-
Thông báo
-
Nội quy Lý Học Plaza
Nội quy này là bản mở rộng Nội Quy - Quy định của Diễn đàn. Khi tham gia mua bán, các thành viên phải tuân theo những quy định sau: Tiêu đề bài viết: Bao gồm: Chỉ dẫn địa lý, Loại hình Mua/Bán, Thông tin mua bán.
Chỉ dẫn địa lý: Tỉnh/thành nơi mua bán. Hoặc sử dụng định nghĩa có sẵn:TQ: Toàn quốc
HCM: TP Hồ Chí Minh
HN: Hà Nội
[*]Ví dụ: HCM - Bán Vòng tay Hổ Phách Nội dung bài viết: Mô tả chi tiết sản phẩm mua/bán
Bắt buộc phải có thông tin liên lạc, giá Mua/Bán
Bài mới đăng chỉ được phép up sau 03 ngày.
Thời gian up bài cho phép: 01 ngày 01 lần.
Các hành vi vi phạm nội quy này sẽ bị xóa bài hoặc khóa tài khoản mà không cần báo trước.
-
Leaderboard
Popular Content
Showing most liked content on 01/01/2011 in all areas
-
VĂN HIẾN VIỆT VÀ "ĐỐI THOẠI GIỮA CÁC NỀN VĂN MINH" Nguyễn Vũ Tuấn Anh Giàm đốc Trung Tâm nghiên cứu Lý học Đông phương. 26/ 12/ 2010 Trong những bản văn chính thức của tổ chức văn hóa Liên Hợp Quốc, không lần nào sử dụng khái niệm "văn hiến", ngoại trừ sự tồn tại của nó trong dân tộc Việt. Kính thưa quí vị quan tâm. Bài viết trên Bee.net không thấy tên tác giả, bởi vậy có thể coi như quan điểm của ban biên tập. Nếu đây là do sơ xuất của lỗi đánh máy trên báo điện tử, mà sau này họ sửa chữa thì chúng tôi sẽ bổ sung. Nhưng cá nhân tôi không quan trọng tác giả là ai, mà là nội dung của vấn đề được đặt ra trong bài báo. Trong nội dung bài báo này có thông tin về chủ trương của UNESCO về "Đối thoại giữa các nền văn minh". Chúng tôi nghĩ rằng Nếu UNESCO đặt vấn đề một cách nghiêm túc và quan tâm tới luận điểm "Việt sử 5000 văn hiến, cội nguồn của văn minh Đông phương" thì đây là một dịp để chúng tôi trình bày về một nền văn minh huyền vĩ và còn bí ẩn trong con mắt của các nhà khoa học thuộc văn minh hiện đại, có xuất xứ từ văn minh Tây Phương và đó là một trong những cơ hội để làm sáng tỏ cội nguồn Việt sử - nguồn gốc của nền văn minh Đông phương huyền vĩ và bí ẩn trên thế giới, qua sự chủ trương "Đối thoại với các nền văn minh" do UNESCO khởi xướng. Trong bài báo trên Bee.net còn đặt ra một vấn đề - Từ đó đặt lại vấn đề về khái niệm văn hóa và văn minh. Đây là một điều dễ hiểu. Bởi vì cho đến nay, đây là hai khái niệm chưa có một chuẩn thống nhất về nội dung khái niệm, mặc dù người ta vẫn ứng dụng một cách thành thạo trong các văn bản. Nhưng người ta chỉ cảm nhận được nó trong sự tổng hợp trừu tương khái niệm này từ những ứng dụng cụ thể của từng trường hợp. Chứ không phải đã có một định nghĩa chuẩn về khái niệm này. Hiện nay, theo thống kê của những nhà nghiên cứu thì có ngót 400 định nghĩa về khái niệm văn hóa. Bởi vậy, chúng tôi cũng tuân thủ theo qui tắc mà bài viết trên Bee.net đề cập và định nghĩa về khái niệm văn hóa theo cách hiểu của chúng tôi. I. KHÁI NIỆM VĂN HÓA - VĂN MINH & VĂN HIẾN. Trước hết, tôi xác định rằng: Trong ngôn ngữ và văn tự Việt, khái niệm "văn hiến" là một khái niệm xưa nhất có trong các văn bản cổ và ngôn ngữ của dân tộc này. Và chỉ có dân tộc Việt mới xác định dân tộc mình có một nền văn hiến trong các bản văn chính thức cấp quốc gia. Trong các bản văn chữ Hán xuất hiện từ thế kỷ trước của một số nhà nghiên cứu cũng dùng danh xưng văn hiến. Nhưng ở cấp quốc gia, không thấy khái niệm này xuất hiện trong các chiếu chỉ, bản văn cấp quốc gia...vv..... Trong "Bình Ngô Đại cáo" của Nguyễn Trãi - anh hùng dân tộc Việt ở thế kỷ XIV - viết: Như nước Đại Việt ta thuở trước. Vốn xưng nền văn hiến đã lâu. Hay gần hơn, từ thế kỷ XVIII, một bài thơ của vua Minh Mạng, hiện còn khắc, treo trong Điện Thái Hòa - Hoàng thành Huế, viết: Văn hiến thiên niên quốc. Xa thư vạn lý đồ. Hồng bàng khai tịch hậu. Nam phục nhất Đường Ngu (/Nghiêu). Khái niệm văn hiến này sẽ được phân tích sau khi chúng tôi trình bày luận điểm của chúng tôi về khái niệm "văn hóa". I. 1. Khái niệm văn hóa * Khái niêm "văn" Chúng tôi quan niệm cho rằng danh từ văn hóa là một từ thuần Việt và khẳng định nó không phải là một từ Hán Việt có nguồn gốc từ ngôn ngữ Hán, mặc dù nó có thể miêu tả bằng văn tự Hán. Người Hán phát âm chữ "văn" (文) là "uấn", hoặc "uẩn", chăng có liên hệ gì về ngữ âm với cách phát âm chữ "văn" trong tiếng Việt cả. Danh từ "văn" trong tiếng Việt là một thành tố trong tổ hợp từ có cùng phụ âm "v" đầu , miêu tả hệ quả của một hành vi con người thể hiện ý tưởng, là: Văn, viết, vẽ.....cùng thuộc hoặc liên quan đến tay (Trong khi đó phát âm tiếng Hán cho những từ này là: Văn - Uấn; viết - Sỉa; vẽ - Hoa hoa. Không hề có chút cơ sở nào dấu tích để gọi là Việt Hán cả); hoặc hình tượng thể hiện dấu ấn tự nhiên hay nhân tạo là: Vằn, vện, vết....Đây chính là phương pháp tạo từ tiếng Việt được miêu tả một cách xuất sắc của nhà nghiên cứu Lãn Miên - đã trình bày trong website lyhocdongphuong.org.vn(*). Khái niệm "văn", đứng một mình, miêu tả một bài viết thể hiện ý tưởng con người. Tất nhiên nó bao gồm đầy đủ tính hợp lý của một yếu tố cần phải có trước và là nguyên nhân của nó, chính là "chữ viết". Hay nói rõ hơn: Đó chính là sự thể hiến một quá trình phát triển xã hội đến giai đoạn cao và vượt trội so với giai đoạn cần thiết phải hình thành ký tự, chữ viết để thể hiện và truyền đạt ý tưởng. Bởi vì khái niệm "văn" tự nó đã đòi hỏi một cấu trúc ngôn từ mạch lạc, có tính hệ thống, chuẩn mực trong một bài viết dù là cô đọng nhất, để thể hiện ý tưởng người viết. Hay miêu tả một vế khác của vấn đề là: Khái niệm "văn" phải có nguồn gốc từ sự hiểu biết có tính tri thức. * Khái niệm "hóa" Đây cùng là một từ thuần Việt và khá phổ biến trong ngôn ngữ dân gian Việt ở mức phổ thông và bình dân. Nó miêu tả sự chuyển đối từ trạng thái này sang trạng thái khác. Những thành tố trong tổ hợp từ có phụ âm "h" đầu trong tiếng Việt còn tồn tại đến nay, miêu ta sự thay đổi là: Hóa, hòa, hoa (Trong "hoa chân, múa tay"). Riêng về từ này trong tiếng Hán viết chung một ký tự là "Hoa" ( 花 ). Bởi vậy, không có cơ sở nào để từ "hóa" với khái niệm của nó lại xuất phát từ ngôn ngữ và văn tự Hán cả. Khi mà chính người Hán không có từ này. Từ lâu, "Hóa" là tiếng phổ biến trong cả giới bình dân Việt. Những ngôn từ tiếng Việt dùng khái niệm "hóa" phổ biến , như: "Hóa vàng" - Chuyển đổi giá trị giấy tiền vàng mã sang giá trị tiền ...dưới Âm Phủ theo tín ngưỡng Việt; "hóa kiếp" - chuyển đổi từ kiếp này sang kiếp khác; "hóa thân" - chuyển đởi trạng thái thân thể từ hình thức này sang hình thức khác. Hóa học - chuyển đổi cấu trúc vật chất từ trạng thái này sang trạng thái khác....... Mục đích của bài viết này không nhằm chứng minh nền văn hóa Việt hoàn toàn có tính độc lập trong sự phát triển và không hề là hệ quả thu được từ văn hóa Hán. Nên chúng tôi không đi sâu vào vấn đề này, mà chủ yếu chỉ chứng minh cụ thể cho hai từ "văn" và "hóa" không có nguồn gốc Hán theo cách nhìn của chúng tôi. Nhưng từ đó - trên cơ sở khái niệm "văn" và "hóa" có nguồn gốc Việt này - chúng tôi tiếp tục trình bày khái niệm "văn hóa" làm cơ sở cho việc bàn về nội dung: "Đối thoại giữa các nền văn minh". Khái niệm văn hóa Trong danh từ "Văn hóa" thì văn lúc này chính là biểu tượng cô đọng của sự chuyển tải một hệ thống ý tưởng được diễn đạt và "hóa" chính là biểu tượng cô đọng của việc chuyển hóa những ý tưởng đó phổ biến trong sinh hoạt của cuộc sống. Trên cơ sở này thì khái niệm "văn hóa" được định nghĩa như sau: Văn hóa là một khái niệm trừu tượng mô tả sự chuyển hóa những ý tưởng có tính hệ thống, nhất quán có mục đích thành những hành vi được phổ biến và lưu truyền trong đời sống, sinh hoạt của một dân tộc, một cộng đồng, một khu vực dân cư hoặc cả một quốc gia và được coi là những chuẩn mực tạo giá trị tinh thần trong cuộc sống thì gọi là "Văn hóa". Những ứng dụng khái niệm văn hóa Như vậy, trên cơ sở định nghĩa này -Chúng tôi thử ứng dụng vào những trường hợp phố biến của khái niệm văn hóa như một thử nghiệm cho phản ánh đúng bản chất của nó và không mâu thuẫn với ý niệm phổ biến của từ này. * Văn & Hóa: Cũng từ định nghĩa trên, chúng tôi đặt những giá trị ý tưởng diễn đạt bằng bản văn hoặc ngôn ngữ, nhưng những ý tưởng, quan niệm mà chỉ dừng lại ở sự thể hiện trên văn bản, ngôn ngữ mà không thể chuyển hóa thành những hành vi trong sinh hoạt của một cộng đồng, một dân tộc.....thì chỉ có thể gọi là "văn" chứ không "hóa". Bản thân những cuốn sách, truyện.....là những hiện tượng, những thành tố trong đời sống văn hóa, chứ tự thân nó không phải là văn hóa. * Ứng dụng trong ngôn ngữ. Trong ngôn ngữ và bản văn, người ta thường dùng các khái niệm như: "Văn hóa dân tộc", "văn hóa Phật giáo" .....Thậm chí gần đây, có người dùng thuật ngữ "Văn hóa ẩm thực". Những khái niệm này được giải thích thế nào với định nghĩa về văn hóa nêu trên? Chúng tôi cho rằng: Do không có một định nghĩa chuẩn về khái niệm văn hóa, cho nên có những thuật ngữ mang tính lạm dụng vô lý. Thí dụ như khái niệm "văn hóa ẩm thực". Nhưng bản thân thuật ngữ này lại tự mâu thuẫn - bởi vì từ ẩm thực chỉ là một hành vi sinh hoạt, tự nó không thể là văn hóa. Sự lạm dụng do chưa có, định nghĩa chuẩn về "văn hóa", khiến người ta có thể ghép bất cứ một hành vi nào với khái niệm văn hóa, nếu thuật ngữ "văn hóa ẩm thực" được coi là một phát minh sáng giá thì người ta có thể ghép bất cứ một động từ nào với khái niệm "văn hóa". Thí dụ như: "Văn hóa ngủ"; hoặc "văn hóa hắt hơi"..... Những thuật ngữ sáng tạo kiểu này có nguồn gốc từ quan niệm của Đào Duy Anh cho rằng: Văn hóa là sinh hoạt (Việt Nam văn hóa sử cương - Đào Duy Anh). Nếu quan niệm của ông Đào Duy Anh đúng thì trên trái đất này tất cả những sinh hoạt của muôn loài đều có thể coi là văn hóa. Tất nhiên đó là điều không hợp lý. Ngược lại, nếu coi khái niệm văn hóa như định nghĩa trên mà chúng tôi đã trình bày thì nó xác quyết những vấn đề sau đây: a/ Văn hóa là hệ quả chỉ có ở động vật cao cấp có khả năng tổng hợp nhận thức trực quan phát triển khả năng tư duy trừu tượng và sự phát triển đạt được tính phong phú về ngôn ngữ và phải có văn tự để truyền đạt. b/ Có tổ chức chặt chẽ mang tính cộng đồng, để có thẩm quyền mang tính quyền lực xác định những giá tri tư tường trở thành phổ biến và lưu truyền trong cuộc sống cộng đồng. Trên cơ sở định nghĩa và mô tả này ("a/" & "b/") thì chúng tôi nhận thấy các thuật ngữ như: "Văn hóa Phật giáo"; "Văn hóa dân tộc"; "Văn hóa truyền thống".....vv....là sử dụng đúng khái niệm văn hóa. Bởi vì khái niệm "Phật giáo", "dân tộc" đều phản ánh tính chất cộng đồng và sự chấp thuận lưu truyền những gia trị tư tưởng đó trong cộng đồng (Môi trường phổ biến văn hóa). Thuật ngữ "Văn hóa truyền thống" thì khái niệm truyền thống tương đồng với trạng thái lưu dữ, truyền đạt tất nhiên là trong môi trường của một cộng đồng....vv.... Mục đích của bài viết này là trình bày luận điểm của chúng tôi về vấn đề "Đối thoại giữa các nền văn minh", nên chúng tôi chỉ trình bày ngắn gọn luận điểm và sự miêu tả về khái niệm văn hóa qua kết luận trên. I. 2. Khái niệm văn minh. Khái niệm này chúng tôi xác định rằng hoàn toàn thuần Việt. Riêng từ "văn" chúng tôi đã trình bày ở trên với sự xác định nguồn gốc Việt. Khái niệm minh. Với từ "minh", nhiều người cho rằng: Nó là từ Hán Việt có ký tự là "明", người Hán phát âm là "mỉn", hoặc "mín". Dịch ra tiếng Việt là "sáng". Trong văn tự Hán nó gồm hai chữ là "日":Nhật - Mặt Trời và "月": Nguyệt - Mặt Trăng, nhằm miêu tả ánh sáng của mặt Trời và mặt Trăng soi sáng trên trái Đất này. Nên miêu tả với từ Hán Việt: "Minh - 明" có nghĩa là "Sáng" trong tiếng Việt. Nhưng với chữ Hán theo tượng hình và nội dung trình bày trên, rõ ràng là mâu thuẫn và nó sẽ hoàn toàn vô nghĩa nếu ghép từ này trong khái niệm "văn minh" trong tiếng Việt. Chúng tôi lập luận như sau: a/ Hình tượng của mặt trời và mặt trăng là miêu tả sự thay đổi của ngày và đêm, của sáng và tối. Như vậy, tự hình tượng này không thể hiểu nghĩa là sáng. Phải chăng đây chính là từ Việt với nghĩa "sáng" được Hán hóa bằng hình tượng mặt Trời "nhật/日" chiếu vào bóng tối "nguyệt/月" - mặt trăng? Trong Tử Vi có câu phú đắc: "Nhật nguyệt đồng tranh, công danh bất thành". Công danh bất thành thì lấy đâu ra "sáng"? b/ Nếu hiểu "minh" là sáng thì nghĩa của khái niệm văn minh là "văn sáng" sao? Hoàn toàn tối nghĩa. Nhưng ngược lại, nếu chúng ta nhận thấy rằng, danh từ "minh" là một từ thuần Việt và hoàn toàn không hề có gốc Hán thì khi thực hiện với từ ghép "văn minh" sẽ có một định nghĩa rất rõ ràng. Chúng tôi cho rằng: "Minh" là một từ gốc Việt miêu tả một thực trang trừu tương có tính bao phủ, rộng khắp. Nó còn được gọi là "Mênh" trong một số phát âm mang tinh địa phương của người Việt. Mênh mông - có nghĩa là bao trùm, trải rộng. Trên cơ sở xác định khái niệm "văn" và "minh" (Mênh) là hai từ thuần Việt với cách hiểu như trên - thì - chúng tôi hoàn toàn có cơ sở để định nghĩa khái niệm "Văn minh" như sau: Văn minh là khái niệm trừu tượng mô tả những giá trị tri thức được thể hiện (Văn) bao trùm một không gian tồn tại của con người thì gọi là văn minh. Những ứng dụng khái niệm văn minh. Với định nghĩa trên, chúng tôi úng dụng kiểm chứng tính hợp lý trong các mối liên hệ các hiện tượng liên quan , để xác định tính đúng đắn của định nghĩa này. * Khái niệm văn hóa chỉ có thể phát triển trở thành văn minh, nếu nền văn hóa được xác lập trên một không gian rộng có tính bao trùm và không phân biệt dân tộc, tôn giáo, đẳng cấp. Bởi vậy, người ta có thể nói: Văn minh Phương Đông - Những gia trị tri thức phổ biến bao trùm ở không gian phương Đông, Văn minh phương Tây. Thậm chí có thể nói: Văn minh Ấn độ - khi những giá trị tri thức của xứ sở này bao trùm lên một vùng lãnh thổ Ấn Độ gồm nhiều dân tộc. Nhưng chẳng ai nói "văn minh của bộ lạc...."; hoặc "văn minh xứ Đoài" cả. I. 3. Khái niệm văn hiến. Văn hiến là một từ thuần Việt và chỉ tồn tại trong ngôn ngữ Việt. Tiếng Anh - một ngôn ngữ quốc tế trong nền văn minh nhân loại hiện đại không có khái niệm này. Như đã trình bày ở trên, người Hán cũng có từ "văn hiến", nhưng nó chỉ được một vài học giả Hán trong thời gian gần đây, tự gán cho nền văn hóa Hán. Nó chưa hề có trong ngôn ngữ cấp quốc gia như đã thể hiện trong các bản văn lịch sử của dân tộc Việt. Trong một lần xa xưa, tôi có nhờ một người dịch ra tiếng Anh từ văn hiến. Anh ta không thể nào dịch được vì tiếng Anh không có từ này. Cuối cùng tôi phải đưa ra một một khái niệm dài dòng văn tự là: "Nền văn hóa hướng thượng". Tôi luôn luôn xác định rằng: Một ngôn ngữ cao cấp có thể dịch ra ngôn ngữ đó tất cả các ngôn ngữ có nền văn hóa thấp hơn. Nhưng một nền văn hóa thấp hơn sẽ rất khó khăn khi dịch một ngôn ngữ cao cấp hơn ra ngôn ngữ của nó. Do đó, lịch sử có thể thăng trầm, nền văn hiến huy hoàng trài gần 5000 năm của người Việt vẫn còn lại hào quang của nó khi xác định ngôn ngữ Việt có thể dịch tất cả các ngôn ngữ khác trên thế giới ra tiếng Việt. Như nước Đại Việt ta thuở trước. Vốn xưng nền văn hiến đã lâu. ...... Dẫu cường nhược có lúc khác nhau. Nhưng hào kiệt đời nào cũng có.... Danh từ "Hiến" cũng là một từ trừu tượng thuần Việt với nghĩa rất rõ ràng: Sự dâng hiến; một cử chỉ đưa lên một cách cung kính thì gọi là hiến. Trong tổ hợp từ cùng phụ âm đầu là: Hiến, hiển, hiện....đều có nghĩa thiêng liêng, cao quý. Vì là một từ thuần Việt, không liên quan đến các ngôn ngữ khác để so sánh, nên chúng tôi xác định định nghĩa khái niệm "văn hiến" như sau: Văn hiến là một khái niệm trừu tượng thuần Việt miêu tả nhưng tư duy hướng dẫn con người đến một cuộc sống cao cả (hiến). I. 4. Kết luận Trên cơ sở đã trình bày về các khái niệm "văn hóa", "văn minh" và "văn hiến", quí vị sẽ cùng chúng tôi tìm lời giải đáp tiếp theo cho việc "Đối thoại giữa các nền văn minh", chứ không phải là "Đối thoại giữa các nền văn hóa". Sự giải đáp này cũng chính là sự phát triển ứng dụng tiếp tục chứng tỏ tính hợp lý của những khái niệm Việt mà chúng tôi đã trình bày ở trên. Trên cơ sở này, chúng tôi tìm vị trí của nền văn hiến Việt trong cuộc "Đối thoại giữa các nền văn minh", khi mà nền văn minh Việt bao trùm không gian Đông phương với một tri thức - mà chúng tôi giả thiết rằng: Chính là lý thuyết thống nhất vũ trụ. Đó là thuyết Âm Dương Ngũ hành mà chúng tôi đã trình bày trên diễn đàn. Nếu mọi việc đều có những tác nhân thuận lợi thì có thể đây sẽ là sự mở đầu cho việc tìm hiểu một nền văn minh toàn cầu đã bị hủy diệt - chủ nhân đích thực của thuyết Âm Dương Ngũ hành , mà dân tộc Việt còn lưu truyền một cách bí ẩn trong cuộc sống văn hóa truyền thống đến ngày nay.4 likes
-
Kính Bác Thiên Sứ! Theo cháu hiểu, chỉ người nào có định lực thì niệm chú mới có tác dụng. Hơn nữa cá tính người chết cũng y chang chúng ta thôi, họ bám vào cái Ngã của mình mà không bao giờ nghe người khác khuyên giải gì đâu. Có người chết cả trăm năm, nhưng vì dục tình ám ảnh mà không thể siêu thoát được. Đặc biệt là những người chết trẻ, dưới 30 tuổi. Lúc còn sống muốn "cưa" được trai xinh gái đẹp thì phải tốn công sức với money này nọ, bị đối tượng "thử thách" vài ba cú cũng chả ngán. Khi qua bên cõi âm được cái vô hình, rãnh rỗi, nên thấy trai xinh gái đẹp thì bám theo, họ làm gì nó cũng nhìn thấy, nên dục tình dâng lên càng dữ. Loại ma tự phong mình "đấng này đấng nọ" nhập vào nạn nhân để xem bói này kia, nó không muốn bám nạn nhân; chỉ có những loại ma dục tình mới bám người khác và nó không dễ dàng buôn tha đối tượng của mình. ****** Sẵn đây cháu bổ xung thêm phần trên: Ở bộ phận sinh dục Nam và Nữ có huyệt đạo dẫn khí dục chạy vào bộ phận lưu trữ khí dục, loại khí này gây ham muốn tình dục (khí ít thì ham muốn ít) và gây ra động tác cương cứng ở bộ phận sinh dục. Khi loài ma này tưởng tượng nó đang quan hệ với nạn nhân thì khí dục này cũng chạy vào bộ phận sinh dục.3 likes
-
3 likes
-
Kính Nhờ Luận Giải Dùm Lá Số
ntpt and one other liked a post in a topic by haithienha
xin phân định về 2 giờ :giờ Dậu / dáng người hơi cao ,trán cao rộng , mặt nhỏ dài ,mắt kém mắt to hay lộ , háo thắng nóng nảy làm việc gì cũng mong cho chóng xong ,vội vàng , kém lời ,ăn nói không hài lòng người khác , người thân ít gần gũi ,cục tính ,nhưng tính cũng không dứt khoát hay lưỡng lự khi gặp vấn đề nan giải,không thích nuôi gia súc trong nhà ,nếu có nuôi cũng hay bị chết , ,có từ 3-4 anh chị em ,có anh chị dị bào cùng cha khác mẹ ,trong anh chị em thường hay quan tâm giúp đỡ lẫn nhau ,có người mang ác bệnh ; cha tánh tình nóng nảy nhưng trực tính nhân hậu người cao trung bình mặt vuông vắn mắt sáng ,mẹ người cao nở nang mặt sáng đẹp ,có thể liên quan đến kinh thương ,cha mất trước mẹ nhưng lại là người khắc mẹ hay không hợp tính với mẹ mà ít khi gần gũi , cha thì hợp tính hơn và được cưng chiều hơn mẹ , lúc sanh ra khó nuôi hay mẹ sinh khó , hay lúc sanh ra trong 1 năm đầu có mang tang ai trong họ ,tiền bạc kiếm hơi vất vã không giàu mà hay bị tai tiếng hay tranh chấp về vấn đề tiền bac mà ra /theo lá số nầy năm nay lưu thái tuế tại bào đệ cung nên có người bị bệnh nặng khó qua khỏi ,với lá số nầy người rất khó lập gia đình vì Vũ Khúc là cô độc tinh + Thất Sát hãm địa + bạch hổ , mang cách sát -hình -hổ là số khắc chồng khắc con hay có chồng rồi sát chồng ,con cái thì coi như khó có con hay không có con ,hồi nhỏ thì khó nuôi nhưng khi lớn dần thì sức khỏe tốt ít khi bênh nạn . giờ Hợi / dáng người hơi cao ,mặt dài mắt sáng ,mắt lộ chân mày đậm ,thân hình rắng chắc nở nang , kém giao thiệp , có nội tâm khép kín ít khi vươn ra ngoài với tha nhân ,anh chị em cũng không gần gũi xa cách người thân ,thông minh háo thắng quả quyết có tài tổ chức hay kinh doanh ,bề ngaòi thì rất nghiêm trang trong khó tánh nhưng trong lòng thì dễ dãi hài hòa ;anh chị emcos 4-5 người có anh chị em dị bào cùng cha khác mẹ ,tất cả anh chị em giàu có và danh chức ,anh chị em thường hay lưu tâm và giúp đỡ lẫn nhau ,cha là người rất khó tánh hay la rầy con cái ,dạng người cao trung bình mặt vuông vắn ,mẹ dáng người cao hơn cha da trắng nở nang hơi tròn người, hiền hòa và dễ dãi hơn cha ,mẹ chuyên về buôn bán hay daonh thương là người cầm của và quán xuyến gia đình ,tuy vậy nhưng số nầy khắc mẹ ,hay không gần mẹ / nếu là lá số nầy lúc nhỏ sanh ra bình thường ,nhưng càng lớn dần lên thì hay đau yếu bênh nạn ,hiện đang những bệnh liên quan về tim mạch ,khí huyết bất thường và có bệnh loãng máu hay bị xuất huyết nội .2 likes -
Tin Buồn
Thiên Bồng and one other liked a post in a topic by Thiên Sứ
TRUNG TÂM NGHIÊN CỨU LÝ HỌC ĐÔNG PHƯƠNG VÀ NHÂN DANH CÁ NHÂN. THÀNH KÍNH PHÂN ƯU ĐẾN VỚI GIA ĐÌNH VÀ CÁ NHÂN HỌC VIÊN NONGNOC. Thiên Sứ - Nguyễn Vũ Tuấn Anh2 likes -
Tin Buồn
Thiên Bồng and one other liked a post in a topic by Cóc Vàng
Vanvatho xin bái vọng thắp năm nén hương và cầu cho cụ siêu thoát ! Ở xa quá nên không đến viếng cụ được ,xin chia buồn cùng anh Nòng nọc và gia quyến !2 likes -
Tin Buồn
Thiên Bồng and one other liked a post in a topic by Guest
Ban Quản Trị Diễn Đàn cùng ACE trợ giảng Lớp PTCB 4. Gởi đến Gia đình lời Chia Buồn Thành Kính. Cầu Nguyện hương hồn Cụ Vãng Sanh Cực Lạc.2 likes -
Tin Buồn
Mục Đồng and one other liked a post in a topic by ntpt
Xin gửi lời chia buồn đến anh cùng gia đình.2 likes -
Tin Buồn
Mục Đồng and one other liked a post in a topic by Smile_at_life
Xin gửi chia buồn sâu sắc đến gia đình! Cầu chúc cụ được yên nghỉ an bình và sớm về nơi cực lạc!2 likes -
Tin Buồn
Mục Đồng and one other liked a post in a topic by cotaomobile
Chia buồn cùng gia đình Anh .2 likes -
Tin Buồn
Mục Đồng and one other liked a post in a topic by wildlavender
Xin sâu sắc gởi lời chia buồn cùng Nòng Nọc và Gia đình. Cầu xin Hương Hồn Cụ sớm Siêu sanh tịnh độ.2 likes -
Tin Buồn
Mục Đồng and one other liked a post in a topic by Tuyết Minh
Tuyết Minh xin chia buồn cùng gia đình anh Nòng Nọc. Cầu cho linh hồn cụ sớm siêu thoát...2 likes -
Dự đoán VNI 2011: Uptrend mạnh. =============================================== Chúc tất cả các bạn năm 2011 đầu tư chứng khoán thắng lợi lớn. Chúc các bạn và gia đình sức khỏe trường tồn, hạnh phúc vô biên, tiền vào như nước, sự nghiệp thành công, ai nhìn cũng quý, ai thấy cũng thương, mọi đường rộng mở. Từ thiện sởi lởi Trời cho, có Tâm có Phúc, có Đức có Phần. Chúc mừng năm mới 2011!!!2 likes
-
Chú Đại Bi.
