-
Thông báo
-
Nội quy Lý Học Plaza
Nội quy này là bản mở rộng Nội Quy - Quy định của Diễn đàn. Khi tham gia mua bán, các thành viên phải tuân theo những quy định sau: Tiêu đề bài viết: Bao gồm: Chỉ dẫn địa lý, Loại hình Mua/Bán, Thông tin mua bán.
Chỉ dẫn địa lý: Tỉnh/thành nơi mua bán. Hoặc sử dụng định nghĩa có sẵn:TQ: Toàn quốc
HCM: TP Hồ Chí Minh
HN: Hà Nội
[*]Ví dụ: HCM - Bán Vòng tay Hổ Phách Nội dung bài viết: Mô tả chi tiết sản phẩm mua/bán
Bắt buộc phải có thông tin liên lạc, giá Mua/Bán
Bài mới đăng chỉ được phép up sau 03 ngày.
Thời gian up bài cho phép: 01 ngày 01 lần.
Các hành vi vi phạm nội quy này sẽ bị xóa bài hoặc khóa tài khoản mà không cần báo trước.
-
Leaderboard
Popular Content
Showing most liked content on 31/12/2010 in all areas
-
Kính thưa quí vị quan tâm Trên Vietnamnet.vn có bài viết gây chú ý dư luận của tác giả Trần Kinh Nghi. Trong bài viết có nhiều vấn đề đặt ra. Tôi xin được đưa toàn bộ bài viết lên đây và trình bày cảm nghĩ của mình để tham khảo ý kiến quí vị về đề tài này. Xin trân trọng cảm ơn. ======================================= Lịch sử cần sự thật! Nguồn : Vietnamnet.vn Kẻ mạnh thường thắng kẻ yếu, và sự thôn tính lẫn nhau giữa các dân tộc, quốc gia vốn là một thực tế hiển nhiên trong lịch sử nhân loại, nhưng điều quan trọng có tính nguyên tắc là, mọi sự thật lịch sử cần phải được tôn trọng và giữ gìn một cách trung thực. Lịch sử đâu phải thích bẻ cong, uốn thẳng là được! Hồi đầu năm nay đã rộ lên sự kiện một nữ nghiên cứu sinh người Việt tại Mỹ tên là Đào Ngọc Bích viết bài cho BBC nói rằng Việt Nam là từ Trung Quốc mà ra(!) để rồi ngay sau đó bị đông đảo dư luận trong và ngoài nước "đánh" cho tả tơi, rơi rụng. Không chỉ vậy, chính cô cựu sinh viên Đại học Ngoại ngữ Hà Nội này, trong nỗ tự lực bào chữa cho mình, đã "đổ tại" quá trình đào tạo môn lịch sử khi cô còn ở Việt Nam. Mới đây dư luận lại được một phen bức xúc nữa khi một vị giáo sư người Trung Quốc tên là Vương Hàn Lĩnh cho rằng "kể từ năm 1885 về trước Việt Nam là thuộc quốc của Trung Quốc". Thực ra không phải chỉ một mình cô Bích hay ông Lĩnh mà còn khá đông đảo người Việt Nam và Trung Quốc đều chưa hiểu đúng về lịch sử của đất nước mình, đặc biệt là lịch sử liên quan đến mối quan hệ lâu đời của hai quốc gia dân tộc "núi liền núi, sông liền sông" này. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng hiểu biết lịch sử "lệch lạc" như vậy nhưng có một nguyên nhân sâu xa nằm ở những "góc khuất" trong sử sách khi nói về nguồn cội dân tộc của mỗi nước. Vẫn biết, kẻ mạnh thường thắng kẻ yếu, và sự thôn tính lẫn nhau giữa các dân tộc, quốc gia vốn là một thực tế hiển nhiên trong lịch sử nhân loại, nhưng điều quan trọng có tính nguyên tắc là, mọi sự thật lịch sử cần phải được tôn trọng và giữ gìn một cách trung thực. Với tinh thần đó, người viết bài này xin được nêu lên một vài điều suy nghĩ lâu nay để mọi người cùng suy ngẫm nhằm tìm ra một lời giải. Một là, về cội nguồn dân tộc, có thể nói không chỉ truyền thuyết mà cả sử sách (của cả Trung Quốc và Việt Nam) dù có nhiều điều chưa được làm sáng tỏ hoặc chưa thỏa đáng, cũng cho thấy rằng nước Việt Nam ngày nay là một thực thể thống nhất duy nhất còn lại của Bách Việt - một tên gọi chung cho nhiều tộc người Việt đã từng định cư hàng ngàn năm trước Công nguyên trên vùng lãnh thổ rộng lớn từ bờ Nam Sông Dương Tử xuống miền Bắc Việt Nam ngày nay, phía Tây giáp Tân Cương, phía Đông giáp biển Thái Bình Dương. Sử sách cũng cho thấy Người Hán "nam tiến" với thế mạnh của kỵ binh nhưng đã phải mất hàng ngàn năm (quãng giữa thiên niên kỷ thứ 2 trước CN đến đầu thiên niên kỷ thứ nhất sau CN) để xâm chiếm, chinh phục và đồng hóa hầu hết các bộ tộc hoặc vương quốc có tên tuổi của người Bách Việt (xem bản đồ minh họa*). Đó là một quá trình kéo dài với biết bao biến cố lịch sử phức tạp mà trong đó có nhiều sự kiện đã bị lãng quên hoặc bị xuyên tạc, thậm chí bị "tráo đổi" tùy theo mục đích của các triều đại phong kiến thống trị trong các thời kỳ khác nhau, đặc biệt là thời nhà Hán và nhà Đường. Tuy nhiên có một thực tại không thể bác bỏ là, riêng Lạc Việt mặc dù bị các triều đại phong kiến Hán Hoa thay nhau thống trị từ năm 179 TCN đến 905 nhưng vẫn tồn tại và phát triển với tư cách một quốc gia dân tộc độc lập như ngày nay. Sử sách thường gọi đó là "thời kỳ 1.000 năm Bắc thuộc" mặc dù đã có rất nhiều cuộc khởi nghĩa lớn nhỏ của người Việt liên tục nỗ ra trong suốt quá trình đó. Có thể nói, đó là quá trình lịch sử tang thương của Bách Việt nói chung, nhưng cũng là trang sử hào hùng đối với dân tộc Việt Nam nói riêng. Sự tồn tại và phát triển của Việt Nam không phải là trường hợp ngẫu nhiên mà là kết cục của cả quá trình đấu tranh sinh tồn của người Bách Việt nói chung mà các thế hệ người Việt Nam nói riêng và cội nguồn Bách Việt nói chung không bao giờ được phép lãng quên. Theo truyền thuyết thì nguồn gốc tổ tiên của Việt Nam bắt nguồn từ Hồ Động Đình (tỉnh Hồ Nam, Trung Quốc ngày nay) bắt đầu bằng Thời đại Hồng Bàng của Kinh Dương Vương (có sách ghi cụ thể năm 2789 TCN). Thuyết này trùng khớp với các câu chuyện cổ tích về Âu Cơ-Lạc Long Quân, các Vua Hùng, mối tình Mỵ Châu-Trọng Thủy và chiếc nỏ thần v.v... Câu dân ca Việt cổ "Công cha như núi Thái Sơn (gần Hồ Động Đình), nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra..." cũng là một sự trùng hợp. Truyền thuyết này cũng được kiểm chứng bằng một số kết quả nghiên cứu quả khảo cổ, nhân chủng và ngôn ngữ, qua các di chỉ đồ đá, trống đồng, nghề trồng lúa nước và những khác biệt gen di tuyền v.v... Kết hợp cả truyền thuyết và cổ sử ta có thể nhận thấy trong suốt quá trình "Nam tiến" và "Đông tiến" của Hán tộc, các tộc người Bách Việt như Ngô Việt, Âu Việt, Dương Việt, Đông Việt, Nam Việt, Man Việt, Di Việt v.v.... đều không thoát khỏi bị thôn tính và đồng hóa...., để cuối cùng đều biến thành "người Hoa" hiện đại. Nhưng riêng Lạc Việt vẫn tồn tại, có thời kỳ bao gồm cả vùng đất Quảng Tây, Quảng Đông và Bắc Bộ ngày nay. Theo dòng lịch sử, ta còn thấy một thực tế là đã từng có rất nhiều người gốc Bách Việt tham gia vào bộ máy đô hộ của phong kiến Trung Hoa trong các thời kỳ khác nhau nhưng đã chọn Lạc Việt (sau là Chân Lạp, Giao Chỉ...) làm "hậu cứ" để chống lại Vương triều trung ương (như Hồ Quý Ly, Lý Bôn, Lý Bí chẳng hạn); rất nhiều người trong số họ thực sự đã tái hòa nhập vào cộng đồng Việt Nam.Cũng đã từng diễn ra những đợt rời bỏ quê hương của người Hoa gốc Bách Việt thuộc nhiều thế hệ trước đến định cư tại Việt Nam và các nước Đông Nam Á. Sử cận đại Trung Quốc cũng cho thấy, cho mãi đến những năm 1940 danh từ "dân tộc Việt" mới bị Tôn Trung Sơn chủ trương xóa bỏ trong bản đồ dân số Trung Quốc. Cho đến này nay để ý thấy ít nhiều vẫn còn những tình cảm kỳ thị giữa các cộng đồng gốc gác Bách Việt tại Trung Quốc với người "từ phương Bắc". Bản thân người viết bài này hồi nhỏ đã có dịp học tập tại Quảng Tây nới có gần 20 triệu người dân tộc Choang (còn gọi là Tráng) vốn là họ hàng của tộc Việt, mới đây trong chuyến du lịch mấy tĩnh phía Nam Trung Quốc đã được dịp "kiểm nghiệm"điều này qua chuyện trò với một số người bản địa. Tin tức cũng cho thấy người Đài Loan gần đây đã viện dẫn đến yếu tố "người bản địa" Man Việt trong cuộc đấu tranh bảo vệ sự tồn tại độc lập với Đại lục. Nhiều thông tin, dữ liệu của các nhà nghiên cứu Bách Việt học quốc tế cũng đáng được xem xét để góp phần làm sáng tỏ hơn về nguồn gốc dân tộc và nhân văn của của Việt Nam và khu vực Đông Á và Đông Nam Á nói chung. Thiết nghĩ, những sử liệu và sự kiện trên đây ít nhiều tự chúng đã nói lên những sự thật khách quan xung quanh những "góc khuất" trong cổ sử và chính sử liên quan đến cội nguồn dân tộc và quan hệ giữa hai nước Việt-Trung. Khách quan mà nói đó là hướng đi tích cực cho mục đích xây dựng mối quan hệ hữu nghị bình đẳng lâu dài giữa hai nước và trong khu vực nói chung. Hai là, về nhân văn, tuy chỉ dựa vào các nguồn sử sách cổ để lại từ thời "1.000 năm Bắc thuộc", ta cũng có thể thấy Việt Nam là kết tinh, là đại diện của Bách Việt. Về góc độ văn hoá, kể cả phong tục tập quán, ngôn ngữ, Việt Nam và Trung Quốc ngày nay có rất nhiều điểm tương đồng, đồng thời cũng có rất nhiều điểm khác biệt. Đặc điểm này nếu được hiểu và vận dụng một cách đúng đắn sẽ có tác dụng tích cực cho việc phát triển quan hệ hợp tác hữu nghị và bình đẳng giữa hai nước, chứ không có gì là không tốt như một số người có thể nghĩ. Tuy nhiên trên thực tế không được như vậy vì có quá nhiều sự thật đã bị xuyên tạc, có những giá trị đã bị "tráo đổi" trong suốt quá trình lịch sử hàng ngàn năm qua mà trong đó phần lợi bao giờ cũng nghiêng về phía kẻ mạnh. Xin đơn cử vài ví dụ: Thế giới lâu nay vẫn tin rằng Kinh Dịch là của người Trung Quốc. Nhưng thực ra gần đây các chứng cứ khảo cổ quốc tế đã cho thấy trống đồng không phải của người Hán mà là của các dân tộc phương Nam. Kết luận này cho phép các nhà nghiên cứu suy ra rằng những hình khắc biểu tượng Kinh Dịch trên trống cũng không phải của người Hán; và do đó chủ nhân của Kinh Dịch chính là người Bách Việt, cụ thể hơn là của người Âu Việt và Lạc Việt. Về ngôn ngữ, đã từ lâu người Việt Nam an phận đón nhận chũ Nho (tốt đẹp) của người Hán (còn gọi là Hán Nôm). Nhưng có một số luận điểm khác cho rằng người Hán trong quá trình xâm lược đã sử dụng ngôn ngữ của người Bách Việt, cụ thể là của Ngô Việt (tại vùng Việt Châu, tỉnh Chiết Giang và Phúc Kiến ngày nay) để cải tiến thành chữ Hán, rồi thành tiếng Trung hiện đại. Lập luận này dựa trên cơ sở nghiên cứu về ngữ nghĩa, âm thanh, ngữ pháp v.v... cho thấy một tỷ lệ rất cao các nhân tố ngôn ngữ Bách Việt trong tiếng Hán cỗ và tiếng Trung ngày nay. Đó là hiện tượng các danh từ nhưng có tính từ được xếp sau danh từ được thấy phổ biến trong Kinh Thi và ngay ở tên gọi các vị Thần Nông, Đế Nghiêu, Đế Thuấn vốn được coi là truyền thuyết Trung Quốc ; từ "Việt" hiển thị với tầng số rất cao trong các tên địa danh ở miền Nam Trung Quốc; từ "giang" (sông) của tiếng Việt cổ được sử dụng cho hầu hết các con sông miền Nam Trung Quốc (trong khi ở miền Bắc gọi là "hà"); tuồng Kinh kịch ở phía Nam Trung Quốc ngày nay vẫn còn gọi là "Việt kich", v.v... Thuyết này đồng thời cũng đặt ra mối nghi vấn rằng di chỉ thẻ tre có khắc chữ Hán cổ là "giả mạo" vì vào thời đó người Hán chưa có mặt ở miền đất phía Nam nơi có cây tre đủ to để làm thẻ viết. Tương tự cũng có sự "nhập nhằng" về chủ thể của "con đường tơ lụa" vì đúng ra người Bách Việt mới có thể là chủ thể của sản vật tơ lụa làm từ cây dâu tằm chỉ có ở vùng đất phương Nam. Rất nhiều luận điểm và luận cứ tượng tự cũng đã được nhiều học giả Việt Nam và quốc tế nêu ra. Tóm lại, dù bị người Hán cố tình đồng hóa bằng rất nhiểu thủ đoạn tinh vi và cường bạo như đốt sách, bắt từ bỏ, xóa bỏ hoặc tráo đổi v.v..., nhưng các dấu tích Bách Việt vẫn còn đó cho đến ngày nay. Trong suốt quá trình đấu tranh sinh tồn khốc liệt bên thua trận ắt chịu nhiều mất mát, nhưng những gì là bản sắc riêng vẫn còn đó; và điều này có thể nhận thấy qua nhiều nét tương đồng giữa Việt Nam với các tỉnh phía Nam và Đông Nam Trung Quốc ngày nay cũng như với các nước Đông Nam Á. Ba là, công tác nghiên cứu và giáo dục về lịch sử cần đi sâu hơn nữa về nguồn gốc dân tộc cùng các giá trị nhân văn trên tinh thần khách quan, dựa trên chứng cứ khoa học biện chứng lịch sử, khảo cổ, nhân chủng... (chứ không chỉ dựa vào sử sách củ để lại từ thời Bắc thuộc). Thiết nghĩ, trong việc này những kiến thức xác thực về Bách Việt sẽ giúp giải mã rất nhiều điều mà lâu nay chưa cảm thấy thỏa đáng hoặc chỉ là "ngộ nhận". Công tác sử học cũng cần tập trung nghiên cứu và bổ cứu lại toàn diện, đặc biệt về lĩnh vực nguồn gốc dân tộc và nhân văn của người Việt nhằm làm sáng tỏ những kiến thức mang tính truyền thuyết kết hợp với những chứng cứ lịch sử dựa trên cơ sở các kết quả nghiên cứu khảo cổ và gen di truyền v.v... Khi có đủ dữ liệu thì công khai chỉnh sửa những mọi sự sai lệnh hoặc bị xuyên tạc hoặc bị giả mạo trong sách sử cũ dưới bất cứ hinh thức nào, của bất cứ thời đại nào. Lý do là vì toàn bộ sách sử cổ của Việt Nam đều đã bị đốt và thủ tiêu trong các thời kỳ "10000 năm Bắc thuộc"; các sách sử hiện có, kể cả Đại Việt sử ký, đều là sử "chép lại" dựa chủ yếu vào các nguồn sử của các thời Hán, Đường và "hậu Hán Đường" nên không thể đảm bảo tính chính xác, trung thực và đầy đủ được; thật nguy hại nếu đã có những sự thật đã bị xuyên tạc, thậm chí đã bị tráo đổi trong đó. Mặc khác, cũng cần thừa nhận những khiếm khuyết trong khâu giáo dục công dân về lịch sử trong thời gian qua ở nước ta với những hậu quả "nhãn tiền" như đã được nhiều lần cảnh báo trước công luận. Thật nguy hại nếu mọi công dân đều hiểu biết sơ sài, thậm chí hiểu sai lệch về lịch sử của đất nước mình. Ví dụ khi nói mình "con rồng cháu tiên" nhưng trong lòng phân vân không biết có đúng thật không vì thấy ở Trung Quốc người ta cũng nói như vậy; không biết tại sao người Việt có các họ giống như người Trung Quốc, không biết chắc nên thiếu tự tin rằng trống đồng là bảo bối của dân tộc Việt Nam; không dám đòi quyền chủ thể của Kinh Dịch, v.v... Tương tự, trong lĩnh vực ngôn ngữ, sao ta không đặt mạnh vấn đề nghiên cứu xem tiếng Việt có chữ viết cổ? Lẽ nào ta dân tộc ta chỉ có chữ Hán Nôm? Có lẽ vì không biết mình là ai, nên đến ngày nay vẫn lúng túng không biết nên bảo tồn cái gì, thay thế, xoá bỏ cái gì để thực hiện "trong sáng tiếng Việt"?.Thậm chí có người cứ "vô tư" nhận mình là "con cháu" của người Trung Quốc (trong khi phía bên kia không nghĩ như vậy). Cũng cần xem xét lại một số khái niệm và quan niệm như cho rằng văn hóa Việt "bị ảnh hưởng" của văn hóa Trung Quốc là không hoàn toàn chính xác (mà thực chất đó chỉ là một sự giao thoa và ảnh hưởng qua lại); cách hiểu về nguồn gốc đạo Phật, Đạo Khổng, về Chữ Nho và Nho Giáo cũng có nhiều điều phải bàn thêm, v.v... Chỉ khi nào hiểu đúng về nguồn gốc dân tộc và tự tin với những giá trị nhân văn riêng, người Việt Nam ngày nay mới thực sự tìm lại chính mình và thoát khỏi nỗi mặc cảm truyền kiếp luôn thấy yếu kém và phụ thuộc các thế lực bên ngoài. Thay cho lời kết Những lập luận trên đây chỉ là ý kiến cá nhân của người viết để nhắc lại rằng dân tộc Việt Nam có cội nguồn lâu đời với những giá trị nhân văn không thua kém các dân tộc khác. Đó là một lịch sử cần được tôn trọng bằng các chứng cứ khoa học khách quan chứ không chỉ bằng truyền thuyết; ngay cả sử sách cũng phải được kiểm chứng lại bằng các kết quả nghiên cứu khoa học nghiêm túc. Theo hướng đó, bài viết chỉ nêu lên một thực trạng tình hình đồng thời gợi ra một số việc cần làm thêm (chứ không nhằm phê phán ai hoặc nước nào) với hy vọng góp phần đem lại sự hiểu biết đúng đắn hơn về lịch sử và cội nguồn dân tộc của Việt Nam cũng như các bên liên quan khác trong khu vực, coi đó là cơ sở để đảm bảo mối quan hệ hữu nghị, bình đẳng lâu dài giữa Việt Nam và Trung Quốc cũng như giữa các nước khu vực với nhau./. Tác giả: Trần Kinh Nghị ======================================= Tài liệu tham khảo - Mục Bách Việt trong Bách khoa toàn thư mở -Wikipedia, và rất nhiều tài liệu khác nhau được liên kết trong tài liệu này. - Đại Việt Sử Ký Toàn Thư - Sử Trung Quốc, Nguyễn Hiến Lê - Việt Nam Sử Lược, Trần Trọng Kim - Bộ sách giáo khoa môn sử học phổ thông của Nhà XB Giáo Dục Việt Nam. - Công trình nghiên cứu nguồn gốc chủng tộc dựa vào gen di truyền (DNA) của M. Liu thuộc Mackay Memorial hospital và được Viện Nghiên Cứu Sức Khoẻ quốc gia của Đài Loan tài trợ chứng minh là các giống dân miền Hoa Nam, Việt Nam, Thái Lan, Mã Lai, Nam Dương có liên hệ gen di truyền khác biệt với chủng tộc Hán ở miền bắc. -* Sử dụng lại bản đồ của Nhóm nghiên cứu về Bách việt trên mạng internet- Nguồn: nhatnguyen.yolasite.com Chú ý: những tên nước trong bản đồ này chỉ mang tính chất tượng trưng; trên thực tế chúng được thay đổi hoặc biến mất trong các thời kỳ lịch sữ khác nhau. ======================================= CẢM NGHĨ NHÂN BÀI VIẾT LỊCH SỬ CẦN SỰ THẬT Nguyễn Vũ Tuấn Anh Tóm tắt nội dung bài viết: Trên cơ sở hiện tượng cô Bích xác định nhà trường dạy cô ta, khiến cô ta hiểu cội nguồn dân tộc Việt có xuất xứ Trung Quốc. Từ đó tôi đặt vấn đề: Nội dung giảng lịch sử dạy trong nhà trường như thế nào để có một hệ quả như vậy. Sau đó là vấn đề cần làm để sáng tỏ sự thật lịch sử về cội nguồn dân tộc. " Sự thật" là một khái niệm miêu tả một hiện tượng mang tính phản ánh bản chất của nội dung sự kiện trong xã hội và nằm trong phạm trù lớn hơn. Đó là tính chân lý! Bởi vậy, không chỉ riêng môn lịch sử, mà con người trong mục đích tiến hóa của mình đang khao khát tìm đến chân lý cuối cùng. Con người cần biết rõ quá khứ cội nguồn của mình: Con người từ đâu đến và đi về đâu. Câu hỏi mang tính minh triết ấy đã khiến tất cả những tri thức tài năng của con người đi tìm từ hàng thiên niên kỷ trước. Lịch sử tiến hóa của con người, của xã hội, của dân tộc đều chỉ là những phương tiện để thỏa mãn câu trả lời minh triết này. Lịch sử là một bộ phận quan trong của tri thức nhân loại, nó cần cầu tìm chân lý. Hay nói như bài báo trên: Nó cần sự thật! Bài báo viết: Tôi không quan tâm đến lời nói lộng ngôn của Vương Hàn Lĩnh - mà theo quan điểm của tôi - cội nguồn tổ tiên của ông ta, nếu ở miền nam Dương Tử thì cũng có thể là một thần dân trung thành của các vua Hùng. Ông ta là nhà sử học, nhưng phát ngôn của ông rất có thể mang tính chính trị. Ở đây, tôi đang nghĩ về tính chân lý, tính sự thật của lịch sử cần được tôn trọng. Nhưng tôi không thể không có vài lời vì vế trên của đoạn trích dẫn này. Bởi vì, chính nó là bổ để, là nguyên nhân trực tiếp, hoặc gián tiếp, hoặc là cơ sở gián tiếp để cho Vương Hàn Lĩnh phát biểu lời nói lộng ngôn trên. Chúng ta xem lại đoạn này: Vậy qua lời phát biểu này, nữ nghiên cứu sinh Tiến sĩ Đỗ Ngọc Bích ở Hoa Kỳ đã xác định một cách công khai rằng: Chính những người giảng dạy môn lịch sử dân tộc Việt đã dạy cô ta rằng: Phải không nhỉ? Tại sao giới giáo sư, giảng viên Đại Học đang giảng môn lịch sử nguồn gốc dân tộc Việt - trước lời phát biểu của Nữ tiền sĩ đang học tại Hoa Kỳ - công khai xác định trên BBC - một cơ quan ngôn luận có ảnh hưởng quốc tế và được tờ báo mạng uy tín trong nước - Tuanvietnam.vn - đăng tải lại không lên tiếng phản đối rằng: - "Chúng tôi không dạy như vậy!". Rằng: - "Chúng tôi dạy cho sinh viên Việt lòng tự hào dân tộc Việt". Rằng : - "Đỗ Ngọc Bích là người trơ tráo, phản bội lại tổ tiên cội nguồn dân tộc rồi đổ thừa cho chúng tôi!". Họ có thể nói như vậy không? Hay họ thừa nhận chính họ đã dạy cô sinh viên - học trò giỏi và xuất sắc đang du học nghiên cứu sinh tại Hoa Kỳ và cô ta chỉ thể hiện kiến thức đã học của mình ở Việt Nam với tư duy tiến sĩ? Vương Hàn Lĩnh phát biểu chỉ là ý kiến cá nhân, ngông cuồng của ông ta. Còn phát biểu của nữ tiến sĩ Việt du học tại Hoa Kỳ, nó xác định tính hệ thống của việc giảng dạy của khoa sử tại Việt Nam. Cô ta không phát biểu nhân danh cá nhân mà nhân danh một hệ thống trí thức được giảng dạy tại nhà trường: Họ đã dạy cho sinh viên cái gì để một tri thức đẳng cấp nghiên cứu sinh tiến sĩ - Chứ không phải bà bán ve chai, lông vịt tốt nghiệp lớp 2 trường làng, vùng sâu, vùng xa - lại nhận thức về lịch sử cội nguồn dân tộc Việt Nam như vậy? Nếu nữ nghiên cứu sinh tiến sĩ người Việt Nam Đỗ Ngọc Bích đang học ở Trung Quốc, mà phát biểu như vậy thì tôi có thể nghĩ rằng: Cô ta chịu sức ép của chính quyền nhà nước Trung Quốc. Nhưng đây cô ta lại đang ở Hoa Kỳ - một đất nước chẳng liên quan gì để can thiệp vào lịch sử Việt Trung - và phát biểu về cội nguồn lịch sử Việt Trung. Phải chăng những điều mà các vị giáo sư sử học khả kính với tất cả những phương tiện đồ sộ và quyền lực trong học thuật đang giảng cho học sinh, sinh