quý hiếm trong không gian trưng bày Gạch ngói thời Lý Chim uyên ương Tượng đầu chim phượng để trang trí đầu nóc, mái nhà thời Trần Ngói úp nóc gắn lá đề trang trí hình rồng thời Lý Bình vôi, ống nhổ dành cho vua chúa thời Lê Trung Hưng Các đồ gốm quý Còn tiếp
    1 like
  15. Con người phải luân hồi để trả Quả do Nghiệp của mình gây ra. Và việc phải trả quả trong nhiều kiếp là do lòng từ bi của Thượng Đế với chúng sinh, bởi vì khi nghiệp quá nặng, nếu tất cả quả giáng xuống đầu con người trong một kiếp thì linh hồn không thể nào đủ sức chịu đựng, và hậu quả là họ sẽ mãi mắc kẹt lại trong vô minh, không kịp tiến hóa. Luân hồi để linh hồn tích lũy cá tính, rồi nhận ra bản chất của thế giới là ảo giác do vô minh tác tạo, để họ vứt bỏ được Phàm ngã, tìm về Chân ngã. Linh hồn sinh trong cảnh nghèo khó để nó học tính cần cù; Linh hồn sinh ra trong cảnh giàu sang để nó học tính rộng rãi; Linh hồn sinh ra trong vị thế có quyền lực để nó biết trách nhiệm; Linh hồn sinh ra trong vị thế kẻ toi đòi để nó biết nhẫn nhụt... Nhưng vì vô minh và ô nhiễm, linh hồn không nhận ra được bản chất thật của luân hồi; nó rên xiết, nó than trời trách đất, nó ghen ghét kẻ khác, nó thù hằn...và cuối cùng thì nó không học được bao nhiêu, mà ngược lại càng ô nhiễm thêm. Điều quyết định đến Luân hồi chính là cái tinh thần của linh hồn trong kiếp sống thể xác, nếu nó biết vui vẽ chấp nhận "hoàn cảnh", biết phấn đấu "hoàn cảnh" để xây dựng thêm được những đức tính mới, thì trong kiếp tới tương lai nó sẽ khác. Không phải đi chùa cúng Phật là được quả tốt, không phải có nhiều tiền mới tạo được quả tốt. Ví dụ: Bạn cứu giúp người nào đó, người này rất biết ơn bạn; sự biết ơn này tạo một tinh thần tương tác vào nghiệp của bạn, nó sẽ tạo quả tốt cho bạn. Ăn chay hay ăn mặn không quyết định việc gì, cái quan trọng là tinh thần trong ăn uống của người ăn. Nếu Phật tử cúng dường thức ăn mặn, nhà sư cũng vui vẻ nhận lãnh, nhưng khi ăn nhà sư đặt cái tâm vô ngã trong đó, nghĩa là khi ăn thức ăn đó phải quán không tồn tại cảm giác. Giống như hiện nay có quan niệm chỉ người nào giết hại động vật làm thức ăn mới gây nghiệp, còn người ăn thì không; điều đó thật sai lầm, vì khi ăn thịt động vật mà thụ hưởng với cảm giác sản khoái, đê mê...thì chắc hẳn người đó đã chuốc nghiệp vào mình. Vì vô minh nên giết hại động vật để ăn uống thì cảm thấy sảng khoái, nhưng khi Nghiệp Quả đã chín gây ra bệnh tật thì than trời trách đất.
    1 like
  16. Toàn tụi vớ vỉn!!! Mặc kệ đi!!! Xóa link nha!!!
    1 like
  17. 2012 mà ko xong thì chuyện hôn sự sẽ kết thúc vào 2014 thôi, Chỉ sợ tới lúc này ko lấy vội mới lạ.Trên kia mắng vậy thôi, đừng rủa tôi chết sớm nhé. Năm mới năm me cần năng chúc phúc cho thiên hạ. he he đừng quên cho tôi. Quý cô sau này nếu mở ra cơ đồ thì e là vất vả và không thể mỹ mãn được, nếu cố thì cũng chỉ là sống lay lắt ko thể phát triển được. Nhưng nếu quý cô biết kết hợp với người khác thì sẽ là người trợ thủ đắc lực nơi hậu chướng, tướng tiên phong nơi sa trường. Sau này được quý hiển, chuyện này ngoài 40 tuổi mới được. Ở độ tuổi 30, thể nào cũng dấy binh khởi sự, nhưng dù được hậu thuẫn và tiềm lực mạnh mẽ thì kiểu gì cũng trắng mắt, trắng tay. Tuy nhiên, ko thất bại thì làm sao biết được cách thành công? Tạm gọi quý cô là ích phu, lợi tử. Lá số Di Đào Hồng Liêm Phá: Người ra đường không biết trang điểm. Hãy đi học trang điểm để nâng cao vị thế của mình kẻo người ta lại tưởng Bách thú có Khỉ xổng Chuồng. Chắc phải phán từ ăn mặc cho đến đầu tóc, mặt mày, thậm chí cả tay chân quá. Dạo này ra đường hay gặp các Kiều nữ mặt đẹp như hoa, tay nuột nà như ngọc nhưng khi nhìn xuống gót chân thì đúng là chân dẫm bờ chưa kịp rửa, eo ôi tởm. Vì vậy nhắc nhở quý cô thế để tự Sốc lại Sờ Tai của mình bằng Gương toàn thân, mân tứ phía. Lấy chồng xong, một số mụn nhọt trên mặt sẽ tự lặn, có con xong thì thân hình béo lên 1 tí nhớ là chỉ 1 tí thôi nhé, ko phải 2 hay vài tí đâu. Tạm gọi là Gái 1 con, lúc này nhòm cũng tạm ổn hơn trước, chứ ko ai nhìn quý cô đến mòn cả mắt đâu, chớp mắt mấy chục năm còn chưa mòn nữa là ngắm quý bà, vợ của người ta.
    1 like
  18. cháu yêu quý, sao cháu không hỏi về việc cháu có cơ hội đi tầu ngầm xuyên lòng đất hay con thoi tới Mặt trăng? hỏi chi ba cái chuyện vặt vãnh và nhạt như nước ốc thế?
    1 like
  19. Thật tuyệt vời! Thật là bậc thày của sử dụng ngôn ngữ Việt. Không một ngôn ngữ nào trên thế giới sử dụng được kỹ xảo này.