kieutrinh liked a post in a topic by Thiên Sứ
Quí vị và anh chị em thân mến. Thần chú Đại Bi là một trong những thần chú nổi tiếng của Phật Pháp và cùng với câu thần chú "Um ma ni pat mê hum" có những tác dụng vô biên với bản ngã. Tôi xin được chép vào đây trên nguồn Youtube để quí vị và anh chị em khi rảnh, hay trong những giây phút căng thẳng vì muôn nẻo chuyện đời có thể mở ra nghe và tịnh tâm thư giãn. Hy vọng sẽ giúp quí vị và anh chị em thân tâm an lạc, hướng tới một sự bình yên và hạnh phúc trong cuộc đời. "Vạn pháp duy tâm biến hiện" THẦN CHÚ ĐẠI BI THẦN CHÚ UM MA NI PAT ME HUM1 like -
Kính thưa quí vị quan tâm Trên Vietnamnet.vn có bài viết gây chú ý dư luận của tác giả Trần Kinh Nghi. Trong bài viết có nhiều vấn đề đặt ra. Tôi xin được đưa toàn bộ bài viết lên đây và trình bày cảm nghĩ của mình để tham khảo ý kiến quí vị về đề tài này. Xin trân trọng cảm ơn. ======================================= Lịch sử cần sự thật! Nguồn : Vietnamnet.vn Kẻ mạnh thường thắng kẻ yếu, và sự thôn tính lẫn nhau giữa các dân tộc, quốc gia vốn là một thực tế hiển nhiên trong lịch sử nhân loại, nhưng điều quan trọng có tính nguyên tắc là, mọi sự thật lịch sử cần phải được tôn trọng và giữ gìn một cách trung thực. Lịch sử đâu phải thích bẻ cong, uốn thẳng là được! Hồi đầu năm nay đã rộ lên sự kiện một nữ nghiên cứu sinh người Việt tại Mỹ tên là Đào Ngọc Bích viết bài cho BBC nói rằng Việt Nam là từ Trung Quốc mà ra(!) để rồi ngay sau đó bị đông đảo dư luận trong và ngoài nước "đánh" cho tả tơi, rơi rụng. Không chỉ vậy, chính cô cựu sinh viên Đại học Ngoại ngữ Hà Nội này, trong nỗ tự lực bào chữa cho mình, đã "đổ tại" quá trình đào tạo môn lịch sử khi cô còn ở Việt Nam. Mới đây dư luận lại được một phen bức xúc nữa khi một vị giáo sư người Trung Quốc tên là Vương Hàn Lĩnh cho rằng "kể từ năm 1885 về trước Việt Nam là thuộc quốc của Trung Quốc". Thực ra không phải chỉ một mình cô Bích hay ông Lĩnh mà còn khá đông đảo người Việt Nam và Trung Quốc đều chưa hiểu đúng về lịch sử của đất nước mình, đặc biệt là lịch sử liên quan đến mối quan hệ lâu đời của hai quốc gia dân tộc "núi liền núi, sông liền sông" này. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng hiểu biết lịch sử "lệch lạc" như vậy nhưng có một nguyên nhân sâu xa nằm ở những "góc khuất" trong sử sách khi nói về nguồn cội dân tộc của mỗi nước. Vẫn biết, kẻ mạnh thường thắng kẻ yếu, và sự thôn tính lẫn nhau giữa các dân tộc, quốc gia vốn là một thực tế hiển nhiên trong lịch sử nhân loại, nhưng điều quan trọng có tính nguyên tắc là, mọi sự thật lịch sử cần phải được tôn trọng và giữ gìn một cách trung thực. Với tinh thần đó, người viết bài này xin được nêu lên một vài điều suy nghĩ lâu nay để mọi người cùng suy ngẫm nhằm tìm ra một lời giải. Một là, về cội nguồn dân tộc, có thể nói không chỉ truyền thuyết mà cả sử sách (của cả Trung Quốc và Việt Nam) dù có nhiều điều chưa được làm sáng tỏ hoặc chưa thỏa đáng, cũng cho thấy rằng nước Việt Nam ngày nay là một thực thể thống nhất duy nhất còn lại của Bách Việt - một tên gọi chung cho nhiều tộc người Việt đã từng định cư hàng ngàn năm trước Công nguyên trên vùng lãnh thổ rộng lớn từ bờ Nam Sông Dương Tử xuống miền Bắc Việt Nam ngày nay, phía Tây giáp Tân Cương, phía Đông giáp biển Thái Bình Dương. Sử sách cũng cho thấy Người Hán "nam tiến" với thế mạnh của kỵ binh nhưng đã phải mất hàng ngàn năm (quãng giữa thiên niên kỷ thứ 2 trước CN đến đầu thiên niên kỷ thứ nhất sau CN) để xâm chiếm, chinh phục và đồng hóa hầu hết các bộ tộc hoặc vương quốc có tên tuổi của người Bách Việt (xem bản đồ minh họa*). Đó là một quá trình kéo dài với biết bao biến cố lịch sử phức tạp mà trong đó có nhiều sự kiện đã bị lãng quên hoặc bị xuyên tạc, thậm chí bị "tráo đổi" tùy theo mục đích của các triều đại phong kiến thống trị trong các thời kỳ khác nhau, đặc biệt là thời nhà Hán và nhà Đường. Tuy nhiên có một thực tại không thể bác bỏ là, riêng Lạc Việt mặc dù bị các triều đại phong kiến Hán Hoa thay nhau thống trị từ năm 179 TCN đến 905 nhưng vẫn tồn tại và phát triển với tư cách một quốc gia dân tộc độc lập như ngày nay. Sử sách thường gọi đó là "thời kỳ 1.000 năm Bắc thuộc" mặc dù đã có rất nhiều cuộc khởi nghĩa lớn nhỏ của người Việt liên tục nỗ ra trong suốt quá trình đó. Có thể nói, đó là quá trình lịch sử tang thương của Bách Việt nói chung, nhưng cũng là trang sử hào hùng đối với dân tộc Việt Nam nói riêng. Sự tồn tại và phát triển của Việt Nam không phải là trường hợp ngẫu nhiên mà là kết cục của cả quá trình đấu tranh sinh tồn của người Bách Việt nói chung mà các thế hệ người Việt Nam nói riêng và cội nguồn Bách Việt nói chung không bao giờ được phép lãng quên. Theo truyền thuyết thì nguồn gốc tổ tiên của Việt Nam bắt nguồn từ Hồ Động Đình (tỉnh Hồ Nam, Trung Quốc ngày nay) bắt đầu bằng Thời đại Hồng Bàng của Kinh Dương Vương (có sách ghi cụ thể năm 2789 TCN). Thuyết này trùng khớp với các câu chuyện cổ tích về Âu Cơ-Lạc Long Quân, các Vua Hùng, mối tình Mỵ Châu-Trọng Thủy và chiếc nỏ thần v.v... Câu dân ca Việt cổ "Công cha như núi Thái Sơn (gần Hồ Động Đình), nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra..." cũng là một sự trùng hợp. Truyền thuyết này cũng được kiểm chứng bằng một số kết quả nghiên cứu quả khảo cổ, nhân chủng và ngôn ngữ, qua các di chỉ đồ đá, trống đồng, nghề trồng lúa nước và những khác biệt gen di tuyền v.v... Kết hợp cả truyền thuyết và cổ sử ta có thể nhận thấy trong suốt quá trình "Nam tiến" và "Đông tiến" của Hán tộc, các tộc người Bách Việt như Ngô Việt, Âu Việt, Dương Việt, Đông Việt, Nam Việt, Man Việt, Di Việt v.v.... đều không thoát khỏi bị thôn tính và đồng hóa...., để cuối cùng đều biến thành "người Hoa" hiện đại. Nhưng riêng Lạc Việt vẫn tồn tại, có thời kỳ bao gồm cả vùng đất Quảng Tây, Quảng Đông và Bắc Bộ ngày nay. Theo dòng lịch sử, ta còn thấy một thực tế là đã từng có rất nhiều người gốc Bách Việt tham gia vào bộ máy đô hộ của phong kiến Trung Hoa trong các thời kỳ khác nhau nhưng đã chọn Lạc Việt (sau là Chân Lạp, Giao Chỉ...) làm "hậu cứ" để chống lại Vương triều trung ương (như Hồ Quý Ly, Lý Bôn, Lý Bí chẳng hạn); rất nhiều người trong số họ thực sự đã tái hòa nhập vào cộng đồng Việt Nam.Cũng đã từng diễn ra những đợt rời bỏ quê hương của người Hoa gốc Bách Việt thuộc nhiều thế hệ trước đến định cư tại Việt Nam và các nước Đông Nam Á. Sử cận đại Trung Quốc cũng cho thấy, cho mãi đến những năm 1940 danh từ "dân tộc Việt" mới bị Tôn Trung Sơn chủ trương xóa bỏ trong bản đồ dân số Trung Quốc. Cho đến này nay để ý thấy ít nhiều vẫn còn những tình cảm kỳ thị giữa các cộng đồng gốc gác Bách Việt tại Trung Quốc với người "từ phương Bắc". Bản thân người viết bài này hồi nhỏ đã có dịp học tập tại Quảng Tây nới có gần 20 triệu người dân tộc Choang (còn gọi là Tráng) vốn là họ hàng của tộc Việt, mới đây trong chuyến du lịch mấy tĩnh phía Nam Trung Quốc đã được dịp "kiểm nghiệm"điều này qua chuyện trò với một số người bản địa. Tin tức cũng cho thấy người Đài Loan gần đây đã viện dẫn đến yếu tố "người bản địa" Man Việt trong cuộc đấu tranh bảo vệ sự tồn tại độc lập với Đại lục. Nhiều thông tin, dữ liệu của các nhà nghiên cứu Bách Việt học quốc tế cũng đáng được xem xét để góp phần làm sáng tỏ hơn về nguồn gốc dân tộc và nhân văn của của Việt Nam và khu vực Đông Á và Đông Nam Á nói chung. Thiết nghĩ, những sử liệu và sự kiện trên đây ít nhiều tự chúng đã nói lên những sự thật khách quan xung quanh những "góc khuất" trong cổ sử và chính sử liên quan đến cội nguồn dân tộc và quan hệ giữa hai nước Việt-Trung. Khách quan mà nói đó là hướng đi tích cực cho mục đích xây dựng mối quan hệ hữu nghị bình đẳng lâu dài giữa hai nước và trong khu vực nói chung. Hai là, về nhân văn, tuy chỉ dựa vào các nguồn sử sách cổ để lại từ thời "1.000 năm Bắc thuộc", ta cũng có thể thấy Việt Nam là kết tinh, là đại diện của Bách Việt. Về góc độ văn hoá, kể cả phong tục tập quán, ngôn ngữ, Việt Nam và Trung Quốc ngày nay có rất nhiều điểm tương đồng, đồng thời cũng có rất nhiều điểm khác biệt. Đặc điểm này nếu được hiểu và vận dụng một cách đúng đắn sẽ có tác dụng tích cực cho việc phát triển quan hệ hợp tác hữu nghị và bình đẳng giữa hai nước, chứ không có gì là không tốt như một số người có thể nghĩ. Tuy nhiên trên thực tế không được như vậy vì có quá nhiều sự thật đã bị xuyên tạc, có những giá trị đã bị "tráo đổi" trong suốt quá trình lịch sử hàng ngàn năm qua mà trong đó phần lợi bao giờ cũng nghiêng về phía kẻ mạnh. Xin đơn cử vài ví dụ: Thế giới lâu nay vẫn tin rằng Kinh Dịch là của người Trung Quốc. Nhưng thực ra gần đây các chứng cứ khảo cổ quốc tế đã cho thấy trống đồng không phải của người Hán mà là của các dân tộc phương Nam. Kết luận này cho phép các nhà nghiên cứu suy ra rằng những hình khắc biểu tượng Kinh Dịch trên trống cũng không phải của người Hán; và do đó chủ nhân của Kinh Dịch chính là người Bách Việt, cụ thể hơn là của người Âu Việt và Lạc Việt. Về ngôn ngữ, đã từ lâu người Việt Nam an phận đón nhận chũ Nho (tốt đẹp) của người Hán (còn gọi là Hán Nôm). Nhưng có một số luận điểm khác cho rằng người Hán trong quá trình xâm lược đã sử dụng ngôn ngữ của người Bách Việt, cụ thể là của Ngô Việt (tại vùng Việt Châu, tỉnh Chiết Giang và Phúc Kiến ngày nay) để cải tiến thành chữ Hán, rồi thành tiếng Trung hiện đại. Lập luận này dựa trên cơ sở nghiên cứu về ngữ nghĩa, âm thanh, ngữ pháp v.v... cho thấy một tỷ lệ rất cao các nhân tố ngôn ngữ Bách Việt trong tiếng Hán cỗ và tiếng Trung ngày nay. Đó là hiện tượng các danh từ nhưng có tính từ được xếp sau danh từ được thấy phổ biến trong Kinh Thi và ngay ở tên gọi các vị Thần Nông, Đế Nghiêu, Đế Thuấn vốn được coi là truyền thuyết Trung Quốc ; từ "Việt" hiển thị với tầng số rất cao trong các tên địa danh ở miền Nam Trung Quốc; từ "giang" (sông) của tiếng Việt cổ được sử dụng cho hầu hết các con sông miền Nam Trung Quốc (trong khi ở miền Bắc gọi là "hà"); tuồng Kinh kịch ở phía Nam Trung Quốc ngày nay vẫn còn gọi là "Việt kich", v.v... Thuyết này đồng thời cũng đặt ra mối nghi vấn rằng di chỉ thẻ tre có khắc chữ Hán cổ là "giả mạo" vì vào thời đó người Hán chưa có mặt ở miền đất phía Nam nơi có cây tre đủ to để làm thẻ viết. Tương tự cũng có sự "nhập nhằng" về chủ thể của "con đường tơ lụa" vì đúng ra người Bách Việt mới có thể là chủ thể của sản vật tơ lụa làm từ cây dâu tằm chỉ có ở vùng đất phương Nam. Rất nhiều luận điểm và luận cứ tượng tự cũng đã được nhiều học giả Việt Nam và quốc tế nêu ra. Tóm lại, dù bị người Hán cố tình đồng hóa bằng rất nhiểu thủ đoạn tinh vi và cường bạo như đốt sách, bắt từ bỏ, xóa bỏ hoặc tráo đổi v.v..., nhưng các dấu tích Bách Việt vẫn còn đó cho đến ngày nay. Trong suốt quá trình đấu tranh sinh tồn khốc liệt bên thua trận ắt chịu nhiều mất mát, nhưng những gì là bản sắc riêng vẫn còn đó; và điều này có thể nhận thấy qua nhiều nét tương đồng giữa Việt Nam với các tỉnh phía Nam và Đông Nam Trung Quốc ngày nay cũng như với các nước Đông Nam Á. Ba là, công tác nghiên cứu và giáo dục về lịch sử cần đi sâu hơn nữa về nguồn gốc dân tộc cùng các giá trị nhân văn trên tinh thần khách quan, dựa trên chứng cứ khoa học biện chứng lịch sử, khảo cổ, nhân chủng... (chứ không chỉ dựa vào sử sách củ để lại từ thời Bắc thuộc). Thiết nghĩ, trong việc này những kiến thức xác thực về Bách Việt sẽ giúp giải mã rất nhiều điều mà lâu nay chưa cảm thấy thỏa đáng hoặc chỉ là "ngộ nhận". Công tác sử học cũng cần tập trung nghiên cứu và bổ cứu lại toàn diện, đặc biệt về lĩnh vực nguồn gốc dân tộc và nhân văn của người Việt nhằm làm sáng tỏ những kiến thức mang tính truyền thuyết kết hợp với những chứng cứ lịch sử dựa trên cơ sở các kết quả nghiên cứu khảo cổ và gen di truyền v.v... Khi có đủ dữ liệu thì công khai chỉnh sửa những mọi sự sai lệnh hoặc bị xuyên tạc hoặc bị giả mạo trong sách sử cũ dưới bất cứ hinh thức nào, của bất cứ thời đại nào. Lý do là vì toàn bộ sách sử cổ của Việt Nam đều đã bị đốt và thủ tiêu trong các thời kỳ "10000 năm Bắc thuộc"; các sách sử hiện có, kể cả Đại Việt sử ký, đều là sử "chép lại" dựa chủ yếu vào các nguồn sử của các thời Hán, Đường và "hậu Hán Đường" nên không thể đảm bảo tính chính xác, trung thực và đầy đủ được; thật nguy hại nếu đã có những sự thật đã bị xuyên tạc, thậm chí đã bị tráo đổi trong đó. Mặc khác, cũng cần thừa nhận những khiếm khuyết trong khâu giáo dục công dân về lịch sử trong thời gian qua ở nước ta với những hậu quả "nhãn tiền" như đã được nhiều lần cảnh báo trước công luận. Thật nguy hại nếu mọi công dân đều hiểu biết sơ sài, thậm chí hiểu sai lệch về lịch sử của đất nước mình. Ví dụ khi nói mình "con rồng cháu tiên" nhưng trong lòng phân vân không biết có đúng thật không vì thấy ở Trung Quốc người ta cũng nói như vậy; không biết tại sao người Việt có các họ giống như người Trung Quốc, không biết chắc nên thiếu tự tin rằng trống đồng là bảo bối của dân tộc Việt Nam; không dám đòi quyền chủ thể của Kinh Dịch, v.v... Tương tự, trong lĩnh vực ngôn ngữ, sao ta không đặt mạnh vấn đề nghiên cứu xem tiếng Việt có chữ viết cổ? Lẽ nào ta dân tộc ta chỉ có chữ Hán Nôm? Có lẽ vì không biết mình là ai, nên đến ngày nay vẫn lúng túng không biết nên bảo tồn cái gì, thay thế, xoá bỏ cái gì để thực hiện "trong sáng tiếng Việt"?.Thậm chí có người cứ "vô tư" nhận mình là "con cháu" của người Trung Quốc (trong khi phía bên kia không nghĩ như vậy). Cũng cần xem xét lại một số khái niệm và quan niệm như cho rằng văn hóa Việt "bị ảnh hưởng" của văn hóa Trung Quốc là không hoàn toàn chính xác (mà thực chất đó chỉ là một sự giao thoa và ảnh hưởng qua lại); cách hiểu về nguồn gốc đạo Phật, Đạo Khổng, về Chữ Nho và Nho Giáo cũng có nhiều điều phải bàn thêm, v.v... Chỉ khi nào hiểu đúng về nguồn gốc dân tộc và tự tin với những giá trị nhân văn riêng, người Việt Nam ngày nay mới thực sự tìm lại chính mình và thoát khỏi nỗi mặc cảm truyền kiếp luôn thấy yếu kém và phụ thuộc các thế lực bên ngoài. Thay cho lời kết Những lập luận trên đây chỉ là ý kiến cá nhân của người viết để nhắc lại rằng dân tộc Việt Nam có cội nguồn lâu đời với những giá trị nhân văn không thua kém các dân tộc khác. Đó là một lịch sử cần được tôn trọng bằng các chứng cứ khoa học khách quan chứ không chỉ bằng truyền thuyết; ngay cả sử sách cũng phải được kiểm chứng lại bằng các kết quả nghiên cứu khoa học nghiêm túc. Theo hướng đó, bài viết chỉ nêu lên một thực trạng tình hình đồng thời gợi ra một số việc cần làm thêm (chứ không nhằm phê phán ai hoặc nước nào) với hy vọng góp phần đem lại sự hiểu biết đúng đắn hơn về lịch sử và cội nguồn dân tộc của Việt Nam cũng như các bên liên quan khác trong khu vực, coi đó là cơ sở để đảm bảo mối quan hệ hữu nghị, bình đẳng lâu dài giữa Việt Nam và Trung Quốc cũng như giữa các nước khu vực với nhau./. Tác giả: Trần Kinh Nghị ======================================= Tài liệu tham khảo - Mục Bách Việt trong Bách khoa toàn thư mở -Wikipedia, và rất nhiều tài liệu khác nhau được liên kết trong tài liệu này. - Đại Việt Sử Ký Toàn Thư - Sử Trung Quốc, Nguyễn Hiến Lê - Việt Nam Sử Lược, Trần Trọng Kim - Bộ sách giáo khoa môn sử học phổ thông của Nhà XB Giáo Dục Việt Nam. - Công trình nghiên cứu nguồn gốc chủng tộc dựa vào gen di truyền (DNA) của M. Liu thuộc Mackay Memorial hospital và được Viện Nghiên Cứu Sức Khoẻ quốc gia của Đài Loan tài trợ chứng minh là các giống dân miền Hoa Nam, Việt Nam, Thái Lan, Mã Lai, Nam Dương có liên hệ gen di truyền khác biệt với chủng tộc Hán ở miền bắc. -* Sử dụng lại bản đồ của Nhóm nghiên cứu về Bách việt trên mạng internet- Nguồn: nhatnguyen.yolasite.com Chú ý: những tên nước trong bản đồ này chỉ mang tính chất tượng trưng; trên thực tế chúng được thay đổi hoặc biến mất trong các thời kỳ lịch sữ khác nhau. ======================================= CẢM NGHĨ NHÂN BÀI VIẾT LỊCH SỬ CẦN SỰ THẬT Nguyễn Vũ Tuấn Anh Tóm tắt nội dung bài viết: Trên cơ sở hiện tượng cô Bích xác định nhà trường dạy cô ta, khiến cô ta hiểu cội nguồn dân tộc Việt có xuất xứ Trung Quốc. Từ đó tôi đặt vấn đề: Nội dung giảng lịch sử dạy trong nhà trường như thế nào để có một hệ quả như vậy. Sau đó là vấn đề cần làm để sáng tỏ sự thật lịch sử về cội nguồn dân tộc. " Sự thật" là một khái niệm miêu tả một hiện tượng mang tính phản ánh bản chất của nội dung sự kiện trong xã hội và nằm trong phạm trù lớn hơn. Đó là tính chân lý! Bởi vậy, không chỉ riêng môn lịch sử, mà con người trong mục đích tiến hóa của mình đang khao khát tìm đến chân lý cuối cùng. Con người cần biết rõ quá khứ cội nguồn của mình: Con người từ đâu đến và đi về đâu. Câu hỏi mang tính minh triết ấy đã khiến tất cả những tri thức tài năng của con người đi tìm từ hàng thiên niên kỷ trước. Lịch sử tiến hóa của con người, của xã hội, của dân tộc đều chỉ là những phương tiện để thỏa mãn câu trả lời minh triết này. Lịch sử là một bộ phận quan trong của tri thức nhân loại, nó cần cầu tìm chân lý. Hay nói như bài báo trên: Nó cần sự thật! Bài báo viết: Tôi không quan tâm đến lời nói lộng ngôn của Vương Hàn Lĩnh - mà theo quan điểm của tôi - cội nguồn tổ tiên của ông ta, nếu ở miền nam Dương Tử thì cũng có thể là một thần dân trung thành của các vua Hùng. Ông ta là nhà sử học, nhưng phát ngôn của ông rất có thể mang tính chính trị. Ở đây, tôi đang nghĩ về tính chân lý, tính sự thật của lịch sử cần được tôn trọng. Nhưng tôi không thể không có vài lời vì vế trên của đoạn trích dẫn này. Bởi vì, chính nó là bổ để, là nguyên nhân trực tiếp, hoặc gián tiếp, hoặc là cơ sở gián tiếp để cho Vương Hàn Lĩnh phát biểu lời nói lộng ngôn trên. Chúng ta xem lại đoạn này: Vậy qua lời phát biểu này, nữ nghiên cứu sinh Tiến sĩ Đỗ Ngọc Bích ở Hoa Kỳ đã xác định một cách công khai rằng: Chính những người giảng dạy môn lịch sử dân tộc Việt đã dạy cô ta rằng: Phải không nhỉ? Tại sao giới giáo sư, giảng viên Đại Học đang giảng môn lịch sử nguồn gốc dân tộc Việt - trước lời phát biểu của Nữ tiền sĩ đang học tại Hoa Kỳ - công khai xác định trên BBC - một cơ quan ngôn luận có ảnh hưởng quốc tế và được tờ báo mạng uy tín trong nước - Tuanvietnam.vn - đăng tải lại không lên tiếng phản đối rằng: - "Chúng tôi không dạy như vậy!". Rằng: - "Chúng tôi dạy cho sinh viên Việt lòng tự hào dân tộc Việt". Rằng : - "Đỗ Ngọc Bích là người trơ tráo, phản bội lại tổ tiên cội nguồn dân tộc rồi đổ thừa cho chúng tôi!". Họ có thể nói như vậy không? Hay họ thừa nhận chính họ đã dạy cô sinh viên - học trò giỏi và xuất sắc đang du học nghiên cứu sinh tại Hoa Kỳ và cô ta chỉ thể hiện kiến thức đã học của mình ở Việt Nam với tư duy tiến sĩ? Vương Hàn Lĩnh phát biểu chỉ là ý kiến cá nhân, ngông cuồng của ông ta. Còn phát biểu của nữ tiến sĩ Việt du học tại Hoa Kỳ, nó xác định tính hệ thống của việc giảng dạy của khoa sử tại Việt Nam. Cô ta không phát biểu nhân danh cá nhân mà nhân danh một hệ thống trí thức được giảng dạy tại nhà trường: Họ đã dạy cho sinh viên cái gì để một tri thức đẳng cấp nghiên cứu sinh tiến sĩ - Chứ không phải bà bán ve chai, lông vịt tốt nghiệp lớp 2 trường làng, vùng sâu, vùng xa - lại nhận thức về lịch sử cội nguồn dân tộc Việt Nam như vậy? Nếu nữ nghiên cứu sinh tiến sĩ người Việt Nam Đỗ Ngọc Bích đang học ở Trung Quốc, mà phát biểu như vậy thì tôi có thể nghĩ rằng: Cô ta chịu sức ép của chính quyền nhà nước Trung Quốc. Nhưng đây cô ta lại đang ở Hoa Kỳ - một đất nước chẳng liên quan gì để can thiệp vào lịch sử Việt Trung - và phát biểu về cội nguồn lịch sử Việt Trung. Phải chăng những điều mà các vị giáo sư sử học khả kính với tất cả những phương tiện đồ sộ và quyền lực trong học thuật đang giảng cho học sinh, sinh viên các cấp của trường học Việt Nam, đã dẫn đến một hậu quả để một trí thức đẳng cấp tiền sĩ nhận thức cội nguồn lịch sử dân tộc Việt có nguồn gốc từ Trung Quốc? Họ dạy cái gì? Họ khẳng định điều này trên các bục giảng chăng? Không! Tôi tin chắc rằng không một sinh viên lịch sử, không một chuyên viên cao cấp chuyên ngành của tất cả các cơ quan công khai và bí mật trên khắp thế giới quan tâm đến văn hóa - tìm thấy một từ cụ thể nào trong các giáo trình của môn lịch sử ở Việt Nam công khai viết rằng: "Dân tộc Việt có nguồn gốc từ Trung Quốc". Không bao giờ tìm thấy! Vậy thì tại sao cô Đỗ Ngọc Bích nữ nghiên cứu sinh Việt Nam tại Hoa Kỳ lại xác định rằng: "Tri thức ấy cô học được từ nhà trường khi ở Việt Nam"? Cô ta xuyên tạc, vu cáo và qua đó kéo cả nền giáo dục Việt sử vào sự tự lăng mạ chính dân tộc mình khi phát biểu của cô ta cho rằng "Dân tộc Việt có nguồn gốc từ Trung Quốc " là do " quá trình đào tạo môn lịch sử khi cô còn ở Việt Nam" chăng?. Hay cô ta đã nói lên một thực trạng của việc giáo dục môn lịch sử cội nguồn dân tộc Việt và thực trạng ấy đã dẫn cô ta đến một kết luận tự sỉ nhục dân tộc mình như vậy? Lịch sử cần sự thật! Vậy - Họ - Cô Đỗ Ngọc Bích - qua BBC mà cầm đầu là Nguyễn Giang - đang hoạt đông với sự cho phép của chính Phủ Anh - muốn gì khi đặt vấn đề: "Dân tộc Việt Nam có nguồn gốc từ Trung Quốc?" và xác định rằng đó là do "quá trình đào tạo môn lịch sử khi cô còn ở Việt Nam" - tức là cô ta xác định những người giảng dạy lịch sử xác định điều này với cô? Cô ta chỉ là người phát ngôn cuối cùng. Người ta đã công khai và phát biểu một chiều trên các phương tiện thông tin đại chúng, các diễn đàn chính quy và các giảng đường - mà có thể tóm gọn lại trong ý chính rằng: Thời Hùng Vương chỉ là "một liên minh gồm 15 bộ lạc" cùng lắm là "một nhà nước sơ khai" với vùng hoạt động không quá đồng bằng bắc bộ và "hình thành ở thời đại đồ đồng đầu thế kỷ thế VII, trước CN". Có thể tham khảo các bài viết với nội dung như vậy của họ mà tôi đã trích dẫn trong các sách đã xuất bản của tôi, như: "Thời Hùng Vương qua truyền thuyết và huyền thoại", "Tìm về cội nguồn Kinh Dịch"."Thời Hùng Vương và bí ẩn lục thập hoa giáp"....ngay trong trang chủ lyhocdongphuong.org.vn; hoặc theo đường link này: http://www.lyhocdongphuong.org.vn/diendan/...?showtopic=1748 http://www.lyhocdongphuong.org.vn/diendan/...?showtopic=2767 http://www.lyhocdongphuong.org.vn/diendan/...?showtopic=4164 ....... Và còn rất nhiều luận điểm tương tự trên các sách, các bài viết được xuất bản công khai, có mục đích phủ nhận cội nguồn Việt sử 5000 năm văn hiến. Nhưng chúng ta sẽ rất khó khăn nếu tìm thấy một cách bình đẳng về tính phổ biến của quan điểm minh chứng cho Việt sử với quan điểm trải gần 5000 năm văn hiến trên các phương tiện này. Nhưng cũng như những bài viết mà tôi đã trình bày ở các đường link trên và trong các sách đã xuất bản thì tất cả những luận điểm của họ với nội dung phủ định Việt sử 5000 năm văn hiến, hoàn toàn chỉ là những giả thuyết xuất phát từ suy luận chủ quan và không hề mang tính hợp lý lý thuyết có tính hệ thống chặt chẽ. Đó chỉ là những cái nhìn và giải thích cho từng hiện tượng riêng lẻ. Tất nhiên hoàn toàn phản khoa học. Nếu quả là "lịch sử cần sự thật" thì sự thật ấy cần được minh chứng một cách khoa học để sáng tỏ. Không thể có tính độc quyền áp đặt luận điểm lịch sử lên học sinh , sinh viên và dẫn đến sự tự phủ nhận cội nguồn dân tộc như cô Đỗ Ngọc Bích - nghiên cứu sinh tiến sĩ tại Hoa Kỳ - đã phát biểu công khai trên BBC. Đã có một hiện tượng khiến dư luận trong đặc biệt chú ý: Đó là việc giáo sư Lê Mạnh Thát công bố công trình của mình dựa trên cơ sở sứu tầm những tư liệu liên quan đến Phật giáo ở Việt Nam và xác định Việt sử 5000 năm văn hiến. Hội sử học cũng công khai lên tiếng sẽ mở một cuộc hội thảo để tạo điều kiện cho những tranh luận cầu tìm chân lý cho cội nguồn lịch sử Việt. Nhưng mọi chuyện chìm trong im lặng một cách khó hiểu cho đến ngày nảy sinh hiện tượng phủ định cội nguồn dân tộc của nữ tiến sĩ Đỗ Ngọc Bích trên BBC. Lịch sử cần sự thật. Đúng. Nhưng không nên coi đó là một khẩu hiệu mà nên là một hành vi và cần tranh luận công khai với những hội thảo khoa học nghiêm túc có tính quốc tế với các quan điểm khác nhau về cội nguồn dân tộc Việt .1 like
-
Kính thưa quí vị quan tâm. Một người bạn tôi ở Hanoi vừa giới thiệu cho tôi bài viết dưới đây trên Bee.net. Nhận thấy đây là một đề tài thú vị. Tôi đưa bài này vào đây để rộng đường tranh luận và tham khảo với các thành viên trên diễn đàn. Tôi nghĩ rằng: Nếu UNESCO đặt vấn đề một cách nghiêm túc và quan tâm tới luận điểm "Việt sử 5000 văn hiến, cội nguồn của văn minh Đông phương" thì đây là một dịp để chúng tôi trình bày về nền văn minh huyền vĩ và còn bí ẩn trong con mắt của các nhà khoa học thuộc văn minh hiện đại, có xuất xứ từ văn minh Tây Phương. ========================================. ĐỐI THOẠI GIỮA CÁC NỀN VĂN MINH Bee.net25/12/2010 09:00:28 Tại sao UNESCO không nói “đối thoại văn hóa” mà lại đổi là “đối thoại giữa các nền văn minh”? 1. Một số vấn đề văn minh và văn hóa Trong khoảng bảy chục năm gần đây, những tiến bộ kỹ thuật của loài người vượt xa những tiến bộ đạt được trong 600.000 năm trước đó. Cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ nhất - thế kỷ 18 - đã đưa ra máy hơi nước, lấy cơ khí thay cho cơ bắp, năng lượng chính là than đá. Cách mạng công nghiệp lần thứ hai, thế kỷ 19 bùng nổ sau Đại chiến II, dẫn đến sự sản xuất hàng loạt hàng tiêu thụ; nó sử dụng chủ yếu năng lượng dầu lửa và diện, cùng các nguyên liệu mới lấy từ dầu lửa, siêu hợp kim. Cách mạng công nghiệp lần thứ ba vào cuối thế kỷ 20, đặc biệt cách mạng viễn thông - tin học (télématique), sử dụng điện tử thay thế con người xử lý những thông số, giải phóng trí óc, tự động hóa sản xuất. Công thương nghiệp phát triển cao do các cuộc cách mạng công nghiệp là tiền đề tạo ra “xã hội tiêu thụ”, ở Mỹ ngay từ những năm 40 thuộc thế kỷ trước, và khoảng hai chục năm sau, ở các nước Tây Âu, rồi đến Nhật Bản v..v.. Từ đó đẻ ra “chủ nghĩa tiêu thụ”, con người biến thành “sinh vật tiêu thụ”, kinh tế là thống soái. Trong suốt thời kỳ chiến tranh lạnh (1946-1989), ngoài cuộc đua tranh về tiềm lực quân sự, cả hai bên Tư bản - Xã hội chủ nghĩa đều lao vào cuộc đua tranh kinh tế với quan niệm cho rằng sự vượt trội về tiềm lực kinh tế sẽ có ý nghĩa quyết định đối với thành bại về đại cục và mức sống cao là mục đích sống. Đến thập kỷ 80, UNESCO đã rung chuông báo động để nhân loại nhìn nhận lại tầm quan trọng của văn hóa: “Thập kỷ văn hóa UNESCO” giúp ta nhận thức lại tương quan giữa văn hóa và kinh tế trong đời sống con người. Sự phát triển đơn thuần về kinh tế không phải là một đảm bảo cho “chất lượng sống”, yếu tố mang lại ý nghĩa cho cuộc sống. Văn hóa phải là động cơ cho xã hội vận hành, kinh tế là nhiên liệu của xã hội đó. Văn hóa phải là mục tiêu của kinh tế chứ không phải ngược lại. Mỗi quốc gia, mỗi dân tộc, tạo ra một nền văn hóa riêng cho mình, như con tằm tạo ra cái kén cho bản thân nó. Các nền văn hóa do đó đều có giá trị ngang nhau, phải được tôn trọng, không thể áp đặt những giá trị của một nền văn hóa này cho một nền văn hóa khác. Do đó mà UNESCO đã ra Tuyên bố toàn cầu về đa dạng văn hóa (Universal Declaration ơn Cultural Diversity) tháng 11/2001, lấy ngày 21/5 hàng năm là ngày Đa dạng văn hóa vì Đối thoại và Phát triển. Nghị quyết năm 1998 của UNESCO lấy năm 2001 là năm Đối thoại giữa các nền văn minh. Muốn thực hiện được đa dạng văn hóa, không để một nền văn hóa nào bị kém vế, hoặc bị tiêu diệt, dĩ nhiên là phải có đối thoại giữa các nền văn hóa, các nền văn minh. Phải chăng những cuộc chiến gần đây ở Nam Tư cũ, Apganixtăng, Irắc, ở Châu Phi đã bùng nổ do đối đầu văn hóa, đã gạt bỏ đối thoại văn hóa. Xin chuyển sang vấn đề chữ nghĩa. Tại sao UNESCO không nói “đối thoại văn hóa” mà lại đổi là “đối thoại giữa các nền văn minh”? Có thể do những lý do sau đây: a. Để nhấn mạnh “tầm vóc chính trị” (political dimension) của vấn đề, nhằm đạt được sự chú ý của các chính khách có quyền quyết định. Trước kia thường nói đến quan hệ tri thức và văn hóa, ít gắn văn minh với chính trị (ý kiến của KMATSUURA, Tổng Giám đốc UNESCO). b. Từ văn minh (civilization) có thể hàm ý bao quát hơn văn hóa (culture). Một nền văn minh bao gồm nhiều nền văn hóa của một dân tộc trong một thời gian nào đó (ý kiến của V.FINNBO GADOTTIR, nguyên Tổng thống nước Cộng hòa Băng đảo). c. Văn minh chỉ những giá trị, tư tưởng và hành động có tính phổ biến, được chấp nhận là chân lý về mặt thực dụng. Văn hóa cụ thể hóa văn minh, là chất liệu và các biểu tượng của nó. Đó là hai từ khác nghĩa nhau (ý kiến của H.CLEVELAND, nhà nghiên cứu). d. Có thể trước đây, một số nhà tư tưởng, nhà sử học thiên về nghiên cứu sự thăng trầm của các nền văn minh (như PAUL VALÉRY, SPENGLER, TOYNBEE). Gần đây, có luận điểm nổi tiếng của S.P. HUNTINGTON về sự đụng độ của các nền văn minh (The Clash of Civilization). Theo tôi, hai từ văn minh và văn hóa thuộc loại các từ mà một số nhà nghiên cứu cho là có thể hiểu được nhiều cách, nghĩa rộng hay nghĩa hẹp. Vì vậy, trước khi dùng, nên nói rõ mình dùng theo nghĩa nào. Nếu theo nghĩa rộng thì “văn hoá có thể trùng nghĩa với “văn minh”. Theo bộ môn nhân học văn hóa, thường “văn hóa” nhấn mạnh về ứng xử, giao tiếp và tư duy trong quan hệ xã hội của một cộng đồng. Còn “văn minh” nhấn mạnh về quan hệ giữa con người và môi trường tự nhiên (các thành tựa để con người tồn tại thể chất). 2. Đối thoại văn hóa là một phương thức tiếp biến văn hóa Từ khi nhân loại bước vào thời đại văn minh, cách đây trên 5000 năm, đã có giao lưu văn hóa. Giao lưu văn hóa mở rộng dần như các vết dầu loang, từ giao lưu giữa các bộ lạc đến giữa các bộ tộc, các quốc gia, các châu lục. Giao lưu dẫn đến quốc tế hóa, đặc biệt được đẩy mạnh từ khi nền văn minh tư bản phương Tây bắt đầu từ thế kỷ 15-16 tìm ra châu Mỹ và vươn tới các nước châu Á, châu Phi, rồi đến sau cuộc Cách mạng Công nghiệp vào thế kỷ 18. Giao lưu văn hóa tạo ra hiện tượng tiếp biến (tiếp thụ và cải biến) văn hóa (acculturation). Tiếp biến văn hóa là gì? Đó là sự tiếp xúc giữa những nhóm người khác nhau về hóa, do đó sinh ra những sự thay đổi về văn hóa (ứng xử, giao tiếp, tư duy) ở trong mỗi nhóm. (Đây là định nghĩa ở cuộc họp UNESCO châu Á tại Téhéran 1978 mà tôi có dịp tham gia). Có thể nêu lên một định nghĩa khác: “Quá trình một nhóm người hay một cá nhân qua tiếp xúc trực tiếp và liên tục với một nhóm khác, tiếp thụ (tự nguyện hay bị bắt buộc, toàn bộ hay từng bộ phận) nền văn hóa của nhóm này" (DICTIONNAIRE UNIVERSEL FRANCOPHONE - 1997) (Có thể thêm vào ý: có hoặc không có ý thức). Như vậy là khi hai nền văn hóa A và B gặp nhau thì ảnh hưởng lẫn nhau, kết quả A thành A2, B thành B2. “Tiếp biến văn hóa” thể hiện qua hai phương thức: a. Phương thức bạo lực (qua chiến tranh, xâm lược, đế quốc chủ nghĩa thực dân): đối đầu (xung đột) văn hóa. A mạnh hơn B, áp đặt văn hóa của mình; nếu bản sắc văn hóa B không đủ sức chống lại, nó sẽ bị phá hủy từng phần và có khi bị tiêu diệt (A thay hẳn B, không còn B nữa). Thí dụ một số bộ lạc thuộc địa cũ ở châu Phi - Thái Bình Dương mất hết bản sắc dân tộc. b. Phương thức hòa bình (qua buôn bán truyền bá tôn giáo tư tưởng, trao đổi văn hóa nghệ thuật), tức là đối thoại văn hóa (văn minh). Dĩ nhiên buổi đầu gặp nhau bao giờ cũng có “sốc” văn hóa. Cũng không thể tách bạch hẳn hai phương thức, vì trong một thời kỳ lịch sử có khi có cả một và hai, tuy phương thức 1 hay 2 ngự trị, trong 1 cũng có ít nhiều 2, mà trong 2 có thể có ít nhiều 1. Thí dụ trong thời kỳ thực dân, tuy phương thức áp đặt văn hóa (bạo lực) là chủ yếu, dân thuộc địa vẫn có trường hợp tự ý tìm đến những giá trị nhân văn của kẻ thống trị (phương thúc 2). Trong tiếp biến văn hóa vừa có thể chống lại vừa có thể tiếp thụ. Xin lấy một thí dụ thuộc bộ môn “xã hội - ngôn ngữ học” (socio - linguistique) do anh Hoàng Tuệ cung cấp (1). Khi hai ngôn ngữ (hiện tượng song ngữ bilinguisme) song song tồn tại trong một cộng đồng, thường thì quan hệ bất bình đẳng: ngữ mạnh át ngữ yếu. Mạnh vì lý do chính trị (ngữ của dân tộc xâm chiếm), kinh tế (ngữ của dân tộc chi phối kinh tế) hay tư tưởng tôn giáo. Vì vậy, dân tộc kém phải đấu tranh giữ cho tiếng mẹ đẻ của mình tồn tại và thuần khiết, nhằm bảo tồn bản sắc văn hóa của mình (đối đầu văn hóa). Đồng thời cần tiếp thụ tinh hoa một ngôn ngữ phát triển hơn về một số mặt để làm giàu bản sắc dân tộc (đối thoại văn hóa). Dân tộc Việt Nam đã từng có hai thể nghiệm lớn về vấn đề này (Hán tự và tiếng Pháp), vào hai thời kỳ (thế kỷ 15 và thế kỷ 20), với hai nhân vật điển hình (Nguyễn Trãi và Hồ Chí Minh). Nguyễn Trãi làm thơ tiếng Việt (Quốc âm thi tập) là mặt đối đầu (chống chữ Hán). Nhưng ông cũng lại làm thơ chữ Hán (mặt đối thoại, tiếp thụ) vì vào thế kỷ 15, văn thơ Nôm chưa nhuần nhuyễn bằng Hán. Trường hợp Hồ Chí Minh cũng vừa đối đầu vừa đối thoại. Bản Tuyên ngôn độc lập (1945) là một thí dụ về văn xuôi chính luận mới, vừa tiếp thụ được tu từ và lập luận (rhétorique) phương Tây (Pháp), vừa nắm bắt được phong cách văn xuôi mới trong nước, không ngây ngô lai căng như ngôn ngữ một số nhà chí sĩ đồng thời sống ở nước ngoài quá lâu. Hồ Chí Minh viết và làm thơ tiếng Việt và chữ Hán, viết văn xuôi tiếng Pháp, với ý thức vừa đối đầu vừa đối thoại văn hóa. Qua hơn nghìn năm Bắc thuộc, gần trăm năm Pháp thuộc, tiếng Việt không bị mất (đối đầu) mà còn phong phú thêm (đối thoại) do bản sắc văn hóa Việt đã tự khẳng định (qua vận động nội tại và đấu tranh chống thiên nhiên và ngoại xâm). Tóm lại, đối thoại văn hóa (văn minh) nằm trong khuôn khổ tiếp biến văn hóa, và vẫn theo những quy luật như trước trong thời đại toàn cầu hóa. Đối thoại văn hóa (văn minh) đã có từ xa xưa. Tại sao đến nay, UNESCO mới nêu thành vấn đề ưu tiên của nhân loại? Phải chăng do toàn cầu hóa đang khơi sâu hố giàu nghèo Nam - Bắc và trong từng quốc gia? Các dân tộc nghèo sợ mất bản sắc? Đặc biệt Hồi giáo cực đoan tuyên bố Thập tự chinh chống văn minh phương Tây, chủ trương khủng bố? Mỹ thì tự nhận đại diện văn minh phương Tây đơn phương gây chiến? Muốn có hòa bình thế giới, UNESCO chủ trương đa dạng văn hóa và đối thoại giữa các nền văn minh (văn hóa). Kỳ tới: Việt Nam trong quá trình tiếp biến văn hóa ===================================================== Chú thích: (1) Xem Hữu Ngọc - Phác thảo chân dung văn hóa Pháp (NXB Thế giới - tái bản 1997). (2) Christiane Pasquel Rafcaw Hữu Ngọc- Tạp chí Hồn việt1 like
