• Thông báo

    • Bá Kiến®

      Nội quy Lý Học Plaza

      Nội quy này là bản mở rộng Nội Quy - Quy định của Diễn đàn. Khi tham gia mua bán, các thành viên phải tuân theo những quy định sau: Tiêu đề bài viết: Bao gồm: Chỉ dẫn địa lý, Loại hình Mua/Bán, Thông tin mua bán.
      Chỉ dẫn địa lý: Tỉnh/thành nơi mua bán. Hoặc sử dụng định nghĩa có sẵn:TQ: Toàn quốc
      HCM: TP Hồ Chí Minh
      HN: Hà Nội
      [*]Ví dụ: HCM - Bán Vòng tay Hổ Phách ​Nội dung bài viết: Mô tả chi tiết sản phẩm mua/bán
      Bắt buộc phải có thông tin liên lạc, giá Mua/Bán
      Bài mới đăng chỉ được phép up sau 03 ngày.
      Thời gian up bài cho phép: 01 ngày 01 lần.
      Các hành vi vi phạm nội quy này sẽ bị xóa bài hoặc khóa tài khoản mà không cần báo trước.

Leaderboard


Popular Content

Showing most liked content on 28/12/2010 in all areas

  1. Nói cho dễ hiểu và ngắn gọn ,tử vi khác với các môn khác ở chổ tử vi pháp khi giải đoán thì dựa vào tính chất của 1 sao và những sao liên hệ đi chung ,vì mỗi sao đều có mang tính âm -dương và ngũ hành ,nếu luận bàn thêm thì trật đường rầy ,vì thế mỗi thầy mỗi toán theo ý mình bàn theo ngũ hành thì thiên biến vạn hóa ,mỗi thầy mỗi có ý riêng / Riêu-Đà-Kỵ được gọi là bộ tam án nhật nguyệt rất sợ khi đụng phải mấy sao nầy đang sáng thì trở nên tối thui...khôi-việt,xương- khúc mà gặp phải kỵ học hành dang dở thi cữ trầy trượt ,cố học cho nhiều cũng không thành danh / người VCD linh tinh độc thủ ,đắc địa nếu sanh hướng đông-nam và cư trú hướng trên mới phát đạt và ít bệnh tật tai nạn /quyền-kỵ là cách tranh danh đoạt lợi .
    4 likes
  2. Kẻ mạnh thường thắng kẻ yếu, và sự thôn tính lẫn nhau giữa các dân tộc, quốc gia vốn là một thực tế hiển nhiên trong lịch sử nhân loại, nhưng điều quan trọng có tính nguyên tắc là, mọi sự thật lịch sử cần phải được tôn trọng và giữ gìn một cách trung thực. Lịch sử đâu phải thích bẻ cong, uốn thẳng là được! Hồi đầu năm nay đã rộ lên sự kiện một nữ nghiên cứu sinh người Việt tại Mỹ tên là Đào Ngọc Bích viết bài cho BBC nói rằng Việt Nam là từ Trung Quốc mà ra(!) để rồi ngay sau đó bị đông đảo dư luận trong và ngoài nước "đánh" cho tả tơi, rơi rụng. Không chỉ vậy, chính cô cựu sinh viên Đại học Ngoại ngữ Hà Nội này, trong nỗ tự lực bào chữa cho mình, đã "đổ tại" quá trình đào tạo môn lịch sử khi cô còn ở Việt Nam. Mới đây dư luận lại được một phen bức xúc nữa khi một vị giáo sư người Trung Quốc tên là Vương Hàn Lĩnh cho rằng "kể từ năm 1885 về trước Việt Nam là thuộc quốc của Trung Quốc". Thực ra không phải chỉ một mình cô Bích hay ông Lĩnh mà còn khá đông đảo người Việt Nam và Trung Quốc đều chưa hiểu đúng về lịch sử của đất nước mình, đặc biệt là lịch sử liên quan đến mối quan hệ lâu đời của hai quốc gia dân tộc "núi liền núi, sông liền sông" này. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng hiểu biết lịch sử "lệch lạc" như vậy nhưng có một nguyên nhân sâu xa nằm ở những "góc khuất" trong sử sách khi nói về nguồn cội dân tộc của mỗi nước. Vẫn biết, kẻ mạnh thường thắng kẻ yếu, và sự thôn tính lẫn nhau giữa các dân tộc, quốc gia vốn là một thực tế hiển nhiên trong lịch sử nhân loại, nhưng điều quan trọng có tính nguyên tắc là, mọi sự thật lịch sử cần phải được tôn trọng và giữ gìn một cách trung thực. Với tinh thần đó, người viết bài này xin được nêu lên một vài điều suy nghĩ lâu nay để mọi người cùng suy ngẫm nhằm tìm ra một lời giải. Một là, về cội nguồn dân tộc, có thể nói không chỉ truyền thuyết mà cả sử sách (của cả Trung Quốc và Việt Nam) dù có nhiều điều chưa được làm sáng tỏ hoặc chưa thỏa đáng, cũng cho thấy rằng nước Việt Nam ngày nay là một thực thể thống nhất duy nhất còn lại của Bách Việt - một tên gọi chung cho nhiều tộc người Việt đã từng định cư hàng ngàn năm trước Công nguyên trên vùng lãnh thổ rộng lớn từ bờ Nam Sông Dương Tử xuống miền Bắc Việt Nam ngày nay, phía Tây giáp Tân Cương, phía Đông giáp biển Thái Bình Dương. Sử sách cũng cho thấy Người Hán "nam tiến" với thế mạnh của kỵ binh nhưng đã phải mất hàng ngàn năm (quãng giữa thiên niên kỷ thứ 2 trước CN đến đầu thiên niên kỷ thứ nhất sau CN) để xâm chiếm, chinh phục và đồng hóa hầu hết các bộ tộc hoặc vương quốc có tên tuổi của người Bách Việt (xem bản đồ minh họa*). Đó là một quá trình kéo dài với biết bao biến cố lịch sử phức tạp mà trong đó có nhiều sự kiện đã bị lãng quên hoặc bị xuyên tạc, thậm chí bị "tráo đổi" tùy theo mục đích của các triều đại phong kiến thống trị trong các thời kỳ khác nhau, đặc biệt là thời nhà Hán và nhà Đường. Tuy nhiên có một thực tại không thể bác bỏ là, riêng Lạc Việt mặc dù bị các triều đại phong kiến Hán Hoa thay nhau thống trị từ năm 179 TCN đến 905 nhưng vẫn tồn tại và phát triển với tư cách một quốc gia dân tộc độc lập như ngày nay. Sử sách thường gọi đó là "thời kỳ 1.000 năm Bắc thuộc" mặc dù đã có rất nhiều cuộc khởi nghĩa lớn nhỏ của người Việt liên tục nỗ ra trong suốt quá trình đó. Có thể nói, đó là quá trình lịch sử tang thương của Bách Việt nói chung, nhưng cũng là trang sử hào hùng đối với dân tộc Việt Nam nói riêng. Sự tồn tại và phát triển của Việt Nam không phải là trường hợp ngẫu nhiên mà là kết cục của cả quá trình đấu tranh sinh tồn của người Bách Việt nói chung mà các thế hệ người Việt Nam nói riêng và cội nguồn Bách Việt nói chung không bao giờ được phép lãng quên. Theo truyền thuyết thì nguồn gốc tổ tiên của Việt Nam bắt nguồn từ Hồ Động Đình (tỉnh Hồ Nam, Trung Quốc ngày nay) bắt đầu bằng Thời đại Hồng Bàng của Kinh Dương Vương (có sách ghi cụ thể năm 2789 TCN). Thuyết này trùng khớp với các câu chuyện cổ tích về Âu Cơ-Lạc Long Quân, các Vua Hùng, mối tình Mỵ Châu-Trọng Thủy và chiếc nỏ thần v.v... Câu dân ca Việt cổ "Công cha như núi Thái Sơn (gần Hồ Động Đình), nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra..." cũng là một sự trùng hợp. Truyền thuyết này cũng được kiểm chứng bằng một số kết quả nghiên cứu quả khảo cổ, nhân chủng và ngôn ngữ, qua các di chỉ đồ đá, trống đồng, nghề trồng lúa nước và những khác biệt gen di tuyền v.v... Kết hợp cả truyền thuyết và cổ sử ta có thể nhận thấy trong suốt quá trình "Nam tiến" và "Đông tiến" của Hán tộc, các tộc người Bách Việt như Ngô Việt, Âu Việt, Dương Việt, Đông Việt, Nam Việt, Man Việt, Di Việt v.v.... đều không thoát khỏi bị thôn tính và đồng hóa...., để cuối cùng đều biến thành "người Hoa" hiện đại. Nhưng riêng Lạc Việt vẫn tồn tại, có thời kỳ bao gồm cả vùng đất Quảng Tây, Quảng Đông và Bắc Bộ ngày nay. Theo dòng lịch sử, ta còn thấy một thực tế là đã từng có rất nhiều người gốc Bách Việt tham gia vào bộ máy đô hộ của phong kiến Trung Hoa trong các thời kỳ khác nhau nhưng đã chọn Lạc Việt (sau là Chân Lạp, Giao Chỉ...) làm "hậu cứ" để chống lại Vương triều trung ương (như Hồ Quý Ly, Lý Bôn, Lý Bí chẳng hạn); rất nhiều người trong số họ thực sự đã tái hòa nhập vào cộng đồng Việt Nam.Cũng đã từng diễn ra những đợt rời bỏ quê hương của người Hoa gốc Bách Việt thuộc nhiều thế hệ trước đến định cư tại Việt Nam và các nước Đông Nam Á. Sử cận đại Trung Quốc cũng cho thấy, cho mãi đến những năm 1940 danh từ "dân tộc Việt" mới bị Tôn Trung Sơn chủ trương xóa bỏ trong bản đồ dân số Trung Quốc. Cho đến này nay để ý thấy ít nhiều vẫn còn những tình cảm kỳ thị giữa các cộng đồng gốc gác Bách Việt tại Trung Quốc với người "từ phương Bắc". Bản thân người viết bài này hồi nhỏ đã có dịp học tập tại Quảng Tây nới có gần 20 triệu người dân tộc Choang (còn gọi là Tráng) vốn là họ hàng của tộc Việt, mới đây trong chuyến du lịch mấy tĩnh phía Nam Trung Quốc đã được dịp "kiểm nghiệm"điều này qua chuyện trò với một số người bản địa. Tin tức cũng cho thấy người Đài Loan gần đây đã viện dẫn đến yếu tố "người bản địa" Man Việt trong cuộc đấu tranh bảo vệ sự tồn tại độc lập với Đại lục. Nhiều thông tin, dữ liệu của các nhà nghiên cứu Bách Việt học quốc tế cũng đáng được xem xét để góp phần làm sáng tỏ hơn về nguồn gốc dân tộc và nhân văn của của Việt Nam và khu vực Đông Á và Đông Nam Á nói chung. Thiết nghĩ, những sử liệu và sự kiện trên đây ít nhiều tự chúng đã nói lên những sự thật khách quan xung quanh những "góc khuất" trong cổ sử và chính sử liên quan đến cội nguồn dân tộc và quan hệ giữa hai nước Việt-Trung. Khách quan mà nói đó là hướng đi tích cực cho mục đích xây dựng mối quan hệ hữu nghị bình đẳng lâu dài giữa hai nước và trong khu vực nói chung. Hai là, về nhân văn, tuy chỉ dựa vào các nguồn sử sách cổ để lại từ thời "1.000 năm Bắc thuộc", ta cũng có thể thấy Việt Nam là kết tinh, là đại diện của Bách Việt. Về góc độ văn hoá, kể cả phong tục tập quán, ngôn ngữ, Việt Nam và Trung Quốc ngày nay có rất nhiều điểm tương đồng, đồng thời cũng có rất nhiều điểm khác biệt. Đặc điểm này nếu được hiểu và vận dụng một cách đúng đắn sẽ có tác dụng tích cực cho việc phát triển quan hệ hợp tác hữu nghị và bình đẳng giữa hai nước, chứ không có gì là không tốt như một số người có thể nghĩ. Tuy nhiên trên thực tế không được như vậy vì có quá nhiều sự thật đã bị xuyên tạc, có những giá trị đã bị "tráo đổi" trong suốt quá trình lịch sử hàng ngàn năm qua mà trong đó phần lợi bao giờ cũng nghiêng về phía kẻ mạnh. Xin đơn cử vài ví dụ: Thế giới lâu nay vẫn tin rằng Kinh Dịch là của người Trung Quốc. Nhưng thực ra gần đây các chứng cứ khảo cổ quốc tế đã cho thấy trống đồng không phải của người Hán mà là của các dân tộc phương Nam. Kết luận này cho phép các nhà nghiên cứu suy ra rằng những hình khắc biểu tượng Kinh Dịch trên trống cũng không phải của người Hán; và do đó chủ nhân của Kinh Dịch chính là người Bách Việt, cụ thể hơn là của người Âu Việt và Lạc Việt. Về ngôn ngữ, đã từ lâu người Việt Nam an phận đón nhận chũ Nho (tốt đẹp) của người Hán (còn gọi là Hán Nôm). Nhưng có một số luận điểm khác cho rằng người Hán trong quá trình xâm lược đã sử dụng ngôn ngữ của người Bách Việt, cụ thể là của Ngô Việt (tại vùng Việt Châu, tỉnh Chiết Giang và Phúc Kiến ngày nay) để cải tiến thành chữ Hán, rồi thành tiếng Trung hiện đại. Lập luận này dựa trên cơ sở nghiên cứu về ngữ nghĩa, âm thanh, ngữ pháp v.v... cho thấy một tỷ lệ rất cao các nhân tố ngôn ngữ Bách Việt trong tiếng Hán cỗ và tiếng Trung ngày nay. Đó là hiện tượng các danh từ nhưng có tính từ được xếp sau danh từ được thấy phổ biến trong Kinh Thi và ngay ở tên gọi các vị Thần Nông, Đế Nghiêu, Đế Thuấn vốn được coi là truyền thuyết Trung Quốc ; từ "Việt" hiển thị với tầng số rất cao trong các tên địa danh ở miền Nam Trung Quốc; từ "giang" (sông) của tiếng Việt cổ được sử dụng cho hầu hết các con sông miền Nam Trung Quốc (trong khi ở miền Bắc gọi là "hà"); tuồng Kinh kịch ở phía Nam Trung Quốc ngày nay vẫn còn gọi là "Việt kich", v.v... Thuyết này đồng thời cũng đặt ra mối nghi vấn rằng di chỉ thẻ tre có khắc chữ Hán cổ là "giả mạo" vì vào thời đó người Hán chưa có mặt ở miền đất phía Nam nơi có cây tre đủ to để làm thẻ viết. Tương tự cũng có sự "nhập nhằng" về chủ thể của "con đường tơ lụa" vì đúng ra người Bách Việt mới có thể là chủ thể của sản vật tơ lụa làm từ cây dâu tằm chỉ có ở vùng đất phương Nam. Rất nhiều luận điểm và luận cứ tượng tự cũng đã được nhiều học giả Việt Nam và quốc tế nêu ra. Tóm lại, dù bị người Hán cố tình đồng hóa bằng rất nhiểu thủ đoạn tinh vi và cường bạo như đốt sách, bắt từ bỏ, xóa bỏ hoặc tráo đổi v.v..., nhưng các dấu tích Bách Việt vẫn còn đó cho đến ngày nay. Trong suốt quá trình đấu tranh sinh tồn khốc liệt bên thua trận ắt chịu nhiều mất mát, nhưng những gì là bản sắc riêng vẫn còn đó; và điều này có thể nhận thấy qua nhiều nét tương đồng giữa Việt Nam với các tỉnh phía Nam và Đông Nam Trung Quốc ngày nay cũng như với các nước Đông Nam Á. Ba là, công tác nghiên cứu và giáo dục về lịch sử cần đi sâu hơn nữa về nguồn gốc dân tộc cùng các giá trị nhân văn trên tinh thần khách quan, dựa trên chứng cứ khoa học biện chứng lịch sử, khảo cổ, nhân chủng... (chứ không chỉ dựa vào sử sách củ để lại từ thời Bắc thuộc). Thiết nghĩ, trong việc này những kiến thức xác thực về Bách Việt sẽ giúp giải mã rất nhiều điều mà lâu nay chưa cảm thấy thỏa đáng hoặc chỉ là "ngộ nhận". Công tác sử học cũng cần tập trung nghiên cứu và bổ cứu lại toàn diện, đặc biệt về lĩnh vực nguồn gốc dân tộc và nhân văn của người Việt nhằm làm sáng tỏ những kiến thức mang tính truyền thuyết kết hợp với những chứng cứ lịch sử dựa trên cơ sở các kết quả nghiên cứu khảo cổ và gen di truyền v.v... Khi có đủ dữ liệu thì công khai chỉnh sửa những mọi sự sai lệnh hoặc bị xuyên tạc hoặc bị