    1 like
  20. Đã nhận được 1.500.000 VNĐ học phí 3 tháng đầu lớp cơ bản 05 của hungphupy
    1 like
  21. Thưa Sư phụ, Đúng là hồi xưa khi học lịch sử thì tụi con toàn thấy các Vua Hùng "Ở trần đóng khố" :D . Tuy nhiên tụi con cũng biết rằng mình là dòng dõi con rồng cháu tiên, là bậc con cháu của những vị thánh mà cả thế giới đều phải kính nể như Trần Hưng Đạo, Chủ tịch Hồ Chí Minh và hiện nay còn đại tướng Võ Nguyên Giáp. Nên con con nghĩ, con cháu Lạc Việt trước khi đi thi thố tài năng tại đấu trường quốc tế chỉ cần quán tưởng đến những hình ảnh đó vài phút thì cũng đủ tự tin lên mấy phần rồi Sư phụ ạ. :lol:
    1 like
  22. Cái này Sư Phụ và các Huynh trưởng đã phân tích trong Bài về Hình thế tụ khí của Đà Nẵng rồi đấy ạ. Sông chảy theo hướng Nam _ Bắc và khu này nằm ở bờ Tây của Sông Hàn ạ.
    1 like
  23. 1 like
  24. Âm khí suy thì đúng rồi! Nhưng tại sao lại Đông Nam nhỉ? Năm ngoái Ngũ Hoàng theo Huyền không Việt chiếu Đông Nam thì đã xảy ra chuyện tràn dầu rồi. Năm nay, Lục Bạch chiếu, nên tuy khắc (Theo Huyền không Việt) - cũng hơi phiền vì xung sát - nhưng không đến nỗi. Chỉ e Cửu Tử chiếm cung Cấn. Dương Kim sát Âm Mộc. Lại điềm trời giáng - chim sa chết đầy đường, nên cũng hơi ớn.Thôi để nghiệm xem.
    1 like
  25. Đại ý: Năm 2010,khủng hoảng mang cấp độ quốc gia ========================================================== Nợ nần đang “chôn sống” đồng euro! Thứ Tư, 29/12/2010, 07:53 (GMT+7) TT - “Đồng euro đang tuột giá tuần lễ thứ ba liên tiếp so với đồng USD như là dấu chỉ của việc một số nước có thể không có khả năng trả nợ, càng mất tín nhiệm tín dụng. Đồng tiền chung châu Âu nay tuột giá so với 14-16 đồng tiền khác sau khi các nhà lãnh đạo châu Âu vẫn còn chia rẽ về cách thức giải cứu cuộc khủng hoảng ở Hi Lạp và Ireland...”. Người biểu tình Ireland mang biểu ngữ phản đối việc chính phủ nhận cứu trợ nước ngoài trước tòa nhà quốc hội tại Dublin ngày 15-12 - Ảnh: Getty Images Mẩu tin tài chính của Bloomberg hôm lễ Giáng sinh phản ánh bối cảnh của một luồng tâm lý đang “lên” ở châu Âu: chạy trốn khỏi đồng euro! Tâm lý này được AFP ngày 15-12 mô tả: “Đồng euro đã bị kết án (tử) rồi!”. Tạp chí Marianne của Pháp ngày 20-12 chạy tít “Đồng euro, mạnh ai nấy chạy thôi!”. Cùng ngày, tờ Le Figaro la làng: “Cơn điên loạn chạy trốn đồng euro!” và hô hào ngược lại: “Những kẻ chủ trương bỏ đồng euro có thật sự nghĩ rằng một đồng franc Pháp mới sẽ giúp chúng ta tự vệ tốt hơn trong tình trạng cô độc huy hoàng ấy? Ai có thể tin được rằng quay trở lại đồng franc là đủ để tái công nghiệp hóa đất nước trong một thế giới như hiện nay?”. Vấn đề đặt ra đã quá rõ: không chỉ do công nợ đang là bao nhiêu mà còn là sẽ cạnh tranh như thế nào để sống còn trong thế giới như hiện nay? “Thế giới hiện nay” ra sao? Website http://www.questionchine.net/ của người Trung Quốc hãnh diện trả lời hôm 26-12: “Sau thượng đỉnh Á - Âu tháng 10 vừa qua, người phát ngôn Bộ Ngoại giao Khương Du từng nhắc lại rằng Bắc Kinh sẵn lòng giúp đỡ các nước khu vực đồng euro ra khỏi khủng hoảng và khôi phục thành công kinh tế. Chẳng hạn như mua lại 5 tỉ euro nợ nần của Bồ Đào Nha!”. Website này còn khoe: “Bắc Kinh, vốn đang có quả đấm là 2.648 tỉ USD dự trữ, đang quan sát các khó khăn tài chính của châu Âu, nhất là khi các khó khăn này đang mở ra những vận hội tài chính, kinh tế và cả chính trị...”. “Vận hội tài chính, kinh tế và cả chính trị” này là gì? 110 năm trước, ngày 14-8, Trung Quốc chịu mất Bắc Kinh sau vụ nổi dậy 55 ngày của phe “quyền phỉ”. Quyền cước của giới võ lâm so làm sao được với súng ống của liên quân Âu - Mỹ, để rồi năm sau Từ Hi thái hậu phải cúi mình trước hòa ước Tân Sửu! 110 năm sau, với 2.648 tỉ USD thặng dư dự trữ, đến lượt Trung Quốc đợi EU giãy chết để thí cho vài tỉ euro hay USD (có gì khác?) cùng với cái “thòng lọng” cũng đủ để trả hận năm xưa! Vài tỉ USD hay euro cũng đủ để “bán linh hồn” rồi. Bằng cớ là nước Pháp vừa bán cho Nga hai tàu đổ bộ và chỉ huy Mistral cùng các bí mật quân sự kèm theo, một hành động “đâm sau lưng” NATO chỉ để đổi lấy “công ăn việc làm cho 1.000 người trong vòng bốn năm”, theo giải thích của Phủ tổng thống Pháp! Pháp có đến 2.564.900 người thất nghiệp, vậy sẽ còn phải “bán độ” bao nhiêu máy bay, tàu chiến nữa cho đủ? May mà Pháp còn có sản phẩm kỹ thuật cao để mà bán, chứ hầu hết các nước EU khác lấy gì bán để cứu 21 triệu người thất nghiệp? May mà Pháp còn là một trong hai “đầu máy” đang kéo chuyến xe lửa EU cùng với Đức. Pháp chưa “chết dở” như Hi Lạp, Ireland, Tây Ban Nha... song cũng đang “sống dở” - ngày 1-1 tới, lương tối thiểu tăng từ 8,86 lên 9 euro/giờ, tức 1.365 euro/tháng, trừ thuế còn lại 1.073 euro làm sao sống! “Đầu máy” Đức dù có của ăn của để, song nay đang cố kéo cày trả nợ giùm các nước kia, cũng đang sợ đến lượt mình kiệt sức! Tất nhiên, việc “giải thể” đồng euro vẫn chưa có gì hiển hiện, song ít nhất Tổng thống Pháp Sarkozy đã phải đăng đàn để bảo vệ đồng tiền đang mất giá lẫn mất niềm tin này: “Ý tưởng rút khỏi đồng euro là không thể hình dung được và là vô trách nhiệm. Đồng euro chính là trái tim của châu Âu. Giải thể đồng euro chính là giải tán châu Âu...!”