-
Kính thưa quí vị và anh chị em quan tâm. Như thường lệ, mỗi năm trên diễn đàn Lý học Đông phương lại mở chủ đề tiên tri trong năm, để tập hợp tất cả những dự đoán của quí vị hội viên có khả năng dự báo trên cơ sở các phương pháp của Lý học. Chúng tôi mong mỏi các cao thủ Lý học tham gia diễn đàn có khả năng dự báo sẽ tham gia trong chủ đề này. Những dự báo của quí vị và anh chị em sẽ được bảo đảm bản quyền và trích dẫn minh chứng để xác định khả năng tiên tri của Lý học Đông phương, góp phần gần lành tránh dữ cho con người. Những lời tiên tri của quí vị và anh chị em sẽ được tổng kết và công bố vào dịp trước Tết Tân Mão. Để mở đầu cho chủ đề này, chúng tôi xin đăng lại bài viết trên VnExpress có nội dung về sự tiên tri của các cao thủ quốc tế. Cảm ơn sự quan tâm đóng góp của quí vị và anh chị em. ================================================== 2011 là năm tốt để làm giàu VnExpress Thứ bảy, 1/1/2011, 05:23 GMT+7 Năm con mèo (con thỏ) 2011 tới đây là thời điểm tốt cho những câu chuyện lãng mạn và việc kiếm tiền, đặc biệt là trong những ngành liên quan đến đất đai, các thầy bói châu Á phán. Ảnh minh họa art.com "2011 sẽ là một năm nhiều năng lượng", Marites Allen, giám đốc công ty Thế giới Phong Thủy của Philippines, dự đoán. "Thế hệ trẻ sẽ có nhiều phong trào đưa đến những thay đổi trong xã hội". Tin hay không là tùy bạn, Allen nói và thêm rằng việc đưa ra các dự đoán này không hề mang yếu tố thần thánh hay tâm lý, mà dựa trên các kinh nghiệm và phân tích kỹ càng. Theo đó, năm nay là năm tốt cho những chuyện tình cảm đối với người mang tuổi hổ hoặc lợn. Tuy nhiên, mặt trái của nó là cũng có thể sẽ có nhiều chuyện bê bối về tình dục hay ngoại tình, theo dấu hiệu mà những con thỏ mang đến. Theo quan niệm của người Việt Nam, năm âm lịch tới đây là năm con mèo, còn theo người Trung Quốc và gốc Hoa ở các nước khác, con vật của năm tới là thỏ. Những người làm trong ngành giải trí - làm phim, đạo diễn, nhà sản xuất - sẽ phát đạt. "Nhưng phải tập trung làm phim về gia đình, tình yêu và các mối quan hệ, chứ phim bạo lực thì không ăn thua", Allen đoán. Ngành nghề dễ kiếm nhất trong năm dính dáng đến đất, gồm xây dựng, địa ốc, khách sạn. Các ngành nghề liên quan đến gỗ như trồng trọt sẽ khó khăn trong năm nay; trong khi các ngành liên quan đến kim loại như nữ trang, đồ kim khí; ngành liên quan đến mạng như vi tính, truyền hình, hàng không có triển vọng tốt, bà thầy này nói. Màu sắc tốt cho năm nay là màu của đất, gồm vàng nhạt. nâu nhạt và các sắc độ giữa hai màu này. Màu tương đối tốt gồm đen và xanh lam. Những dự đoán trên được Allen đưa ra mỗi năm, và năm nay thì đúng dịp khai mạc đại hội phong thủy Philippines lần thứ 6 tại thành phố Quezon. Nói tóm lại, Allen đoán rằng "2011 là lúc bạn nghĩ đến sự thịnh vượng. Cho dù có những xung đột và khó khăn, đây vẫn là thời điểm tốt để kiếm tiền". Mai Trang1 like
-
Tin Buồn
VietnamRich liked a post in a topic by Mục Đồng
Thông báo với toàn thể Anh Chị Em khóa PTCB 4! Hôm qua Bà ngoại anh Nòng Nọc vừa mất trên chuyến bay từ Hoa Kỳ về Việt Nam! Hy vọng các Anh Chị Em nào rảnh rỗi và có lòng đến chia buồn cùng anh Nòng Nọc, địa chỉ 116B Nguyễn Tiểu La, P5 Q10. Miễn Khách biếu! Em xin chân thành chia buồn cùng anh Nòng Nọc và gia quyến! Mong anh và gia quyến chóng vượt qua nỗi đau này!1 like -
Phản biện lập luận của Hàn Chấn Hoa về lãnh vực sử địa cổ có liên quan đến Biển Ðông đề cập trong tác phẩm Ngã Quốc Nam Hải Chư Ðảo Sử Liệu Hối Biên 我國南海諸島史料滙编 Hồ Bạch Thảo Người đọc sách luôn luôn kính trọng các nhà biên khảo đã ra công tham khảo nhiều thư tịch, cung cấp tài liệu chính xác, dựa vào chính luận để hướng dẫn độc giả thấy được sự thực. Ngoài ra cũng có những tác giả với ý đồ xấu, cũng tham khảo nhiều tư liệu, nhưng nhằm mục đích tung lên trái hỏa mù, lập luận giả thực lẫn lộn; nhắm lôi kéo độc giả hiểu theo điều mình muốn, những người này bị các nhà Nho xưa chê là “đa thư loạn tâm.” Giữa hai con đường nghiên cứu nêu trên, chúng ta tự hỏi nhà biên khảo Trung Quốc Hàn Chấn Hoa cùng các cộng sự viên, tác giả cuốn sách đồ sộ đến 60 vạn chữ, mang tên NGÃ QUỐC NAM HẢI CHƯ ÐẢO SỬ LIỆU HỐI BIÊN 我國 南海諸 島史料滙编 [viết tắt: NQNHCÐSLHB], được hàng mấy chục cơ quan văn hóa tại Trung Quốc như thư viện, viện bảo tàng, trường đại học cung cấp tài liệu, sử dụng hành trăm thư tịch tham khảo, đã đi theo con đường nào để nghiên cứu? Nhắm tìm hiểu câu trả lời, trong phạm vi hiểu biết khiêm tốn chúng tôi xin nêu lên luận cứ của tác giả về phương diện lịch sử, địa lý qua Thiên Nhất của cuốn sách ấy: Cổ đại thời kỳ (Hán chí Nha Phiến chiến tranh) hữu quan ngã quốc Nam Hải chư đảo chủ quyền cập kỳ địa lý hòa hàng tuyến đích ký tải [Thời kỳ cổ đại (từ nhà Hán đến cuộc chiến tranh nha phiến) có liên quan đến chủ quyền các đảo Nam Hải nước ta, cùng sự ghi chép về địa lý và tuyến hàng hải]. Trong Thiên Nhất ấy, tác giả trình bày theo trình tự các triều đại Trung Quốc: Hán, Tam Quốc Nam Bắc triều, Tùy, Ðường, Tống, Nguyên, Minh, Thanh; nên chúng tôi cũng tuân theo trình tự đó, để độc giả tiện bề tham khảo: A. Ðời Hán Sách DỊ VẬT CHÍ [异物志] của Dương Phù đời Ðông Hán đề cập đến Trướng Hải, sách này tuy đã thất truyền nhưng được các tác gỉả Trung Quốc đời Tống, Minh, Thanh nhắc lại như sau: 漲海崎頭水淺而多磁石,徼外大舟,錮以鐵葉值之多拔 (1) Tại Trướng Hải Kỳ Ðầu nước cạn nhưng nhiều đá nam châm, thuyền lớn đi ngoài cõi, dưới thuyền gắn lá sắt sẽ bị nhổ ra. Tư liệu từ một quyển sách viết cách đây khoảng 2000 năm, không xác định vị trí Trướng Hải ở đâu, diện tích lớn hay nhỏ; nhưng Hàn Chấn Hoa đã vin vào đó để cố tình cho rằng Trướng Hải có liên quan đến các quần đảo Tây Sa [Hoàng Sa] và Nam Sa [Trường Sa], ông viết: Các sách địa phương chí đời Thanh và cận đại nói về đảo Hải Nam đều trích dẫn đoạn văn này tại DỊ VẬT CHÍ. Thấy được Trướng Hải Kỳ Ðầu cùng truyền thuyết về nam châm tại Trướng Hải hút đinh sắt của thuyền có liên quan đến các quần đảo Tây Sa [Hoàng Sa] và Nam Sa [Trường Sa] tại vùng biển Nam Hải. (2) Lời bàn vừa hàm hồ lại thiếu khoa học. Trong tác phẩm ÐỊA LÝ BIỂN ÐÔNG VỚI HOÀNG SA VÀ TRƯỜNG SA, tác gỉả Vũ Hữu San, cựu Hạm trưởng đã từng tham gia cuộc chiến tại quần đảo Hoàng Sa năm 1974, có nhiều kinh nghiệm và kiến thức về hàng hải; viết về “ sự kỳ diệu về từ tính” tại vùng biển đông như sau: Thiên nhiên đã tạo nên một vài vùng biển đặc biệt trên thế giới mà ở đó không có độ lệch về từ tính như Biển Á Rập và Biển Ðông. Một trong nhiều nguyên nhân tạo nên nền văn minh hàng hải ở Ðông Nam Á có lẽ cũng vì sự nhiệm màu đó. Trong khi la bàn từ trệch 30, đến 40 độ tại nhiều nơi khác trên thế giới, kim định hướng của nó lại chỉ ngay đúng phương Bắc địa dư, khi con tàu tiến vào vùng Biển Ðông.(3) Chú thích: 1. Hàn Chấn Hoa, NQNHCÐSLHB, trang 23; nhà xuất bản Hạ Môn Ðại Học Nam Dương Nghiên Cứu sở, Trung Quốc, 1985. 2. NQNHCÐSLHB, trang 24. 3. Vũ Hữu San, ÐỊA LÝ BIỂN ÐÔNG VỚI HOÀNG SA VÀ TRƯỜNG SA, xuất bản năm 2007, trang 92. B. Ðời Tam Quốc đến Nam Bắc triều 1. Sử liệu đời Tam Quốc được Hàn Chấn Hoa nêu lên là sách PHÙ NAM TRUYỆN [扶南傳] của Khang Thái. Sách này cũng thất truyền, được Lý Phương đời Tống trích dẫn tại cuốn THÁI BÌNH NGỰ LÃM [太平御覧], trong đó có câu : 漲 海 中, 到 珊 瑚 洲, 洲厎有盤石,珊 瑚 生 其 上 也 (1) Từ Trướng Hải đến châu San Hô, dưới châu có đá bàn thạch, san hô sinh trong đó. Hàn Chấn Hoa vin vào 3 chữ “ San Hô châu ” để nêu lên đây là đảo Tây Sa [Hoàng Sa] và Nam Sa [Trường Sa] là những đảo tại Nam Hải được cấu tạo bởi san hô. (2) Ðây cũng chứng tỏ sự hàm hồ cố ý, vì trên đại dương có biết bao nhiêu đảo được cấu tạo bởi san hô, nào phải chỉ riêng Trường Sa và Hoàng sa mà thôi! 2. Lý Phương, trong sách THÁI BÌNH NGỰ LÃM [太平御覧], lại trích từ sách NGÔ LỤC [ 吳緑] của Trương Bột đời Tấn, mô tả đồi mồi tại Trướng Hải: 嶺 南 盧 賓 縣 漲 海 中 玳 瑁 似 龜 而 大 (3) Tại Trướng Hải, ở vùng huyện Lô Tân, Lãnh Nam; có đồi mồi lớn như con rùa . Nhạc Sử đời Tống, qua sách THÁI BÌNH HOÀN VŨ KÝ [太平寰宇記], trích dẫn QUẢNG CHÂU KÝ [廣州記] của Bùi Uyên, như sau: 珊 瑚 洲, 在 (東 完) 縣 南 五 百 里 ,昔 有 人于 海 中 捕 魚,得 珊 瑚 (4) Châu San Hô tại phía nam huyện Ðông Hoàn [Quảng Ðông] 500 lý, xưa có người đánh cá trên biển bắt được san hô . Qua các sử liệu nêu trên, Hàn Chấn Hoa đổi phương hướng phía nam thành hướng đông nam, và có lời nhận xét như sau: Châu San Hô tại phía nam huyện Ðông Hoàn (tức phía tây nam)để chỉ quần đảo Ðông Sa (5) ngày nay . (6) Không kể việc đổi phương hướng không có lời giải thích, họ Hàn lại cưỡng ép châu San Hô thành quần đảo Ðông Sa. 3. Lời chú sách NHĨ NHÃ [尔雅] của Quách Phác đời Tấn có đoạn như sau: 螺 大 者 如 斗, 出 日 南 漲 海 中, 可 以 爲 酒 杯 (7). Ốc loa lớn như cái đấu sinh ra từ Trướng Hải quận Nhật Nam, có thể dùng làm chén uống rượu . Bàn về lời chú của Quách Phác, họ Hàn nêu lên rằng: Nhật Nam là quận cực nam của Trung Quốc (8). Quách Phác nói Trướng Hải đất Nhật Nam chỉ rằng từ đảo Hải Nam đến Nhật Nam phải đi qua Trướng Hải, tức vùng biển quần đảo Tây Sa [Hoàng Sa] (9) Nguyên văn không hề đề cập đến Tây Sa, lại một lần nữa họ Hàn đồng hóa Trướng Hải với Tây Sa [Hoàng Sa] một cách vô căn cứ! Chú thích: 1.THÁI BÌNH NGỰ LÃM, quyển 69, mục Ðịa Bộ 34, châu, trang 3. 2.NQNHCÐSLHB, trang 25. 3. NQNHCÐSLHB, trang 26. 4. NQNHCÐSLHB, trang 27. 5. Ðông Sa: Trung Quốc gọi Pratas Island là đảo Ðông Sa, đảo này nằm giửa Ðài Loan, đảo Hải Nam, và Philippines. 6. NQNHCÐSLHB, trang 27. 7. NQNHCÐSLHB, TRANG 27. 8. Dưới thời Bắc thuộc, quận Nhật Nam tức tỉnh Hà Tĩnh, Việt Nam ngày nay. 9. NQNHCÐSLHB, trang 27 C. Ðời Tùy Hàn Chấn Hoa dẫn chứng TÙY THƯ [隨書] như sau: 大 業 三 年 十 月, 常 駿 等 自 南 海 郡 乘 舟,晝 夜 二 旬,每 值 便 風 至 焦 石 山,而 過 東 南,泊 陵 伽 鉢 拨 多 洲,西 與 林 邑 對,上 有 神 祠 焉.(1) Tháng 10 năm Ðại Nghiệp thứ 3 [607] bọn Thường Tuấn từ quận Nam Hải đáp thuyền, qua ngày đêm 2 tuần, gặp gió thuận đến đảo Tiêu Thạch Sơn, rồi qua đông nam ghé đến châu Lăng Già Bát Bạt Ða, phía tây đối diện với nước Lâm Ấp, tại đó có đền thờ thần . Trong phần nhận xét (2) Hàn Chấn Hoa cho rằng địa danh “Tiêu Thạch” và Pracel của Tây phương nghĩa giống nhau, người Tây phương gọi Tây Sa [Hoàng Sa] là Pracel (3), vậy Tiêu Thạch tức Tây Sa. Hai địa danh nghĩa giống nhau như thế nào thì họ Hàn không hề giải thích; nhưng dù hai địa danh giống nhau cả âm lẫn nghĩa, cũng không thể đồng hóa làm một. Chẳng lẽ thấy tên tỉnh Hà Ðông, Trung Quốc, đồng âm và nghĩa với tên tỉnh Hà Ðông Việt Nam, rồi cho hai xứ là một. Lại càng không thể được, khi đem người phụ nữ dữ dằn ghen tuông mà điển tích Trung Quốc gọi là “sư tử Hà Ðông”, để đồng hóa với cô gái Hà Ðông, Việt Nam duyên dáng trong chiếc áo lụa mỏng; khiến một thi nhân lòng tràn đầy cảm hứng qua câu thơ: Nắng Sài Gòn anh đi mà chợt mát, Bởi vì em mặc áo lụa Hà Ðông. Chú thích 1. NHỊ THẬP TỨ SỬ, TÙY THƯ, trang 191. 2. NQNHCÐSLHB, trang 29. 3. Nguyên văn Hàn Chấn Hoa viết Pracel, chứ không phải là Paracel như hiện nay thông dụng. D. Ðời Ðường 1. Hàn Chấn Hoa trích một đoạn văn của Giả Ðam đời Ðường trong sách QUẢNG CHÂU THÔNG HẢI DI ÐẠO [廣州通海夷道] có đề cập đến địa danh Tượng Thạch như sau : 廣 州 東 南 海 行 二 百 里, 至 屯 門 山, 乃帆 風 西 行 二 日, 至 九 州 石, 又 南 二 日 至 象 石, 又 西 南 三 日 行 至 占 不 勞 山, 山 在 環 王 國 東 二百 里 海 中.(1) Từ phía đông nam Quảng Châu hải hành 200 lý đến Ðồn Môn Sơn, lại giương buồm đi tiếp 2 ngày đến Cửu Châu Thạch, lại đi về phía nam 2 ngày đến Tượng Thạch, đi tiếp về phía tây nam 3 ngày đến núi Chiêm Bất Lao, núi tại phía đông nước Hoàn Vương 200 lý . Mặc dầu địa danh Tượng Thạch nêu lên trong sử liệu này đã được học gỉả Phùng Thừa Quân 馮承鈞, một nhà nghiên cứu lịch sử nổi tiếng vào tiền bán thế kỷ thứ 20, cho rằng đó là đảo Ðại Châu, sách xưa gọi là Ðộc Châu lãnh, thuộc huyện Vạn Ninh, tỉnh Hải Nam, và Hoàn Vương quốc là nước Chiêm Thành; nhưng họ Hàn vẫn khẳng định rằng Tượng Thạch là quần đảo Tây Sa [Hoàng Sa] mà không nêu lý do. (2) 2. Hai bộ sách khác của các tác giả dưới thời nhà Thanh là THIÊN HẠ QUẬN QUỐC LỢI BỆNH THƯ [天下郡國利病書] của Cố Viêm Vũ, và ÐỘC SỬ PHƯƠNG DƯ KỶ YẾU [讀史方輿纪要] của Nguyên Tổ Vũ được Hàn Chấn Hoa trích dẫn, nội dung tương tự như sử liệu nêu trên, chỉ nêu thêm rằng... 行 二 日 至 象 石, 若 用 東 風 西 南 行, 七 日 至九 乳 螺 洲 Ði 2 ngày đến Tượng Thạch, nếu theo gió đông đi theo hướng tây nam qua 7 ngày đến Cửu Nhũ Loa Châu. Theo câu văn nêu trên thì từ Tượng Thạch đến Cửu Nhũ Loa Châu phải đi mất 7 ngày đường, nhưng họ Hàn vẫn xác nhận rằng Tượng Thạch tức Cửu Nhũ Loa Châu, và cả hai địa danh đều chỉ quần đảo Tây Sa [Hoàng Sa] ! (3) Chú thích 1. NQNHCÐSLHB, trang 30. 2. NQNHCÐSLHB, trang 30. 3. NQNHCÐSLHB, TRANG 31-32. E. Ðời Tống 1. Mở đầu chương sách này, Hàn Chấn Hoa cho rằng sách CHƯ PHIÊN CHÍ của Triệu Nhữ Quát đời Tống đã đưa Thiên Lý Trường Sa và Vạn Lý Thạch Ðường vào bản đồ Trung Quốc. Nguyên văn CHƯ PHIÊN CHÍ [諸蕃志] mô tả vị trí đảo Hải Nam như sau:... 南 對 占 城, 西 望 真 腊, 東 則 千 里 長沙, 萬 里 石 塘, 渺 茫 無 際, 天水 一 色 Nam đối diện với Chiêm Thành, phía tây nhìn sang Chân Lạp, đông thì Thiên Lý Trường Sa, Vạn Lý Thạch Ðường, xa xôi không bờ, trời nước một màu. Ðây chỉ là câu văn tả cảnh vị trí phương xa của đảo Hải Nam; còn nếu bảo Thiên Lý Trường Sa và Vạn Lý Thạch Ðường nằm trong lãnh thổ Trung Quốc, như vậy cả Chiêm Thành và Chân Lạp được đề cập trong lời trích dẫn, cũng cùng chung số phận nằm trong lãnh thổ Trung Quốc ư? 2. QUỲNH QUẢN CHÍ [瓊 管 志], là một bộ sách vào đời Tống, nay đã thất truyền và không rõ tác gỉả; được Hàn Chấn Hoa nêu lên những sách trích dẫn như DƯ ÐỊA KỶ THẮNG [輿 地 紀 勝] của Vương Tượng Chi đời Tống, QUỲNH ÐÀI CHÍ [瓊台志] của Ðường Trụ, QUẢNG ÐÔNG THÔNG CHÍ [廣 東 通 志] của Kim Quang Tổ đời Thanh, QUỲNH CHÂU PHỦ CHÍ [瓊 州 府 志] của Minh Nghị đời Thanh. Câu văn trích dẫn nói về vị trí phủ Quỳnh Châu, thuộc đảo Hải Nam như sau: 瓊 筦 古 志 云, 外 布 大 海, 接 乌 里 蘇 密 吉 浪 之 州, 南 則 占 城, 西 則 真 腊, 交 趾, 東 則 千 里 長 沙, 萬 里 石 塘, 北 至 雷 州 府 徐 聞 縣 Quỳnh Châu bên ngoài bao bọc bởi biển lớn, tiếp giáp với châu Ô Lý Tô Mật Cát Lãng, phía nam có nước Chiêm Thành, phía tây Chân Lạp, Giao Chỉ; phía đông Thiên Lý Trường Sa, Vạn Lý Thạch Ðường, phía bắc có huyện Từ Văn, phủ Lôi Châu. Câu văn này cũng tương tự như câu trên nhắm chỉ phương hướng xa, được Hàn Chấn Hoa suy diễn ngoài sự thực rằng Vạn Lý Trường Sa và Thiên Lý Thạch Ðường nằm trong cương vực Trung Quốc về đời Tống. (2) 3. Tăng Công Lượng đời Tống trong VŨ KINH TỔNG YẾU [武經總要] kể qua thủy trình của nhà Tống đi xuống Chiêm Thành, họ đi từ núi Ðồn Môn thuộc tỉnh Quảng Ðông, chờ gió đông hải trình theo hướng tây và Nam, qua 7 ngày đến Cửu Nhũ Loa Châu, rồi đi tiếp 3 ngày đến núi Bất Lao thuộc Chiêm Thành. (3) Thủy trình này tương tự như Chu Khứ Phi đời Tống, kể lại trong LÃNH NGOẠI ÐẠI ÐÁP [嶺 外 代 答] rằng thuyển đến các nước Phiên phương nam đều đi theo hướng tây đến biển Giao Chỉ, rồi tiếp tục đi xuống phía nam: Ba dòng nước xoáy Bốn quận phía tây nam đảo Hải Nam có biển lớn gọi là Giao Chỉ dương. Tại biển có 3 dòng nước xoáy, nước phun lên chia thành 3 dòng; dòng thứ nhất chảy về phía nam dẫn đến biển thuộc các nước Phiên; dòng thứ 2 chảy lên phía bắc qua vùng biển Quảng Ðông, Phúc Kiến, Chiết Giang; dòng thứ 3 chảy vào nơi mù mịt không bờ gọi là Ðông Ðại Dương. Tàu thuyền đi về hướng nam phải qua ba dòng nước xoáy, nếu gặp một chút xíu gió thì vượt được, nếu vào chỗ hiểm đó mà không có gió thuyền không ra được, ắt phải vỡ chìm trong ba dòng nước xoáy. Nghe truyền rằng biển lớn phía đông có Trường Sa Thạch Ðường rộng vạn dặm, nước thủy triều thi triển đẩy vào chốn cửu u. Trước kia đã có thuyền bị bão phía tây thổi, trôi dạt đến biển lớn phía đông này, nghe tiếng ba đào chấn nộ hung hãn, trong khoảng khắc gặp gió lớn thuận chiều nên may thoát được. Qua các sử liệu đã dẫn, chứng tỏ thuyển Trung Quốc xuống phương nam thường đi theo ven biển Việt Nam, họ không dám ra đến Trường Sa Thạch Ðường hay quần đảo Tây Sa như họ Hàn đã quả quyết. (4) 4. TỐNG SỬ [宋史] chép việc quân Mông cổ truy kích vua Tống Ðoan Tông vào năm Chí Nguyên thứ 14 [1277] như sau: Ngày Bính Tý tháng 12, Chính [Ðoan Tông] đến Tỉnh Áo, gặp bão hư thuyền, một số bộ hạ bị chết trôi, nên nhiễm bệnh. Hơn tuần sau quân lính từ từ đến tụ tập, 10 phần chết còn 5, 4. Ngày Ðinh Sửu Lưu Thâm truy kích Chính đến Thất Châu Dương, bắt được Du Như Khuê rồi rút lui . (5) Hàn Chấn Hoa vin vào sử liệu này để khẳng định rằng Thất Châu Dương tức quần đảo Tây Sa; luận điệu này đã được nhà biên khảo Trung Quốc Ðàm Kỳ Tương phản đối trong bài THẤT CHÂU DƯƠNG KHẢO [七洲洋考] (6). Ngoài ra sách ÐÔNG TÂY DƯƠNG KHẢO [東西洋考] của Trương Tiếp đời Minh xác nhận rằng: Theo QUỲNH CHÂU CHÍ [瓊州志] 七 州 洋, 瓊 州 志 曰 在 文 昌 東 一 百 里. (7) Thất Châu Dương tại phía đông huyện Văn Xương 100 lý Trên bản đồ Google nếu phóng to thì địa danh Văn Xương [Wenchang] thuộc tỉnh Hải Nam xuất hiện, từ đó đến quần đảo Paracel [Trung Quốc gọi Tây Sa] khoảng 400 km tức gần 700 lý xưa; như vậy tính cả phương hướng và khoảng cách Thất Châu Dương cách Tây Sa [Hoàng Sa ] rất xa! Chú thích 1. NQNHCÐSLHB,trang 32. 2. NQNHCÐSLHB, trang 33-36. 3. NQNHCÐSLHB, trang 37. 4. NQNHCÐSLHB, trang 38. 5. NQNHCÐSLHB, trang 39-40. 6. Xem NAM HẢI CHƯ ÐẢO SỬ ÐỊA KHẢO CHỨNG LUẬN TẬP: Bắc Kinh, Trung Hoa thư cục,1981, trang 1-6.. 7. Trương Tiếp, ÐÔNG TÂY DƯƠNG KHẢO, quyển 9. F. Ðời Nguyên 1. Hàn Chấn Hoa trưng sử liệu trong QUỲNH HẢI PHƯƠNG DƯ CHÍ [瓊海方輿志] của Thái Vi đời Nguyên như sau: [Quỳnh Châu] phía ngoài bao bọc bởi biển lớn, tiếp với châu Ô Lý Tô Mật Cát Lãng; phương nam thì Chiêm Thành, tây là Chân Lạp, Giao Chỉ; đông thì Trường Sa Vạn Lý Thạch Ðường; đông bắc phía xa thì Quảng Ðông, Mân [Phúc Kiến], Chiết [Chiết Giang]; gần thì có Khâm [Khâm Châu], Liêm [Liêm châu], Cao [Cao Châu], Hóa [Hóa Châu]. Ði biển 4 ngày tới Quảng Châu, 9 ngày đêm đến Phúc Kiến, 15 ngày đến Chiết Giang. Sử liệu này cũng như lời trích dẫn trong mục số 1, đời Tống, qua CHƯ PHIÊN CHÍ của Triệu Nhữ Quát; đây chỉ nói Trường Sa Vạn Lý Thạch Ðường cách phủ Quỳnh Châu đằng xa, ở ngoài vòng biển bao bọc; nhưng họ Hàn bảo rằng quần đảo được liệt nhập vào đảo Hải Nam quản hạt, quả là điều vô lý! (1) 2. Ðời Nguyên cuối năm Chí Nguyên thứ 29 [1293] Sử Bật được lệnh mang quân đến nước Trảo Oa [Java], khởi trình từ Tuyền Châu Phúc Kiến đến Thất Châu dương gặp gíó bão, thuyền chao đảo, quân lính mấy ngày không ăn, gió thổi lạc đến Vạn Lý Thạch Ðường cuối cùng men được vào duyên hải Giao Chỉ, Chiêm Thành, để tiếp tục hành trình. Nội dung được chép trong 2 bộ: NGUYÊN SỬ [元史] của Tống Liêm, và TÂN NGUYÊN SỬ [新元史] của Kha Thiệu Văn (2) như sau: 二 十 九 年,拜 榮 祿 大 夫、福 建 等 處 行 中 書 省 平 章 政 事,往 徵 爪 哇,以 亦 黑 迷 失、高 興 副 之,付 金 符 百 五 十、幣 帛 各 二 百,以 待 有 功。十 二 月,弼 以 五 千 人 合 諸 軍,發 泉 州。風 急 濤 涌,舟 掀 簸,士 卒 皆 數 日 不 能 食。過 七 洲 洋、萬 里 石 塘,歷 交 趾、占 城 界 Năm Chí Nguyên thứ 29, được ban chức Vinh Lộc Ðại phu, giữ chức Trung thư tỉnh Bình chương chính sự các xứ Phúc Kiến, được lệnh mang quân đến Trảo Oa; có Hắc Mễ Thất,Cao Hưng giữ chức Phó. Mang 150 chiếc kim phù; vải lụa, bạch (3) mỗi thứ 200 tấm để thưởng cho người có công. Tháng 2, Bật mang 5000 quân hợp với các quân khác, xuất phát từ châu Tuyền [Phúc Kiến].Gặp gió bão, ba đào nổi lên, thuyền xốc ngược lên, quân lính mấy ngày không ăn được, qua Thất Châu Dương, Vạn Lý Thạch Ðường, đến Giao Chỉ, biên giới Chiêm Thành. Ðây là chuyến đi lạc hướng vì sóng gió, còn hành trình thường lệ được Trương Tiếp mô tả trong ÐÔNG TÂY DƯƠNG KHẢO [xem Ðời Minh, mục số 5] là từ Thất Châu Dương, đến biển Giao Chỉ theo hướng Nam, qua bờ biển Chiêm Thành, đảo Côn Lôn, rồi hành trình tiếp đến Trảo Oa [Java]. 2. Hàn Chấn Hóa trích sử liệu trong ÐẢO DI CHÍ LƯỢC [島夷志畧] của Uông Ðại Uyên nói về Côn Ðảo như sau: Xưa núi Côn Lôn có tên là Quân Ðồn sơn, núi cao mà vuông,đáy trải dài đến mấy trăm lý, nghiễm nhiên trên biển cả, cùng các nước Chiêm Thành, Tây Trúc hướng đến, dưới có biển Côn Lôn, nên lấy đó làm tên. Thuyền buôn các nước đi Tây Dương, thuận gió 7 ngày đêm có thể đến đó; ngạn ngữ có câu:“Thượng hữu Thất Châu, hạ hữu Côn Lôn” [ý chỉ phía trên có Thất Châu Dương đáng sợ, phía dưới có Côn Lôn]. Nguyên văn mô tả Côn Lôn có núi cao, gần Chiêm Thành, đúng là Côn Ðảo nước ta ngày nay. Nhưng họ Hàn cho Côn Lôn là Nam Sa [Trường Sa], nơi đó không hề có núi cao, và biển Côn Lôn thành biển Nam Sa; dụng ý muốn chứng tỏ rằng thuyền bè Trung Quốc xưa có đi qua Nam Sa! (4). Ðiều vô lý này đã bị nhiều thư tịch Trung Quốc phủ nhận: (a) Ðời Nguyên Chu Ðạt Quan, trong CHÂN LẠP PHONG THỔ KÝ [眞腊風土記], dùng kim chỉ nam với 48 hướng, mô tả hải trình đến nước Chân Lạp [Cam Pu Chia] cho biết biển Côn Lôn gần nước Chân Lạp; sử liệu này cũng được họ Hàn trích trong NQNHCÐSLHB (5) như sau: Khởi hành từ Ôn Châu [thuộc tỉnh Chiết Giang] theo hướng Ðinh Mùi [202.5 độ] qua các hải cảng tại Mân [Phúc Kiến], Quảng [Quảng Ðông], biển Thất Châu [phía đông đảo Hải Nam], biển Giao Chỉ, rồi đến Chiêm Thành. Lại từ Chiêm Thành theo chiều gió khoảng nửa tháng đến Chân Lạp. Từ Chân Lạp theo hướng Khôn Thân [232.5 độ] qua biển Côn Lôn, rồi vào cảng. (ĐÔNG TÂY DƯƠNG KHẢO [東西洋考] của Trương Tiếp đời Minh cung cấp phương hướng từ đảo Côn Lôn đến Xích Khảm Sơn [Phan Rang], và nước Bành Hanh [Pahang] như sau: Từ Xích Khảm Sơn [Phan Rang] theo hướng đơn Mùi [210 độ], thời gian 15 canh đến núi Côn Lôn. Lại từ núi Côn Lôn theo hướng Khôn Mùi [217.5 độ] thời gian 30 canh đến Ðấu Dự, lại theo hướng Ðinh Ngọ [187.5 độ] đến nước Bành Hanh [tức Pahang thuộc Mã Lai]. (6) Xét đoạn văn trích dẫn trên, trung bình thuyền bè thời xưa 1 canh đi được 60 lý, 1 doanh tạo lý tương đương 0.58 km; vậy từ đảo Côn Lôn đến Phan Rang là 522 km, đến Pahang là 1044 km. Với những con số nêu trên, nếu kiểm chứng qua bản đồ hiện nay thì có thể chấp nhận được; còn nếu bảo Côn Lôn là đảo Nam Sa [Trường Sa] thì khoảng cách còn tăng lên gấp bội! Ngoài ra xin lưu ý tên sách là ÐẢO DI CHÍ LƯỢC, ý tác giả muốn nhấn mạnh đảo của nước Di (ý chỉ các nước Ðông Nam Á hiện nay) chứ không phải là của Trung Quốc. 3. Thế nhưng trong TỐNG HỘI YẾU [宋㑹要] có nêu địa danh biển Côn Lôn, bàn về sử liệu này Hàn Chấn Hoa lại cho rằng biển Côn Lôn bao quát vùng biển tại đảo Côn Lôn thuộc miền Nam Việt Nam. Có lẽ vì sử liệu dưới đây đề cập đến vùng đất giáp Chân Lạp, Chiêm Thành, nên họ Hàn đành phải thuận theo sự thực, không thể luận bàn khác được: Ngày 20 tháng 7 năm Gia Ðịnh thứ 9 [1216], người nước Chân Lý Phú (7) muốn đến Trung Quốc. Từ nước này ra biển 5 ngày tới Ba Tư Lan, thứ đến biển Côn Lôn, qua nước Chân Lạp, vài ngày đến nước Tân Ðạt Gia (8), vài ngày sau đến biên giới Chiêm Thành, qua biển khoảng 10 ngày. Phía đông nam là Thạch Ðường, có tên Vạn Lý; biển chỗ này hoặc sâu hoặc cạn, nước chảy gấp nhiều đá, thuyền bị lật chìm đến 7, 8 phần 10, không thấy bờ núi. Rồi đến Giao Chỉ, 5 ngày sau đến châu Khâm, Châu Liêm. (Nguyên chú: gọi là gió thuận toàn tại mùa hè, lúc gió Nam thổi. Khi trở về nước đợi gió Bấc mùa đông; nếu không theo như vậy không thể đến nơi được. (9) Cũng như với trường hợp Thất Châu dương, địa đanh Côn Lôn họ Hàn chia thành 2 vị trí, thứ nhất gần bờ biển miền nam Việt Nam, thứ 2 tại quần đảo Nam Sa; lập luận gỉả thực lẫn lộn, cố dẫn giải theo ý tác giả muốn! Chú thích: 1. NQNHCÐSLHB, trang 44. 2. NQNHCÐSLHB, trang 45. 3 Bạch: một loại hàng dệt bằng tơ trần. 4. NQNHCÐSLHB, trang48. 5. NQNHCÐSLHB, trang 49. 6. ÐÔNG TÂY DƯƠNG KHẢO, quyển 9. 7. Chân Lý Phú: một nước tại phía nam Chân Lạp. 8. Tân Ðạt Gia: một nước xưa, giửa Chiêm Thành và Chân Lạp. 9. NQNHCÐSLHB,trang 43. G. Ðời Minh 1. QUỲNH ÐÀI NGOẠI KỶ [瓊台外紀] của Vương Tá đời Minh chép: Phía đông châu Vạn [Hải Nam] có Trường Sa, Thạch Ðường. Xung quanh châu bao bọc bởi biển, mỗi khi gặp phong ba thủy triều,nước ngập cả nhà ruộng, sự lợi hại người dân gánh chịu. Hàn Chấn Hoa cho rằng Trường Sa chỉ quần đảo Nam Sa [spratly], điều này vô lý vì hai đảo ở hai phương hướng khác nhau, cách nhau trên 1000 km; còn trong cổ sử thường chỉ vị trí hai đảo Trường Sa, Thạch Ðường cùng ở hướng đông châu Vạn tại đảo Hải Nam, và được nêu lên liền với nhau. Lại bảo Trường Sa Thạch Ðường là bộ phận của châu Vạn (1) thì lại càng vô lý, sách KHÂM ÐỊNH ÐẠI THANH NHẤT THỐNG CHÍ [欽定大清一統志] đời Càn Long, xác nhận vị trí châu Vạn bề ngang từ đông sang tây 205 lý [118 km], nam chí bắc 120 lý [69 km], với giới hạn như vậy làm sao chứa được Trường Sa Thạch Ðường vị trí ở nơi xa xôi. KHÂM ÐỊNH ÐẠI THANH NHẤT THỐNG CHÍ [欽 定 大 清 一 統 志] chép như sau: Châu Vạn tại phía đông nam phủ Quỳnh Châu 400 lý, từ đông sang tây 205 lý, nam chí bắc 120 lý; phía đông từ châu lỵ đến biển 25 lý, phía tây cách núi Lê 180 lý, phía nam đến bờ biển 25 lý,phía bắc đến huyện Lạc Hội 95 lý. Phía đông nam giáp biển 30 lý, tây nam giáp huyện Lăng Thủy 100 lý, đông bắc đến biển 70 lý, tây bắc đến núi Lê 160 lý. (2) 2. Sách HẢI NGỮ [海語] của Hoàng Trung đời Minh chép về hai dòng nước chia ra, gọi là “ phân thủy” tại biển La Hải Chiêm Thành, phía bắc Cựu Cảng [cảng Qui Nhơn] như sau: Phân thủy tại biển La Hải, phía ngoài Chiêm Thành; nơi này đảo cát ẩn hiện giới hạn như cửa, rộng liên miên không biết mấy trăm lý, sóng tung lên trời không giống với biển khác. Từ núi Mã Yên xuống đến Cựu Cảng dòng nước chảy về phía đông là thủy đạo đến các nước Phiên, chảy về phía tây đến Châu Nhai, Ðam Nhĩ [đảo Hải Nam]; trời đất đặt chổ hiểm để phân biệt Hoa Di vậy.(3) Ðoạn văn trích dẫn chỉ nhắm tả địa lý thiên nhiên của một vùng, nhưng họ Hàn lại cho rằng biển Ngoại La, tức vùng biển xung quanh đảo Lý Sơn tỉnh Quảng Ngãi nước ta là phân ranh giới tuyến giữa Trung Quốc và các nước Di, như vậy quá nửa miền Trung và cả miền bắc Việt Nam nằm trong lãnh thổ Trung Quốc ư? Ðiều vô lý này không chấp nhận được. 3. Sách VẠN CHÂU CHÍ [萬 州 志]của Hồ Ðoan Thư đời Minh, và KHANG HY QUỲNH CHÂU PHỦ CHÍ [康 熙 瓊 州 府 志] do Chu Thiên Túc, Chu Tử Hư đời Thanh soạn, chép việc triều đình Trung Quốc cho quân hộ tống Sứ giả các nước phương Nam từ phủ Quỳnh Châu đến kinh đô, cùng việc dưới thời Tuyên Ðức [1429] nhà Minh cho Hoạn quan Du Ðoan Ðiều mang quân đi công cán tại các nước như Chiêm Thành: Năm Tuyên Ðức thứ 4[1429]sai Tả Nội quan Du Ðoan Ðiều cùng vệ Thiên hộ Hạng Quí mang tinh binh đến các nước như Tiêm La công cán. Các Sứ giả ngoại quốc như Tiêm La, Chiêm Thành, Mãn Thứ Gia đi cống đến phủ Quỳnh Châu đều sai Chỉ huy Thiên hộ đưa đến kinh đô. (4) Hàn Chấn Hoa giải thích sử liệu này là mang quân đến các nước để hộ tống Cống sứ đến kinh đô là không đúng sự thực, nguyên văn cho biết chỉ hộ tống Cống sứ từ phủ Quỳnh Châu đến kinh đô mà thôi; và việc nhà Minh mang quân tuần tiễu các đảo tại Nam Hải cũng là điều tưởng tượng. 