giả mạo trong sách sử cũ dưới bất cứ hinh thức nào, của bất cứ thời đại nào. Lý do là vì toàn bộ sách sử cổ của Việt Nam đều đã bị đốt và thủ tiêu trong các thời kỳ "10000 năm Bắc thuộc"; các sách sử hiện có, kể cả Đại Việt sử ký, đều là sử "chép lại" dựa chủ yếu vào các nguồn sử của các thời Hán, Đường và "hậu Hán Đường" nên không thể đảm bảo tính chính xác, trung thực và đầy đủ được; thật nguy hại nếu đã có những sự thật đã bị xuyên tạc, thậm chí đã bị tráo đổi trong đó. Mặc khác, cũng cần thừa nhận những khiếm khuyết trong khâu giáo dục công dân về lịch sử trong thời gian qua ở nước ta với những hậu quả "nhãn tiền" như đã được nhiều lần cảnh báo trước công luận. Thật nguy hại nếu mọi công dân đều hiểu biết sơ sài, thậm chí hiểu sai lệch về lịch sử của đất nước mình. Ví dụ khi nói mình "con rồng cháu tiên" nhưng trong lòng phân vân không biết có đúng thật không vì thấy ở Trung Quốc người ta cũng nói như vậy; không biết tại sao người Việt có các họ giống như người Trung Quốc, không biết chắc nên thiếu tự tin rằng trống đồng là bảo bối của dân tộc Việt Nam; không dám đòi quyền chủ thể của Kinh Dịch, v.v... Tương tự, trong lĩnh vực ngôn ngữ, sao ta không đặt mạnh vấn đề nghiên cứu xem tiếng Việt có chữ viết cổ? Lẽ nào ta dân tộc ta chỉ có chữ Hán Nôm? Có lẽ vì không biết mình là ai, nên đến ngày nay vẫn lúng túng không biết nên bảo tồn cái gì, thay thế, xoá bỏ cái gì để thực hiện "trong sáng tiếng Việt"?.Thậm chí có người cứ "vô tư" nhận mình là "con cháu" của người Trung Quốc (trong khi phía bên kia không nghĩ như vậy). Cũng cần xem xét lại một số khái niệm và quan niệm như cho rằng văn hóa Việt "bị ảnh hưởng" của văn hóa Trung Quốc là không hoàn toàn chính xác (mà thực chất đó chỉ là một sự giao thoa và ảnh hưởng qua lại); cách hiểu về nguồn gốc đạo Phật, Đạo Khổng, về Chữ Nho và Nho Giáo cũng có nhiều điều phải bàn thêm, v.v... Chỉ khi nào hiểu đúng về nguồn gốc dân tộc và tự tin với những giá trị nhân văn riêng, người Việt Nam ngày nay mới thực sự tìm lại chính mình và thoát khỏi nỗi mặc cảm truyền kiếp luôn thấy yếu kém và phụ thuộc các thế lực bên ngoài. Thay cho lời kết Những lập luận trên đây chỉ là ý kiến cá nhân của người viết để nhắc lại rằng dân tộc Việt Nam có cội nguồn lâu đời với những giá trị nhân văn không thua kém các dân tộc khác. Đó là một lịch sử cần được tôn trọng bằng các chứng cứ khoa học khách quan chứ không chỉ bằng truyền thuyết; ngay cả sử sách cũng phải được kiểm chứng lại bằng các kết quả nghiên cứu khoa học nghiêm túc. Theo hướng đó, bài viết chỉ nêu lên một thực trạng tình hình đồng thời gợi ra một số việc cần làm thêm (chứ không nhằm phê phán ai hoặc nước nào) với hy vọng góp phần đem lại sự hiểu biết đúng đắn hơn về lịch sử và cội nguồn dân tộc của Việt Nam cũng như các bên liên quan khác trong khu vực, coi đó là cơ sở để đảm bảo mối quan hệ hữu nghị, bình đẳng lâu dài giữa Việt Nam và Trung Quốc cũng như giữa các nước khu vực với nhau./. Tác giả: Trần Kinh Nghị ======================================= Tài liệu tham khảo - Mục Bách Việt trong Bách khoa toàn thư mở -Wikipedia, và rất nhiều tài liệu khác nhau được liên kết trong tài liệu này. - Đại Việt Sử Ký Toàn Thư - Sử Trung Quốc, Nguyễn Hiến Lê - Việt Nam Sử Lược, Trần Trọng Kim - Bộ sách giáo khoa môn sử học phổ thông của Nhà XB Giáo Dục Việt Nam. - Công trình nghiên cứu nguồn gốc chủng tộc dựa vào gen di truyền (DNA) của M. Liu thuộc Mackay Memorial hospital và được Viện Nghiên Cứu Sức Khoẻ quốc gia của Đài Loan tài trợ chứng minh là các giống dân miền Hoa Nam, Việt Nam, Thái Lan, Mã Lai, Nam Dương có liên hệ gen di truyền khác biệt với chủng tộc Hán ở miền bắc. -* Sử dụng lại bản đồ của Nhóm nghiên cứu về Bách việt trên mạng internet- Nguồn: nhatnguyen.yolasite.com Chú ý: những tên nước trong bản đồ này chỉ mang tính chất tượng trưng; trên thực tế chúng được thay đổi hoặc biến mất trong các thời kỳ lịch sữ khác nhau. ======================================= Nguồn : VietNamNet.VN
    2 likes
  3. Chồng mặt đầy đặn da trắng hồng hào mắt lộ lông mài thưa ,cằm thì không được vuông có thể là con trưởng hay đaọt trưởng , là hàn sĩ hay ngạo mạn như Cao Bá Quát .
    2 likes
  4. DẪN NHẬP Lời Tựa 1 性 命 圭 旨 序 Ta từ lúc trẻ đã mộ đạo, và đã biết rằng trong nước có bộ TÍNH MỆNH KHUÊ CHỈ. Nghe biết từ lâu, nhưng không biết nội dung sách đó ra sao. Mãi đến cuối mùa Xuân năm Canh Tuất (1670), mới được hai anh Dư Nhàn và Nhược Tế trao tặng cho quyển sách này. Lúc rảnh đem ra đọc mới nghi là các cao đệ của Doãn Chân Nhân đã viết. Nếu chẳng vậy làm sao biết được xuất xứ của sách. Trước đây, người ta thường lấy hai tập Trung Hoà và Kim Đơn để luận về cách tu luyện của các bậc Chân Tiên. Còn các sách bàn về Huyền Tông thì tuy chất đầy nhà, nhưng chưa thấy có quyển nào hay bằng quyển Tính Mệnh Khuê Chỉ. Nó chỉ cho ta thứ tự của công phu tu luyện, cùng tinh nghĩa diệu lýù, sáng tỏ như ánh mặt trời. Những gì tối tăm, khó hiểu của Đơn Đạo đều được giảng giải, phơi bày ra trước mắt. Sách này cùng với sách Long Hổ, Chu Dịch Tham Đồng Khế, Ngộ Chân Thiên cũng giống nhau. Thật đáng quí. Học giả nếu quán thông được Tính Mệnh Khuê Chỉ sẽ có thể Siêu Phàm Nhập Thánh, trở thành Thiên Nhân Sư, có thể từ Sắc Thân mà chứng Pháp Thân, từ Sanh Sanh mà đạt Vô Sanh. Tuy nhiên, biết được mà tu thì là Thánh Nhân, biết mà không tu thì là Phàm Nhân. Đó là dụng ý của hai huynh Dư Nhàn và Nhược Tế. Hai huynh ngày đêm lo lắng, quyết đem áo diệu, chân đế của sách, in ra cho thiên hạ biết. Sách này bao gồm hết yếu lý trong thiên hạ. Mong sách này sẽ diệt trừ được bàng môn tả đạo. Hai huynh nhờ tôi đề tựa sách này. Nên tôi viết ít lời để đáp ứng lại. Tháng 3, Khang Hi năm thứ 9 (1670), nơi am Thượng Chương, Tử Trung Lý đề tựa. Lời Tựa 2 性 命 圭 旨 序 Tính Mệnh Khuê Chỉ không có tác giả. Tương truyền là của Doãn Chân Nhân cao đệ. Xưa nay rất là hiếm thấy. Ân Duy Nhất có được một bản giữ đã mấy năm. Tào Nhược Tế thấy sách này, yêu thích không lìa tay, đem cho Châu Dư Nhàn xem, thảy đều hân hoan, thưởng thức. Sách này được in khắc ra là do công lao của Tiền Vũ Chấn. Khi đã in xong, nhờ ta đề tựa. Với ta trình độ hiểu Đạo chưa đến nơi, đến chốn, làm sao dám đề lời. Tuy nhiên ta cũng có điều muốn nói. Xưa nay, Nho Thích, Đạo ở thế chân vạc, đối lập lẫn nhau, công kích lẫn nhau, chỉ duy sách này là đề cao diệu Lý của Đạo gia, lại còn đem tinh ngôn, áo nghĩa của Nho, của Phật, nói rõ gót đầu, lấy Trung Hòa, Hỗn Nhất mà đem dung thông, hòa hợp, chỉ rõ lýù: Tận tính, chí mệnh. Chỉ rõ chỗ Đồng qui nhi thù đồ của Tam Giáo. Lấy 5000 chữ Đạo Đức Kinh giải Đại đạo, rất là tinh mật, lại lấy Chu Dịch (Nho), lấy Tứ Thập Nhị Chương Kinh (Phật) mà giải, tất cả đều quán thông diệu lýù, như là xỏ chuỗi ngọc châu. Xét về Đạo Giáo, nay có 96 thứ ngoại đạo, có 3600 bàng môn. Kẻ thích tiền thì bàn về thuật Luyện Kim, người ham sắc thì nói về bí quyết phòng the. Thật là tục tằn bỉ ổi, khó nói nên lời. Họ bàn về phép Đạo Dẫn (Dẫn Khí trong người) như: Hùng Kinh (gấu leo cây), Điểu thân (Chim xoè cánh) để dẫn khí, điều tức, hoặc Rồng ngâm, Cọp rống. Tất cả chỉ nói chuyện xác thân, hình tướng mà không biết gì về tu luyện bản thể. Gần đây có vị phương sĩ dạy người Phục Khí, niệm quyết để khai thông Đốc Mạch trong khoảnh khắc, thoạt cười, thoạt khóc, tứ chi múa máy, dao động, trông rất dễ sợ, như kẻ điên cuồng, thế mà họ khoe khoang là Thần Thuật. Thật đáng thương thay. Sách này muốn quét sạch mọi điều phiền tạp, chủ yếu là dạy: Chí Hư Thủ Tĩnh, Hấp Thụ Tiên Thiên. Chỗ cao nhất là bàn về Chân Ý. Trong con người CHÂN Ý là CHÂN THỔ. Động cực thì Tĩnh. Ý mà Tĩnh thuộc Chân Âm. Gọi là KỶ THỔ. Tĩnh cực thời động. Ý mà động thuộc Chân Dương. Gọi là MẬU THỔ. Luyện KỶ THỔ (chỉ Nguyên Thần) thì sẽ được khí Hống trong quẻ LY. Luyện MẬU THỔ (chỉ Nguyên Khí) sẽ được khí Diên trong quẻ KHẢM. Diên Hống qui tụ Đan Điền thì Kim Đơn kết. Khi đó con người sẽ được trường sinh. MẬU KỶ như vậy gồm hai chữ Thổ. Do đó đặt tên sách là Khuê Chỉ. Chữ Khuê 圭 gồm hai chữ THỔ 土 . Sách này ý nghĩa thâm sâu. Sánh với Huỳnh Đình Kinh như là hai mặt trong ngoài. Chu Tử đã tu sửa sách này và làm sáng tỏ nghĩa lý ra, công lao thật là lớn lao. Ân, Tào hai vị đều tinh thông y thuật dưỡng sinh. Còn ta chỉ là kẻ nhiều lời. Trang Tử nói: “Kẻ biết Đạo thì không nói, kẻ nói thì không biết Đạo.” (Tri đạo giả bất ngôn, ngôn giả bất tri Đạo). Tháng Đầu mùa Hạ, Khang Hi bát niên, năm Kỷ Dậu (1669) nơi nhà họ Ngô, Vưu Đồng cẩn tự. KHẮC TÍNH MỆNH KHUÊ CHỈ DUYÊN KHỞI 刻 性 命 圭 旨 緣 起 Ngô Tư Minh, người đồng hương với tôi, được quan Đường Thái Sử ởû Tân An, trao cho quyển Tính Mệnh Khuê Chỉ, do cao đệ của Doãn Chân Nhân trước thuật. Họ Ngô giữ sách nhiều năm, một hôm đưa cho Cư Sĩ Châu Nguyên Phiêu đọc. Cư sĩ quí nó không rời tay, và cho rằng thứ tự công phu của sách, thật là cao siêu huyền diệu, có thể nói là thượng thừa. Đến như hình vẽ và lập luận, thì có thể xưng là Huyền Môn Bí Điển. Nhân đó đem sách công bố cho thiên hạ và nhờ tôi đề tựa. Tôi xưa nay tu theo Phật giáo, đã lâu không bàn về Đạo giáo, vì lẽ Đạo giáo toàn bàn về Sắc Thân. Sắc thân thì có giới hạn, còn Phật Pháp thì vô biên. Người tu hành Phật môn, lấy Phật Pháp làm thân, làm sao có thể bàn về Tính Mệnh với các Đan sĩ được. Bỏ Phật Pháp thời không có Tính Mệnh, cũng không có Thân Tâm nữa. Phật Pháp mà tu hành đến chỗ viên mãn, thời kế thừa được Pháp Thân. Huyền Giáo gọi thân là Thất Xích, gọi Tâm là Không Xoang, như vậy vẫn là Thực Hữu chi vật, chứ chưa phải là cái Không Vô của Phật Giáo. Tu trì như thế bất quá là thoát vòng duyên nghiệp chứ không thể vào được Phật Gia cảnh giới. Thầy tôi nói: Tu hành có hai cách: Một là: Từ Pháp giới qui nhiếp Sắc Thân. Hai là: Do Sắc thân siêu xuất Pháp Giới. Hoa Nghiêm dạy dùng Pháp Giới thu nhiếp sắc thân. Lăng Già Kinh dạy cách cho Sắc Thân siêu xuất Pháp giới. Tính Mệnh Khuê Chỉ cơ bản dạy người từ Sắc Thân siêu xuất Pháp giới. Nếu thực sự dạy được người Xuất Thoát được cõi hiện tượng này, lên được cõi Hư Đãng, Không Vô, thì cần gì mà bàn tới Thân Tâm nữa? Đó chính là dùng tay chỉ trăng, được Đạo quên lới. Quan trọng là người tu phải biết Khế hợp với Diệu Đạo. Châu Cư Sĩ theo Huyền Môn lại nhờ tôi đề tựa, chứng tỏ giao tình của Ông đối với tôi. Đến như Ông Ngô Tư Minh là người chân thành khẩn khẩn, từ bao nhiêu năm đã giữ gìn quyển sách, tôi cũng chẳng dám phụ lòng. Tôi kể đầu đuôi duyên khởi để trình bày cùng người hữu đạo. Giữa mùa Hạ, năm Ất Mão, đời Vua Vạn Lịch nhà Minh (1615) Tân An, Chấn sơ Tí, ta Vĩnh Ninh Thường Cát đề. Đề Doãn Chân Nhân TÍNH MỆNH KHUÊ CHỈ toàn thư 題 尹 真 人 性 命 圭 旨 全 書 Sách này do cao đệ của Doãn Chân Nhân viết ra. Chép lại và quảng diễn ý thầy. Trong đó trong đó có nhiều hình vẽ dạy thứ tự công phu tu luyện, có thể nói là tường tận. Đơn Kinh của Huyền Gia ngày nay đầy rẫy, nhưng mà trực tiếp nói lên được vi diệu của Đạo thời duy có sách này. Người Tu Chân dùng sách này mà thông đạt được Đại Đạo, thì tốt biết bao. Bạn tôi Dư Thường Cát, là một minh sư tông tôn. Đối với Huyền Giáo không mấy coi trọng. Vì cho rằng Huyền Giáo chỉ trọng Thân Mình, nghĩa là muốn trường sinh vẫn không lìa được thân mình. Thế là chưa lìa được Hình Tướng. Mà cảnh giới tối cao của Phật Giáo là siêu xuất Hình Tướng để đạt cảnh giới Hư Không. Ông đích xác nói thế. Đối với sách này Ông thành khẩn nói lên điều đó. Tuy nhiên Ông nhận rằng con người có thể vào được cõi Phật Gia Thánh Giới. Nếu không chẳng lẽ người xưa nói vô căn cứ hay sao. Đạo giáo cho rằng: Có biết trường sinh mới hiểu được Luân Hồi, có biết Luân Hồi mới hiểu được Vô Sinh. (Đạo giáo gọi cách tu luyện và thứ tự tu luyện như vậy là Thuận Tu, nghĩa là từ Hữu nhập Vô, từ Thực tới Hư). Cách tu luyện như vậy có gì không đúng đâu? Thiên hạ vạn vật Thù đồ đồng qui, thiên hạ vạn sự Bách lự nhất trí. Mục đích là một, nhưng thủ đoạn dùng có thể thiên sai vạn biệt. Đạo (tức chân lý) chỉ có thể có một. Cao Hoàng luận về Tam Giáo, có viết: Thiên hạ vô nhị Đạo, Thánh Nhân vô nhị tâm 天下 無 二 道 聖 人 無 二 心 . Thật là vĩ đại. Thế là toàn bộ Đạo Lý, tinh hoa vi diệu đã nói ra hết. Ai là con Trời thì phải nhất tâm, nhất ý thuận theo Thiên Đạo, không được bao giờ sai. Than ôi, con người luân lạc trong vòng sinh tử, nên coi thường Thiên Mệnh Nguyên Tính. Đọc được sách này như tiếng chuông cảnh tỉnh rất ích lợi cho thân tâm. Sách này lưu thông, Doãn Chân Nhân sư đệ ở dưới cửu tuyền có thể niệm tụng và tán thán. Nhân Văn chủ nhân, Châu Nguyên Phiêu đề.