. Từ kẻ cho viện trợ nay có nguy cơ trở thành kẻ đi vay nợ. Thế cho nên ông Sarkozy mới hét vào mặt các đồng sự “chuyên gia vay nợ”: “EU cần hợp nhất chính sách!”, tức là các ông nên bớt chủ quyền kinh tế quốc gia đi để chấp hành lệnh giải cứu! Thà là “nhục với nhau” còn hơn là nhục với người ngoài! Năm 1901, nhà Thanh phải chịu nhục ký với Âu - Mỹ hòa ước Tân Sửu. Năm tới Tân Mão, EU sẽ phải ký “nợ ước” gì để chữa chạy bệnh “vung tay quá trán” đã qua? DANH ĐỨC ========================================================== Nhời bàn của Thiên Sứ Chưa đâu! Năm 2008 là khủng khoảng "kinh thế" toàn cầu: Các đại gia lăn ra chết! Năm 2010 (Tức Canh Dần theo Việt lịch): Các quốc gia hắt hơi, cảm cúm! Tất cả những điều này không nằm ngoài dự đoán của Lý học Đông phương. Còn năm 2011? Mặc dù chưa chính thức công bố - vì chưa tới năm Tân Mão Việt lịch, nhưng có thể phác thảo cho các quí vị chính khứa tàn cầu vài nét rằng: Đây là năm khó khăn nhất của các quí vị. Bởi vì hậu quả của cuộc khủng khoảng lúc này sẽ đánh thẳng vào dân thường. Lúc ấy, tài kinh bang tế thế của quí vị sẽ có dịp thể hiện để được lịch sử ghi nhận. Còn nếu không thì về hưu, từ chức...vv...Cũng chẳng chết thằng Tây nào. Tất nhiên sự rối loạn trong các vấn đề an sinh xã hội sẽ xẩy ra và bất ổn xã hội bắt đầu. Khi xẩy ra trường hợp này, quí vị chịu khó chờ đến đầu năm 2012 - năm kết thúc của lịch Maya - chúng tôi sẽ tiếp tục dự báo theo thông lệ để quý vị tham khảo. Thiên Sứ tôi vốn hay mơ mộng (giống như việc "đuổi mưa" vậy). Bởi vậy, đang nghĩ tới việc bổ xung chức năng cho hoạt động của Trung tâm nghiên cứu Lý học Đông phương một quyền hạn là: Nghiên cứu kinh tế xã hội theo phương pháp luận của Lý học Đông phương. Lúc ấy, chúng tôi sẽ tổ chức một cuộc hội thảo quốc tế với tiêu đề: "Khủng khoảng kinh tế toàn cầu và giải pháp khắc phục". Chúng tôi sẽ in phù hiệu: "Việt sử 5000 năm văn hiến" để gắn vào ngực các khách mời. Chúng tôi tin rằng: Với cái gim cài áo nhỏ xíu trên phù hiệu sẽ không làm ảnh hưởng tới bộ ves sang trọng, hàng hiệu của quí vị. Cho dù quí vị có vay được vài trăm tỉ dola (Chứ chưa nói vài tỷ, chuyện nhỏ) thì quý vị cũng chỉ như được thở oxy thôi, còn thuốc chữa không có. ========================================================== PS: Hãy đợi đến năm Tân Sửu cho đủ chu kỳ Âm Dương 120 năm (+ & - 3 năm) sẽ biết. 60 năm trước là Dương. 60 năm sau là Âm. Ấy là cái Lý học Đông phương phục hồi nhân danh 5000 năm văn hiến bảo thế ("Văn hiến" Chứ không phải "văn minh", "văn hóa" đâu nhá!).
    1 like
  26. Ở đây tôi thấy có một sự hiểu nhầm nào đó! Du Ca viết: Mong rằng đây chỉ là hiểu nhầm thôi. Giao lưu, học hỏi lẫn nhau thì quá tốt chứ có gì xấu đâu.Du Ca viết: Về mặt con người sinh học thì đúng là cả nhân loại này cùng một gốc mà ra. Nhưng chúng ta đang nói về dân tộc chứ không phải về con người sinh học. Hai cái đó khác nhau về chất. Khi nói "Thằng anh ăn mỳ thằng em ăn cơm" là muốn nói rằng cơ sở kinh tế xã hội hình thành nên dân tộc Việt từ thời xa xưa với các đặc trưng cơ bản của nó là xã hội định canh định cư với nền nông nghiệp lúa nước trên một vùng địa lý tương ứng khác hẳn với xã hội du mục chăn nuôi gia súc với nền nông nghiệp khô trồng lúa mạch, kê, ngô,... của dân tộc Hán. Hai dân tộc này (Việt, Hán) được hình thành độc lập với nhau, tách biệt nhau hoàn toàn, không cùng một gốc và do đó văn hóa cũng khác nhau thì "anh, em" thế nào được! . Tuy nhiên, sau này giao lưu, cạnh tranh, đáng nhau, hợp tác, ... thì là chuyện bình thường như các dân tộc khác thôi. Việc xác định dân tộc không phụ thuộc vào biên giới quốc gia. Mỗi dân tộc đều hình thành trên một khu vực địa lý nhất định, sau đó các dân tộc sinh sống xen kẽ nhau nhưng vẫn phân biệt được khá rõ ràng giữa họ. Quan điểm cho rằng Việt từ Hán mà ra khá nguy hiểm bởi vì nó không phải là chân lý, đồng thời nó cản trở con đường tìm về cội nguồn văn hóa, cội nguồn dân tộc - cái gốc phục hưng nước nhà. Do đó, Du Ca cũng nên hiểu tại sao đôi khi có người trình bày vấn đề gay gắt, gây sự hiểu nhầm.
    1 like
  27. Nếu con đầu là con gái thì năm nào cũng được. Quan trọng con út là năm Tân Sửu 2021, TL xin lỗi vì hôm trước nhầm lẫn năm 2021 là Kỷ Hợi. Con đầu năm Nhâm Thìn, nếu được con gái thì càng tốt. Con Út năm Bính Thân hoặc Đinh Dậu đều ok! Sinh Nhâm Thìn 2012. Sinh con năm Tân Mão là tốt nhất!!! Con trai thì càng về sau càng tốt, con gái thì tốt nhanh nhưng về sau thì không bằng con trai. Mẹ mạng Thủy sinh con mạng Hỏa, cha lại mạng Kim, Tân phá Giáp nên từ lúc sinh con công việc của cha thay đổi và thiếu tính ổn định. Nhà chị nên sinh tiếp vào năm Tân Mão, sẽ ổn định hơn!!!!