viên các cấp của trường học Việt Nam, đã dẫn đến một hậu quả để một trí thức đẳng cấp tiền sĩ nhận thức cội nguồn lịch sử dân tộc Việt có nguồn gốc từ Trung Quốc? Họ dạy cái gì? Họ khẳng định điều này trên các bục giảng chăng? Không! Tôi tin chắc rằng không một sinh viên lịch sử, không một chuyên viên cao cấp chuyên ngành của tất cả các cơ quan công khai và bí mật trên khắp thế giới quan tâm đến văn hóa - tìm thấy một từ cụ thể nào trong các giáo trình của môn lịch sử ở Việt Nam công khai viết rằng: "Dân tộc Việt có nguồn gốc từ Trung Quốc". Không bao giờ tìm thấy! Vậy thì tại sao cô Đỗ Ngọc Bích nữ nghiên cứu sinh Việt Nam tại Hoa Kỳ lại xác định rằng: "Tri thức ấy cô học được từ nhà trường khi ở Việt Nam"? Cô ta xuyên tạc, vu cáo và qua đó kéo cả nền giáo dục Việt sử vào sự tự lăng mạ chính dân tộc mình khi phát biểu của cô ta cho rằng "Dân tộc Việt có nguồn gốc từ Trung Quốc " là do " quá trình đào tạo môn lịch sử khi cô còn ở Việt Nam" chăng?. Hay cô ta đã nói lên một thực trạng của việc giáo dục môn lịch sử cội nguồn dân tộc Việt và thực trạng ấy đã dẫn cô ta đến một kết luận tự sỉ nhục dân tộc mình như vậy? Lịch sử cần sự thật! Vậy - Họ - Cô Đỗ Ngọc Bích - qua BBC mà cầm đầu là Nguyễn Giang - đang hoạt đông với sự cho phép của chính Phủ Anh - muốn gì khi đặt vấn đề: "Dân tộc Việt Nam có nguồn gốc từ Trung Quốc?" và xác định rằng đó là do "quá trình đào tạo môn lịch sử khi cô còn ở Việt Nam" - tức là cô ta xác định những người giảng dạy lịch sử xác định điều này với cô? Cô ta chỉ là người phát ngôn cuối cùng. Người ta đã công khai và phát biểu một chiều trên các phương tiện thông tin đại chúng, các diễn đàn chính quy và các giảng đường - mà có thể tóm gọn lại trong ý chính rằng: Thời Hùng Vương chỉ là "một liên minh gồm 15 bộ lạc" cùng lắm là "một nhà nước sơ khai" với vùng hoạt động không quá đồng bằng bắc bộ và "hình thành ở thời đại đồ đồng đầu thế kỷ thế VII, trước CN". Có thể tham khảo các bài viết với nội dung như vậy của họ mà tôi đã trích dẫn trong các sách đã xuất bản của tôi, như: "Thời Hùng Vương qua truyền thuyết và huyền thoại", "Tìm về cội nguồn Kinh Dịch"."Thời Hùng Vương và bí ẩn lục thập hoa giáp"....ngay trong trang chủ lyhocdongphuong.org.vn; hoặc theo đường link này: http://www.lyhocdongphuong.org.vn/diendan/...?showtopic=1748 http://www.lyhocdongphuong.org.vn/diendan/...?showtopic=2767 http://www.lyhocdongphuong.org.vn/diendan/...?showtopic=4164 ....... Và còn rất nhiều luận điểm tương tự trên các sách, các bài viết được xuất bản công khai, có mục đích phủ nhận cội nguồn Việt sử 5000 năm văn hiến. Nhưng chúng ta sẽ rất khó khăn nếu tìm thấy một cách bình đẳng về tính phổ biến của quan điểm minh chứng cho Việt sử với quan điểm trải gần 5000 năm văn hiến trên các phương tiện này. Nhưng cũng như những bài viết mà tôi đã trình bày ở các đường link trên và trong các sách đã xuất bản thì tất cả những luận điểm của họ với nội dung phủ định Việt sử 5000 năm văn hiến, hoàn toàn chỉ là những giả thuyết xuất phát từ suy luận chủ quan và không hề mang tính hợp lý lý thuyết có tính hệ thống chặt chẽ. Đó chỉ là những cái nhìn và giải thích cho từng hiện tượng riêng lẻ. Tất nhiên hoàn toàn phản khoa học. Nếu quả là "lịch sử cần sự thật" thì sự thật ấy cần được minh chứng một cách khoa học để sáng tỏ. Không thể có tính độc quyền áp đặt luận điểm lịch sử lên học sinh , sinh viên và dẫn đến sự tự phủ nhận cội nguồn dân tộc như cô Đỗ Ngọc Bích - nghiên cứu sinh tiến sĩ tại Hoa Kỳ - đã phát biểu công khai trên BBC. Đã có một hiện tượng khiến dư luận trong đặc biệt chú ý: Đó là việc giáo sư Lê Mạnh Thát công bố công trình của mình dựa trên cơ sở sứu tầm những tư liệu liên quan đến Phật giáo ở Việt Nam và xác định Việt sử 5000 năm văn hiến. Hội sử học cũng công khai lên tiếng sẽ mở một cuộc hội thảo để tạo điều kiện cho những tranh luận cầu tìm chân lý cho cội nguồn lịch sử Việt. Nhưng mọi chuyện chìm trong im lặng một cách khó hiểu cho đến ngày nảy sinh hiện tượng phủ định cội nguồn dân tộc của nữ tiến sĩ Đỗ Ngọc Bích trên BBC. Lịch sử cần sự thật. Đúng. Nhưng không nên coi đó là một khẩu hiệu mà nên là một hành vi và cần tranh luận công khai với những hội thảo khoa học nghiêm túc có tính quốc tế với các quan điểm khác nhau về cội nguồn dân tộc Việt .3 likes
-
Vụ "hiệu trưởng mua dâm": Tiếp tục hủy án? Cập nhật lúc 31/12/2010 08:00:00 AM (GMT+7) - "Phiên tòa tới, nếu xử đúng thì phải tiếp tục hủy án để trả hồ sơ điều tra lại. Đồng thời phải thả ngay đối với cháu Thúy và cháu Hằng. Cơ quan điều tra Bộ Công an và VKSND Tối cao phải vào cuộc. Có như vậy, chúng ta có đau thì đau một lần, và đưa lại niềm tin yêu của nhân dân với các cơ quan bảo vệ pháp luật..." - LS Triển nói. Những nội dung trong bản kết luận điều tra của cơ quan điều tra (Công an tỉnh Hà Giang) đã tiếp tục làm nóng dư luận. Hàng chục cơ quan báo chí tiếp tục vào cuộc. Và, điện thoại của hai luật sư Nguyễn Văn Tú và Trần Đình Triển (hai luật sư bào chữa cho các bị cáo Nguyễn Thị Thanh Thúy và Nguyễn Thị Hằng) liên tục “nóng” bởi các cuộc điện thoại liên lạc. Luật sư Trần Đình Triển – VPLS Vì Dân cho biết: với những gì mà mà kết luận điều tra (KLĐT) nêu ra, phiên tòa tới đây, HĐXX nếu công tâm vẫn phải tuyên hủy án, yêu cầu điều tra lại. Và, cơ quan điều tra lại phải là CQĐT của Bộ Công an. Như thế vụ việc mới được xử lý dứt điểm. Theo ông Triển, KLĐT và cáo trạng cũ không có gì thay đổi đối với ba bị cáo Xương – Thúy – Hằng. Bị cáo Sầm Đức Xương "Nó vẫn tiếp tục thể hiện sự bao che và bỏ lọt tội phạm. Trước hết, ở đây đối với cháu Thúy và cháu Hằng là không có tội. Hầu như lời khai của các cháu trước đây bị thầy giáo cưỡng ép phải phục vụ các thầy cũng như các cá nhân, quan chức này. Tất cả các cháu khác cũng đều bị như vậy. Ép cháu A sang cháu B phải dẫn dắt bạn mình đi phục vụ tình dục cho các vị này… Do đó, nếu truy tố cháu Thúy, cháu Hằng thì các cháu khác cũng phải bị truy tố. Nhưng, trong cáo trạng và kết luận điều tra lại phân tích đối với các cháu khác: hành vi đó vi phạm khi còn nhiều tuổi, chỉ cần giáo dục là đủ, không cần phải xử lý bằng hình sự. Cháu Thúy và cháu Hằng có khác gì như thế? Điều này thể hiện sự thiếu bình đẳng trước pháp luật" - ông Triển phân tích. Ông Triển thông tin thêm, việc ông Sầm Đức Xương bị truy tố về tội mua dâm trẻ vị thành niên cũng chưa đúng, bởi các lý do: lời khai của các cháu là đều bị cưỡng ép, như vậy, đó là dấu hiệu của tội cưỡng dâm. Có một số cháu ở độ tuổi 13, cần phải điều tra rõ về năm sinh của các cháu. Nếu dưới 13 tuổi, phải truy tố về tội hiếp dâm. Trong khi ông Xương bị truy tố về tội mua dâm, 16 cá nhân khác bị tố cáo mua dâm cũng bị như vậy, đều do lời khai của các cháu. Ông Xương cũng không thừa nhận việc quan hệ với các cháu, thế thì tại sao ông ta bị truy tố mà 16 người khác không bị truy tố? Theo LS Triển, một điều khó hiểu ở KLĐT khi kết luận rằng không đủ căn cứ để truy tố các vị này, tại sao lại đề nghị các cơ quan xem xét để xử lý về hành vi? Và nếu các vị này không có các hành vi đó thì cần phải khởi tố thêm các cháu về tội vu khống chăng? "Tất cả những điều qua cáo trạng và KLĐT nói trên thể hiện những kiến nghị của tôi trước đây là đúng đắn (đề nghị VKSNDTC và Bộ Công an rút vụ án về Trung ương điều tra)..." - ông Triển bức xúc. Ngày 24/12/2010, chị Nguyễn Thị Thơm từ Hà Giang về Hà Nội gặp LS Triển và mời ông làm luật sư cho cháu Thúy tại phiên tòa lần này. LS Triển đã làm đầy đủ thủ tục. Ngày 27/12, tòa án đã nhận được đầy đủ hồ sơ của ông Triển nộp để bảo vệ cho cháu Thúy. Lần này, VP Luật sư Vì Dân tiếp tục miễn phí 100%. "Phiên tòa tới, nếu xử đúng thì phải tiếp tục hủy án để trả hồ sơ điều tra lại. Đồng thời phải thả ngay đối với cháu Thúy và cháu Hằng. Cơ quan điều tra Bộ Công an và VKSND Tối cao phải vào cuộc. Có như vậy, chúng ta có đau thì đau một lần, và đưa lại niềm tin yêu của nhân dân với các cơ quan bảo vệ pháp luật..." - LS Triển nói. Kiên Trung ================================================== Theo tôi việc xử lại lần này là cơ hội để lấy lại niềm tin đã mất trong vụ việc này. Các cô gái học sinh hoàn toàn vô tội về mặt đạo đức xã hội và cả pháp luật. Do đó, tôi thẳng thắn nói rằng: Nếu buộc tội các cô này thì chính xã hội phải chịu trách nhiệm về hành vi của hai cô này chứ không phải cô ta gây ra. Tại sao vậy? * Chính thày giáo được bổ nhiệm dạy các cô đã tạo nên môi trường cho cô ta bị gọi là phạm tội, khi các cô còn quá nhỏ. Nếu thẳng tay trừng phạt nhân danh công lý và đạo đức xã hội thì những người phạm tôi chịu trách nhiệm mang tính hành vi cá nhân họ phạm tội - cho dù họ ở cấp bậc nào thì cũng là con người và có thể phạm tội. Nhưng nếu bao che dưới hình thức nào đó - và quá lộ liễu - thì nó mang tính hệ thống và phi chính danh có tính hệ thống. Nhà nước Israel buộc tội cựu tổng thống của họ phạm tôi hiếp dâm. Điều này không hể làm cho chính thể nước này mất uy tín. Ngược lại, chính sự buộc tội đó nó xác định hành vi hiếp dâm của vị cựu tổng tống này là hành vi cá nhân và xác định tính chính danh hình thái ý thức của nhà nước Israel, tính công bằng và hướng tới một xã hội tốt đep theo kiểu Israel.3 likes
-
Anh Đại Phúc càng ngày đoán càng siêu nha! Kì này em nghĩ mã CP SHN của Đại Phúc và Meji lời nữa rùi! KL giao dịch hằng ngày của SHN 1.8xx.xxx trở lên. Mà quẻ Kinh Xích khẩu : có phải là tranh giành nhau tạo nên 1 cơn sốt không?2 likes
-
Tôi nói là có hạn tình duyên nhưng chuyện cưới thì cũng khó đấy vì cô quả hội chiếu. Liêm trinh hãm địa thêm triệt e là tình duyên tan vỡ, số thì như thế nhưng tất cả là ở bạn Tôi nói là có hạn tình duyên nhưng chuyện cưới thì cũng khó đấy vì cô quả hội chiếu. Liêm trinh hãm địa thêm triệt e là tình duyên tan vỡ, số thì như thế nhưng tất cả là ở bạn2 likes
-
Thường là Nam Tả Nữ Hữu căn cứ vào đó mà xét điềm lành hay dữ, nhưng kinh nghiệm cho biết là khi máy mắt dù tả hay hữu cứ dùng 4 bốn ngón tay vỗ vào mắt giật 7 lần cho Nam 9 lần cho Nữ và đọc thầm "lành ở, dữ đi" hóa giải được hết! Thử xem hiệu nghiệm lắm đấy!2 likes
-
Chú Đại Bi.
kieutrinh liked a post in a topic by Thiên Sứ
Quí vị và anh chị em thân mến. Thần chú Đại Bi là một trong những thần chú nổi tiếng của Phật Pháp và cùng với câu thần chú "Um ma ni pat mê hum" có những tác dụng vô biên với bản ngã. Tôi xin được chép vào đây trên nguồn Youtube để quí vị và anh chị em khi rảnh, hay trong những giây phút căng thẳng vì muôn nẻo chuyện đời có thể mở ra nghe và tịnh tâm thư giãn. Hy vọng sẽ giúp quí vị và anh chị em thân tâm an lạc, hướng tới một sự bình yên và hạnh phúc trong cuộc đời. "Vạn pháp duy tâm biến hiện" THẦN CHÚ ĐẠI BI THẦN CHÚ UM MA NI PAT ME HUM1 like -
PHÒNG NGỦ TRONG HÔN NHÂN VÀ HẠNH PHÚC GIA ĐÌNH THEO PHONG THỦY LẠC VIỆT -o0o- Trung tâm nghiên cứu Lý học Đông phương Hạt gạo làng - Nguyễn Đức Thông www.lyhocdongphuong.org.vn Từ xa xưa, phong thủy đã được ứng dụng phổ biến, sâu rộng trong mọi mặt của đời sống xã hội. Do những điều kiện của lịch sử, phong thủy đã bị mai một, thất truyền và bị thần thánh hóa khiến cho nó trở thành một bộ môn huyền bí, có nhiều điều không thể giải thích nổi. Cũng có những người lợi dụng sự thần bí của phong thủy để mê hoặc lòng người nhằm trục lợi cho bản thân khiến cho có thời gian, phong thủy bị coi là mê tín dị đoan. Trong xã hội hiện nay, khi mà cuộc sống con người đã được nâng cao cả về vật chất lẫn tinh thần, con người có mong muốn trở về với cội nguồn, với tâm linh và mong muốn có cuộc sống ngày càng tốt đẹp hơn, phong thủy đã trở thành một đối tượng gây sự chú ý của nhiều người trong xã hội. Trong bài viết này, người viết xin được giải thích một phương pháp ứng dụng trong phong thủy liên quan đến phòng ngủ trong hôn nhân và hạnh phúc gia đình dựa theo nền tảng kiến thức về Phong thủy Lạc Việt của mình góp phần làm cho phong thủy trở thành một bộ môn khoa học mà không còn bị dán nhãn “mê tín dị đoan” nữa. Hiện nay, trên thị trường sách có rất nhiều đầu sách về phong thủy và có nhiều diễn đàn về phong thủy và các môn học huyền bí khác như: tử vi, tử bình, tướng số, thái ất, kỳ môn độn giáp… Đã có rất nhiều câu hỏi được đặt ra cho vấn đề lấy hướng giường theo hướng nào? Theo hướng đầu giường hay theo hướng chân giường của người nằm ngủ nhưng vẫn chưa có lời giải đáp thỏa đáng cho vấn đề này. Các sách thì có cuốn viết nên theo hướng đầu giường, có cuốn viết nên theo hướng chân giường khiến cho người đọc chẳng biết ứng dụng thế nào cho đúng và các thắc mắc cứ ngày càng dài ra. 1. CÁC KHÁI NIỆM CƠ BẢN TRONG PHONG THỦY Để trả lời cho câu hỏi trên, người viết xin được trình bày một số khái niệm cơ bản về phong thủy để những người chưa biết về phong thủy cũng có thể hiểu và ứng dụng được cho mình. - Hiện nay, có rất nhiều người hay nhầm lẫn với khái niệm hướng, hướng tọa và tọa. Người viết xin được giải thích sơ qua về các khái niệm này. Các bạn hãy tưởng tượng một người đang ngồi trên một cái ghế bành thì: + Hướng: là hướng mà mắt của người ngồi trên ghế bành nhìn thẳng về phía trước. Một trong những yếu tố quan trọng của hướng là có khoảng không trống trải phía trước mặt, trong phong thủy thường được gọi là minh đường. Đây cũng là hướng mà con người hít thở không khí vào trong cơ quan hô hấp của mình. + Hướng tọa: là hướng ngược lại với hướng mắt hay còn gọi là hướng lưng. + Tọa: là vị trí đặt cái ghế bành. Tọa cần phải có chỗ dựa vững chắc để kê lưng, kê đầu cũng như khi người ngồi dựa lưng vào ghế thì mới cảm thấy thư thái. Với những khái niệm cơ bản nêu trên, ta có thể suy diễn là đối với bất cứ một vật nào mà đang dựa lưng vào một vật khác và nhìn ra một khoảng không trống thoáng thì hướng của vật đó chính là hướng mà vật đó nhìn ra khoảng trống thoáng và hướng tọa của nó là hướng ngược lại. 2. HƯỚNG GIƯỜNG LÀ HƯỚNG NÀO ĐÂY TA? Phòng ngủ với giường ngủ là nơi ta trải qua hơn một phần ba đời người cho nó, nó chiếm một vị trí quan trọng trong đời sống con người. Nơi đây cũng là nơi diễn ra những yêu thương, âu yếm và có nhiều quyết định quan trọng của con người thường được đưa ra trong phòng ngủ, trên giường ngủ của con người. Trong phong thủy được truyền lại cho đến ngày nay, khi nói về vị trí sắp đặt giường ngủ, bao giờ cũng được khuyên là giường ngủ cần phải được dựa vào một vật gì đó, thường là tường phòng. Như vậy, với một cái giường được kê đầu giường vào tường phòng và phía chân giường có khoảng không trống thoáng thì khi đọc đến đây, các bạn cũng đã biết đâu là hướng và đâu là tọa hướng. Đến đây, nhiều bạn sẽ đặt vấn đề tại sao trong các sách xuất bản trên thị trường lại lấy hướng đầu giường là hướng giường và coi nó là điều quan trọng khi sắp xếp giường ngủ, tức là cần quay về hướng tốt? Rồi có sách lại coi hướng chân giường là hướng giường ngủ vì khi ta nằm phải lấy hướng mà mũi hít thở không khí để làm hướng giường. Có người lại quan niệm, hướng mà mũi hít thở không khí cũng là hướng chân của người nằm, đầy ô uế nên không thể là hướng giường được và cứ thế, cãi nhau loạn xị ngậu cả lên. Vậy ta nên lấy hướng giường theo phương pháp nào? Xin các bạn theo khái niệm sẽ được người viết giải thích, đó là lấy hướng đầu giường làm hướng giường, còn giường ngủ nên được sắp xếp thế nào thì người viết sẽ tiếp tục giải thích ở bên dưới. 3. “ĐƯỢC CÁI NÀY THÌ MẤT CÁI KIA”, SAO KỲ VẬY TA? Đúng là kỳ thật! Đối với con người hay bất kỳ một thực thể sống nào, phần đầu là phần quan trọng nhất bởi nó là linh hồn của một cơ thể sống, điều khiển mọi suy nghĩ, hành động, tâm tư, tình cảm của con người. Ngoài ra, nửa phần trên của cơ thể còn bao gồm cả phổi và trái tim của con người là bộ phận biểu tả cảm xúc của con người và cũng là bộ máy đẩy khí huyết đi nuôi sống cơ thể. Chính vì tầm quan trọng của một nửa phần trên của cơ thể nên nó cần phải được nằm ở vị trí tọa tốt, có hướng tọa tốt. Điều này giải thích tại sao lại chọn hướng đầu giường quay về hướng tốt trong một số sách đã xuất bản. Lại thắc mắc, thế còn hướng chân giường thì sao? Tại sao một số sách lấy chân giường làm hướng? Đó là do thất truyền hay do tam sao thất bản? Nửa phần dưới của cơ thể con người toàn ô uế thì đâu cần quan tâm đâu? Ấy, nhầm đấy các bạn ạ! Nửa bộ phận phía dưới của nó tuy ô uế, nhưng có bộ phận quan trọng điều khiển khí của con người, đó là thận và các bộ phận liên quan đến tình yêu và duy trì nòi giống thì sao nó lại không quan trọng nhỉ? Quan trọng chứ!. Nó cũng cần phải có hướng và tọa tốt chứ. Đó chính là nếu không sắp xếp giường đáp ứng các điều kiện trên thì đúng là “được cái này thì mất cái kia” đấy. 4. VỊ TRÍ SẮP XẾP GIƯỜNG TỐI ƯU THEO PHONG THỦY LẠC VIỆT Trong Phong thủy Lạc Việt, chúng tôi cho rằng, vị trí sắp xếp giường tối ưu chính là phải hội tụ được các yếu tố như: - Giường ngủ được kê tại vị trí vượng khí của căn phòng. Đó chính là vị trí chéo góc so với cửa phòng. - Giường ngủ cần hội tụ đủ các yếu tố: * Có hướng tọa hay sơn hướng tốt. Đây là ưu tiên hàng đầu do tính quan trọng của nửa phần trên trong cơ thể con người như đã nói ở trên. * Tọa ở vị trí tốt, đó chính là cung tốt đối với cung mệnh của gia chủ. * Có hướng tốt, chính là hướng của đầu giường. Ngoài những yếu tố chính nêu trên, giường ngủ còn cần phải đáp ứng các điều kiện sau: - Không kê đầu giường vào vị trí đặt cửa sổ và không bị cửa phòng vệ sinh chiếu vào. Do nửa phần đầu của con người rất quan trọng nên giường ngủ cũng không nên kê đầu vào phòng vệ sinh cho dù hướng tọa của giường tốt. Giường ngủ nằm ở vị trí mộ khí của căn phòng và kê đầu giường vào phòng vệ sinh Giường ngủ kê đầu vào cửa sổ - Không bị xà, dầm, cột cắt ngang giường. Không nên kê giường dưới xà nhà, đà nhà. Phòng ngủ có xà, dầm cắt ngang giường ngủ Giường ngủ nằm dưới xà nhà Nhưng trong xã hội hiện tại và nhất là tại các khu đô thị, thành phố, việc đáp ứng toàn bộ những điều trên là không thể. Do vậy, cần ưu tiên giường nằm ở vị trí vượng khí và có tọa hướng tốt (chính là hướng đầu giường) là đã tạm được. Kế đến là phải nằm trong cung tốt của gia chủ. Khi ta nằm trên giường, đầu ta quay về hướng nào thì đó chính là hướng tọa để xác định hướng giường. Ví dụ, chân đạp Nam, đầu tọa Bắc thì hướng giường hay hướng đầu giường chính là hướng Bắc tức đầu người nằm quay về hướng Bắc. Hướng đầu người nằm hay hướng đầu giường cần được kê dựa tường. Giường ngủ nằm ở vị trí vượng khí và phòng ngủ có lỗ thoái khí - Giường ngủ tránh bị cửa phòng xung thẳng vào giường. Giường ngủ bị cửa phòng đối xung Hướng kê giường tốt nhất chính là hướng theo phúc đức trạch của gia chủ. Người Đông tứ mệnh thì xếp giường theo hướng Bắc – Nam là phúc đức trạch. Người Tây tứ mệnh thì sắp xếp giường theo hướng Tây Bắc – Đông Nam là phúc đức trạch. Đối với phòng ngủ, phải được thông thoáng, ấm cúng và không bị bế khí theo phong thủy, nghĩa là tại vị trí mộ khí của căn phòng cần có cửa nhỏ hoặc cửa phòng vệ sinh. Nếu trường hợp không thể bố trí được cửa nhỏ hoặc phòng vệ sinh ở đó, tại vị trí mộ cần có lỗ nhỏ thông khí theo Phong thủy Lạc Việt để thoái khí nhằm tránh cho phòng ngủ bị bế khí. 5. PHONG THỦY GIƯỜNG NGỦ VỚI VẤN ĐỀ CHỮA BỆNH VÀ HIẾM MUỘN Hiện nay, vấn đề hiếm muộn là một thực trạng đáng lo ngại trong xã hội. Có nhiều người đã mất rất nhiều tiền, nhiều lần đi thụ tinh nhân tạo mà cũng không được. Ngoài ra, trong hôn nhân gia đình, bệnh bất lực ở đàn ông cũng là một thực trạng đáng quan tâm. Vậy Phong thủy nói chung và Phong thủy Lạc Việt nói riêng giải quyết vấn đề này như thế nào? Phong thủy Lạc Việt cho rằng: việc hiếm muộn được gây bởi rất nhiều nguyên nhân mà một trong những nguyên nhân chính, đó là nhà bị vô khí. Để giải quyết vấn đề này, trước hết phải giải quyết được vượng khí cho ngôi nhà, không bị thoái khí, vô khí và bế khí. Tiếp đó, giường ngủ phải đáp ứng được đầy đủ các điều kiện như ở trên, phải được đặt ở cung Thiên Y của cung mệnh gia chủ. Đối với những người bị bệnh tật cũng cần phải đặt giường ở vị trí vượng khí và nằm trong cung Thiên Y. Đối với bệnh bất lực ở đàn ông, giường ngủ phải được sắp xếp ở nơi vượng khí của căn phòng, đáp ứng được các điều kiện nêu trên và tọa tại cung Sinh khí hoặc có hướng giường là hướng Sinh khí. Phòng ngủ là một thành tố trong tập hợp nhiều yếu tố của căn nhà. Bởi vậy phong thủy đối với phòng ngủ chỉ phát huy tác dụng khi tổng thể phong thủy của căn nhà tốt theo quan niệm của Phong Thủy Lạc Việt. Đến đây, chắc các bạn cũng đã có thể tự sắp xếp được giường ngủ của mình một cách hợp lý theo phong thủy. Người viết xin dừng tại đây. Cám ơn sự quan tâm của các bạn./. TP. Hồ Chí Minh ngày 20/10/2010 Ngày Quý Mão, tháng Bính Tuất, năm Canh Dần1 like
