• Thông báo

    • Bá Kiến®

      Nội quy Lý Học Plaza

      Nội quy này là bản mở rộng Nội Quy - Quy định của Diễn đàn. Khi tham gia mua bán, các thành viên phải tuân theo những quy định sau: Tiêu đề bài viết: Bao gồm: Chỉ dẫn địa lý, Loại hình Mua/Bán, Thông tin mua bán.
      Chỉ dẫn địa lý: Tỉnh/thành nơi mua bán. Hoặc sử dụng định nghĩa có sẵn:TQ: Toàn quốc
      HCM: TP Hồ Chí Minh
      HN: Hà Nội
      [*]Ví dụ: HCM - Bán Vòng tay Hổ Phách ​Nội dung bài viết: Mô tả chi tiết sản phẩm mua/bán
      Bắt buộc phải có thông tin liên lạc, giá Mua/Bán
      Bài mới đăng chỉ được phép up sau 03 ngày.
      Thời gian up bài cho phép: 01 ngày 01 lần.
      Các hành vi vi phạm nội quy này sẽ bị xóa bài hoặc khóa tài khoản mà không cần báo trước.

Leaderboard


Popular Content

Showing most liked content on 23/12/2010 in all areas

  1. Giải mã trò chơi dân gian: TÍNH MINH TRIẾT TRONG TRÒ CHƠI LÒ CÒ XỦN Thiên Đồng – Bùi Anh Tuấn Trung tâm nghiên cứu Lý học Đông Phương Một trò chơi của trẻ em rất phổ biến trong dân gian Việt có thể đang ẩn giấu phía sau nó những mật mã có thể làm sáng tỏ hơn cho một lý thuyết học thuật cổ Đông phương đầy tính minh triết thuộc nền Văn hiến Lạc Việt gần 5000 năm huyền vĩ bên bờ nam sông Dương Tử. LỜI GIỚI THIỆU Kính thưa quí vị quan tâm. Có thể nói đây là một bài viết với những ý tương xuất sắc của tác giả Thiên Đồng Bùi Anh Tuấn - một thành viên nghiên cứu của Trung Tâm nghiên cứu Lý học Đông phương. Qua bài viết này, chúng ta thấy một sự liên hệ chặt chẽ giữa một trò chơi của trẻ em Việt Nam với những nguyên lý căn bản của thuyết Âm Dương Ngũ hành và mối liên hệ với những gía trị văn hóa phi vật thể truyền thống khác còn lưu truyền trong văn hóa dân gian Việt; như: Bánh chưng bánh dầy, ô ăn quan...vv.... Từ những sản phẩm của trí tuệ thể hiện qua những hình thức trò chơi dân gian tưởng chừng như đơn giản ấy, chúng ta lại nhận thức được mối liên kết hữu cơ rất chặt chẽ của những di sản văn hiến phi vật thể Việt với một lý thuyết đồ sộ và bí ẩn, làm tốn biết bao giấy mực của các nhà nghiên cứu quốc tế từ hàng thiên niên kỷ. Điều này càng thấy rõ một chân lý khách quan minh chứng cho Việt sử trải gần 5000 năm văn hiến, một thời huyền vĩ ở bờ nam sông Dương tử và là chủ nhân đích thực của nền Lý học Đông phương. Thiên Sứ - Nguyễn Vũ Tuấn Anh. Giám đốc trung tâm nghiên cứu Lý Học Đông phương I. SƠ LƯỢC VỀ TRÒ CHƠI1. Trò lò cò xủn ở Nam Bộ Việt Nam. Dưới đây là đồ hình trong trò chơi Lò cò xủn phổ biến ở Nam bộ Việt Nam. Độc giả xem hình dưới đây: Khi chơi, trẻ em thường vẽ đồ hình trên dưới đất bằng que vạch, hoặc phấn trắng trên nền gạch. Đồ hình gồm 10 ô từ 1 đến 10, gọi là 10 mức. Một ô với hình bán nguyệt trên cùng gọi là ô Trời hay mức Trời. Ba đường thẳng có chia đuôi gọi là đuôi chuột, nhằm phân ranh giới trái phải của vị trí khởi hành và kết thúc. Điều kiện chơi: * Vẽ hình trên mặt đất như hình trên * Ô 1, 2, 3, 4 và 7, 8, 