    1 like
  28. @ PhuongHuynh Cứ tới, đất lành chim cứ đậu! :lol: @ Vusonganh Hay là uỷ quyền cho vusonganh họp mặt LVDT miền Trung? Thiên Đồng
    1 like
  29. công danh thế là tốt rồi, mơ nữa là quá đà. tình duyên mà còn cành cao thì còn ế nặng. Quên cái tình đầu dở cám dở hơi ấy đê mà yêu, quý cô ạ. con cái thì hơi bị bi đát nếu cứ tiếp tục ế nặng sau tuổi 30. Hy vọng gặp được ông chồng tốt số giải vây cái vụ này.
    1 like
  30. LÒNG BÀN TAY VÀ NHỮNG CHI TIẾT LIÊN HỆ TIẾP THEO . TƯỚNG MẠO PHẦN BÀN TAY . A_ SẮC THÁI BÀN TAY . 1/ Bàn tay ướt mềm : ( Trông giống như được thoa tẩm chất dầu ) Đây là bàn tay của những người lười biếng , ham khoái lạc , dễ bị cám dỗ vì vật chất , dễ bị cảm xúc . _Phụ nữ có bàn tay này dút dát , dễ bị sa ngã . _ Đàn ông thích hưởng thụ , ưa an bình . tuy thụ động nhưng lại bướng bỉnh, thích hào nhoáng . 2/ Bàn tay khô , cứng : Là người lạnh nhạt , làm ngơ trước đau khổ của mọi người , không biểu lộ cảm xúc trước mọi sự việc . tính trầm , giầu tâm linh nhưng ích kỷ . 3/ Bàn tay nóng (không nên lầm với sốt nóng ) : Đây là người tốt , có lòng khoan dung với những sai trái của mọi người . Là người hoạt bát , tự kiêu , ham nói , nhưng đôi khi nóng nẩy . 4/ Bàn tay lạnh : Là người dễ dãi , không hề từ chối điều gì . Đủ nết , đủ tật nhưng kín đáo , thầm kín trong ái tình . Là người trung thành , dám hy sinh vì người thân , người yêu . Nhưng người có bàn tay này cũng rất nhẹ dạ và dễ xúc động . 5/ Bàn tay quá cứng : Là người gan dạ nhưng hơi hung bạo , liều lĩnh nhưng thiếu thông minh . Không thích nghe chuyện ái tình . Là người khó lung lạc . Đây là một bàn tay của người thực tế , có thể hơi ít nói và kiêu căng . 6/ Bàn tay mềm : Là người mơ mộng , thờ ái tình , giầu tưởng tượng .Lười biếng gần như gàn dở . Nhưng ngừoi này hay may mắn về ái tình và về tiền bạc . 7/ Bàn tay dầy : Là người phóng túng , lười và hơi tham lam nhưng cương quyết đạt được tham vọng . Nếu vừa dầy lại cứng thì là người biết vận dụng mọi khả năng để đạt được tham vọng ,đạt được ý muốn của mình . 8/ Bàn tay gầy và mỏng : Loại người này sống thuần về trí óc , biết tìm những thú vui về tinh thần . Tôn thờ ái tình và tôn trọng ái tình đó . nhiều khi hơi bủn xỉn . Là người biết chờ cơ hội , kiên nhẫn và âm thầm . Nếu gầy cộng với gò Đồng Hỏa tinh đầy ( Giữa lòng bàn tay không trũng )là người sẽ gập cơ hội đó. 9/ Người mà bàn tay có Đồng Hoả Tinh bị lõm : Đây là người suốt đời phải tranh đấu , phải làm việc và có nhiều lo toan . Nhưng ngừơi này nếu sinh ra trong hoàn cảnh giầu hoặc có thời kỳ giầu thì lại rất phóng túng và phung phí . Nếu lòng bàn tay trũng lại cộng với những đường chỉ tay xấu sẽ nghèo và nhiều bệnh tật , chắc chắn là bệnh phổi .. . . Còn tiếp ...
    1 like
  31. Năm tới là 1 năm ;công việc làm ăn thát bát ,thu hoạch kém ; sức khỏe mẹ kém hay đau yếu ,tình cảm cô đơn trống vắng / tháng 1 âl , tiêu hao tiền bạc nhiều hay thu hoạch kém ,coi chừng bị xe cộ quẹt hay tẽ xe ngã cộ ... , tháng 02 âl mong tin người bạn từ xa nhưng thất vọng ,tháng 03 âl ,tình cảm có sự mâu thuẫn với bạn gái ,hay có sự không vui với người em gái trong nhà .
    1 like
  32. Trải nghiệm kỳ lạ của một bác sỹ sau khi chết ( 3:51 PM | 03/01/2011 ) Trải nghiệm ở bên ngoài thân xác (OBE) và trải nghiệm cận tử (NDE) đã được biết đến từ lâu và vẫn bị tranh cãi, đơn giản bởi khoa học chủ lưu không tin là có linh hồn. Tuy nhiên, thật thú vị khi nghe một bác sỹ hàng đầu thế giới nói về trải nghiệm OBE và NDE của chính mình. Giáo sư Bác sỹ George G. Ritchie (25/9/1923 – 29/10/2007) từng là chủ tịch của Học viện Trị liệu đa khoa Richmond, từng là trưởng khoa Tâm thần học của Bệnh viện Towers, người sáng lập và và chủ tịch Liên Đoàn Thanh niên Thế giới (Universal Youth Corps, nc) trong gần 20 năm. Năm 1967, ông làm bác sỹ tư ở Richmond và vào năm 1983, chuyển đến Anniston, Alabama làm trưởng khoa Tâm thần học tại Trung tâm y tế khu vực Đông Bắc Alabama, Hoa Kỳ. Ông trở về Richmond vào năm 1986 để tiếp tục làm bác sỹ tư cho đến khi nghỉ ngơi vào năm 1992. Vào tháng 12/1943, George Ritchie đã chết trong một bệnh viện quân đội ở tuổi 20 vì bệnh viêm phổi và đã được đưa vào nhà xác. Nhưng kỳ diệu thay, 9 phút sau ông sống trở lại, và kể về những điều đáng kinh ngạc mà ông đã chứng kiến trong trạng thái ở bên ngoài thân xác. Ritchie đã viết về Trải nghiệm cận tử (NDE) của ông trong cuốn sách “Trở lại từ ngày mai”, đồng tác giả với Elizabeth Sherrill, xuất bản lần đầu năm 1978. Cuốn sách đã được dịch sang 9 thứ tiếng khác nhau. Bác sỹ George G. Ritchievà cuốn sách “Được lệnh trở về: Cuộc đời tôi sau khi chết” Bác sĩ George Ritchie đã kể lại rất chi tiết những gì mà mình đã trải qua trong suốt khoảng thời gian ông chết. Đó là