-
Khanh an xin giới thiệu tiếp đến mọi người cuốn "Những chuyện niệm Phật cảm ứng mắt thấy tai nghe" để giúp những người hữu duyên thêm tăng trưởng niềm tin nơi pháp môn niệm Phật - Pháp môn tu học thù thắng, bất khả tư nghì. Ngưỡng mong tất cả chúng sinh đồng sanh Tây Phương, đồng thành Phật Đạo. A- Di -Đà- Phật. NHỮNG CHUYỆN NIỆM PHẬT CẢM ỨNG MẮT THẤY TAI NGHE Tác giả: Lâm Khán Trị Dịch giả: Tỳ Kheo Thích Hoằng Chí Lời người dịch Pháp môn Tịnh độ theo như huyền ký của Đức Phật trong Kinh Vô Lượng Thọ ([1]) và Kinh Đại Tập ([1]) là một pháp môn thù thắng và rất thích hợp với chúng sanh trong thời mạt pháp này. Chư Tổ như các ngài Mã Minh, Long Thọ, Trí Giả, Huệ Viễn, Thiện Đạo, Thanh Lương, Vĩnh Minh, Thiên Như, Liên Trì, Ấn Quang, v.v… cũng đều đề xướng tuyên dương pháp môn Tịnh độ. Và trên thực tế chúng ta thấy hành giả tu Tịnh độ ngày một nhiều. Thế nhưng dịch giả nhận thấy những sách viết về Tịnh độ thì dường như quá ít! Đã thế, mà trong số ít ỏi đó lại còn có những sách nội dung chẳng những không làm tăng trưởng niềm tin nơi hành giả, mà còn gây cho hành giả thêm hoang mang. May thay, dịch giả được đại đức Thích Minh Quang hiện đang du học ở Đài Loan, trong một chuyến về nước tặng cho quyển “Những Truyện Niệm Phật Cảm Ứng Mắt Thấy Tai Nghe” này, dịch giả xem thấy rất hay, cảm thấy quyển sách này nếu được dịch ra chữ Việt và in ấn lưu hành thì có thể giúp tăng trưởng tín tâm nơi hành giả tu Tịnh độ rất nhiều, nên dịch giả không ngại vốn liếng Hán học còn nông cạn và văn từ tiếng Việt cũng rất vụng về, mạnh dạn phát tâm dịch quyển sách này ra chữ Việt, để các hành giả tu Tịnh nghiệp cùng xem, với ước nguyện thông qua quyển sách nhỏ này, mọi người càng thâm tín hơn nơi pháp môn thù thắng mà mình đã chọn. Ngưỡng mong trên Hòa Thượng bổn sư (Hòa Thượng thượng Trí hạ Tịnh) chứng minh, cùng toàn thể chư liên hữu hoan hỷ với pháp sự này. Đây là lần đầu tiên dịch giả mạo muội cầm bút dịch một quyển sách Phật ra mắt đại chúng, chắc chắn sẽ có rất nhiều sai sót. Ngưỡng mong được các bậc cao minh chỉ giáo. Nam mô A Di Đà Phật Mùa Hạ năm Tân Tỵ Dịch giả cẩn bút Tỳ kheo Thích Hoằng Chí Lời tựa Tuyết Lô lão nhân Lý Bính Nam ([1]) Sách vở của Tam Đại (ba đời: Hạ, Thương, Chu ) như thế nào? Gặp ngọn lửa của nhà Tần, nên nay không còn biết! Còn lưu lại chỉ là sách vở từ nhà Hán trở về sau. Nhìn tổng quát những Kinh, Sử, Tử, Tập đều không ngoài hai chữ “Nhân Quả”. Lấy đó làm gương, làm khuôn phép thì phong hóa trong xã hội được thuần khiết (trong sáng, tốt đẹp). Trong phần Tập (một trong bốn phần Kinh, Sử, Tử, Tập) thì có những tiểu thuyết giả sử, tiếp diễn đến nay vẫn thịnh hành và sự phổ cập đến các hàng độc giả, thực ra còn vượt lên trên cả Kinh, Sử. Chỉ có điều chất lượng của tiểu thuyết không đồng đều, nên không được xếp vào văn hiến. Nhưng những loại tiểu thuyết có nhiều loại phức tạp như loại lịch sử, loại phong tục, loại võ hiệp, loại thần quái, loại ngụ ngôn biếm đời, loại tình yêu nam nữ, v.v… Thể loại tuy nhiều, nhưng đều dùng “thiện ác” để khuyên răn đời, lấy đó làm tông chỉ. Do có công năng giúp đỡ cho Kinh, Sử, cho nên các bậc danh nho, học sĩ đều không bài xích nó, nhưng có những chuyện có hư cấu, dùng từ khoa trương quá đáng; cũng có cái vừa phải xác đáng, cho nên có người tin, có người không tin, vì vậy sách Mạnh Tử có lời than: “Tin hết vào sách không bằng không có sách!”, đây là vì ghét sự khoa trương quá đáng. Sách đã như vậy mà lòng người phần nhiều cũng không đồng: có người tin những điều ghi chép trong sách xưa; có người thì tin những lời nói của người nay; có người tin sách không tin người; có người tin người không tin sách; có người tin xưa không tin nay; có người tin nay không tin xưa. Như thế thì chẳng phải đều tin hết, cũng chẳng phải đều chẳng tin hết. Quyển sách này người biên soạn là người nay, những điều người nay ghi chép là những việc nay. Người nay thì nhiều người quen; việc nay thì nhiều người biết, cho nên chẳng có hư cấu và khoa trương quá đáng, như thế thì sao mà không tin? Nếu tin thì tăng thêm phước đức, làm cho phong hóa xã hội được thuần khiết (trong sáng, tốt đẹp). Tác phẩm ghi lại những chuyện nhân quả này được viết ra là vì người có lòng tin, cũng làm ra là vì người chưa có lòng tin. Người chưa có lòng tin hiện nay chưa chắc sau này không tin, cho nên tác phẩm được viết ra cũng không uổng phí vậy. Có người bảo: “Cái nhân quả mà ngài nói, tôi không dám bác, nhưng những chuyện cảm ứng ghi ở đây, không khỏi đáng nghi?”. Ôi, nhân quả là hiện tướng của Sự; cảm ứng là động thái của Lý. Sự và Lý, Động và Hiện nếu có thể tách làm hai, thì làm gì có nhân quả? Lại có người nạn vấn rằng: “Nhân quả, Kinh, Sử đã nói rõ rồi, cần chi đến những chuyện cảm ứng này?”. Đáp: “Ông không nghe việc phương tiện khéo léo trong kinh Pháp Hoa sao? Thuyết pháp thì hàng trung căn, hạ căn không khế ngộ; thuyết thí dụ thì hàng thượng căn trung căn đều nghe; thuyết nhân duyên thì ba căn đều thông suốt, mà quyển sách này đã giúp thêm được cho Kinh, Sử, thế há chẳng tốt hơn sao?”. Như ai thực sự tin được điều này, mới có thể thấy được chỗ thâm áo của Kinh, Sử. Trung Hoa Dân Quốc năm thứ 58, Cuối Xuân năm Kỷ Dậu Lý Bính Nam ghi 1. MỘT CÂU PHẬT HIỆU KHỞI TỬ HỒI SINH Có một vị liên hữu ở làng Bắc Đồn, ngoại ô của Đài Trung tên là Lại Lâm Trị, vì chồng của bà tên là Tuấn, cho nên mọi người đều gọi bà là thím Tuấn, năm nay bà sáu mươi bốn tuổi. Mỗi thứ tư và thứ bảy bà đều đến thư viện và Liên xã chùa Từ Quang nghe thuyết pháp; hai thời khóa tụng sáng, tối chỉ biết niệm Phật. Bà có một người con gái tên là Lan, năm mười tám tuổi đã lấy chồng và sanh được một đứa con trai tên là Đạt Tử. Mười ba năm trước lúc Đạt Tử vừa mới ba tuổi, một hôm đi chơi trước cổng, bỗng nhiên có một con heo nái chạy lại đụng ngã Đạt Tử, từ hôm đó trở đi bị sốt cao, hôn mê bất tỉnh, theo chẩn đoán của bác sĩ là viêm màng não. Trung y, Tây y, thuốc thang gì đều vô hiệu, hai mươi ngày sau thì chết! Vào khoảng 8 giờ tối là dứt thở, người trong nhà để Đạt Tử trên nền gạch trong phòng khách dùng một bao vải rách đắp lên, giấy khai tử mọi việc chuẩn bị xong, dự định sáng mai đem đi chôn. Thím Tuấn nhìn thấy đứa cháu chết đi, vô cùng đau lòng, chiều tối đó đến thời khóa, bà vẫn cứ lên niệm Phật như thường, nhưng tình cảm đau thương khó mà ngăn chận. Bà vừa niệm Phật vừa khóc, hướng lên Phật Bồ Tát nói rằng: “ Nam mô A Di Đà Phật , Nam mô Quán Thế Âm Bồ Tát! Các Ngài sao không phò hộ cho con? Vùng này chỉ có mình con tin Phật, niệm Phật, vậy mà người ta còn cười con, đã nghèo mà còn bày đặt tin Phật, niệm Phật cái gì? Sau này nhất định họ càng cười con! Phật, Bồ Tát ơi! Các Ngài sao không phò hộ cho con?”. Thím Tuấn lại khóc to lên một hồi, rồi nặng nề lên giường đi ngủ, nhưng nhớ lại đứa cháu dễ thương bị chết đi, bà lăn qua lăn lại hoài mà không ngủ được. Vào khoảng 4 giờ hơn, bỗng nhiên thấy một đạo kim sắc quang minh (ánh sáng màu vàng) từ trong hư không xẹt thẳng vào trong nhà khách, ánh sáng rực rỡ không thể nghĩ bàn. Trong khoảnh khắc, bỗng nhiên nghe được tiếng của Đạt Tử hơn hai mươi ngày không biết khóc và tay chân cứng còng khóc ré lên! Thím Tuấn và con gái là A Lan, vội vã tới xem, thấy hai tay của Đạt Tử đã kéo cái bao vải ra, hai mẹ con vừa mừng vừa sợ, bế nó lên và rót cho nó một tí nước, thì nó cũng uống được, thật là không thể nghĩ bàn. Sáng sớm hôm sau, hai mẹ con lại bồng Đạt Tử đi Bắc Đồn cho bác sĩ khám, bác sĩ cũng thấy kỳ lạ, làm sao chết rồi mà sống lại? Bảo hai mẹ con nhanh chóng đưa lên bệnh viện tỉnh Đài Trung. Lúc đó thím Tuấn yêu cầu tôi phụ giúp bà đưa cháu đi bệnh viện nhập viện! Đạt Tử liền được đưa đi bệnh viện ở Đài Trung vào Khoa Nhi. Nhưng khi thím Tuấn nhìn thấy mấy chục đứa nhỏ bị viêm màng não trong bệnh viện bị biến dạng kỳ quái: có đứa mắt lệch, có đứa miệng méo, có đứa tay chân không động đậy gì hết, trong lòng rất là buồn. Bà hỏi thăm thì đa số nhập viện từ sáu tháng đến hai năm, sức khỏe vẫn chưa bình phục, mà bác sĩ chẩn đoán cho Đạt Tử, tối thiểu phải nằm viện bốn tháng, còn khả năng hết bệnh hay không cũng không dám chắc! Thím Tuấn mới nói với tôi: “Về tình hình kinh tế nhà tôi làm sao có thể nằm viện lâu đến bốn tháng được?!”. Tôi liền khuyên bà rằng: “Thím Tuấn à! Thím thực là cả đời khôn ngoan, lại đi tính dại một lúc! Đạt Tử là nhờ phước ấm của thím mà được Phật, Bồ Tát phò hộ, mới chết mà được sống lại, tôi nghĩ cháu nhất định sẽ khỏi, chỉ cần chúng ta vừa cố hết sức trị liệu cho cháu, vừa thành khẩn cầu Phật, Bồ Tát cứu giúp, rồi mới phó mặc mạng cho trời!”. Thím Tuấn vẫn còn do dự chưa quyết định, rốt cuộc tôi lại khuyên bà: “Thôi tạm nằm hai tuần đi, khỏe hay không cũng xuất viện, nhưng thím cần ở lại bên cạnh Đạt Tử niệm Phật không được gián đoạn”. Thím Tuấn cuối cùng bị tôi thuyết phục, bèn làm thủ tục nằm viện điều trị! Đạt Tử nằm viện trị liệu được tốt đẹp, sốt cao đã lui dần; tròng đen con ngươi vốn đã bị lật vào trong chỉ còn thấy tròng trắng nhìn không thấy người, cũng ngày một khôi phục như cũ; dần dần cũng đã nói chuyện lại được, xưng hô với người thân cũng từ từ rõ ràng lại. Khoảng một tuần thím Tuấn muốn về nhà, liền kêu A Lan lại thay thế cho bà chăm sóc Đạt Tử. Nhưng có điều kỳ lạ là thím Tuấn vừa ra khỏi cổng bệnh viện, thì bệnh của Đạt Tử lại nặng trở lại, trong miệng nổi lên hai cái lưỡi và trạng thái hôn mê cũng trở lại, còn chảy máu đầy cả miệng, bác sĩ liền dùng bông gòn nhét vào giữa hai hàm răng. Thím Tuấn vừa về đến trong nhà, con rể bà liền nói: “Má à! Má về làm gì? Nhanh chóng đi vào bệnh viện lại đi! Nhanh đi! Nhanh đi!”. Thím Tuấn trở lại bệnh viện, vừa thấy biến chứng của cháu như thế liền vội ngồi xuống bên mình cháu, chí thành niệm Phật. Kỳ tích lại phát sanh lần nữa, thật là vạn đức hồng danh linh nghiệm không gì bằng! Bà niệm được nửa giờ, Đạt Tử đã thở nhè nhẹ đi vào giấc ngủ, lúc thức dậy, chứng bệnh hai lưỡi đã hết, thật là Phật pháp vô biên. Thím Tuấn đi về chỉ có ba tiếng đồng hồ mà bệnh tình đã biến đổi xấu nghiêm trọng như thế. Khi trở lại, vừa qua niệm Phật thì bệnh càng lúc càng hồi phục bình thường. Đến ngày thứ mười ba, bác sĩ tuyên bố ngày mai có thể xuất viện. Mọi người đang vui mừng, nhưng vào lúc nửa đêm bệnh của Đạt Tử lại lần nữa biến đổi xấu nghiêm trọng, phát sốt rất cao, trong khoảnh khắc thím Tuấn vô cùng hốt hoảng, nhứt thời không có cách gì, bèn lấy mười đồng kêu A Lan đi ra chợ tìm thầy tướng số đưa ngày sinh tháng đẻ của Đạt Tử cho thầy đoán xem số mạng của nó có tới số chết chưa? A Lan đi xem số mạng về nói: “Trong số mạng của Đạt Tử mang chứng tê liệt, năm ba tuổi chắc chắn bị phát sởi mà chết!”. Lúc đó bác sĩ và y tá lại đến chẩn bệnh, lột hết quần áo của Đạt Tử ra xem, phía sau lưng phát hiện đầy những chấm đỏ nhỏ, liền lắc đầu nói: “Đáng tiếc! Đáng tiếc! Thằng bé này đột nhiên lại phát sởi, sau khi bị viêm màng não lại bị sởi rất dễ dẫn đến sưng phổi. Nếu như thế, thì thật không còn cách trị!”. Thím Tuấn và A Lan trước đã nghe đoán số mạng sẽ chết, nay bác sĩ cũng nói sẽ chết càng đau lòng vô cùng! Lúc đó lại hối hận là không nên vào viện, trong hai tuần đã tốn hết mấy ngàn đồng. Lúc đó tôi cũng ở kế bên, liền nói với họ rằng: “Có lẽ Đức Phật A Di Đà và Quán Thế Âm Bồ Tát từ bi thương xót cho bà là người đệ tử trung thật, mới đặc biệt gia bị, khiến Đạt Tử trước khi xuất viện tái phát sởi, ở trong bệnh viện y dược dễ dàng thuận tiện, chớ nếu sau khi xuất viện về nhà rồi mà tái phát sởi thì càng nguy hiểm hơn! Không tin, ở lại thêm một tuần lễ nữa liền có thể bình an xuất viện. Bây giờ bà phải khẩn thiết hơn nữa ở bên cạnh nó niệm Phật, không được gián đoạn, không nên nản lòng!”. Lúc đó tôi cũng chỉ an ủi họ như thế thôi, thật ra tôi còn sốt ruột hơn họ nữa! Một tuần lễ trôi qua, trải qua sự trị liệu rất thuận lợi, quả nhiên Đạt Tử đã vượt qua cửa ải tử vong một cách an nhiên, có thể xuất viện được rồi. Nhưng theo nguyên tắc của bệnh viện, người bệnh muốn xuất viện, nhất định phải qua bác sĩ tái khám một lần. Khi bác sĩ khám lại cho Đạt Tử, miệng nói luôn không ngớt: “Kỳ lạ! Kỳ lạ! Làm sao mà bệnh trạng nghiêm trọng quá sức như thế, lại mau khỏi như vậy?”. Liền hỏi thím Tuấn: “Trong miệng bà không ngớt niệm những gì vậy?”. Thím Tuấn nói: “Niệm A Di Đà Phật”. Bác sĩ nghe xong nói: “Mẹ tôi cũng là người ăn chay trường hai, ba chục năm nay rồi, vì sao không biết niệm A Di Đà Phật?”. Đáng tiếc thím Tuấn không biết trả lời, lỡ mất một cơ hội! Lại nói về Đạt Tử, từ khi xuất viện về nhà, sức khỏe cùng với những đứa trẻ bình thường khác mạnh khỏe như nhau, nhưng hay hỏi bà ngoại: “Con còn nhỏ như thế này tại sao biết tự mình ăn cơm, lại biết nói chuyện, biết đi?”. (có lẽ bị ảnh hưởng viêm não nên hơi bị thần kinh - dịch giả). Thím Tuấn liền đổi tên nó lại là “A Châu” Thời gian qua như tên, mới chớp mắt, A Châu năm nay đã mười bảy tuổi, anh ta thường ngày làm việc rất siêng năng, lại hiếu thuận với người lớn, là một thanh niên tốt có lễ giáo nhân nghĩa. 2. BỒ TÁT THỊ HIỆN KHUYẾN HÓA NIỆM PHẬT Đầu tuần tháng 5 năm ngoái, con gái của thím Tuấn là A Lan, do vì đẻ non nên sức khỏe rất yếu, một hôm bị băng huyết té ngã trên giường hôn mê, thím Tuấn tưởng cô ta ngủ, không để ý. Vài giờ sau tỉnh dậy, cô nói với mẹ: “Con vừa rồi bị hôn mê, thần thức sợ sệt đi đến một nơi rậm rạp um tùm, dường như rất xa, nhưng con vẫn cứ đi mãi về phía trước, giữa đường gặp một người nữ trẻ tuổi, rất là đoan chánh trang nghiêm, vừa chặn con lại, lại thêm duỗi tay đẩy con một cái té lộn nhào, lúc bò dậy con liền mắng cô ta: “Ngươi… cái cô gái này sao mà vô cớ xô ta vậy? Cô tên là gì?”. Cô gái đó liền nói với con rằng: “Chỗ này không phải chỗ ngươi đến, mau mau về đi, ngươi về nhà sẽ biết tên ta”. Nói như thế xong, cô gái cung kính chắp tay lại, miệng niệm: “ Nam mô A Di Đà Phật”. Lúc đó con liền tỉnh dậy”. Thím Tuấn nghe xong liền nói với con gái rằng: “Cô gái đó e rằng chính là Quán Thế Âm Bồ Tát biến hóa ra để cứu con đó. Có khả năng là Đức Đại Từ Đại Bi cứu khổ cứu nạn Quán Thế Âm Bồ Tát rồi!”. Từ đó về sau sức khỏe của A Lan hồi phục mạnh khỏe như thường. Sau việc đó, thím Tuấn đến Liên Xã thăm tôi và kể cho nghe chuyện của A Lan trải qua và còn hỏi tôi rằng: “Tại sao Quán Thế Âm Bồ Tát cũng phải chắp tay niệm A Di Đà Phật? Quán Thế Âm Bồ Tát không phải là một trong Tam Thánh của Tây phương Cực Lạc thế giới sao?”. Tôi liền nói với bà ta rằng: “Quán Thế Âm Bồ Tát chắp tay niệm Phật là dạy cho A Lan niệm, không phải ngài tự mình cần phải niệm. Đây chính là dùng tự bản thân làm khuôn phép dạy cho người (thân giáo) muốn khuyến hóa A Lan con gái của bà, không niệm Phật làm sao có thể thoát ly được Ta Bà khổ hải, khỏi vào trong vòng luân hồi?”. Từ đó con gái của thím Tuấn cũng bắt đầu niệm Phật. Cuối cùng chúng ta hãy nghiên cứu một chút, một câu Thánh hiệu này thế mà hơn khoa học. Hãy xem các bác sĩ đã nghiên cứu khoa học mấy chục năm họ chẩn đoán: nếu như thằng nhỏ nằm viện ít nhất phải bốn tháng, còn khả năng khỏi hay không còn không dám chắc! Và một vị khác có khả năng bói bát tự, khéo đoán về âm dương, đoán là chỉ sống có ba tuổi bị ban sởi mà chết, rốt cuộc bị câu Thánh hiệu A Di Đà Phật mà tiêu tai giải nạn, gặp dữ hóa lành. Nhưng có lẽ có người sẽ hoài nghi: “Niệm Phật thì không chết ư?”. Đương nhiên tôi không dám nói quả quyết như thế, do vì đời người có sanh ắt có tử. Nhưng trong kinh có nói rằng: “Chí tâm niệm một câu A Di Đà Phật có thể tiêu diệt tội nặng sanh tử trong tám mươi ức kiếp”. Chỉ cần xem người niệm Phật có phải là “chí tâm” niệm hay không? Nếu như không chí tâm, niệm Phật ắt không có cảm ứng, không tự trách mình, lại đi trách ai đây? 3. PHẬT A DI ĐÀ PHÓNG QUANG GIA BỊ Đây là một câu chuyện thật xảy ra vào ngày mồng 9 tháng 11 ÂL năm Dân Quốc thứ 52 (Dân Quốc sơ niên là 1911) do niệm một câu đại chú vương vạn đức hồng danh mà được cảm ứng không thể nghĩ bàn. Một phụ nữ họ Lại ở trong vùng nông thôn mới do thành phố Đài Trung hỗ trợ, năm nay 54 tuổi, bà ta đã từng dẫn đứa cháu mới 5 tuổi của bà sang một vị liên hữu tên Lý Kim Phương đối diện với nhà bà để nhờ gia trì chú Đại Bi “thâu cảnh”. Gia trì chú Đại Bi “thâu cảnh” là một phương pháp rất hiệu nghiệm, cũng là một pháp môn phương tiện hay, khéo khuyên người niệm Phật. Buổi trưa mồng 9 hôm đó, bà họ Lại đang làm việc trong nhà bếp, bỗng dưng đầu bà cúi gục xuống, toàn thân co giật. Đứa cháu 5 tuổi đó thế mà rất thông minh, thấy tình trạng như thế, vội vã chạy sang nhà đối diện lớn tiếng kêu lên: “Bà cụ ăn chay ơi! Bà cụ ăn chay ơi! Mau qua giúp bà của con “thâu cảnh”. Vị liên hữu Lý Kim Phương lập tức đến nhà bếp bà Lại, vừa xem, bà giựt mình hốt hoảng, chỉ thấy bà Lại hai con mắt trắng dã, đã hôn mê bất tỉnh nhân sự, bà mẹ chồng hơn 70 tuổi đang đỡ một bên hông phải của bà ta; đứa con trai lớn đang đỡ hông bên trái, hai người đều sợ đến mức chỉ biết kêu la. Vị liên hữu Lý Kim Phương bảo họ cần phải trấn tỉnh và mọi người phải cùng nhau niệm A Di Đà Phật. Như thế niệm được khoảng 20 phút bà Lại đang trong hôn mê thở ra một hơi, mới mở miệng nói: “Ông ta đứng ở kia kìa, bảo tôi đi với ông ta”. Vị liên hữu Kim Phương hỏi bà ta: “Ông ta là ai vậy?”. Bà Lại đáp: “Là ông Lâm chồng tôi”. Vị liên hữu Kim Phương vừa cao giọng niệm Phật vừa nói với hồn quỷ rằng: “Ông Lâm à! Ông không nên dẫn bà Lại đi, mà nên cố gắng phò hộ sức khỏe của bà được bình an, vì bà ấy là một người con dâu hiếu thảo, trên thì lo hầu hạ mẹ của ông, dưới còn có con nhỏ chưa trưởng thành, cần phải nuôi dạy, ông nhất thiết không được dẫn bà ấy đi!”. Bà mẹ chồng của bà Lại lúc đó cũng nói: “Con à! Từ sau khi con qua đời, vợ con và mẹ cùng nương nhau mà sống, con không được dẫn nó đi, con nếu dẫn nó đi, để lại mẹ già cả thế này và mấy đứa nhỏ còn nhỏ như thế kia, làm sao mà sống đây? Như vậy con chính là đại bất hiếu!”. Vị liên hữu Kim Phương lần nữa lại khuyên hồn quỷ: “Ông Lâm à! Ông phải nên niệm A Di Đà Phật phát nguyện cầu sanh Tây phương, mới có lối thoát, luân hồi trong sáu đường là cái khổ nói không cùng. Bây giờ tôi niệm A Di Đà Phật, ông cũng phải phát tâm niệm A Di Đà Phật theo!”. Nói xong liền niệm “A Di Đà Phật”, niệm liên tục không dừng. Niệm được khoảng nửa tiếng đồng hồ, thì nghe bà Lại bắt đầu nói: “Tam Tiên ánh vàng rực rỡ, Tam Tiên ánh vàng rực rỡ, chồng tôi cũng đi rồi”. Vị liên hữu Kim Phương hỏi bà ta: “Bà hỏi thử xem, Tam Tiên tên là gì?”. Bà Lại nói: “Họ nói là Phật A Di Đà phóng quang gia bị”. Bà Lại đang trong hôn mê tức thời tỉnh táo trở lại, chưa đầy mấy ngày sức khỏe của bà bình an vô sự (Tam Tiên tức là Tam Tôn-ba vị Thánh cõi Tây Phương- do vì bà Lại không phải tín đồ chính thức của Phật giáo, nên không biết tôn xưng Tam Tôn). Bà Lại lần này bị sự nguy khốn đó, cũng không phải không có nguyên nhân, việc xong bà mẹ chồng của bà ta nói với vị liên hữu Kim Phương rằng: “Thằng Lâm con tôi sau khi kết hôn với con dâu họ Lại này chưa từng có gây gổ với nhau lần nào, thật là một cặp vợ chồng hạnh phúc. Từ ba năm trước khi thằng Lâm chết rồi, con Lại ngày ngày đều thương nhớ chồng. Mười mấy hôm trước nó một mình đi ra mộ dọn dẹp, cúng bái, khóc lóc thảm thiết một trận nữa, cho nên bắt đầu từ hôm đó, đêm nào cũng mộng thấy hồn chồng về trong nhà. Điều kỳ lạ là không chỉ một mình nó mộng thấy, trong nhà lớn nhỏ đều mộng thấy cả!”