4. Phí Tín, tác gỉả TINH TRA THẮNG LÃM [星 槎 勝 覽] (5), người cùng Hoạn quan Trịnh Hòa viếng thăm các nước Ðông Nam Á xưa, mà sử gọi là “Trịnh Hòa hạ Tây Dương”, mô tả Côn Ðảo nước ta, nội dung cũng tương tự như sử liệu trong ÐẢO DI CHÍ LƯỢC được Hàn Chấn Hóa ghi tại mục 3, đời Nguyên. Trong phần nhận xét, họ Hàn vẫn cho Côn Lôn là quần đảo Trường Sa, sự sai lầm đã được chứng minh ở trên, tưởng không cần nhắc lại. 5. Hàn Chấn Hoa trưng sử liệu về việc Ngô Huệ đi sứ Chiêm Thành vào đời Minh Anh Tông năm Chính Thống thứ 6 [1441] qua nhiều thư tịch như HẢI QUỐC QUẢNG KÝ [海 國 廣 記]của Thận Mậu Thưởng, THỦ KHÊ TRƯỜNG NGỮ [守 溪 長 語]của Vương Ngao, CHẤN TRẠCH KỶ VĂN [振 澤 紀 聞]của Vương Ngao, THÙ VỨC CHU TƯ LỤC [殊 域 周 咨 綠] của Nghiêm Tòng Giản, QUẢNG ÐÔNG THÔNG CHÍ [廣 東 通 志] của Hoàng Tá. Sau đây là sử liệu trong THÙ VỨC CHU TƯ LỤC [殊 域 周 咨 綠]: Vào năm Chính Thống thứ 6 [1441] Quốc vương Chiêm Thành mất, người con nối dõi là Ma Ha Quí Do xin phong tước và ban chiếu sắc. Bèn sai Cấp sự trung họ Dư (khuyết tên) làm Chánh sứ, cùng Hành nhân Ngô Huệ đi sứ. Ngày 23 tháng 12 năm đó khởi hành từ huyện Ðông Hoàn [Quảng Ðông], ngày hôm sau đến Ô Trư Dương [cửa sông Châu Giang gần Quảng Châu], lại ngày hôm sau đến Thất Châu Dương [phía đông châu Văn Xương 100 lý], xa thấy núi Ðồng Cổ [thuộc huyện Văn Xương Hải Nam], ngày hôm sau đến Ðộc Trư Sơn [thuộc châu Vạn, Hải Nam] nhìn thấy núi Ðại Châu Sơn, ngày hôm sau đến địa giới Giao Chỉ, có một bãi lớn (cự châu) chắn ngang biển, đá nhọn, nếu thuyền va vào đó có thể bị phá nát. Người trong thuyền rất sợ, trong phút chốc gió mạnh vượt qua được, ngày hôm sau đến biển Ngoại La Dương thuộc Chiêm Thành.(6) Qua sử liệu này, Hàn Chấn Hoa xác nhận Thất Châu Dương chỉ các đảo Thất Châu tại phía đông huyện Văn Xương (7). Như vậy trước mắt họ Hàn có 2 Thất Châu Dương, một Thất Châu Dương khác, tại mục số 4 đời Tống đã nêu ở trên, thì họ Hàn cho là Tây Sa [Hoàng Sa]. Lối lập luận “nói lấy được”, khiến người đọc phải đánh giá đức tính cẩn trọng nghiêm túc của nhà biên khảo này. Còn chỗ được gọi là bãi lớn (cự châu) thì họ Hàn cũng cho là Tây Sa (Hoàng Sa) mà không nêu bằng chứng, như vậy chẳng lẽ Tây Sa sát với vùng duyên hải Giao Chỉ sao? Thật ra tuyến hàng hải dưới thời nhà Minh, từ Trung Quốc đến các nước Ðông Nam Á được các thư tịch mô tả khá rõ ràng và chính xác, đó là nhờ sự cải tiến của kim chỉ nam. Tuy rằng kim chỉ nam [chỉ nam châm 指 南 針] được sáng chế trước thời nhà Tần, nhưng mãi cho đến đời Tống dụng cụ này còn khá đơn giản, chỉ có hai hướng nam bắc mà thôi. Bắt đầu từ đời Nguyên, kim chỉ nam được phân định 48 hướng; nhờ vậy sử dụng vào việc hàng hải đáng tin cậy hơn. Kim chỉ nam thời nay dùng 360 độ, trước kia có 48 hướng, như vậy vào thời ấy khoảng cách giửa 2 hướng kế tiếp là 7.5 độ [360:48=7.5] Vào gần cuối triều Minh, một bộ sách nổi tiếng về hàng hải ra đời vào năm Vạn Lịch thứ 45 [1617], được đưa vào TỨ KHỐ TOÀN THƯ. Sách mamg tên ÐÔNG TÂY DƯƠNG KHẢO [東 西 洋 考], tác gỉả là Trương Tiếp, Zhang Xie (張 燮). Ông người đất Long Khê, đậu Cử Nhân năm Vạn Lịch thứ 23 [1595]. Ðể hoàn thành tác phẩm, tác giả đã tham khảo hàng trăm bộ sách nổi tiếng, cùng nhiều loại HẢI ÐẠO CHÂM KINH [海 道 針經]tức tài liệu dẫn đạo hàng hải; bao quát chi tiết về chỉ nam châm, thiên văn, và thủy văn các chuyến hải trình. Phần lớn tư liệu trong bộ sách này thiên về thực dụng, cung cấp các tài liệu cho các thuyền Trung Quốc dưới thời nhà Minh đến các nước vùng đông nam Á. Trương Tiếp cho biết trên mỗi thuyền phải có một châu sư, tức là hoa tiêu [navigator], căn cứ vào tài liệu có sẵn, hướng dẫn thuyền đi đúng hải trình. Tài liệu cung cấp 3 yếu tố căn bản, buộc các châu sư phải lưu ý: Phương hướng: trên thuyền có kim chỉ nam, lẽ dĩ nhiên không dùng độ như ngày nay, nhưng nếu chịu khó tìm hiểu cũng có thể đổi [decode] ra được; ví như hướng đơn Hợi=330 độ; hướng Nhâm Tý=352.5 độ. Khoảng cách: không tính bằng dặm, mà tính bằng canh; một ngày một đêm có 10 canh. Mỗi canh nếu gặp gió trung bình, được ước tính là 60 lý [34 km]. Ðộ sâu: không tính bằng thước mà tính bằng sải tay. Ðây cũng thiên về thực dụng, lúc thủy thủ dòng dây từ thuyền xuống đáy biển, khi kéo dây lên dùng sải tay đo đếm dễ dàng, mỗi sải tay khoảng 1.6 m. Giống như hải trình của Trịnh Hòa đến các nước Ðông Nam Á; trong quyển 9, ÐÔNG TÂY DƯƠNG KHẢO [東 西洋 考], Trương Tiếp cho biết các thuyền buôn Trung Quốc đi qua Thất Dương Châu (七 洋 洲)cũng đi qua biển Giao Chỉ. Thuyền được mô tả: rộng 3 trượng 5 hoặc 6 xích (8), dài hơn 10 trượng; thuyền nhỏ rộng 2 trượng, dài khoảng 7, 8 trượng. Trên thuyền trang bị vũ khí cung, tên, đao, thuẩn đầy đủ, gặp giặc đến mọi người cương quyết tự vệ; thuyền chắc như trường thành, không dễ gì bị hủy hoại. Khi tạo thuyền tổn phí hơn ngàn lượng vàng, hàng năm tu bổ không dưới 500 lượng; ngoài số tiền chủ thuyền bỏ ra, các con buôn đóng góp vào như kiến tha vào tổ; kinh phí lớn gấp 3 thuyền chiến, nên ắt phải chắc chắn hơn. Trương Tiếp cung cấp tư liệu về hải hành từ tỉnh Quảng Ðông đến Chiêm Thành và các nước phía nam như Tiêm La, Bành Hanh và Bột Nê; tương tự như chuyến đi Chiêm Thành của Ngô Huệ đã nêu trên, nhưng chi tiết hơn: Bản đồ 1: Hàng hải từ Trung quốc đến các nước Ðông Nam Á § Ô Trư sơn: [tại cửa sông Châu Giang tỉnh Quảng Ðông] Trên có miếu Ðô Công, khi thuyền qua biển này, mang lễ vật cúng lạy từ đằng xa, xin thần phối hưởng, dùng thuyền giấy rực rỡ tống tiễn thần. Từ biển này theo dòng nước 10 sải tay, hướng đơn Thân [240 độ], đi 13 canh đến Thất Châu Dương. § Núi Thất Châu, Thất Châu dương:QUỲNH CHÂU CHÍ [瓊州志] chép Thất Châu Dương tại phía đông huyện Văn Xương 100 lý; trên biển có 7 ngọn núi nhô lên liên tiếp, trong có nước suối ngọt có thể uống được. Thời nhà Nguyên, Lưu Thâm truy kích Tống Trang Tông, bắt thân thuộc là Lưu Ðình Khuê tại nơi này. Tục truyền thời xưa có 7 châu chìm xuống dưới biển; thuyền đến mang súc sinh và cháo cúng thần, không tuân sẽ biến thành ma đói. Thuyền đi qua rất nguy hiểm, lệch sang hướng đông phạm vào Vạn Lý Thạch Ðường; nơi mà QUỲNH CHÍ [瓊志] chép là phía đông châu Vạn có biển Thạch Ðường, thuyền đến đó ít có chiếc nào thoát hiểm. Từ châu Thất Dương theo hướng Khôn Mùi [217.5 độ], thời gian 3 canh đến Ðồng Cổ Sơn. § Ðồng Cổ sơn: QUẢNG ÐÔNG THÔNG CHÍ [廣東通志]chép núi tại phía đông bắc huyện Văn Xương. Dân Liêu đúc đồng thành trống lớn, treo trước đình; gặp giặc thù đến thì đánh trống báo động, mọi người đến đông đúc. Sau đó vùi vào núi này, dân địa phương đào lấy được nên có tên như vậy; QUỲNH CHÂU CHÍ nói biển Ðồng Cổ thực thâm hiểm. Theo hướng Khôn Mùi [217.5 độ], thuyền đi 4 canh đến Ðộc Châu Sơn. § Ðộc Châu sơn: tên tục là Ðộc Trư sơn; QUỲNH CHÂU CHÍ chép Ðộc Châu sơn [獨州山] còn có tên là Ðộc Châu sơn [獨珠山], tại phía đông nam châu Vạn. Ðỉnh núi cao trên biển, chu vi 5,6 chục lý; các nước phương Nam đến cống, thủy trình lấy núi này làm chuẩn, biển này gọi là Ðộc Châu dương; người đi thuyền nói trên núi có miếu Linh Bá, khách vãng lai thường tế hiến. Theo dòng nước 65 sải tay, hướng Khôn Mùi [217.5 độ], thời gian 10 canh đến biển Giao Chỉ. Bản đồ 2: Hàng hải từ Trung quốc đến các nước Ðông Nam Á § Từ biển Giao Chỉ theo hướng Khôn Mùi [217.5 độ], thời gian 11 canh [ 1 canh= 2giờ 24 phút] đến núi Ngoại La. Núi này trông xa như một cửa thành, đến gần thấy phía đông cao, phía tây thấp, có hồ Liễu Tử, phía tây có hòn Cổ Lão. Căn cứ vào khoảng cách, phương hướng và sự mô tả; núi Ngoại La có thể là cù lao Ré, tức huyện đảo Lý Sơn, vì tại đây có hòn lớn và hòn bé, ngoài biển từ xa nhìn vào như hai cột của cửa thành. Ngoài ra sách VIỆT SỬ CƯƠNG GIÁM KHẢO LƯỢC [越 史 綱 鍳 考 畧] của Nguyễn Thông chép về đảo Lý Sơn có câu 理 山 島 又 名 外 岣 嶗 俗 稱 外 嶗 Ðảo Lý Sơn lại có tên là Ngoại Cù Lao, dân thường gọi là Ngoại Lao; phải chăng người Trung Quốc đọc chệch hai chữ “Ngoại Lao” thành “Ngoại La”? Từ Ngoại La Sơn thuyền men theo phía tây, theo luồng nước sâu 45 sải tay, hướng Bính Ngọ [172.5 độ], thời gian 3 canh đến cầu Mã Lăng, trong đó là Ðề Di, một huyện của Giao Chỉ. Sách ÐẠI NAM NHẤT THỐNG CHÍ [大南一統志] (10), của nước ta chép: Tấn Ðề Di ở phía đông bắc huyện Phù Cát [bình Ðịnh], rộng 11 trượng, thủy triều lên sâu 6 thước, thủy triều xuống sâu 4 thước, phía tây có đầm nước ngọt, thuyền buôn thường đỗ tại đây, thủ sở tại địa phận thôn An Quang…. Nơi đây thuộc lãnh thổ Việt Nam, nên cũng cần biết qua cách thức giao dịch giửa chủ thuyền buôn Trung Quốc cùng quan lại và dân chúng nước ta; sự việc được chép trong mục Giao dịch, quyển 1 Giao Chỉ, ÐÔNG TÂY DƯƠNG KHẢO [東 西 洋 考]: “ Khi thuyền buôn ghé, mang lụa đến trình báo Tù trưởng. Sau đó viên chủ thuyền đến gặp Tù Trưởng, hành lễ 4 vái; dâng lễ cống phương vật, số lượng đã thành qui định. Tù trưởng đãi ăn và cấp cho bài gỗ, treo bài tại nhà lồng chợ để dân tự do mua bán. Viên Tù trưởng lên xe đi, giao cho viên quan lo việc mậu dịch trông coi. Tù trưởng tại Quảng Nam có thể ra hiệu lệnh cho các Tù trưởng địa phương tại Liệt Can, Ðông Kinh, Ðề Di, Tân Châu. Phàm thuyền buôn ghé tại Tân Châu, Ðề Di phải đi mấy ngày đến Quảng Nam nhập cống; viên Tù trưởng Quảng Nam cấp bài gỗ giao cho. Dân thấy bài gỗ thì kính cẩn, không dám to tiếng. Tại Thuận Hóa có nhiều phụ nữ đến mua bán, phụ nữ để tóc trần gió bay phất phơ, đưa trầu cau mời ăn để tỏ vẻ ân cần. Riêng sĩ nhân yêu thích sách, đem nhiều tiền để mua. Mở TỐNG SỬ [宋史] ra xem cũng chép rằng cống sứ An Nam đến kinh đô, xin được mua sách; quan phụ trách bảo rằng pháp luật không cho. Chiếu vua khen là biết mộ điều phải, chấp nhận; chứng tỏ rằng người nước đó thích sách không phải chỉ có một lần !” Từ cầu Mã Lăng tại Ðề Di theo luồng nước sâu 25 sải tay, bờ phía nam có đá ngầm, khi ra khỏi theo hướng Bính Ngọ [172.5 độ], thời gian 4 canh đến bán đảo Giao Bôi, tức cảng Tân Châu. Tại đây hình thế 2 bán đào như 2 chén giao nhau, nên có tên là Giao Bôi. Từ phía trong cảng Tân Châu theo dòng nước sâu 18 sải tay, nhắm hướng Bính Ngọ [172.5độ], thời gian 3 canh đến Bán Dự. Tại Bán Dự có tháp bằng đá, có thể ghé thuyền. Phía trong theo luồng nước sâu 8,9 sải tay, ngoài sâu 20 sải, phía nam có đá ngầm không thể đến gần, theo hướng Bính Ngọ [172.5 độ], thời gian 3 canh đến Yên Ðổng. Ðây là nơi phân giới giữa Giao Chỉ và Chiêm Thành, nhìn lên thấy mây như ống khói nên đặt tên như vậy; tuy trời tạnh nhìn lên núi vẫn thấy khí mây bao phủ. Bản đồ 3: Hàng hải từ Trung quốc đến các nước Ðông Nam Á: Ðịa danh Tân Châu, được xác định trong MINH THỰC LỤC [明實錄] khi tường thuật việc phái đoàn nhà Minh cầm đầu bởi Cấp sự trung Trần Tuấn đi sứ Chiêm Thành để phong Vương cho Bàn La Trà Duyệt, theo thông lệ ghé đến cảng Tân Châu [gần thành Chà Bàn, Qui Nhơn ], thì được biết vùng này đã bị An Nam chiếm. Bèn đi thuyền tiếp đến Linh Sơn thì được tin cả nhà Bàn La Trà Duyệt bị An Nam bắt. Vì trên thuyền chở nhiều hàng hóa nên phải hành trình tiếp đến Mãn Thứ Gia [thuộc vùng đất Mã Lai hiện nay] để bán hàng, rồi mới trở về Trung Quốc. Minh Thực Lục viết: Ngày 14 tháng 12 năm Thành Hóa thứ 10 [ 21/1/1475 ] Công khoa Cấp sự trung Trần Tuấn đi sứ Chiêm Thành không vào được, bèn nạp trở lại những thứ đã mang đi như chiếu sắc, ấn mạ vàng bạc, các vật như lụa, đoạn. Bọn Tuấn đi sứ Chiêm Thành để phong cho Quốc vương Bàn La Trà Duyệt, khi hàng hải đến cảng Tân Châu, Chiêm Thành; quân phòng thủ từ chối không cho vào, người Thông dịch cho biết đất này đã bị An Nam chiếm, còn Quốc vương Chiêm Thành tỵ nạn tại Linh Sơn. Khi đến Linh Sơn thì được biết cả nhà Bàn La Trà Duyệt bị An Nam bắt và đất Chiêm Thành bị đổi tên thành châu Giao Nam. Bọn Tuấn không dám ghé vào; nhưng thuyền chở hàng hóa tư, cùng nhiều thương nhân, nên giả lấy cớ bị gió bão rồi hàng hải tiếp đến Mãn Thứ Gia buôn bán, lại dụ Vương nước này sai sứ đến triều cống. Đến nay trở về tâu đầy đủ việc An Nam chiếm cứ Chiêm Thành, cùng việc Quốc vương Mãn Thứ Gia cung cấp thức ăn và các nhu yếu phẩm khác, đối đãi lễ nghi rất đầy đủ….. ( MINH THỰC LỤC v. 45, t. 2553-2554; Hiến Tông quyển 136, trang 6a-6b.) Tuy hai địa danh Bán Dự và Yên Ðổng mà ÐÔNG TÂY DƯƠNG KHẢO nói đến ở trên không ghi trong ÐẠI NAM NHẤT THỐNG CHÍ [大 南 一 統 志], nhưng căn cứ thời gian hàng hải có thể đoán rằng Bán Dự tức bán đảo Hòa Lợi thuộc huyện Sông Cầu, Phú Yên của Việt Nam; ngoài ra chữ “bán dự” cũng có nghĩa là bán đảo. Riêng Yên Ðổng có thể là vịnh Xuân Ðài, giáp giới huyện Tuy An, Phú Yên; nơi này gần núi cao, mây bao phủ nên gọi là Yên Ðổng; chữ này cũng có nghĩa là mây tuôn như ống khói. Ngoài ra theo văn bản MINH THỰC LỤC nêu trên, thì đất Tân Châu đã bị An Nam chiếm, vua Chiêm trốn về Linh Sơn, vậy thời gian cuối thế kỷ thứ 15, Yên Ðổng có khả năng là nơi phân giới giữa An Nam và một phe Chiêm Thành (11). Riêng ÐẠI NAM NHẤT THỐNG CHÍ [大南一統志], xác nhận biên giới lúc bấy giờ tại núi Thạch Bi huyện Tuy Hòa; núi Thạch Bi cao, có chi nhánh chạy ra biển; vậy phải chăng các địa danh Yên Ðổng, Thạch Bi đều chỉ chung một rặng núi. Từ Yên Ðổng theo hướng Bính Ngọ [172.5 độ], thời gian 3 canh đến Linh Sơn. Nơi đây là một thắng cảnh, núi đảo liên tiếp, dưới thì sông suối quanh co như dây đai, trên có núi hình như đầu Phật nên có tên là Linh Sơn. Thuyền bè vãng lai, người sùng đạo Phật tụng kinh, thả đèn hình giống thuyền trên sông, để cầu khỏi tai họa trên biển. Theo sự mô tả nêu trên, cùng MINH THỰC LỤC [明實錄], thì địa danh Linh Sơn có thể là thị xã Tuy Hòa, tỉnh Phú Yên ngày nay. Từ đó thuyền ra khỏi mũi Ðại Lãnh, hướng kim nam châm thẳng đến đảo Côn Lôn, hoặc men theo bờ bể tiếp tục cuộc hải hành như sau: Từ Linh Sơn theo luồng nước sâu 6o sải tay, nhắm hướng đơn Ngọ [180 độ], thời gian 2 canh đến Già Nam Mạo. trong cảng này có 3 đảo nhỏ, lúc thủy triều lên thì không thấy. Qua núi, theo luồng nước sâu 15 sải tay, nhắm hướng Khôn Mùi [217.5 độ] thời gian 5 canh từ Khuê Long vào La Loan Ðầu tức cảng Chiêm Thành. Căn cứ vào thời gian hàng hải phỏng đoán rằng Giả nam Mạo tức Mũi Gành tại phía bắc tỉnh Khánh Hòa, còn cảng Chiêm Thành tức thành phố Nha Trang. Từ La Loan Ðầu theo luồng nước sâu 50 sải tay, nhắm hướng Khôn Thân [232.5 độ], thời gian 5 canh tới Xích Khảm Sơn. Ðời Tống vua Chiêm Thành trốn Giao Chỉ thường dời đến ở đây. Theo hướng kim chỉ nam được ghi nhận dưới đây, từ Xích Khảm Sơn theo hướng 210 độ đến đảo Côn Lôn; như vậy ngược lại từ đảo Côn Lôn đến Xích Khảm Sơn là [210-180=30] 30 độ. Trên bản đồ hãy dùng kim chỉ nam đặt tâm điểm tại Côn Sơn, theo hướng 30 độ sẽ dẫn tới Phan Rang; vậy Xích Khảm Sơn tức thị xã Phan Rang. Từ Xích Khảm Sơn theo hướng đơn Mùi [210 độ], thời gian 15 canh đến núi Côn Lôn. Ðây không phải địa danh Côn Lôn trên nguồn sông [chỉ núi Côn Lôn tại Trung Quốc], mà chính là thắng cảnh Côn Lôn trên biển cả. Nơi đây núi cao mà vuông, chân núi rộng; tục ngữ cảnh báo dân đi biển rằng: thượng phạ Thất Châu, hạ phạ Côn Lôn (sợ nhất là Thất Châu, rồi đến Côn Lôn); vì qua những nơi này nếu không cẩn thận đi lệch hướng kim nam châm hoặc lạc tay lái, có thể đâm vào chốn nguy hiểm khó tồn tại. Tại Côn Lôn theo hướng đơn Canh [255 độ] và Canh Dậu [262.5 độ] sẽ đến Tiểu Côn Lôn. Theo TẬP BẢN ÐỒ HÀNH CHÍNH 64 TỈNH, THÀNH PHỐ VIỆT NAM của Nhà Xuất Bản Bản Ðồ, tại đảo Côn Sơn có núi An Hải cao 577 mét, từ đảo chính theo hướng 255 độ có đảo Hòn Bà. Bản đồ 4: Hàng hải từ Trung quốc đến các nước Ðông Nam Á: ÐÔNG TÂY DƯƠNG KHẢO viết tiếp về hành trình hàng hải từ Côn Lôn xuống phía nam: Từ núi Côn Lôn theo hướng Khôn Thân? [232.5 độ] cùng Canh Dậu? [262.5 độ], thời gian 30 canh đến Cát Lan Châu. Cát Lan Châu là bến cảng của nước Ðại Nê . Xưa gọi là Bột Nê [borneo 渤泥], nước này thường đến triều cống Trung Quốc qua tỉnh Phúc Kiến. Từ núi Côn Lôn theo hướng Tân Dậu [277.5 độ] thời gian 26 canh đến Lục Khôn, đó là thuộc quốc của nước Tiêm La. Lại từ núi Côn Lôn theo hướng Khôn Mùi [217.5 độ] thời gian 30 canh đến Ðấu Dự, lại theo hướng Ðinh Ngọ [187.5 độ] đến nước Bành Hanh [tức Pahang thuộc Mã Lai] (12) § Hàn Chấn Hoa trưng sử liệu về Vạn Lý Thạch Ðường và Vạn Lý Trường Sa trong HẢI NGỮ [海語] của Hoàng Trung đời Minh như sau: Vạn Lý Thạch Ðường tại phía đông biển Ô Trư và Thạch Trư. Tại đó tuy trời nắng nhưng vẫn âm u, không giống như trong cõi trần; thổ sản nhiều xà cừ. Chim có nhiều loại quỉ xa, có thứ 9 đầu, có thứ 3,4 đầu, rãi rác khắp biển; tiếng kêu gào ầm ỉ đến mấy dặm; tuy kẻ ngu và loại hung hãn cũng xúc động buồn thảm, mồ hôi toát ra. Châu sư hàng hải trên thuyền lỡ tay lái thất thế, đâm vào đá tảng, thì hàng trăm mạng biến thành quỉ! Vạn lý Trường Sa tại phía đông nam Vạn Lý Thạch Ðường, tức Lưu Sa Hà của giống Di đông nam. Gió thổi ào ào, ngày trong sáng mà trời như đầy tuyết. Lái thuyền lỡ đi lẩm vào, thì bị dính vào không ra được; nếu may nhờ gió đông nam mạnh mới thóat khỏi. Qua lời bàn (14), Hàn Chấn Hoa cho rằng Vạn Lý Trường Sa đáng chỉ quần đảo Nam Sa. Ðiều này vô lý, vì sách HẢI ÐẠO CHÂM KINH [海道針經] đời Thanh (13) xác nhận “Nếu qua Thất Châu lái lệch sang phía đông 7 canh, thấy Vạn Lý Trường Sa”. Theo sự ước tính thời đó, trung bình một canh thuyền đi được 60 lý, như vậy 7 canh được 420 lý, tương đương 243 km. Qua bản đồ số 1: Hàng Hải từ Trung Quốc đến các nước Ðông Nam Á nêu trên, thấy được vị trí Thất Châu Dương; từ đó đến quần đảo Spratly mà Trung Quốc gọi là Nam Sa khoảng cách trên 1000 km. Hai khoảng cách chênh lệch đến hơn 4 lần, như vậy không thể bảo Vạn Lý Trường Sa tức Nam Sa [spratly]. 6. Sách HẢI NGỮ [海語] của Hoàng Trung cũng mô tả hướng đi Tiêm La như sau: Nước Tiêm La tại phía biển Nam Hải. Từ cửa Nam Ðình thuộc huyện Ðông Hoàn [Quảng Ðông] ra khơi. Nam đến Ô Trư, Ðộc Trư, Thất Châu (có tên Tam Dương) la bàn theo hướng Khôn Mùi [212.5] đến Ngoại La, lấy Khôn Thân 45 trình, đến Cựu Cảng [Qui Nhơn], Chiêm Thành.(15) Nhận xét về sử liệu này họ Hàn cho rằng Thất Châu dương là Tây sa [Hoàng Sa], điều này cũng không đúng. Xét vị trí Tam Dương [Ô Trư, Thất Châu, Ðộc Trư] trên Bản đồ 1, 2: Hàng hải từ Trung quốc đến các nước Ðông Nam Á [mục 5, đời Minh], thì từ đó đến Ngoại La sơn [tại tỉnh Bình Ðịnh] theo hướng Khôn Mùi [212.5] giống như sử liệu nêu trên mô tả; như vậy vị trí Thất Châu Dương ở phía đông châu Vạn 100lý [58 km] không thể là đảo Tây Sa [Hoàng Sa]. 7. HẢI ÐẠO CHÂM KINH [海道針經] đời Minh chép: Ngoại La Sơn xem từ xa như ba cửa, đến gần thấy phía đông cao phía tây thấp, phía bắc có hồ Da Tử, tây có Lão Cổ Thạch, đi thuyển phía tây qua dòng nước sâu 40 sải tay, đi lại nên men theo phía tây, phía đông sợ phạm vào Thạch Lan (16). Họ Hàn cho rằng Ngoại La sơn tức cảng Tân Châu [Thi Nại, Qui Nhơn]. Ðây là một điều lầm, xem bản đồ 2: Hàng hải từ Trung quốc đến các nước Ðông Nam Á, thì Ngoại La sơn ở phía bắc Tân Châu, khoảng cách 6 canh [ khoảng 200 km]; vị trí Ngoại La Sơn có thể là cù lao Ré, tức huyện đảo Lý Sơn, thuộc tỉnh Quảng Ngãi. 8. Sử liệu trong HẢI TRA DƯ LỤC [海槎餘錄] của Nguyên Giới đời Minh, QUẢNG ÐÔNG THÔNG CHÍ [廣東通志] của Hoàng Tá đời Minh đều đề cập đến Thiên Lý Thạch Ðường và Vạn Lý Thạch Ðê. HẢI TRA DƯ LỤC [海槎餘錄] chép như sau: Thiên Lý Thạch Ðường tại biển Nhai Châu ngoài 700 lý. Truyền rằng đá tại biển này dưới mức nước biển 8, 9 thước [1 thước=1/3 mét]; thuyền đi qua tránh xa mà đi, một lần đâm vào thì không thể ra được. Vạn Lý Trường Ðê ở phía nam, thuyền vào trong đó không thể thoát được. Dân Phiên đã quen nơi này, biết cách tránh, tuy gặp gió bão cũng không lo. (16) Nhận xét về sử liệu nêu trên, Hàn Chấn Hoa cho rằng Vạn Lý Trường Ðê là quần đảo Nam sa; điều này họ Hàn đã không trưng được bằng chứng mà lại sai về phương hướng, vì trên thực tế quần đảo Nam Sa [Trường Sa] nằm phía đông nam Thiên Lý Thạch Ðường [Tây Sa]. Lời dẫn chứng lại cho biết dân Phiên [chỉ An Nam, Chiêm Thành, Chân Lạp vv.] quen với những đảo này, còn người Trung Quốc chỉ “nghe truyền,” tức không có hiểu biết gì vùng này; như vậy các quần đảo này hoàn toàn xa lạ với Trung Quốc. 9. Họ Hàn nêu sử liệu trong ÐÔNG TÂY DƯƠNG KHẢO [東西洋考], của Trương Tiếp (18) nhưng lại nhẫn tâm lược bỏ hai câu quan trọng chỉ phương hướng và khoảng cách: Từ biển Ô Trư Sơn theo dòng nước 10 sải tay, hướng đơn Thân [240 độ], đi 13 canh đến Thất Châu Dương. Từ châu Thất Dương theo hướng Khôn Mùi [217.5 độ], thời gian 3 canh đến Ðồng Cổ Sơn. Với ý đồ nói càn rằng Thất Châu Dương tức quần đảo Tây Sa [Hoàng Sa]. Ðể tiện việc tham khảo, xin dịch nguyên văn dưới đây, tại quyển 9, mục Tây Dương Châm Lộ, sách ÐÔNG TÂY DƯƠNG KHẢO [東西洋考], và xin xem thêm bản đồ tại mục số 5, đời Minh nêu trên. Ô Trư sơn: [tại cửa sông Châu Giang tỉnh Quảng Ðông] Trên có miếu Ðô Công, khi thuyền qua biển này, mang lễ vật cúng lạy từ đằng xa, xin thần phối hưởng,dùng thuyền giấy rực rỡ tống tiễn thần.Từ biển Ô Trư Sơn theo dòng nước 10 sải tay, hướng đơn Thân [240 độ], đi 13 canh đến Thất Châu Dương. Núi Thất Châu, Thất Châu dương: QUỲNH CHÂU CHÍ [瓊州志] chép Thất Châu Dương tại phía đông huyện Văn Xương 100 lý; trên biển có 7 ngọn núi nhô lên liên tiếp, trong có nước suối ngọt có thể uống được. Thời nhà Nguyên, Lưu Thâm truy kích Tống Trang Tông, bắt thân thuộc là Lưu Ðình Khuê tại nơi này. Tục truyền thời xưa có 7 châu chìm xuống dưới biển; thuyền đến mang súc sinh và cháo cúng thần, không tuân sẽ biến thành ma đói.Thuyền đi qua rất nguy hiểm, lệch sang hướng đông phạm vào Vạn Lý Thạch Ðường; nơi mà QUỲNH CHÍ chép là phía đông châu Vạn có biển Thạch Ðường, thuyền đến đó ít có chiếc nào thoát hiểm. Từ châu Thất Dương theo hướng Khôn Mùi [217.5 độ], thời gian 3 canh đến Ðồng Cổ Sơn. 10. Hàn Chấn Hoa trưng 2 sử liệu từ VIỆT HẢI QUAN CHÍ [越海関志] của Lương Ðình Ðan đời Minh và CỔ KIM ÐỒ THƯ BIÊN [古今图書編] của Chương Hoàng đời Minh (19), chép về thủy trình đến Chiêm Thành như sau: Từ huyện Hương Sơn, Quảng Ðông lên thuyền, dùng gió bắc, la bàn theo hướng Ngọ ra biển lớn tên là Thất Châu dương, qua 10 ngày đêm có thể tới biển An Nam, có ngọn núi tên là Ngoại La; qua 8 ngày đêm có thể tới biển Chiêm Thành, qua 12 ngày đêm có thể tới núi Côn Lôn.Rồi dùng gió đông bắc quay thuyền hướng Mùi và Thân 3 phân, 5 ngày đêm đến cảng Ðại Chân Thụ, qua 5 ngày đêm có thể đến cảng Tiêm La…. Xét thủy trình được mô tả, cùng tương tự như thủy trình ghi trong Bản đồ Hàng hải từ Trung quốc đến các nước Ðông Nam Á tại mục số 5, đời Minh nêu trên. Nhưng một lần nữa họ Hàn lại cho Thất Châu dương là Tây Sa [Hoàng Sa], xét vị trí trên bản đồ, điều này không thể chấp nhận được. 11. Ðoạn văn dưới đây tại mục Châu Sư Khảo, quyển 9, ÐÔNG TÂY DƯƠNG KHẢO [東西洋考] đời Minh, trình bày thuật hàng hải trong trường hợp nước lên, nước xuống; nội dung có thể giúp phân biệt vị trí Thất Châu dương, Vạn Lý Thạch Ðường, và Ngoại La sơn: Mỗi tháng vào ngày 30, mồng 1,2,3,4,5,6 nước lên; đến ngày 7 nước bình; ngày 15 nước lại lên, ngày 16, 17,18,19,20 nước đều lên, ngày 21 nước bình như cũ. Khi nước lên, chảy gấp; phàm thuyền tại Thất Châu dương, hoặc Ngoại La sơn gặp những ngày này, phải biết điều chỉnh thuyền không được lái thiên về hướng đông, nên mé theo hướng tây. Từ những ngày 8,9,10,11,12,13,14 nước xuống chảy về đông; ngày 23,24,25,26,27,28 nước đều rút về đông. Thuyền đến Thất Châu dương cùng Ngoại La gặp những ngày này nên điều chỉnh thuyền không nên lái thiên về tây, vì phía tây nước cạn, nên chạy mé về phía đông. Khi đi thuyền nên thăm dò, phía tây nước sắc màu xanh, thấy nhiều loại cá Bái Lãng [bái sóng], quá sang phía đông sắc nước đen. Khi nước màu xanh, có nhiều củi khô trôi, cùng tiếng kêu vịt trời giống như chim bạch điểu bị tên; trường hợp này chỉnh kim chỉ nam đúng hướng, sẽ đến gần Ngoại La sơn. Nếu từ đó quẹo sang phía đông 7 canh thuyền đến Vạn Lý Thạch Ðường, trong đó có một núi đá màu hồng không cao, nếu thấy thân thuyền chúc xuống như dòm vào đá, thì phải đề phòng! đề phòng! Chú thích : 1.NQNHCÐSLHB, trang50. 2.KHÂM ÐỊNH ÐẠI THANH NHẤT THỐNG CHÍ, phủ Quỳnh Châu, quyển 350. 3. NQNHCÐSLHB, trang 51. 4.NQNHCÐSLHB, 52. 5. NQNHCÐSLHB, trang 53-54 6. NQNHCÐSLHB, trang 56. 7. NQNHCÐSLHB, dòng 15, trang 56. 8. 1 trượng=10 xích; 1 xích=0.32 mét. 9. Theo NQNHCÐSLHB, trang 58, nay tại phía đông Xuyên đảo, thuộc huyện Hương Sơn. 10. Ðại Nam Nhất Thống Chí, bản dịch của Viện Sử Học, tập 3, trang 47. 11. Theo sử Việt, sau khi đánh bắt Trà Toàn, vua Lê Thánh Tông chia Chiêm Thành thành 3 nước nhỏ. 12. ÐÔNG TÂY DƯƠNG KHẢO, quyển 9. 13. Dẫn theo NQNHCÐSLHB, trang 72. 14. NMHNCÐSLHB, trang 58. 15.NQNHCÐSLHB, trang 59. 16. NQNHCÐSLHB, trang 60. 17.NQNHCÐSLHB, trang 61-62. 18.NQNHCÐSLHB, trang 63. 19.NQNHCÐSLHB, trang 64-65. H. Ðời Thanh 1. Hàn Chấn Hoa trưng 2 sử liệu sau đây để nói rằng Thiên Lý Trường Sa, và Vạn Lý Thạch Ðường được nhập vào lãnh thổ châu Vạn: Sử liệu thứ nhất từ QUỲNH CHÂU CHÍ [瓊州志] của Hác Ngọc Lân đời Thanh “Châu Vạn có 3 đoạn nước bao bọc bởi biển, 6 chỗ liên tiếp với núi; tại châu trị trong chốn yên ba ẩn hiện Thiên Lý Trường Sa, Vạn Lý Thạch Ðường”(1) Sử liệu thứ hai từ QUẢNG ÐÔNG THÔNG CHÍ [廣東通志] của Nguyễn Nguyên đời Thanh “Trường Sa Thạch Ðường đều tại phía đông thành ngoài biển cả. Cổ chí chép châu Vạn có Thiên Lý Trường Sa, Vạn Lỳ Thạch Ðường; nhưng đều tại biển ngoài, không thể kê cứu được sự thực” (2) Hai sử liệu nêu trên chỉ có giá trị như những câu văn tả cảnh tổng quát, không xác định chủ quyền. Muốn rõ chủ quyền, cần tìm hiểu vị trí, giới hạn của châu Vạn được ghi trong KHÂM ÐỊNH ÐẠI THANH NHẤT THỐNG CHÍ [欽定大清一統志], một bộ sách chính thức của triều đình nhà Thanh, mà họ Hàn không muốn trưng ra: Châu Vạn tại phía đông nam phủ Quỳnh Châu 400 lý [232 km], từ đông sang tây 205 lý [118 km], nam chí bắc 120 lý [69 km]; phía đông từ châu lỵ đến biển 25 lý [14.5 km], phía tây cách núi Lê 180 lý[104 km], phía nam đến bờ biển 25 lý [14.5 km],phía bắc đến huyện Lạc Hội 95 lý [55 km]. Phía đông nam giáp biển 30 lý[17 km], tây nam giáp huyện Lăng Thủy 100 lý [58 km], đông bắc đến biển 70 lý[40 km], tây bắc đến núi Lê 160 lý [92 km]. (3) Thử hỏi châu Vạn rộng từ đông sang tây 205 lý [118 km], phía đông từ châu lỵ đến biển 25 lý [14.5 km] thì Vạn Lý Trường Sa, và Thiên Lý Thạch Ðường xa xôi, có thể đặt vào trong đó được không? Ngoài ra để tham khảo thêm, xin giới thiệu bản đồ phía đông đảo Hải Nam in trong KHÂM ÐỊNH ÐẠI THANH NHẤT THỐNG CHÍ [欽定大清一統志], tại trang đầu, quyển 350: Nhìn trên bản đồ từ bắc chí nam có những địa danh được phiên âm gồm: huyện Văn Xương, huyện Hội Ðồng, huyện Lạc Hội, châu Vạn, và đảo Ðộc Châu Sơn. Lưu ý: trong lãnh thổ châu Vạn chỉ ghi đảo Ðộc Châu sơn, ngoài ra không hề có tên Thiên Lý Trường Sa, và Vạn Lý Thạch Ðường, như họ Hàn đã nêu. 2. Sách TUYỀN CHÂU PHỦ CHÍ [泉州府志] [của Hoàng Nhiệm đời Thanh, và ÐỒNG AN HUYỆN CHÍ [同安縣志] của Ngô Ðường đời Thanh đều kể việc Ngô Thăng tuần phòng vùng núi Ðồng Cổ tại châu Vạn và Thất Dương Châu như sau: Ngô Thăng, tự Nguyên Trạch, người Ðồng An, nguyên họ Hoàng, giữ chức Tổng lữ, đánh giặc tại Quả Ðường thăng chức Thiên tổng. Lại đi đánh tại Kim Môn, Hạ Môn, Bành Hồ, Ðài Loan có công được giữ chức Du kích Thiểm Tây, thăng Phó tướng Quảng Ðông, được điều đến Quỳnh Nhai. Ðích thân tuần phòng thị sát từ Quỳnh Nhai, qua Ðồng Cổ, Thất Châu dương, Tứ Canh Sa vòng quanh đến 3000 lý; nhờ vậy địa phương được ninh thiếp. (4) Hàn Chấn Hoa lại một lần nữa khẳng định rằng Thất Châu Dương tức quần đảo Tây Sa [Hoàng Sa]. Ðây là sự sai lầm, tại mục 5, đời Minh, chúng tôi đã trích dẫn QUỲNH CHÂU CHÍ [瓊州志] chép rằng Thất Châu Dương cách huyện Văn Xương [Hải Nam] về phía đông 100 lý [58 km]. Nhìn qua bản đồ, thấy hài trình của Ngô Thăng là cuộc tuần hành xung quanh đảo Hải Nam, khởi hành từ Quỳnh Châu phía bắc đảo, lần lượt qua Ðồng Cổ, Thất Châu tại phía đông đảo, rồi vòng qua phía tây đảo đến Tứ Canh Sa thuộc huyện Xương Hóa, cuối cùng trở lại Quỳnh Châu. Cuộc hành trình như vậy hết 3000 lý [1740 km] là hợp lý vì đường kính đảo Hải Nam khoảng dưới 1000 lý; nếu còn đi đến Tây Sa [Hoàng Sa], như họ Hoàng nêu thì phải tốn thêm 7, 8 trăm cây số nữa. Hơn nữa Ngô Thăng muốn giữ an ninh cho đảo Hải Nam, tức Quỳnh Nhai, thì tuần hành xung quanh đảo này, còn ra nơi xa xôi Tây Sa [Hoàng Sa] để làm gì? 3. Hàn Chấn Hoa trưng tư liệu, từ BẮC KINH CỐ CUNG BÁC VẬT VIỆN MINH THANH ÐANG ÁN [[北京故宮博物院明清档案] (5) liên quan đến việc viên Tổng đốc Lưỡng Quảng Dương Ứng Cư tâu trình về việc cứu người ngoại quốc bị nạn tại biển, vào năm Càn Long thứ 30 như sau: Ðề báo rằng viên Bố chính Quảng Ðông Thạch Trụ Tường xưng rằng vào năm Càn Long thứ 30 [1765]điều tra về việc bọn Phiên tên Liên Ðắc Lợi gồm 16 người đi thuyền chở hàng hóa như khăn tay, vải từ nước họ đến Gia Lặc Ma buôn bán. Bị bão phiêu dạt đến biển Cửu Châu thuộc châu Vạn, thuyền hư nát, chết trôi 2 tên Phiên là Bạch Thiểu, Ni Bì; lại tiếp tục bị bệnh mất 2 tên là Bạch Nê Mẫu, Duy Gia la, còn lại 12 tên. Sau khi viên Tri châu tra rõ,bèn chu cấp lương thực, đưa đến huyện Hương Sơn, giao cho viên quan phụ trách về dân Di, để tìm thuyền tiện lợi, vào ngày 27 tháng 10 năm Càn Long thứ 20, và ngày 12 tháng 11, trước sau chở về nước….