đầu tháng 12/1943, khi Ritchie được chuyển tới một bệnh viện tại trại Barkeley, Texas, Hoa Kỳ để điều trị bệnh viêm phổi. Ông không biết là mình bệnh nặng tới mức nào. Ông luôn chỉ nghĩ tới việc bình phục cho mau mà lên xe lửa tới Richmond, Virginia để nhập học trường y trong chương trình đào tạo bác sỹ quân y của quân đội. Theo hẹn, vào lúc 4 giờ sáng ngày 20/12, xe quân đội sẽ đến đưa ông ra nhà ga để tới trường. Trái với mong muốn của ông, bệnh tình của ông không thuyên giảm. Vào đêm 19/12/1943, bệnh của Ritchie trở nặng. Ông bắt đầu sốt và ho liên tục. Ông lấy gối bịt miệng lại để đỡ làm ồn. 3 giờ sáng ngày 20, Ritchiecố gắng đứng dậy và thay quần áo đợi xe đến. Nhưng ông đã không thể làm được, và bất tỉnh sau đó. “Khi tôi mở mắt ra, tôi thấy mình đang nằm trong một căn phòng mà tôi chưa từng thấy bao giờ. Một ngọn lửa nhỏ cháy trong một ngọn đèn ở bên cạnh. Tôi nằm đó một lúc, cố gắng nhớ lại là mình đang ở đâu. Thình lình tôi ngồi bật dậy. Xe lửa! Mình trễ chuyến tàu mất! (Ảnh minh họa) Giờ đây tôi biết rằng những gì mình sắp mô tả sẽ nghe rất lạ thường… tất cả những gì tôi có thể làm là kể lại những sự kiện đêm đó đúng như chúng đã xảy ra. Tôi nhảy ra khỏi giường và tìm bộ đồng phục của tôi khắp phòng. Không có trên thành giường: tôi dừng lại, nhìn chằm chằm. Một người nào đó đang nằm trên cái giường mà tôi vừa mới rời khỏi. Tôi bước lại gần trong ánh sáng lờ mờ, rồi lùi lại. Anh ta đã chết. Hàm răng khép hờ, làn da màu xám thật kinh khủng. Rồi tôi nhìn thấy chiếc nhẫn. Trên bàn tay trái của anh ta là chiếc nhẫn của hội sinh viên Phi Gamma Delta mà tôi đã đeo trong suốt hai năm qua. Tôi chạy vào đại sảnh, mong muốn thoát khỏi căn phòng bí ẩn đó. Richmond, đó là điều quan trọng nhất – tới Richmond. Tôi bắt đầu xuống đại sảnh để ra cửa bên ngoài. “Coi chừng!” Tôi hét lên với một người phục vụ trong bệnh viện mà đang rẽ quay sang chỗ tôi. Anh ta dường như không nghe thấy, và một giây sau anh ta đã đi ngang qua chỗ tôi đứng như thể tôi không có ở đó. Điều đó thật lạ lùng. Tôi tới chỗ cánh cửa, đi xuyên qua và phát hiện ra là mình đang tiến về Richmond rất nhanh trong bóng tối bên ngoài. Đang chạy ư? Đang bay ư? Tôi chỉ biết rằng mặt đất tối tăm đang trượt qua trong khi những ý nghĩ khác chiếm lấy tâm trí tôi, những suy nghĩ đáng sợ và khó hiểu. Người phục vụ đã không nhìn thấy mình. Nếu mọi người tại trường y cũng không thể nhìn thấy mình thì sao? Tôi thấy một con sông rộng, rồi cây cầu dài bắc qua một con sông lớn để vào một thành phố. Tôi thấy một tiệm giải khát, quán bia và một quán cà phê. Tại đây tôi gặp một vài người và hỏi họ tên đường và tên thành phố nhưng chẳng có ai thấy và đáp lời tôi cả. Tôi nhiều lần đập tay lên vai một người khi hỏi nhưng tay tôi như chạm vào khoảng không. Đó là một người có gương mặt tròn và cằm có sợi râu dài. Sau đó tôi đi đến bên một người thợ điện đang loay hoay quấn dây điện thoại vào một bánh xe lớn. Vô cùng bối rối, tôi dừng lại bên một buồng điện thoại và đặt tay tôi lên sợi dây điện thoại. Ít ra thì sợi dây nằm đó, nhưng bàn tay tôi không thể chạm vào nó. Một điều rõ ràng: Theo một cách không tưởng tượng nổi nào đó, tôi đã mất đi xác thân của mình, cái bàn tay mà có thể cầm được sợi dây kia, cái thân thể mà người ta nhìn thấy. Tôi cũng bắt đầu hiểu ra rằng cái xác trên chiếc giường đó chính là của tôi, không thể hiểu sao lại tách ra khỏi tôi, và việc mà tôi phải làm là phải trở về và nhập lại vào đó càng nhanh càng tốt. Tìm kiếm lại khu căn cứ và bệnh viện không có gì khó khăn. Thực sự tôi hầu như trở lại đó ngay tức khắc khi tôi nghĩ đến nó. Nhưng căn phòng nhỏ mà tôi đã rời đi thì ở đâu? Thế là tôi bắt đầu một trong những cuộc tìm kiếm kỳ lạ nhất đời: cuộc tìm kiếm chính mình. Khi tôi chạy từ khu này sang khu khác, đi qua hết phòng này sang phòng khác khi các bệnh binh đang ngủ, những người lính đều trạc tuổi tôi, tôi nhận ra rằng chúng ta lạ lẫm với chính khuôn mặt của mình như thế nào. Mấy lần tôi dừng lại bên một người mà tôi cứ ngỡ là mình. Nhưng chiếc nhẫn Hội sinh viên không có, và tôi lại vội tìm. Cuối cùng tôi đi vào một gian phòng nhỏ với ánh sáng lờ mờ. Một tấm khăn trải đã được kéo phủ lên xác người trên giường, nhưng đôi cánh tay của người đó nằm dọc ở bên ngoài. Chiếc nhẫn tôi tìm nằm trên bàn tay trái của thân xác ấy. Tôi đã cố kéo tấm vải ra nhưng không thể nắm được nó. Và lúc đó là lần đầu tiên tôi nghĩ điều mà đã xảy ra với mình, chính là cái mà nhân loại vẫn gọi là “cái chết”. Trong thời khắc tuyệt vọng nhất ấy, căn phòng bỗng sáng rực rỡ, một thứ ánh sáng lạ lùng tôi chưa bao giờ thấy, và tôi như bị lôi cuốn theo nguồn ánh sáng. Tôi đã trông thấy những quang cảnh mà từ khi sinh ra cho đến bây giờ tôi chưa bao giờ được