. Vị liên hữu Lý Kim Phương có hơi không hiểu: Tại sao một người đã chết ba năm rồi, thần thức còn ôm giữ trong mộ? Riêng tôi, tôi cho rằng việc này có hai cách giải thích: Một là ông Lâm này lúc còn sống, “chấp ngã” rất nặng cho nên sau khi chết đọa vào quỷ đạo vẫn lưu luyến cái thi thể cũ của mình như trước mà trở thành loài quỷ giữ xác! Hai là lúc bà Lại đi ra mộ quét dọn cúng bái, thì những cô hồn ngạ quỷ ở gần mộ đó biến hóa ra hình tướng của ông Lâm theo bà ta về nhà làm loạn! Căn cứ theo trong Kinh Địa Tạng có nói: “Cõi Diêm Phù Đề này, người hành thiện, lúc lâm chung, cũng có trăm ngàn quỷ thần ác đạo hoặc biến ra làm cha mẹ, nhẫn đến biến ra những bà con quyến thuộc, dẫn dắt người chết khiến họ vào đường ác, huống nữa là người lúc sống vốn tạo ác nghiệp. Hai cách giải thích trên đây, không biết thuộc về cách nào? Những vị độc giả thông minh, các ngài có thể giải đáp cho tôi không? 4. MẸ GIÀ NIỆM PHẬT, CON ĐƯỢC TAI QUA NẠN KHỎI Vị liên hữu Lý Thủy Cẩm trưởng ban Kim Cang trong Liên Xã ở Đài Trung là một vị đệ tử Phật phát tâm Bồ Tát rất thành khẩn. Nhà của bà ở số 31 đường Nam Kinh trong nội thành, chẳng những làm cho cả gia đình theo Phật mà còn độ được cả nhà của mẹ mình. Nhà của mẹ bà ở trên núi làng Minh Tú trấn Sa Lộc. Vào ngày mồng 8 tháng 9, tám năm về trước bắt đầu mời các vị hoằng pháp trong Liên Xã đến đó tuyên giảng chánh pháp, khuyên người niệm Phật. Trong nhà bà thờ phụng tượng Tây phương Tam Thánh, đặt tên là “Tín Nghĩa Đường”, lại còn lấy ngày mồng 8 tháng 9 hằng năm làm ngày lễ kỷ niệm định kỳ. Những tín đồ ở gần đấy, mỗi lần đến ngày đó đều sắm sửa hương hoa quả phẩm đến Tín Nghĩa Đường lễ Phật, nghe pháp. Ngày mồng 8 tháng 9 năm Dân Quốc thứ 52, học nhơn (lời khiêm xưng của tác giả sách này: Khán Trị) được mời đến đó giảng Phật Pháp kết duyên. Hôm đó có một bà lão cùng một người nam trong tay bưng một khung kiếng đi đến Tín Nghĩa Đường, trên mặt hai người lộ nét rất vui vẻ, ở trước Phật, năm vóc sát đất, rất là cung kính dập đầu ba lạy, tôi nhìn thấy không khỏi hiếu kỳ liền đến hỏi bà lão: “Các vị tin Phật lễ bái thành khẩn như thế, không biết là nhân duyên gì?”. Lúc đó bà lão lập tức trả lời rằng: “Tôi đến để đáp tạ Phật, Bồ Tát đã phò hộ”. Tôi tìm cho bà ta một chỗ ngồi, thế là bà từ từ nói ra một đoạn nhân duyên tin Phật như sau: “Vào trung tuần tháng rồi, có một đêm tôi nằm mộng thấy răng của tôi toàn bộ rụng hết. Trời sáng thức dậy suy nghĩ đây là một điềm báo trước không tốt lành, tôi liền đem việc chiêm bao không tốt lành này nói với em dâu Cẩm Tỉ, cô ta dạy tôi quỳ trước Phật, nhứt tâm niệm Phật, khẩn cầu Phật Tổ phò hộ cho cả nhà bình an, gặp dữ hóa lành, nạn lớn biến thành nhỏ, nạn nhỏ biến thành không”. Bà lão nói một mạch đoạn nguyên nhân trước này, dừng lại một chút lại nói tiếp: “Tôi có đứa con lớn tên là Thành, làm công nhân đốt than trong vùng núi sâu ở miền Trung. Sáng hôm đó nó đang nổi lửa đốt củi, thì bên tai bỗng nghe có người gọi: “Thành à! Về nào!”. Nó quay nhìn xung quanh, hoàn toàn không thấy ai, tại sao lại có tiếng kêu? Lại chạy ra bên ngoài nhìn xem cũng chẳng thấy người nào gọi nó, nhưng khi nó đi lại vào trong nhà, thì bên tai lại nghe tiếng gọi: “Thành à! Về nào!”. Lúc đó anh Thành cảm thấy rất kinh ngạc, liền nghĩ đến bà mẹ già hơn bảy mươi tuổi ở nhà, có phải đã xảy ra chuyện gì ngoài ý muốn rồi không? Lập tức đến ông chủ xin nghỉ phép, kiên quyết sửa soạn hành trang về thăm nhà. Khi Thành vai mang quần áo, mền bông rời khỏi nơi đốt than khoảng hơn một trăm bước, thì bỗng nhiên nghe “bình” một tiếng thật to, quay đầu nhìn lại xem thử, thì chính là cái gian nhà của anh ta ở đốt than vừa bị sập xuống, anh Thành lúc đó thở phào ra một hơi, mừng rỡ đã thoát khỏi tai nạn bị đè chết, trong lòng rất là an ủi, sau đó anh vẫn cứ vai mang hành lý lên đường về nhà. Suốt đường đi toàn là đường núi, anh Thành vượt qua mấy ngọn núi rồi, còn phải đi qua một khe núi lớn, khe núi này không có cầu, phải dùng một loại dây thừng to và cái giỏ tre để làm dụng cụ qua lại hai bờ, người ngồi trong cái giỏ tre, trên hai bờ đều có người kéo dây thừng qua lại cho khách, anh Thành cần qua khe núi này cũng không ngoại lệ, ngồi trong giỏ tre, mền bông và các thứ đồ v.v… đều để kế bên, đang lúc được kéo đến giữa khe thì bỗng nhiên dây thừng bị đứt, cả người và hành lý đều bị rớt xuống khe và bị nước cuốn đi, do vì khe sâu mấy trượng, nên nước trong khe chảy rất mạnh, người ở hai bên bờ đều đành bó tay, không có cách gì, chỉ có kêu lên “tội nghiệp” mà thôi! Anh Thành rơi vào trong khe cũng tự lượng không sống được, nhưng bị nước cuốn đi một đoạn, kỳ tích lại phát sanh: anh ta đang quẫy đạp trong nước, mạng sống như ngàn cân treo sợi tóc, bỗng ở trong khe phát hiện một đám cỏ nước, tay mặt tức thời nắm đám cỏ nước đó, chuyển mình một cái liền đứng lại trong nước, sau đó bò dần lên trên bờ, đương nhiên là những hành lý v.v… đã bị nước cuốn trôi mất, đơn độc một thân, rốt cuộc được bình an vô sự về đến nhà”. Trên đây là câu chuyện thật, không thể nghĩ bàn như thế, do bà lão đó kể lại, nhờ mẹ già nhứt tâm niệm Phật mà cảm ứng được người con tiêu tai thoát nạn nguy hiểm hai lần. 5. CHỊ LẠY PHẬT, EM TRAI ĐƯỢC NHỜ PHƯỚC Phật và Bồ Tát là thầy tốt, là phước điền của chúng sanh. Vị liên hữu Lý Thủy Cẩm, cũng là một vị thiện hữu tri thức, gieo rắc hạt giống Bồ Đề. Bà mỗi lần mời hẹn các nhân viên hoằng pháp của Liên Xã ở Đài Trung, ngày giờ đã định xong, liền về nhà trước đi tuyên truyền khắp các nơi ở trên núi, già trẻ trai gái không ai không đến niệm Phật, nghe pháp. Gieo giống thì nhất định sẽ nảy mầm; có niệm Phật thì nhất định có cảm ứng. Vào khoảng tháng 5 năm trước, có một hôm vị liên hữu Thủy Cẩm nói với tôi: “Trong xóm nhà của mẹ tôi có một bé gái mười tuổi, rất là thông minh và có căn lành, cô bé lần nào cũng đến tham gia nghe các vị giảng về Phật pháp, cảm thấy rất là hay, bèn phát tâm hàng ngày niệm A Di Đà Phật. Do vì trong nhà cô chưa lập bàn thờ Phật cho nên sáng tối đều đến nhà bên cạnh có bàn thờ Phật để lạy Phật nhờ”. Khoảng mấy tháng sau, đứa con trai ở nhà có bàn thờ Phật kia mắng cô: “Mầy không biết thể diện, không biết xấu hổ, Phật ở nhà tao, không cho mày đến lạy!”. Cô bé này không dám đến nhà kia lạy Phật nhờ nữa, nhưng trong lòng lúc nào cũng nhớ nghĩ đến lạy Phật, tâm không rời Phật, Phật không rời tâm. Có một đêm đang ngủ bỗng nhiên thức dậy, quỳ trên giường, chắp tay niệm: “ Nam mô A Di Đà Phật”, niệm mãi không thôi. Mẹ của cô cũng thức dậy nói: “Con nhỏ này nửa đêm nửa hôm thức dậy làm gì vậy?”. Cô bèn nói: “Má! Con thấy được kim thân to lớn của Đức Phật A Di Đà, diện mạo tươi vui, từ trong hư không bay đến trước mặt con, con vội vã thức dậy cung kính niệm Phật. Má! Con rất mong có được một tượng Phật để cúng dường. Con cầu xin má thỉnh một tượng Phật về nhà thờ được không má?”. Cô chắp tay lại cầu xin mẹ: “Má! Con nghĩ ra rồi, con heo đất của con ngày mai sẽ đập ra, có được bao nhiêu tiền, nhờ ba đến đường Sa Lộc thỉnh về một tượng, như thế mỗi ngày con đã có Phật, có thể lễ lạy được rồi”. Má của cô ta liền hứa nhận lời. Sáng sớm thức dậy, đập vỡ con heo ra đếm, tất cả được 28 đồng, cha của cô đi đến đường Sa Lộc, tìm được một tượng Quán Thế Âm Bồ Tát đến 50 đồng thỉnh về nhà. Buổi sáng ngày mồng 1 hôm đó liền an vị tượng, mẹ cô chuẩn bị bánh dày đỏ và mua hương hoa quả phẩm v.v… Đang khi cả nhà vui vẻ, bỗng nhiên phát hiện mất đứa em trai bốn tuổi của cô bé! Thế là cả nhà hoảng hốt lập tức cho người đi tìm khắp nơi, đồng thời tổng động viên mấy trăm người bà con trên núi dưới núi chia ra đi tìm, ngay cả mấy ao cá lớn trong làng, cũng đều có người lặn xuống mò tìm, vẫn không tìm ra!… Từ sáng đến tối vẫn không tìm được! Có mấy người cười cha mẹ cô rằng: “Vợ chồng mấy người là người lớn mà đi nghe lời con nít, muốn lạy Phật cái gì! Mấy người ngày hôm nay cũng chính vì bận lo việc an vị tượng Phật mới xảy ra đại họa như thế!”. Tội nghiệp cho cô bé thông minh này, bị người này một câu, người kia một câu đàm tiếu, sợ đến nỗi một mình lén lén quỳ trước tượng Bồ Tát hai mắt đỏ hoe, rơi lệ, khổ sở cầu xin: “Phật, Bồ Tát ơi! Các ngài phải phò hộ cho đứa em trai bốn tuổi của con được bình an về nhà. Nếu như xảy ra điều không may gì, con từ nay về sau không thể tiếp tục lạy Phật, niệm Phật được nữa, những người hàng xóm đây cũng không dám tin Phật nữa!”. Lúc đó cha của đứa bé sực nhớ lại thằng bé bốn tuổi này sau khi sanh, đã từng có đi xem quẻ bát tự (bát tự hà lạc) liền tìm trong tủ lấy ra tờ giải về số mạng của thằng bé đưa cho mọi người xem. Quả nhiên trong quẻ giải viết rất rõ ràng vào năm đó tháng đó (vừa khéo chỉ đúng vào tháng này năm này!) sẽ xảy ra tai họa bất ngờ! Thế là mọi người nhìn nhau nhưng rồi cũng không ai biết làm thế nào! Nguyên thằng bé bốn tuổi này, từ lúc sáng sớm, tự mình chạy ra khỏi nhà, cũng không biết là thuận theo đường sắt dọc biển, hay là từ đường đó chạy đi thẳng một mạch đến hơn 5 giờ chiều. Ở gần trạm xe Vương Điền có một anh sinh viên trẻ trông thấy nó một mình cắm đầu chạy trên đường sắt, anh sinh viên trẻ đó liền kêu: “Em bé! Em bé! Ở đó nguy hiểm lắm, mau dừng lại đi!”. Thằng nhỏ cũng chẳng thèm quay đầu lại, cứ cắm đầu chạy. Anh sinh viên tốt bụng này liền chạy thẳng tới trước ôm cứng thằng bé lại. Ai có ngờ thằng nhỏ này, mắt trợn lên dữ dằn, há miệng cắn trên tay anh sinh viên một cái. Anh này vẫn không giận nó, cố nén chịu đau, ôm thằng bé ép đưa đến trạm xe, giao cho trưởng trạm giữ nó. Hỏi ở đâu, tên họ là gì cũng không biết nói, trưởng trạm sực nhớ đến hồi sáng ở trạm xe Long Tỉnh có liên lạc điện thoại đến dặn chú ý ở trên núi Long Tỉnh có một đứa bé bốn tuổi đi lạc, trưởng trạm xe Vương Điền liền gọi điện thoại cho trạm xe Long Tỉnh mời người nhà của thằng bé đến nhận lãnh về. Bà vợ của trưởng trạm thấy thằng bé toàn thân bụi bặm, bộ dạng đáng thương và rất đói, liền dắt nó về nhà, trước tắm cho nó, lại lấy quần áo của con mình thay cho và cho nó ăn hai chén cơm. Có lẽ chạy suốt ngày đường mệt quá, nên nuốt hai chén cơm xuống bụng xong, liền lăn ra ngủ, bà vợ của trưởng trạm liền bế lên giường để nó ngủ yên. Người ở trạm xe Long Tỉnh lập tức cho cha mẹ nó hay, nhanh chóng đi nhận về. Từ nhà của trưởng trạm xe Vương Điền đem nó về, lúc đó đã 11 giờ đêm. Mặc dù đã nửa đêm, nhưng những bà con già trẻ lớn bé ở vùng đó đều đến thăm nó. Thằng bé này đã được bà vợ tốt bụng của trưởng trạm dùng xà bông thơm tắm cho toàn thân thơm phức, lại mặc cho bộ đồ đẹp nữa, mọi người ai nấy đều nói: “Hôm nay thằng bé được bình yên về nhà, chính là nhờ phước phần của chị nó lạy Phật. Thật là tin Phật, niệm Phật có cảm ứng vậy!”. Nếu không thế thì thằng bé này từ Long Tỉnh đến Vương Điền chạy suốt một ngày trên đường sắt dọc biển lại không gặp việc gì bất trắc ngoài ý muốn… Đồng thời lại còn gặp được người tốt giúp đỡ, gặp được sự thương yêu giúp đỡ của anh sinh viên và bà vợ tốt bụng của ông trưởng trạm xe. Đây nếu không phải Phật, Bồ Tát phò hộ thì làm sao có thể về nhà bình yên vô sự như thế? 6. PHẬT VỐN LÀ Y VƯƠNG CÓ THỂ TRỊ DỨT CÁC CHỨNG BỆNH Câu chuyện thật ở trên là của một bé gái mười tuổi nhờ nhất tâm niệm Phật, được Phật A Di Đà phò hộ cứu đứa em trai 4 tuổi của cô ta tiêu tai thoát nạn. Các vị độc giả có lẽ suy nghĩ rằng: “Đây có lẽ do nghiệp chướng của cô bé còn nhẹ, hãy chưa kết oán cừu với nhiều người cho nên niệm Phật dễ được cảm ứng, nếu như người già lớn tuổi niệm Phật sao có thể có được cảm ứng như thế?”. Nhưng phải biết Phật Pháp vốn bình đẳng, không có cao thấp, người già lớn niệm Phật cũng có cảnh giới bất tư nghì. Tôi một lần nữa kể ra một chuyện thật để chứng minh: Mẹ của liên hữu Lý Thủy Cẩm là một vị thọ Bồ Tát giới ở thư viện Từ Quang vào ngày 10 tháng 6 năm Dân Quốc thứ 49, mọi người đều gọi bà là lão Bồ Tát. Bốn năm trước lúc bà 80 tuổi, ở dưới vú bên phải bỗng nhiên nổi lên một cục thịt to bằng cái chén trung. Theo bác sĩ chẩn đoán là ung thư gan, đã rất nguy kịch, hết phương cứu chữa, chẳng những dùng thuốc không hiệu quả, mổ lại càng không được, chỉ có để bà muốn ăn gì thì cố mua cho bà ăn, thế là tốt rồi! Tây y, Đông y đều nói như thế, không kê thuốc cũng không chích thuốc, châm cứu gì cả! Cứ như thế nằm trên giường bệnh đau đớn triền miên suốt 6 tháng, nhờ vào đứa con trai tên là Nghĩa, là một cư sĩ và người con dâu chăm sóc phục dịch kề bên; con gái là Thủy Cẩm cũng về nhà chuẩn bị hậu sự (đám tang). Nhưng trong 6 tháng, lão Bồ Tát mỗi ngày hai thời sáng tối, bất luận thế nào đều nhất định đứng dậy lạy Phật, dầu là đang trong cơn bệnh khổ, nằm trên giường bệnh, miệng cũng không rời Thánh hiệu A Di Đà Phật. Vào khoảng đầu tuần tháng Tám (từ mồng 1 đến mồng 10) bệnh trạng đã rất trầm trọng, thân thể không thể cử động được, miệng không nói được! Một đêm kia, lúc bệnh trạng đang rất nguy cấp bỗng nhiên thấy bà nói lẩm bẩm: “A Di Đà Phật, Quán Thế Âm Bồ Tát … các ngài viết chi nhiều chữ như thế, con một chữ cũng không biết! Các ngài sao không nói thẳng với con có tốt hơn không?”. Ngưng lại một chút, lão Bồ Tát lại nói tiếp: “Cảm ơn lòng từ bi của Phật rất nhiều, các ngài 10 giờ tối mai sẽ đến giải phẫu cho con cắt bỏ đi cục thịt ở dưới ngực bên phải này, A Di Đà Phật, Quán Thế Âm Bồ Tát, các ngài thật là từ bi quá!”. Những lời này đều là vợ chồng A Nghĩa và vị liên hữu Thủy Cẩm tự tai nghe được, nhưng lúc đó lại cho là người già trước lúc lâm chung, tinh thần rối loạn nói lung tung vậy thôi! Nhưng đến sáng lão Bồ Tát liền kêu con, cháu đi chuẩn bị hương hoa quả phẩm, đặt một cái bàn thờ trong phòng để tiếp đón Phật Bồ Tát đến trị bệnh. Thật là không thể nghĩ bàn, vừa đợi đến 10 giờ, liền nghe tiếng khua của dao kéo… Đột nhiên nghe một tiếng “sựt”, cục thịt ở dưới ngực bên phải đó bỗng bị cắt rời ra, máu chảy ra đen như than, từng giọt từng giọt to bằng ngón tay cái, chảy ra rất nhiều. Từ đêm đó trở đi, sức khỏe của bà mạnh khỏe dần dần, miệng của vết thương nơi cắt cục thịt, nhờ con dâu hằng ngày dùng nước trà rửa, rửa không đến một tháng, không cần thuốc gì mà khỏi bệnh. Hiện nay lão Bồ Tát gặp người nào cũng liền khuyên niệm A Di Đà Phật; xâu chuỗi từ nào đến giờ chưa từng rời tay. Năm nay dù đã tám mươi bốn tuổi nhưng sức khỏe còn mạnh hơn người thường. Giữa Đài Trung và Minh Tú thường đi đi về về tinh thần sung mãn khác thường. Phật vốn là đại Y Vương, ngoại khoa đại phẫu thuật của Phật, Bồ Tát là trị muôn người lành muôn người, nhưng điều quan trọng là chỉ hỏi nơi bạn là có đúng “nhất tâm niệm Phật” hay không? Độc giả nếu không tin, lão Bồ Tát đến nay vẫn còn mạnh khỏe, nếu không ngại xin mời đích thân đến thăm một lần. Bà cụ già rồi, đã không vì danh cũng không mưu lợi, cần gì phải dựng ra câu chuyện này để lừa gạt người? 7. TRỢ GIÚP CHO CHA VÃNG SANH TÂY PHƯƠNG THẬT LÀ ĐẠI HIẾU! Ban trợ niệm của Liên Xã ở Đài Trung khởi đầu là do một tay của lão cư sĩ Giang Ấn Thủy tổ chức dựng nên, cho nên mọi người cử ông làm trưởng ban trợ niệm, chuyên phụ trách niệm cho người lâm chung được vãng sanh Tây phương. Mọi người đều quen tôn xưng lão cư sĩ là Giang tiên sinh. Lúc ông 71 tuổi còn kiêm nhiệm chức giáo sư lịch sử ở Học Uyển chùa Linh Sơn, ông gánh vác mọi việc vì người, rất tận tình, không từ khó nhọc. Không may vào hạ tuần (khoảng 20 đến 30) tháng 8 năm Dân Quốc thứ 48, ông bỗng bị chứng bệnh suyễn mệt tim, Đông Tây y đều không hiệu quả, đến khi bệnh quá nguy kịch, có một hôm vào lúc 7 giờ sáng, con trai của ông là Giang Trọng Phan Quân (dạy học tư gia trong thành phố Đài Trung), đến nhà tôi nói: “Sư cô Khán Trị! Hôm qua bác sĩ nói cha tôi sống tối đa thêm bảy ngày nữa thì lìa đời, kêu tôi phải lo chuẩn bị hậu sự, không biết nên làm thế nào đây?”. Tôi vốn biết Trọng Phan Quân lúc bình thường là đứa con rất hiếu thuận, liền hỏi anh ta: “Từ lúc cha anh bệnh đến nay, anh đã tốn hết bao nhiêu tiền cho cha anh rồi?”. Anh ta nói khoảng hơn năm mươi ngàn đồng. Tôi nói: “Nếu theo pháp thế gian mà nói, như thế đã hết sức vì người rồi. Nhưng tốn nhiều tiền như thế đối với cha anh mà nói lại không có ích gì cả, chỉ có thể làm tăng thêm đau khổ cho thân xác! Tôi nghe nói anh mấy tháng nay không nhớ đến thay đổi y phục, ngày đêm chỉ lo hầu hạ thuốc thang, có thể nói anh là một người con có hiếu trong đời, nhưng như thế cũng chưa thể gọi là lòng hiếu chơn chánh!”. Trọng Phan Quân nghe xong lấy làm lạ không biết gì, lặng lẽ nhìn tôi, tôi liền vì anh ta mà giải thích: “Theo lý nhà Phật nói, anh phải làm cho cha anh tâm được an, chết có chỗ về (tâm hữu sở an, tử hữu sở quy). Anh nếu thật có lòng hiếu, ắt phải về nhà ở bên cha mà niệm Phật, bắt đầu hôm nay niệm 7 ngày, tâm của cha anh chắc chắn sẽ vô cùng vui vẻ, khiến cho ông ra đi được nhẹ nhàng, vãng sanh về cõi Phật, như thế mới là đại hiếu chơn chánh. Hiếu hạnh chung chung của người thế gian chỉ là cung cấp những sự hưởng thụ trong cuộc sống của cha mẹ vào lúc tuổi già, sau khi chết thần thức đọa lạc vào đâu lại không cần biết, đây chỉ là hiếu về vật chất, cho nên không thể nói là đại hiếu”. Giang Quân nghe xong rất vui mừng tiếp nhận đề nghị của tôi, tôi bèn chỉ cho anh phương pháp niệm Phật, hy vọng anh ta mỗi lần niệm một giờ cho đến hai giờ, cần chí tâm thành khẩn, mỗi câu phải rõ ràng, mới có hiệu quả. Ngày hôm ấy là ngày tôi giảng kinh định kỳ ở giảng đường Tân Trúc Văn Nhã, nhưng từ lúc sáng sớm sau khi nghe được tin này, nghĩ đến việc một thành viên quan trọng trong Liên Xã chúng tôi chỉ sống thêm 7 ngày nữa sẽ lìa đời, trong lòng khó tránh khỏi tình cảm đau thương của sự sinh ly tử biệt, cho nên không thể đi Tân Trúc, vốn muốn đi thăm họ (gia đình Giang tiên sinh), lại nghĩ có lẽ Trọng Phan Quân đang niệm Phật, cha anh ta chắc chắn nghe rất hoan hỉ. Mãi tới 8 giờ tối, tôi mới đến nhà họ Giang. Giang tiên sinh vừa nhìn thấy tôi liền nói: “Chị Khán Trị! Mời ngồi! Mời ngồi. Có lẽ chị rất bận, cho nên mấy ngày nay không đến thăm tôi, hôm nay pháp sư Sám Vân tặng cho tôi hai xâu chuỗi Bồ Đề Tinh Nguyệt, mấy đứa đem lại cho chị Khán Trị xem nào”. Lại nói rất nhiều về con cái của ông ta. Lúc đó tôi liền nói với ông: “Vạn pháp đều vô thường, gia tài, con cái đều là giả tướng, biển khổ thế gian không nên lưu luyến thêm, Tây phương là vườn nhà yên ổn, là quê hương an lạc của chúng ta, tâm chúng ta nhất thiết không được điên đảo, bây giờ tôi niệm A Di Đà Phật cho ông nghe, ông phải buông bỏ hết mọi duyên, nhất tâm niệm Phật!”. Tôi liền cầm cái khánh dẫn lên, to tiếng niệm Phật. Cả nhà ông ta từ bà Giang và vợ chồng của Trọng Phan cho đến con gái, con rể tổng cộng 7 người, đều cùng niệm Phật, niệm khoảng 30 phút, bỗng nhiên Giang lão cư sĩ tự mình ngồi dậy, hai tay chấp lại, hai chân ngồi kiết già, hai mắt mở to, nét mặt vui tươi, lúc nằm xuống lại, an tường vãng sanh trong tiếng Phật hiệu A Di Đà. Trong khoảnh sát na hiện ra kỳ tích không thể nghĩ bàn như thế, thật tình mà nói, tôi lúc đó cũng giật mình! Cả nhà con cháu của Giang lão cư sĩ do tôi hướng dẫn phân ban trợ niệm, niệm đến trời sáng đã qua 8 giờ đồng hồ, thử sờ trên đỉnh còn rất ấm, thân thể vẫn mềm mại như bông, nghi dung còn tươi tốt, trang nghiêm hơn cả lúc còn sống. Tôi liền hỏi Trọng Phan Quân : “Anh hôm qua khi về nhà, có niệm Phật cho cha anh nghe không?”