(6) Sự kiện tương tự, tại nước ta lúc bấy giờ quân lính chúa Nguyễn bị nạn tại đảo Hoàng sa, trôi dạt đến đảo Hải Nam, được Lê Quí Ðôn chép trong PHỦ BIÊN TẠP LỤC [撫邊雜錄] như sau: Bãi Hoàng Sa gần với Hải Nam, châu Liêm. Người trên thuyền thường gặp người phương Bắc [Trung Quốc] đánh cá ngoài biển, hỏi thăm thì được biết họ là người huyện Văn Xương, Quỳnh Châu. Quan Chính đường sưu tra công văn trong đó kể rằng vào tháng 7 năm Càn Long thứ 18 [1753], 10 người lính thuộc đội Cát Liêm, xã An Bình, huyện Chương Nghĩa (7) đến Vạn Lý Trường Sa [萬里長沙] thu thập các vật, 8 tên lính lên bờ thu thập, chỉ có 2 người lưu lại giữ thuyền. Chợt cuồng phong nỗi lên, đẩy thuyền xa đến cảng Thanh Lan [青瀾港] (8)[Trung Quốc] , viên quan tại đây điều tra sự thực bèn cho áp giải trở về. Nguyễn Phúc Chu sai Cai bạ Thuận Hóa Thức lượng hầu gửi thư phúc đáp. Ðọc Thanh Thực Lục [清實錄], được biết thời đó những người nước ta đi thuyền đến vùng Quảng Ðông, Phúc Kiến thường bị giam giữ về tội xâm nhập bất hợp pháp; riêng việc 2 người lính của chúa Nguyễn từ đảo Hoàng Sa trôi dạt vảo cảng Thanh Lan, Hải Nam thì không gặp rắc rối gì. Lý do có thể hiểu được rằng lúc bấy giờ nhà Thanh không coi Hoàng Sa là lãnh thổ của họ, nên viên quan địa phương mới có thể tự tiện trao trả những người này cho chúa Nguyễn nước ta. Trường hợp chiếc thuyền buôn bị tai nạn tại Cửu Châu được Tổng đốc Lưỡng Quảng Dương Ứng Cư cho trả về nguyên quán, cũng theo một thông lệ tương tự. Nhưng Hàn Chấn Hoa lại bảo triều đình nhà Thanh thi hành chủ quyền trên đảo Tây Sa [Hoàng Sa] cứu vớt người bị nạn, lập luận này không thể chấp nhận được. 4. Lại một tư liệu từ BẮC KINH CỐ CUNG BÁC VẬT VIỆN MINH THANH ÐANG ÁN [北京故宮博物院明清档案] chép về trường hợp thuyền của Cống sứ Tiêm La bị chìm tại Thất Châu dương, địa điểm tại phía đông huyện Văn Xương 100 lý (9); nhưng Hàn Chấn Hoa vẫn khẳng định Thất Châu Dương tức quần đảo Tây Sa [Hoàng Sa] một cách vô lý. Tư liệu có đoạn như sau: ..Tuần phủ Quảng Ðông Thác Ân Ða Sơ xưng Quốc vương Tiêm La có lòng thành theo sự giáo hóa sai Sứ giả là bọn Bị Thải Trảo Ðề mang biểu văn, phương vật, voi thuần đến Quảng Ðông để tiến cống. Trước tiên nghe viên Tri huyện Tân Ðình trình báo, thuyền của viên Chánh sứ bị gió thổi chìm tại địa phương Trà Loan trong huyện;thuyền viên Phó sứ bị bão tại Thất Châu Dương gãy cột buồm đâm vào chỗ cạn. Ðã ban hịch cho quan địa phương trước sau cứu vớt thu hoạch những vật bị chìm… 5. Một quyển sách ra đời thời Dân Quốc năm 1928, nhắm dành chủ quyền các quần đảo Hoàng Sa và Trường sa, mang tên TÂY SA ÐẢO, ÐÔNG SA ÐẢO THÀNH ÁN HỐI BIÊN [西沙島東沙島成案滙編], tác giả Trần Thiên Tích; có nhắc đến việc người Ðức điều tra đo đạc vùng biển tại Tây Sa, và Nam Sa. Năm 1883 nước Ðức tiến hành việc điều tra đo đạc các biển nam Trung Quốc bao gồm các quần đảo Tây Sa, Nam Sa. Sự đo đạc này khiến nhà đương cục Trung Quốc chú ý, sau khi nhà đương cục tỉnh Quảng Ðông kháng nghị, nước Ðức đình chỉ việc điều tra. (10) Có lẽ đây là lần đầu tiên các tên Tây Sa, Nam Sa được đề cập trong thư tịch Trung Quốc ; điều này báo hiệu giai đoạn mở đầu việc tranh dành chủ quyền tại biển Ðông. Chú thích: 1. NGNHCÐSLHB, trang 66. 2. NQNHCÐSLHB, TRANG 66. 3. KHÂM ÐỊNH ÐẠI THANH NHẤT THỐNG CHÍ, phủ Quỳnh Châu, quyển 350; phần nguyên văn chữ Hán sao y tại mục 1, đời Minh. 4. NQNHCÐSLHB, trang 67. 5. Ðang án: loại văn kiện được xếp loại để trên kệ sách. 6. NQNHCÐSLHB, trang 69. 7. Chương Nghĩa: tương đương với huyện Tư Nghĩa và một phần đất quận Nghĩa Hành ngày nay. 8. Cảng Thanh Lan: thuộc huyện Văn Xương, Trung Quốc; từ đảo Hoàng Sa đến cảng này cách 330 hải Lý. 9. Xem mục 5, đời Minh. 10. NQNHCÐSLHB, trang 71.♦ Kết luận Nghiêm chỉnh dựa vảo tư liệu về lịch sử thì không thể chứng minh được chủ quyền biển Ðông của Trung Quốc; để đáp ứng nhu cầu, nhà biên khảo Hàn Chấn Hoa viết theo đơn đặt hàng, đã có những “sáng tạo” mới. Ông mượn các địa danh có sẵn trong lịch sử như Trướng Hải, Tiêu Thạch, Cửu Nhũ Loa Châu để gán cho đảo Hoàng Sa; hoặc Vạn Lý Trường Sa để gán cho quần đảo Trường Sa. Riêng Côn Lôn và Thất Châu Dương là hai vị trí nằm trên tuyến hàng hải, được đề cập trong nhiều thư tịch thì không đơn giản, ông bèn tạo ra làm hai; một Côn Lôn gần nước Chân Lạp cũ, một Côn Lôn tại đảo Trường Sa; cũng tương tự có một Thất Châu dương gần đảo Hải Nam, và một Thất Châu dương khác gán cho quần đảo Hoàng Sa. Việc làm thiếu lương thiện này, chắc có những nhà nghiên cứu trên thế giới đầy công tâm “Giữa đường dẫu thấy bất bằng mà tha!” (1) viết lên, chúng ta cần tìm kiếm để giới thiệu ; theo chúng tôi biết một trong những con người đó là nhà biên khảo Trung Quốc Ðàm Kỳ Tương đã cung cấp được một số sự thực trong bài viết THẤT CHÂU DƯƠNG KHẢO [七州洋考](2) Chú thích 1. TRUYỆN KIỀU. 2. Ðàm Kỳ Tương, THẤT CHÂU DƯƠNG KHẢO, sách NAM HẢI CHƯ ÐẢO SỬ ÐỊA KHẢO CHỨNG LUẬN TẬP trang 1-7. Bàn về Thất Châu Dương, trang 3 tác giả viết: 宋 元 以 來, 皆 稱 西 沙 群 島 爲 石 塘, 長 沙, 千 里 或 萬 里 石 塘, 千 里 或 萬 里 長 沙, 無 稱 七 洲 也, 可 見 七 洲 洋 應 指 七 洲 附 近 的 洋 面, 不 可 能 指 石 塘 或 長 沙 的 洋 面 Từ Tống, Nguyên đến nay đều gọi đảo Tây Sa [Hoàng Sa] là Thạch Ðường, Trường Sa, Thiên Lý hoặc Vạn Lý Thạch Ðường; Thiên Lý hoặc Vạn Lý Trường Sa, chưa từng gọi là Thất Châu dương. Như vậy có thể thấy Thất Châu dương chỉ mặt biển sát gần đảo Thất Châu [phía đông huyện Văn Xương, đảo hải Nam], không có khả năng chỉ mặt biển Thạch Ðường hoặc Trường Sa. Bàn về tuyến hàng hải từ Trung Quốc xuống các nước Ðông Nam Á không thể đi qua Tây Sa [Hoàng Sa], Nam Sa[Trường Sa], trang 3, tác giả viết: 七 洲, 崑 崙 都 是 有 相 當 高 度 的 岩 島, 節 然 瀛 海 之 中.因 而 得 與 明 清 針 經 中 的 烏 猪, 獨 猪, 外 羅,占 筆 羅 等 山 並 烈, 成 爲 指 引 海 道 航 向 的 指 标. 至 于 西 沙, 南 沙 諸 島, 都 是 些 海 拔 很 低 而 礁 盘 很 大 的 珊 瑚 洲, 遠 外 看 不 見, 等 到 船 至 近 処 看 得 見 了, 便 有 觸 礁 之 險, 怎 得 成 爲 大 海 中 的 航 标. Thất Châu và Côn Lôn đều là những đảo đá có cao độ tương đương, nghiễm nhiên tại nơi biển rộng, nên được các sách châm kinh đời Minh, Thanh cho cùng các đảo Ô Trư, Ðộc Trư, Ngoại La, Chiêm Bút La [Cù Lao Chàm] làm tiêu chí chỉ dẫn hàng hải. Còn như các đảo Tây Sa [Hoàng Sa], Nam Sa [Trường Sa] đều thấp, mà những bãi đá ngầm san hô thì rất lớn, từ xa nhìn không thấy, đợi đến khi đến gần thấy được thì thuyền bị nguy hiểm vì đụng bởi đá ngầm, như vậy thì làm sao có thể nằm trên tuyến hàng hải ngoài biển. © Thời Đại Mới1 like
-
Anh chị em thân mến. Hồi nhỏ chắc ít nhất chúng ta cũng một lần sợ ma. Vậy ma là cái gì mà ám ảnh chúng ta từ hồi thơ ấu. Tôi mở topic này để anh chị em sưu tầm được những bài viết, những ảnh ma và video liên quan đến ma trên khắp thế giới đưa vào đây. Nguyên tắc là: Với những tấm ảnh nào đã được chứng minh là giả thì cần loại ra khỏi topic này. Những tấm ảnh nào chưa xác định thì để đây tham khảo. Nếu chúng ta có điều kiện thì tìm hiểu xem bản chất "ma" là gì mà nó làm cho tất cả trẻ con trên thế giới và có thể cả người lớn sợ phát khiếp. Biết đâu, chúng ta sẽ có một đề tài khoa học về ..."Ma'. ====================================================== Những bức ảnh ma nổi tiếng tại châu Á Thứ năm, 30 Tháng mười hai 2010, 00:07 GMT+7 Những bức ảnh thật giả lẫn lộn. Tính xác thực của những bức hình này có thể chưa được kiểm chứng nhưng rõ ràng ai cũng nhận ra chúng rất “ma quái”. Mời các bạn cùng ngắm nhìn lại những hình ảnh ma gây nhiều chú ý nhất tại châu Á năm 2010: Lớp học xuất hiện một khách không mời tóc đen Hình bóng bên cửa sổ Một cô hầu phòng chăng Bức ảnh ma quái đúng nghĩa Một mặt ma hiện hình phía sau Bóng ma đứng xõa tóc cửa phòng Một công nhân xây dựng Thác nước cũng có ma Một bóng đen cao lớn bao trùm Bóng ma ngồi trên ghế trong phòng ngủ Nhân vật thứ n xuất hiện góc ảnh Lại thêm 1 bóng ma xuất hiện giữa tập thể lớp Những bóng ma luôn biết cách lấp chỗ trống Bên thành cầu Những nhân vật khách không mời đáng sợ Ai nói anh chàng này chỉ chụp hình 1 mình Lại thêm một ma đầu đen Cánh tay thừa màu đen của một ai đó Một khuôn mặt nhòm ngó trong bức ảnh Vietbao.vn1 like
-
Bạn có số xuất ngoại hay du học.1 like
-
Tin Buồn
Thiên Bồng liked a post in a topic by hienhtc1996
HienHTC1996 xin thành tâm chia buồn với anh Nòng Nọc và gia quyến . HienHTC1996 cầu cho vong linh cụ siêu thoát.1 like -
Với bàn tay này khoảng 24 25 tuổi chết hụt, phúc dày nên không việc gì. Bàn tay có tính tự lập sớm ít phụ thuộc gia đình tính tình ngang ngạnh vào loại bậc nhất hay tranh cãi , mặc dù sai ( cãi cùn) tiền làm ra đến đau tiêu đến đáy (nên đưa tiền cho người khác giữ hộ thì còn) Gò kim tinh đầy nên Dương tính mạnh (dâm) cung quan có chút chức sắc nhưng không lớn (chỉ làm trưởng bộ phận nhỏ) Cung di có mấy bận đi công cán xa số ít ốm đau nhwng không được thọ lắm . có tính yêu văn chương nghệ thuật và nên hay chải chuốt bóng bảy. Cẩn thận về bệnh phổi nếu không phải chết đuối hụt một lần1 like
-
Tiểu Phương cũng chúc tuyetminhnguyen một sinh nhật hạnh phúc. Sớm có ý trung nhân như ý. Thân mến1 like
-
Tin Buồn
Thiên Bồng liked a post in a topic by Mục Đồng
Em cũng xin gửi lời chia buồn đến gia đình anh Nòng Nọc!!!1 like -
Tin Buồn
Thiên Bồng liked a post in a topic by Tiểu Phương
Xin gửi lời chia buồn sâu sắc tới anh và gia đình. Thành kính phân ưu.1 like -
Phải tìm tận gốc bạo lực, vô cảm TT - Bà Trish Summerfield là chuyên gia về giáo dục các giá trị sống. Hơn mười năm qua, bà sống và làm việc ở VN với cương vị giám đốc Chương trình giáo dục các giá trị sống (Living values: an educational program). Tuổi Trẻ đã trao đổi với bà về một số vụ việc có liên quan đến bạo lực trong lớp trẻ, thái độ bàng quan trước cái ác, thờ ơ với nỗi đau khổ của người khác. * Thưa bà, vì sao chúng ta ngày càng chứng kiến nhiều hơn những vụ việc có liên quan đến sự vô cảm của con người? - Tôi cho rằng thực tế này không chỉ diễn ra ở VN, đây là vấn đề toàn cầu và ngày càng gia tăng. Có một số nguyên nhân dẫn đến điều này. Trước hết, con người đang trở nên quá tập trung vào thỏa mãn vật chất. Nếu sự nhận biết và các giá trị của chúng ta chỉ dựa vào các giá trị vật chất thì suy nghĩ và cảm xúc sẽ hướng theo như vậy. Nếu chỉ chăm chăm vào phát triển vật chất, chúng ta sẽ khó tăng cường các giá trị tích cực trong cuộc đời mình. Dần dần, mục đích tiền bạc sẽ là ưu tiên và chúng ta trở nên không quan tâm tới những người xung quanh, không dành thời gian và công sức hỗ trợ họ ngay cả khi họ rất cần. Khi vòng tròn tình yêu trở nên nhỏ hẹp, chúng ta trở nên hẹp hòi, chỉ quan tâm tới gia đình của bản thân mình, thậm chí không thèm quan tâm tới môi trường xung quanh. Nếu chúng ta có sự cân bằng, tức là vừa có mục tiêu vật chất, vừa phát triển các mối quan hệ và sống với những giá trị tích cực thì mọi điều sẽ hòa hợp. Thứ hai, trên thế giới trong những thập kỷ qua người ta đã quá chú ý đến việc giành lấy bằng cấp học thuật, ít dành thời gian cho giáo dục đạo đức và các giá trị sống. VN phát triển sau, hiện có thể gọi là đang ở đỉnh của sự “chú trọng bằng cấp học thuật”. Cha mẹ bị áp lực do thấy mọi nơi đều đánh giá qua bảng điểm nên muốn con mình học giỏi, vô tình đưa chuyện học giỏi trở thành ưu tiên trong giáo dục con. Với trẻ nhỏ, đặc biệt từ 1-8 tuổi, các em đều muốn nhận tình yêu và sự khen tặng. Nếu các em thấy mình chỉ được khen khi có điểm cao ở trường hay thi đỗ, tất nhiên các em sẽ coi đó là ưu tiên và dần dần lấn át thái độ thể hiện các giá trị tích cực như tình yêu thương cũng như quan tâm tới người khác. Nhưng nếu đứa trẻ được khen khi chúng thể hiện sự chia sẻ với mọi người hoặc tốt bụng, thật thà, kính trên nhường dưới, tôn trọng người khác thì các em sẽ coi đó là điều rất quan trọng, chúng ta rất cần phát triển các giá trị đó song song với việc học hành. Chỉ cần cha mẹ dành thời gian cho con, ít nhất 15 phút mỗi ngày, tôi tin mọi việc sẽ tốt đẹp hơn. Cuối cùng, những người trẻ có thể chưa được tham gia các sự kiện, chương trình giúp các em hiểu hơn về các giá trị sống, về sự tôn trọng của những người cùng trang lứa hay ở xung quanh. Đây cũng là một nguyên nhân dẫn đến tình trạng vô cảm. * Sống và làm việc ở VN hơn 10 năm qua, bà có cho rằng sự vô cảm trong xã hội đang ở mức báo động? - Tôi cảm giác căng thẳng trong xã hội đang ngày càng tăng lên. Tôi nghĩ những vụ việc gần đây là cơ hội tốt để chúng ta cùng thảo luận về đề tài này, cùng nhắc nhở nhau rằng đây là vấn đề quan trọng. Ở VN, thầy cô giáo nhận xét về đạo đức của học sinh và nhận xét này có thể ảnh hưởng tới kết quả học tập. Đây là điều cho thấy VN quan tâm tới vấn đề đạo đức và giá trị sống. Tuy nhiên, cách đánh giá này cũng chủ quan và tôi không muốn bình luận về vấn đề đó. Nhưng tôi nhận thấy giáo viên ở VN là nghề rất căng thẳng, nếu họ học được cách kiểm soát cảm xúc của mình, tạo ra được môi trường học tập tích cực, khích lệ học sinh thì sẽ rất tốt và mọi việc sẽ bắt đầu thay đổi. Tôi biết nhiều giáo viên phải làm việc từ 6g sáng nên tôi không muốn đòi hỏi ở họ nhiều hơn, tôi cảm thấy rất quan ngại cho công việc quá nhiều của họ. Bản thân họ đã có quá nhiều áp lực. * Sau mỗi sự việc khiến dư luận xã hội bức xúc, ai cũng tức giận, các cơ quan công quyền vào cuộc. Dưới con mắt của nhà giáo dục, bà có cho rằng đây là cách tiếp cận đúng? - Theo tôi, chuyện bạo lực học đường, vô cảm với người khác chỉ là kết quả của những suy nghĩ và cảm xúc. Có thể hành vi tra tấn, đánh đập người khác sẽ bị trừng phạt hoặc chịu trách nhiệm, nhưng quan trọng hơn là chúng ta phải trở lại nguồn gốc, mầm mống tạo ra tình trạng bạo lực này. Thông thường nếu tôi làm đau đớn người khác có nghĩa là trong tôi cũng đang cảm thấy đau đớn. Nếu tôi cảm thấy vui, cảm thấy tốt về bản thân, tôi không có lý do gì lại khiến người khác đau đớn. Một lý do khiến tôi tham gia các chương trình giáo dục các giá trị sống là thời còn đi học, cả lớp tôi không thèm đếm xỉa đến một bạn học, không ai trêu chọc gì, không ai chơi với bạn đó. Cuối năm, bạn đó tự tử. Điều này khiến tôi nhận ra thái độ của chúng ta có ảnh hưởng rất lớn tới những người xung quanh. Nhưng thời đó, chúng tôi không được dạy về cách cư xử và quan tâm tới người khác. Chúng tôi chỉ là những người trẻ, thể hiện cảm xúc của mình theo cách của mình. Vì vậy ngay từ nhỏ, tốt nhất là từ 1-8 tuổi, chúng ta cần giúp đỡ các em hiểu được chia sẻ với người khác, tôn trọng sự độc đáo của mỗi cá nhân, yêu quý bản thân mình và yêu quý người khác, đồng thời quan tâm tới môi trường thiên nhiên. Với những người có cách cư xử tàn nhẫn, lòng tự trọng của họ rất thấp, họ dựng lên hàng rào cho rằng họ không quan tâm, bất cần. Thật ra họ có quan tâm, nhưng họ bị tổn thương ở bên trong tâm hồn. Nói chung, bạn không thể làm người khác tổn thương mà không cảm thấy tổn thương. Buộc tội và bắt ai đó chịu trách nhiệm thì dễ, nhưng chúng ta cũng phải hiểu gốc gác của hành động đó. * Như vậy, nếu mỗi con người cảm thấy tình yêu thương, chứng kiến những điều tốt đẹp, cảm nhận được cái đẹp, yêu quý, tôn trọng bản thân mình và tôn trọng người khác thì sẽ không có những cảnh bạo lực và vô cảm? - Đúng vậy. Chúng ta nhìn và trân trọng điều tốt trong chính con người mình thì sẽ học cách tìm kiếm điều tốt đẹp ở người khác, thay vì chỉ tìm ra điều xấu. Nếu bạn tức giận hay không quan tâm tới người khác, bạn có nguy cơ chết vì đau tim gấp năm lần bình thường. Tức giận khô khan, thiếu tình yêu là điều không tự nhiên, không tốt cho sức khỏe. Yêu thương và quan tâm tới người khác là bản tính của con người. Với các học sinh, họ cần các chương trình giáo dục giá trị sống, lý tưởng, nhất là cha mẹ cùng tham gia để hiểu và quan tâm tới những diễn biến tâm lý của con cái.1 like
-
Tin Buồn
Mục Đồng liked a post in a topic by Thiên Bồng
Linh cữu được quàn tại nhà tang lễ Bệnh viện An Bình... Động quan lúc 5h30 ngày 04/01/2011 (nhằm ngày 01/12/Canh Dần)... Sau đó đưa đi hỏa táng tại Bình Hưng Hòa... Miễn Chấp Điếu... Cám ơn mọi người...1 like -
TƯ LIỆU THAM KHẢO Bức tranh thế giới năm 2011 - Phác họa từ những mảng màu cũ Thứ Bẩy, 01/01/2011 - 08:42 (Dân trí) - Năm 2011, lãnh đạo thế giới phải làm quen với môi trường chính trị quốc tế khác; an ninh thế giới đan xen những mảng cấu trúc mới; tình hình châu Âu sẽ kéo tụt mức tăng trưởng kinh tế của châu Á; khí hậu biến đổi và hậu quả sẽ nặng nề hơn… Đoán vài nét chấm phá trong bức tranh thế giới năm 2011 phác họa từ những mảng màu của năm cũ. 2011 là năm với con vật chủ biểu tượng là Thỏ hoặc Mèo theo lịch phương Đông Triển vọng địa chính trị Trong năm 2010, trật tự thế giới được coi như trật tự đa cực bấp bênh, do sự tách biệt giữa yếu tố địa chính trị và địa kinh tế: nếu như Mỹ vẫn được coi là cường quốc có ưu thế về địa chính trị và đặc biệt là yếu tố quân sự, thì nước này lại mất đi rất nhiều khả năng kiểm soát trong lĩnh vực địa kinh tế của thế giới; Trung Quốc đã đóng vai trò quan trọng trong việc giải quyết cuộc khủng hoảng tài chính thế giới và các vấn đề toàn cầu - sự thay đổi kết cấu này khiến cho quan hệ Trung-Mỹ lộ rõ tính nhạy cảm và quan trọng. Trong năm 2010, sức mạnh kinh tế và tài chính của các quốc gia mới nổi đã gia tăng đáng kể. Sang đầu thế kỷ 21, "thế hệ thứ 2 của các cường quốc mới nổi" (đặc biệt là Nam Phi, Brazil, Trung Quốc, Ấn Độ, Nga, một phần nào là Thổ Nhĩ Kỳ) đang quyết tâm thiết lập sự thay đổi về các mối quan hệ chính trị trên thế giới theo hướng cân bằng. Sự phát triển của Nhóm Cairns (gồm 19 quốc gia xuất khẩu sản phẩm nông nghiệp) và sự ra đời của nhóm G-20 cho thấy sự nổi lên về vai trò của các quốc gia phương Nam (đặc biệt là Brazil, Ấn Độ và Nam Phi) trong thương mại quốc tế hiện nay. Vai trò của các nhà ngoại giao thuộc các quốc gia mới nổi hiện nay là thông qua sức nặng về kinh tế và tài chính mà bày tỏ quan điểm nêu trên nhưng cũng thử xác định lại chương trình nghị sự của thế giới. Về triển vọng địa chính trị thế giới năm tới 2011, nhiều ý kiến cho rằng cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới tiếp tục ảnh hưởng đến các mối quan hệ quốc tế. Sau một giai đoạn dài hợp tác, hệ thống quốc tế giờ đây đang đối mặt với sự trở lại của bầu không khí cạnh tranh, thậm chí rất gay gắt. Trong năm 2011, lôgích này có thể sẽ làm xói mòn các mối quan hệ quốc tế. Ba khả năng xấu có thể xảy ra là quan hệ Trung-Mỹ xấu đi, bất đồng gia tăng trong Liên minh châu Âu (EU) và thất bại của những nỗ lực thúc đẩy giải quyết một trong những hồ sơ lớn trong lịch trình ngoại giao quốc tế- nhất là vấn đề biến đổi khí hậu và chống phổ biến vũ khí hạt nhân. Năm 2011 cũng được dự báo là một năm mà các nhà lãnh đạo thế giới sẽ phải làm quen với một môi trường chính trị quốc tế mới. An ninh với những cấu trúc mới Thế giới trong năm 2010 chứng kiến một loạt cuộc diễn tập quân sự trên bộ, trên không, trên biển, trong phạm vi quốc gia và quốc tế. Đó chỉ là bề nổi của tảng băng an ninh toàn cầu đang hình thành ngầm những cấu trúc mới dưới bề mặt chìm. Viễn cảnh địa chính trị châu Á sẽ ra sao trong những thập kỷ tới là điều không dễ dự đoán. Tuy nhiên, châu Á đang dần xây dựng cấu trúc an ninh mới khi có một Trung Quốc ngày càng mạnh bạo và nỗ lực của Mỹ củng cố vai trò tại khu vực. Giới phân tích cho rằng xét về tương quan lực lượng an ninh tại châu Á, hiện vẫn chưa có một quốc gia hay liên minh nào có thể đối đầu với sức mạnh Mỹ trong vòng 1/4 thế kỷ tới. Nhưng Mỹ vẫn tiếp tục vai trò trung tâm ở châu Á như một đối tác về an ninh và hòa bình của các đồng minh và đối tác khác khi sẵn sàng đứng bên cạnh các quốc gia này lúc có biến cố. Điều này sẽ quyết định sức mạnh và quy mô của hệ thống liên minh quân sự tại châu Á trong những năm tới. Tổ chức Hiệp ước Bắc Đại Tây Dương (NATO) cũng đang có bước chuyển mới trên con đường tái cấu trúc. Trong một thế giới thay đổi, với nhiều mối đe dọa mới, tên lửa đạn đạo, khủng bố và tấn công mạng, NATO đang tìm cách xác định lại vai trò và lý do cho sự tồn tại của tổ chức này. Hội nghị thượng đỉnh NATO ngày 19-20/11 tại Lisbon (Bồ Đào Nha) được xem là một bước ngoặt quan trọng. NATO đã công bố Khái niệm chiến lược mới, với một lộ trình vạch ra cho tương lai, thay thế văn kiện trước đó của tổ chức này năm 1999. Điểm trọng tâm là NATO khẳng định lại tầm quan trọng của điều 5 Hiến chương tổ chức, quy định một cuộc tấn công nhằm vào một trong những nước thành viên NATO được xem là tấn công nhằm vào NATO. NATO nhấn mạnh đến những mối đe dọa mới, đặc biệt là tấn công mạng Internet. Khái niệm chiến lược mới sẽ chỉ ra các cuộc tấn công mạng có thể được xem là hành động xâm lược. Trong khi đó, Mỹ Latinh đang có những thay đổi lớn trong cuộc chạy đua vũ trang và năm 2011 sẽ tiếp tục đà này. Mạng tin ALAI mới đây trích dẫn một báo cáo của Quốc hội Mỹ cho biết trong số các nước đang phát triển trên thế giới, Brazil đang dẫn đầu về chi phí nhập khẩu vũ khí trong năm 2009 với 7,2 tỷ USD. Con số này vượt xa chi phí 5 tỷ USD cho chương trình tín dụng xã hội, được coi là một trong những điểm mạnh nhất và được chính phủ nước này ưu tiên hàng đầu. Kinh tế với nhiều mối lo Trong báo cáo sơ bộ về triển vọng kinh tế được đưa ra đầu tháng 12, Liên hợp quốc hy vọng kinh tế thế giới sẽ tăng trưởng khoảng 3,1% trong năm 2011 và 3,5% trong năm 2012, thấp hơn dự báo tăng trưởng 3,6% trong năm 2010 và còn lâu mới đủ để khôi phục số việc làm bị mất trong cuộc khủng hoảng kinh tế. Các nhà kinh tế hạ dự báo tăng trưởng kinh tế của các nước phát triển và cho rằng các nền kinh tế châu Á sẽ tiếp tục dẫn dắt sự hồi phục kinh tế toàn cầu. Chưa khắc phục xong hậu quả của khủng hoảng tài chính toàn cầu, trong năm 2010, châu Âu lại phải đương đầu với những khó khăn tài chính nghiêm trọng của Hy Lạp và Ireland. Châu Âu đã phải nỗ lực cứu giúp hai nước này bởi vì đây là những thách thức to lớn, đe dọa sự tồn tại của chính EU. Hiện nay, nhiều giới lo ngại là Bồ Đào Nha, Bỉ và Tây Ban Nha cũng có thể rơi vào tình trạng khủng hoảng như Hy lạp, Ireland vào thời gian tới vì các nước này đang bị thiếu hụt ngân sách rất lớn, kinh tế suy đồi và nạn thất nghiệp cao. Trong hai năm 2011 và 2012 có thể coi là thời gian thử thách gay go nhất cho số phận của đồng Euro nói riêng và tương lai của EU nói chung, vì hai đầu tầu kinh tế và chính trị là Pháp và Đức bước vào các năm chuẩn bị tranh cử các chức vụ quan trọng nhất là tổng thống và Quốc hội. Kinh tế Mỹ sẽ không cải thiện nhiều trong năm 2011. Họ cho rằng Quốc hội Mỹ, sau cuộc bầu cử giữa nhiệm kỳ đầu tháng 11, sẽ phải điều hành một nền kinh tế và thị trường việc làm mà triển vọng sẽ không có nhiều cải thiện trong năm tới. Các nhà kinh tế cho rằng có lẽ sự yếu kém kéo dài về kinh tế của Mỹ và châu Âu có thể lại là vấn đề ít gây lo lắng nhất đối với châu Á trong năm 2011 bởi lẽ khu vực này đang phải đối phó với thách thức đáng sợ hơn nhiều - đó là những áp lực lạm phát có nguy cơ gây mất ổn định. Lượng tiền mặt lưu thông tăng mạnh đang gây thêm áp lực đối với các nền kinh tế châu Á, buộc các nền kinh tế này hoặc phải nâng lãi suất hoặc phải để đồng tiền của mình vốn đã tăng giá nhiều so với đồng USD tăng giá thêm. Năm 2011 sẽ tiếp tục là một năm đi lên của biểu đồ giá vàng. Giá vàng đã tăng 26% kể từ đầu năm 2010 đến nay. Những lo ngại về khu vực sử dụng đồng euro là nguyên nhân chính thúc đẩy giá kim loại quý này đi lên trong nửa đầu năm 2010. Còn trong 6 tháng cuối năm, động lực chủ yếu là đồng USD yếu đi, khiến vàng có hơn mười lần phá vỡ các kỷ lục về giá của chính nó. Khí hậu biến đổi và những cảnh báo Nhiều dự báo cho rằng năm 2011, lũ lụt sẽ còn nặng nề hơn. Đáng sợ nhất trong số các hiện tượng thiên nhiên là động đất và núi lửa phun trào. Nhiều trận thiên tai loại này đã để lại dấu vết vô hình mà đậm nét trong ký ức nhân loại và đi vào lịch sử. Nỗi nguy hiểm đối với nhân loại còn là những thiên tai khác như nước lụt, bão, hạn hán, cháy rừng, lở đất, lũ cuốn. “Dữ liệu thống kê cho thấy, nếu đà gia tăng tổn thất vẫn tiếp tục theo nhịp độ như vậy thì đến giữa thế kỷ này, tổng khối lượng thiệt hại chung trên thế giới sẽ lến tới 300 tỷ USD một năm. Chừng đó có nghĩa là bằng hầu như một nửa GDP toàn cầu”. Trong khi đó, nhiều nơi sẽ bị hạn hán nặng nề. Nạn hạn hán kéo dài "hành hạ" nhiều quốc gia trong năm 2010 đã làm nổi lên một câu hỏi nhức nhối: Liệu thế giới có đủ nước dùng? Vấn đề bao hàm không chỉ nước uống, mà còn cả cái gọi là “nước ẩn tàng”. Châu Phi là lục địa khô thứ 2 sau Australia và ngày càng có nhiều người châu Phi trở thành nạn nhân của hiện tượng thiếu nước, trong khi mà lục địa đen lại có nguồn nước lớn như các sông Công, Nil, Nigiê, hay các hồ nước như Sát và Victoria. Nhưng theo một nghiên cứu của Cộng đồng kinh tế các quốc gia Tây Phi (CEDEAO), các nước châu Phi chỉ kiểm soát được 4% tiềm năng thuỷ lợi, trong khi tại các nước giàu là 70% và 80% ở châu Á. Hiện nay, có khoảng 14 nước thuộc lục địa đen đang sống trong tình trạng khan hiếm nguồn nước và 11 nước khác sẽ có chung số phận vào năm 2025. Nguy cơ thế giới đối mặt với cuộc chiến tranh giành nước đã hiển hiện. Trong bối cảnh cuộc khủng hoảng lương thực năm 2007-2008, cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu và vấn đề biến đổi khí hậu đang làm nhiều người trên thế giới lâm vào cảnh đói ăn hơn. Dù vậy, cũng có những dự báo lạc quan hơn, nhưng không phải đến từ các nhà phân tích mà từ chiêm tinh gia. “Năm 2011 với chúng ta sẽ là quãng thời gian yên bình. Dù rằng chỉ là khoảng lặng trước giông tố: cuộc khủng hoảng kinh tế kế tiếp sẽ ập tới vào năm 2013-2014”, đó là lời dự đoán do chiêm tinh gia nổi tiếng nhất của nước Nga Pavel Globa đưa ra. “Rất ít khả năng để năm 2011 là năm “thu hoạch tai vạ” như địa chấn, tai nạn kỹ thuật đáng sợ mà nhất là chiến tranh. Nặng nhất cũng chỉ là xung đột bất ổn ở vùng các đảo. Nếu ở đâu đó xảy ra biến cố quân sự, thì đó sẽ là Cận Đông, có thể là trong khu vực của Iran gần Caspi”, ông nói. Nguyễn Viết Tổng hợp1 like
-
nhìn tay trái ! chủ yếu là sinh đạo ! đến trung vận nên cẩn thận bệnh tật (hay tai nạn ảnh hưởng tới sức khỏe) . nhưng ko đoản mạng đâu mà bạn phải lo . còn 2 đường kia thì tôi ko thấy gì đáng lo . bạn là người có sự nghiệp khá vững chắc ! tình cảm thì hiện tại cũng qua rồi cái thời buồn bã . nói chung ko có gì đáng lo lắng đâu . cứ an tâm mà sống tốt ... vài lời chia sẻ . an lạc ....thân chào !1 like
-
Học online thì lúc nào cũng được bạn à, ở Hà Nội cũng offline được vậy, khi nào Sư Phụ lên HN thì off, vả lại học mặt xong thì cũng có các bạn đồng khóa post nội dung buổi họp mặt lên mà! Thân mến!1 like
-
Bí ẩn hiện tượng “Ma nhập” ( 2:15 PM | 29/12/2010 ) Chuyện ma quỷ trước nay cả thế giới đều nhắc đến rất nhiều và ai cũng đã từng thấy, song là trên… màn ảnh, những bộ phim kinh dị. Đây đó trên đất nước Việt Nam vẫn có người kể đã từng nhìn thấy ma. Một cô gái bị ma nhập. (Hình minh họa: internet) Hồi đi viết bài “Chuyện lạ về những ngôi mộ bạc tỉ”, tác giả cũng được nghe anh Trần Văn Khá, người trông ngôi mộ trị giá 2 tỉ ở Hải Dương, sống chết khẳng định rằng anh đã gặp “ma”. Theo những người trong họ Vũ và cả anh Khá thì nguyên nhân là vì anh đã đào phá ngôi mộ cổ hợp chất của tổ mẫu họ Vũ đã khuất cách nay 1.200 năm. Suốt 3 tháng 10 ngày, đêm nào bà Nguyễn Thị Đức cũng hiện hình đứng ở đầu giường đòi anh Khá trả lại “nhà” cho bà. Thậm chí, anh bỏ vào Bình Dương, “ma” vẫn đi theo. Kết cục cho những đêm mất ngủ vì gặp “ma”, anh Khá bị mất trí. Sau khi gia đình xây mộ cẩn thận lại cho bà Đức, “ma” mới thôi hành hạ. Những câu chuyện gặp ma mà người đời kể kiểu như trên tác giả đã nghe nhiều và chắc mỗi người chúng ta đều cũng đã được nghe, nên tác giả không tin, nhưng quả thực, chính tác giả đã được nhiều lần tận mắt nhìn thấy “ma chửa” qua cuốn băng video của các nhà khoa học ở Liên hiệp Khoa học tin học ứng dụng. Người thanh niên tên H mà các nhà khoa học ghi hình thỉnh thoảng lại bị “ma chửa” nhập vào khiến mặt mũi đỏ gay đỏ gắt, nói giọng con gái ẻo lả, cứ lúc khóc lúc cười khanh khách. Đặc biệt, cái bụng tự nhiên trương phình lên như người chửa 8 tháng (?!). Mỗi lần “ma” nhập, anh thanh niên này phải cởi ngay quần áo kẻo bụng phình lên đứt hết cúc và đau đớn không chịu nổi. Nhiều lần các nhà khoa học đã dùng máy móc hiện đại để chụp chiếu, siêu âm phần bụng đột nhiên trương phình của anh ta, song vẫn không phát hiện ra nguyên nhân do đâu. Khi “ma nhập”, các nhà khoa học và gia đình đưa anh ta đi viện, song cứ đến viện là bụng liền xẹp đi, cơ thể trở về trạng thái bình thường. Các bác sĩ cũng khám và siêu âm các kiểu, song không phát hiện anh H. có bệnh gì, thần kinh cũng hoàn toàn bình thường. Khi các nhà khoa học sử dụng phương pháp dân gian là dùng roi dâu vụt vào cơ thể anh ta, thì tự nhiên “con ma” thoát ra ngoài, và cái bụng anh dần dần xẹp xuống (?!). Không biết có tin nổi chuyện này hay không, nhưng quả thực đoạn băng tôi xem là hoàn toàn có thật. Việc thỉnh thoảng anh thanh niên nọ bị như thế đã diễn ra mấy năm nay, các nhà khoa học ở Liên hiệp Khoa học công nghệ tin học ứng dụng đã bỏ khá nhiều công sức nghiên cứu, song vẫn chưa tìm ra lời giải đáp thuyết phục cho hiện tượng trên nên vẫn chưa dám công bố kết quả, chưa cho tiết lộ thân phận người thanh niên tên H. Người đời thì cho rằng, đó là hiện tượng “ma” nhập. Vừa mới đây thôi, các nhà khoa học ở Liên hiệp Khoa học công nghệ tin học ứng dụng UIA lại tiến hành nghiên cứu một hiện tượng “ma nhập” hết sức kỳ dị. Cô gái này tên Nguyễn Thị K., người Hà Nội, khá xinh đẹp. Khi cô H. chuẩn bị làm đám cưới với người mình yêu thì có một “con ma” nam giới nhập vào cô rồi nhất định không cho cô… lấy chồng. Mỗi khi “ma nhập” cô gái nói giọng đàn ông và van xin bố mẹ cô gái cho cô được lấy anh ta, tức là “con ma”. Mỗi khi “ma nhập”, gia đình phải cấp tốc trói cô lại rồi chở đến Liên hiệp Khoa học công nghệ tin học ứng dụng để nhờ các nhà ngoại cảm giải quyết giúp. Mỗi khi “ma nhập”, thân nhiệt của cô gái này lại giảm đột ngột, cơ thể lạnh ngắt. Sau khi có các biện pháp can thiệp của nhà ngoại cảm (không biết can thiệp bằng cách nào, nhưng dường như là truyền năng lượng sinh học vào cô gái) thì con ma mới thoát ra ngoài và cô gái mới lại trở lại bình thường. Đây quả là hiện tượng vô cùng kỳ bí và để tìm ra lời giải sẽ còn tốn nhiều mồ hôi công sức của các nhà khoa học. (theo diendan.eva) http://www.lyhocdongphuong.org.vn/forum/public/style_emoticons/default/eyelash.gif http://www.lyhocdongphuong.org.vn/forum/public/style_emoticons/default/eyelash.gif1 like
-
nẠN TRÁNH ĐƯỢC HAY KHÔNG THÌ KHÔNG BIẾT ,nhưng tốt nhất năm tới không nên đi đâu xa nhất là về xe cộ coi chừng ! nếu vẫn còn tình cảm tốt với người bạn gái đó thì năm nay ,sẽ có hiểu lầm qua lời nói rồi chia tay ;nếu đã chia tay với người bạn gái đó rồi thì năm nay sẽ gặp lại ,rồi cũng vì lời nói mà sanh ra sự hiểu lầm .1 like
-
Năm tới tiểu hạn có long-phượng-hỹ-riêu ,chắc sẽ có bạn gái tình cảm tốt đẹp 1 thời gian ,nhưng sợ rằng không lâu rồi chia tay ... năm tới cần cẩn thận nếu có chuyện đi xa coi chừng bị tai nạn về xe cộ ,và có thể có tang trong họ nếu không bản thân hay bệnh đau yếu ,nếu không bận về sinh kế thì nên tiếp tục học ,vì không thấy tài lộc gì trong năm tớii ,cũng tốt như tự giam mình để tránh cái nạn .1 like
-
Chú Đại Bi.