thấy, những cảnh trí mà tôi nghĩ rằng chỉ có ở thế giới bên kia, và tôi không nhìn được rõ các sinh linh ở đó. Có vùng tối tăm u ám, có vùng lại chan hòa ánh sáng vô cùng tươi đẹp với các sinh linh trông như những thiên thần. Sau đó đột ngột vầng sáng giảm dần, tôi muốn quay về. Trong phút chốc tôi lại thấy những căn phòng, những thân xác bất động trên giường. Tôi tiến tới chiếc giường của thân xác tôi. Tôi như bị cuốn hút vào cái thân xác đó. Rồi, từ từ cử động các ngón tay, cuối cùng tôi mở mắt ra. Một lúc sau, một bác sĩ và cô y tá đã ở trước mắt tôi, nét mặt rạng rỡ. Vậy là tôi đã sống lại, đã thật sự hồi sinh…” Thời đó, thuốc penicilline chưa được phát minh nên việc chữa trị bệnh sưng phổi vô cùng khó khăn, 90 phần trăm người bệnh khó thoát khỏi lưỡi hái của tử thần. Vào buổi sáng ngày 20/12/1943 các bác sĩ ở bệnh viện đã xác nhận rằng George Ritchie đã chết nên người ta chuyển xác ông đến nhà quàn. Tại đây một số thủ tục giấy tờ, giấy khai tử và thủ tục chuẩn bị đưa người chết vào quan tài đã được tiến hành, và người ta chuẩn bị thông báo đi các nơi rằng George Ritchie đã chết. Không ai có thể tưởng tượng được, Ritchie sống lại và mang theo câu chuyện diệu kỳ mà ông trải nghiệm trong giây phút trái tim đã ngừng đập, khi mà mọi dấu hiệu của sự sống không còn. Những điều George Ritchie kể lại sau khi sống dậy đã làm các bác sĩ trong bệnh viện kinh ngạc. Điều kỳ lạ đáng lưu ý là những gì Ritchie đã kể và ghi chép lại trong tập nhật ký trong 9 phút chết đó đều được chứng thực về sau. Một năm sau, Ritchie trở về trại Barkeley và được gởi sang Âu Châu để phục vụ tại một bệnh viện quân y. Trên đường xe đã chở Ritchie đi ngang qua một thành phố mà một năm trước trong khi bị coi là đã chết, Ritchie đã đi qua. Tiệm bán bia, tiệm cà phê, cây cầu dài bắc qua sông, những con đường, những bảng hiệu, cả cái buồng điện thoại năm xưa… Đó là thành phố Vicksburg thuộc tiểu bang Mississipi, nơi mà chưa bao giờ George Ritchie đi qua. George Ritchie sau này trở thành Viện trưởng Viện tâm thần học ở Charlotsville, bang Virginia Hoa Kỳ, và suốt đời ông không thể nào quên rằng mình đã có lần chết đi sống lại, cũng như không thể nào quên các cảnh giới lạ lùng ở bên kia cửa tử. Giáo sư Bác sỹ George G. Ritchie mất vào ngày 29/10/2007 tại nhà riêng ở Irvington, Virginia, Hoa Kỳ, hưởng thọ 84 tuổi. “Cái chết chẳng qua là một ô cửa, là một cái gì đó mà bạn bước qua” – George Ritchie Minh Trí (tổng hợp)
    1 like
  33. http://www.lyhocdongphuong.org.vn/forum/public/style_emoticons/default/happy.gif
    1 like
  34. THẦN DƯỢC CỦA PHẬT PHÁP Các bạn có thể quán tưởng về sự vô thường....
    1 like
  35. THẦN CHÚ UM MA NI PAT MÊ HUM Những hình ảnh của mantra trong clip này hy vọng sẽ có những tương tác tốt với trí tuệ của bạn.
    1 like
  36. Mình xin kể lại câu chuyện có thật đã xảy ra với mình .(nhân đọc mục này) Chuyện xảy ra như thế này:Chủ nhà còn trẻ yêu cầu mình tiến hành tke,xd một căn nhà phố. Bản thiết kế được tke theo phong thủy rất chặt chẽ,chuẩn mực.Ngày,giờ khởi công, bài cúng, lể cúng, người động thổ, phương vị, vị trí động thổ được thầy phong thủy cung cấp đầy đủ. Sáng hsau là ngày động thổ. Mình và a e thi công theo lẽ thường trước ngày động thổ điều động máy móc, phương tiện thi công,nhân lực,vật lực chuẩn bị đầy đủ(cẩn thận vẫn hơn mà) sẵn sàng để sáng hsau khởi công. - Chiều hôm đó 5h chủ nhà dt hỏi mình đang ở đâu đi u nc ko? Mình kêu bận ở xa ko đi dc. Đang nói chuyện bỗng nghe chủ nhà la thất thanh....đt cúp. Sốt ruột mình dt lại nh lần mà ko thấy chủ nhà bắt máy. Tối đó khoảng 8h tối chủ nhà dt cho mình kêu bị tai nạn do có ng tông xe vào chủ nhà lúc đang nói dt với mình hiện giờ đang bó bột chân. Nhưng chủ nhà vẫn khẳng định là sáng mai vẫn tiến hành khởi công ko thay đổi vì bị bong gân một chân nhưng vẫn có thể đi được.(do mình lo lắng hỏi đi hỏi lại sức khỏe vậy có nên lùi lại ko?) - Sáng sớm hôm sau,theo đúng sự dặn dò của thày pt mình tiến hành thủ tục động thổ một cách bài bản như mọi lần: Dàn quân, bố trí vật dụng cái nào trc cái nào sau..vvv...rồi chủ nhà cử ng dc thày pt chọn cúng động thổ...vv..mọi việc êm xuôi. Mình cho a e nổ máy ép cọc beton,tời cọc chuẩn bị ép luôn(tác phong cn mà) -Trc khi mũi cọc được nhấn xuống,trong tiếng máy nổ ầm ĩ, mình chợt dột lòng(khởi công mà sao ko thấy vui vẻ như mọi lần nhỉ có gì vậy? mọi thứ ngon lành,trơn tru lắm mà). Mình ra hiệu cho tổ ép cọc khoan hãy ép cọc xuống. Mình lôi bản vẽ tk ra xem lại, mặc dù bve này mình thuộc lòng như cháo chảy vì mình tk nó mà, mình lại cầm thước kêu tổ trg thi công đo lại các mốc giới một lần nữa cho chắc ăn, tất cả vẫn ngon lành. Mình toan lệnh cho tổ ép cọc tiếp tục,chợt mắt nhìn vào sơ đồ qh(bản này của chủ nhà cầm