    1 like
  5. Khai Tốc Hỷ. ========================================== Thứ Ba, 28/12/2010 | 07:03 Tiền nóng đang vào chứng khoán Hiện vốn ngoại đang vào kênh chứng khoán trung bình một tháng khoảng 700 triệu USD. Nhiều dự báo lãi suất sẽ hạ nhiệt từ quý I-2011 và đây là tin tốt cho chứng khoán. Trái với dự đoán của nhiều nhà đầu tư khi họ có cảm giác chán nản thì kênh chứng khoán đột ngột bừng tỉnh. Thị trường vốn những ngày cuối năm 2010 đang hồi sinh khi nhiều phiên giao dịch tiền đổ vào hai sàn trên 3.000 tỉ đồng và khối lượng giao dịch tăng đột biến. Sóng ngoại Tính trung bình từ ngày 15-12 đến nay, chỉ số thị trường sàn TP.HCM luôn dao động quanh mốc 470 điểm trở lên còn khối lượng giao dịch mỗi ngày trên 50 triệu chứng khoán và dòng tiền đổ vào luôn trên 1.000 tỉ đồng. Đây là các con số khô khan của sàn HOSE nhưng về mặt giao dịch, nó cho thấy tiền đang đổ vào kênh chứng khoán và giao dịch thị trường có thanh khoản khá tốt. Xét về dòng tiền vào thị trường, các chuyên gia chứng khoán cùng chung nhận định đó là dòng vốn gián tiếp của nhà đầu tư nước ngoài. Theo dõi thống kê của khối ngoại ở hai sàn mấy tuần gần đây cũng cho thấy như vậy khi họ liên tục mua vào hơn là bán ra cổ phiếu. Trong hội thảo nhận định về xu hướng thị trường chứng khoán năm 2011 mới đây, ông Lê Xuân Nghĩa, Phó Chủ tịch Ủy ban Giám sát Tài chính Quốc gia, cũng khẳng định dòng vốn ngoại đang vào Việt Nam dồi dào. “Theo tôi biết thì hiện nay mỗi tháng dòng vốn nước ngoài vào thị trường vốn khoảng 700 triệu USD, con số này tương đương với việc tăng 10 điểm ở kênh chứng khoán” - ông Nghĩa nói. Nhận định về dòng vốn mới đang làm sôi động kênh chứng khoán, ông Nguyễn Ngọc Trường Chinh, Tổng Giám đốc Công ty Chứng khoán Sen Vàng, cho biết đó là dòng tiền gián tiếp của khối ngoại. Nhưng theo ông Chinh, dòng tiền này đang vào còn khá chậm vì trước đó ở các thị trường chứng khoán châu Á đã hấp thu vốn ngoại khá mạnh, còn kênh chứng khoán Việt Nam thì không. Một số công ty chứng khoán thì nhận định thị trường tăng điểm vừa qua do có nhiều nhà đầu tư thấy được sóng tăng trong ngắn hạn. Vì thông lệ một khi lãi suất tăng ở đỉnh thì lúc đó chứng khoán giá đang ở đáy. Vừa qua, lãi suất huy động tăng lên 17%/năm rồi sau đó đồng thuận lùi về mức 14%/năm là một ví dụ. Bên cạnh đó, nhiều tín hiệu từ các cấp quản lý cho thấy lãi suất trong quý I-2011 có chiều hướng giảm nên đây cũng là thông tin tốt cho chứng khoán ở quan điểm đầu tư trung hạn.
    1 like
  6. Năm tới coi cừng bị người lường gạt ,mất việc ,kẻ tiểu nhân hại ... nhưng sau đó nhờ được người khác mà tìm công việc khác tốt hơn ,hạn xấu có thể xảy vào những tháng gần cuối của năm /lời khuyên số nầy tốt nhất nên ly tổ càng xa xứ càng tốt ,mới giãm được nhiều điều xấu và tăng tuổi thọ ,ăn nói nên cẩn ngôn hay bị tai bay vạ gởi cũng vì cái nghiệp khẩu mà ra.
    1 like
  7. Tranh dân gian Hàng Trống 149 bức tranh thuộc dòng tranh cổ quý giá của Hà Nội, thu thập trong vòng 10 năm, được nhà sưu tầm Phạm Đức Sĩ trưng bày tại Trung tâm nghệ thuật Việt, Hà Nội từ 9/9/2010 đến ngày 13/9/2010.. Cảm thấy bất an trước sự tàn lụi của một dòng tranh truyền thống Hà Nội, của nền tảng tinh thần Hà Nội ngày trước, nhiều nhà sưu tập đã âm thầm đi lùng lại những bộ tranh Hàng Trống quý giá. Phạm Đức Sĩ là một trong số đó. Từ năm 2001, anh cất công tìm lại dòng tranh niên họa Hàng Trống phục vụ nhu cầu trang trí, chúc lành chúc phúc năm mới hoặc đốt thờ cúng cho người âm, làm bùa “trấn trạch” trong nhà của người thị thành. Bức "Lý thu vọng nguyệt". Trong bộ sưu tập của Phạm Đức Sĩ, có hàng chục bộ tranh trang trí vẽ theo các tích truyện (Chiến quốc; Tam quốc; Hán Sở tranh hùng), tranh thờ Đạo giáo của người thiểu số đặt hàng thợ Hàng Trống chế tác (Tam Thanh - Tày Nùng; Hành say - Dao Tiền). Ngoài ra còn rất nhiều tranh lẻ vẽ các ông Hoàng bà Mẫu để phục vụ tín ngưỡng đạo Mẫu (Ông Hoàng cưỡi cá; Ông Hoàng cưỡi lốt; Bà Chúa thượng ngàn; Bà Chúa thượng thiên…), tranh “trấn trạch” dán ở cửa và trong nhà để trừ tà ma. Và rất quý giá là những bức tranh Hàng Trống như nhật ký thời gian ghi lại cuộc sống của Hà Nội nửa đầu thế kỷ XX (Hội Tây; Duyệt binh). Tuy nhiên, trong dịp này, Phạm Đức Sĩ chỉ trưng bày một phần trong số tranh sưu tập, gồm 22 bộ tranh (83 bức) và 66 bức tranh lẻ. Bộ tranh được trưng bày phần nào làm người xem hình dung ra một nền đồ họa Hàng Trống từng rất phong phú đa dạng. Bức "Nam tào". Nhà nghiên cứu mỹ thuật Phan Ngọc Khuê nhận xét, giá trị của tranh dân gian Hàng Trống được thể hiện trong nhiều tác phẩm, khó có thể bình luận được. “Chúng ta nên hiểu được ý nghĩa tượng trưng, huyền thoại, giáo lý giấu sau những hình hài cụ thể, phải tìm được cơ sở con người trong triết học, tôn giáo và tâm lý qua dòng tranh này”, ông nói. Phạm Đức Sĩ sinh năm 1967, là chủ xưởng mộc đóng khung tranh có tiếng gần Đại học Mỹ thuật Hà Nội. Khoảng từ năm 1999, anh bắt đầu sưu tập đồ gốm cổ, đến năm 2001, bắt đầu chuyển sang sưu tập tranh. Đến nay, anh đã có một số bộ sưu tập giá trị, bao gồm gốm Đông Sơn, gốm Hán; tranh cổ động trong thời kỳ chiến tranh; tranh thờ cúng Đạo giáo - Phật giáo của một số dân tộc Việt Nam, tranh Hàng Trống. Ảnh: Phạm Đức Sĩ Hòa Ca vietnamplus.vn
    1 like
  8. Đám "hầu hết những nhà khoa học trong nước"(*) còn dương dương tự đắc với kiến thức khoa học cho rằng việc phủ nhận truyền thông văn hóa sử Việt là tri thức nhân danh khoa học của họ đấy. Bây giờ tôi vẫn còn chờ một cuộc hội thảo "Tìm về cội nguồn dân tộc" do Hội Sử Học Việt Nam phối hợp với Hội DNA và TT Nghiên cứu Lý học Đông phương tổ chức. ============================= * Nguyên văn của tác giả: Nguyễn Anh Hùng, đăng trên tạp chỉ Kiến Thức Ngày nay. Đã trích dẫn trong "Thời Hùng Vương qua truyền thuyết và huyền thoại".
    1 like
  9. 1 like
  10. 1 like
  11. Chứng khoán khủng hoảng, VIP đua nhau mua cổ phiếu Sáu tháng cuối năm 2010, trong bối cảnh thị trường ảm đạm, hàng loạt VIP tại các công ty niêm yết công bố mua thêm cổ phiếu của tổ chức họ đang điều hành để nâng tỷ lệ sở hữu. > Bị phạt tiền mới biết mình là ‘VIP’ Khoảng giữa tháng 11, ông Nguyễn Duy Hưng – Chủ tịch HĐQT Công ty chứng khoán Sài Gòn (SSI) công bố mua 1 triệu cổ phiếu SSI để tăng tỷ lệ sở hữu tại tổ chức này. Ngoài ra, một công ty có liên quan đến thành viên trong gia đình ông Hưng cũng công bố mua 2 triệu SSI. Tiếp đó, chính SSI cũng bắt đầu mua vào 3 triệu cổ phiếu quỹ từ 8/12/2010. Đầu tháng 12, bà Phạm Minh Hương – Chủ tịch HĐQT Công ty chứng khoán VNDirect dự kiến mua 800.000 cổ phiếu VND trong thời gian 3-15/12. Tuy nhiên, vị chủ tịch chỉ thực hiện mua 570.000 cổ phiếu thì ngừng vì giá tăng mạnh. Các VIP mua cổ phiếu khi cho rằng, giá trên thị trường có khả năng sinh lời. Ảnh minh họa: Hoàng Hà Các VIP mua cổ phiếu khi cho rằng, giá trên thị trường có khả năng sinh lời. Ảnh minh họa: Hoàng Hà Trước 2 vị chủ tịch HĐQT nêu trên, nhiều VIP khác cũng đã thực hiện những hoạt động tương tự. Ông Đặng Văn Thành, Chủ tịch của Sacombank đã mua 2 triệu cổ phiếu STB. Bên cạnh đó, công ty có liên quan mật thiết tới thành viên gia đình của vị chủ tịch cũng mua vào với khối lượng rất lớn: Sacomreal công bố mua 20 triệu STB. Nguồn tin từ một VIP công bố mua lại lượng lớn cổ phiếu công ty ông này đang làm Chủ tịch HĐQT cho biết: “Có những thời điểm thị trường chứng khoán đánh giá không đúng giá trị của nhiều cổ phiếu. Đây là thời điểm mua vào tốt nhất cho khoản đầu tư dài hạn có khả năng sinh lời cao. Với cổ phiếu mà chính tôi là người điều hành công ty thì mức độ an toàn và sinh lời cao khi mua là gần như chắc chắn”. Trên thực tế, sau khi các VIP công bố và mua lại một lượng lớn cổ phiếu ở tổ chức mà họ đang điều hành, giá thường không giảm mạnh nữa hoặc đi lên. Thời điểm ông Nguyễn Duy Hưng bắt đầu mua là 23/11, giá thị trường của SSI khoảng 22.600 đồng; ngày 28/12 giá là trên 31.000 đồng. Tương tự, bà Phạm Minh Hương bắt đầu mua VND khi giá là dưới 20.000 đồng, còn khi kết thúc mua, giá lên sát 25.000 đồng…. Tổng giám đốc một công ty chứng khoán có thị phần môi giới lớn nhận xét: “Thông thường, những người điều hành cao cấp thường hiểu rõ nhất về cổ phiếu của công ty đó. Khi họ quyết định mua vào thì đó cũng là một tín hiệu đáng quan tâm đối với nhà đầu tư. Trong phần lớn trường hợp, giá cổ phiếu các VIP dạng này mua thường tăng giá sau thời gian 3-6 tháng, thậm chí có trường hợp tăng liền sau đó”. Tuy nhiên, ông này cũng cho rằng, không phải VIP nào cũng lường hết được tình hình và khả năng thua lỗ cho nhà đầu tư vẫn có thể xảy ra nếu kỳ vọng cao trong thời gian ngắn. “Với những khoản đầu tư như vậy thì không bao giờ được dùng đòn bẩy tài chính”, ông này nhấn mạnh. Trong số các VIP mua cổ phiếu, ông Nguyễn Tuấn Hải – Chủ tịch HĐQT kiêm Tổng giám đốc Công ty Alphanam là trường hợp mua xong thì giá vẫn tiếp tục giảm mạnh. Ông Hải đã mua 2,19 triệu cổ phiếu ALP trong thời gian từ 27/8-27/10. Trong thời gian này, giá ALP từ 16.000 đồng, giảm xuống dưới 15.000 đồng. Cho tới gần đây, lúc thấp điểm giá ALP đã xuống dưới 14.000 đồng. Ngoài ra, việc nhận chuyển nhượng cổ phiếu từ Tổng giám đốc sang Phó tổng giám đốc tại Công ty chứng khoán Kim Long (KLS) lại là hiện tượng VIP bán cổ phiếu vào đúng lúc đáy. Ông Nguyễn Đức Tuấn, Phó tổng giám đốc KLS đã mua 500.000 cổ phiếu từ Tổng giám đốc – Phạm Tấn Huy Bằng, với giá mua khoảng hơn 11.000 đồng một cổ phiếu, trong khi giá KLS hiện là gần 17.000 đồng. Hoàng Ly Giao dịch thành công, toàn thị trường đạt gần 3.000 tỷ đồng giá trị Thứ 3, 28 Tháng 12 2010 11:15 Tác giả Nguyễn Minh (Sieucophieu.com) Thị trường khép lại phiên giao dịch ngày 28/12 hết sức thành công với đà ghi điểm mạnh mẽ của cả 2 chỉ số kèm theo tổng giá trị giao dịch toàn thị trường tiến sát mốc 3.000 tỷ đồng. Hy vọng xác lập xu hướng thị trường phục hồi bền vững trở lại trong tuần giao dịch cuối cùng của năm 2010 tiếp tục được củng cố. Diễn biến tiếp tục đẩy nhanh về cuối giờ giao dịch, loạt lệnh ATC khớp thành công đẩy chỉ số trên sàn tiếp tục duy trì xu hướng tăng điểm bền vững. Kết thúc đợt 3, VN-Index cộng thêm 6,28 điểm (+1,33%) với khối lượng tăng