ngoctho liked a post in a topic by Thiên Sứ
THẦN DƯỢC CỦA PHẬT PHÁP Các bạn có thể quán tưởng về sự vô thường....1 like -
Chít! Hôm nay we6n rùi. Thiên Luân nó nghỉ đi chơi. Đợi nó về mới làm chủ đề riêng được.1 like
-
Sang năm khởi nghiệp chắc ko thể thiếu vợ, qua đây vợ chồng bắt đầu có nhiều vấn đề để bàn cãi rồi. Nếu ko biết cương nhu tùy lúc thì thể nào cũng lại choảng nhau. ko phải tự nhiên tôi hỏi tình hình vợ con đấy nhé. Lá số của quý anh ko phải là ko có ngày làm lên cơ đồ mà nó ko thể có ở độ tuổi này cũng như 30. Nhưng ko sao, không gặp khó khăn không tu dưỡng được trí lớn. Ngoài 45 tuổi mới có cơ đồ rộng mở, như vậy thì ở độ 40 khởi sự lần nữa thì vừa. Vợ con ko nên cùng tham gia thì hơn, nên làm phó, phụ cùng hùn hợp với người có cá tính, mạnh mẽ, ham vươn lên, thích đổi mới, tính tình phóng khoáng. Nếu tự đứng ra mở cty thì chỉ nên mở cửa hàng bán tạp hóa sẽ tốt hơn. Số khá giả, ko giầu có. Tuy nói là ko nên cùng làm với vợ nhưng lại có câu: Sang vì vợ, cho nên hãy an bài cho vợ sao cho mình được sang trọng. Đó là lời của lá số chứ ko phải tôi giao giảng cho quý anh. (nể vợ là tốt) Đức Phật dạy rằng Sự mất mát lớn nhất của con người là tuyệt vọng. Tài sản lớn nhất của con người là sức khỏe món nợ lớn nhất cuộc đời con người là tình cảm http://www.chungta.com/Desktop.aspx/ChungT..._cua_co_nhan/#81 like
-
MTG (hose) VNI đang tăng nhưng coi chừng nó đạt đến đỉnh người ta bán ra ào cái là rớt giá đó.1 like
-
Bạn chờ bác haithienha và mọi người tư vấn thêm cho nhé, thân chào!1 like
-
Chỉ có cách ;lập gia đình muộn ,lấy chồng phương xa ,hay đi xa mà lấy chồng , khi lể hỏi xong đợi vài năm sau hãy cưới ,thì hy vọng tránh được sự gãy đỗ ly tan .1 like
-
thằng dở người nào nó ko giải được lá số nên mới gào mỏ lên như thế. Quý cô coi ngay mấy cô Hoa Hậu hay Người đẹp mà xem, trước và sau đăng quang, ai chẳng Khổ ơi là Khổ. Toàn nói cái quá đúng thì nói làm gì nhỉ? Đàn ông sao mà khổ hơn đàn bà thế này? lại nói quá đúng, he he he nhưng chẳng ai khen cả, ngược lại có khi còn bị chê. Số cô nhiều chồng ơi là nhiều thế này thì cô cứ lấy xong rồi bỏ, 1 tháng làm 30 vụ cưới và ly hôn thì chẳng mấy mà xong nghiệp quả này. hóa giải thì chẳng ai giải được cho quý cô cả, tự quý cô phải giải thôi. Lên chùa ăn chay, niệm Phật đủ 5 năm nữa thì hòa nhập xã hội sau cũng chưa muộn. Chỉ sợ mông đặt ở đó, miệng lẩm bẩm kinh kệ mà đầu lại nhớ tới Thí chủ da trắng, thịt mềm, đôi môi mỏng quẹo, dáng vẻ thư sinh.1 like
-
Xá Lợi của đức Phật Thích Ca Mâu Ni: Một Thánh vật thần bí Tất cả các bạn sau khi chiêm ngưỡng Thánh vật Phật Tổ, nên niệm Phật hiệu: "Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu ni Phật". Xá Lợi là chỉ cho di cốt và những viên trân châu, giống như đá quý của đức Phật Thích Ca Mâu Ni - giáo chủ cõi Ta bà, cũng là Tổ sư của Phật giáo, sau khi viên tịch đã lưu lại. Hơn 2500 năm trước, đức Thích Ca Mâu Ni nhập Niết Bàn, khi trà tỳ, chúng đệ tử nhặt được một số Xá Lợi Tử từ chân thân của Ngài như: Xá Lợi đỉnh đầu, xương, huyết, răng, ngón tay và 84000 viên Xá Lợi đủ màu. Những Xá Lợi lưu lại của Phật Tổ được thế giới xem như Thánh vật, tranh nhau thờ phụng cúng dường. Xá Lợi tử là do sự tu trì giới định tuệ của mỗi cá nhân, thêm vào đó là nguyện lực lớn của chính mình, nó vô cùng hi hữu, quý báu. Lúc Phật tịch diệt, Xá Lợi của Ngài sau khi trà tỳ là 1 thạch 6 đấu (1 thạch: 100 lít, 1 đấu:10 thăng). Lúc đó có 8 quốc vương của 8 nước tranh nhau chia Xá lợi của Phật, đem về nước của mình, xây dựng bảo tháp, để cho bá tánh chiêm ngưỡng, lễ bái. Ngoài ra, có những bậc cao tăng và các tín đồ tại gia, thành tựu công đức tu hành, sau khi vãng sanh cũng đều có Xá lợi. Như các đại sư: Lục Tổ Huệ Năng Trung Quốc, đại sư Hoằng Nhất, đại sư Ấn Quang, đại sư Thái hư, đại sư Chương Gia... thời cận đại, những vị này đều để lại số lượng Xá Lợi tương đương. Xá Lợi Tử, Ấn Độ dịch là Đà Đô, cũng gọi là Thiết Lập La, Thiết Lợi La. Trung Hoa dịch là Linh cốt, Thân cốt, Di cốt. Là một thể kết tinh của một người sau khi vãng sanh đã để lại. Hình dáng của nó là thiên biến vạn hóa, có loại hình tròn, hình bầu dục, hình hoa sen, hình Phật, Bồ Tát; màu sắc của nó cũng có rất nhiều như trắng, đen, vàng, xanh, đỏ; Xá lợi tử có loại giống như trân châu, mã não, thủy tinh; có loại trong suốt, có loại tỏa ánh sáng, có loại giống như kim cương. Xá Lợi ĐẦU hình cầu vồng của đức Phật Thích Ca Mâu Ni Xá Lợi NÃO 7 màu của đức Phật Thích Ca Mâu Xá Lợi XƯƠNG của đức Phật Thích Ca Mâu Ni Xá Lợi XƯƠNG ngón tay của chân thân đức Phật Thích Ca Mâu Ni[/size] Xương móng tay thứ 3, thứ nhất, thứ 2 và thứ tư Sự hình thành của "Xá Lợi Tử", các nhà khoa học mãi đến hôm nay vẫn không căn cứ chính xác, nhưng Phật giáo thì cho rằng nó là kết tinh của mỗi cá nhân tu hành thành tựu Giới, Định, Tuệ.Xá Lợi của Bích Chi Phật Xá Lợi của Tôn giả Kiều Trần Như ( một trong năm vị Đại Tỳ kheo - chứng quả đầu tiên). Xá Lợi của Tôn giả A Na Luật (Thiên Nhãn đệ nhất) Xá Lợi của Tôn giả Phú Lâu Na (Thuyết pháp đệ nhất) (Theo giacngo.vn) [08.06.2009 10:25] Tất cả các bạn sau khi chiêm ngưỡng Thánh vật Phật Tổ, nên niệm Phật hiệu: "Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu ni Phật". Xá Lợi là chỉ cho di cốt và những viên trân châu, giống như đá quý của đức Phật Thích Ca Mâu Ni - giáo chủ cõi Ta bà, cũng là Tổ sư của Phật giáo, sau khi viên tịch đã lưu lại. Hơn 2500 năm trước, đức Thích Ca Mâu Ni nhập Niết Bàn, khi trà tỳ, chúng đệ tử nhặt được một số Xá Lợi Tử từ chân thân của Ngài như: Xá Lợi đỉnh đầu, xương, huyết, răng, ngón tay và 84000 viên Xá Lợi đủ màu. Những Xá Lợi lưu lại của Phật Tổ được thế giới xem như Thánh vật, tranh nhau thờ phụng cúng dường. Xá Lợi tử là do sự tu trì giới định tuệ của mỗi cá nhân, thêm vào đó là nguyện lực lớn của chính mình, nó vô cùng hi hữu, quý báu. Lúc Phật tịch diệt, Xá Lợi của Ngài sau khi trà tỳ là 1 thạch 6 đấu (1 thạch: 100 lít, 1 đấu:10 thăng). Lúc đó có 8 quốc vương của 8 nước tranh nhau chia Xá lợi của Phật, đem về nước của mình, xây dựng bảo tháp, để cho bá tánh chiêm ngưỡng, lễ bái. Ngoài ra, có những bậc cao tăng và các tín đồ tại gia, thành tựu công đức tu hành, sau khi vãng sanh cũng đều có Xá lợi. Như các đại sư: Lục Tổ Huệ Năng Trung Quốc, đại sư Hoằng Nhất, đại sư Ấn Quang, đại sư Thái hư, đại sư Chương Gia... thời cận đại, những vị này đều để lại số lượng Xá Lợi tương đương. Xá Lợi Tử, Ấn Độ dịch là Đà Đô, cũng gọi là Thiết Lập La, Thiết Lợi La. Trung Hoa dịch là Linh cốt, Thân cốt, Di cốt. Là một thể kết tinh của một người sau khi vãng sanh đã để lại. Hình dáng của nó là thiên biến vạn hóa, có loại hình tròn, hình bầu dục, hình hoa sen, hình Phật, Bồ Tát; màu sắc của nó cũng có rất nhiều như trắng, đen, vàng, xanh, đỏ; Xá lợi tử có loại giống như trân châu, mã não, thủy tinh; có loại trong suốt, có loại tỏa ánh sáng, có loại giống như kim cương. Xá Lợi ĐẦU hình cầu vồng của đức Phật Thích Ca Mâu Ni Xá Lợi NÃO 7 màu của đức Phật Thích Ca Mâu Xá Lợi XƯƠNG của đức Phật Thích Ca Mâu Ni Xá Lợi XƯƠNG ngón tay của chân thân đức Phật Thích Ca Mâu Ni Xương móng tay thứ 3, thứ nhất, thứ 2 và thứ tư Sự hình thành của "Xá Lợi Tử", các nhà khoa học mãi đến hôm nay vẫn không căn cứ chính xác, nhưng Phật giáo thì cho rằng nó là kết tinh của mỗi cá nhân tu hành thành tựu Giới, Định, Tuệ.Xá Lợi của Bích Chi Phật Xá Lợi của Tôn giả Kiều Trần Như ( một trong năm vị Đại Tỳ kheo - chứng quả đầu tiên). Xá Lợi của Tôn giả A Na Luật (Thiên Nhãn đệ nhất) Xá Lợi của Tôn giả Phú Lâu Na (Thuyết pháp đệ nhất) (Theo giacngo.vn)1 like
-
Tham nhũng thời nào và xã hội nào cũng có. Nó chỉ thể hiện và bị nhận diện để ngăn chặn theo cách khác nhau, do đặc thù và trình độ văn hóa, kinh tế của mỗi xã hội. Nó luôn biến đổi cùng với mức sống vật chất và phi vật chất (văn hóa, tinh thần và pháp lý) của xã hội đó. Ở Việt Nam, giai đoạn từ 1945 đến 1975, tham nhũng đã có nhưng không quá nhiều và ở dạng còn sơ khai, là dạng lạm dụng quyền lực thô sơ, do động lực trực tiếp là THAM vật chất, và không cần phải nhũng để có được cái mình muốn. Đây là tham nhũng thế hệ 1.0, chỉ với quyền hạn, chức vụ và lòng tham là những kẻ tham nhũng thế hệ đầu này có thể trực tiếp CHIẾM ngay được những gì mình muốn. Đối tượng trực tiếp của thế hệ tham nhũng này là vật chất hay “quan hệ vật chất” (ép hủ hóa với người khác). Hiện tượng tham nhũng thế hệ 1.0 thường đơn lẻ, không có tổ chức, không có hệ thống. Công cụ chống tham nhũng thế hệ 1.0 lúc đó rất hùng hậu là đạo đức xã hội và tấm gương của lãnh tụ, cùng sự nghiêm minh của hệ thống kỷ luật tuy thô sơ. Nhưng phải nói hệ thống pháp luật, công cụ, phương pháp và lực lượng chống tham nhũng của Thế hệ 1.0 đã hoàn thành khá xuất sắc ½ nhiệm vụ: chống tham nhũng vật chất. Còn ½ tham nhũng vì tham dục thì không bị chống vì đó không phải… tài sản chung XHCN. Nhưng theo những gì còn lưu truyền lại đến nay thì… trong suốt 30 năm đó rất-rất nhiều những chị Dậu đã tiếp tục bị các quan tham dục ức hiếp bằng quyền lực mà không có pháp luật che chở hay Ngô Tất Tố nào đứng ra bênh vực (các anh Dậu đều bị ốm, im lặng và không biết gì)… Cái “đạo đức” chống tham nhũng một nửa và bỏ qua chính đạo đức gốc suốt 30 năm đó đã lòi sang… văn hóa tham nhũng ở giai đoạn sau, đến tận hôm nay. Sang giai đoạn 1976-1999, tức là từ sau giải phóng đất nước, tham nhũng phát triển tràn lan và sang cấp độ mới: 2.0, với các hình thức công khai nhũng nhiễu (từ quan chức) để đổi lấy vật chất (tài sản hối lộ) hay quan hệ từ người bị nhũng nhiễu. Người dân bị nhũng nhiễu ở mọi cơ quan và buộc phải “mua” công việc, chức vụ, quyền lợi mà họ nhiều khi chính đáng được hưởng. Hoạt động tham nhũng đặc thù Thế hệ 2.0 là TRAO ĐỔI BẮT BUỘC dù một bên không muốn. Văn hóa tham nhũng thế hệ này được công khai chấp nhận và gọi là văn hóa “CHẠY CHỌT”, “chạy” tất cả mọi thứ: quan hệ, bằng cấp, chức tước, đặc quyền và tất nhiên quyền sở hữu đất đai và tài sản công. Đối tượng trực tiếp của tham nhũng thế hệ 2.0 thường là những quyền, lợi và giá trị không phải là vật chất nhưng có thể đễ dàng đổi ra tiền, tài sản, vật chất… Công cụ và lực lượng chống tham nhũng thế hệ 2.0 đều tham gia tham nhũng công khai. Việc chống tham nhũng chỉ làm vì, chiếu lệ, theo kỳ đại hội…và không hề có kết quả vì pháp luật chống tham nhũng vẫn lạc hậu, chỉ qui những hoạt động làm thiệt hại vật chất trực tiếp mới là tham nhũng… Đây là giai đoạn phát triển cực thịnh và tồi tệ, ghê tởm nhất của văn hóa tham nhũng và “chống” tham nhũng xứ ta, suốt khoảng trên 25 năm: tham nhũng là bình thường! Tham nhũng thế hệ 2.0 ở ta đến nay vẫn còn nhiều và khá tinh vi hơn tước kia, nhưng chỉ còn bị coi là tham nhũng vặt… Từ khoảng 2000 đến nay những kẻ có điều kiện để tham nhũng – có chức có quyền - đều giàu có hơn nhiều, không tham nhũng vặt nữa. Tham nhũng do vậy đã phát triển qui mô hơn, thành các tổ chức, đường dây dọc ngang các tổ chức xã hội và các ngành kinh tế, tôi gọi là tham nhũng thế hệ 3.0! để nhắm tới những “quả” rất lớn. Để làm việc đó những kẻ tham nhũng Thế hệ 3.0 phải bày binh bố trận rất công phu và khá lâu từ trước khi hành động để chiếm các lợi thế “canh tranh”, chiếm những quyền lợi và giá trị phi vật chất, tài sản vô hình của cơ quan, công ty nhà nước như: quyền thương hiệu, quyền kinh doanh với công ty, quyền đại diện; quyền sở hữu một phân công ty (qua cổ phần hóa “bèo”); chiếm các tài sản vô hình như thương hiệu, quyền đại diện, thị trường và thị phần của công ty; chiếm quyền tiếp cận sớm các thông tin kinh doanh, đầu tư, nhân sự, chính sánh, tài chính…; quyền cài người của mình vào các vị trí chủ chốt từ trên xuống dưới….; quyền chọn các đối tác làm ăn với công ty không qua các tiêu chuẩn minh bạch (công ty sân sau), quyền đấu thầu… Động từ chủ đạo của hoạt động tham nhũng thế hệ 3.0 là THIẾT KẾ và BỐ TRÍ, XÂY DỰNG và ĐẦU TƯ, có nghĩa là đằng sau mỗi đường dây và hệ thống tham nhũng đều có một vài ông trùm chủ chốt ở các vị trí quyền hành rất cao, chót vót…và các bộ óc sáng láng. Họ có thể kiểm soát mọi khía cạnh của hoạt động tham nhũng của mình một cách rất tinh vi, thường ở cấp độ và trình độ cao hơn, nhanh hơn những người có trách nhiệm chống tham nhũng rất nhiều. Về pháp lý mà nói, không cơ quan nào có thể có cơ sở mà bắt bẻ tính hợp pháp của một phi vụ của một đường dây tham nhũng thế hệ 3.0, trừ… một đường dây tham nhũng khác đanh cạnh tranh tồn tại trên cùng một “ngư trường đánh bắt” hay “nông trường bò sữa” là các dự án lớn và các tập đoàn nhà nước. Nói tóm lại, tham nhũng thế hệ 3.0 bát đầu bằng những việc “vô hại” hay “có ích” là chiếm các giá trị vô hình, phi vật chất, giá trị tri thức, thông tin, kiến thức, quyền sở hữu các giá trị phi vật chất…của các tập đoàn, tổng công ty nhà nước cho các công ty “sân sau” và “người nhà”, rồi sau đó “đàng hoàng” và “hợp pháp” dùng các lợi thế đó để thắng thầu công khai, rồi thông qua các hợp đồng đầu tư, hợp tác cũng rất “công khai minh bạch” chuyển những khối tài sản khổng lồ của nhà nước sang các đối tác và các nhà thầu sân sau, chiến hữu, sau đó chia nhau tài sản tuồn ra và giải thể hay “mua lại” các công ty sân sau đó, tùy tình hình cụ thể… . Tại sao họ có thể làm vậy? Vì đó là những giá trị rất lớn mà các tập đoàn, công ty nhà nước không hề “phải” quản lý và có thể phân phát cho không, nhưng ai chiếm được và đã sẵn sàng để có thể dễ dàng biến chúng thành những khối tiền không lồ, “sạch sẽ”. Có nghĩa là họ đã rửa xong đồng tiền “bẩn” trước khi tham nhũng ra những đồng tiền đó. Và đó là không còn là những nhóm người nữa, mà là những tập đoàn tham nhũng “siêu quốc gia”… Vì thế, các cơ quan chống tham nhũng hiện nay với luật pháp và lực lượng chống tham nhũng của thế hệ 1.0 hay 2.0 không thể “sờ” tới thế hệ 3.0 được (vì họ chỉ nhận và chia nhau tiền từ các đối tác xa lắc xa lơ ở các thời điểm khác xa hoàn toàn mà khó ai có thể có điều kiện và có đủ dũng cảm để lần ra manh mối). Thế còn tham nhũng thế hệ 4.0? Vâng, chừng 5 năm gần đây xã hội ta cũng đã có những vụ tham nhũng trình độ cao hơn nữa đó. Đó là những tham nhũng nhằm thông đồng và can thiệp vào hệ thống làm ra chính sách, qui hoạch, luật lệ, qui định… từ cấp tỉnh đến trung ương, nhằm mang lợi ích không công bằng cho một nhóm nhỏ đã được chuẩn bị từ trước. Đó cũng là những tham nhũng để tạo ra dư luận xã hội qua các cơ quan thông tấn tham nhũng nhằm có lợi cho một nhóm nào đó. Tham nhũng thế hệ 4.0 của ta sẽ còn nở rộ và làm đau đầu dài lâu cả các chính phủ trong sạch nhất sau này (nếu có!). Tham nhũng thế hệ 3.0 và 4.0 hiện nay hầu như chưa được đưa ra xét xử vụ nào ở xứ ta, vì làm sao xét và xử tham nhũng trình độ 3.0 hay 4.0 bằng luật chống tham nhũng Thế hệ 1.0 hay 2.0? Vì thế theo Luật thì “nước ta làm gì có tham nhũng!” Vụ PMU 18 hay Đại lộ Đông Tây là dạng 2.0 còn khá thô thiển. Muốn chống tham nhũng thế hệ 3.0 và 4.0 vốn đang cùng tồn tại hiện nay ở ta rất đơn giản, nhưng chính phủ không dám làm, muốn làm: chỉ cần học theo các bộ luật chống tham nhũng của các nước phát triển như Canada, Thụy điển , Sing, Phần lan…, bắt đầu từ minh bạch và kê khai tài sản quan chức… (Ối, thôi!) Tham nhũng để gây ảnh hưởng lên, hay dựng lên những kẻ siêu tham nhũng – những người ở vị trí cao nhất trong xã hội có thể viết ra chính sách “phù tham nhũng”, là tham nhũng cấp cao nhất, thế hệ 5.0, ở ta có không? Tôi đành để câu hỏi “Lã Bất Vi” này cho thời gian trả lời thôi. Tham nhũng chỉ có thể được ngăn chặn hữu hiệu bởi hệ thống chống tham nhũng thuộc thế hệ tương đương hoặc cao hơn. VN hiện nay tham nhũng hoành hành ở đủ mọi cấp độ cùng lúc, từ 1.0 đến 5.0 trong khi hệ thống pháp lý và nhân lực chống tham nhũng chỉ ở cấp độ 1.0 và 2.0… Đó là chưa kể đến tinh thần chống tham nhũng hiện nay: gần như bằng không – Zero. Nếu ở giai đoạn 30 năm đầu lực lượng chống tham nhũng của VN rất mạnh nhưng cực tả, cực đoan, nhiều khi không cần dựa trên luật pháp, thì đến giai đoạn sau cả xã hội lại hầu như đầu hàng tham nhũng, chuyển sang thái cực ngược lại: cực loạn. Đến giai đoạn sau nữa thì sợ và tránh né tham nhũng, muốn ngăn chặn cũng bất lực hoàn toàn trước tham nhũng thế hệ 3.0. Với tham nhũng 4.0 thì xã hội hầu như không có khái niệm và thông tin để mà chống đỡ, nếu ai đó nhận thấy thì liền phải phủ nhận nó, nếu không thì nguy hiểm cận kề... Những đường dây tham nhũng thế hệ 3.0 có rất nhiều trong mọi tập đoàn, tổng công ty nhà nước, còn loại 4.0 thì đang tồn tại như dạng “độc quyền” của những tầng lớp chóp bu và “thượng lưu” mà thôi. Khi tham nhũng 3.0 và 4.0 đã cùng nhau hoạt động thì hầu như chẳng Luật pháp nào động đến được. Một ví dụ cụ thể là số tiền trên 86,000 tỷ đồng Vinashin vay rồi làm bốc hơi hết cũng là thông qua hệ thống và mạng lưới tham nhũng khổng lồ (gồm vài trăm công ty con) thế hệ 3.0 này. Luật pháp và lực lượng chống tham nhũng hiện nay (hạng 1.5!) chỉ có hy vọng “đánh đu” giữa các tập đoàn tham nhũng 3.0 hay 4.0 khi chúng cạnh tranh loại bỏ nhau, để lập công mà thôi. Nếu các tập đoàn tham nhũng thế hệ 3.0 và 4.0 đoàn kết với nhau (thỏa thuận ăn chia “ghế” xong), và thường là thế, thì xã hội ta “yên ổn” và “trong sạch” hoàn toàn, “chẳng có tham nhũng gì sất!”, chỉ có dân Việt ta, nước Việt ta là ngày càng mạt vận mà thôi. Thực tế VN hiện nay là tham nhũng tràn lan mà chẳng thấy tham nhũng đâu cả (?) là vì như vậy đó: những kẻ tham nhũng thế hệ 3.0 và 4.0 lại là người được “tin cậy” giao “nhiệm vụ cao cả” là chống tham nhũng, nên họ chỉ tìm diệt tham nhũng thế hệ 1.0 và 2.0 “tượng trưng”, rồi lại phải nuôi cho “tham nhũng vặt” 1.0 và 2.0 sinh sôi đàn đống để mà có thể diệt nó, như Càn Long nuôi một lũ heo Hòa Thân, lâu lâu đem thịt vài “con”, vừa có của ăn vừa có công với thiên hạ… và cả có nơi đổ tội làm nghèo đất nước nữa chứ - cho những con heo con Hòa Thân tham nhũng thô thiển thế hệ 1.0+2.0 (chết là đáng lắm các con ơi!) Vậy, tham nhũng ở VN có thể ngăn chặn được không? Ai có thể ngăn chặn bản chất của chính mình? Phan Châu Thành1 like
-
Vì sao ruột của con người lại không dùng để ăn thịt? Vì sao - Phát Hiện Lý Thú 1.Tạo hóa sanh ra con người để ăn Thực Vật thay vì ăn Động Vật: Ngày nay, các khoa học gia đã bỏ nhiều thì giờ để thí nghiệm về cơ thể loài người, đã đi đến kết luận rằng : Loài người được tạo hóa sanh ra để ăn rau cải, hoa quả tức ăn chay thay vì ăn mặn, vì hai hàm răng của con người được cấu trúc một cách đặc biệt, khéo léo, lại có răng hàm cùng xương quai hàm để nghiền và nhai thức ăn rất giống loài động vật ăn rau quả, không ăn thịt sống. Trong khi đó, loài động vật ăn thịt sống, thì có răng cửa và bộ răng nanh bén nhọn để xé thịt xong rồi nuốt trọng luôn. Ngoài ra, tạo hóa cũng tạo cho những động vật này có đường tiêu hóa chiều dài gấp 3 lần chiều dài của thân thể, vì lẽ đó giúp cho sự phế thải các chất cặn bã qua đường ruột bài tiết nhanh chóng hơn, cho nên ít bị nhiễm độc tố do chất thịt gây ra đối với loài người. Trong khi đó, loài người và những động vật ăn rau cải, hoa quả thì có đường tiêu hóa (đường ruột) chiều dài gấp 12 lần chiều dài của thân thể, tức dài gấp 4 lần của những động vật ăn thịt, cho nên, loài người chúng ta ăn chay là đúng nhứt, bởi vì mỗi lần chúng ta ăn chay, thấy trong mình nhẹ nhàng, trong khi chúng ta mỗi lần có đám tiệc ăn mặn, thì thấy trong mình nặng nề, khó chịu lại buồn ngủ nữa, bởi thận làm việc thật vất vả để thanh lọc những độc tố cặn bã của thịt đưa ra khỏi máu và đào thải ra ngoài bằng đường bài tiết. Đối với người còn tuổi thanh xuân, thận còn khỏe mạnh, thì chưa ảnh hưởng gì cả, trái lại, đối với những người lớn tuổi, thận càng ngày càng yếu đi, thì việc thận thanh lọc sẽ trở nên khó khăn, đôi khi thận không thể loại hết những cặn bã độc tố, làm cho máu dơ, từ đó dễ sanh bịnh là thế đó. Đặc biệt, những động vật ăn mặn, ví như chó, cọp, sư tử v.v... mỗi lần có trời nắng gắt, chúng ta thấy chúng nó le lưỡi để thở, bởi vì, chúng nó đổ mồ hôi bằng lưỡi, trái với loài người hay những động vật ăn chay thì mồ hôi bằng lỗ chân lông. Hơn nữa, trong bao tử của những động vật ăn mặn, có chứa dịch tiêu hóa tới 20 lần lượng hydrochloric acid nhiều hơn trong bao tử của loài người hay những động vật ăn chay, nhờ vậy những động vật ăn thịt sống tức ăn mặn khi thực phẩm vào bao tử sẽ tiêu hóa nhanh chóng và dễ dàng. Con người ăn chay sẽ tránh được bịnh và có sức khỏe không thua người ăn mặn nếu ăn đầy đủ chất bổ 2. Con người ăn chay sẽ tránh được bịnh và có sức khỏe không thua người ăn mặn nếu ăn đầy đủ chất bổ Như đã trình bày ở trên, tạo hóa sanh ra con người để ăn chay, cho nên chúng ta áp dụng đúng sự ăn uống, thì không khác chúng ta thực hiện câu : Thuận thiên giả tồn, nghịch thiên giả vong. Bởi vì, chúng ta ăn mặn, sẽ dễ dàng đưa đến bịnh tim (xin xem về chất béo đã dẫn ở trước), gần đây các Bác sĩ chuyên gia đã bỏ nhiều thì giờ nghiên cứu, đưa đến kết quả chánh xác là người ăn thịt nhiều, thì có liên hệ mật thiết với chứng bịnh ung thư ruột già, bởi vì trong thịt chứa nhiều chất béo, nhưng lại ít chất xơ (fibre). Tiến sĩ Sharon Fleming thuộc Phân Khoa Dinh Dưỡng của Viện Đại Học California ở Berkeley đã viết rằng : "Ăn chay trường sẽ ngăn ngừa và làm giảm thiểu sự nguy hiểm của bịnh ung thư ruột già và ruột cùn". Trong khi đó, bài tường trình của Học Viện Khoa Học Quốc Gia Hoa Kỳ năm 1983, các chuyên gia y tế đã ân cần khuyên bảo dân chúng như sau: "Chúng ta có thể ngăn ngừa các chứng ung thư thông thường bằng cách tiết chế ăn thịt và nên ăn nhiều rau cải, hoa quả và ngũ cốc". Riêng ông Rollo Russell cũng phát biểu : "Tôi đã tìm thấy trong 25 quốc gia tiêu thụ thịt nhiều nhất trên thế giới, đã có tỷ số dân chúng mắc bịnh ung thư cao nhứt và chỉ có một quốc gia ở hàng tỷ số thấp. Ngược lại, trong 35 quốc gia không dùng thịt hay ít dùng thịt, không có quốc gia có tỷ số cao dân chúng mắc bịnh ung thư cả". Gần đây, các khoa học gia đã phát hiện nhiều chất hóa học độc hại đã tiềm ẩn trong thịt các loài thú mà khách hàng tiêu thụ không hề hay biết, bằng chứng là bên Anh Quốc có bò khùng và kế đến Bỉ Quốc có gà nhiễm độc, bởi vì những mánh khóe của một số xưởng sản xuất thực phẩm phối hợp với các nhà chăn nuôi, muốn các thú vật này lớn nhanh lại béo mập để bán ra thị trường hốt được nhiều bạc, để rồi khi phát giác thì đưa đến những người dùng thịt này phải bịnh, thì việc đã muộn rồi. Ngoài ra, họ cũng dùng thuốc để nuôi con vật ngay khi chúng còn trong bụng mẹ, để sau này con vật sẽ lớn và mập nhanh. Trong khi đó, những thịt con vật sau khi sát sanh, thì được ướp bởi chất thuốc Sodium Nitrate và Sodium Nitrite để giữ thịt tươi như mới tiêu sanh hoặc lâu hư thúi, làm cho người tiêu thụ không biết thịt con vật đó đã sát sanh thời gian quá lâu, bởi vì, những chất hóa học này làm cho chúng ta khó phân biệt được thịt để lâu ngày và thịt mới xẻ ra. Vì vậy, các chất hóa học này sẽ làm tai họa cho những người mua thịt và sẽ đem đến bịnh hoạn bất ngờ không lường được. Tuy nhiên, nhờ các chất hóa học này, hằng năm kỹ nghệ thịt đã thu vào một số lợi tức khổng lồ, song cũng đã gây ra biết bao sự chết chóc vì bệnh tật mà những khách hàng ngây thơ là kẻ vô tình gánh chịu. Hiện nay chưa co một quy luật nào rõ ràng bắt buộc các nhà chăn nuôi cũng như kỹ nghệ sản xuất thịt phải ghi rõ thành phần các loại thuốc mà họ đã dùng trong lúc chăn nuôi và để giữ gìn được lâu bền. Năm 1972 Bộ Nông Nghiệp Hoa Kỳ đã khám phá ra chất thạch tín (Arsenic) đã được sử dụng trong kỹ nghệ nuôi gà, nên đã khuyến cáo kỹ nghệ này chỉ được dùng tối đa 15% chất độc tố thạch tín mà thôi. Ngoài những hóa chất độc hại được một số xưởng sản xuất thực phẩm phối hợp với các nhà chăn nuôi các thú vật và các kỹ nghệ sản xuất thịt cho vào thịt bán cho người tiêu thụ vừa kể trên, còn có người kiểm soát thịt cũng bị các kỹ nghệ thịt mua chuộc hoặc thông đồng ăn chia hay vì số lượng thịt khổng lồ, nên việc kiểm tra thịt không được chu toàn, nên cũng thường đưa đến số lượng thịt bị hư hay nhiễm độc lọt qua sự kiểm soát bất cẩn và đưa đến người tiêu thụ dễ dàng, để rồi số người này sẽ bị bịnh khi ăn số thịt hư nhiễm này. Trong một bản báo cáo của Cơ Quan Kiểm Dịch Hoa Kỳ năm 1972 xác nhận rằng có rất nhiều xác thú vật đã thông qua sự kiểm soát sau khi những bộ phận bị nhiễm bịnh được cắt bỏ hoặc tẩy rửa sạch. Điển hình gần 100.000 con bò bịnh ung thư mắt và 3.596.302 bịnh bướu gan súc vật đều qua mắt sự kiểm soát... Đặc biệt hơn nữa, các nhà nghiên cứu về ăn thịt đối với những động vật không ăn thịt như Voi, Trâu, Bò, Ngựa, Gà, Khỉ v.v... thì những động vật này vẫn có đầy đủ chất dinh dưỡng, như là chất Protein và chúng vẫn mạnh khỏe như thường. Giả thử chúng ta đem những động vật trên phân ra làm 2 nhóm, nhóm ăn thịt và nhóm không ăn thịt, rồi nuôi riêng rẽ một thời gian, chúng ta tin rằng nhóm ăn thịt sẽ lần hồi bịnh hoạn, không thể phát triển và sanh sản bình thường được, bởi vì, chúng nó là loài ăn cỏ, ăn ngũ cốc, ăn rau cải... Mặt khác, một cuộc nghiên cứu của Tiến sĩ Fred Stare thuộc Viện Đại Học Harward và Tiến sĩ Mavyn Hardinge thuộc Viện Đại Học Loma Linda cũng đem thí nghiệm bằng một cuộc so sánh giữa hai nhóm người ăn mặn và người ăn chay. Cuối cùng kết quả cho thấy nhóm người ăn chay đầy đủ tức là hằng ngày ăn ngũ cốc, rau đậu (nhứt là đậu nành, đậu phộng), hoa quả... thì có chất lượng amino acids trong cơ thể họ tăng gấp đôi nhóm người ăn mặn nhu cầu cần thiết. Ngoài ra, có nhiều cuộc thí nghiệm khác đã minh xác sự ăn chay đúng cách và đầy đủ sẽ cung cấp nhiều chất dinh dưỡng hơn ăn mặn. Hơn nữa, một cuộc nghiên cứu khác nữa của Tiến sĩ J. Lotekyo V. Kipani thuộc Viện Đại Học Bruxelles Bỉ Quốc cũng đem lại kết quả là người ăn chay đầy đủ và đúng cách, họ có sức khỏe dẻo dai hơn những người ăn mặn gấp đôi hay ba lần. Trường hợp này, không khác Giáo sư Lrwig Fischer thuộc Viện Đại Học Yale, sau nhiều cuộc thí nghiệm, đã long trọng tuyên bố rằng : "Ăn thịt hay ăn những vật có nhiều chất đạm, sẽ làm cho con người không đủ sức chịu nhọc, không khác nào như người uống rượu". Do vậy, người ăn mặn không có sức mạnh dẻo dai chịu đựng bằng người ăn chay trường. Bằng chứng là hai ví dụ đã đăng trong Tạp chí Liên Hoa số 12, tháng 12 năm Mậu Tuất : 1. Nhà vô địch Karl Mann chạy bộ từ Berlin tới Dresden đường dài ngót 200 cây số, chỉ mất 22 giờ đồng hồ, là người ăn chay trường. 