theo cùng bản sao hd mua bán lô đất) trên tay chủ nhà. Mình phát hiện ra một ngã ba theo sơ đồ qh nằm cách đất mình khởi công ko xa, nhìn lại thực địa sao ngã ba trên thực tế lại gần như vậy nhỉ?thoáng chút nghi ngờ mình quyết định cho tổ máy ép cọc tắt máy(chủ nhà định thắc mắc)mình nói ngay:hình như A nhầm lô đất rồi thì phải(trc đó theo con mắt nghề nghiệp mình tính toán nhanh trong đầu:từ ngã ba trên bản đồ tới lô đất thi công cách 5 căn.trung bình mỗi căn 4,5m rộng.4,5x5=22,5m.mà thực tế thì ngã ba lại nằm cách khoảng 14-16m). Mọi ng và cả chủ nhà cười rộ, nhưng sau khi nghe mình trình bày thì mọi ng thấy cần phải xem xét lại cho chắc ăn. Chủ nhà liền dt cho ban quản lý khu qh đó,20p sau nhân viên qly khu qh có mặt và xác định chủ nhà đã chọn nhầm đất. Lô đất của chủ nhà nằm phía xa hơn một chút, xác minh lại lỗi này ko do chủ nhà mà do thằng cò đất chỉ nhầm lô khi bán cho chủ nhà của mình. Chủ nhà cứ đinh ninh lô này nên kêu mình khảo sát tk, vì cùng một khu nên s đất,hướng,cùng mặt dg..vv..đất đều giống nhau nên nhầm. - Chủ nhà và bên mình lại phải khởi công lại( chút nữa thì hỏng ăn.các bạn có biet:ép cọc xg rồi mà nhầm đất thì thế nào ko? mất toi cả 200t,chưa kể chủ đất kiện vì cái vụ dám động vào đất của ng ta.mà cái vụ này thì mình nghe rồi.lôi thôi phức tạp lắm). -Vâng chuyện đến đây xui mà là hên, mọi ng vui vẻ tiep tục cv suôn sẻ. - Chuyện này ko dừng lại ở chuyện khởi công.Khi bên mình thi công căn nhà đã gần xong thì chủ đất mình động thổ nhầm cũng bắt đầu tiến hành thi công, sau 3 ngày bên đó tiến hành đào móng thì phát hiện một bộ hài cốt được bọc trong tấm vải nhựa. Chủ đất đó hoảng hồn liền tiến hành di dời bộ hài cốt đó vào một ngôi chùa gần đó. Rồi một ngay gần sau đó: Mình, chủ nhà của mình, chủ đất mình động thổ nhầm ngồi u nc ôn chuyện cũ xảy ra.Tất cả cùng rùng mình lạnh gáy,và cùng nhìn nhau mà ko dám bàn nh. - Chuyện xảy ra như vậy làm mình suy nghĩ phải chăng ng đã khuất kia đã báo,cản ko cho chủ nhà của mình động thổ trên lô đất ko phải của a ta bằng cách gây ra một tai nạn nhỏ:gây bong gân cho chủ nhà mình.tiếp theo là gây cho mình cảm giác ko vui, dột lòng khi khởi công, gây sự băn khoăn nơi mình khi tiến hành phát lệnh ép cọc? hay tất cả chỉ là sự trùng hợp ngẫu nhiên?
    1 like
  37. Có hạng người bám víu một cách tuyệt vọng cõi đời vật chất nầy, nên lúc bỏ xác, cái Vía của họ không thể tách xa cái Phách liền đặng. Nhơn đó, mà trên Trung giới, họ vẫn còn bị chất dĩ thái của cái Phách bao vây, làm tấm bình phong che mất cảnh ấy, thành thử họ ở nơi âm cảnh mà không biết âm cảnh là gì. Đồng thời họ khó mà thông cảm với cõi trần: vì họ thiếu cơ quan xác thịt ! Chung qui, họ là những hồn ma xiêu lạc, cô đơn hãi hùng ! Họ có miệng mà chẳng thốt ra lời ! Họ xa lạ tất cả hai cõi: vì họ không thông cảm đặng với những nhơn vật trong đó. Họ không thể hiểu đặng rằng: nếu họ hết bám víu một cách điên cuồng vào vật chất, thì tri thức của họ sẽ đổi ngay, và họ sẽ sống một cuộc đời thông thường như các vong linh khác. Còn nếu họ cố nắm níu cõi đời đen tối nầy mãi với cái bán tri thức khốn nàn của họ, thì họ sẽ tưởng thấy mình sa vào “địa ngục” theo trí tưởng tượng của người đời. Thời gian qua, chất dĩ thái của thể Phách tan rã và đời sống dị thường của vong linh sẽ được lập lại trật tự: vì luật Trời luôn luôn Công bằng và Bác ái. Nếu vong linh nghe theo thì sẽ được kết quả tốt. Những lời chơn chánh và đạo lý của ta sẽ giúp đỡ vong linh rất nhiều. Vậy, khi ta đến một đám xác nào, thì ta nên thầm vái cho vong linh sớm trì tâm học Đạo, tìm người lành để nhờ chỉ dạy. Đôi khi có những vong linh vì quá đau khổ nên đâm ra chán nản, họ không còn ham muốn, đam mê điều chi cả. Họ chỉ mong sao cảnh hiện tại khốn nạn nầy sớm được tiêu diệt ! Nhưng nào dè sự mong ước ấy đem lại cái cảnh tốt đẹp bất ngờ, làm cho họ quá đổi ngạc nhiên ! Nếu ta hiểu rõ cảnh Trung giới thì điều nầy không có chi là lạ: vì lẽ hoàn cảnh biến đổi theo tâm thức con người. Hễ con người càng bám vào những sự thấp hèn, ích kỷ và đam mê thì tự nhiên bị chất khí trược ấy vây chặt, khiến cho họ sa vào cảnh đen tối và đau khổ. Nay vì thấy mình càng bám víu thì càng thất bại nên hóa ra chán nản. Trong khi quá thất vọng, vong linh thay đổi tư cách là : “không thèm ham muốn cái gì nữa”. Trước cái tư cách của tâm thức đó, hoàn cảnh tự nhiên thay đổi; vì vậy mà vong linh thấy mình được nhẹ nhàng, thơ thới và sống trong hoàn cảnh tốt đẹp sáng sủa hơn. Khi bức tranh “vân cẩu” đã vẽ xong và bút nghiên đã dẹp lại rồi, thì tấm màn nhục thể từ từ buông xuống. Bấy giờ, vong linh mới nhận thấy sự thật rõ ràng, mới thấy được cái trạng huống của mình tốt hay xấu, phúc lạc hay đau buồn. Sự tiến lên cảnh cao hay lưu lại cảnh thấp