9, 10 buộc phải lò cò (Di chuyển bằng một chân, chân kia co lên). * Ô 5 và 6 thì được phép bẹp 2 chân. * Đối tượng chơi: không phân biệt nam nữ, ấu lão, có thể lực có thể tham gia. * Hình thức: thi đấu tay đôi hay nhóm đối kháng. * Vật dụng: gọi là “chàm” thường là một viên đá, gổ hay những vật tương tự có bề mặt tròn dẹt, phải dùng chân đứng để di chuyển trong lúc chơi. Cách chơi Người chơi đến lượt mình vào vị trí khởi hành, thảy chàm bắt đầu từ ô số 1 và nhảy vào ô số 1 với một chân co một chân duỗi, dùng một chân di chuyển viên chàm từ ô số 1 lần lượt sang ô số 2, cứ thế thuận tự cho đến hết 10 ô. Đi đến ô nào bị phạm lỗi theo quy định thì phải ngừng chơi đến lượt người khác. Khi đến lượt mình thì bắt đầu từ ô đã đi được trong lần trước. Khi đi hết các ô từ 1 đến 10 thì người chơi thảy chàm sao cho vào ô Trời rồi di chuyển bằng cách nhảy chàng hảng hai chân từ ô 1-10, 2-9, 3-8, 4-7, 5-6, rồi quay ngược lại dừng lại ở ô 5-6, vẫn ở vị trí chàng hảng, nhưng ngồi xổm xuống thấp, lòn tay qua dưới 2 chân mò tìm chàm cho được mới thôi. Xong, người chơi di chuyển bằng cách như lúc đầu về vị trí khởi hành. Ở vị trí khởi hành, người chơi lại tiếp tục đi những thử thách tiếp theo, gọi là mụt ghẻ ở tay, ở chân, ở đầu và gánh nước bằng cách để viên chàm ở mu bàn tay, mu bàn chân, vai, đầu rồi di chuyển qua từng ô từ 1 đến 10, mà không lò cò sao cho chàm không rơi. Hết một vòng khi trở về vị trí khởi hành, người chơi tung viên chàm lên không rồi đưa tay bắt lấy, nếu rớt chàm thì dừng chơi, chờ lượt đi lại. Hết những thử thách, người chơi được quyền “cất nhà”, bằng cách đứng dạng hai chân ở vị trí khởi hành và vị trí dừng, quay lưng lại với vị trí đồ hình rồi tung chàm ngược ra sau. Chàm được phép rơi vào một trong 10 ô, không cán mức, không văng ra ngoài đồ hình thì coi như thành công. Chàm ở ô nào thì ô đó gọi là “nhà” và người chơi đi đến đó thì có quyền đứng 2 chân, không được co chân. Nếu lỡ co chân là “cháy nhà”, ô đó trở lại ô bình thường như ban đầu. Những người chơi khác, hoặc không cùng phe, không được quyền đứng hai chân ở nhà người khác, hoặc phe khác. Cất nhà xong, người chơi trở lại mức khởi điểm là mức 1 và tiếp tục một chu trình mới. Cuộc chơi ngừng khi các ô trở thành nhà của mình hoặc của đối thủ. Những ô đã trở thành nhà thì không phải thảy chàm vào ô đó. Ai hoặc phe nào nhiều nhà nhất được coi là thắng cuộc. Điều kiện ngừng chơi: * Trong khi di chuyển chàm, nếu chàm phạm vạch thì phải ngừng chơi và đến lượt người khác. * Chân đạp ranh giới giữa các ô hay chàm dừng ở ranh giới giữa các ô hay văng ra khỏi đồ hình. Tuy nhiên chàm văng vào giữa hai đôi chuột thì không bị phạm điều kiên này. * Lò cò vào ô 5 hay 6 thì người đi bị dừng chơi. * Bẹp 2 chân vào mức 1,2,3,4,7,8,9,10. * Cuộc chơi ngừng khi cả hai bên đồng ý ngừng Hình minh họa - Trẻ em chơi Lò cò xủn. 1. Trò lò cò xủn ở Bắc Bộ Việt Nam. Sự khác nhau giữa hình trò chơi ở miền Bắc với miền Nam - ở trên - là chỗ nơi ô Trời có hình tam giác, vẽ lớn hay nhỏ tùy theo người chơi. Do vậy nội dung quy định và cách thức chơi đại để giống như ở miền Nam, nhưng có cái khác cách chơi ở miền Nam một chút. Cụ thể, khi đi đến mức 5 thì người chơi xủn cho viên chàm vào “ô Trời” đồng thời cũng nhảy lò cò vào ô đấy. Có 2 trường hợp xẩy ra: Nếu chàm ở ngoài phạm vi ô tam giác thì người chơi chỉ được xủn một lần sao cho sang ô 6 mà không di dịch chàm nhiều lần trong “ô Trời”. Nếu chàm rơi vô đúng hình tam giác thì ngưới chơi phải xủn chàm ra khỏi khu vực tam giác rồi được phép xủn tiếp sang ô 6. Nhưng nếu chàm sau khi xủn ra mà vẫn còn vướng lại trong tam giác hay vướng ở biên của tam giác đó thì phạm quy, gọi là “Xê xích thủ”, buộc người chơi phải đi lại từ ô 01 đầu tiên. Trò chơi chỉ đơn giản như vậy nhưng mang đầy tính chất thể thao, nghệ thuật và trí tuệ. Bởi khi người tham gia cuộc chơi cần phải có một thể lực ổn định, một tinh thần nhạy bén giúp cho sự vận động và quan sát để thực hiện cách chơi. Đồng thời cần phải có sự khéo léo trong những động tác, hành động di chuyển để thắng cuộc. Vì vậy có thể nói trò chơi dân gian Việt, ngoài việc mang ý nghĩa lợi ích về tinh thần và thể lực cho người chơi thì nó lại chính là một loại hình văn hóa mang đậm nét trí tuệ sâu sắc của dân tộc Việt. Tuy nhiên, nếu nó chỉ dừng lại ở tác dụng của một trò chơi thì nó không phản ánh được một tư duy cao cấp hơn của một dân tộc có một nền văn hiến rực rỡ, văn hiến Việt 5000 năm. Bởi nội dung của trò trơi đó lại chuyển tải những mật mã, những thông điệp bí ẩn về một tri thức cao cấp của nền văn hiến ấy. II. GIẢI MÃ NHỮNG BÍ ẨN TRONG TRÒ CHƠI Từ những tác phẩm “Thời Hùng Vương qua truyền thuyết và huyền thoại”, “Định mệnh có thật hay không?”, “Hà đồ trong văn minh Lạc Việt”, “Tính minh triết trong tranh dân gian Việt nam”…của nhà nghiên cứu Nguyễn Vũ Tuấn Anh, lấy cảm hứng từ những sự hiệu chỉnh về nguyên lý lý thuyết học thuật cổ Đông phương hay sự giải mã của Ông về những bí ẩn trên linh vật bánh Dầy – bánh Chưng, những câu ca dao hay những trò chơi dân gian “chơi ô ăn quan”…người viết tiếp nối nguồn cảm hứng ấy hay ít ra là sự học tập từ một người Thầy, thử khám phá thêm những bí ẩn đằng sau những trò chơi dân gian, cụ thể là trò “Lò cò xủn” nhằm làm phong phú hơn cho sự nhận thức về một hệ thống lý thuyết thuộc nền văn minh Lạc Việt. 1. Bánh Chưng, Bánh Dầy - Linh vật của nền văn hiến Việt. Nếu câu chuyện bánh chưng bánh dầy lưu truyền trong tâm thức người dân Việt từ ngàn xưa như một mặc khải cho một hình tượng thiêng liêng của nền văn hiến Việt, dân tộc duy nhất trên thế giới dùng thực phẩm làm biểu tượng chuyển tải một giá trị minh triết đông phương, một tri thức về vũ trụ quan sâu sắc thì trò chơi dân gian, cụ thể là trò chơi lò cò xủn, là một phương thức khác âm thầm truyền lưu những tri thức ấy và như là một “dấu ấn” minh chứng cho chủ nhân của nền văn minh này. Từ bao