lên 86.869.201 đơn vị, tương ứng với 2.029,8 tỷ đồng giá trị giao dịch. Chốt lại phiên giao dịch thành công trước sự ngỡ ngàng của nhiều nhà đầu tư, hi vọng về tuần giao dịch cuối cùng của năm 2010 thị trường phục hồi trở lại tiếp tục được củng cố. VN-Index đóng cửa giao dịch ngày 28/12 tại 479,33 điểm, tăng mạnh 6,28 điểm (+1,33%), với khối lượng giao dịch gấp 2,27 lần phiên giao dịch đầu tuần, đạt 89.110.741 đơn vị, tương ứng với 2.077,01 tỷ đồng giá trị. Mã SSI phiên này dẫn đầu giao dịch trên sàn HO, với mức giá chung cuộc tăng kịch trần và không còn dư bán, đạt gần 4,21 triệu đơn vị giao dịch thành công. Mã STB tiếp phiên giữ vị trí giao dịch thứ 2 trên sàn với 3,37 triệu đơn vị. Tiếp theo là 2 mã MCG và ITA lần lượt đạt 2,25 triệu đơn vị và 2,05 triệu đơn vị. Và hàng loạt mã tích cực giao dịch đạt trên 1 triệu đơn vị như: ITA, EIB, ITC… Toàn thị trường phiên này có tới 277 mã tham gia giao dịch và chỉ có duy nhất 1 mã không có giao dịch trên sàn HO, trong đó số mã tăng hoàn toàn áp đảo với 199 mã (chiếm 71,58%), số mã giảm đứng tại 47 mã và có 31 mã đứng giá tham chiếu. Khối ngoại phần nào hỗ trợ thị trường vươn lên ghi điểm thành công nhờ động thái tích cực gom hàng tại các mã: DPM, CTG, PVD, ITA… Trong khi đó trên sàn Hà Nội, sắc xanh của chỉ số chiếm lĩnh toàn thời gian giao dịch phiên hôm nay. Xu hướng tăng trưởng bền vững được xác lập ngay từ mở phiên. Càng về cuối phiên, bảng điện tử tràn ngập sắc xanh, lực cầu cải thiện rõ rệt khi tâm lý thận trọng của bên mua được gỡ bỏ. Đóng cửa thị trường, HNX-Index chốt tại 114,81 điểm, tăng mạnh mẽ 3,38 điểm (+3,03%) với khối lượng giao dịch tăng trưởng gần 25% so với phiên hôm qua, đạt 44.999.980 đơn vị, tương đương với 903,38 tỷ đồng giá trị giao dịch. Trong khi đó trên sàn Hà Nội, sắc xanh của chỉ số chiếm lĩnh toàn thời gian giao dịch phiên hôm nay. Xu hướng tăng trưởng bền vững được xác lập ngay từ mở phiên. Đà ghi điểm lừng chừng ở những phút đầu vào phiên và bứt lên ghi điểm ngoạn mục sau khoảng thời gian 9h30’. Lực cung thực sự tăng mạnh, chênh lệch cung cầu được phá bỏ, HNX-Index theo đó vọt lên ghi điểm mạnh mẽ. Sau phiên mua ròng trở lại hôm qua, phiên này khối ngoại xoay chiều bán ròng gần 2 tỷ đồng trên sàn HNX, tích cực bán ra các mã: PVX, KLS, EBS… và mua ròng: PVS, PVI, PHS… Mã KLS phiên này vươn lên vị trí số 1 về giao dịch trên sàn HNX, đạt trên 5 triệu đơn vị. Tiếp theo là VND với 3,55 triệu đơn vị, PVX đạt gần 3,42 triệu đơn vị, SHN với 2,71 triệu đơn vị, HBB với 2,59 triệu đơn vị và 2 mã giao dịch đạt trên 1 triệu đơn vị là VCG và IDJ.
    1 like
  12. Đấy chỉ là thực hiện dần các cam kết khi tham gia hội nhập quốc tế thôi mà http://www.lyhocdongphuong.org.vn/forum/public/style_emoticons/default/grin.gif
    1 like
  13. Chiều nay nhận được Tin đồn cái này đang được DUYỆT: Hiệp hội các nhà đầu tư tài chính Việt Nam (VAFI) đã có văn bản kiến nghị Chính phủ, Bộ Tài chính, UBCK nghiên cứu cơ chế cho phép gia tăng tỷ lệ sở hữu của NĐT nước ngoài, bằng cách tăng tỷ lệ sở hữu tại nhóm ngân hàng lên 35 - 40% hoặc cho phép khối ngoại được mua cổ phần tại các doanh nghiệp niêm yết vượt mức 49% nhưng số cổ phần vượt mức 49% này không được quyền biểu quyết.
    1 like
  14. Thần mẫu (mother goddess) catalhoyuk, thổ nhĩ kỳ. Nguyễn Xuân Xuang Trong chuyến du lịch tháng mười vừa qua ở Thổ Nhĩ Kỳ, tôi tìm gặp được một hình bóng Thần Mẫu có từ thời Tân Thạch. Hình Thần Mẫu (Mother Goddess), tại Catalhoyuk, Thổ Nhĩ Kỳ, tiền bán thiên niên kỷ thứ 6 Trước Tây Lịch, hiện trưng bầy tại The Museum of Anatolian civilizations, Ankara, Thổ Nhĩ Kỳ Ảnh của tác giả, tháng Mười 2009. Thần Mẫu (Mother Goddess) ngồi ở tư thế sản phụ sinh con, hai chân bẹt ra, gác lên hai bên và hai tay giơ lên đầu đào tìm thấy tại Catalhoyuk, Konya, Thổ Nhĩ Kỳ, một trung tâm Thời Tân Thạch đã phát triển cao của vùng Cận Đông và Thế Giới Aegean (6800- 5700 BC). HìnhThần Mẫu, Mẹ Nguyên Khởi, Mẹ Đời, Mẹ Tổ này cũng thấy trong nhiều nền văn hóa nguyên sơ khắp thế giới kể cả Việt Nam (xem Hình Bóng Mẹ Tổ Âu Cơ trong blog này). Ở đây chỉ xin trích ra một vài ví dụ cần nói tới ở đây: .Úc châu Hình Thần Mẩu vẽ trên đá của thổ dân Úc châu (Nourlangie, Vùng Bắc Úc). .Thần Mẫu, Mẹ Tổ Mẹ Tổ Âu Cơ Hình bóng Thần Mẫu, Mẹ Đời và Mẹ Tổ Âu Cơ cũng thấy khắc ghi lại trên các mảnh đất nung gọi là “Gạch trang trí người theo phong cách dân gian” hiện đang trưng bầy tại Viện Bảo Tàng Lịch Sử ở Hà Nội. “Gạch trang trí người theo phong cách dân gian” (Triều Lê Trung Hưng thế kỷ 15-17?, Viện Bảo Tàng Lịch Sử Hà Nội). Ảnh của tác giả. Ta thấy rất rõ hình Thần Mẫu Loài Người trên tảng đất nung hay gạch khối để dựng đứng. Còn khối đất nung để nằm cho thấy một người nữ ở tư thế sinh con đang mang bầu hình tròn hay đang đẻ ra một cái bọc tròn. Nhìn tổng thể bọc tròn biểu tượng cho Bầu Hư Không, Bầu Vũ Trụ, Trứng Vũ Trụ, Bầu Trời Thế Gian, Trứng Thế Gian, Bầu Sinh Tạo, Bầu Tạo Hóa (bầu có một nghĩa là mang thai). Nhìn dưới diện Tổ Hùng, đây chính là hình ảnh Mẹ Tổ Âu Cơ đẻ ra một bọc trứng chim sinh ra Trăm Lang Hùng. Xin lưu tâm một điểm rất quan trọng là trong tất cả các hình Mẹ Đời ngồi ở vị thế sinh con ở khắp các nơi trên thế giới chỉ có hình ở Việt Nam này là có hình đĩa thái cực hay Trứng Vũ Trụ ở hai bên. Điều này trước hết khẳng định là hình tượng này là biểu tượng cho sinh tạo, tạo hóa là Thần Mẫu, Mẹ Đời dựa trên nguyên lý lưỡng hợp, nòng nọc, âm dương, dựa trên Vũ Trụ Tạo Sinh, Vũ Trụ giáo. Điểm này cũng khẳng định là nguyên lý lưỡng hợp, nòng nọc, âm dương, Chim-Rắn, Tiên Rồng nền tảng của Vũ Trụ Tạo Sinh, Vũ Trụ giáo là cốt lõi của văn hóa Việt Nam còn lưu truyền trong dân gian Việt Nam. Nhìn chung, qua sự hiện diện của hình bóng Thần Mẫu sinh tạo này thấy trong tất cả các nền văn hóa cổ đại khắp năm châu bồn biển cho thấy sự thờ phượng Mẹ Tổ là một tín ngưỡng chung của nhân loại. Một điểm quan trọng là hình Thần Mẫu khắc, vẽ trên đá của Thổ Dân Úc châu, tôi chưa rõ tuổi, không biết có già hơn hình Thần Mẫu của Thổ Nhĩ Kỳ hay không? Hiển nhiên có sự liên hệ giữa nền văn minh cổ đại Cận Đông và nền văn minh đã chìm sâu xuống đáy biển của Đông Nam Á là Lục Địa Mu Đã Mất (The Lost Continent of Mu) của James Churdhward hay Địa Đàng ở Phương Đông của Steven Oppenheimer. Cả hai tác giả này đều cho rằng Đông Nam Á cổ đại có một nền văn minh huy hoàng và là cái nôi của văn minh nhân loại và tôi đã nối kết văn hóa trống đồng nòng nọc, âm dương của đại tộc Đông Sơn với nền văn minh đã mất này. Nguyễn Xuân Quang Nguồn: Anviettoancau.net
    1 like
  15. Tăng Văn Dũng THiên vận cát, nhân vận cát, địa vận cát, ngoại vận hung, tổng vận cat. Ngũ vận cát nhiều hung ít, là 1 tên nên chọn. Có mưu trí, có tài thao lược, biết nhìn xa trông rộng. Hơn nữa, lại biết thời thế, nhẫn nhịn nên cuộc sống phú quí, hạnh phúc. Ra ngoài luôn có người ngưỡng mộ. Bản thân lại nhiệt tình giúp đỡ người khác nên bạn bè đông vui, nhưng nhớ đề phòng có kẻ lợi dụng mà ta dễ làm ơn mắc oán Là người bình sinh nhẫn nhịn, nhưng lại rất ngay thẳng. Khi nóng tính thường ít khi kiêng dè, thái độ tỏ ra còn kiêu ngạo nên dẫn tới bất hòa tới mọi ng mà ko sao giải thích được. là người có ý chí đấy, lại được cấp trên tin tưởng nên gặp vận là như rồng gặp mây thôi THân mến
    1 like
  16. Cố gắng lên nhé AT . cuộc sống không bao giờ là hết hi vọng ! sông có khúc ... người có lúc ! rồi mọi thứ sẽ tốt lên thôi . chúc AT vui và an lạc !
    1 like
  17. Quan lộ /sớm đạt có chức vị khá , nhưng thường hay bất mãn với công việc cho là không đúng với vị trí , mộng mưu cầu công danh đòi hỏi cao nhưng thường hay bị hạn chế bởi những người làm chung hay đồng nghiệp thường là kẻ bất tài và ganh tị .Số nầy không thể giàu có chỉ ở mức khá giả . Có được chồng hiền ,trực tính và hơi nóng nảy ,có thể phải qua người giới thiệu mai mối ,nếu chồng không phải khác ngoại hay là người có 2 dòng máu ,thì chắc phải lấy chồng phương xa ;chồng có hình dạng cao trung bình mặt vuông vắn chử điền , da hơi trắng nhưng mặt thì đỏ , nễ chồng yêu chồng một mực và gia đạo rất hạnh phúc cho đến viên mãn .
    1 like
  18. Quý cậu sẽ bị nói lắp hoặc hay bị tật líu lưỡi hoặc sứt môi nhưng ko lồi rốn, hoặc khu vực miệng có tính nhạy cảm (tính bệnh chứ ko phải tính thường), Dâm thì đúng là hơi bị quá đà, cần học hỏi hơn là thực hành kẻo sau này vợ nó diệt tận gốc lại than trời là Bách nhục. Mã gặp Đà ví như ngựa bị gẫy chân, bánh xe ngựa bị chọc gậy, v.v... suy cho cùng thì bị tổn hại ở chi dưới và có tính chất cản trở, một sự dọa nạt chứ không có ý bị bẻ gẫy chân thật. (Yên tâm cái chân thật ko bị gẫy nhé) Mã gặp Tuần ví như ngựa - xe qua cầu phà, đường hẹp, đường xấu thì phải đi từ từ. Nếu đi nhanh, đánh võng, lạng lách, phóng bạt mạng thì sao? sẽ gẫy chân thật, ngoài ra Mã gặp Khôi - Việt sẽ làm cho bị thương nặng ở Đầu, Vai, bả vai. Đến khi tới Xương - Khúc thì đúng là ko biết ăn nói thế nào. Đã bảo đi từ từ mà còn cố lướt. Tại sao lại cố lướt? bởi tự tin Mã ngộ Nhật nên thừa hơi dư sức lại có khả năng mồm 5 miệng 10 thành ra bật tanh tách. Cộng thêm sự tự tin Cự Cơ liệu việc hay Cự Đồng thường gặp may. Nhưng có ai nắm tay được cả ngày đâu? có ai đi đêm mãi mà ko gặp Ma? v.v... Nhiều khả năng ngày đó là ngày Mã Tang, rượu uống như uống thuốc bổ nên bổ nhào luôn vào viện, vừa hỏng thân xác vừa hại dạ dày. Cứ oạch vài phát để trải nghiệm đi, mai mốt lấy vợ rồi thì số phận sẽ khác, sẽ đứng đắn hơn, đầu óc khai mở, tiền bạc tăng tiến vượt bậc. Còn bây giờ cứ cố gắng học tập và rèn luyện, đừng nghĩ tới kiếm được bao nhiêu mà hãy nghĩ xem làm như thế thì xứng đáng được bao nhiêu và hãy giữ nó cho riêng mình, đừng có na mô hớt kẻo lại vạ miệng Mã Cự, 1 lời nói ra 9 ngựa đuổi ko kịp thì phanh thế nào? Có con thì công danh bắt đầu khai mở, nhưng có khi tiền bạc lại ko được như ý. Đà gặp Hao nhưng ko gặp được song hao nên chỉ có thể nói là ngọc được lộ thiên 1 phần chứ ko được hoàn toàn phô sắc dưới ánh mặt trời, tuy nhiên cũng hơn người Cự bị hãm - nhật cũng hãm gặp song hao. Nói chung, quý cậu nên tự tin với lá số này và nên khiêm cung tự hạ để không gặp những hạn nặng nề như vừa nêu.