. Giang Quân liền nói: “Có! Có. Tôi từ nhà cô về, liền ngồi bên cạnh cha mà niệm Phật. Lần đầu niệm được hai tiếng đồng hồ, buổi chiều được hai tiếng nữa, cha tôi vô cùng hoan hỉ, gọi tôi là con ngoan và hỏi ai dạy tôi niệm Phật? Làm sao hôm nay có thể niệm Phật được nhiều như thế? Tôi liền trả lời: “Ba! Đó là tự con phát tâm niệm Phật, con từ nay trở đi phải niệm Phật hàng ngày, cầu nguyện cho ba sớm được khỏe mạnh”. Cha tôi nghe xong rất hài lòng, vui vẻ, buổi trưa liền ăn một chén cháo, nửa dĩa rau xanh, đau đớn hầu như bớt phân nửa. Bác sĩ nói có thể sống thêm 7 ngày nữa mới chết, không ngờ có mấy tiếng đồng hồ sau linh giác lại an tường vãng sanh trong tiếng niệm Phật, thật là Phật Pháp vô biên, không thể nghĩ bàn. Lão cư sĩ Giang Ấn Thủy là người vãng sanh vào tháng 2 năm Dân Quốc thứ 49. Vào khoảng tháng 6 tôi đi bộ vô ý bị té gãy cánh tay rất nặng, xương gãy làm ba khúc, đêm đó đau đến nỗi không thể ngủ, đến 2 giờ khuya vẫn không thể nhắm mắt. Tôi liền lẩm bẩm nói với cánh tay bị đau rằng: “Mi là thứ đồ giả! Cái túi da hôi thối sống đã mấy chục năm! Đau là do mi đau, vì mi là mi, ta là ta. Ta cần đi Tây phương, không liên can gì tới mi!”. Tôi liền một mực quán tưởng đến Phật, trong lúc nửa tỉnh nửa thức, bỗng thấy một người từ trong hư không đáp xuống, đi thẳng đến trước mặt tôi, ông ta mặc áo vải màu xám, thân thể to lớn, gương mặt cũng to, chỉ thấy phân nửa thân trên còn phân nửa thân dưới bị mây màu che khuất. Người này đột nhiên gọi tôi: “Chị Khán Trị! Tay của chị đau lắm hả? Đây là thời vận không tốt nhưng tai nạn đã qua rồi, không sao đâu!”. Tôi vừa nghe tiếng liền ngẩng đầu lên xem lần nữa, rất giống Giang tiên sinh, tôi liền hỏi: “Giang tiên sinh! Ông có vãng sanh không?”. Ông ta trả lời liên tiếp: “Có! Có!…” rồi xoay mình biến mất. Lúc tôi mở mắt ra xem là đúng 3 giờ, tay cũng không còn đau nữa, không đầy mấy ngày liền khỏi. Đây là lần thứ nhất tôi nhìn thấy người vãng sanh, có bút mực thế nào cũng khó mà diễn tả hết cái tướng trang nghiêm tốt đẹp đó được! Tháng 3 năm thứ 50 là ngày giáp năm của Giang tiên sinh, nhà ông ta ở đường Dân Tộc dời về nhà mới ở đường Đài Trung, bà Giang nhờ tôi thỉnh tượng Phật về an vị nhà mới và niệm Phật siêu độ, chuyển các lư hương bài vị của tổ tiên, chủ thần. Bận rộn suốt một ngày, đến tối ngủ lại chiêm bao thấy Giang tiên sinh hình tướng cũng như lần trước, đến trước mặt tôi nói: “Chị Khán Trị! Cám ơn chị nhiều. Thọ nhận sự giúp đỡ của chị rất nhiều!”. Tôi lại hỏi ông ta như lần trước: “Giang tiên sinh! Ông có vãng sanh không?”. Ông ta cũng lại như lần trước nói: “Có! Có!”. Xong liền biến mất. Sáu năm sau không còn chiêm bao thấy nữa, tôi hối hận tâm mình ngu si, điều quan trọng không hỏi, hai lần đều chỉ hỏi ông ta có vãng sanh không? Tại sao không hỏi: “Khán Trị tôi đây có thể được vãng sanh không? Phải đến ngày nào mới được vãng sanh?”. 8. VỐN ĐẾN ĐÒI NỢ, NIỆM PHẬT ĐƯỢC GIẢI OAN Nhớ lại vào đầu tuần tháng 2 mười năm trước, Ái cô nương, trụ trì của chùa Đại Nhã Long Thiện, gặp tôi ở trạm xe cục Công lộ, bèn nói với tôi rằng: “Chị Khán Trị, ngày 19 tháng 2 là ngày khai pháp hội của chùa tôi, tín chúng đều muốn nghe chị giảng Phật Pháp, xin mời chị phát tâm đến”. Tôi liền nhận lời. Ngày ước định đến liền đi, lại còn mang theo rất nhiều “vô thượng chí bảo” và những sách về pháp môn Tịnh độ, hôm đó sau khi giảng xong, phân phát cho các thính chúng để kết duyên. (Vô thượng chí bảo là một loại như tấm thiếp xếp bỏ túi, in hình Tây phương Tam Thánh và những phương pháp giản tiện về niệm Phật) Tháng 2 năm sau lúc tôi đả thất tại chùa Linh Sơn ở Đài Trung, hôm đó là ngày sư tỷ Huệ Phồn hộ thất; khoảng hơn 3 giờ chiều, tôi đang niệm Phật trong Niệm Phật đường, sư tỷ Huệ Phồn đi vào nhè nhẹ kéo áo tràng tôi một cái, tôi liền đi theo Huệ Phồn ra ngoài xem coi chuyện gì, chỉ thấy một người đàn bà ở dưới quê, hoàn toàn không quen biết, khoảng hơn 50 tuổi, đang đứng ngoài sân. Tôi liền hỏi: “Bà ở đâu kêu tôi có việc gì?”. Bà ta nói: “Ông nhà tôi kêu tôi kiếm bà, gặp mặt bà để nói lời tạ ơn bà. Tôi từ sáng sớm vào thành, ở trong thành hỏi thăm khắp hết: “Sư tỷ Khán Trị ở đâu?”, trong đó có người chỉ, nói bà ở trong Liên Xã. Đến Liên Xã, người trong Liên Xã nói bà đang ở chùa Linh Sơn cho nên tôi tìm đến đây, muốn nói một chuyện để bà biết, cũng là báo đáp cái ân của bà”. Tôi nghe xong lấy làm lạ, thật chẳng biết ất giáp gì cả! Xem ra chuyện này không thể nói hai ba lời mà xong được, vả lại quy củ Phật thất ở chùa Linh Sơn rất nghiêm, ở sân chùa không được nói chuyện, tôi liền dẫn bà ta cùng ra phía ngoài tường, để tiện hỏi cho rõ, lúc đó Huệ Phồn cũng đi theo. Người đàn bà kia liền nói: “Tôi là người ở trong làng Lại Lịch mười ba giáp, hồi tháng 2 năm ngoái lúc bà giảng Phật Pháp ở chùa Đại Nhã Long Thiện, con trai của tôi là Lại Phúc Hưng cũng có nghe giảng ở đó. Sau khi nghe xong có thỉnh “vô thượng chí bảo” và một ít quyển sách nhỏ về nhà nữa. Từ hôm đó, nó bắt đầu tin Phật, lại còn mỗi ngày lạy Phật, niệm Phật, y theo phương pháp trong “vô thượng chí bảo”, hai thời khóa tụng niệm sáng tối, từ đó đến giờ không hề gián đoạn, gần như là được đến trình độ đi, đứng, nằm, ngồi Phật không rời tâm, tâm không rời Phật”. Tôi nghe xong rất là ngạc nhiên, trong thế giới Ta Bà này sao lại có người có phúc khí lớn như thế, mới nghe Phật pháp một lần, liền bắt đầu tu hành sớm tối như vậy? Tôi liền hỏi bà ta: “Con bà bao nhiêu tuổi? Làm nghề nghiệp gì? Làm sao mà phát tâm được như thế?”. Người đàn bà đó lại nói: “Con tôi hồi năm ngoái hai mươi lăm tuổi, nó học xong trung học vào đại học và hai mươi ba tuổi thì tốt nghiệp đại học, song về nhà nó bị lao phổi, hàng ngày chạy chữa Đông Tây y, chích thuốc châm cứu v.v… trong ba năm tốn rất nhiều tiền, mãi đến sau khi nó niệm Phật sức khỏe mới đỡ hơn lúc trước, về mặt tinh thần cũng rất lạc quan, nó cũng thường vào thành phố thỉnh mua những sách Phật Pháp về xem, cho nên thấy nó rất là vui vẻ”. Tôi hỏi bà ta: “Trong nhà bà có mấy người?”. Bà nói: “Ông nhà tôi ngoài tôi là vợ chính ra, còn có một người vợ lẽ, cùng với con tôi tổng cộng bốn người. Vì bệnh của con, chúng tôi ba người già đều phải hết sức trông nom nó, hy vọng nó mau lành bệnh, một lòng nuôi con phòng lúc tuổi già, hy vọng ba người già chúng tôi có chỗ nương tựa. Nhưng đến cuối năm ngoái, đầu tuần tháng chạp âm lịch, Phúc Hưng bỗng nhiên mời ba người già chúng tôi đến bên giường, nói rằng: “Ba và hai má! Con trưa hôm nay sẽ vãng sanh Tây phương Cực Lạc thế giới, ba má đều già, nhất thiết chớ quá đau buồn, than thở tuổi già không con, anh cả của con đi qua Nhật mười mấy năm bặt vô âm tín, nhưng ba má không cần phải lo, hiện nay anh ấy đã lập nghiệp, thành gia thất, lấy vợ sinh con ở Nhật Bản rồi, anh ấy vào đầu tuần tháng 2 sẽ có thư về hỏi thăm, về sau sẽ qua qua lại lại giữa Đài Loan và Nhật Bản, cảnh già của ba má không đến nỗi cô quạnh đâu!”. Ông nhà tôi nghe xong những lời như thế, liền khóc mà nói với con rằng: “Sức khỏe con gần đây đã đỡ hơn trước nhiều rồi mà, con không được bỏ ba má. Con nên cầu Phật A Di Đà phò hộ cho con đi”. Lúc đó Phúc Hưng con chúng tôi lại nói: “Con vốn là đến đây để đòi nợ, ba má ba người trong đời quá khứ đã kết oán cừu với con rất sâu, thiếu nợ của con rất nhiều, đời này đến làm con của ba má, từ lúc sanh cho đến khi tốt nghiệp đại học, rồi bị cái bệnh lao phổi ác ôn này, thuốc thang suốt ba năm, đến nay nợ vẫn chưa hết, con vốn muốn chờ đến sau khi bán tiêu căn nhà này đi khiến cho ba má ba người già nghèo cùng khốn khổ, không có chỗ nương thân, sống khổ như chết. Nhưng năm nay nhờ gắng sức nhất tâm niệm Phật, nên đã tiêu diệt được tội nghiệp nhiều đời, sắp vãng sanh Tây phương Cực Lạc thế giới. Từ nay bốn người chúng ta không còn oán cừu gì nữa, oán cừu đã được cởi mở hết rồi. Ba má ba người cũng phải chí tâm niệm A Di Đà Phật cầu sanh Tây phương, về sau chúng ta sẽ có thể ở chung một chỗ mãi mãi, không còn chia lìa nữa. Mong rằng ba má nhờ kỹ lời con! Thôi thời gian đã đến rồi, đem giùm quyển “Vô Thượng Chí Bảo” lại cho con, không được khóc, cũng không nên động đến thân con, ba má ba người nên quay lưng lại, không nên nhìn con, con cũng sẽ tự niệm Phật” Phúc Hưng để quyển “Vô Thượng Chí Bảo” trong lòng bàn tay và chắp tay lại, bắt đầu to tiếng niệm Phật, chúng tôi cũng giúp trợ niệm, mặc dù nó đã nói không nên nhìn nó, nhưng chúng tôi cũng cứ lén lén quay đầu lại nhìn. Niệm được 20 phút, tiếng của Phúc Hưng từ từ nhỏ dần, đến khi dứt thở, hai tay buông ra, quyển “Vô Thượng Chí Bảo” rớt trên ngực, liền ra đi một cách nhẹ nhàng tốt đẹp. Người đàn bà nói tới đây thở một cái, lại nói tiếp: “Nhà của tôi có nhiều phòng đều cho mướn, số người mướn trong đó có người tỉnh này, có người tỉnh khác đến, lâu nay thấy Phúc Hưng bị lao phổi, mọi người đều sợ lây bệnh, nên đã đi khắp các nơi muốn dời chỗ, bây giờ nhìn thấy con chúng tôi khi lâm chung nói chuyện một cách sáng suốt rõ ràng, tướng trạng trang nghiêm khác người thường như thế, ai cũng khen ngợi Phật Pháp vô biên, không thể nghĩ bàn! Thế là họ đều không dời nhà nữa. Nhưng cái việc nó nói lúc lâm chung về anh cả của nó ở Nhật Bản, mới đầu chúng tôi không tin, nhưng gần đây quả thực có thư anh nó từ Nhật gửi về nói sắp về Đài Loan thăm chúng tôi, so với lời dự báo trước của Phúc Hưng hoàn toàn phù hợp. Ông nhà tôi rất vui nói: “Nếu không có sư tỷ Khán Trị đến dạy người niệm Phật, thì Phúc Hưng làm sao lúc lâm chung biết được nhân duyên đời trước và cái quả sau này, đồng thời giải hết được oán kết? Từ việc lá thư của anh cả nó từ Nhật Bản gửi về có thể chứng minh những lời của Phúc Hưng có thể tin chắc được”. Ông nhà tôi lại nói ba người chúng tôi về sau có thể sống an nhiên trong tuổi già đây đều là công đức của sư tỷ Khán Trị. Cái ân tình này nhất định cần tôi phải đến Đài Trung tìm sư tỷ Khán Trị, gặp mặt sư tỷ để nói ra việc cảm ứng đặc biệt này cho sư tỷ biết, cũng là để sư tỷ hoan hỷ! Đây chính là chúng tôi muốn báo đáp ân tình của sư tỷ, nên tôi từ sáng sớm đến bây giờ mới tìm ra được sư tỷ đấy!”. Sau khi nói những lời cám ơn liền muốn đi về. Lúc đó tôi liền hỏi bà: “Nhà bà ở đâu? Chồng của bà tên họ là gì?”. Bà ta nói: “Tôi ở số 13 giáp, đường Đại Nhã, chồng tôi tên là Lại Tuấn, con tên là Lại Phúc Hưng”. Lúc đó sư tỷ Huệ Phồn ở kế bên, nghe từ đầu đến đây bỗng nhiên nói với bà ta: “Thì ra cô là em dâu Tuấn, tôi là chị của ông Tuấn, do vì nhiều năm không có qua lại, thật có lỗi! Xin mời đến nhà tôi dùng trà đi”. Bà ta nói cám ơn xong liền bỏ đi. Lúc đó mặt trời đã lặn về phía Tây, hơn 5 giờ rồi. Ba người chúng tôi đứng ngoài tường chùa Linh Sơn, lâu hơn hai tiếng đồng hồ. Hai câu chuyện vãng sanh ghi đúng sự thật ở trên đều có thể chứng minh đích thực có Phật A Di Đà, đích thực có thế giới Cực Lạc ở Tây phương; niệm A Di Đà Phật đích thực có thể giải được oán kết, tiêu diệt được oán thù trong nhiều đời nhiều kiếp. Căn cứ theo Đức Phật Thích Ca trong Kinh A Di Đà có nói: “Chúng sanh trong cõi đó, thường vào lúc sáng sớm đều lấy đãy đựng hoa tốt đem cúng dường mười muôn ức Đức Phật ở phương khác, đến giờ ăn liền trở về bổn quốc…”. Đây là Đức Phật nói về chúng sanh ở Tây phương, sau khi vãng sanh về đó liền có được thần túc thông. Còn căn cứ theo kỳ tích của Lại Phúc Hưng mà suy đoán, Lại Phúc Hưng lúc lâm chung đã phát sanh được tha tâm thông, mặc dù không thể tìm ra chứng cứ trên kinh điển, nhưng sự thật là như thế. Các độc giả thông minh có thể giải thích dùm cho tôi không? 9. BỊ TAI NẠN GIAO THÔNG, NHỜ TIẾNG NIỆM PHẬT ĐƯỢC CẤP CỨU Ở Đài Loan có câu tục ngữ: “Không có quỷ không làm cho chết người” thật là đúng. Mấy năm gần đây, ở các nơi, tai nạn giao thông liên tiếp không ngừng, có lẽ là cô hồn uổng tử các nơi quấy phá, mắt phàm của chúng ta không thể thấy biết được. Tuy không thấy được, nhưng nếu như biết trì một câu Thánh hiệu vạn đức hồng danh A Di Đà Phật thì có thể khiến cho những ma quỷ đó bỏ đi ngay tức thời, lập tức được an nhiên vô sự. Độc giả nếu như không tin thì mấy câu chuyện thật sau đây sẽ chứng minh: Vị liên hữu Khưu Liên Châu hiện ở làng Nội Tân phía ngoài cửa thành Nam Đài Trung, mọi người đều gọi bà là sư tỷ Ngọc. 10 năm trước bà mở một tiệm chụp ảnh ở gần chợ Đệ Tam đường Đài Trung. Một hôm sư tỷ Ngọc ở ngã tư trước bưu điện, bị một chiếc xe hơi không rõ của hãng nào đụng ngã trên đường, chiếc xe gây ra tai nạn bỏ chạy mất! Tội nghiệp sư tỷ máu ra đầy mặt, hơi thở thoi thóp không còn biết gì nữa, những người vây quanh nhìn nhau, không nhận biết người bị thương là ai? Ngay lúc đó có một anh lính trẻ đi đến, bỗng nhiên kêu lên: “Sư tỷ! Đây là sư tỷ ở tiệm chụp hình đây mà!”. Lập tức cõng bà ta đưa về tiệm chụp hình, con cái bà vừa thấy liền hoảng kinh, thất sắc, cả nhà đều lớn tiếng niệm A Di Đà Phật và Quán Thế Âm Bồ Tát, anh lính trẻ kia cũng niệm Phật cùng với mọi người. Không bao lâu sau sư tỷ Ngọc đang hôn mê bỗng lên tiếng, chỉ nghe bà ta nói rằng: “Các người đông như thế muốn ta đi theo các người, ta không đi! Các người lái xe hơi lại, muốn ép ta lên xe hả? Ta cũng không đi. Không đi là không đi! Ta là đệ tử của Tam Bảo, suốt ngày niệm A Di Đà Phật, chỉ muốn đi Tây phương thôi, làm sao có thể tùy tiện đi theo các người được chứ? Nếu như Phật A Di Đà đến tiếp dẫn thì ta mới đi”. Nói đến đây ngừng một hồi, lại tiếp: “Rất đông người như thế, muốn đến kéo ta đi, nghe tiếng niệm Phật của các con ta, đã chạy ra ngoài hết rồi, xe hơi cũng chạy luôn”. Không bao lâu sư tỷ tỉnh táo lại hẳn, lúc tôi đến thăm thì trên đầu bà ta đã được bao lớp vải gạc và may mười mấy mũi, bà kể việc bà thấy rất nhiều tà ma quỷ quái muốn ép bà lên xe. Tôi khen ngợi công sức niệm Phật của bà là rất tốt. Nếu như là người không có tin Phật hoặc không dụng công sức nhiều, thì thần thức không sáng suốt, thấy xe hơi có thể đi được, liền vui mừng đi theo họ ngay, há chẳng đáng sợ ư? Thì ra anh lính trẻ cõng bà về nhà là một liên hữu trong ban thanh niên của Liên Xã, đã nhiều năm nghe kinh với Bính Công ân sư, do đó mọi người đều biết nhau, sư tỷ Ngọc nếu không gặp được anh ta, nhẫn đến tự mình không được chánh niệm rõ ràng, chắc chắn khó hồi phục mạnh khỏe 10. XE HƯ, NIỆM PHẬT ĐƯỢC HIỆU LỰC Sư tỷ Hoàng Khoan Châu là phó ban trưởng của ban Cửu Liên, là người từ bi, cũng là trưởng ban của Ban 48 lời nguyện. Nhà sư tỷ ở đường Nguyên Tử thành phố Đài Trung, là một gia đình theo Phật, rất là phát tâm Bồ Đề, lúc bình thường, thường khuyên mọi người niệm A Di Đà Phật và thiện xảo phương tiện độ người. Hàng xóm có con nít hay bị hoảng sợ, giựt mình không ngủ được, đều bồng lại nhờ sư tỷ gia trì chú Đại Bi, đứa trẻ liền nhẹ nhàng thoải mái dễ ngủ. Vào khoảng 8 năm trước, một hôm tôi đến nhà sư tỷ chơi, thấy một phụ nữ trẻ tay bồng một đứa bé, xin sư tỷ niệm chú Đại Bi cho cô ta, niệm xong, sư tỷ còn khuyên cô ta rằng:“Lúc cô bồng con cho bú, cũng phải thường niệm A Di Đà Phật, con của cô sẽ được dễ nuôi. Thực ra lúc nào ở đâu cũng có thể niệm, lúc quét nhà, lúc giặt đồ cho đến khi đi đường, một bước một tiếng đều có thể niệm A Di Đà Phật, như thế trong nhà của cô sẽ được bình an vô sự”. Sư tỷ hỏi cô ta: “Chồng của cô làm nghề gì?”. Cô ta đáp: “Tài xế xe hàng”. Sư tỷ nghe vậy lại nói rất khẩn thiết nói rằng: “Cô về nhà nhất định phải chỉ cho chồng cô niệm A Di Đà Phật, nếu như lúc gặp tai nạn hay nguy hiểm phải to tiếng niệm “Nam Mô A Di Đà Phật” thì có thể tiêu tai khỏi nạn”. Người phụ nữ kia thế mà có căn lành, lại thông minh, khi về nhà, đúng như lời sư tỷ dạy, nói cho chồng nghe và chỉ cho chồng lúc lái xe phải niệm, lúc nguy cấp càng phải to tiếng niệm hơn, chắc chắn có thể đổi nguy thành an. Trải qua một tháng, tôi đến nhà sư tỷ thông báo về tin tức Ban 48 Nguyện sẽ mở hội, không hẹn mà gặp lại người phụ nữ bồng con lần trước, trong tay bồng đứa con nhỏ và còn dẫn chồng cô cùng đến, sắc mặt vui tươi, cầm hương hoa quả phẩm, nói là đến để lễ Phật A Di Đà, làm cho sư tỷ vô cùng ngạc nhiên! Thì ra chồng của cô do nghe lời khuyến cáo của vợ lúc lái xe niệm Phật được cảm ứng. Anh nói: “Đa tạ lòng từ bi của cư sĩ dạy cho nhà tôi niệm Phật, còn dạy cô ta khuyên tôi cũng niệm Phật. Tôi ngày hôm qua chở một xe lớn cải xanh đi Đài Bắc, lúc về đã hơn 2 giờ khuya, đang lúc đi đến ngã tư khoảng giữa Trung Lịch và Đào Viên, bỗng nhiên xe không thể chạy được nữa, làm thế nào cũng không nhúc nhích, rất kỳ lạ là trong lúc tứ chi mệt mỏi, tinh thần lo lắng không biết làm thế nào, bỗng nhớ lại việc cư sĩ dạy nhà tôi niệm Phật, lúc đó tôi đang ngồi sau tay lái, hai tay ôm chặt tay lái, có hơi buồn ngủ, miệng nói mơ mơ màng màng rằng: “Vợ của tôi đi đến vị cư sĩ tin Phật ở đường Nguyên Tử, vị đó dạy vợ tôi lúc nấu cơm, quét nhà phải niệm A Di Đà Phật, lúc bồng con cho đến lúc giặt đồ cũng phải niệm A Di Đà Phật, và dạy tôi lúc nguy hiểm hay lúc gặp tai nạn càng nên to tiếng niệm: “Nam Mô A Di Đà Phật”. Đang lúc nói đến đó, thật là lạ lùng, trong tích tắc chiếc xe chở hàng tự nhiên bỗng khởi động lại chạy về Đài Trung, tôi lập tức giật mình tỉnh giấc, thấy có một chiếc xe khác cũng đang đậu ngủ, lúc đó cũng mới thức dậy, trời còn chưa sáng, tôi liền lái xe về nhà an nhiên vô sự” Anh tài xế đó lại nói: “Cư sĩ! Nhà của tôi muốn thỉnh an vị một tượng Phật để lễ bái, không biết có được không?”. Sư tỷ rất vui nói: “Rất tốt! Rất tốt!”