2. Năm 1957, tại vận động trường Melbourne (Australia) một lực sĩ cũng ăn chay trường được lãnh 2 huy chương vàng trong cuộc tranh tài quốc tế này Do những sự dẫn trình ở trên, chúng ta đi đến kết luận là loài người do tạo hóa sanh ra để ăn chay, ăn chay sẽ tránh được bịnh hoạn và ăn chay đầy đủ thì sẽ có sức mạnh dẻo dai hơn người ăn mặn. Ăn chay sẽ đem lại hữu ích cho bản thân và cho người khác xung quanh 3. Ăn chay sẽ đem lại hữu ích cho bản thân và cho người khác xung quanh Như chúng ta đã biết, việc ăn chay đem lại hữu ích cho bản thân như : - Tránh được bịnh hoạn - Có sức khỏe hơn người ăn mặn Ngoài ra, ăn chay sẽ đem lại nghĩa cử cao đẹp như : • Tránh sát sanh : Đối với người Phật tử trong Đạo Phật, cần phải biết giữa "Tam Quy và Ngũ Giới". Tam Quy là ba phép gìn giữ về : Quy y Phật, Quy y Pháp và Quy y Tăng. Còn Ngũ Giới là năm điều cấm kkhông được : Sát sanh, Đạo tặc, Tà dâm, Nói dối và Uống rượu, cho nên, nếu chúng ta ăn chay thì chúng ta đã thực hiện được điều thứ nhứt trong ngũ giới cấm trong Đạo Phật rồi, từ đó chúng ta tránh được giết hại những sanh vật để cung ứng thức ăn hằng ngày cho chúng ta. Trong hàng Phật tử, có người ăn chay : * 2 ngày tức nhị chay, cứ mỗi tháng ăn chay ngày : Mùng một và ngày rằm (15). * 4 ngày tức tứ chay, cứ mỗi tháng ăn chay ngày : Mùng một, mùng tám, ngày rằm (15) và 23. * 6 ngày tức lục chay, cứ mỗi tháng ăn chay ngày : Mùng một, mùng tám, mười bốn, rằm, 23, 29 (nếu tháng thiếu) hay 30 (nếu tháng đủ). * 10 Ngày tức thập chay, cứ mỗi tháng ăn chay ngày : Mùng một, 10, 14, 15,18,23,24,28,29 và 30( nếu tháng thiếu ăn chay từ ngày 27, 28 và 29). 1 tháng tức nhứt nguyệt chay, người thọ chay thường ăn chay liên tục, xem như ăn chay trường một tháng hằng năm vào tháng giêng hoặc tháng bảy, bởi vì trong một năm tháng giêng có ngày rằm tức lễ thượng nguyên đầu năm và tháng 7 có ngày rằm tức lể Vu Lan. 3 tháng tức tam nguyệt chay, người thọ chay thường ăn chay trường liên tục ba tháng vào các tháng : Giêng, Bảy và Mười, bởi vì 3 tháng này có các ngày rằm lớn : Thương Ngươn (tháng giêng), Trung Ngươn (tháng bảy nhằm lễ Vu Lan) và Hạ Ngươn (tháng mười). Trường chay là người thọ chay liên tục, xem như người xuất gia suốt đời, hằng ngày chỉ có ăn chay bằng rau cải, hoa quả với tương chao mà thôi, mỗi ngày cũng ăn hai bữa chánh, đôi khi, có người thọ chay trường, mỗi ngày chỉ ăn một bữa vào giữa trưa tứ ngọ chay. - Tránh được lượng nước ô nhiễm môi sinh : Theo Cơ quan Nghiên cứu Nông Học Hoa Kỳ đã cho biết những cặn bã do các lò sát sanh thải ra làm dơ bẩn sông rạch, đưa đến các nguồn nước thiên nhiên tinh khiết càng ngày cạn dần. Bằng chứng là năm 1973, tờ báo New York Post đã đăng một tin đáng cho chúng ta chú ý như sau : Một lò sát sanh lớn tại Hoa Kỳ, chuyên cung cấp thịt gà, đã sử dụng tới 100 triệu gallon nước mỗi ngày tương đương lượng nước cung cấp cho một thành phố có 25.000 dân cư. Ngoài ra, trong quyển Population, Resources and Environment (Dân số, Tài nguyên và Môi sinh), tác giả Paul và Anne Ehrlich đã so sánh : Nếu chúng ta muốn thu hoạch 1 cân lúa mì, chỉ cần 60 cân nước, nhưng nếu chúng ta muốn sản xuất 1 cân thịt, phải tiêu thụ từ 2.500 đến 6.000 cân nước. Do vậy, nếu chúng ta ăn chay sẽ tránh được lượng nước ô nhiễm môi sinh. - Tránh được sự xung đột xã hội cũng như phí phạm đất đai và đem lại sự an vui, sung túc cho mọi người Quả thật vậy, nếu mọi người trên quả đất này ăn chay, thì con người sẽ giảm bớt sự tham, sân, si. Bởi vì, chúng ta sẽ không giết những loài vật như : Gà, Vịt, Heo, Bò... để cung phụng cho chúng ta bữa cơm hằng ngày và từ đó thế giới này sẽ không còn những lò sát sanh cũng như những tiếng rên la vì chết oan của chúng, do nhu cầu ăn mặn, cho nên thế giới này mới có cảnh nước lớn đến lấn chiếm nước nhỏ, từ đó gây nên chiến tranh. Một nhà Bác học đã nói : Muốn thế giới hòa bình, bắt đầu trong bữa ăn của con người phải không có một chút máu hay một miếng thịt, cá... Đây là lời nói rất đạo đức, không khác với câu của cổ nhân là : "Nhứt thế chúng sanh vô sát nghiệp, hà sầu thế giới động binh đao"; xin tạm dịch : Nếu tất cả mọi người không sát hại lẫn nhau, thì sợ gì thế giới có chiến tranh. Trong gia đình hay ngoài xã hội cũng thế, nếu chúng ta ăn mặn, thì đôi khi vì miếng ăn mà tranh giành, để rồi đưa đến kẻ mạnh ăn hiếp kẻ yếu, giết hại lẫn nhau, làm cho huynh đệ tương tàn, nồi da xáo thịt. Nên chúng ta ăn chay, thì sẽ tránh được sự xung đột xã hội là thế đó. Ngoài ra, nếu chúng ta ăn chay, thì chúng ta sẽ không thực hiện những trại chăn nuôi thú vật làm phí phạm đất đai và chúng ta cũng không đem nông phẩm quá nhiều để đổi lại miếng thịt trên bàn ăn của chúng ta. Theo tài liệu của Bộ Nông Nghiệp Hoa Kỳ, trên 90% tổng sản lượng lúa mì tại Hoa Kỳ được dùng vào kỹ nghệ chăn nuôi, cứ 16 cân lúa mì đem chăn nuôi chỉ thâu vào không đầy 1 cân thịt và theo Tiến sĩ Aaron Altshul, viết trong tác phẩm Protein : Their Chemistry and Politics (Protein : Hóa học và Chánh trị) đã viết : "Nếu chúng ta sử dụng một diện tích đất một mẫu Anh (4.046m2) để trồng hoa mầu cung cấp lương thực cho người ăn chay, chúng ta sẽ được một sản lượng gấp 20 lần hơn, nếu chúng ta sử dụng đất ấy để chăn nuôi sản xuất thịt". Hiện nay ở Hoa Kỳ, phân nửa diện tích đất trồng trọt được dùng để sản xuất thực phẩm gia súc. Nếu trên quả đất này, chúng ta đều trồng hoa mầu, nông phẩm cho mọi người, thì chúng ta sẽ đầy đủ lương thực cung ứng cho 20 tỷ dân một cách dễ dàng, từ đó, chúng ta sẽ không sợ nạn nhân mãn và việc phá thai khiến hằng năm có đến 50 triệu thai nhi trên thế giới đã bị giết một cách oan uổng cũng như không còn xảy ra nạn đói hay những cuộc chiến tranh xảy ra việc tranh giành sự sống nữa. Như dẫn chứng ở trên, nếu chúng ta dùng đất đai, nông phẩm để thực hiện trại chăn nuôi, ngõ hầu cung cấp cho chúng ta hằng ngày những miếng thịt trên bàn ăn thì quá phí phạm, hơn nữa, nếu chúng ta giết một con bò, thì chúng ta sẽ không đem lại lợi tức bằng chúng ta nuôi một con bò, để nó cung cấp cho chúng ta sữa và phó sản một cách liên tục. Đây là những thực phẩm có chất bổ dưỡng cao. Ở Hoa Kỳ, sản phẩm của sữa rất dồi dào. Đôi khi người ta còn muốn hạn chế bớt việc sản xuất. Ông Sam Gibbons, Dân Biểu thuộc Tiểu Bang Florida, gần đây đã báo cáo lên Quốc Hội rằng, chính phủ hiện nay đang bị bắt buộc phải dự trữ sản lượng sữa trên mức an toàn. Ông nói : "Chúng ta hiện nay đang quản thủ đến 440 triệu cân sữa, 545 triệu cân phómát và 765 triệu cân sữa bột. Hằng tuần mức tồn kho vẫn còn tăng lên 45 triệu cân, cho nên Ông khuyến cáo chánh phủ nên xuất kho hàng triệu cân để cung cấp hoặc viện trợ cho những dân tộc nghèo đói". Được biết, ở Hoa Kỳ chỉ có 10 triệu con bò sữa thôi, mà có sữa và phó sản của sữa như thế đó. Thật có lợi hơn chúng ta giết con bò để lấy thịt vô cùng. Do vậy, chúng ta ăn chay cũng đem lại sự an vui, sung túc cho mọi người là thế đó. Để tạm kết thúc bài này, trước hết tôi xin cảm ơn các tác giả và các bậc cao minh trí thức đã viết lên những tác phẩm cùng những bài viết mà tôi đã mạn phép trích dẫn, vì không biết địa chỉ, nên tôi không thể xin phép trước được, đồng thời nếu có gì sơ xuất, kém khuyết xin quý vị bổ túc và tha thứ cho tôi. Bài này, để cống hiến cho quý bà con đồng hương thường lãm và hy vọng rằng góp phần mọn cho việc ăn chay đem lại ích lợi thiết thực cho bản thân cũng như mọi người xung quanh hơn ăn mặn. - Lâu nay giới Khoa học vẫn khẳng định con người thuộc Động vật ăn "Tạp". :D1 like
-
Trong bài viết "Nhân chuyện cái cung tên siêu hình của Phong Thủy", tôi đã đặt một giả thuyết rằng: Sự đột biết trong phát triển của tự nhiên trong quá trình tiến hóa của con người, khiến cho nó tạo ra những phương tiện nhận biết mới và nhận biết được những tồn tại tự nhiên mà các giác quan phổ biến của con người bình thường không nhận thức được. Tức là tôi xác định sự tồn tại do tính phát triển đột biến của một cơ chế vật chất trong cấu trúc sinh địa có trong cơ thể con người, có khả năng nhận biết những dạng tồn tại của vật chất mà các giác quan phổ biến của con người không nhận biết được. Như vậy trong vấn đề "Hiện tượng ngoại cảm" có hai đối tượng khách quan tồn tại đòi hỏi khoa học phải giải thích: 1- Bản chất khả năng của các nhà ngoại cảm. Mà tôi đã giải thích như trên. Nhưng đây mới chỉ là một vế của vấn đề. Giả thiết rằng giả thuyết của tôi đúng thì vế thứ hai không kém phần bí ẩn, chính là đối tượng của phương tiện nhận thức có trong những nhà ngoại cảm. Hay nói rõ hơn: Hiện tượng mà con người gọi là linh hồn. 2 - Bản chất của linh hồn - đối tượng nhận thức của các nhà ngoại cảm. Đây là một bí ẩn cần giải thích đồng bộ với hiện tượng ngoại cảm. Vì nó là đối tượng nhận biết của các nhà ngoạii cảm. Nếu không giải thích được hiện tượng này thì cách giải thích của tôi - cho dù được tất cả giới khoa học thừa nhận như một giả thuyết có cơ sở - thì nó vẫn là một hoài nghi. Và điều này, thật kỳ lạ - nó đã được để cập đến trong Lý học Đông phương. Nói rộng hơn: Nó đã được đề cập đến trong minh triết Đông phương nói chung. Tôi tin rằng: Các nhà khoa học sẽ dễ dàng chú ý hơn đến Lý học Đông phương và hiện tượng ngoại cảm, nếu cuộc thí nghiệm vĩ đại của họ - đi tìm "Hạt của Chúa" - thất bại. Điều nay đã được tôi dự báo và là một trong ba dự báo của tôi liên quan đến tri thức khoa học hiện đại - nhân danh Lý học Đông phương có cội nguồn văn hiến Việt. Còn tiếp1 like
-
Chỉ đường tìm mộ liệt sĩ. Một hiện thực khách quan và bí ẩn. Tiếp theo Tôi, Vịnh và một cậu nữa đi taxi riêng ra Nghĩa trang Liệt sĩ xã Phổ Nhân. Các cựu chiến binh - bạn chiến đấu của liệt sĩ Vũ Văn sơn ra sau cùng với đồ lễ, vì xe của chúng tôi hơi nhỏ. Chúng tôi hành lễ ở đây rất nghiêm cẩn và thành tâm. Tôi hy vọng mọi chuyện sẽ tốt đẹp và dự báo của tôi về việc phải đào tìm mộ lần thứ hai sẽ không xảy ra. Nghĩa trang liệt sĩ xã Phổ Nhân - Một địa danh được định vị chính xác trên bản đồ. Chuẩn bị đồ lễ cho đồng đội đã hy sinh.... Đặt lễ Lễ bạc, lòng thành, cầu xin anh linh các vong hồn liệt sĩ....phù hộ Thắp nhang cho đồng đội đã an nghỉ nơi đây..... Hóa vàng...... Trước khi quay về thửa ruộng tìm mộ liệt sĩ, tôi kịp chụp hình những bông hoa màu tím trồng bên nhà thờ của nghĩa trang. Tôi có cảm tình với những sắc hoa màu tìm. màu của sự hy vọng. Tôi ôm màu tím qua thu chết. Để mãi cô liêu với má hồng..... Tôi mong họ sẽ tìm được mộ liệt sĩ Vũ Văn Sơn để trọn nghĩa tình với người đã khuất. Còn tiếp1 like
-
Niệm Phật giải thoát. 1-Trước khi ngủ nên niệm NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT để an dưỡng tánh lành an lạc, niệm liên tục cho đến khi ngủ quên, trừ được ác mộng. 2-Sau khi thức dậy còn bản tâm thanh lương an lạc nên niệm NAM MÔ THANH LƯƠNG ĐỊA BỒ TÁT để giữ lương tâm, lương tri của tánh lành an lạc. 3-Trước khi làm việc nên niệm NAM MÔ ĐẠI HẠNH PHỔ HIỀN BỒ TÁT để nhớ làm gì cũng làm điều lành. 4-Trước khi nói dù nói với bất cứ ai đều nên niệm NAM MÔ DIỆU ÂM BỒ TÁT để nhớ lời nói sâu sắc ngọt ngào, không nói lời vô ích. 5-Tránh sự lười biếng lơi tâm nên niệm, NAM MÔ THƯỜNG TINH TẤN BỒ TÁT để nhắc mình luôn luôn tinh tấn lâp công bồi đức. 6-Trong đời sống tu hành có gặp những sự cố khó khăn gian khổ hiểm nguy nên niệm NAM MÔ CỨU KHỔ CỨU NẠN QUAN THẾ ÂM BỒ TÁT. 7-Khi muốn làm việc gì hay muốn giúp đỡ ai nên phát nguyện và niệm NAM MÔ ĐẠI NGUYỆN ĐỊA TẠNG VƯƠNG BỒ TÁT. 8-Có lúc bị nghiệp đẩy đưa lấn cấn hay vì bệnh đau yếu đuối nên niệm NAM MÔ ĐẠI HÙNG ĐẠI LỰC ĐẠI THẾ CHÍ BỒ TÁT. 9-Khi đọc hay xem sách có câu nào khó hiểu hay ai hỏi câu giáo lý nào không thông tỏ nên niệm NAM MÔ ĐẠI TRÍ VĂN THÙ SƯ LỢI BỒ TÁT.1 like
-
Các bạn thân mến! Tôi nghĩ trong một Diễn đàn về Lý học mà tôi trình bày một bài viết như thế này thật là khác thường, nhưng vì xét cho cùng đây là công việc chẳng đặng đừng do bản chất của Lý học theo tôi vốn không chỉ dừng lại ở mức định tính hoặc chỉ thích hợp với các cuộc lý luận tranh biện. Vì vậy, tương tự như các ngành khoa học lý thuyết khác, tôi xin mạo muội đặt tên cho loại các công trình nghiên cứu về Lý học theo hướng này là "Lý học lý thuyết". Tôi tin rằng bằng con đường này, các nhà nghiên cứu lý học, các nhà khoa học lý thuyết Đông, Tây sẽ có nhiều cơ hội hơn để đóng góp công sức giúp cho Lý học Đông phương với học thuyết Âm Dương Ngũ Hành nền tảng sẽ khoa học hơn, hoàn thiện hơn xứng tầm với một học thuyết chỉ nam cho nhân loại. Tuy công việc còn bề bộn, nhưng vì bạn Laviedt đã giới thiệu bài viết "E7 và Tử vi", vốn còn là bản nháp trên diễn đàn nên tôi đành phải post lại bài viết này. Đại số Lie ngoại lệ E7 và Tử Vi Tóm tắt Tử vi đã có lịch sử rất lâu đời nhưng hiện tại nó vẫn có ảnh hưởng rất đáng kể trong đời sống xã hội ở Phương Đông. Yếu tố thiên văn, dáng vấp thiên văn là những điều rất dễ để nhận thấy trong cách thức trình bày của Tử vi. Tuy vậy quan điểm của bài viết này xem "Bầu trời Hoàng đạo" được liên kết đến các sao trong Tử vi có ý nghĩa chủ yếu là "khung biểu đạt thời gian lý tưởng" để diễn đạt "chương trình sống" của các đối tượng đã đạt tầm "ý thức lượng tử" như con người. Đại số Clifford Cl(16), đại số Octonion, đại số Jordan, đại số Sedenion [1]... và nhất là đại số Lie ngoại lệ E7 theo các nghiên cứu nghiêm túc gần đây cho thấy chúng rất thích hợp để mô tả các ManyWorld trong MacroSpace. Trên thực tế, mỗi một con người đều đạt được bậc liên kết thông tin > 10^18 tubulin nên đều có thể xem là một "Tiểu vũ trụ" (ManyWorld) [2], vì vậy việc sử dụng "đa tạp + nhóm" 133 chiều của đại số Lie E7 trong hệ thống Tử vi của Người xưa, rất nhiều khả năng là hiện thực... 1. Mở đầu Con số 14 từ ngôi sao 14 cánh ở tâm của Trống đồng Ngọc Lủ theo tôi chắc chắn phải mang một thông điệp hoặc một ý tứ nào đó rất thông thái từ Người xưa. Ta hãy để ý nếu cộng con số "18 chim lạc ở vòng ngoài" với "14 chim và 20 hươu ở vòng kế" thì tổng số sẽ bằng 52. Tiếp tục, nếu kể đến "12 người "lớn" ở vòng trong cùng" và "14 cánh sao ở trung tâm" thì tổng số lại bằng 78 (xem hình). Vì vậy, tôi nghĩ thật ngây thơ khi cho rằng đây chỉ đơn giản là sự trùng hợp ngẫu nhiên hoặc chỉ là những họa tiết trang trí. Theo tôi chúng cũng không đơn thuần chỉ là một nghi biểu tín ngưỡng. Tử vi cũng có 14 Chính tinh, bài Tây có 52 lá, bài Tarot có 78 lá... và trên thực tế người ta thường dùng chúng như các công cụ để tiên đoán về vận mệnh của con người. Hệ Can Chi được sử dụng trong Lý học để phân hoạch thời gian, nó có chu kỳ 60 và mỗi cung có ý nghĩa rất riêng mang tính chương trình. Với bán kỳ là 30, có sự liên hệ nào không trong khi nhóm Lie ngoại lệ E8 - 248 chiều cũng có biểu diễn 240 chiều phân hoạch theo 30 cung ?... Thiên bàn, Địa bàn trong Tử vi chia thành 12 cung phải chăng chúng có sự liên hệ nào đó đến các nhóm Lie ngoại lệ G2, F4, E6 và E7 vì cấu trúc biểu diễn của các nhóm này luôn lập thành 12 cung ? (Lưu ý chi tiết 60 là bội số chung nhỏ nhất của 30 và 12) Biểu diễn 72 root system của nhóm E6 - 78 chiều Lý học Đông phương lại có môn Thái ất, với 16 cung phải chăng Thái ất có mối quan hệ nào đó đến đối tượng toán học rất đặc biệt là Sedenion hay đại số Clifford Cl(8) tương tự như cấu trúc IFA của nền văn minh cổ xưa ở Đông Phi [4]?... Trong bài viết này chúng ta sẽ quan tâm đặc biệt đến sự tương đồng về cấu trúc của Tử vi và đối tượng toán học E7 - 133 chiều. Việc đầu tiên chúng ta hãy thử đếm xem Tử vi trên thực tế ứng dụng ở Viêt Nam có tất cả bao nhiêu sao. Hãy đếm một cách tự nhiên, không có sự gò ép, hể có sao nào được biểu diễn trên Địa bàn của Tử vi là ta đếm dù sao đó có lặp lại 2 lần như trong trường hợp các cặp Tuần lộ không vong và Triệt lộ không vong. Theo cách này, Lá số của Tử vi Lạc Việt có đúng 126 sao. Các Lá số trên website xemtuong.com, tuviglobal.com … chỉ đếm được 113 vì người ta đã bỏ qua 4 sao Thiên sát, Ấm sát, Nguyệt sát, Quan sách và chưa kể đến 9 sao lưu động (113 + 4 + 9 = 126). Về chi tiết 126 sao trong các lá số "Tử vi Việt Nam" gồm: + Vòng chính tinh: Tử vi, Liêm trinh, Thiên đồng, Vũ khúc, Thái dương, Thiên cơ - Thiên phủ, Thái âm, Tham lang, Cự môn, Thiên tướng, Thiên lương, Thất sát, Phá quân (14 sao). + Vòng Thái tuế: Thái tuế, Thiếu dương, Tang môn , Thiếu âm, Quan phù, Tử phù, Tuế phá, Long đức, Bạch hổ , Phúc đức, Điếu khách, Trực phù (12 sao). + Vòng Lộc tồn: Lộc tồn, Lực sĩ, Thanh long, Tiểu hao, Tướng quân,Tấu thơ, Phi liêm, Hỷ thần, Bệnh phù, Đại hao, Phục binh, Quan phủ (12 sao). + Vòng tràng sinh: Trường sinh. Mộc dục, Quan đới, Lâm quan, Đế vượng, Suy, Bệnh, Tử, Mộ, Tuyệt, Thai, Dưỡng (12 sao). + Vòng Thiên mã: Thiên mã, Hoa cái, Kiếp sát, Thiên sát, Nguyệt sát, Đào hoa (6 sao). + Thiên quan, Thiên phúc, Thiên trù, Thiên khôi, Thiên việt, Lưu hà, Văn tinh, Bác sĩ, Kình dương, Đà la, Quốc ấn, Đường phù (12). + Hóa lộc, Hóa quyền, Hóa khoa, Hóa kỵ (4 sao). + Thiên khốc, Thiên hư, Long trì, Phượng các, Hồng loan, Thiên hỉ, Thiên đức, Nguyệt đức, Giải thần (9 sao) + Thiên hình, Tả phù, Hữu bật, Thiên giải, Địa giải, Thiên riêu, Thiên y, Âm sát (8 sao). + Địa kiếp, Địa không, Văn xương, Văn khúc, Thai phụ, Phong cáo (6 sao). + Thiên không, Cô thần, Quả tú, Phá toái, Quan sách (5 sao). + Tam thai - Bát tọa (2 sao) + Ấn quang - Thiên quý (2 sao). + Thiên tài - Thiên thọ - Đẩu quân (3 sao). + Thiên thương - Thiên sứ (2 sao). + Hỏa tinh, Linh tinh (2 sao) + Thiên la - Địa võng (2 sao). + Triệt, Tuần (tính là 4 sao, do mỗi sao được gọi tên 2 lần và được an trên 2 cung của Địa bàn). + Lưu Thái tuế, Lưu Lộc tồn, Lưu Thiên mã, Lưu Tang môn, Lưu Thiên hư, Lưu Thiên khốc, Lưu Bạch hổ, Lưu Kình dương, Lưu Đà la (9 sao). Tổng cộng ta có : 14 + 12 + 12 + 12 + 6 + 12 + 4 + 9 + 8 + 6 + 5 + 2 + 2 + 3 + 2 + 2 + 2 + 4 + 9 = 126. Ngoài ra, rất có thể người ta đã không kể đến 7 sao nữa vì 133 mới là con số đủ so với chuổi số đặc biệt 14, 52, 78, 133 và 248. Nhưng với con số 126 sao như trong Tử vi Lạc Việt đã là mô hình tốt, trong biểu diễn nhóm Lie E7 người ta cũng chỉ thể hiện 126 root đỉnh. Lưu ý các phép (+) ở đây là phép lấy tổng trực tiếp trong lý thuyết biểu diễn, chúng làm thay đổi bậc kích thước của đa tạp, không phải là tổng của các giá trị đại số. Thật hay, nếu chúng ta kể đến 7 sao còn lại của vòng Tướng tinh vốn không còn được kể đến trong các Lá số tử vi Việt Nam gồm có “Tướng tinh - Phan an – Tuế dịch -Tức Thân - Tai Sát - Chỉ Bối - Vong Thần” thì ta đã được con số 126 + 7 = 133, tức là đúng bằng kích thước của nhóm Lie ngoại lệ E7 – 133 chiều. Về nguyên tắc chúng ta sẽ dựa vào những điều đã được chứng minh chắc chắn về các nhóm Lie ngoại lệ, đại số Octonion, đại số Clifford, đại số Jordan… cũng như về các cấu trúc octonionic để khảo sát các cấu trúc khả dĩ tương đồng của Tử vi, ta không làm điều ngược lại. Ngoài ra cũng nên lưu ý rằng, việc người ta có thể đã bỏ bớt một số sao mà theo họ là ít quan trọng trong kinh nghiệm giải đoán khi xây dựng một số lá số Tử vi là việc bình thường. Mục đích chính lâu nay vẫn là để “coi bói” chứ không phải là làm toán. Ngay trong khoa học người ta cũng thường giải các bài toán trong điều kiện hạn chế… phù hợp với các ứng dụng cụ thể hơn là giải chính xác. 2. Về các nhóm Lie và Ma phương Freudenthal-Tits... Tự nhiên tồn tại và chỉ tồn tại 5 nhóm Lie ngoại lệ. Nhóm G2 - 14 chiều là nhóm bé nhất trong bộ 5 nhóm Lie ngoại lệ G2 - F4 - E6 - E7 - E8. Nhóm E7 - 133 chiều - 126 root đỉnh là đối tượng mà chúng ta đang quan tâm. Chỉ có một số ít cấu trúc “đa tạp + nhóm” là nhóm Lie. Nhóm Lie của các phép biến đổi trong không gian n-chiều chỉ gồm 4 họ, chúng liên quan đến các không gian đối xứng chẳng hạn như không gian chiếu và các mặt cầu nhiều chiều. Cụ thể ta có: An - nhóm các phép biến đổi unitarity trong không gian phức n chiều CPn = SU(n+1)/S(U(n)xU(1)), mặt cầu S(2n+1) = SU(n+1)/SU(n) Bn - nhóm các phép quay trong không gian thực có số chiều lẻ, mặt cầu trên đó có số chiều chẵn S(2n) = SO(2n+1)/SO(2n) Cn - nhóm các phép biến đổi trong không gian quaternion n chiều HPn = Sp(n+1)/Sp(n)xSp(1), mặt cầu S(4n+3) = Sp(n+1)/Sp(n) Dn - nhóm các phép quay trong không gian thực có số chiều chẵn, mặt cầu trên đó có số chiều lẻ S(2n+1) = SO(2n+2)/SO(2n+1) Bn, Dn là nhóm các phép quay thực, gọi là nhóm Spin(2n+1) và Spin(2n) An là nhóm các phép quay phức tổng quát, gọi là nhóm unitarity SU(n+1) Cn là nhóm các phép quay quarternion tổng quát, gọi là nhóm symplectic Sp(n) Ngoài ra ta chỉ có 5 nhóm Lie khác gọi là các nhóm Lie ngoại lệ : G2, F4, E6, E7, và E8. Các nhóm Lie ngoại lệ đều liên hệ đến các octonion, chúng không làm thành một họ vô hạn do tính không kết hợp của các octonion. G2 là nhóm tự đẳng cấu của các octonion. G2 có 14 chiều, biểu diễn không tầm thường nhỏ nhất là 7 chiều F4 là nhóm tự đẳng cấu của các ma trận octonion 3x3. F4 có 52 chiều - 48 root đỉnh, biểu diễn không tầm thường nhỏ nhất là 26 chiều. E6 là nhóm F4 mở rộng với binion (đại số phức). E6 có 78 chiều – 72 root đỉnh và biểu diễn không tầm thường nhỏ nhất là 27 chiều. E7 là nhóm F4 mở rộng với quarternion. E7 có 133 chiều – 126 root đỉnh và biểu diễn không tầm thường nhỏ nhất là 56 chiều. E8 là nhóm F4 mở rộng với octonion. E8 có 248 chiều – 240 root đỉnh và biểu diễn không tầm thường nhỏ nhất cũng là 248 chiều. Các nhóm F4 - E6 - E7 - E8 tương ứng với quan hệ của octonion-real, octonion-complex, octonion-quaternion và octonion-octonion. Chỉ số n của An, Bn, Cn, Dn và các con số của G2, F4, E6, E7, E8 thể hiện hạng của nhóm Lie tương ứng với đại số con Cartan Abel lớn nhất của chúng. Đó cũng là kích thước của không gian Euclide theo giản đồ root vector vốn là những đối xứng xác định nhóm Weyl của chúng. Với S3 = SU(2) = Spin(3) = Sp(1) và J3(O)o - 26 chiều là ma trận octonion traceless 3x3 của đại số Jordan ngoại lệ, ta có: E6 = F4 + J3(O)o. E6/(Spin(10)xU(1)) có 78 – 45 – 1 = 32 chiều thực hay 16 chiều phức và nó là mặt phẳng chiếu Rosenfeld (CxO)P2 E7 = F4 + SU(2) + (S3 x J3(O)o). E7/(Spin(12)xSU(2)) có 133 – 66 – 3 = 64 chiều thực hay 32 chiều phức và nó là mặt phẳng chiếu Rosenfeld (HxO)P2 E8 = F4 + G2 + (S7 x J3(O)o). E8/Spin(16) có 248 – 120 = 128 chiều thực và nó là mặt phẳng chiếu Rosenfeld (OxO)P2 Để xác định mặt cầu nào là nhóm Lie, đầu tiên ta xét các phép quay thỏa bảng nhân nhóm. Ta chỉ có các phép quay của các mặt cầu trong không gian của các đại số có phép chia định chuẩn gồm R, C, H và O. Riêng với số thực R là mặt cầu 0 - chiều nên ta không xét. Vậy thì ta sẽ có các đại số phức C, đại số quarternion H và đại số octonion O. Họ An chứa các phép quay phức trong mặt cầu đơn vị S1 - S1 là một nhóm Lie. Họ Bn và Cn đều chứa các phép quay quarternion trên mặt cầu đơn vị S3 - S3 cũng là một nhóm Lie. Họ Dn chứa nhóm Lorentz trong không gian 4 chiều, gồm 2 phiên bản của S3 (3 rotate và 3 boost). Tuy nhiên, S7 không phải là một nhóm Lie do tính không kết hợp của octonion. Tính không kết hợp của octonion sẽ làm cho S7 giãn nở do nhận dạng Jacobi của các octonion khác không. Do đó S7 chỉ là một mặt cầu đơn vị 7 chiều trong đại số có phép chia định chuẩn octonion. Cụ thể S7 giãn nở theo tích xoắn (x) của S7(x)S7(x)G2 - 28 chiều tương ứng với nhóm Lie D4 hay Spin(8). Spin(8) là nhóm các phép quay trong không gian 8 chiều – không gian của các octonion. Spin(8) vừa là nhóm Lie tiêu chuẩn D4, vừa tồn tại trong các nhóm Lie ngoại lệ của các octonion, do đó Spin(8) là một nhóm Lie rất đặc biệt với 28 chiều. Đây cũng là nhóm thể hiện siêu đối xứng triality. Siêu đối xứng triality D4 = Spin(8) Đến đây chúng ta lại có sự tương đồng về kích thước của nhóm Spin(8) – 28 chiều và con số 28 trong “Nhị thập bát tú” của Lý học. Ngoài ra, theo tôi siêu đối xứng triality