    1 like
  19. Lá số đẹp thế này còn kêu ca gì, các đại vận rất tốt. Mệnh tốt ko = Thân tốt, Thân tốt ko = vận tốt mà
    1 like
  20. Tuyệt nhiên ko thấy sao nào về tình duyên cảLưu Thái tuế cung di, con gái ko theo Thái Dương Thiên Lương . Đợi năm tiếp theo sẽ có
    1 like
  21. đừng lo lắng nhiều. Cách thạch trung ẩn ngọc rất tốt chỉ có điều tai nạn gãy chân tay hoặc phỏng chân tay số này phát về hậu vận
    1 like
  22. Sang năm chưa có hạn tình duyên nhưng có nhiều cơ may cho công việc tuy nhiên có sự tranh cãi và bất đồng ý kiến. Bạn nên tự quyết công việc sắp tới chắc bạn chưa quyết được nên phân vân và đi hỏi mọi người. đang có 2 trường phái trong GĐ bạn mọi người ý định bạn nên đi học tiếp còn bản thân bạn muốn đi làm để lấy tiền học tiếp .
    1 like
  23. nangxuan Cháu là nữ sinh lúc 6h30 sáng ngày 14/02/1985(AL) Bác xem giúp cháu khi dùng những sdt này thì công việc, tình duyên, các mối quan hệ của cháu thế nào ạ? sdt1: 0948588532, công việc là cho có, hay đối phó với những va chạm, tinh duyên trong lúc buồn rầu, ế dài dài, còn nếu có thì hay xích mích mâu thuẩn rạn nứt sdt2:0904446853, cũng vậy công việc cũng chán phèo, tình duyên cũng èo uột, cố nuoi cho nó tốt đẹp hơn, hoặc cố tìm nhưng không thấy. hue thuong + 0989472809, xấu không dùng. + 01656072906, cũng xấu luôn. htrang sdt: 0168.8395.338, công việc không ổn định, hao tiền cho ăn chơi, bè bạn. Tình cảm không chắc chắn. Thay đổi chó vánh. Cuối năm nay có cơ hội về tài lộc, nhưng coi chừng bị lừa tiền. mr nam Nhờ anh xem dùm em 2 số này nhé 0902731368, 0909365078,nam giới,sinh lúc 14h ngày 25/12/1985 dương lich. 0902731368, nóng nảy thì hư việc. Số này dùng thì có cơ hội làm ăn nhưng dể day dưa chuyện tình cảm bạn bè không tốt. 0909365078, chạy đôn đáo chẳng đâu vào đâu, mệt tinh thần, bệnh chống mặt. gialinh246 kính nhớ các bác, anh chị xem giúp ạ. Cháu là Nữ, sinh vào 4h50 sáng ngày 24/06/1990 (DL) Cháu muốn xem về sức khỏe, việc học hành và công việc sau này. - số dt 1: 0948080230, bao tử có vấn đề, học nhiều điểm thấp, bế tắt trong công việc. - số dt 2: 01234866728, bao tử kém, mắt cận, học không tập trung, làm việc thời vụ. qvt2004 Nếu 2 số trên vẫn ko khá hơn bác xem giúp cháu thêm 1 số này nữa bác nhé. sdt: 0926022296. công việc thì bình thường, tình duyên thì phong phú, có thể tiến tới hôn nhân. nvtuan sđt : 090.252.9949, mắt mờ hay kém, dể bị cảm mạo, công việc nhiều có hiệu quả nhưng không có thời gian nghỉ dưỡng. sercue: 097.669.5819, chịu lợi nhỏ mà bền, làm việc phụ mà lâu dài. gan yếu. thanhnhien - Số dt 1: 0949123426 năm nay kinh tế vất vả, từ đây sang tháng Giêng năm sau dể thở hơn. số này tốt có nhiều mối quan hệ mới, công việc như bắt đầu lại nhưng thuận lợi. ngocnghech sdt1: 0914052836 sdt2: 0946555296 sdt3: 0914682983 không có số nào được cả. luxubu 01685040287, số tốt di chuyển đi lại nhiều, đi xa. tiền vừa đủ, tình lai rai, công việc thuận lợi nhỏ. Hdh sinh: 12:00 ngày 05/11/1977 (dl) sdt: 0903 369 198, cực nhưng có lợi nói chung, nhưng số này dùng thì từ đây đến cuối năm có khó khăn, chỉ lợi ngoại giao, lộc không lợi. Sdt: 0933693398 xấu, bỏ. cotaomobile 0907.40.40.40 chờ đợi mỏi mòn chẳng được gì cả, bỏ không dùng số này. congthang Sim số 1: 0914505489 phải phụ thuộc, lệ thuộc mà lợi chẳng xứng. Sim số 2: 01224751406 tất cả đều dở, chẳng lợi lộc gì. phuong05 0983330338 công việc ổn, quan hệ tốt, lợi đều đều. 0988921288 có lợi nhưng tiêu hết. Tình cảm rắc rối. Nếu đã quen nhau lâu thì tiến tới hôn nhân. trần đình anh Số dt 1: 0975426879 (đang dùng), lợi lớn do nghề phụ, trúng mánh, đa số thời gian là chờ cơ hội. - Số dt 2: 0926620246 dể sa lầy trong làm ăn, lổ lã. Coi chừng bị lừa. canhcut - Số dt 1: 0943.291.668 xấu - Số dt 2: 0982.052.388 làm ăn thời vụ thì dùng số này. NAMPHONG - 0912.076.267 công việc hay di chuyển thì ổn, ở một chổ thì dể va chạm, nhưng không đến nỗi, gia đình có hay rầy ra nhưng là quan tâm - 0984.858.986 số xấu, ngồi không ngáp gió. Tiểu Phương 097 sáu một hai 10 tám không Người sử dụng: Nữ, sinh năm 1981 công việc: có những mối quan hệ tốt và chất lượng. khuôn khép, chuẩn mực. tình cảm: nhạy cảm, trọng về tinh thần hướng thượng, đang yêu. cảm xúc: yêu những gì mang giá trị nghệ thuật tinh thần sâu sắc. tinh thần: đôi khi có nổi loạn hay dể vào lĩnh vực siêu nhiên. thể thao; thích chay bộ. Chúc may mắn lần sau Thiên Đồng
    1 like
  24. Chào bác VietHa "Chuyên chính " y học thừa sức phòng và chữa được sao này. Nếu hai vợ chồng thuần Việt Nam chỉ do cứng quá,lại tham quá nên mạnh quá,dai quá định vượt khí kiền cung thì chỉ cần uống thuốc hối của y học dân tộc và giảm cường độ điều chỉnh là ổn.Nếu vợ chồng áp dụng yếu tố ngoại trong trò chơi thì chịu không biết cách chữa. Kính bác
    1 like
  25. 1 like
  26. Phong thủy Lạc Việt hiệu quả thì đúng rồi. Nhưng đó cũng chỉ là một nguyên nhân. Nguyên nhân chính là vì Rin86 ủng hộ văn hiến Việt, nến điều hợp lý tất yếu là tin theo PTLV và hiệu quả chính là kết quả tất yếu trên. Vusónganh cũng ủng hộ PTLV, nên có việc cho bác phát biểu trên truyền hình Đà Nẵng. Và PTLV xác định rằng: Năm nay không có bão lớn đánh vào Đà Nẵng (Mặc dù những năm gần đây, năm nào Đà Nẵng cũng bị). Tôi đang chờ kết quả, vì còn ba tháng nữa mới hết năm.
    1 like
  27. ĐÀI LOAN VÀ CỘI NGUỒN BÁCH VIỆT Năm 2000, một sự kiện lịch sử xảy ra ở ven bờ Thái Bình Dương. Sự kiện đó không phải là Thế vận hội 2000 ở Sydney mà thế giới chú ý đến trong vài tuần, mà là một diễn biến í người để ý đến. Một sự kiện sẽ có ảnh hưởng lâu dài đến chính trị và có thể làm thay đổi cách nhìn của thế giới bên ngoài của nhiều nước trong vùng. Sự kiện đó chính là kết quả bầu cử ở hòn đảo Đài Loan bé nhỏ. Ứng cử viên Trần Thủy Biển (Chen Shui-Bian) của đảng Dân Chủ Tiến Bộ (Democratic Progressive Party) đã thắng Quốc Dân Đảng và trở thành Tổng Thống Đài Loan, một sự thay đổi chính quyền không đổ máu, không bạo động lần đầu tiên trong lịch sử mấy ngàn năm của Trung Quốc. Lịch sử Trung Quốc ? Thực ra trong tâm của vị tân tổng thống thì hướng đi của chính sách mà ông đã theo đuổi từ nhiều năm trước, mà đại đa số dân đã đồng ý, thì hòn đảo này với dân số hơn 20 triệu sẽ không còn là bộ phận của Trung Quốc nữa. Nó sẽ là một quốc gia khác đứng ngoài quỹ đạo của dân tộc Trung Hoa, nó không còn dính gì trực tiếp đến Trung Quốc hay lịch sử Trung Quốc nữa, cũng như Hoa Kỳ hơn 200 năm trước đây đã cắt lìa khỏi nước Anh để tạo riêng vận mệnh của mình. Phản ứng của Trung Quốc that dữ dội và giận dữ, báo chí Trung Quốc dùng những lời lẽ nặng nề chưa từng thấy đối với một cá nhân, không kém những từ ngữ dùng trong cách mạng văn hóa đối với các kẻ thù giai cấp và đế quốc xưa kia trong thập niên 1960. Mấy tuần trước ngày bầu cử, hải quân Trung Quốc đã tập trận bắn tên lửa ở eo biển Đài Loan. Trên đất liền, Trung Quốc dàn tên lửa hướng về Đài Loan đe dọa tinh thần dân chúng, đặt áp lực với chủ ý sẽ làm cho cử tri run sợ chiến tranh mà phải bầu cho ứng cử viên Quốc Dân Đảng ! Oái ăm thay, Quốc Dân Đảng là kẻ thù trước đây của đảng cộng sản Trung Quốc. Lúc này cả hai lại cùng chính sách, cùng quan điểm rút từ một nền tảng tư tưởng trung ương tập quyền Đại Hán truyền thống lâu đời. Điều gì đã gay ra sự cố động trời như vậy ? Ngoài sự kiện ông Trần Thủy Biển là một người Đài Loan bản xứ chính cống, không phải từ lục địa di đến khi Quốc Dân Đảng thua bỏ chạy sang, thì tư tưởng và hoài bão của ông, đại diện cho hoài bão của đa số người Đài Loan bản xứ, chính là điều mà Trung Quốc sợ hải hơn hết. Thật sự thì không phải mà đột nhiên có sự tự phát, xuất hiện một tư tưởng tự chủ như vậy, mà nó đã có một lịch sử khá lâu dài. Tư tưởng ấy đã bị đè nén, thay thế bởi một tư tưởng khác từ bên ngoài ép đặt trên văn hóa, tư tưởng của dân tộc Đài Loan trong nhiều năm qua. Tôi đặc biệt lưu ý đến lịch sử Đài Loan và hoài bão của người dân khi tôi viến Đài Loan trong một dịp dự hội nghị khoa học về môi trường khí quyển ở thành phố Đài Trung (Taitung), do hai Viện Hàn Lâm Khoa Học Đài Loan và Hàn Lâm Khoa Học Úc tổ chức vào tháng 6/2000. Trước đây tôi chỉ để ý và nghiên cứu chút ít về người bản xứ thổ dân sống ở Đài Loan trước khi người Hoa từ lục địa di dân sang. Bài này có mục đích tìm hiểu những diễn biến về sự thay đổi trong xã hội, văn hóa và tư tưởng của người dân Đài Loan trong vòng 20 năm nay. Nó gợi lại trong lịch sử và trong tiềm thức của người Việt những gì tương tự mà dân tộc Việt Nam đã trải qua cách đây hơn 1.000 năm. Cách Mạng Văn Hóa Hay Tuyên Ngôn Độc Lập ? Buổi lễ nhậm chức tổng thống ngày 20/5/2000 ở Đài Bắc được tổ chức tại sân trước cửa dinh Tổng Thống, một kiến trúc thời Minh Trị xây trước đây làm dinh cho viên toàn quyền của Nhật khi họ còn cai trị Đài Loan. Dinh này cũng biểu trưng quyền lực của Quốc Dân Đảng trong bao năm trước đây khi họ nắm quyền hơn nửa thế kỷ. Những sự kiện xảy ra ở buổi lễ mang nay những biểu tượng đáng kể, mà một nhà nghiên cứu ở Viện Xã Hội học, thuộc Hàn Lâm Trung Hoa (Academia Sinica) ở Đài Bắc đã viết lại như sau trên diễn đàn điện tử về Đông Nam Á (Southeast Asia Discussion List, SEASIA-L) (1). Buổi lễ bắt đầu 9:50 sáng, quan khác trong và ngoài nước tưởng sẽ nghe bài quốc ca Cộng Hòa Trung Quốc (Republic of China) đầu tiên, nhưng tất cả đều ngạc nhiên khi một nhóm nhạc sĩ thổ dân của bộ lạc Bunum bản xứ (thuộc tộc Austronesian) đứng lên hát bài ca dân tộc truyền thống “Báo tin vui”. Sau đó là phần trình diễn của các bộ laic bản xứ Austronesian khác, tiếp theo là bài hát dân ca của người Hakka (Khách trú) và dân ca người Hoklo. Chỉ khi Tổng Thống Trần Thủy Biển và Phó Tổng Thống, bà Annette Lu bước ra từ dinh Tổng Thống thì bài quốc ca mới được hát sau cùng. Người hát quốc ca là cô ca sĩ nổi tiếng ở Đài Loan (và Trung Quốc) Cheng Hui-Mei (Amei), gốc người thổ dân bộ lạc Puyma. Cô rất được thính giả ái mộ, không những ở Đài Loan mà còn ở Trung Hoa lục địa. Trước kia không bao giờ có sự có mặt của văn hóa địa phương trong những nghi lễ trịnh trọng. Nay thì ngay cả bài quốc ca cũng xuống hàng thứ yếu. Sự phá vỡ nghi thức này rất có ý nghĩa. Nó có chủ đích cho thấy là chính phủ mới từ đây về sau sẽ theo đuổi chính sách đứng trên quan điểm của người địa phương (Hoklo, Hakka, Austronesian) chứ không như chính phủ Quốc Dân Đảng trước kia đứng trên quan điểm trọng Hán. Hiểu được hậu ý của chính phủ Trần Thủy Biển, Trung Quốc đã giận dữ, ngay cả Amei cũng không thoát khỏi sự tức giận ấy. Sauk hi cô tham dự và hát bài quốc ca Đài Loan (Cộng Hòa Trung Hoa) ở lễ nhậm chức của Tổng Thống Trần Thủy Biển, chính phủ Trung Quốc ra lệnh tẩy chay Amei. Đài truyền hình, truyền thanh từ ngày đó không được trình chiếu, phát hành các bài hát của ca sĩ Amei. Báo chí bị cấm đề cập đến co, ngay cả các biểu ngữ quảng cáo cũng không được đăng các hình ảnh ca sĩ Amei. Ở Bắc Kinh và Thượng Hải, hình Amei trên các bảng quảng cáo nước ngọt Sprite của công ty Coca-Cola bị bôi xóa đi. Tuy vậy các đĩa CD của cô, người ta vẫn còn có thể tìm thấy được ở một số các cửa hàng nếu chịu khó lùng kiếm. Wu Bai, một nam ca sĩ nổi tiếng ở Đài Loan và Trung Quốc, cũng chịu chung số phận, khi ông hát và ủng hộ Trần Thủy Biển. Bài diễn văn của Trần Thủy Biển rất ít đề cập đến sự quan hệ với Trung Quốc, một vấn đề thời sự nóng bỏng lúc đó, mà hầu hết là về lịch sử và văn hóa Đài Loan, về cải tổ chính trị và chính sách đối nội. Trần Thủy Biển nói tới Đài Loan 40 lần. Cộng Hòa Trung Quốc (ROC) 9 lần. Trung Quốc chỉ có 1 lần nhưng Formosa (tên cũ của đảo Đài Loan) 2 lần và 4 lần nhấn mạnh nói lớn “Đài Loan đứng lên !”