. Sư tỷ liền tặng cho anh ta một bức Tây phương Tam Thánh của Hồng Kông in, chỉ cho anh ta về để khuôn kiếng và chỉ cho anh ta phương pháp các thời khóa đơn giản sáng tối. Vợ chồng tài xế cảm tạ rồi ra về. Đoạn cảm ứng bất khả tư nghì này là chính tai tôi nghe được. Xin khuyên chư vị: Thân người khó được, ai có miệng đều nên niệm A Di Đà Phật, một câu đại chú vương vạn đức hồng danh, đời này gặp được chớ nên bỏ qua 11. TO TIẾNG NIỆM PHẬT, ĐUỔI ĐƯỢC OAN HỒN Chí tâm niệm được một câu lục tự hồng danh, cũng có thể giải được oán cừu của người khác. Câu chuyện xảy ra vào tháng 4 năm Dân Quốc thứ 46, ở ngay cửa rạp hát Đông Bình ở khu trung tâm, có một chiếc xe tải lớn vì muốn tránh xe đạp mà tông thẳng vào trong rạp hát Đông Bình, ngã hai cây cột lớn ở hành lang gây ra tai họa tử thương sáu người, trong đó có một người bị thương nặng chết liền là một bà cụ hơn sáu mươi tuổi, bà ta mới từ Đài Bắc về đây hôm trước, do vì cãi nhau với đứa con trai mà bỏ nhà ra đi đến nhà con gái ở Đài Trung đây. Con gái bà ta lại rất hiếu thuận với mẹ, khuyên bà không cần phải về, đứa con rể cũng rất vui tiếp bà ở lâu lại Đài Trung. Ngày hôm đó khoảng 5 giờ chiều, bà cụ này tắm, xong lại tắm cho đứa cháu gái nhỏ nhất, sau đó cõng đứa cháu gái nhỏ đi ra ngoài chơi, đến dưới hành lang rạp hát Đông Bình, tội nghiệp cho bà ta bị xe đụng vào đầu chết liền, may mà đứa cháu gái đang cõng trên lưng lại bình an vô sự. Qua ngày sau, sau khi hỏa táng, lấy tro xương làm lễ vĩnh biệt ở nhà con gái, mời được mấy vị đạo sĩ về làm lễ siêu bạt vong linh. Hôm đó đứa con trai của bà cũng từ Đài Bắc vội vã đến, tay trái cầm gậy, tay phải cầm phướng, đi theo đạo sĩ khóc thút tha thút thít làm người con hiếu nam. Đang lúc nghi lễ ồn ào, bỗng người con hiếu nam, gậy và phướng đang cầm trong tay, một chân còn bên trong cửa, một chân ngoài cửa đứng nghệch ra đó, không nhúc nhích gì, tròng mắt ngây ra hơi nhướng cao, trong miệng thở khò khè, gương mặt xám đen. Lúc đó ở nhà kế bên là vị liên hữu cư sĩ Hà Tùng Vinh, vợ là sư tỷ Hà Trần Nguyệt Nga. Tối đó sư tỷ Nguyệt Nga đang ngồi trên ghế ngay cửa tay cầm xâu chuỗi niệm Phật, bỗng nhiên nghe ở cửa nhà kế bên có tiếng la lớn, không biết xảy ra chuyện gì, vừa rồi tiếng chiêng trống hãy còn vang, tại sao lập tức biến thành âm thanh hỗn loạn như thế. Sư tỷ Nguyệt Nga vì lòng hiếu kỳ xui khiến, trong tay cầm xâu chuỗi, trong miệng vẫn niệm danh hiệu Phật, đi đến gần xem thử. Vừa nhìn thấy hình dáng của người con hiếu nam như thế, sư tỷ Nguyệt Nga giựt mình hoảng sợ không tự chủ được, lớn tiếng la lên “Nam mô A Di Đà Phật”, niệm Phật to tiếng như thế liên tục được hai phút, sau đó sư tỷ Nguyệt Nga nói: “Nói thật tình nghe, lúc đó tôi to tiếng niệm Phật hết sức như thế thật tình là do sợ, không nén được mà niệm ra, hoàn toàn không phải do vì cứu người mà niệm. Nhưng thật không thể nghĩ bàn, người con hiếu nam đang đứng ngây ra đó, nghe được tiếng niệm Phật, sắc đen trên mặt dần dần tan đi, tay chân cũng hoạt động trở lại, tròng mắt hết ngây dại, không bao lâu lại hồi phục như cũ, cây gậy trong tay trái, lá phướng bên tay phải lại tiếp tục phất phơ đi theo đạo sĩ bình an vô sự” Qua ngày kế, người con hiếu nam đó muốn đem bài vị và tro xương của mẹ thỉnh về Đài Bắc an táng, liền đến cảm tạ sư tỷ, anh ta nói: “Ngày hôm qua may mắn được sư tỷ niệm A Di Đà Phật, nếu không thật không thể tưởng tượng được, tôi không biết niệm Phật có lợi ích như thế”. Sư tỷ Nguyệt Nga nhân cơ hội khuyên anh ta: “Sau khi anh về nhà cần phải niệm hàng ngày, thì có thể giải oan kết với mẹ anh, anh cũng có thể tiêu tai giải nạn, tiền đồ rạng rỡ không lường”. Người con hiếu nam đó vừa nhận lời vừa cảm tạ mà về. Qua ngày hôm sau nữa, sư tỷ Nguyệt Nga đem cái việc ghê sợ của ngày hôm kia kể cho tôi nghe từ đầu đến cuối. Sư tỷ nói: “Tối hôm kia việc xong rồi, tôi vẫn còn sợ đến nỗi không dám vào nhà, ngồi một mình trên ghế ngoài cửa niệm Phật, niệm đến 11 giờ càng nghĩ càng thấy kỳ lạ, cho dù bị cảm dịch (lúc bấy giờ đang có dịch cảm) cũng không thể có cái lý chỉ hai phút mà khỏi được, không tránh khỏi phải mời bác sĩ chích thuốc, uống thuốc mới có thể bình an”. Sư tỷ Nguyệt Nga là một người thông minh, sư tỷ suy đoán có lẽ là mẹ của người con hiếu nam kia, do vì cái chết thê thảm bất ngờ, oan hồn không tan, ôm lòng hận con trai của bà đã gây gổ với bà, mới khiến bà đến Đài Trung gặp tai họa thảm khốc này. Thế là lúc dẫn vong, liền đi đến con trai của bà tính nợ, oan hồn nẹp cứng đầu cổ của con trai bà, làm cho anh ta gần như chết. Làm xong bà ta đi lại (hướng của sư tỷ) sư tỷ vừa thấy liền niệm to “ Nam mô A Di Đà Phật”. Ai ngờ sức đại từ bi, sức đại thần thông của sáu chữ hồng danh này lại công hiệu lớn như thế, nhất là lúc đó sư tỷ sợ đến niệm Phật hết sức, cũng có thể nói là nhất tâm bất loạn, cho nên mới có được hiệu quả lớn như thế, đồng thời hồn quỷ nghe được Thánh hiệu, tâm oán hận đều được tiêu trừ, cho nên mới thả tay ra. Các vị! Chúng ta thử nghĩ xem, nếu như khuyên người học Phật, niệm Phật, mọi người đều nói: “Không có tiền bố thí không dám tin Phật”. Những hạng người này sao mà phước mỏng như thế? Bạn hãy xem sư tỷ Nguyệt Nga chỉ là niệm có mấy câu Phật hiệu, không có hóa ra được đồng xu nào mà làm ra được công đức bố thí lớn, cứu được mạng người còn hơn xây tháp bảy tầng. Sư tỷ Nguyệt Nga tánh tình hiền hậu, phẩm hạnh đoan chánh, đã từng được bầu là người mẹ mẫu mực của thành phố Đài Trung, là một người vợ hiền mẹ tốt, con cháu đầy nhà, gia đình rất là tốt đẹp. 12. NIỆM PHẬT CÓ THỂ ĐỘ ĐƯỢC HUNG THẦN ÁC SÁT Vào thời đại khoa học hưng thịnh của thế kỷ 20 này, nếu nói với người nào đó rằng: “Sức khỏe bình thường nếu như xung khắc với hung thần ác sát, các loài linh quỷ v.v... thì sẽ chết”, những người tự cho mình là nhân vật tân tiến kia chẳng những không tin mà còn nói là mê tín, không phù hợp với trào lưu thời đại! Thế thì giới Phật giáo có nên, hay không tin những việc “tương xung tương sát” này? Theo cách nhìn của tôi thì: Thà là tin nó có, nhưng không a dua theo lễ bái, hoặc cầu họ che chở. Nếu như chí thành khẩn thiết niệm câu Thánh hiệu A Di Đà Phật, liền có thể gặp dữ hóa lành, gặp quỷ mà được bình an vô sự. Đầy đủ được diệu pháp cứu cánh này, hung thần ác sát bị câu chú vương trong các chú chánh đại quang minh này, sợ đến nỗi chạy ra khỏi chín tầng mây luôn! Có lẽ một câu Thánh hiệu vạn đức hồng danh này hàng phục được cả tâm ý của loài ác quỷ sát thần si mê không biết quay đầu hàng phục này, hàng phục một cách tâm phục khẩu phục, được chuyển sanh về đường lành cũng không chừng, sau đây xin dẫn ra ba câu chuyện thật để chứng minh: Liên hữu Lý Chuẩn là phó trưởng ban Phương Quảng, ngụ ở đường Kiến Trung khu Đông, thành phố Đài Trung, nhà của bà có phòng ốc dư cho tài xế chở hàng loại trung mướn. Vợ anh tài xế đó tên A Châu, năm đó 31 tuổi. Vào buổi sáng ngày 20 tháng 12 âm lịch năm rồi, đến một cửa hàng đồ ngoại đường Nam Kinh, muốn lấy y phục mới đặt đem về. Lúc đó bỗng nghe tiếng trống nhạc ầm ĩ trên đường, có người lớn tiếng rằng: “Ngài Tam Tạng Nghệ Các thỉnh kinh về rồi!”. Có người lại nói: “Vòng hoa, xe hoa nhiều quá!”. A Châu ở trong tiệm nghe như thế, khởi tâm hiếu kỳ ra xem thử, không ngờ chỉ thấy tám người khiêng một cỗ quan tài to, A Châu liền rùng mình một cái, miệng cứ nói suốt là đau đầu, ở ngực như có khối đá đè, liền bị hôn mê ngã xuống. Lúc đó người trong tiệm đồ ngoại hết hồn, vội vàng kêu một chiếc xe ba bánh và phái một người hộ tống đưa đi, ngang qua cửa bệnh viện Ngụy Bảo Thuận đường Phục Hưng thì xuống xe, đỡ bà ta xuống, trước mời bác sĩ chích thuốc cho bà ta, sau đó đưa bà ta về nhà. Vị liên hữu Lý Chuẩn nhìn thấy A Châu hôn mê bất tỉnh nhân sự, ngũ quan và móng tay đều đen thâm, kinh sợ đến mức la to lên:“A Di Đà Phật đến cứu mạng!”. Lúc đó các công nhân nhà kế bên của anh tài xế đó nghe tiếng người kêu la đều chạy lại, chỉ thấy hai mắt của A Châu trắng dờ, toàn thân đều đen, hôn mê bất tỉnh, mọi người đều nói không có hy vọng sống lại, có người gọi điện thoại đến miền Nam kêu chồng cô ta về; có người gọi điện thoại kêu má chồng của cô ta lại; chỉ có vị liên hữu Lý Chuẩn là trấn tĩnh, cầm xâu chuỗi trên tay đặt lên ngực A Châu, miệng niệm “A Di Đà Phật”, “Quán Thế Âm Bồ Tát ” không dứt, khẩn cầu Phật, Bồ Tát từ bi cứu giúp A Châu. Niệm được 20 phút, hai mắt và da thịt của A Châu dần hồi phục như cũ, miệng nói: “Sư cô! Bà thật là đại ân nhân cứu mạng tôi, tôi gần như bị đè đến muốn đứt hơi, đang lúc muôn phần đau khổ, xâu chuỗi của bà để trên ngực của tôi, lại nghe được tiếng niệm A Di Đà Phật, sức khỏe dần dần cảm thấy nhẹ nhàng trở lại. Cám ơn sư cô đã thi ân cứu giúp”. Những người hàng xóm lăng xăng chúc mừng cho A Châu: “Chúc cô may được người niệm Phật cứu thoát mạng, nếu không thì ba đứa con gái của cô trở thành mồ côi rồi!”. Nghe nói hồi tháng 7 năm ngoái trong hẻm đối diện có một cô gái mới 17 tuổi đi chợ, cũng xem người ta đưa đám tang, về nhà liền la lớn đầu đau tim lạnh, thuốc men gì cũng không hiệu quả, rồi qua đời. Càng bất hạnh hơn là hôm đưa đám tang cô gái này, thì vị nữ chủ nhân của một ngôi nhà ở đầu hẻm là người tin theo ngoại giáo, lúc đó đang đứng ở bên cửa xem cũng bỗng bị đau đầu, cũng đồng chứng bệnh với cô kia, thuốc men gì cũng không hiệu quả, rốt cuộc cũng qua đời. Nghe chuyện của người hàng xóm, mọi người đều chúc mừng cho A Châu. Đây là chuyện trong tháng 2 năm nay, vị liên hữu Lý Chuẩn đến Liên Xã, chính miệng nói với tôi.1 like
-
Bà Lan, 90 tuổi, đãng trí và lãng tai nhưng rất thích kể chuyện. Hễ có người đến thăm là bà lão kéo lại bằng được, để nghe bà kể về một thời chiến tranh oanh liệt đã qua với trí nhớ không còn nguyên vẹn của tuổi già. "Hồi đó nhiều máy bay lắm, bà cũng cầm súng bắn đùng đùng. Cả làng xuống hầm trú đạn", bà Lan cười móm mém kể. Nhưng một hồi sau, bà lại khóc sụt sùi: "Ba mẹ bà chết hết rồi, nhiều người chết lắm...", rồi run run kéo tà áo bà ba nâu cũ lên lau nước mắt. Bà Lan là một trong số hơn 100 cụ già vô gia cư đang sống ở chùa Lâm Quang, một ngôi chùa nhỏ của các ni sư ở quận 8, TP HCM. Vốn sống bằng nghề bán vé số, hành khất, hoặc đi lang thang, nay ốm yếu bệnh tật, không còn sức mưu sinh lại bước vào tuổi xế chiều, các cụ chọn chùa Lâm Quang làm nơi nương náu. Chăm sóc các bà cụ neo đơn Mỗi người một cảnh ngộ, các cụ bà không có gia đình tìm đến nương thân chốn cửa Phật để sống quãng đời ngắn ngủi còn lại. Ảnh: Ngoan Ngoan Đến sống ở chùa Lâm Quang từ 4 năm về trước, bà Nguyễn Thị Hà, 67 tuổi, quê ở Sóc Trăng cho biết, cha mẹ li dị từ khi bà là cô bé 10 tuổi. Mẹ đi bước nữa nên bà được giao cho cha nuôi dưỡng. Nhưng rồi cha cũng lấy vợ mới, không chịu nổi cảnh dì ghẻ con chồng, bà bỏ nhà đi bụi. Lên thành phố, cô bé Hà ngày ấy gia nhập một nhóm bạn bụi đời, ngày đi bán vé số, ban đêm về ngủ dưới gầm cầu. Cuộc sống tha phương cầu thực rày đây mai đó không được học hành và không lấy chồng nên về già bà cụ vẫn cô đơn một mình. "Hồi đó sống một mình riết cũng quen, nhưng giờ về già, nhất là lúc bệnh tật không có ai chăm sóc mới thấy tủi thân. Hai năm trước tôi bán vé số ngang qua ngôi chùa này, mấy cụ ở đây thấy thương nên rủ vào sống chung, thế là tôi ở luôn cho đến bây giờ. Trước đây tôi gầy lắm nhưng được các sư cô tận tình chăm sóc, cho ăn uống ngày 3 bữa nên giờ tôi mập hẳn ra", bà Hà kể. Sư cô Thích Nữ Huệ Tuyến, trụ trì chùa Lâm Quang cho biết, từ trước khi ni sư về tiếp quản ngôi chùa này đã thấy nhiều cụ già hành khất, bán vé số đến tá túc sống, ban ngày đi mưu sinh, ban đêm về ngủ. Thấy hoàn cảnh các cụ đáng thương, sư cô ngỏ ý mời các cụ ở lại đây để tiếp tục chăm sóc. Từ đó đến nay đã 15 năm và ngày càng có nhiều cụ già neo đơn, bệnh tật tìm đến nơi này nương nhờ cửa từ bi. Huỳnh Thị Kiều Thanh cười thật tươi. Ảnh: Ngoan Ngoan Một trường hợp ngoại lệ ở ngôi chùa này là em Huỳnh Thị Kiều Thanh, 19 tuổi, bị bại não từ hồi 8 tháng tuổi. Mặc dù còn trẻ nhưng do hoàn cảnh mất cha mẹ từ nhỏ nên Thanh được sư trụ trì nhận về nuôi. Căn bệnh bại liệt khiến cô bé suốt ngày phải nằm bất động trên giường, nhưng vừa nghe nói có ai đến thăm, Thanh nằng nặc đòi mọi người đỡ lưng ngồi dậy để được trò chuyện. Thanh tâm sự: "Nghĩ lại em thấy có nhiều người khác còn đáng thương hơn mình nên em tự hứa với lòng sẽ cố gắng sống và học hành thật tốt để cuộc đời có ý nghĩa. Như thế cha em ở suối vàng mới yên lòng được". Nhờ bàn tay chăm sóc, vỗ về của các ni cô, Phật tử cũng như các tổ chức từ thiện, nhà hảo tâm, bạn trẻ tình nguyện, cuộc sống của những con người kém may mắn ở chùa Lâm Quang hiện nay đã đỡ vất vả mà vui vẻ, lạc quan hẳn lên. Sư cô Huệ Tuyến cho biết thêm, cô vừa xây xong một ngôi nhà mới hơn cho các cụ. Hiện nay nhà chùa vẫn hàng ngày mở rộng cửa đón những người có hoàn cảnh kém may mắn đến nương nhờ. "Tất cả các cụ khi có giấy của chính quyền địa phương chứng nhận không có người thân chăm sóc hoặc mất sức lao động thì sẽ được nhà chùa nhận nuôi mà không phải đóng thêm bất kỳ khoản phí nào", vị ni sư nói. Có nhiều cụ bị bại liệt phải đút từng muỗng cơm. Ảnh: Ngoan Ngoan. Trò chuyện với VnExpress.net, Lê Huy, sinh viên năm cuối trường Đại học Kinh tế TP HCM cho biết, tuần trước đến đây, nhìn thấy cảnh các cụ phải vất vả nhóm củi nấu ăn mà thức ăn vẫn dai khó nuốt, nên Huy cùng với bạn quyên góp mua tặng 2 chiếc nồi áp suất lớn giúp các cụ nấu ăn thuận tiện hơn. "Các cụ ở đây cũng bằng tuổi ông bà em ở quê nhưng vất vả hơn nhiều, vì dù sao ở quê ông bà cũng có cha mẹ em chăm sóc. Vì thế tụi em bảo nhau tranh thủ những ngày được nghỉ học để đến đây phụ nấu ăn, rửa chén giúp các cụ vơi đi khó khăn", Huy nói. Đôi tay thoăn thoắt nhặt rau, vo gạo, rửa chén, lau dọn nơi nghỉ ngơi cho các cụ, nhóm nam nữ sinh viên thế hệ 8X trường Đại học Kinh tế cho biết, hàng tháng các bạn đều tổ chức đi đến những trung tâm, mái ấm có người già neo đơn, trẻ mồ côi, cơ nhỡ trong và ngoài thành phố để thăm hỏi, động viên giúp đỡ. "Thay vì rủ nhau đi chơi xả tress sau những ngày học hành căng thẳng, tụi em bảo nhau làm một việc gì đó giúp những người kém may mắn để cuộc đời sinh viên nhiều ý nghĩa hơn. Em chỉ mong ngày càng có thêm nhiều bạn trẻ chung tay thì sẽ giúp được nhiều người bớt khổ hơn", nữ sinh Nguyễn Trần Lan Thảo, khóa QT 789, Đại học Kinh tế TP HCM vui vẻ nói.1 like
-
Chú Đại Bi.
ngoctho liked a post in a topic by Thiên Sứ
THẦN DƯỢC CỦA PHẬT PHÁP Các bạn có thể quán tưởng về sự vô thường....1 like -
Năm tới chắc chắn sẽ thay đổi được việc làm ,có công việc tốt ,nhưng đề phòng kẻ tiểu nhân hay đồng nghiệp lừa lọc .1 like
-
Chít! Hôm nay we6n rùi. Thiên Luân nó nghỉ đi chơi. Đợi nó về mới làm chủ đề riêng được.1 like
-
Theo mình thì một trong những tội ác ghê tởm nhất của con người, đó là cưỡng ép hoặc dùng quyền lực tôn giáo (hoặc khác) "khuyến khích" người ta không tin vào tâm linh. Sự ích kỷ của họ dẫn đến hệ lụy làm vô số người không có niềm tin vào sự thánh thiện, vào nghiệp quả; nên khi bước sang thế giới bên kia, những người này tự xây cho mình cái ngã mới ở thế giới đó và tìm cách trở lại cõi trần để thỏa mãn dục vọng. Ghê tởm nhất là những vong bị ám ảnh bởi dục tình mà không siêu thoát được, họ tìm mọi cách trở lại cõi trần để hưởng thụ rung động dục lạc. Đầu tiên, họ tìm trai xinh gái đẹp - những người có tin thần yếu - để ảnh hưởng. Nhưng không phải loại vong nào cũng biết cách ám người khác, họ phải tìm thầy để học cách ám đối tượng, và còn phải biết kiên nhẫn đợi thời cơ nữa. Những kẻ không biết ám thì tìm cách làm tình với Thể Phách của nạn nhân. Thời điểm thuận lợi nhất cho chúng là từ 12 giờ khuya trở di, vì thời điểm đó âm khí nhiều. Khi nạn nhân ngủ, con ma sẽ phủ lên trên người nạn nhân một lớp tà khí; vì nó không có thể xác nên nó tưởng tượng đang làm tình với nạn nhân - nhưng thực chất thân thể nó là một lớp khí. Nạn nhân ngủ say, hồn xuất ra; lúc này nó sẽ phóng ảo ảnh cho nạn nhân thấy, nạn nhân gặp gỡ người nạn nhân thầm thương trộm nhớ và làm tình. Quá trình tưởng tượng của vong linh sẽ tạo ra một loại KHÍ DỤC, loại khí dục này từ Lỗ Mũi của nạn nhân chạy xuống bộ phận sinh dục và gây kích thích ở đó. Khi KHÍ DỤC này tích đầy vào bộ phận sinh dục, nó gây hiện tượng xuất tinh trong giấc ngủ của nam, và rung động tình dục ở nữ. Quá trình này nạn nhân sẽ tạo ra cái rung động KHOÁI LẠC tình dục, mà chỉ có những người có thể xác vật lý mới có được. Có nhiều con ma "chung thủy" lại chỉ thích chăm sóc một trai xinh gái đẹp duy nhất, loại này đáng tởm nhất vì nó không từ thủ đoạn nào để bám riết nạn nhân, mặc dù chính bản thân nó cũng hiểu chuyện đó gây hại cho người khác, nhưng nó không ngần ngại gì. Để ám được đối tượng, nó cũng đợi lúc nạn nhân ngủ và cho nạn nhân hít KHÍ TRẦM UẤT. Loại khí này tạo cho nạn nhân một tâm trạng cô đơn trầm uất, khiến nạn nhân vui buồn thất thường, trong người man mát nỗi buồn kiểu "tôi buồn không hiểu vì sao tôi buồn"; và từ từ nạn nhân xa lánh cuộc đời với thế giới bên ngoài, cô đơn lùi lũi.. Và công việc tiếp theo của con ma là xé bức màng bảo vệ trên cơ thể nạn nhân để có thể dễ dàng đi ra đi vào thể xác, mà nạn nhân không hay biết. Tình trạng này diễn ra lâu ngày, sẽ làm trong người nạn nhân tồn tại nhiều loại khí khác nhau, gây ra hiện tượng xung đột cá tính, hay hiện tượng đa tính cách. Từ trước đến nay, chữa ma nhập người ta hay dùng đòn roi, hoặc cúng vái... nhưng đối với loại vong linh này những cách đó không làm nó từ bỏ quyết tâm. Nạn nhân cần được truyền KHÍ HỈ LẠC, hành giả quán tưởng truyền cho nạn nhân niềm hỷ lạc để đẩy làm loãng KHÍ TRẦM UẤT đi; sau đó thì quán tưởng tạo ra trên thân thể nạn nhân một lớp màn bảo vệ chống lại tà khí. Sau cùng thì nạn nhân này trên giường ngũ nên treo bùa để tránh tiếp tục bị quấy rối.1 like
-
Không cần gieo quẻ cho mã cp MTG, theo TA thì MTG đang hình thành đáy. Đã 3 ngày tạo nến Doji cho chart Daily, chart weekly cũng đang cho tín hiệu xoay chiều.Việc MTG bị giảm mạnh sau ngày 14/12 có nguyên do 4tr cp mới về (Chưa kể VNI cũng giảm), sau 1/2 tháng tình hình GD đã ổn định hơn. All phụ thuộc vào VNI có đi lên hay không. (VNI hôm nay cho nhiều tín hiệu khả quan) Rút kinh nghiệm vụ MHC, nếu MTG mà vượt đỉnh cũ 10,9 và closse 11 thì giữ lại đợi lên 13-14 thoát hàng. Chúc may mắn nhé MJ. http://www.lyhocdongphuong.org.vn/forum/public/style_emoticons/default/grin.gif :D :D1 like
-
Đội lái khó chết Vụ việc làm giá DVT, DHT bị xử lý hành chính đã khiến các đội lái chùn tay. Nhưng đã xuất hiện những hình thái mới, tinh vi hơn để thích nghi với thực tế khắc nghiệt hơn. Nâng cấp độ lái Hai phương thức quan trọng các đội lái sử dung từ trước đến nay là kiểm soát nguồn cung và thông tin nội gián được nâng cấp liên tục qua từng năm để dụ NĐT. Một điều có thể nhìn ra là những CP tăng hỗn, bất chấp thị trường thế nào, thông tin ra sao sẽ ngày càng hiếm hoi, vì NĐT ngày càng tinh ý và các đội lái cũng không thể tự tung tự tác như trước. Theo các NĐT dày dạn kinh nghiệm, đội lái sẽ vẫn “sống” vì yếu tố đầu cơ luôn hiện diện trên TTCK; bên cạnh đó NĐT cá nhân vẫn thích CP có sóng, chỉ làm sao cho an toàn hơn chút đỉnh. Đội lái tạo được sự an toàn cho CP, rồi đánh lên, lo gì NĐT không “vào”. Nói cách khác, các đội lái sau này sẽ phải tạo ra bánh vẽ rằng CP này vừa lợi nhuận cao nhưng rủi ro lại thấp, điều này đòi hỏi công sức, chất xám nhiều hơn. Năm vừa qua ghi nhận phong trào nhà nhà làm đội lái, NĐT bình thường có trong tay 4-5 tỷ đồng cũng có thể xưng là đội lái nhờ đòn bẩy hỗ trợ nên có thể “đôn” giá trị mua của mình lên 40-50 tỷ đồng. Nhưng xu hướng đánh CP mới sẽ đề cao sự cẩn trọng dài hơi và tinh tế, nên những đội lái kiểu “đường phố” như vậy sẽ khó có đất sống. Thay vào đó, những đội lái này sẽ phải liên kết lại để tăng quy mô. Tuy nhiên, khi các CTCK đã thỏa thuận không bán, nhưng rồi từng công ty lại len lén bán ra, do vậy xem chừng việc các đội lái quy về một mối là điều rất khó. Giải pháp bây giờ là giảm các đội lái hoặc tự tan rã, hoặc phải đầu quân cho một đầu lĩnh, hay một “ông trùm” cỡ bự trên thị trường. Cũ mà mới CP V mới chào sàn hồi đầu tháng 12 với giá gần 3.0 nhưng đã có hàng loạt phiên tăng để lên 4.5, sau đó lại có một số phiên điều chỉnh giảm. Theo nhận định từ một số chuyên gia, V. có thể là một hình mẫu tiêu biểu cho cách đánh CP trong năm 2011. Nếu NĐT không chú tâm theo dõi sẽ không biết đến V. , thậm chí trên các diễn đàn cũng có rất ít thông tin nói về CP này. Nhưng không như BMC ngày xưa, V. tăng khá chừng mực. Hoạt động kinh doanh bình thường, CP tăng giá cũng bình bình chứ không nổi bật, vô hình trung tạo ra một vẻ an toàn. Cách đánh này cũng kích thích sự “tìm tòi” của NĐT nhiều hơn và những ai may mắn tìm được CP như V. lại có thể tự hào mình đầu tư không theo số đông. Một trường hợp khác cũng cần xem xét là CP C., lên sàn từ đầu năm 2010 nhưng lại nổi sóng rất đúng lúc, tức là chỉ tăng khi thị trường chung tăng. Thoạt nghe, điều này rất bình thường, vì thị trường tăng đương nhiên CP được hưởng lợi. Theo lý giải từ người trong cuộc, cách C. tăng giá là rất an toàn thay vì chỉ có thể tăng thêm 20% trong hoàn cảnh thị trường chung tốt, có thể lên 50% cũng chẳng ai soi mói kỹ, vì có cái cớ “hưng phấn” quá để đổ thừa. Vừa đánh, vừa thâu tóm cũng có thể là một chiến thuật mới của các đội lái, nhưng sẽ khó diễn ra trên diện rộng, vì thâu tóm là chuyện không hề đơn giản và chứa đựng quá nhiều rủi ro. Mua một doanh nghiệp có vốn hóa 200-300 tỷ đồng là điều không khó đối với rất nhiều NĐT, nhưng mua rồi để làm gì, liệu có biết điều hành hay không lại là chuyện hoàn toàn khác. Chính vì vậy, cách thức này nếu có diễn ra chỉ là cuộc chơi của những doanh nghiệp lớn nuốt doanh nghiệp bé cùng ngành, hoặc những “ông trùm” thực sự với 3 cái lợi lớn: đạt được mục đích thâu tóm; nhân chuyện thâu tóm có thể đánh và dìm CP mình đang thâu tóm; doanh nghiệp bị thâu tóm cũng có thể tranh thủ những đợt sóng để hưởng lợi. Một xu hướng nữa cần được quan tâm là việc đánh CP liên quan đến yếu tố “ngoại”. Cách thức kinh điển nhất là mượn tài khoản của NĐTNN để bán ra, mua vào, ai cũng biết các giao dịch của khối ngoại luôn có tầm ảnh hưởng lớn trên TTCK Việt Nam. Từ đầu năm 2008 cho đến giữa nảm 2010, giao dịch của khối này vẫn khá mờ nhạt, nhưng từ khi các blue chíp được “đỡ” để giữ thì trường, vai vế của NĐTNN “bao trùm thiên hạ” trở lại. Và đêm cuối cùng có thể chưa xuất hiện trong nay mai nhưng tương lai sẽ khó tránh được chính là việc những “tay to” có thể lập một công ty “ma” tại các thiên đường về thuế như Bristish Virgin Island hay Cayman Island, sau đó đầu tư ngược vào Việt Nam. Theo Quốc Hải - Minh Hà Sài gòn Giải phóng – Đầu tư tài chính1 like