thể hiện trong giản đồ Dynkin của D4 = Spin(8) có sự tương ứng rất sâu sắc với siêu đối xứng Tam Tài "Thiên - Địa - Nhân" trong Lý học. Các cấu trúc E6 - E7 - E8 có thể xây dựng dựa trên Ma phương Freudenthal-Tits, ma phương này thể hiện mối quan hệ giữa Đại số có phép chia định chuẩn (R, C, H, O) và Đại số ma trận. Trong đó: Đại số có phép chia định chuẩn định nghĩa các hàng của Ma phương. Đại số Jordan định nghĩa các cột của Ma phương. Và Đại số Lie định nghĩa các phần tử của Ma phương. Đại số Jordan là đại số của các ma trận Hermitian với tích đối xứng. Đại số Lie là đại số của các ma trận phản - Hermitian với tích phản xứng. Ma phương Freudenthal-Tits bao gồm tất cả các Đại số Lie ngoại lệ, nhưng chỉ chứa một vài đại số Lie tiêu chuẩn A, B, C, và D. Ta có bảng: + Các cột là các đại số Jordan J = R, J3®, J3©, J3(H), J3(O) (J3(K) là đại số của các ma trận Hermitian 3x3 trên K) + Các hàng là các đại số A = R, C, H, O + Các phần tử ma phương 4x5 là các đại số Lie L được tạo thành bởi qui tắc: L = Der(A) + (A0xJ0) + Der (J) Trong đó Der là phép lấy vi phân, + là tổng trực tiếp, x là tích tensor, A0 là các phần tử thuần ảo của A, R0=S0, C0=S1, H0=S3, O0=S7 và J0 là các phần tử trace - zero của đại số Jordan J. Sn là đại số của các vector tangent trên mặt cầu n-chiều. S0, S1, S3 là các đại số Lie và S7 là một đại số Malcev. Lưu ý: A1 = SU(2), A2 = SU(3), A5 = SU(6), C3 = Sp(3), D6 = SO(12) (Spin(12) và G2, F4, E6, E7, và E8 là các đại số Lie ngoại lệ. Xét kích thước của các đại số Lie : Nếu Aij có k – kích thước thì Aii thực, kích thước ma trận là 3k + 3. Nếu trace = tổng các phần tử trên đường chéo = 0, kích thước ma trận sẽ là 3k + 2 chiều. Do đó đối với: R: 3x1 + 2 = 5 C: 3x2 + 2 = 8 H: 3x4 + 2 = 14 O: 3x8 + 2 = 26 Ma phương Freudenthal-Tits có thể định dạng E8. Bắt đầu với D4 = Spin(8) ta có: 28 = 28 + 0 + 0 + 0 + 0 + 0 + 0 Thêm 2 spinor và 1 vector ta được F4: 52 = 28 + 8 + 8 + 8 + 0 + 0 + 0 Bây giờ, "phức hóa" phần 8+8+8 của F4 ta được E6: 78 = 28 + 16 + 16 + 16 + 1 + 0 + 1 Kế tiếp, "quaternion hóa" phần 8+8+8 của F4 ta được E7: 133 = 28 + 32 + 32 + 32 + 3 + 3 + 3 Cuối cùng, "octonion hóa" phần 8+8+8 của F4 ta có E8: 248 = 28 + 64 + 64 + 64 + 7 + 14 + 7 3. Về sự tương đồng hình thức biểu diễn của nhóm G2 và nhóm 14 Chính tinh Không gian biểu diễn root system của G2-14 chiều - 12 root đỉnh thể hiện như hình 1. Biểu diễn trên mặt phẳng được phân thành 2 lớp 6/8 như hình 2. Tương tự như trong hình 2, với đúng 14 chính tinh của Tử vi ta có 2 lớp 6/8 đã được đặt tên : Tử vi – Liêm trinh – Thiên đồng – Vũ khúc – Thái dương – Thiên cơ và Thiên phủ - Thái âm– Tham lang – Cự môn – Thiên tướng – Thiên lương – Thất sát – Phá quân. Các trục màu đỏ sẽ được gọi là trục Tử vi và trục màu xanh được gọi là trục Thiên phủ. 4. Về sự tương đồng hình thức biểu diễn của nhóm F4 và nhóm 48 sao có cấu trúc riêng Xin lưu ý khái niệm có cấu trúc riêng (đặc biêt) được dùng ở đây xét theo nghĩa có cấu trúc biểu diễn rất riêng đã được thể hiện trên Địa bàn. Theo nghĩa này ta có: + Vòng chính tinh: Tử vi, Liêm trinh, Thiên đồng, Vũ khúc, Thái dương, Thiên cơ - Thiên phủ, Thái âm, Tham lang, Cự môn, Thiên tướng, Thiên lương, Thất sát, Phá quân (14 sao). + Vòng Thái tuế: Thái tuế, Thiếu dương, Tang môn , Thiếu âm, Quan phù, Tử phù, Tuế phá, Long đức, Bạch hổ , Phúc đức, Điếu khách, Trực phù (12 sao). + Vòng Tràng sinh: Trường sinh. Mộc dục, Quan đới, Lâm quan, Đế vượng, Suy, Bệnh, Tử, Mộ, Tuyệt, Thai, Dưỡng (12 sao). + Vòng Thiên mã: Thiên mã, Hoa cái, Kiếp sát, Thiên sát, Nguyệt sát, Đào hoa (6 sao) . + Triệt - Tuần (4 sao) Tổng cộng ta có: 14 + 12 + 12 + 6 + 4 = 48 sao, ta tạm gọi là nhóm 48 sao có cấu trúc riêng hay 48 sao đặc biệt theo nghĩa đơn giản là để phân biệt với nhóm các sao còn lại trên Địa bàn. Không gian biểu diễn của F4 - 52 chiều , 48 root đỉnh biểu diễn trên mặt phẳng được thể hiện như ở hình 3. Biểu diễn root system của F4 trong mối liên hệ đến Tử vi được thể hiện ở hình 4. Một cách hình thức ta có: + 14 chính tinh tương ứng với các root vector trên đỉnh 2 ngôi sao 6 cánh và 2 root vector biểu thị bằng 2 hình tròn nhỏ màu vàng. + 12 sao của vòng Thái tuế tương ứng với 12 root vector trên vòng tròn màu đỏ. + 12 sao của vòng Tràng sinh tương ứng với 12 root vector trên vòng tròn màu xám. + 6 sao vòng Thiên mã tương ứng với 6 đỉnh trong của 6 tam giác màu vàng. + 2 sao Triệt và 2 sao Tuần tương ứng với các root vector biểu thị bằng 2 hình tròn nhỏ màu đỏ và 2 hình tròn nhỏ màu xanh. 5. Về sự tương đồng hình thức biểu diễn của nhóm E7 và các sao của Tử vi E6 = F4 + (S1 x J3(O)o) có 72 root đỉnh biểu diễn như hình 5. Ta có E7 = F4 + SU(2) + (S3 x J3(O)o) , trong đó có 52 chiều của F4 + 3 chiều của SU(2) + 78 chiều của (S3xJ3(O)o) = 133 chiều. Không gian biểu diễn của E7-133 chiều - 126 root đỉnh biểu diễn trên mặt phẳng được thể hiện như ở hình 6. E7 = E6 + U(1) + J3(O) x (1 + 1*) Ma trận octonionic J3(O): (8 + 8 + 8 + 1 + 1 + 1= 27 chiều, trong đó ký hiệu O biểu thị các Octonion) Biểu diễn 126 root system khác của E7 trong mối liên hệ khả dĩ đến Tử vi có thể được thể hiện ở hình 7. E7 = F4 + SU(2) + (S3 x J3(O)o) Ma trận traceless octonionic J3(O)o :(12 + 12 + 1 + 1 = 26 chiều) Xét biểu diễn E7 trên hình 7, bộ 48 sao trung tâm trong Tử vi một cách hình thức gồm: + Vòng chính tinh: Tử vi, Liêm trinh, Thiên đồng, Vũ khúc, Thái dương, Thiên cơ - Thiên phủ, Thái âm, Tham lang, Cự môn, Thiên tướng, Thiên lương, Thất sát, Phá quân (14 sao). + Vòng Thái tuế: Thái tuế, Thiếu dương, Tang môn , Thiếu âm, Quan phù, Tử phù, Tuế phá, Long đức, Bạch hổ , Phúc đức, Điếu khách, Trực phù (12 sao). + Vòng tràng sinh: Trường sinh. Mộc dục, Quan đới, Lâm quan, Đế vượng, Suy, Bệnh, Tử, Mộ, Tuyệt, Thai, Dưỡng (12 sao). + Vòng Thiên mã: Thiên mã, Hoa cái, Kiếp sát, Thiên sát, Nguyệt sát, Đào hoa (6 sao). + Triệt - Tuần (4 sao) Với 78 sao còn lại biểu diễn trên Địa bàn của Tử vi một cách hình thức ta tạm xếp làm 3 nhóm 26 sao: + Lộc tồn, Lực sĩ, Thanh long, Tiểu hao, Tướng quân,Tấu thơ, Phi liêm, Hỷ thần, Bệnh phù, Đại hao, Phục binh, Quan phủ + Thiên quan, Thiên phúc, Lưu hà, Thiên trù, Văn tinh, Thiên khôi, Thiên việt, Kình dương, Đà la, Bác sĩ, Quốc ấn, đường phù + Thiên la, Địa võng + Thiên không, Cô thần, Quả tú, Phá toái, Quan sách + Thiên khốc, Thiên hư, Long trì, Phượng các, Hồng loan, Thiên hỉ, Thiên đức, Nguyệt đức, Giải thần, Tả phù, Hữu bật, Thiên giải, Địa giải, Thiên riêu, Thiên y, Âm sát + Hóa lộc, Hóa quyền, Hóa khoa, Hóa kỵ + Tam thai, Bát tọa + Ấn quang, Thiên quý + Thiên tài, Thiên thọ, Đẩu quân + Thiên thương, Thiên sứ + Văn xương, Văn khúc, Thai phụ, Phong cáo, Hỏa tinh, Linh tinh, Địa không, Địa kiếp + Lưu Thái tuế, Lưu Lộc tồn, Lưu Thiên mã, Lưu Tang môn, Lưu Thiên hư, Lưu Thiên khốc, Lưu Bạch hổ, Lưu Kình dương, Lưu Đà la 6. Khái quát qui tắc an sao của Tử vi Nhằm xác định sự phụ thuộc chính xác của từng sao tử vi vào các tham số thời gian gồm ngày, tháng, năm (can/chi), giờ sinh và giới tính tôi đã cố gắng khái quát qui tắc an sao thành các công thức số học hoặc các bảng tra, sao cho chúng hoàn toàn tương đương với cách thức an sao truyền thống. Ký hiệu: / : phép chia lấy phần nguyên % : phép chia lấy phần dư Lấy ngày, tháng, năm và giờ sinh theo hệ can chi (âm lịch) Đặt: Chi tháng sinh N(tháng) = [tháng sinh + 9]% 12 Chi giờ sinh N(giờ) = [giờ sinh % 2 + giờ sinh/2 + 10] % 12 Chỉ số ngày sinh N(ngày) = ngày sinh (âm lịch) Nam : p = 0, Nữ: p = 1 và bit dấu s = (-1)^[N(năm) + p] Dưới đây là công thức hoặc qui tắc an 126 sao Sao định vị Địa bàn: 2 sao N(thiên la) = 2 N(địa võng) = 8 Phân cung Địa bàn N(huynh đệ) = [11 + N(tháng) – N(giờ)] % 12 N(mệnh) = [12 + N(tháng) – N(giờ)] % 12 N(phụ mẫu) = [13 + N(tháng) – N(giờ)] % 12 N(phúc đức) = [14 + N(tháng) – N(giờ)] % 12 N(điền trạch) = [15 + N(tháng) – N(giờ)] % 12 N(quan lộc) = [16 + N(tháng) – N(giờ)] % 12 N(nô bộc) = [17 + N(tháng) – N(giờ)] % 12 N(thiên di) = [18 + N(tháng) – N(giờ)] % 12 N(tật ách) = [19 + N(tháng) – N(giờ)] % 12 N(tài bạch) = [20 + N(tháng) – N(giờ)] % 12 N(tử tức) = [21 + N(tháng) – N(giờ)] % 12 N(phu thê) = [22 + N(tháng) – N(giờ)] % 12 N(thân) = [ 4 + N(tháng)+ N(giờ)] % 12 Cục phụ thuộc vào thiên can, tháng sinh và giờ sinh Vòng chính tinh: 14 sao Đặt: k = (Cục – N(ngày) % Cục) % Cục l = (Cục – k) /Cục m = N(ngày)/Cục N(tử vi) = [(l + 1) % 2] [ (12 + m + k x (– 1)^k) % 12] + l [(m - 1) % 12] N(liêm trinh) = [N(tử vi) + 4] % 12 N(thiên đồng) = [N(tử vi) + 7] % 12 N(vũ khúc) = [N(tử vi) + 8] % 12 N(thái dương) = [N(tử vi) + 9] % 12 N(thiên cơ) = [N(tử vi) +11] % 12 N(thiên phủ) = [N(tử vi) + (12 – 2 (N(tử vi) % 6))] % 12 N(thái âm) = [N(thiên phủ) + 1] % 12 N(tham lang) = [N(thiên phủ) + 2] % 12 N(cự môn) = [N(thiên phủ) + 3] % 12 N(thiên tướng) = [N(thiên phủ) + 4] % 12 N(thiên lương) = [N(thiên phủ) + 5] % 12 N(thất sát) = [N(thiên phủ) + 6] % 12 N(phá quân) = [N(thiên phủ) +10] % 12 Các sao vòng chính tinh phụ thuộc vào tháng sinh, ngày sinh, giờ sinh và can của năm sinh. Vòng tràng sinh: 12 sao Theo tử vi đẩu số: N(trường sinh) = [(Cục + 1)%2][3((6 – Cục)/2)] + [Cục%2][6 + 3[(6 – Cục)/2]] Theo tử vi Lạc Việt: N(trường sinh) = [(Cục + 1)%2][3(Cục/3)] + [Cục%2][3 + 6[(6 – Cục)/2]] N(mộc dục) = [12 + N(trường sinh) + 1s] % 12 N(quan đới) = [12 + N(trường sinh) + 2s] % 12 N(lâm quan) = [12 + N(trường sinh) + 3s] % 12 N(đế vượng) = [12 + N(trường sinh) + 4s] % 12 N(suy) = [12 + N(trường sinh) + 5s] % 12 N(bệnh) = [12 + N(trường sinh) + 6s] % 12 N(tử) = [12 + N(trường sinh) + 7s] % 12 N(mộ) = [12 + N(trường sinh) + 8s] % 12 N(tuyệt) = [12 + N(trường sinh) + 9s] % 12 N(thai) = [12 + N(trường sinh) +10s] % 12 N(dưỡng) = [12 + N(trường sinh) +11s] % 12 Các sao vòng tràng sinh phụ thuộc vào cục và bit dấu tức là phụ thuộc vào tháng sinh, giờ sinh, giới tính và can/chi của năm sinh. Vòng Thái tuế: 12 sao N(thái tuế) = N(năm) N(thiếu dương) = [ 1 + N(năm)] % 12 N(tang môn) = [ 2 + N(năm)] % 12 N(thiếu âm) = [ 3 + N(năm)] % 12 N(quan phù) = [ 4 + N(năm)] % 12 N(tử phù) = [ 5 + N(năm)] % 12 N(tuế phá) = [ 6 + N(năm)] % 12 N(long đức) = [ 7 + N(năm)] % 12 N(bạch hổ) = [ 8 + N(năm)] % 12 N(phúc đức) = [ 9 + N(năm)] % 12 N(điếu khách) = [ 10 + N(năm)] % 12 N(trực phù) = [ 11 + N(năm)] % 12 Các sao vòng thái tuế chỉ phụ thuộc vào chi của năm sinh Vòng Thiên mã: 6 sao N(thiên mã) = [3 + 3((N(năm) % 4 + 1)%2) + 6((N(năm) % 4)/2) ] % 12 N(hoa cái) = [N(thiên mã) + 2] % 12 N(kiếp sát) = [N(thiên mã) + 3] % 12 N(thiên sát) = [N(thiên mã) + 4] % 12 N(nguyệt sát) = [N(thiên mã) + 5] % 12 N(đào hoa) = [N(thiên mã) + 7] % 12 Các sao vòng thiên mã chỉ phụ thuộc vào chi của năm sinh Vòng Lộc tồn: 12 sao N(Lộc tồn) tra theo bảng: N(lực sĩ) = [12 + N(lộc tồn) + 1s] % 12 N(thanh long) = [(12 + N(lộc tồn) + 2s] % 12 N(tiểu hao) = [12 + N(lộc tồn) + 3s] % 12 N(tướng quân) = [12 + N(lộc tồn) + 4s] % 12 N(tấu thơ) = [12 + N(lộc tồn) + 5s] % 12 N(phi liêm) = [12 + N(lộc tồn) + 6s] % 12 N(hỷ thần) = [12 + N(lộc tồn) + 7s] % 12 N(bệnh phù) = [12 + N(lộc tồn) + 8s] % 12 N(đại hao) = [12 + N(lộc tồn) + 9s] % 12 N(phục binh) = [12 + N(lộc tồn) +10s] % 12 N(quan phủ) = [12 + N(lộc tồn) +11s] % 12 Các sao vòng lộc tồn phụ thuộc vào can của năm sinh và bit dấu tức là phụ thuộc vào can/chi của năm sinh và giới tính Sao triệt : 2 sao N(triệt1) = [2((9 – M(năm)) % 5) + 10] % 12 N(triệt2) = [2((9 – M(năm)) % 5) + 10] % 12 + 1 Các sao triệt chỉ phụ thuộc vào can của năm sinh Sao tuần : 2 sao N(tuần1) = 10 - [12 + M(năm) – N(năm)] % 12 N(tuần2) = 11 - [12 + M(năm) – N(năm)] % 12 Các sao tuần phụ thuộc vào can/chi của năm sinh Sao thuần chi: 11 sao N(thiên không) = [ 1 + N(năm)] % 12 N(long trì) = [ 4 + N(năm)] % 12 N(nguyệt đức) = [ 5 + N(năm)] % 12 N(thiên hư) = [ 6 + N(năm)] % 12 N(thiên đức) = [ 9 + N(năm)] % 12 N(quan sách) = [ 11 + N(năm)] % 12 N(thiên khốc) = [ 14 – N(năm)] % 12 N(thiên hỉ) = [ 17 – N(năm)] % 12 N(phượng các) = [ 18 – N(năm)] % 12 N(giải thần) = [ 18 – N(năm)] % 12 N(hồng loan) = [ 23 – N(năm)] % 12 Sao thuần tháng: 8 sao N(thiên riêu) = [ 1 + N(tháng)] % 12 N(thiên y) = [ 1 + N(tháng)] % 12 N(tả phù) = [ 4 + N(tháng)] % 12 N(địa giải) = [ 7 + N(tháng)] % 12 N(thiên giải) = [ 8 + N(tháng)] % 12 N(thiên hình) = [ 9 + N(tháng)] % 12 N(hữu bật) = [18 – N(tháng)] % 12 N(âm sát) = [32 – 2N(tháng)] % 12 Sao thuần giờ: 6 sao N(văn khúc) = [ 4 + N(giờ)] % 12 N(thai phụ) = [ 6 + N(giờ)] % 12 N(phong cáo) = [ 2 + N(giờ)] % 12 N(địa kiếp) = [11 + N(giờ)] % 12 N(văn xương) = [18 - N(giờ)] % 12 N(địa không) = [19 - N(giờ)] % 12 Sao tháng – ngày: 2 sao N(tam thai) = [3 + N(tháng) + N(ngày)] % 12 N(bát tọa) = [43 - N(tháng) - N(ngày)] % 12 Sao tháng – giờ: 2 sao N(thiên thương) = [17 + N(tháng) – N(giờ)] % 12 N(thiên sứ) = [19 + N(tháng) – N(giờ)] % 12 Sao năm – tháng – giờ: 3 sao N(thiên tài) = [14 + N(năm) + N(tháng) – N(giờ)] % 12 N(thiên thọ) = [ 6 + N(năm) + N(tháng) + N(giờ)] % 12 N(đẩu quân) = [12 + N(năm) – N(tháng) + N(giờ)] % 12 Sao giờ - ngày: 2 sao N(thiên quý) = [30 - N(ngày) + N(giờ)] % 12 N(ấn quang) = [50 - N(ngày) - N(giờ)] % 12 Sao năm – giờ: 2 sao N(hỏa tinh) = [((N(năm)%4 + 1)/2 + 11) % 12 + sN(giờ)] % 12 N(linh tinh) = [12 + (5( 4 - N(năm) %4 ) /4 ) + 8) % 12 - sN(giờ)] % 12 Sao thuần can: 12 sao Tra theo bảng Bộ tứ hóa: 4 sao Hóa quyền và Hóa lộc chỉ đồng cung với các sao của vòng chính tinh, tức là luôn phụ thuộc vào tháng sinh, ngày sinh, giờ sinh và can của năm sinh. Hóa khoa ngoài khả năng an đồng cung với các chính tinh đôi khi chỉ đồng cung với các sao Văn xương, Văn khúc, Tả phù, Hữu bật vốn là các sao chỉ phụ thuộc vào giờ sinh (Văn xương, Văn khúc ) hoặc tháng sinh (Tả phù, Hữu bật). Hóa kỵ có thể an đồng cung với các chính tinh hoặc đồng cung với các sao Văn xương, Văn khúc vốn là các sao chỉ phụ thuộc vào giờ sinh. Bảng an tứ hóa Sao lưu động: 9 sao Chi năm lưu động N(năm_lđ) = [năm_lđ + 6] % 12 Can năm lưu động M(năm_lđ) =[năm_lđ + 6] % 10 N(lưu thái tuế) = N(năm_lđ) N(lưu tang môn) = [N(năm_lđ) + 2]%12 N(lưu bạch hổ) = [N(năm_lđ) + 8]%12 N(lưu thiên hư) = [ 6 + N(năm_lđ)] % 12 N(lưu thiên khốc) = [ 14 – N(năm_lđ)] % 12 N(lưu thiên mã) = [3 + 3((N(năm_lđ) % 4 + 1)%2) + 6((N(năm_lđ) % 4)/2) ] % 12 An sao Lưu Lộc tồn tương tự sao Lộc tồn trong đó thay M(năm) -> M(năm_lđ) và thay N(lộc tồn) bằng N(lưu Lộc tồn) theo bảng: N(lưu kình dương) = [N(lưu lộc tồn) + 1]%12 N(lưu đà la) = [N(lưu lộc tồn) + 11]%12 Trong bài viết có nói đến các sao còn lai của vòng Tướng tinh, dưới đây là công thức an 7 sao này: N(tướng tinh) = 1 + 3[(N(năm) % 4 + 1)%2] + 6[(N(năm) % 4)/2] N(phan an) = (N(tướng tinh) + 1) % 12 N(tuế dịch) = (N(tướng tinh) + 2) % 12 N(tức thân) = (N(tướng tinh) + 3) % 12 N(chỉ bối) = (N(tướng tinh) + 8) % 12 N(tai sát) = (N(tướng tinh) +10) % 12 N(vong thần) = (N(tướng tinh) +11) % 12 7. Cấu trúc root system của Nhóm G2 và sự tương đồng với qui tắc an sao của 14 Chính tinh Chi tiết hơn bây giờ ta sẽ xét qui tắc an sao của vòng Tử vi trong sự tương đồng khả dĩ với cấu trúc root vector của nhóm G2. Xem hình 8. Ta biết theo Tử vi thì :”Sau khi an sao Tử Vi, theo chiều thuận cách sao Tử vi 3 cung an sao Liêm trinh, cách Liêm trinh 2 cung an sao Thiên đồng, tiếp theo Thiên đồng là sao Vũ khúc, sau Vũ khúc là Thái dương, cách Thaí dương 1 cung an sao Thiên cơ”. Tương tự, ta xét qui tắc an sao của vòng Thiên phủ. Theo Tử vi: “sau khi an sao Thiên phủ, theo chiều thuận, lần lượt mỗi cung an một sao, theo thứ tự: Thái âm, Tham lang, Cự môn, Thiên tướng, Thiên lương, Thất sát. Cách Thất sát 3 cung an sao Phá Quân”. 8. Cấu trúc root system của Nhóm F4 và sự tương đồng với qui tắc an sao của 48 sao trung tâm 48 sao trung tâm gồm: + Vòng chính tinh: Tử vi, Liêm trinh, Thiên đồng, Vũ khúc, Thái dương, Thiên cơ - Thiên phủ, Thái âm, Tham lang, Cự môn, Thiên tướng, Thiên lương, Thất sát, Phá quân (14 sao). + Vòng Thái tuế: Thái tuế, Thiếu dương, Tang môn , Thiếu âm, Quan phù, Tử phù, Tuế phá, Long đức, Bạch hổ , Phúc đức, Điếu khách, Trực phù (12 sao). + Vòng tràng sinh: Trường sinh. Mộc dục, Quan đới, Lâm quan, Đế vượng, Suy, Bệnh, Tử, Mộ, Tuyệt, Thai, Dưỡng (12 sao). + Vòng Thiên mã: Thiên mã, Hoa cái, Kiếp sát, Thiên sát, Nguyệt sát, Đào hoa (6 sao). + Triệt - Tuần (4 sao) Chi tiết hơn bây giờ ta sẽ xét qui tắc an sao của 48 sao trung tâm trong sự tương đồng khả dĩ với cấu trúc root vector của nhóm F4. Xem hình 9. Xét lá số: Nam, giờ tuất, ngày 1, tháng 3 năm kỷ mão N(năm) = mão = 1 M(năm) = kỷ = 5 N(tháng) = tháng 3 = 0 N(ngày) = ngày = 1 N(giờ) = tuất = 8 Vậy: N(mệnh) = [12 + N(tháng) – N(giờ)]%12 = 4 = ngọ N(thân) = [4 + N(tháng) + N(giờ)]%12 = 12%12 = 0 = dần i = [(N(mệnh) + 1)%2 + N(mệnh) -1]/2 = [(4+1)%2 + 4 -1]/2 = 2 j = M(năm)%5 = 5%5 = 0 Theo bảng tra cục => Cục[2,0] = 5 = Thổ ngũ cục k = (Cục – N(ngày) % Cục) % Cục = ((5 - 1)%5)%5 = 4 l = (Cục – k) /Cục = (5-1)/5 = 0 m = N(ngày) /Cục = 1/5 = 0 N(tử vi) = [(l + 1) % 2] [ (12 + m + k x (– 1)^k) % 12] + l [(m - 1) % 12] = (12+4)%12 = 4 = ngọ N(liêm trinh) = (N(tử vi) + 4) % 12 = 8 = tuất N(thiên đồng) = (N(tử vi) + 7) % 12 = 11 = sửu N(vũ khúc) = (N(tử vi) + 8) % 12 = 0 = dần N(thái dương) = (N(tử vi) + 9) % 12 = 13%12 = 1 = mão N(thiên cơ) = (N(tử vi) +11) % 12 = 15%12 = 3 = tỵ N(thiên phủ) = [N(tử vi) + (12 – 2 (N(tử vi)%6))]%12 = [4+(12-2(4%6))]%12 = 8 = tuất N(thái âm) = (N(thiên phủ) + 1) % 12 = 9 = hợi N(tham lang) = (N(thiên phủ) + 2) % 12 = 10 = tý N(cự môn) = (N(thiên phủ) + 3) % 12 = 11 = sửu N(thiên tướng) = (N(thiên phủ) + 4) % 12 = 12%12 = 0 = dần N(thiên lương) = (N(thiên phủ) + 5) % 12 = 13%12 = 1 = mão N(thất sát) = (N(thiên phủ) + 6) % 12 = 14%12 = 2 = thìn N(phá quân) = (N(thiên phủ) +10) % 12 = 18%12 = 6 = thân N(thái tuế) = N(năm) = 1 = mão Theo tử vi đẩu số: N(trường sinh) = [(Cục + 1)%2][3((6 – Cục)/2)] + [Cục%2][6 + 3[(6 – Cục)/2]]= 6 = thân Theo tử vi Lạc Việt: N(trường sinh) = [(Cục + 1)%2][3(Cục/3)] + [Cục%2][3 + 6[(6 – Cục)/2] = 3 = tỵ N(thiên mã) = [3 + 3((N(năm)%4 + 1)%2) + 6((N(năm)%4)/2)]%12 = 3 = tỵ N(hoa cái) = [N(thiên mã) + 2]%12 = 5 = mùi N(kiếp sát) = [N(thiên mã) + 3]%12 = 6 = thân N(thiên sát) = [N(thiên mã) + 4]%12 = 7 = dậu N(nguyệt sát) = [N(thiên mã) + 5]%12 = 8 = tuất N(đào hoa) = [N(thiên mã) + 7]%12 = 10 = tý N(triệt1) = [2((9 – M(năm))%5) + 10]%12 = 18%12 = 6 = thân N(triệt2) = [2((9 – M(năm))%5) + 10] % 12 + 1 = 7 = dậu N(tuần1) = 10 - [12 + M(năm) – N(năm)]%12 = 6 = thân N(tuần2) = 11 - [12 + M(năm) – N(năm)]%12 = 7 = dậu Tử vi an tại ngọ. Trục tử vi tương ứng với trục Tý – Ngọ màu đỏ, trục thiên phủ tương ứng với trục Thìn – Tuất màu xanh và Thiên phủ sẽ được an tại Tuất. Tương tự như mục 7, các sao của vòng Tử vi tương ứng với các đỉnh của ngôi sao 6 cánh ở trung tâm, các sao của vòng Thiên phủ sẽ tương ứng với các đỉnh của ngôi sao 6 cánh lớn ở ngoài và 2 root màu vàng tương ứng với các sao Thất sát và Phá quân như trên hình 9. Tiếp theo: Vòng Thái tuế có 12 sao tương ứng với 12 root nằm trên vòng tròn màu đỏ. Vòng Tràng sanh có 12 sao tương ứng với 12 root nằm trên vòng tròn màu xám. Vòng Tướng tinh thiếu hay vòng Thiên mã gồm 6 sao: Thiên mã, Hoa cái, Kiếp sát, Thiên sát, Nguyệt sát, Đào hoa nằm đúng trên các root thuộc 6 đỉnh phía trong của 6 tam giác màu vàng. 9. Cấu trúc root system của Nhóm E6 và qui tắc an sao của 72 sao trung tâm Tuy chưa thật tường minh nhưng vẫn còn một khả năng khác trong đó cấu trúc trung tâm của Tử vi tuân theo nhóm E6 (xem hình 6). Trong trường hợp này 72 sao trung tâm của Tử vi có thể gồm: + Vòng chính tinh: Tử vi, Liêm trinh, Thiên đồng, Vũ khúc, Thái dương, Thiên cơ - Thiên phủ, Thái âm, Tham lang, Cự môn, Thiên tướng, Thiên lương, Thất sát, Phá quân (14 sao). + Vòng Thái tuế: Thái tuế, Thiếu dương, Tang môn , Thiếu âm, Quan phù, Tử phù, Tuế phá, Long đức, Bạch hổ , Phúc đức, Điếu khách, Trực phù (12 sao). + Vòng tràng sinh: Trường sinh. Mộc dục, Quan đới, Lâm quan, Đế vượng, Suy, Bệnh, Tử, Mộ, Tuyệt, Thai, Dưỡng (12 sao). + Vòng Lộc tồn: Lộc tồn, Lực sĩ, Thanh long, Tiểu hao, Tướng quân,Tấu thơ, Phi liêm, Hỷ thần, Bệnh phù, Đại hao, Phục binh, Quan phủ (12 sao). + Vòng Thiên mã: Thiên mã, Hoa cái, Kiếp sát, Thiên sát, Nguyệt sát, Đào hoa (6 sao) + Triệt - Tuần (4 sao) + Vòng 12 sao sẽ được chọn thích hợp theo qui tắc an sao tử vi đã biết ? Hoặc với cấu trúc khác: + Vòng chính tinh: Tử vi, Liêm trinh, Thiên đồng, Vũ khúc, Thái dương, Thiên cơ - Thiên phủ, Thái âm, Tham lang, Cự môn, Thiên tướng, Thiên lương, Thất sát, Phá quân (14 sao). + Vòng Thái tuế: Thái tuế, Thiếu dương, Tang môn , Thiếu âm, Quan phù, Tử phù, Tuế phá, Long đức, Bạch hổ , Phúc đức, Điếu khách, Trực phù (12 sao). + Vòng tràng sinh: Trường sinh. Mộc dục, Quan đới, Lâm quan, Đế vượng, Suy, Bệnh, Tử, Mộ, Tuyệt, Thai, Dưỡng (12 sao). + Vòng Lộc tồn: Lộc tồn, Lực sĩ, Thanh long, Tiểu hao, Tướng quân,Tấu thơ, Phi liêm, Hỷ thần, Bệnh phù, Đại hao, Phục binh, Quan phủ (12 sao). + Vòng Tướng tinh: Tướng tinh, Phan an, tuế dịch, Tức thân, Hoa cái, Kiếp sát, Thiên sát, Nguyệt sát, Chỉ bối, Đào hoa, Tai sát, Vong thần (12 sao). + Triệt - Tuần (4 sao) + Vòng 6 sao sẽ được chọn thích hợp theo qui tắc an sao tử vi đã biết ? Xét lá số: Nữ, giờ ngọ, ngày 12, tháng 6 năm mậu thân N(năm) = thân = 6 M(năm) = mậu = 4 N(tháng) = tháng 6 = 3 N(ngày) = ngày = 12 N(giờ) = ngọ = 4 Vậy: N(mệnh) = [12 + N(tháng) – N(giờ)]%12 = 11 = sửu N(thân) = [4 + N(tháng) + N(giờ)]%12 = 11 = sửu i = [(N(mệnh) + 1)%2 + N(mệnh) - 1]/2 = 5 j = M(năm)%5 = 4 Theo bảng tra cục => Cục[5,4] = 4 = Kim tứ cục k = (Cục – N(ngày) % Cục) % Cục = ((4 - 0)%4)%4 = 0 l = (Cục – k) /Cục = 1 m = N(ngày) /Cục = 12/4 = 3 N(tử vi) = [(l + 1) % 2] [ (12 + m + k x (– 1)^k) % 12] + l [(m - 1) % 12] = 2 = thìn N(liêm trinh) = (N(tử vi) + 4) % 12 = 6 = thân N(thiên đồng) = (N(tử vi) + 7) % 12 = 9 = hợi N(vũ khúc) = (N(tử vi) + 8) % 12 = 10 = tý N(thái dương) = (N(tử vi) + 9) % 12 = 11 = sửu N(thiên cơ) = (N(tử vi) +11) % 12 = 1 = mão N(thiên phủ) = [N(tử vi) + (12 – 2 (N(tử vi)%6))]%12 = [2+(12-2(2%6))]%12 = 10 = tý N(thái âm) = (N(thiên phủ) + 1) % 12 = 11 = sửu N(tham lang) = (N(thiên phủ) + 2) % 12 = 0 = dần N(cự môn) = (N(thiên phủ) + 3) % 12 = 1 = mão N(thiên tướng) = (N(thiên phủ) + 4) % 12 = 2 = thìn N(thiên lương) = (N(thiên phủ) + 5) % 12 = 3 = tỵ N(thất sát) = (N(thiên phủ) + 6) % 12 = 4 = ngọ N(phá quân) = (N(thiên phủ) +10) % 12 = 8 = tuất N(thái tuế) = N(năm) = 6 = thân Theo tử vi đẩu số: N(trường sinh) = [(Cục + 1)%2][3((6 – Cục)/2)] + [Cục%2][6 + 3[(6 – Cục)/2]]= 3 = tỵ Theo tử vi Lạc Việt: N(trường sinh) = [(Cục + 1)%2][3(Cục/3)] + [Cục%2][3 + 6[(6 – Cục)/2] = 3 = tỵ N(thiên mã) = [3 + 3((N(năm)%4 + 1)%2) + 6((N(năm)%4)/2)]%12 = [3 + 3 + 6]%12= 0 = dần N(hoa cái) = [N(thiên mã) + 2]%12 = 2 = thìn N(kiếp sát) = [N(thiên mã) + 3]%12 = 3 = tỵ N(thiên sát) = [N(thiên mã) + 4]%12 = 4 = ngọ N(nguyệt sát) = [N(thiên mã) + 5]%12 = 5 = mùi N(đào hoa) = [N(thiên mã) + 7]%12 = 7 = dậu N(triệt1) = [2((9 – M(năm))%5) + 10]%12 = 10 = tý N(triệt2) = [2((9 – M(năm))%5) + 10] % 12 + 1 = 11 = sửu N(tuần1) = 10 - [12 + M(năm) – N(năm)]%12 = 10 = tý N(tuần2) = 11 - [12 + M(năm) – N(năm)]%12 = 7 = sửu Vòng Chính tinh, vòng Thái tuế, vòng Tràng sinh, vòng Thiên mã và các sao Tuần - Triệt được an tương tự như mục 8. Vòng Lộc tồn tương ứng với 12 sao trên vòng tròn màu xanh lam. Như vậy thì 12 sao được an trên vòng 12 sao trên vòng tròn màu xanh lá phải được chọn thích hợp trong các sao còn lại của Tử vi. Hoặc: Vòng Chính tinh, vòng Thái tuế, vòng Tràng sinh và các sao Tuần - Triệt được an tương tự như mục 8. Vòng Lộc tồn tương ứng với 12 sao trên vòng tròn màu xanh lá. Giả thiết vòng Tướng tinh tương ứng với 12 sao trên vòng tròn màu xanh lam, vậy thì 6 sao được an trên 6 đỉnh trong của 6 tam giác màu vàng phải được chọn thích hợp trong các sao còn lại của Tử vi. (còn tiếp) Tài liệu tham khảo [1] Octonions - J. Baez [2] Physics of E8 and Cl(16) - Frank D. Smith - 7/2008 [3] Clifford Algebra as Quantum Language - James Baugh, David Ritz Finkelstein, Andrei Galiautdinov - 01/2009 [4] Physics from Ancient African Oracle to E8 - Frank D. Smith - 2008 [5] Tử vi đẩu số toàn thư - Hi Di Trần Đoàn / Vũ Tài Lục biên dịch và bình chú. [6] Tử vi khảo luận - Hoàng Thường, Hàm Chương [7] Tử vi đẩu số tân biên - Vân Đằng Thái Thứ Lang [8] Tử vi tinh điển - Vũ Tài Lục [9] Tử vi hàm số - Nguyễn Phát Lộc [10] Số Tử vi dưới mắt Khoa Học - Hà Thúc Hồng, Vu Thiên, Nguyễn Đắc Lộc. [11] Tử vi ảo bí biện chứng học- Hà Lạc Dã Phu Việt Viêm Tử [12] Tử vi tướng pháp trọn đời - Bửu Sơn [13] Tử vi tổng hợp - Nguyễn Phát Lộc [14] Tử vi hoàn toàn khoa học - Đằng Sơn [15] Sách tử vi - Trừ Mê Tín [16] Magic Squares of LIE Algebras - C.H. Barton and A. Sudbery - 2008 [17] Triality, Exceptional LIE Algebras and Deligne Dimension Formulas - J.M. Landsberg and L. Manivel [18] An Exceptionally Simple Theory of Everything - A. Garrett Lisi Nguyễn Xuân Quang 12/05/20091 like