. Đài Loan đã thực sự đứng day về văn hóa và chính trị. Trần Thủy Biển nêu lên những sự áp bức, xâm lược bởi đế quốc mà dân chúng ở cả Trung Quốc lẫn Đài Loan đã là nạn nhân trong thế kỷ 20. Thật sự Đài Loan còn khổ sở nặng hơn dưới chế độ thực dân Nhật. Những kinh nghiệm lịch sử tương tự như thế đáng ra đã mang lại sự thông cảm giữa hai dân tộc ở hai bên eo biển Đài Loan để từ đó đặt nền tảng cho việc thiết lập tự do, dân chủ và nhân quyền cùng với nhau. Tuy nhiên, do sự phân ly lâu dài trong lịch sử, hai vùng đã phát triển theo hai hướng khác nhau, đi đến sự khác biệt tột độ về nhiều phương diện, từ hệ thống chính trị đến văn hóa và phong cách sống. Điều này đã cản trở sự thông cảm và thiết lập tình hữu nghị giữa hai nước. Bài diễn văn này là một tuyên bố chính trị quan trọng. Ông phân biệt rõ sự khác biệt giữa lịch sử Trung Quốc và lịch sử Đài Loan. Đài Loan đã trải qua thời kỳ bị Nhật đô hộ lâu dài và đã có lịch sử riêng chứ không phải chỉ có lịch sử mới đây mới đây tách ra khỏi Trung Quốc bắt đầu từ 1949, với nhãn quan của người Hán đặt trọng tâ vào cuộc nội chiến quốc – cộng. Ông nói là cách đây 400 năm, Đài Loan được gọi là Formosa, hòn đảo xinh đẹp, nay Đài Loan còn là một hòn đảo của một nền dân chủ trưởng thành. Ông cho rằng lịch sử Đài Loan tiếp diễn cách đây 400 năm từ di sản của thổ dân Austronesian, cư dân đầu tiên, chứ không phải xuất phát từ 5.000 năm của lịch sử Trung Quốc. Ông là vị Tổng thống Đài Loan đầu tiên đã đặt trọng tâm của vũ trụ quan vào lịch sử đảo và vào di sản Austronesian. Ông đặc biệt nói về văn hóa địa phương, các tổ chức cộng đồng phi chính phủ đã được thành lập để phát triển, bảo tồn lịch sử, văn hóa ở mọi địa phương, làng xã. Tất cả đó là một phần của văn hóa Đài Loan. Đài Loan là một xã hội đa văn hóa, trong đó mọi người dân chấp nhận sự đa dạng và giao lưu với nhau giữa các người Austronesian, Hoklo, Hakka và người Hoa ở lục địa sang. Ông nói về văn hóa Hoa kiều và đặt cộng đồng người Hoa ở Đài Loan giống như cộng đồng người Hoa trên thế giới như ở Singapore, Sydney hay San Francisco trong môi trường đa văn hóa, chứ không phải người Hoa giữa dân số của một nước Trung Quốc thống nhất. Ông nhấn mạnh đến cuộc sống “văn hóa” thường ngày của người dân bình thường và nói về bản thân ông xuất thân là con của một tá điền trong một gia đình nghèo và đã vươn lên để trở thành tổng thống của một nước được sự tín nhiệm của dân Formosa, những người con của Đài Loan như ông. Tinh thần bài diễn văn giống như tinh thần của một bản tuyê bố độc lập hơn là một bài diễn văn nhậm chức bình thường. Các Dân Tộc ở Đài Loan. Vì đâu mà ông Trần Thủy Biển đã “tuyên bố độc lập” như vậy ? Bài ông nói đã phán ảnh được những gì sâu xa xảy ra trong tư tưởng của xã hội Đài Loan trong nhiều năm vừa qua ở nhiều lãnh vực. Một hiện tượng xã hội đáng chú ý gần đây là một số vấn đề nghiên cứu trong phạm vi khoa học có liên hệ đến các dân tộc ở Đài Loan đã lan ra khỏi phạm vi hạn hẹp và đã trở thành một đề tài nóng bỏng trong xã hội mà trước đây ít xảy ra. Giáo sư Lâm Mã Lý, nhà di truyền học ở bệnh viện Mckay Memorial ở Đài Bắc, đã bỏ ra nhiều năm nghiên cứu về nguồn gốc di truyền của các bộ tộc thổ dân sống lâu đời từ thời tiền sử ở Đài Loan. Một đề tài hầu như lúc đó không ai ở Đài Loan để ý. Sau khi công bố kết quả trên tạp chí khoa học vào năm 2000 (2), bà đã nhận được rất nhiều thư, điện thư từ những người “Đài Loan” không phải thổ dân (Mân Nam và Hakka) muốn tìm hiểu thêm về nguồn gốc của họ, họ không cho rằng họ có nguồn gốc từ người Hán. Giáo sư Lâm Mã Lý từ đó chuyển trọng tâm nghiên cứu của bà sang người Mân Nam (Minnan) và Hakka. Sau hơn một năm nghiên cứu di truyền trên hệ thống miễn nhiễm (Human Leucocyte Antigen, HLA) ở nhiễm sắc thể 6 (chromosome 6) qua máu của các dân Mân Nam (Hoklo), Hakka và các mẫu máu từ nhiều nước kết hợp được trong tổ chức hoạt động quốc tế về HLA (International Histocompatibility Workshop) ở Nhật năm 1998, giáo sư Lâm Mã Lý đã công bố kết quả (3) về sự liên hệ và khoảng cách của các nhóm dân trên sơ đồ cây di truyền. Kết quả cho thấy người Mân Nam và Hakka rất gần với người Việt, Thái và các dân thuộc chủng Mongoloid Nam Á, khác xa với người Hán thuộc chủng Mongoloid Bắc Á. Giáo sư Lâm Mã Lý cho rằng người “Đài Loan” thuộc dân Mân Việt (Min Yeuh) chứ không phải dân tộc Hán, mặc dù đã có sự pha trộn trong lịch sử với người Hán di cư đến từ phương Bắc. Trong cuộc phỏng vấn trên báo Taipei Times (Đài Bắc thời báo) (4), có câu hỏi là có phải ngiên cứu của bà đã gay chú ý và bàn luận rất nhiều là vì nó đã thách thức chủ nghĩa ‘Hán trung tâm’ cho rằng người Hán và văn minh Hán Hoa là cội nguồn của tất cả, do đó đã gây nên cuộc tranh luận chính trị về sự thống nhất với Trung Quốc. Bà trả lời là bà đã biết trước kết quả nghiên cứu di truyền sẽ khơi động cuộc tranh cãi, nhưng bà cũng nói rằng kết luận của nghiên cứu cũng không phải là điều gì mới lạ, vì trước đây hai nhà nhân chủng học nổi tiếng đã công bố lâu rồi về dân tộc và văn minh của người Mân Việt, Hakka và Bách Việt. Kết quả nghiên cứu của bà chỉ chứng minh một cách khoa học thêm mà thôi. Cả hai công trình nghiên cứu này đã được biết từ lâu trước khi có chủ đề bàn luận về về thống nhất hay độc lập ở Đài Loan. Đó là công trình nghiên cứu của Lin Hui Shaing, “The Ethnology of Chine”, xuất bản năm 1937 và W. Meacham, “Origins and development of Yeuh coastal Neolithic : A microcosm of cultural change on the mainland of East Asia”, công bố vào năm 1981. Cả hai đã có cùng kết luận về nguồn gốc của dân Bách Việt. Cũng trong cuộc phỏng vấn này, có câu hỏi là có phải nghiên cứu của bà có mục đích chính trị không, vì hiện nay có rất nhiều người đã dùng nghiên cứu của bà trong chính trường. Bà nói rằng mọi người nên hiểu biết về nguồn gốc của mình. Và bà chỉ muốn tìm ra nguồn gốc của người địa phương sống lâu đời ở Đài Loan. Bà không hiểu tại sao người Mỹ gốc Phi châu lại có thể đi tìm được nguồn gốc của họ, mà người Đài Loan lại không thể nói được “Chúng tôi là người Mân Việt cổ xưa”. Bà muốn rằng người Đài Loan nên xem mình là người địa phương Mân Việt chứ không phải là Hán từ bắc Trung Quốc. Bà nói : “Bài nghiên cứu của tôi đơn giản là chỉ để hiểu biết về nguồn gốc. Tôi không biết gì về chính trị và không thuộc tổ chức chính trị nào”. Để có một cái nhìn tổng quát về tình hình Đài Loan và hiểu thêm về các dân tộc và văn hóa ở hòn đảo này, chúng ta phải bắt đầu từ các dữ kiện lịch sử và dân tộc học mà tôi cố gắng tóm lược như sau : Bộ tộc Austronesian Những người bản xứ thuộc dòng ngôn ngữ Austronesian là những người dân đã sống lâu đời ở Đài Loan từ trước thế kỷ 17 khi những người ngoại quốc như Hòa Lan, Tây Ban Nha và sau đó là Trung Quốc bắt đầu đến chiếm đóng và định cư. Ngôn ngữ của các bộ tộc bản xứ cũng rất đa dạng và khác nhau, nhưng tất cả đều thuộc họ ngôn ngữ Austronesian, cùng họ với ngôn ngữ Phi Luật Tân, Indonesian, Mã Lai và ở nhiều đảo khác trong Thái Bình Dương. Hiện nay người thổ dân Austronesian chỉ còn có khoảng 2% dân số Đài Loan và gồm các bộ tộc sau (theo thứ tự dân số) : Amis (130.000), Paiwan (60.000), Atayal (50.000), Bunum (38.000), Taroko (30.000), Puyuma (8.000), Rukai (8.000), Tsu (6.000), Yami (4.000), Saisiat (4.000), Thao (250). Một số bộ tộc khác ở đồng bằng và bờ biển trước đây đã biến mất, qua sự đồng hóa trong cộng đồng các người Hoklo, Hakka di dân từ Trung Quốc trong các thế kỷ trước. Ngôn ngữ của các bộ tộc này chỉ còn giữ lại trong các từ điển và bài viết về họ của người Hòa Lan, Nhật và Đài Loan sau này, và một số từ còn sót lại trong ngôn ngữ Hoklo. Trong suốt lịch sử từ 1624, khi người Hòa Lan đến chiếm, cho đến thời kỳ thuộc nhà Thanh, rồi thuộc Nhật Bản và gần đây dưới chế độ Quốc Dân Đảng, người thổ dân thường bị phân biệt, chèn ép trong xã hội. Có lúc họ đã nổi day, như năm 1930, một bộ lạc đã nổi lên chống Nhật nhưng họ đã bị đàn áp đẫm máu. Đất đai của họ đã bị lấn chiếm và mất dần (cách đây không lâu, có nơi đất của họ đã được dùng để chôn các chất thải nguyên tử nguy hiểm). Năm 1984, Liên minh thổ dân Đài Loan đã được thành lập bởi một số trí thức và các vị lãnh đạo các bộ tộc để bảo vệ quyền lợi và văn hóa thổ dân. Họ đã tranh đấu trong nhiều năm cùng với đảng Dân chủ Tiến bộ Đối lập chống lại các chính sách văn hóa và bất công của chính quyền. Ngày nay, quyền lợi và văn hóa thổ dân đã được khuyến khích phát triển nhất là từ khi chính phủ Trần Thủy Biển nắm quyền vào năm 2000. Như các người Austronesian khác ở Đông Nam Á (Mã Lai, Phi Luật Tân, Nam Dương), các bộ tộc thổ dân đều có tục ăn trầu và xâm mình. Đặc biệt người Atayal còn xâm rất nhiều trên mặt. Theo truyền thuyết của họ, lúc khởi thủy chỉ có hai an hem. Vì muốn dòng giống được lưu truyền, người em giá đã xâm lên mặt để che dấu hầu gait anh mình mà kết thành vợ chồng, sinh sản con cháu. Người Rukai, trong lễ hội xuân còn có phong tục chơi đu xích đu. Người con gái đu xích đu, trong khi người con trai nay và bắt lấy. Trò chơi ở lễ hội xuân này tương tự như trò chơi trong lễ hội của người Việt và chúng có nguồn gốc phồn thực. Vì là thiểu số, hiện nay văn hóa của người thổ dân có nguy cơ biến mất khi đa số thanh niên cố gắng hòa nhập vào xã hội Đài Loan. Trước đây vì bị phân biệt, đa số đã cố gắng dấu đi nguồn gốc thổ dân của mình. Ngày nay với chính sách bảo vệ và phát triển văn hóa bản xứ trong giáo dục, chính trị và kinh tế, họ đã có mặt ở mọi thành phần trong xã hội Đài Loan và hãnh diện là người có gốc tích thổ dân, cư dân đầu tiên của nước Đài Loan. Cuối năm 2001, ở Đài Trung, nơi có nhiều thổ dân thuộc các bộ tộc khác nhau, đã có lễ hội về văn hóa Austronesian, với sự hiện diện của nhiều học giả thế giới đến dự hội nghị nghiên cứu Austronesian tổ chức cùng thời gian. Chang Hui-Mei (Amei), ca sĩ nổi tiếng Đài Loan, là người gốc thổ dân thuộc bộ lạc Puyuma bản xứ đã trình diễn nhiều bài dân ca Austronesian khai mạc liên hoan văn hóa này. Viện Hàn Lâm Academia Sinica cũng đã xuất bản nhiều công trình nghiên cứu về văn hóa và con người Austronesian. Cùng với “Hiệp hội nghiên cứu tiền sử Ấn và Thái Bình Dương”, Academia Sinica đã tổ chức nhiều hội nghị quốc tế về người Austronesian, như ở Đài Trung và Đài Bắc vừa rồi. Người Hoklo “Hoklo”, danh từ cổ xưa gốc địa phương nay được dùng để chỉ chung giống người dân tộc và ngôn ngữ vùng Phúc Kiến thay vì dùng từ Phúc Kiến như trước đây thường xử dụng để chỉ người thuộc địa phương Phúc Kiến Trung Quốc. Các danh từ thường dùng khác, như Hokkien, Minnan (Mân Nam, Min (Mân), hay Đài Loan cũng đã được dùng để chỉ dân tộc này. Nay thì danh từ “Hoklo” bản địa có khuynh hướng được dùng nhiều (nhất là trong giới hàn lâm nghiên cứu) vì nó thống nhất cho một giống dân trong dân tộc học, không mang màu sắc chính trị, thích hợp hơn là dùng danh từ về vị trí địa lý của một tỉnh. Người Hoklo không những cư trú ở Phúc Kiến mà còn có mặt ở nhiều nơi như Hải Nam, Đài Loan và ở nhiều nước khác trong khu vực Đông Nam Á do truyền thống đi biển của họ. Ở Đài Loan, hiện nay 70% dân số là người Hoklo. Ngôn ngữ người Hoklo có nguồn gốc cổ xưa ở Nam Trung Quốc. Theo nhà ngôn ngữ học Norman (5) và Mei Tsu Lin (6) thì tiếng Hoklo (Mân), Hakka và Quảng Đông có cùng nguồn gốc. Chúng xuất phát từ các bộ tộc Bách Việt, phi Hán, sống ở phía Nam sông Dương Tử. Những ngôn ngữ này có các thành phần gốc Thái cổ, Austronesian và Austroasiatic ở tầng ngôn ngữ dưới, và pha trộn với tiếng Hán ở tầng trên. Thành phần Austronesian và Thai (Austro-Thai) có trội hơn thành phần Austroasiatics, nhưng cả ba đều hiện diện trong các ngôn ngữ này. Họ ngôn ngữ Austroasiatics, như ta biết, gồm có các ngôn ngữ Mon-Khmer. Việt, Munda. Điều này cho thấy là các tộc người nói tiếng Austroasiatics đã có mặt tại Nam Trung Quốc từ lâu đời, trước thời kỳ nhà Tần-Hán (xem #6). Hiện nay trong ngôn ngữ Mân Nam (Hoklo), ta