-
Những câu chuyện Đại Hồng Thủy của người tiền sử ( 10:35 AM | 30/12/2010 ) Hiếm có câu chuyện nào nổi tiếng như chuyện Đại Hồng Thủy và con tàu Noah trong quyển sách Bible. Suốt nhiều thời kỳ lâu dài nó đã từng được xem là một phần của lịch sử. Điều đáng quan tâm hơn nữa, là sự kiện Đại Hồng Thủy hiện diện trong rất nhiều sách cổ của vô số dân tộc và các nền văn minh tiên tiến cổ đại, như Olmecs tiền châu Mỹ, Sumer Lưỡng Hà, cổ Ai Cập, cổ Hy Lạp, thung lũng Indus-Sarawati Ấn Độ, vv… Tất cả các “huyền thoại” ấy đều giống nhau một cách đáng kinh ngạc ở nhiều chi tiết, cho thấy chúng phải có nguồn gốc chung dựa trên một sự kiện thực tế ở quy mô toàn cầu. >> http://tin180.com/khoahoc/bi-an-the-gioi/2...g-long-dat.html >> http://tin180.com/khoahoc/bi-an-the-gioi/2...oi-tien-su.html >> http://tin180.com/khoahoc/bi-an-the-gioi/2...i-cap-ky-6.html >> http://tin180.com/khoahoc/bi-an-the-gioi/2...nguoi-maya.html Câu chuyện trong sách Bible đại ý kể rằng: Có một thời loài người đã từng phát triển văn minh rực rỡ, nhưng đạo đức của họ suy đồi, trái tim họ trở nên ích kỷ và độc ác. Họ thường xuyên có những ý nghĩ gian ác và mưu tính xấu xa. Thần đã kiên nhẫn chờ đợi loài người thay đổi tốt hơn lên, nhưng vô vọng, vì vậy Thần quyết định hủy diệt loài người đã tha hóa biến chất bằng cơn Hồng Thủy, đồng thời tẩy sạch địa cầu. Thần lựa chọn Noah vì ông còn đạo đức tốt đẹp và cho ông biết trước Đại thảm họa sắp xảy ra. Thần dạy ông đóng một con tàu để cứu bản thân, gia đình, những người khác và các cặp đôi động vật, đồng thời tích trữ nhiều thức ăn trên tàu. Rồi cơn Hồng Thủy thình lình xuất hiện, mưa liên tục suốt 40 ngày đêm, nước ngập tràn trái đất ngập cả những đỉnh núi cao. Tất cả mọi sinh vật trên trái đất đều bị hủy diệt. Rồi Noah thả chim bồ câu ra để thử xem nước rút chưa, lần đầu tiên chim quay về vì không có gì ngoài mặt nước mênh mông. Lần thứ 2 chim ngậm cành ôliu bay về nghĩa là nước đang rút dần. Lần thứ 3 bồ câu không bay về nữa vì nước đã rút và nó đã tìm thấy đất liền. Sau cơn Hồng Thủy, Noah và những người sống sót khác đã sinh sôi lại loài người. Những câu chuyện Đại Hồng Thủy của các dân tộc và các nền văn minh thượng cổ đều rất tương đồng với “huyền thoại” trên. Ví dụ: Sự cảnh báo về Trận Lụt sắp tới, một số người được mách bảo đóng một con tàu trước khi sự việc xảy ra, tồn trữ chuẩn bị trước nhiều cặp đôi các loài động vật, và đặc biệt là Dùng cách thả chim để xác định xem liệu mực nước đã rút xuống hay chưa. Trong một sự kiện kiểu như Đại Hồng Thủy khi tất cả các thiết bị phương tiện cao cấp đều đã bị hủy, thả chim có lẽ là cách đặc thù duy nhất để xác định xem đất liền đã xuất hiện hay chưa. Nếu không trải qua thực tế, người ta không thể tưởng tượng ra được phương pháp này. Bản phân tích sơ bộ 35/~600 câu chuyện Đại Hồng Thủy khắp thế giới Một vài câu chuyện trong kho tư liệu Đại Hồng Thủy toàn cầu Châu Phi Tây nam Tanzania Xưa kia các con sông bắt đầu trận lụt. Thần bảo 2 con người hãy lên một con tàu. Ông bảo họ hãy mang theo nhiều hạt giống và nhiều loài động vật. Nước lụt thậm chí bao phủ cả những ngọn núi. Cuối cùng nước đã ngừng. Sau đó, một trong 2 người ấy, muốn biết xem liệu nước đã rút khô chưa, bèn thả 1 con chim bồ câu ra. Chim bồ câu bay trở lại. Rồi, ông ta thả 1 con quạ ra, nhưng nó đã không trở về. Sau đó 2 người ấy rời tàu, mang theo các loài động vật và hạt giống. Châu Á Babylon Gilgamesh đã gặp một ông già tên là Utnapishtim. Ông già kể Gilgamesh nghe câu chuyện sau đây: Các vị Thần đã cảnh báo Utnapishtim về một trận lụt khủng khiếp sắp sửa xảy ra để hủy diệt toàn nhân loại, bởi loài người đã vô cùng thối nát và vô đạo. Họ hướng dẫn Utnapishtim tháo dỡ căn nhà của mình để đóng một con tàu lớn. Con tàu 8 tầng hình lập phương, mỗi cạnh khoảng 60m. Utnapishtim phủ con tàu bằng hắc ín. Nghe theo lời các Thần, ông đã đưa vợ và gia đình, các đôi động vật thuộc nhiều loài, thực phẩm dự trữ, vv… lên tàu. Khi con tàu đã chuẩn bị xong xuôi, mưa bắt đầu tuôn xối xả xuống. Mưa suốt trong sáu ngày đêm liền.Cuối cùng mọi thứ đã yên ắng, và con tàu neo đậu trên đỉnh núi Nisir. Sau khi con tàu nghỉ lại đó được bảy ngày, Utnapishtim đã thả một chú chim bồ câu ra. Bởi vì mặt đất còn chưa khô ráo, chim bồ câu quay trở về. Tiếp theo, ông thả một con chim nhạn, và nó cũng bay trở lại. Sau đó, ông lại thả một con quạ, và con quạ không bao giờ trở về bởi vì mặt đất đã khô ráo. Thế là Utnapishtim rời tàu. Người Chaldea Có một người đàn ông tên là Xisuthrus. Thần Chronos cảnh báo Xisuthrus về một trận Hồng Thủy sắp xảy đến và bảo ông đóng một con tàu. Con tàu dài 5 stadium rộng 2 stadium (1 stadium = 185m). Trong con tàu, Xisuthrus mang theo cả gia đình, bạn bè và các cặp đôi của nhiều loài động vật. Lũ đến. Khi nước bắt đầu rút, ông thả vài chú chim ra. Chúng đã trở lại và ông nhìn thấy bùn trên đôi chân của chúng. Ông lại thả chim một lần nữa, và kết quả vẫn như vậy.Khi ông cố gắng thả chim lần thứ ba, chúng không trở về nữa. Biết rằng nước đã rút khô, mọi người ra khỏi tàu. Người Chaldea là dân tộc thời thượng cổ, ở Lưỡng Hà, nay thuộc miền Nam Iraq. Ấn Độ Từ thuở xa xưa có một người tên là Manu. Manu, trong khi đang tắm sông, đã cứu được một con cá nhỏ thoát khỏi hàm răng của một con cá lớn. Cá nói với Manu, “Nếu anh chăm sóc cho tôi cho đến khi tôi đủ lớn, tôi sẽ cứu anh thoát khỏi những điều khủng khiếp sắp xảy ra”. Manu hỏi điều khủng khiếp ấy là gì. Cá nói với Manu rằng một trận lũ lớn sẽ sớm đến và hủy diệt mọi thứ trên Trái đất. Cá bảo Manu hãy bỏ nó vào trong một cái bình bằng đất nung. Cá lớn dần lên và mỗi khi nó lớn quá, Manu lại dành cho nó một cái bình mới lớn hơn. Cuối cùng con cá đã trở thành một ghasha, một trong những loài cá lớn nhất thế giới. Con cá hướng dẫn Manu đóng một con tàu lớn bởi vì trận lụt sẽ xảy ra rất sớm. Khi những cơn mưa bắt đầu, Manu dùng dây thừng buộc tàu với con cá ghasha. Con cá đã hướng dẫn con tàu đi khi nước biển dâng tràn. Toàn bộ trái đất ngập tràn bởi nước. Khi nước bắt đầu rút dần, cá ghasha dẫn tàu của Manu đến một đỉnh núi. Trung Quốc Phục Hy được xem là ông tổ của dân tộc Trung Hoa. Truyền thuyết kể rằng, xưa kia đã từng có một Trận Lụt lớn, toàn bộ Trái Đất chìm ngập trong biển nước, kể cả những ngọn núi cao. Tất cả mọi thứ đều bị quét sạch, không ai và không thứ gì sống sót. Tuy nhiên có một gia đình đã thoát được Đại hồng thủy nhờ một chiếc thuyền. Đó là Phục Hy cùng vợ, ba người con trai, và ba người con gái. Sau đó, ông và gia đình – những người duy nhất trong thiên hạ còn sống sót, đã sản sinh ra dân tộc Trung Hoa. Châu Âu Hy Lạp cổ đại Xưa kia, trước khi thời đại hoàng kim kết thúc, con người đã rất suy đồi và ngạo mạn. Thần Zeus rất phiền muộn khi thấy họ càng ngày càng trở nên xấu xa hơn. Cuối cùng, Zeus quyết định rằng ông sẽ tiêu diệt tất cả loài người. Trước khi thần Zeus làm điều đó, thì thần Prometheus, vị đã sáng tạo ra loài người, cảnh báo đứa con trai tên là Deucalion và vợ anh ta Pyrrha, biết về tai họa kinh khủng sắp giáng xuống thế giới loài người. Sau đó thần Prometheus bèn đặt đôi vợ chồng vào trong một cái rương bằng gỗ lớn. Những cơn mưa bắt đầu trút xuống và kéo dài 9 ngày đêm cho đến khi toàn thế giới bị chìm trong biển nước. Thứ duy nhất không bị ngập lụt là 2 đỉnh núi Parnassus và đỉnh Olympus. Cái rương bằng gỗ trôi tới và nằm lại gần đỉnh núi Parnassus. Deucalion và vợ Pyrrha bước ra và thấy rằng mọi thứ đã bị ngập lụt. Họ sống nhờ vào thực phẩm dự trữ có trong cái rương, cho đến khi nước rút xuống. Nhờ được thần Zeus hướng dẫn, họ lại sinh sôi nảy nở loài người trên trái đất. Châu Mỹ Người Aztec Ngày xưa có một người đàn ông tên là Tapi. Tapi là một người rất trọng đạo. Đấng Sáng Thế đã bảo Tapi đóng một con tàu làm nơi sinh sống bên trong. Đấng Sáng Thế còn bảo ông nên mang vợ, cùng với mọi loài động vật mỗi thứ một cặp đưa lên chiếc tàu này. Đương nhiên tất cả mọi người nghĩ rằng ông điên. Sau đó, cơn mưa bắt đầu và trận lũ đã đến. Con người và động vật đã cố gắng leo lên những ngọn núi, nhưng cả những ngọn núi ấy cũng bị ngập lụt. Cuối cùng mưa cũng tạnh. Tapi thả một con chim bồ câu, nhưng nó không trở về, cho nên ông biết là nước đã rút rồi. Hoa Kỳ Những người bản địa Ojibwe từng sinh sống ở Minnesota Hoa Kỳ cũng có một câu chuyện về sự Sáng Thế và Trận lụt, có nhiều nét hết sức giống với nội dung của cuốn Bible. “Từng có một thời kỳ, khi ấy cuộc sống đã không còn hòa hợp nữa. Đàn ông và phụ nữ không biết tôn trọng lẫn nhau, các gia đình cãi cọ nhau, và chẳng mấy chốc mọi người đều đấu đá với nhau. Điều đó làm Đấng Sáng Thế là Gitchie Manido rất phiền lòng, nhưng ông kiên nhẫn chờ đợi… Cuối cùng, khi tình hình tỏ ra không còn chút hy vọng nào nữa, Đấng Sáng Thế đã quyết định thanh tẩy Mẹ Trái đất bằng cách dùng nước. Nước lụt đã đến, làm ngập tràn trái đất, quét sạch tất cả mọi thứ. Chỉ còn một vài sinh vật của mỗi giống loài là còn sống sót”. Sau đó, câu chuyện kể rằng Waynaboozhoo đã sống sót bằng cách trôi nổi trên một “khối gỗ” lớn trong nước cùng với nhiều loài động vật khác nhau. Người Inca Trong suốt thời kỳ Pachachama con người đã trở nên rất xấu xa. Họ mải mê phát minh ra và làm nhiều điều tội lỗi, và bỏ quên các vị thần. Chỉ có những người trong dãy núi Andes cao kia là vẫn không biến chất. Hai anh em sống trên vùng cao nguyên ấy nhận thấy những con lạc đà không bướu của họ có nhiều hành vi lạ thường. Họ hỏi bầy lạc đà tại sao lại thế, và chúng nói là các ngôi sao đã bảo với chúng rằng, một Trận lụt lớn đang tới. Trận Lụt này sẽ tiêu diệt tất cả sự sống trên trái đất. 2 anh em đưa gia đình và các bầy vật nuôi của họ vào một hang động trên núi cao. Trời bắt đầu mưa và mưa mãi liên tục trong bốn tháng. Cuối cùng mưa đã ngừng lại và nước rút đi. Họ đã sinh sôi phục hồi dân cư trên trái đất. Đám lạc đà không bướu nhớ mãi Trận Lụt ấy, và đó là lý do tại sao chúng thích sống ở các vùng cao nguyên. Mexico Những thổ dân Toltec bản địa có một truyền thuyết nói rằng Trái đất đã từng bị hủy diệt bởi một trận lụt cực lớn và chỉ có một gia đình sống sót. Châu Úc Đơn cử câu chuyện của một bộ lạc thổ dân miền Tây nước Úc. Vào thời hết sức xa xưa, có một người đàn ông tên là Gajara sống cùng vợ và những người con trai, con dâu của ông. Một ngày nọ, có đám trẻ hành hạ và ngược đãi một con cú tên là Dumbi. Sau khi thoát được Dumbi báo việc đó với Ngadja – Đấng Tối Cao. Ngadja rất đau lòng. Ông chỉ thị cho Gajara, “Nếu ngươi muốn sống, hãy mang vợ, con trai và con dâu của ngươi theo và làm một cái bè thật lớn. Bởi vì vụ việc Dumbi, ta dự định sẽ làm cho cả loài người chết đuối. Ta sẽ làm mưa và lụt biển”, ông bảo họ. “Hãy đem lên bè những thứ đồ ăn giữ được lâu ngày, những thực phẩm như là gumi, banimba, và ngalindaja, tất cả những thực phẩm trên mặt đất ấy”. Thế là Gajara đã trữ tất cả những thực phẩm này. Ông cũng tập trung đủ giống chim trời như chim cu, chim ăn tầm gửi, chim cầu vồng, chim mào và chim sẻ. Ông đưa chúng lên bè, và cả một con kangaroo cái nữa. Gajara tập hợp các con trai làm người điều khiển bè, và cả vợ và con trai, con dâu nữa. Sau đó Ngadja giáng mây mưa xuống, những đám mây bao trùm khắp bầu trời. Trận lụt biển đến từ phía bắc-đông bắc, và con người đã bị chộp lấy trong cơn lũ lụt của biển cả. Ngadja làm nước lũ cuộn trào và lòng đất mở ra, san bằng tất cả và làm mọi sinh vật chết đuối. Trong khi đó, dòng nước đưa tất cả những người trên bè cùng với Gajara đi thật xa, tới nơi có tên là Dulugun. Cuối cùng, dòng nước cũng mang Gajara trở lại. Ông thả vài chú chim ra, trong đó có một con chim cúc cu. Con chim cúc cu đã tìm thấy đất liền và không quay trở lại nữa. Nước đang rút xuống dần dần. Sau đó, các loài chim khác trở lại với Gajara và ngày hôm sau ông lại thả chúng ra. Đất đã khô ráo, các sinh vật sống đã tìm thấy nhà và thực phẩm cho chúng. (nhận xét những chỗ in đậm nghiêng: Ở các phiên bản khác: do con người tha hóa suy đồi về đạo đức nên bị trừng phạt – hợp lý, còn ở phiên bản này con cú bị vài trẻ em ngược đãi dẫn đến cả loài người bị phạt – không hợp lý lắm. Có lẽ những người đời sau chỉ còn biết đến sự kiện Hồng Thủy qua lời truyền miệng, còn nguyên nhân căn bản là sự suy đồi đạo đức thì họ không hiểu nên chi tiết này dần bị lạc đi. Đoạn nói về việc thả chim: thứ tự thả chim và chi tiết con chim quay trở về bị đảo ngược. Đó là do những người thời sau không còn hiểu việc thả chim có mục đích là để dò xem nước đã rút hay chưa, khiến chi tiết đó càng ngày càng bị lệch đi. Do truyền miệng quá lâu đời và sự thêm thắt của người kể chuyện nên phiên bản này tuy còn giữ được nhiều chi tiết nguyên thủy, nhưng độ chính xác của chi tiết đã kém đi so với các phiên bản Đại Hồng Thủy khác). Minh Trí (tổng hợp)1 like
-
Làm sao để tự biết mình già hay trẻ? (CAO) Trong cuộc sống, nhiều người tự đánh giá mình hoặc nhận định về người khác là “già” hoặc còn “trẻ” chán. Bên cạnh đó, cũng có những ý kiến cho rằng “nhiều tuổi chưa hẳn là già hoặc ít tuổi chưa hắn là trẻ”. Vậy đâu là những triệu chứng sức khỏe thể xác và tâm hồn? 1. Toàn kể chuyện ngày xưa (luyến tiếc dĩ vãng). 2. Vặn tivi lên để ngủ (sợ cô đơn). 3. Thích ăn cơm nhão hoặc ăn cháo (“hàng tiền đạo” đi “đá mướn”, răng rụng… xuống cầu). 4. Mô-bai lúc nào cũng tắt cho đỡ tốn pin (sợ tốn tiền). 5. Chẳng biết SMS là cái gì (ngại vi tính). 6. Đọc word file, luôn nâng view lên 150% thay vì 100% (mắt đã mờ nhòe). 7. Đến nhà bạn chơi thường ngủ gật (đêm thường khó ngủ). 8. Cả ngày đi tìm chìa khóa nhà, chìa khóa xe (bệnh Alzheimer, trí óc thường hay quên). 9. Ngưng nhổ tóc bạc (xưa tóc muối tiêu, nay đã “muối” nhiều hơn “tiêu” nên khỏi nhổ). 10. Ra đường “bị” gọi bằng cô, chú (đến giai đoạn bị lên chức bác, thì triệu chứng đã bắt đầu trầm trọng). 11. Lên xe buýt “bị” nhường chỗ (chỉ có trong xã hội văn minh được giáo dục tử tế). 12. Phụ nữ coi phim buồn hay không buồn gì cũng sẵn sàng rươm rướm nước mắt. 13. Không ưa nhìn những cặp “tình nhân tuổi đôi mươi” nhưng lại thích nhìn mấy anh “hot boy”, hay mấy cô “hot girl”. 14. Thích nghe những câu như “dạo này trông bạn trẻ hơn và ốm hơn lúc trước”. 15. Giấc ngủ trưa dài hơn. 16. Đi, đứng, nằm, ngồi chậm lại. 17. Toàn dùng kem đánh răng loại “Extra-whitening”. 18. Hay hỏi thăm tin tức các cụ cùng tuổi xem “còn khỏe hay không”. 19. Phone “mobai” reo lúng túng mãi mới bắt được thì phone đã tắt. 20. Xài “mobai” loại cũ, không thích đổi loại hiện đại. 21. Gửi SMS 15 phút mới đánh được một chữ. 22. Thân hình có vòng thứ hai càng ngày càng “nở rộ”, ngại lên xuống thang lầu vì sợ té. 23. Cứ bốn, năm giờ sáng là đã dậy. 24. Mở báo đọc hay tìm trang… cáo phó đọc trước! Không muốn nhắc đến ngày sinh nhật. 25. Nói chuyện hay kể chuyện bệnh và chỉ nhau thuốc trị bệnh. L.A (theo SKĐS)1 like
-
Hoan hô ĐP! Chuẩn quá đi thôi!1 like
-
Đại Phúc bốc quẻ hay thật.1 like
-
Cô người yêu hiện nay người nhỏ bé tính ương ngạnh, gò má cao ưa tắm gội, e không phải là chung kết1 like
-
Theo ngành xây dựng thì chỉ có thể ngồi trong phòng mà làm hồ sơ , Không thể buôn bán vì có ngày sạch vốn lẫn lãi1 like
-
Số vất vả từ nhỏ vì triệt cư vào mạnh cung Mắt phải chắc phải hơi kém, Phải qua 30 tuổi khi đó mới đỡ dần. Vợ chồng không mấy hạnh phúc. Họ hàng nhiều người khá giả có người làm to nhưng tuyệt nhiên là khó có sự giúp đỡ, Sang năm hạn tình duyên có thể cưới nếu không phải 4 năm nữa1 like
-
Em là người không dứt khoát nên love story lúc nào cũng có người thứ 3 chen chân vào, năm 2011, 2012 đều thế. Qua năm sau sẽ thấy đỡ hơn những năm vừa qua. Nhưng trong công việc lúc nào cũng bị dèm pha điều tiếng. Số không thể giàu được, nhà thường hay có trộm hay mất cắp. Nên muộn lập gia đình để vợ chồng bền duyên. Vợ là người cao, hơi gầy gầy, khuôn mặt trái xoan, trán rộng, nhìn cũng xinh xắn và hiền lương, nhưng đời sống hôn nhân lúc nào cũng sóng gió, không biết có phải là do em luôn có người thứ 3?!1 like
-
Bố mẹ em là khá giả hay không?1 like
-
cứ yêu đi, đừng cưới là được, Tầm 30 cưới cũng chưa muộn, nếu còn duyên.1 like
-
Năm tới có người hỏi cưới rồi,tháng 3-4 âm lịch có người mai mối cho, số bạn sau khi lấy chồng mọi chuyện đều tốt đẹp. Nhờ chồng nhiều lắm, đúng vậy thì lên báo tin cho mọi người mừng với nhé!1 like
-
Nếu chưa có bạn gái năm tới sẽ có vào khoảng tháng 7,8 âm lịch, tình cảm nắng mưa mưa nắng. Tới năm thìn thì đường ai lấy bước. Qua đại vận tới học hành thi cử lận đận. Bạn nên học nghành gì để sau này có thể ra kinh doanh làm riêng thì hơn. Công danh bình thường không mấy hiển đạt chức vụ không cao, đi xa lập nghiệp thì sẽ khá giả và sống thọ, 2 năm tới đều có thể đi nhưng cẩn thận tay chân té ngã, năm Mão ban đầu khó khăn trở ngại sau mới ok, cẩn ngôn coi chừng làm mất lòng người khác mà người ta phá. Chờ bác haithienha và mọi người tư vấn thêm cho nhé, thân chào!1 like
-
1 like
-
Khúc xương việt năm này học hành thành đạt Kình là kiếm hóa khí thành bút, có khôi tấu thêm văn bằng vậy năm nay nên đi học để đến năm ấy tốt nghiệp loại ưu.OK1 like
-
Hi Rin86, Tranh "trầm mặc" em à...nhưng khổ anh lại thích đấy.. http://www.lyhocdongphuong.org.vn/forum/public/style_emoticons/default/grin.gif , Cố gắng sáng tác thêm nhiều nhiều rồi làm 1 cái triển lãm nho nhỏ bán đấu giá vài tấm để làm Từ Thiện em à....Trước mắt là trên diễn đàn này... Chúc em có nhiều tác phẩm mới...1 like
-
Tình duyên còn èo uột 2-3 năm nữa. Năm sau đi xe cẩn thận. Hạn xấu thì ráng mà ẩn nhẫn. Năm Thìn cẩn thận sức khỏe cho cha mẹ nhất là người cha. Nhà có bao giờ bị xém cháy hay có ma??1 like
-
Tranh dân gian Hàng Trống 149 bức tranh thuộc dòng tranh cổ quý giá của Hà Nội, thu thập trong vòng 10 năm, được nhà sưu tầm Phạm Đức Sĩ trưng bày tại Trung tâm nghệ thuật Việt, Hà Nội từ 9/9/2010 đến ngày 13/9/2010.. Cảm thấy bất an trước sự tàn lụi của một dòng tranh truyền thống Hà Nội, của nền tảng tinh thần Hà Nội ngày trước, nhiều nhà sưu tập đã âm thầm đi lùng lại những bộ tranh Hàng Trống quý giá. Phạm Đức Sĩ là một trong số đó. Từ năm 2001, anh cất công tìm lại dòng tranh niên họa Hàng Trống phục vụ nhu cầu trang trí, chúc lành chúc phúc năm mới hoặc đốt thờ cúng cho người âm, làm bùa “trấn trạch” trong nhà của người thị thành. Bức "Lý thu vọng nguyệt". Trong bộ sưu tập của Phạm Đức Sĩ, có hàng chục bộ tranh trang trí vẽ theo các tích truyện (Chiến quốc; Tam quốc; Hán Sở tranh hùng), tranh thờ Đạo giáo của người thiểu số đặt hàng thợ Hàng Trống chế tác (Tam Thanh - Tày Nùng; Hành say - Dao Tiền). Ngoài ra còn rất nhiều tranh lẻ vẽ các ông Hoàng bà Mẫu để phục vụ tín ngưỡng đạo Mẫu (Ông Hoàng cưỡi cá; Ông Hoàng cưỡi lốt; Bà Chúa thượng ngàn; Bà Chúa thượng thiên…), tranh “trấn trạch” dán ở cửa và trong nhà để trừ tà ma. Và rất quý giá là những bức tranh Hàng Trống như nhật ký thời gian ghi lại cuộc sống của Hà Nội nửa đầu thế kỷ XX (Hội Tây; Duyệt binh). Tuy nhiên, trong dịp này, Phạm Đức Sĩ chỉ trưng bày một phần trong số tranh sưu tập, gồm 22 bộ tranh (83 bức) và 66 bức tranh lẻ. Bộ tranh được trưng bày phần nào làm người xem hình dung ra một nền đồ họa Hàng Trống từng rất phong phú đa dạng. Bức "Nam tào". Nhà nghiên cứu mỹ thuật Phan Ngọc Khuê nhận xét, giá trị của tranh dân gian Hàng Trống được thể hiện trong nhiều tác phẩm, khó có thể bình luận được. “Chúng ta nên hiểu được ý nghĩa tượng trưng, huyền thoại, giáo lý giấu sau những hình hài cụ thể, phải tìm được cơ sở con người trong triết học, tôn giáo và tâm lý qua dòng tranh này”, ông nói. Phạm Đức Sĩ sinh năm 1967, là chủ xưởng mộc đóng khung tranh có tiếng gần Đại học Mỹ thuật Hà Nội. Khoảng từ năm 1999, anh bắt đầu sưu tập đồ gốm cổ, đến năm 2001, bắt đầu chuyển sang sưu tập tranh. Đến nay, anh đã có một số bộ sưu tập giá trị, bao gồm gốm Đông Sơn, gốm Hán; tranh cổ động trong thời kỳ chiến tranh; tranh thờ cúng Đạo giáo - Phật giáo của một số dân tộc Việt Nam, tranh Hàng Trống. Ảnh: Phạm Đức Sĩ Hòa Ca vietnamplus.vn1 like