là tổng kết sự thăng trầm của một kiếp sống nhơn sinh. Nó hạn định số mạng của y một cách công bình, dẫu một mũi kim cũng không dễ lọt được ! Đơn giản thay, mà cũng huyền diệu thay ! Dưới thế gian nầy, không ai lập được cái trật tự điều hòa như thế đó. Nguyên lý tinh vi, khiết bạch của Hóa Công qui định tất cả và nó đặt để mỗi người theo Ngôi vị thích nghi của mình. Nó biến chuyển những mãnh lực tinh thần để biểu lộ sự Công Bình tuyệt đối ! Ta ở cảnh cao trên cõi Trung giới cũng do ta, mà ta lâm vào cảnh u minh cũng là tại ta cả. Tất cả tư tưởng, tình cảm và hành vi của ta đều có hình dạng. Chúng nó ghi vào con người của ta như một cuốn sổ to. Lúc ta sanh tiền thì nó đóng kín lại; xác thân vật chất của ta ví như một cái màn đen che khuất nội dung của nó. Nhưng khi ta từ giả cõi trần, thì nó từ từ mở ra: những trang giấy của nó phô bày trước mắt. Ta mang nó trên lưng ta, khiến cho ai cũng đều thấy đặng cái Thiên Đàng hay cái Địa Ngục của ta cả. Trên những thể vô hình (đối với mắt ta) của vong linh đều có ghi tội, phước của kiếp trần đã qua. Chúng nó là bằng chứng cụ thể của đời sống tốt đẹp hay xấu xa đã qua. Chúng nó biện hộ cho vong linh hay kết tội y, và không ai có thể làm cho tiếng nói của chúng nó im lặng được. Vậy lúc sanh tiền con người đang đẻo gọt cái “Ngai” của mình tại dương thế để cho mình ngồi khi quá vãng. Quyền cầm cân tội phước là ở mỗi người chúng ta đây. Nếu chúng ta muốn được hạnh phúc nơi cõi vô hình, thì ngay bây giờ, chúng ta nên bắt tay vào việc. Chúng ta hãy ráng tạo những hành vi lành, từ bỏ những hành vi xấu, và rửa lòng cho trong sạch như lời dạy của Đức Phật Thích Ca trên hai ngàn rưởi năm về trước. Dưới đây là bài thơ ngụ đời của một vị đạo tâm: Phút chốc đầu xanh hóa bạc râm, Mấy ai hưởng thụ ngoại tuần trăm ? Thoi đưa, thoi đến bao lâu nhỉ ? Mây hợp, mây tan một kiếp trần; Danh lợi mãn say quên nẻo chết, Bịnh, già, sực nghĩ đến bên chân; Than ôi, trần thế xem như thế, Sớm khá tu tâm học Đạo Thân.
    1 like
  38. Chắc không phải vì cây gỗ bỏ đi mà chịu trừng phạt nặng thế đâu.Hồi nhỏ, tôi có xem một câu chuyện thế này: Có một nho sinh ngồi bên cửa sổ học bài. Chợt nhìn ra sân nhà bên cạnh thấy một bà hàng xóm trộm cái váy mới của gia chủ phơi ngoài sân. Gia chủ về thấy mất cái váy nhất quyết cho rằng bà hàng xóm ăn trộm của mình. Bà kia chối tội. Hai người làm một lễ ra đình làng thề trước thần hoàng làng: "Nếu ăn trộm thì chịu thần vật chết sau hai ngày". Cả tuần sau bà ăn trộm vẫn sống phây phây. Vị nho sinh biết chuyện than rằng: "Thánh thần mới linh thiêng làm sao?". Đêm hôm ấy, vị nho sinh đang ngủ, thấy có người gõ cửa bảo rằng: "Này ông trạng! Sau này ông đỗ trạng, ra làm quan, chẳng lẽ vì một cái váy mà xử chết một mạng người chăng?". Bởi vậy, tôi cho rằng nếu xét về mặt nghiệp chướng thì không phải do lấy của chùa có một miếng ván bỏ đi mà bị vỡ đĩa đệm.
    1 like
  39. Tôi kể cho cháu nghe câu chuyện như vầy / lúc thuở còn nhỏ tôi mới bắt đầu nghiên cứu tử-vi ,chỉ mượn tất cả ngày tháng giờ năm sinh của anh em bà con dòng họ để tập xem làm kinh nghiệm ,có mối lợi là mình đã biết phần nào quá khứ và những điều đã xẩy ra cho cho những người đó .Tôi có cô em họ con của người chú ruột ,nhưng cô ta lớn hơn tôi một tuổi ,khi lấy lá số của cô ta thấy mệnh cung vô chánh diệu chỉ có 1 không và cũng có nhiều điễm giống như cháu vậy ,theo các sách đều nói rằng ,người M vô chánh diệu không hội được tam không hay được tuần triệt án ngữ ; thì lúc nhỏ tuổi hay ốm đau bệnh hoạn ,sanh ra khó nuôi ,thường là con vợ nhỏ ,hay làm con nuôi của người khác ,nếu không nên thay đổi tên họ thì mới khá ,lúc tiền vận sô sở bất đắc chí , mặc dầu thông minh lanh lợi v.v / nhưng cô nầy sanh ra cũng bình thường ,cũng không có gì là khó nuôi ,gia đình cha mẹ cũng khá giả đủ ăn đủ mặc ,cho học hành ,nhưng cha mất sớm ,mẹ cũng không thọ lắm /lúc gần vàotuổi trung vận có người đi hỏi ,nhưng sau đó tên nầy đi nghĩa vụ rồi chết từ đó về sau không hề có được người nào tới hỏi han chi hết , lâu nay vẫn sống cô độc không chồng không con ,không cháu v.v. nghề nghiệp công danh sự nghiệp cũng chẳng có gì hết . số phận rất là hẩm hiu cô quạnh kể từ sau 30t trở đi . Như vậy tử-vi sai chăng ? THEO TÔI THÌ KHÔNG ,mà có sự nghịch đảo ,nếu cô ta sanh ra khó nuôi ,hay bệnh hoạn , cha mẹ nghèo khổ ,hay cô ta ly tổ xa xứ mà sống thì chắc nữa đời sau của cô ta ,sẽ hạnh phúc có chồng con cũng như mọi người ,hay khá giả như ai ...như vậy vấn đề vô sở bất đắc chí là đây không ? cháu còn nhỏ tuổi ,còn rất nhiều diễn biến sẽ xẩy ra trong cuộc đời , đừng vội cho là sai ! khuyên cháu nên lập nghiệp phương xa hay lìa thân quyến mới mong hưởng phúc được và cũng tránh được nhiều điều xấu cho phần số .
    1 like