vẫn còn tìm thấy có các sự liên hệ với ngôn ngữ Việt thuộc họ Autroasiatics qua các từ (xem #6). Một vài thí dụ về các từ Hoklo với các từ trong tiếng Việt, như : vat [bat4] – Việt : biết, Bahnar : băt. gnial [kian2] – Việt : con, Khmer : koun. daam [tam5] – Việt : đẫm (ướt). daanggi [tang5ki1] – Việt : đồng (lên), Proto-Mân : dung, dong, Mon : dong. doh [toh4] – Việt : đâu (ở). và một sớ từ có nguồn gốc Austroasiatics – Austronesian (theo thuyết Austric), như : dehh [the4] – Việt : đè, Proto-Malay : tedes. qiul [giu2] – Việt : giật (kéo), Quảng Đông : jaul, Proto-Malay : guyud. lut [lut4] – Việt : lột, Hakka : lôụt, Quảng Đông : led1, Indonesian : lucut, Malay : luchut, Hawaii Polynesian : lu. lerng [leng7] – Việt : lõng, Proto-Malay : luan. Ngoài ra, theo tôi, một số các từ Hoklo sau đây cũng có gốc chung (cognates) với các từ Việt : bou [pơ1] – Việt : bố (cha). voul [bơ2] – Việt : bu (vợ). za [cha1] – Việt : ta (người), Proto-Malay : tau, cau. dẫn tới từ Hoklo, zabou nghĩa là người đàn ông và zavoul là người đàn bà. Ngoài sự liên hệ về ngôn ngữ giữa người Hoklo (Mân Việt) và người Việt, trong lịch sử, ta cũng được biết là tổ tiên nhà Trần, một triều đại rực rỡ văn hóa Việt ở Việt Nam, vào thế kỷ thế 13, đã đi từ Phúc Kiến (Mân) theo đường biển đến định cư ở Việt Nam trước đó. Họ sống về nghề đánh cá dọc theo bờ biển Nam Trung Quốc. Người Hoklo ở Đài Loan, sau bao thế kỷ chung sống và hợp chủng với nhiều bộ tộc bản xứ ở vùng thấp và đồng bằng đã dẫn đến sự biến mất của một số bộ tộc. Qua quá trình giao lưu này, một số ngôn ngữ Austronesian đã được thu nhận, và ngôn ngữ Hoklo ở Đài Loan có nét địa phương khác với ngôn ngữ Hoklo ở tỉnh Phúc Kiến trong lục địa. Ngôn ngữ Hoklo ở Đài Loan nay được gọi là Đài ngữ. Người khách trú (Hakka) Danh từ “Hakka” chữ Hán có nghĩa là “khách trú”, do người Quảng Đông dùng để chỉ những người di dân xuống địa phận vùng Bắc Quảng Đông và Nam Phúc Kiến hiện nay. Thật sự người Hakka đã có mặt từ ngàn năm trước ở vùng Nam sông Dương Tử, chủ yếu ở khu vực Nam tỉnh Giang Tây, giáp giới với Phúc Kiến. Vì hoàn cảnh địa lý và lịch sử họ đã di dân xuống Quảng Đông. Hiện nay chúng ta không rõ lịch sử và khi nào từ này đã được dùng, chỉ biết là người Quảng Đông đã đối xử phân biệt với họ, cho họ là dân phi Hán, thuộc một loại dân tộc man di, như các tộc Thái, Choang (Zhuang) hay Mèo (Miao), ở miền núi hoang dã di dân vào ở các khu vực Hán. Thật sự thì cả người Quảng Đông cũng không phải nòi Hán, nhưng vì bị Hán hóa quá lâu nên cộng đồng của họ đã không còn giữ được trong ký ức trước kia họ thuộc chủng phi Hán. Vì bị coi như người ngoài đến lấn chiếm, và bị đối xử phân biệt nên một số người Hakka đã cũng tự cho họ là người Hán từ Bắc Trung Quốc xuống. Quyển sách cổ điển nói về nguồn gốc của người Hakka là của giáo sư Lo Hiong Lim, xuất bản năm 1933 (An introduction to the study of the Hakka : its ethnic, historical and cultural aspects). Ông chủ yếu dựa vào gia phả cho rằng người Hakka là từ Bắc Trung Quốc đã di dân xuống phương Nam qua nhiều đợt vì quê hương của họ đã bị các rợ phương Bắc xâm lăng. Ngày nay, nhiều công trình nghiên cứu khảo cổ, ngôn ngữ học và di truyền học đã cho thấy là thuyết của ông Lo không đúng. Ngay cả tư liệu gia phả cũng không chính xác và có nhiều sai lầm. Nhà ngôn ngữ học J. Norman cho rằng tiếng Hakka, Mân (Min) và Quảng Đông, “Việt” (Yueh) có cùng một nguồn gốc trong lịch sử, đã hiện diện ở Nam Trung Quốc từ trước thời Hán, mà ông gọi chung là tiếng Cổ Nam Trung Quốc (Old Southern Chinese) (xem #5). Nhà ngôn ngữ học Laurent Sagart, trong một nghiên cứu mới đây (2002) về nguồn gốc tiếng Hakka, đã cho thấy là ngôn ngữ này có nguồn gốc ở phía Nam Trung Quốc, với lớp tầng cổ nhất thuộc họ ngôn ngữ Mèo-Dao (Miao-Yao), hay còn gọi là Hmong-Mien (xem #4). Ngôn ngữ Hakka cũng rất gần với ngôn ngữ của người Gan (Cám) cư ngụ dọc lưu vực sông Cẩm Giang. Hiện nay, ở vài khu vực các tỉnh Giang Tây (Jianxi), Triết Giang, Phúc Kiến, Quảng Đông, người She (Hẹ), thuộc họ ngôn ngữ Hmong-Miên vẫn còn hiện diện. Ông Sagart cho rằng chính họ là tổ tiên của người Hakka và Gan, sau này bị Hán hóa dần từ thời Tống. Trước đây, nhà ngôn ngữ học Haudricourt cũng đã cho rằng tiếng Quảng Đông và Hakka có nguồn gốc từ tiếng Thái và Mèo-Dao, sau khi trải qua các quá trình Hán hóa lâu dài trong lịch sử (7). Giáo sư Fong Hok-Ka, trong sách nghiên cứu về người Hakka xuất bản tại Trung Quốc năm 1994 (Investigating in depth about the origin of Hakka), đã dùng những tài liệu lịch sử và khảo cổ tìm được ở các vùng của người Hakka trước đây cư ngụ. Ông cho thấy đã có một nền văn minh rất cao hiện diện rất lâu trước khi nhà Tần đánh chiếm các dân tộc phương Nam. Từ đó (221 tr. TL.) bắt đầu có quá trình Hán hóa cho đến giai đoạn sau thời Nam-Bắc Triều (589 TL.), khi nhóm Tiền-Hakka (Proto-Hakka) bắt đầu được thành lập và phát triển. Nói chung, các công trình nghiên cứu của các ông Norman, Sagart và Fong là có cơ sở hơn hết về nguồn gốc con người và ngôn ngữ Hakka. Sau người Hoklo, người Hakka bắt đầu di dân đến đảo Đài Loan vào khoảng thế kỷ 18, nhiều nhất là dưới triều đại nhà Thanh. Hiện nay, dân số người Hakka có khoảng 3 triệu, tức khoảng 15% dân số Đài Loan, đứng hàng thứ hai sau dân Hoklo. Vài nét về lịch sử hiện đại của Đài Loan Đài Loan đã có người thổ dân Austronesian sinh sống từ lâu đời. Tài liệu xưa nhất ở Trung Quốc đề cập đến Đài Loan là vào năm 230 TL., nói về một số người chạy loạn từ bờ biển Phúc Kiến, Quảng Đông đến cư ngụ tại đảo. Một tài liệu địa lý khác ở thế kỷ thứ 3 có nói về các bộ tộc sống trên đảo (7). Họ có phong tục và cách sống rất khác nhau, chứ không phải thuần nhất. Từ cuối thế kỷ 16 đến năm 1624, chỉ có một số rất ít người từ lục địa sang sinh sống dọc theo bờ biển phía Bắc. Họ sống ngoài vòng kiểm soát của triều đình Trung Quốc. Trong đó không ít là cướp biển. Thỉnh thoảng có một số người bị đắm tàu trôi dạt vào đảo. Họa hoằn lắm mới có các thương thuyền của người Bồ Đào Nha, Hòa Lan và các nước tạt qua trên đường hàng hải buôn bán với Nhật và Trung Quốc. Người Bồ Đào Nha gọi đảo này là Formosa (“hòn đảo đẹp”). Thổ dân Austronesian trên đảo cũng có tiếng là hung dữ, nhất là ở phía sâu trong đảo. Thêm nữa, vì không có cảng hay thành phố mà chỉ có các làng mạc thưa thớt dọc biển, nên không ai để ý đến. Với sự cạnh tranh ngày càng gia tăng của các nước Tây phương trong thị trường thương mại hàng hải với Nhật và Trung Quốc, người Hòa Lan đầu tiên chiếm các đảo nhỏ ở eo biển Đài Loan, như quần đảo Pescadores, và bắt đầu từ năm 1624 đến lập các cơ sở ở bờ biển phía Tây Đài Loan. Người Tây Ban Nha cũng đến phía Bắc đảo để chiếm đóng và lập các căn cứ làm thuộc địa từ năm 1626. Người thổ dân bị lấn chiếm và không chống trả nổi. Chiến tranh giữa Hòa Lan và Tây Ban Nha diễn ra liên tục trên đảo. Trong thời gian này, người Hoa từ lục địa cũng bắt đầu di dân sang ở một vài nơi phía Tây và Nam trên đảo. Biến cố 28/2 – Thảm sát ở Đài Bắc và khắp Đài Loan Cuối năm 1945, sau khi Nhật đã đầu hàng Đồng Minh, chính phủ Trung Quốc của Quốc Dân Đảng gởi người và quân đội đến Đài Loan để giải giới và thiết lập chính quyền mới trên đảo. Họ đến từ lục địa nhưng nắm hết quyền trong chính phủ, quân đội. Từ sự các biệt gần 100 năm lịch sử trong thời kỳ lệ thuộc Nhật và trước đó trong thời nhà Thanh, lối sống xã hội của người Đài Loan bản xứ đã khác nhiều với tập tục, suy nghĩ và nếp sống của những người tràn qua từ đất liền. Điều này bắt đầu dẫn đến những bất đồng và căng thẳng, nhất là sự hối lộ, tham nhũng, vơ vét, áp bức dân địa phương của chính quyền Quốc Dân Đảng trong các năm đầu khi họ vừa đến Đài Loan. Người dân bản xứ không quen với tệ nạn tham nhũng, vơ vét khi còn dưới thời Nhật cai trị, nên rất ta thán. Họ đã biểu tình phản đối, bắt đầu từ Đài Bắc rồi lan ra khắp Đài Loan. Quốc Dân Đảng đã phản ứng lại bằng cách “dạy dân địa phương một bài học”, như một số tướng và nhân vật Quốc Dân Đảng đã tuyên bố. Trong ngày 28/2/1947, quân đội đã nổ súng vào đoàn biểu tình và mở chiến dịch tấn công càn quét vào dân bản xứ, hậu quả thật khốc liệt, hơn 20.000 người đã bị thảm sát. Thiết quân luật đã được ban hành và áp dụng trên toàn lãnh thổ. Biến cố này là một bản lề quan trọng nhất trong lịch sử cận đại Đài Loan. Năm 1949, chính phủ Quốc Dân Đảng ở Trung Quốc, sau khi bị thua trận trong cuộc nội chiến, đã phải chạy ra đảo Đài Loan. Thiết quân luật được áp dụng chặt chẽ hơn, viện cớ tình trạng chiến tranh với đảng Cộng sản ở lục địa. Thiết quân luật chỉ chấm dứt sau này, vào năm 1987. Biến cố ngày 28/2/1947 có ảnh hưởng sâu rộng và hằn sâu trong tiềm thức của dân Đài Loan. Mặc dầu nó đã bị các chính phủ Quốc Dân Đảng che nay và cấm đề cập đến từ lúc đó cho đến cuối thập niên 1980, nhiều trí thức bản xứ và ngay cả một số trong Quốc Dân Đảng ly khai đã đặt lại vấn đề và từ đó thành lập đảng Dân Chủ Tiến Bộ đối lập cới chính quyền. Năm 1972, Đài Loan đã lỡ một cơ hội để trở thành một nước độc lập gia nhập vào Liên Hiệp Quốc. Trong thời điểm này, Mỹ đang hòa hoãn với Trung Quốc lục địa (Cộng hòa Nhân dân Trung quốc). Liên Hiệp Quốc cũng vừa công nhận chính phủ Cộng hòa Nhân dân Trung quốc (PRC) là đại diện cho Trung Quốc tại Liên Hiệp Quốc, thay thế chính phủ Cộng hòa Trung quốc (ROC) của Quốc Dân Đảng ở Đài Loan. Đài Loan lúc đó có thể từ bỏ chính sách là mình có chủ quyền ở lục địa và là thực thể đại diện cho tất cả mọi người dân Trung Hoa. Thay vào đó, Đài Loan nên tuyên bố độc lập xin vào Liên Hiệp Quốc với tư cách một nước mới. Đây cũng là hành động mà Mỹ khuyên Đài Loan nên theo trong cơ hội này, lúc Mỹ thương lượng với Trung Quốc, nhưng cính phủ Đài Loan đã từ chối và tiếp tục theo đuổi đòi chủ quyền cho cả Trung Quốc lục địa. Đây là một sai lầm chiến lược lớn mà sau này Đài Loan hối hận. Nhiều người đã đặt lại vấn đề là tại sao lại không có hai hoặc ba nước nói tiếng Trung Hoa trong Liên Hiệp Quốc, cũng như Liên Sô trước đây đã có Ukraine và Bielorussia hiện diện trong tổ chức này. Chính sách sau này của chính phủ Quốc Dân Đảng Đài Loan là cố gắng thiết lập được quan hệ ngoại giao với mọi nước (đa số là các nước nhỏ ở Trung Mỹ và Thái Bình Dương) và xin được vào các tổ chức quốc tế, như Y Tế Thế Giới (WHO), Phát Triển Văn Hóa (UNESCO), Thương Mại (WTO). Từ lúc đảng Dân Chủ Tiến Bộ (DPP) đối lập được thành lập, đấu tranh về đường lối giữa Quốc Dân Đảng và đảng Dân Chủ diễn ra rất gay gắt trong suốt thập niên 1980. Đến cuối thập niên 1990 thì người địa phương Đài Loan đã thực sự thắng lợi, với bản sắc Đài Loan được đặt làm nền tảng cho mọi chính sách đối ngoại và đối nội. Ngay cả Quốc Dân Đảng đã chọn người địa phương Đài Loan, ông Lý Đăng Huy, là vị tổng thống với chính sách mới ở giai đoạn cuối cùng trước khi đảng Dân Chủ lên nắm quyền năm 2000, mở đầu cho một kỷ nguyên và một thế kỷ mới. Sự hình thành và phát huy văn hóa truyền thống bản địa của các dân tộc ở Đài Loan Tôi đến Đài Trung (dọc bờ biển hướng Tây, cách Đài Bắc 150km phía Nam) vào tháng 6 năm 2000, một tháng sau khi ông Trần Thủy Biển nhậm chức Tổng Thống. Trung Quốc vẫn còn dàn hỏa tiển hướng về Đài Loan ngăn cách qua một eo biển nhỏ hẹp. Dân chúng tuy vậy rất bình tỉnh, tự tinh và không còn sợ hải như trước đây. Mặc dầu thị trường chứng khoán chưa hồi phục ở mức bình thường như trước lúc khủng hoảng, hoạt động kinh tế đã trở lại như trước, các trung tâm thương mại rất náo nhiệt, trừ các trung tâm của các công ty Nhật có rất nhiều ở Đài Loan vẫn vắng khách như xưa vì giá rất cao. Thành phố Đài Trung là thành phố lớn mà dân Hoklo hầu như chiếm gần hết, với một số ít còn lại là người các dân tộc thổ dân Austronesian. Thành phần dân ở Đài Loan gồm khoảng 