-
VĂN HIẾN VIỆT VÀ "ĐỐI THOẠI GIỮA CÁC NỀN VĂN MINH" Nguyễn Vũ Tuấn Anh Giàm đốc Trung Tâm nghiên cứu Lý học Đông phương. 26/ 12/ 2010 Trong những bản văn chính thức của tổ chức văn hóa Liên Hợp Quốc, không lần nào sử dụng khái niệm "văn hiến", ngoại trừ sự tồn tại của nó trong dân tộc Việt. Kính thưa quí vị quan tâm. Bài viết trên Bee.net không thấy tên tác giả, bởi vậy có thể coi như quan điểm của ban biên tập. Nếu đây là do sơ xuất của lỗi đánh máy trên báo điện tử, mà sau này họ sửa chữa thì chúng tôi sẽ bổ sung. Nhưng cá nhân tôi không quan trọng tác giả là ai, mà là nội dung của vấn đề được đặt ra trong bài báo. Trong nội dung bài báo này có thông tin về chủ trương của UNESCO về "Đối thoại giữa các nền văn minh". Chúng tôi nghĩ rằng Nếu UNESCO đặt vấn đề một cách nghiêm túc và quan tâm tới luận điểm "Việt sử 5000 văn hiến, cội nguồn của văn minh Đông phương" thì đây là một dịp để chúng tôi trình bày về một nền văn minh huyền vĩ và còn bí ẩn trong con mắt của các nhà khoa học thuộc văn minh hiện đại, có xuất xứ từ văn minh Tây Phương và đó là một trong những cơ hội để làm sáng tỏ cội nguồn Việt sử - nguồn gốc của nền văn minh Đông phương huyền vĩ và bí ẩn trên thế giới, qua sự chủ trương "Đối thoại với các nền văn minh" do UNESCO khởi xướng. Trong bài báo trên Bee.net còn đặt ra một vấn đề - Từ đó đặt lại vấn đề về khái niệm văn hóa và văn minh. Đây là một điều dễ hiểu. Bởi vì cho đến nay, đây là hai khái niệm chưa có một chuẩn thống nhất về nội dung khái niệm, mặc dù người ta vẫn ứng dụng một cách thành thạo trong các văn bản. Nhưng người ta chỉ cảm nhận được nó trong sự tổng hợp trừu tương khái niệm này từ những ứng dụng cụ thể của từng trường hợp. Chứ không phải đã có một định nghĩa chuẩn về khái niệm này. Hiện nay, theo thống kê của những nhà nghiên cứu thì có ngót 400 định nghĩa về khái niệm văn hóa. Bởi vậy, chúng tôi cũng tuân thủ theo qui tắc mà bài viết trên Bee.net đề cập và định nghĩa về khái niệm văn hóa theo cách hiểu của chúng tôi. I. KHÁI NIỆM VĂN HÓA - VĂN MINH & VĂN HIẾN. Trước hết, tôi xác định rằng: Trong ngôn ngữ và văn tự Việt, khái niệm "văn hiến" là một khái niệm xưa nhất có trong các văn bản cổ và ngôn ngữ của dân tộc này. Và chỉ có dân tộc Việt mới xác định dân tộc mình có một nền văn hiến trong các bản văn chính thức cấp quốc gia. Trong các bản văn chữ Hán xuất hiện từ thế kỷ trước của một số nhà nghiên cứu cũng dùng danh xưng văn hiến. Nhưng ở cấp quốc gia, không thấy khái niệm này xuất hiện trong các chiếu chỉ, bản văn cấp quốc gia...vv..... Trong "Bình Ngô Đại cáo" của Nguyễn Trãi - anh hùng dân tộc Việt ở thế kỷ XIV - viết: Như nước Đại Việt ta thuở trước. Vốn xưng nền văn hiến đã lâu. Hay gần hơn, từ thế kỷ XVIII, một bài thơ của vua Minh Mạng, hiện còn khắc, treo trong Điện Thái Hòa - Hoàng thành Huế, viết: Văn hiến thiên niên quốc. Xa thư vạn lý đồ. Hồng bàng khai tịch hậu. Nam phục nhất Đường Ngu (/Nghiêu). Khái niệm văn hiến này sẽ được phân tích sau khi chúng tôi trình bày luận điểm của chúng tôi về khái niệm "văn hóa". I. 1. Khái niệm văn hóa * Khái niêm "văn" Chúng tôi quan niệm cho rằng danh từ văn hóa là một từ thuần Việt và khẳng định nó không phải là một từ Hán Việt có nguồn gốc từ ngôn ngữ Hán, mặc dù nó có thể miêu tả bằng văn tự Hán. Người Hán phát âm chữ "văn" (文) là "uấn", hoặc "uẩn", chăng có liên hệ gì về ngữ âm với cách phát âm chữ "văn" trong tiếng Việt cả. Danh từ "văn" trong tiếng Việt là một thành tố trong tổ hợp từ có cùng phụ âm "v" đầu , miêu tả hệ quả của một hành vi con người thể hiện ý tưởng, là: Văn, viết, vẽ.....cùng thuộc hoặc liên quan đến tay (Trong khi đó phát âm tiếng Hán cho những từ này là: Văn - Uấn; viết - Sỉa; vẽ - Hoa hoa. Không hề có chút cơ sở nào dấu tích để gọi là Việt Hán cả); hoặc hình tượng thể hiện dấu ấn tự nhiên hay nhân tạo là: Vằn, vện, vết....Đây chính là phương pháp tạo từ tiếng Việt được miêu tả một cách xuất sắc của nhà nghiên cứu Lãn Miên - đã trình bày trong website lyhocdongphuong.org.vn(*). Khái niệm "văn", đứng một mình, miêu tả một bài viết thể hiện ý tưởng con người. Tất nhiên nó bao gồm đầy đủ tính hợp lý của một yếu tố cần phải có trước và là nguyên nhân của nó, chính là "chữ viết". Hay nói rõ hơn: Đó chính là sự thể hiến một quá trình phát triển xã hội đến giai đoạn cao và vượt trội so với giai đoạn cần thiết phải hình thành ký tự, chữ viết để thể hiện và truyền đạt ý tưởng. Bởi vì khái niệm "văn" tự nó đã đòi hỏi một cấu trúc ngôn từ mạch lạc, có tính hệ thống, chuẩn mực trong một bài viết dù là cô đọng nhất, để thể hiện ý tưởng người viết. Hay miêu tả một vế khác của vấn đề là: Khái niệm "văn" phải có nguồn gốc từ sự hiểu biết có tính tri thức. * Khái niệm "hóa" Đây cùng là một từ thuần Việt và khá phổ biến trong ngôn ngữ dân gian Việt ở mức phổ thông và bình dân. Nó miêu tả sự chuyển đối từ trạng thái này sang trạng thái khác. Những thành tố trong tổ hợp từ có phụ âm "h" đầu trong tiếng Việt còn tồn tại đến nay, miêu ta sự thay đổi là: Hóa, hòa, hoa (Trong "hoa chân, múa tay"). Riêng về từ này trong tiếng Hán viết chung một ký tự là "Hoa" ( 花 ). Bởi vậy, không có cơ sở nào để từ "hóa" với khái niệm của nó lại xuất phát từ ngôn ngữ và văn tự Hán cả. Khi mà chính người Hán không có từ này. Từ lâu, "Hóa" là tiếng phổ biến trong cả giới bình dân Việt. Những ngôn từ tiếng Việt dùng khái niệm "hóa" phổ biến , như: "Hóa vàng" - Chuyển đổi giá trị giấy tiền vàng mã sang giá trị tiền ...dưới Âm Phủ theo tín ngưỡng Việt; "hóa kiếp" - chuyển đổi từ kiếp này sang kiếp khác; "hóa thân" - chuyển đởi trạng thái thân thể từ hình thức này sang hình thức khác. Hóa học - chuyển đổi cấu trúc vật chất từ trạng thái này sang trạng thái khác....... Mục đích của bài viết này không nhằm chứng minh nền văn hóa Việt hoàn toàn có tính độc lập trong sự phát triển và không hề là hệ quả thu được từ văn hóa Hán. Nên chúng tôi không đi sâu vào vấn đề này, mà chủ yếu chỉ chứng minh cụ thể cho hai từ "văn" và "hóa" không có nguồn gốc Hán theo cách nhìn của chúng tôi. Nhưng từ đó - trên cơ sở khái niệm "văn" và "hóa" có nguồn gốc Việt này - chúng tôi tiếp tục trình bày khái niệm "văn hóa" làm cơ sở cho việc bàn về nội dung: "Đối thoại giữa các nền văn minh". Khái niệm văn hóa Trong danh từ "Văn hóa" thì văn lúc này chính là biểu tượng cô đọng của sự chuyển tải một hệ thống ý tưởng được diễn đạt và "hóa" chính là biểu tượng cô đọng của việc chuyển hóa những ý tưởng đó phổ biến trong sinh hoạt của cuộc sống. Trên cơ sở này thì khái niệm "văn hóa" được định nghĩa như sau: Văn hóa là một khái niệm trừu tượng mô tả sự chuyển hóa những ý tưởng có tính hệ thống, nhất quán có mục đích thành những hành vi được phổ biến và lưu truyền trong đời sống, sinh hoạt của một dân tộc, một cộng đồng, một khu vực dân cư hoặc cả một quốc gia và được coi là những chuẩn mực tạo giá trị tinh thần trong cuộc sống thì gọi là "Văn hóa". Những ứng dụng khái niệm văn hóa Như vậy, trên cơ sở định nghĩa này -Chúng tôi thử ứng dụng vào những trường hợp phố biến của khái niệm văn hóa như một thử nghiệm cho phản ánh đúng bản chất của nó và không mâu thuẫn với ý niệm phổ biến của từ này. * Văn & Hóa: Cũng từ định nghĩa trên, chúng tôi đặt những giá trị ý tưởng diễn đạt bằng bản văn hoặc ngôn ngữ, nhưng những ý tưởng, quan niệm mà chỉ dừng lại ở sự thể hiện trên văn bản, ngôn ngữ mà không thể chuyển hóa thành những hành vi trong sinh hoạt của một cộng đồng, một dân tộc.....thì chỉ có thể gọi là "văn" chứ không "hóa". Bản thân những cuốn sách, truyện.....là những hiện tượng, những thành tố trong đời sống văn hóa, chứ tự thân nó không phải là văn hóa. * Ứng dụng trong ngôn ngữ. Trong ngôn ngữ và bản văn, người ta thường dùng các khái niệm như: "Văn hóa dân tộc", "văn hóa Phật giáo" .....Thậm chí gần đây, có người dùng thuật ngữ "Văn hóa ẩm thực". Những khái niệm này được giải thích thế nào với định nghĩa về văn hóa nêu trên? Chúng tôi cho rằng: Do không có một định nghĩa chuẩn về khái niệm văn hóa, cho nên có những thuật ngữ mang tính lạm dụng vô lý. Thí dụ như khái niệm "văn hóa ẩm thực". Nhưng bản thân thuật ngữ này lại tự mâu thuẫn - bởi vì từ ẩm thực chỉ là một hành vi sinh hoạt, tự nó không thể là văn hóa. Sự lạm dụng do chưa có, định nghĩa chuẩn về "văn hóa", khiến người ta có thể ghép bất cứ một hành vi nào với khái niệm văn hóa, nếu thuật ngữ "văn hóa ẩm thực" được coi là một phát minh sáng giá thì người ta có thể ghép bất cứ một động từ nào với khái niệm "văn hóa". Thí dụ như: "Văn hóa ngủ"; hoặc "văn hóa hắt hơi"..... Những thuật ngữ sáng tạo kiểu này có nguồn gốc từ quan niệm của Đào Duy Anh cho rằng: Văn hóa là sinh hoạt (Việt Nam văn hóa sử cương - Đào Duy Anh). Nếu quan niệm của ông Đào Duy Anh đúng thì trên trái đất này tất cả những sinh hoạt của muôn loài đều có thể coi là văn hóa. Tất nhiên đó là điều không hợp lý. Ngược lại, nếu coi khái niệm văn hóa như định nghĩa trên mà chúng tôi đã trình bày thì nó xác quyết những vấn đề sau đây: a/ Văn hóa là hệ quả chỉ có ở động vật cao cấp có khả năng tổng hợp nhận thức trực quan phát triển khả năng tư duy trừu tượng và sự phát triển đạt được tính phong phú về ngôn ngữ và phải có văn tự để truyền đạt. b/ Có tổ chức chặt chẽ mang tính cộng đồng, để có thẩm quyền mang tính quyền lực xác định những giá tri tư tường trở thành phổ biến và lưu truyền trong cuộc sống cộng đồng. Trên cơ sở định nghĩa và mô tả này ("a/" & "b/") thì chúng tôi nhận thấy các thuật ngữ như: "Văn hóa Phật giáo"; "Văn hóa dân tộc"; "Văn hóa truyền thống".....vv....là sử dụng đúng khái niệm văn hóa. Bởi vì khái niệm "Phật giáo", "dân tộc" đều phản ánh tính chất cộng đồng và sự chấp thuận lưu truyền những gia trị tư tưởng đó trong cộng đồng (Môi trường phổ biến văn hóa). Thuật ngữ "Văn hóa truyền thống" thì khái niệm truyền thống tương đồng với trạng thái lưu dữ, truyền đạt tất nhiên là trong môi trường của một cộng đồng....vv.... Mục đích của bài viết này là trình bày luận điểm của chúng tôi về vấn đề "Đối thoại giữa các nền văn minh", nên chúng tôi chỉ trình bày ngắn gọn luận điểm và sự miêu tả về khái niệm văn hóa qua kết luận trên. I. 2. Khái niệm văn minh. Khái niệm này chúng tôi xác định rằng hoàn toàn thuần Việt. Riêng từ "văn" chúng tôi đã trình bày ở trên với sự xác định nguồn gốc Việt. Khái niệm minh. Với từ "minh", nhiều người cho rằng: Nó là từ Hán Việt có ký tự là "明", người Hán phát âm là "mỉn", hoặc "mín". Dịch ra tiếng Việt là "sáng". Trong văn tự Hán nó gồm hai chữ là "日":Nhật - Mặt Trời và "月": Nguyệt - Mặt Trăng, nhằm miêu tả ánh sáng của mặt Trời và mặt Trăng soi sáng trên trái Đất này. Nên miêu tả với từ Hán Việt: "Minh - 明" có nghĩa là "Sáng" trong tiếng Việt. Nhưng với chữ Hán theo tượng hình và nội dung trình bày trên, rõ ràng là mâu thuẫn và nó sẽ hoàn toàn vô nghĩa nếu ghép từ này trong khái niệm "văn minh" trong tiếng Việt. Chúng tôi lập luận như sau: a/ Hình tượng của mặt trời và mặt trăng là miêu tả sự thay đổi của ngày và đêm, của sáng và tối. Như vậy, tự hình tượng này không thể hiểu nghĩa là sáng. Phải chăng đây chính là từ Việt với nghĩa "sáng" được Hán hóa bằng hình tượng mặt Trời "nhật/日" chiếu vào bóng tối "nguyệt/月" - mặt trăng? Trong Tử Vi có câu phú đắc: "Nhật nguyệt đồng tranh, công danh bất thành". Công danh bất thành thì lấy đâu ra "sáng"? b/ Nếu hiểu "minh" là sáng thì nghĩa của khái niệm văn minh là "văn sáng" sao? Hoàn toàn tối nghĩa. Nhưng ngược lại, nếu chúng ta nhận thấy rằng, danh từ "minh" là một từ thuần Việt và hoàn toàn không hề có gốc Hán thì khi thực hiện với từ ghép "văn minh" sẽ có một định nghĩa rất rõ ràng. Chúng tôi cho rằng: "Minh" là một từ gốc Việt miêu tả một thực trang trừu tương có tính bao phủ, rộng khắp. Nó còn được gọi là "Mênh" trong một số phát âm mang tinh địa phương của người Việt. Mênh mông - có nghĩa là bao trùm, trải rộng. Trên cơ sở xác định khái niệm "văn" và "minh" (Mênh) là hai từ thuần Việt với cách hiểu như trên - thì - chúng tôi hoàn toàn có cơ sở để định nghĩa khái niệm "Văn minh" như sau: Văn minh là khái niệm trừu tượng mô tả những giá trị tri thức được thể hiện (Văn) bao trùm một không gian tồn tại của con người thì gọi là văn minh. Những ứng dụng khái niệm văn minh. Với định nghĩa trên, chúng tôi úng dụng kiểm chứng tính hợp lý trong các mối liên hệ các hiện tượng liên quan , để xác định tính đúng đắn của định nghĩa này. * Khái niệm văn hóa chỉ có thể phát triển trở thành văn minh, nếu nền văn hóa được xác lập trên một không gian rộng có tính bao trùm và không phân biệt dân tộc, tôn giáo, đẳng cấp. Bởi vậy, người ta có thể nói: Văn minh Phương Đông - Những gia trị tri thức phổ biến bao trùm ở không gian phương Đông, Văn minh phương Tây. Thậm chí có thể nói: Văn minh Ấn độ - khi những giá trị tri thức của xứ sở này bao trùm lên một vùng lãnh thổ Ấn Độ gồm nhiều dân tộc. Nhưng chẳng ai nói "văn minh của bộ lạc...."; hoặc "văn minh xứ Đoài" cả. I. 3. Khái niệm văn hiến. Văn hiến là một từ thuần Việt và chỉ tồn tại trong ngôn ngữ Việt. Tiếng Anh - một ngôn ngữ quốc tế trong nền văn minh nhân loại hiện đại không có khái niệm này. Như đã trình bày ở trên, người Hán cũng có từ "văn hiến", nhưng nó chỉ được một vài học giả Hán trong thời gian gần đây, tự gán cho nền văn hóa Hán. Nó chưa hề có trong ngôn ngữ cấp quốc gia như đã thể hiện trong các bản văn lịch sử của dân tộc Việt. Trong một lần xa xưa, tôi có nhờ một người dịch ra tiếng Anh từ văn hiến. Anh ta không thể nào dịch được vì tiếng Anh không có từ này. Cuối cùng tôi phải đưa ra một một khái niệm dài dòng văn tự là: "Nền văn hóa hướng thượng". Tôi luôn luôn xác định rằng: Một ngôn ngữ cao cấp có thể dịch ra ngôn ngữ đó tất cả các ngôn ngữ có nền văn hóa thấp hơn. Nhưng một nền văn hóa thấp hơn sẽ rất khó khăn khi dịch một ngôn ngữ cao cấp hơn ra ngôn ngữ của nó. Do đó, lịch sử có thể thăng trầm, nền văn hiến huy hoàng trài gần 5000 năm của người Việt vẫn còn lại hào quang của nó khi xác định ngôn ngữ Việt có thể dịch tất cả các ngôn ngữ khác trên thế giới ra tiếng Việt. Như nước Đại Việt ta thuở trước. Vốn xưng nền văn hiến đã lâu. ...... Dẫu cường nhược có lúc khác nhau. Nhưng hào kiệt đời nào cũng có.... Danh từ "Hiến" cũng là một từ trừu tượng thuần Việt với nghĩa rất rõ ràng: Sự dâng hiến; một cử chỉ đưa lên một cách cung kính thì gọi là hiến. Trong tổ hợp từ cùng phụ âm đầu là: Hiến, hiển, hiện....đều có nghĩa thiêng liêng, cao quý. Vì là một từ thuần Việt, không liên quan đến các ngôn ngữ khác để so sánh, nên chúng tôi xác định định nghĩa khái niệm "văn hiến" như sau: Văn hiến là một khái niệm trừu tượng thuần Việt miêu tả nhưng tư duy hướng dẫn con người đến một cuộc sống cao cả (hiến). I. 4. Kết luận Trên cơ sở đã trình bày về các khái niệm "văn hóa", "văn minh" và "văn hiến", quí vị sẽ cùng chúng tôi tìm lời giải đáp tiếp theo cho việc "Đối thoại giữa các nền văn minh", chứ không phải là "Đối thoại giữa các nền văn hóa". Sự giải đáp này cũng chính là sự phát triển ứng dụng tiếp tục chứng tỏ tính hợp lý của những khái niệm Việt mà chúng tôi đã trình bày ở trên. Trên cơ sở này, chúng tôi tìm vị trí của nền văn hiến Việt trong cuộc "Đối thoại giữa các nền văn minh", khi mà nền văn minh Việt bao trùm không gian Đông phương với một tri thức - mà chúng tôi giả thiết rằng: Chính là lý thuyết thống nhất vũ trụ. Đó là thuyết Âm Dương Ngũ hành mà chúng tôi đã trình bày trên diễn đàn. Nếu mọi việc đều có những tác nhân thuận lợi thì có thể đây sẽ là sự mở đầu cho việc tìm hiểu một nền văn minh toàn cầu đã bị hủy diệt - chủ nhân đích thực của thuyết Âm Dương Ngũ hành , mà dân tộc Việt còn lưu truyền một cách bí ẩn trong cuộc sống văn hóa truyền thống đến ngày nay.1 like
-
"Chớ nghẹn một miếng...mà bỏ bữa ăn... Chớ ngã một lần...mà chân không bước...." Vấn đề không phải dại hay không dại... Mà là...sống sao cho trọn hai chữ..."con người"... "Con" là nền tảng...là "bản năng"... "Người" là tinh hoa...là "lý trí"... Ô hô!... Xưa kia...nếu mẹ NN nghĩ "DẠI" như vậy Thì thế gian hiện giờ... Sẽ thiếu đi một kẻ...tôn thờ con rắn... Biết cắn là sẽ chết... Nhưng phải cắn... Vì con rắn không dám cắn... Không còn là rắn đúng nghĩa... Có chết đi... Cũng tự hào... Sống trọn kiếp...rắn... "Có vấp ngã mắt mới nhìn sáng suốt... Có đau thương lòng mới cứng rắn hơn... Có căng thẳng như một sợi dây đàn... Mới tạo được những âm thanh kì diệu..."1 like
-
Kính gửi anh chị em trong diễn đàn, suốt từ tối qua đến trưa nay Thiên Phủ đọc say mê những câu chuyện kỳ diệu và ngày càng tin vào Đức Phật thánh thiện bao dung Riêng Thiên Phủ có 1 câu chuyện tự mắt thấy tai nghe, tự niệm Hồng Danh A Di Đà Phật mà cứu được mạng sống người bị tai nạn giao thông Niệm Phật cứu người thoát chết Tối khuya, Thiên Phủ chở bạn gái về nhà xong thì không hiểu sau nấn ná ở lại, thường thì sẽ về ngay vì ba mẹ đang lo, trời khuya về trễ sẽ bị la. Đến khi ra đến ngã tư gần nhà cô bạn gái phát hiện ra có 1 vụ tai nạn xe máy vừa diễn ra ngay tức thì. Thấy từ xa nhiều người dân kéo lại, ngay lan can của tim đường có 1 người nằm sóng xoài, lòng đường còn 2 người khác. 2 chiếc xe máy thì đã nát be1t, cả 3 mũ bảo hiểm đều văng tứ tung. Vốn là dân học y, tôi ngay lập tức tấp xe vô lềva2 lại xem tình hình. Người đầu tiên có vẻ như đang hấp hối, mạch kô thấy đập, tay lạnh ngắt, thở ngáp cá, tay chân cứng ngắt, chứng tỏ đã tổn thương tuỷ sống. Tôi lập tức niệmNam Mô a Di Đà Phật, và Án Ma Ni Bát Di Hồng, thay phiên nhau như vậy và trong tâm trỗi lên 1 mong ước xin chư thần Phật cứu mạng sống của nạn nhân. Chưa đầy 15s sau, nạn nhân thở lại dễ dàng, tôi cảm thấy kinh ngạc, lập tức đến với 2 nạn nhân còn lại Người thứ 2 có vẻ khá hơn nên tôi lại đến người thứ 3. Ngay lập tức tôi lại thấy nạn nhân có tình trạng y chang người đầu, tôi lại càng niệm to hơn Hồng Danh ngài và câu thần chú Án Ma Ni Bát Di Hồng, còn cầu xin chư Phật hãy lấy công đức của con cứu mạng sống người này. Gần như ngay lập tức, anh ta thở dễ dàng hơn, lồn gngu75c phập phồng dễ dàng. Quả là kỳ diệu Sau đó, người dân ùa vào đông đúc, kỳ lạ, lúc đó đã gần 12h đêm, sao lại nhiều người như vậy. Đặc biệt họ rất cẩn thận trong việc bảo vệ tài sản, và cấp cứu cho nạn nhân. "Cất điện thoại, bóp cho nó" "Gọi điện cho người nhà nó đi"... Thậm chí tôi còn thấy 1 chị tầm 25-30 tuổi không sợ máu me, ôm chầm lấy 1 anh để kéo lên xe máy chở đi bệnh viện. Quả là kỳ diệu! Lúc đó tôi lập tức ngăn cản mọi người di chuyển nạn nhân vì lo sợ sẽ gây thêm chấn thương, tôi chạy đến bệnh viện cách đó 100 m để kêu xe cấp cứu. Khi tới nơi thì thấy người dân chở ngay 1 bệnh nhân vào viện rồi. Khi tới lại hiện trường thì thấy 2 nạn nhân kia cũng đang được di chuyện rất tích cực Tất cả xảy ra rất nhanh, chỉ trong vòng khoảng 5 phút mà thôi. Quả là kỳ lạ Tôi vốn không phải kô tin vào lòng nhân ái của người Việt Nam, nhưng ở đường phố gần 12h đêm, lại có nhiều người dân lương thiện, không ngại máu me, phụ nữ cũng như đàn ông ra sức vận chuyển nhanh chóng nạn nhân, lại còn bảo vệ tài sản của họ nữa, tôi mới thấy lần đầu ! Chưa kể sự kỳ diệu của việc tái sanh sau khi tôi niệm Phật và chú. Ngoài ra tôi cũng cảm thấy sự báo trước của Chư Phật giữ chân không cho tôi về sớm, nếu về sớm e là tôi không tránh khỏi tai nạn nguy hiểm đó, chỉ chênh nhau 1 chút thời gian mà thôi Chút chuyện kể ra không dám nguỵ tạo. Mong mọi người hãy tích cực niệm Phật , và cầu chúc những điều tốt đẹp cho mọi người chứ không chỉ riêng mình Thiên Phủ1 like