15% là người Hakka (khách trú), 70% là người Phúc Kiến, 2% là người bản xứ thổ dân, 13% là người từ các vùng ở lục địa mới đến sau này. Mặc dầu không phải là đa số, nhưng những người mới đến từ lục địa đã chiếm lĩnh các vị trí quan trọng trong chính phủ, quân đội. Các hoạt động kinh tế phần lớn nằm trong tay họ , trong số đó có một số công ty có sự liên hệ rất mật thiết ới Quốc Dân Đảng. Ngay Quốc Dân Đảng cũng có những công ty riêng rất lớn với nguồn tài chánh và lợi nhuận khổng lồ. Tình trạng trên kéo dài trong hơn 40 năm, cho đến năm 1988, đảng Dân Chủ Tiến Bộ đối lập được thành lập. Đảng Dân Chủ Tiến Bộ đòi hỏi có sự công bằng và đấu tranh giành lại quyền chính trị với khuynh hướng độc lập, từ bỏ là đại diện Trung Quốc để lấy lại Hoa Lục của chính thể Đài Loan từ khi Quốc Dân Đảng thua chạy qua tá túc ở Đài Loan. Mặc dầu có nhiều khó khăn và trở ngại do chính phủ Quốc Dân Đảng tạo ra, dần dần tiếng nói của dân bản xứ đã được thể hiện. Trong những năm cuối thập niên 1980s và đầu 1990s, sự đối lập của đảng Dân Chủ Tiến Bộ và Quốc Dân Đảng chủ yếu là về khuynh hướng và chính sách, không những gay gắt trên chính trường (nhiều khi đưa đến xô xát bạo động trong quốc hội, các nơi diễn thuyết công cộng giữa hai phe mà chúng ta thường thấy trên truyền hình) mà còn được thể hiện ở dân chúng tùy theo dân thuộc thành phần nào, bản xứ hay không bản xứ. Năm 1996, ông Trần Thủy Biển được bầu làm Thị trưởng thành phố Đài Bắc. Trong thời gian làm Thị trưởng, ông đã đổi tên đại lộ trước dinh tổng thống từ “Đại lộ Tưởng Giới Thạch muôn năm” thành “Đường Ketagalan”. Ketagalan là tên một bộ lạc thổ dân Austronesian cư ngụ vùng xung quanh Đài Bắc đã bị tuyệt chủng từ lâu sau khi họ đã bị đồng hóa vào xã hội Đài Loan. Mặc dầu không phải là người gốc thổ dân, nhưng ông Trần Thủy Biển đã tích cực ủng hộ và phát triển quyền lợi và văn hóa thổ dân khắp Đài Bắc. Quan trọng hơn, ông đã lập ra một viện bảo tàng giữa một công viên lớn trong trung tâm thành phố để tưởng niệm biến cố ngày 28/2/1947. Công viên được đổi tên thành “Công viên Hòa bình 282”. Tôi có ghé thăm công viên và viện bảo tàng trong dịp viếng Đài Bắc vào năm 2000. Thật là cảm động khi thấy những hình ảnh, thơ từ, áo của các nạn nhân mang những lổ đạn, sách, báo chí, chứng từ, nói lên sự bất nhẫn qua hình ảnh của quân đội Tưởng Giới Thạch bắn giết hơn 20.000 người... ... Viện bảo tàng mang một biểu tượng với dòng chữ lớn “confused identity leads to tragedy – Taiwan has to know its past tragic event in 28/2/1847” (bản sắc bị map mờ dẫn đến thảm kịch – Đài Loan phải biết biến cố thê thảm đã xảy ra vào ngày 28/2/1947). Dĩ nhiên viện bảo tàng đã bị chính phủ Quốc Dân Đảng lúc bấy giờ chống đối và lên án. Nhưng cũng từ lúc ấy, đa số người Đài Loan gốc bản xứ (Hakka và Hoklo) đã bắt đầu ý thức được quyền độc lập và tự hào về sự khác biệt văn hóa, lịch sử, ngôn ngữ của họ đối với văn hóa quan thoại của Quốc Dân Đảng và của Trung Quốc lục địa. Ngay cả trong Quốc Dân Đảng, nhiều người (nhất là cá đảng viên gốc người bản xứ) đã đòi hỏi phải có cải tổ, thay đổi chính sách để thể hiện nguyện vọng của dân một cách thực tế và áp dụng được trong tình hình mới. Nó phải thích hợp với khuynh hướng và trào lưu dân chủ mà quần chúng đòi hỏi. Lý Đăng Huy, vị Tổng thống Quốc Dân Đảng cuối cùng trước khi Trần Thủy Biển lên thay, là người bản xứ, đã có những chính sách cởi mở. Chính ông cũng có những hoài bão độc lập như đảng Dân Chủ Tiến Bộ. Điều này đã làm cho chính quyền Trung Quốc rất tức giận và hằn học, gây nhiều khó khăn cho ông Lý Đăng Huy, ngay cả khi ông không còn trong chính trường và là một công dâ bình thường như hiện nay. Thí dụ như khi ông dự định đi viếng các nước như Anh, Mỹ, và gần đây là Nhật, với tư cách cá nhân riêng tư, chính quyền Trung Quốc cũng đã gây sức đến các nước sở tại để không cho ông thị thực nhập cảnh (visa). Ai nói là thù sẽ phai nhạt theo thời gian ? Để có thể phân biệt và tạo ra được sự khác nhau về xã hội, văn hóa giữa Đài Loan và Trung Quốc, Đài Loan từ Lý Đăng Huy đến Trần Thủy Biển đã khuyến khích phát triển và quảng bá rộng rãi văn hóa của những dân tộc thổ dân trong văn hóa Đài Loan. Ý thức về sự quan trọng của nền văn hóa thổ dân có nguồn gốc Mã Lai (Malayo-Indonesian) vào sự đóng góp chung với các văn hóa Hakka và Phúc Kiến để tạo nên một nền văn hóa khác biệt với văn hóa Hán Trung Hoa. Điều này đã được chấp nhận là yếu tố quan trọng bậc nhất đặt nền tảng cho sự thành hình một căn cước (identity) mới cho Đài Loan. Thêm nữa, mặc dầu Đài Loan đã có thời gian ngắn chỉ khoảng hơn 80 năm là một phần của Nhật Bản, trong thời kỳ Nhật cai trị, nhưng ảnh hưởng văn hóa Nhật đã thể hiện một phần trong văn hóa và con người Đài Loan. Đài Loan và Nhật Bản hiện nay có quan hệ kinh tế và văn hóa khá sâu rộng. Đặc tính riêng biệt là điều kiện tiên quyết cho sự khởi đầu thành lập quốc gia của một quần thể có văn hóa riêng. Quá trình văn hóa, tư tưởng như nói trên xảy ra ở Đài Loan trong việc tạo thành một nước có bản sắc riêng cũng mang máng tựa như quá trình mà người Việt đã trải qua trong thời kỳ Bắc thuộc. Trong quá trình này, nguy cơ văn hóa bản xứ có thể bị Hán hóa và tiêu diệt, trước khi có sự độc lập trong thế kỷ thứ 10 là rất cao, nếu không nhờ có văn hóa làng xã thuần Việt ở nông thôn được giữ vững. Sau bao nhiêu năm dưới các chính phủ Quốc Dân Đảng, ngôn ngữ Hakka, Hoklo và các thổ ngữ bị cấm dùng trong nền giáo dục và các công sở, thay thế bởi ngôn ngữ chính thức Quan Thoại (Mandarin). Trước đây, một số trí thức Hakka và Hoklo đã cố gắng giữ gìn tiếng nói của họ bằng nhiều phương cách. Một trong những phương cách là sáng tạo ra chữ viết mới dùng chữ Hán tạo ra loại chữ gọi là Koa-a-chheh vào thế kỷ 17 dưới thời kỳ thuộc nhà Thanh. Cấu tạo loại chữ này cũng tương tự một phần như chữ Nôm (Việt Nam), hoặc dùng âm chữ Hán để chỉ chữ địa phương, hoặc dùng nghĩa chữ Hán cho âm địa phương. Tuy nhiên các tiêu chuẩn chưa được thống nhất và có sự tùy tiện của người viết. Đến cuối thế kỷ 19, loại chữ viết này biến mất dần. Đầu thế kỷ 20, chữ cái Latin cũng được dùng để thể hiện tiếng nói địa phương (tương tự như chữ Quốc ngữ sau này ở Việt Nam). Nhưng hệ thống chữ này, gọi là Peh-oe-ji, đã không thành công, một phần là do chính sách của Quốc Dân Đảng. Chính sách của Quốc Dân Đảng là phát triển chính thức chữ Hán Quan Thoại để nó trở thành phổ thông trong đời sống xã hội, chính trị. Chữ mới này có thể gây nguy cơ giúp văn hóa địa phương phổ biến đe dọa sự độc tôn của Hán văn cổ điển mà Quốc Dân Đảng xây dựng từ khi đến Đài Loan (8), vì thề chính quyền Quốc Dân Đảng đã ngăn cấm loại chữ này. Vì chính sách ngôn ngữ và văn hóa độc tôn, trọng Hán của chính phủ Quốc Dân Đảng trước đây, rất nhiều thanh niên thuộc các thế hệ mới gần đây đã quên đi tiếng mẹ đẻ của họ. Chính sách này được thể hiện qua việc cấm dùng tiếng địa phương trên truyền thanh và truyền hình. Không những thế, trường học nào 9ể học sinh nói tiếng địa phương, không phải tiếng Quan Thoại, bị phạt tiền. Ông Trần Thủy Biển hiện nay (và trước đó ông Lý Đăng Huy), đã có chính sách cho phép các ngôn ngữ địa phương được dùng và dạy trong môi trường đa văn hóa ở xã hội Đài Loan. Bảo tồn và phát triển các loại văn hóa bản xứ đều được khuyến khích. Ở Đài Bắc, Cao Hùng và nhiều nơi khác, các trung tâm văn hóa Hakka, Hoklo, thổ dân đã được thành lập. Tháng 4/2001, ông Trần Thủy Biển cũng đã chính thức khánh thành viện bảo tàng văn hóa và lịch sử Hakka lớn nhất Đài Loan ở thành phố Meinung, thuộc quận Cao Hùng. Trong nội các chính phủ, ông thành lập Ủy ban Văn hóa Hakka, với hy vọng sẽ biến Đài Loan thành trung tâm nghiên cứu về văn hóa Hakka cao cấp nhất thế giới. Từ giữa thập niên 1980s cho đến nay, song song với sự thành lập phong trào dân chủ và đảng đối lập Dân Chủ Tiến Bộ, có phong trào Taibun (Đài văn) phổ biến văn học bản xứ Taigi (Đài ngữ). Mục đích của pong trào Đài văn là phổ biến văn học Đài Loan, dùng ngôn ngữ và chữ viết địa phương trong các địa hạt giáo dục, xã hội, để chống lại quan điểm là chỉ có văn học Hán văn viết về Trung Quốc là có văn hóa cao được quý trọng. Còn văn học viết về Đài Loan chỉ là văn hóa “xóm làng” ở địa hạt nhỏ bé trong văn học rộng lớn Trung Quốc. Quan điểm coi nhẹ, đánh giá thấp văn hóa địa phương từ trước đến nay của chính quyền Quốc Dân Đảng và của đa số các nhà trí thức Hán học quan thoại cổ điển từ lục địa đi qua, đè nặng vào lối suy nghĩ tâm linh của họ, đã bị chỉ trích. Phong trào Đài văn, ngược lại, lấy văn học, những gì liên quan hay viết đến Đài Loan bản xứ làm sự hãnh diện, chứ không phải là một sự hổ thẹn “xóm làng”.Phong trào Đài văn một phần đã thành công trong sự gợi dậy niềm tin và phát triển văn hóa, cũng như ngôn ngữ Đài Loan bản địa (Hoklo). Nhưng sự thống nhất và tiêu chuẩn hóa chữ viết chưa thực hiện được. Lý do chính là vì có nhiều hệ thống chữ dùng các từ Hán để phát âm (tương tự như chữ Koa-a-chheh trước đây) được sáng chế khác nhau. Ngay cả khi một trong các loại chữ này, như chữ Ganbun chẳng hạn, được nhiều người dùng hơn, thì vấn đề kỷ thuật trên máy tính và phần mềm xử lý để tạo ra chữ Ganbun đã gặp khó khăn. Vì hiện nay chỉ có chữ Hán là có sẵn và phổ thông trên thị trường máy tính mà thôi. Do đó hiện nay chỉ có chữ Hán Đài ngữ và Latin Đài ngữ (Peh-oe-ji) là được dùng nhiều nhất trong phong trào Đài văn. Nói tóm lại, có thể cho rằng tình trạng các dân tộc Hakka, Hoklo (Mân Việt) ở Đài Loan ngày nay cũng giống như tình trạng ở Giao Châu trước khi Ngô Quyền giành được độc lập cho Lạc Việt. Dân tộc Lạc Việt đã cố gắng giữ gìn văn hóa của mình, trong gần 1.000 năm Hán thuộc, để không bị Hán hóa. Nhưng tình hình ở thế kỷ 21 khác nhiều về không gian thế giới, do đó tình trạng của họ có khó khăn nhiều hơn, và có thể không có nhiều hy vọng trên con đường tiến đến độc lập như ông cha ta thuở trước. Tuy vậy, không ai có thể đoán trước được những gì sẽ ảy ra trong tương lai. Đối với Việt Nam, những gì sẽ xảy ra ở Đài Loan đều có ảnh hưởng ít nhiều về phương diện kinh tế và chính trị. Quan trọng hơn, nó còn chứa nhiều ý nghĩa đáng cho ta suy nghĩ về chính mình trong lãnh vực tư tưởng. _______ 1) Scott S., “Formosa diary #22, May 20 : A great proletarian cultural revolution”, Southeast Asia Discussion List, 25 May 2000. 2) Lin M., Chu L., Lee H. et al., “Heterogeneity of Taiwan’s indegenious population : possible relation to prehistoric Mongoloid dispersals”. Issue Antigens, 2000:55:1-9. 3) Lin M., Chu CC., Chang SL., Lee HL., Loo JH., Akasa T., Juji T., Ohashi J., Tokunaga K., “The origin of Minnam and Hakka, the so-called “Taiwanese”, inferred by HLA study”. Issue Antigens, 2000:57:192-199. 4) Tsai Ting-I, “Tracing Taiwanese bloodlines”, The Taipei Times, 6 May 2001. 5) Norman J., “Chinese”. Cambridge language surveys, Cambridge University Press 1988. 6) Norman J., Mei Tsu-lin, “The Austroasiatics in ancient south China : some lexical evidence”. Menumenta Serica, 1976, 32.274-301. 7) Sagart L., “Gan, Hakka and the formation of Chinese dialects”, tài liệu qua liên lạc cá nhân (chưa đăng trên tạp chí). 8) Wi-vun, Taiffalo Ching, “Language, Literacy and nationalism : A comparative study of Taiwan and Vietnam”. Vietnam Journal, Vol. 1, Oct. 2001. Nguyễn Đức Hiệp – Hoa Sen
    1 like
  28. Tôi nhận thấy số lượng người xem topic này không nhiều. Anh chị em tham gia học Phong Thủy Lạc Việt nhất thiết phải chép cuốn này làm tài liệu học quan trong. Vì đây là cuốn Dương trạch Tam yếu đầy đủ nhất từ trước đến nay mà tôi đưa lên diễn đàn. Nhưng nhớ phải ứng dụng nguyên lý căn để: Hậu thiên Lạc Việt phối Hà Đồ và những vấn đề liên quan mà tôi đã giảng trong lớp để hiệu chỉnh, hiệu đính lại.
    1 like