đời nay, trong những ngày xuân mới, Tết đến, người dân Việt, con cháu Rồng Tiên với cả lòng thành kính dân lên tổ tiên Lạc Hồng đôi bánh Chưng – bánh Dầy, biểu hiện cho tâm thức người Việt. Một chi tiết tinh tế cũng như là một nghi thức chuẩn xác rằng khi đặt đôi linh tượng bánh Chưng – bánh Dầy lên bàn thờ tổ tiên Lạc Hồng thì luôn luôn chiếc bánh Dầy được đặt chồng lên trên chiếc bánh Chưng. Cũng theo cách giải thích của người xưa cho hậu nhân rằng Trời ở bên trên, đất ở bên dưới, bánh Dầy để trên bánh Chưng là ý đó. Một chiếc bánh bằng nếp giã trắng tinh hình tròn với vòng cung vồng lên hình bán nguyệt biểu thị cho Trời trên, một bánh Chưng hình khối vuông gói bởi lá xanh biểu thị cho Đất dưới;Lạ lùng thay được tái hiện lại một cách thông minh tuyệt vời bằng đồ hình của trò Lò cò xủn, truyền lại cho hậu thế bằng một loại hình trò chơi dân dã, chứa đựng tài tình nội dung một nguyên lý của thuyết Âm Dương Ngũ hành. Một ô hình cung bán nguyệt bên trên một ô lớn hình vuông chứa 10 ô nhỏ là một cách tái hiện rất giản đơn, nhưng tinh tế và rất cũng vô cùng bí ẩn hình tượng của bánh Dầy để trên bánh Chưng. Hay nói chính xác hơn là một đôi phạm trù Âm Dương. Trong trí nhớ của những trẻ nhỏ chơi trò Lò cò xủn, trong đó có cả người viết, ô hình cung bán nguyệt, theo quy định của trò chơi, được gọi là “ô Trời” hay “mức Trời” và 3 đường tua rua gọi là “đuôi chuột”, chính sự quy định này như là một mật ngữ, như là một chìa khóa để cho người viết khám phá ẩn ý đằng sau trò chơi. 2. Ẩn Ngữ “Dương trước Âm sau”: Vòng cung bên trên, theo một sự hiển nhiên, được đám trẻ nít của bao đời gọi là “ô Trời”, 3 tua rua cuối gọi là “đuôi chuột”. Hai chi tiết nhỏ nhưng qúy báu. Ô vòng cung được gọi là Trời đối lập với cái khác nó là hình vuông hay hình chữ nhật, tùy theo cách vẽ của người chơi, lẽ dĩ nhiên sẽ gọi là Đất theo sự giải mã. Chi tiết còn lại là 3 tua rua “đuôi chuột”. Chi Tý tức là chuột, con giáp đứng đầu trong 12 con giáp, gọi là Địa Chi thì ngay trong trò chời Lò cò xủn được nhắc đến, được dùng làm ranh giới cho mốc khởi đầu và kết thúc lượt chơi. Nhưng chi tiết này chỉ nêu một phần của chuột. Đó là “đuôi chuột”, tức cái phía sau của chuột. Như vậy cái đối lập với Trời, là ô vuông, được gắn kết một chi tiết phụ là “đuôi”, nghĩa là muốn nói cái có “sau”, là Đất, đối đãi với cái có trước là Trời. Cặp phạm trù Trời – Đất được mã hóa bằng đồ hình của trò chơi, cũng chính là một cách vẽ giản lược của hình ảnh bánh Dầy trên bánh Chưng, rõ ràng đây là hình tượng ám chỉ ý “Dương trước Âm sau”. Tuy nhiên, điều này vẫn chưa đủ đầy, khi đằng sau nó còn mang một nội dung sâu sắc hơn… 3. Ẩn ý “ Dương tịnh Âm động” và “ Mẹ tròn Con vuông” Khi vạch xong 10 ô, trẻ nhỏ hay người chơi không quên đánh số thứ tự vào từ 1 đến 10. Đây lại là một bí ẩn…lộ rõ từ hàng ngàn năm trước, nhưng chưa bao giờ được giải nghĩa cũng từ bao lâu...Thuận tự của các số được đánh số từ dưới đi lên, từ trái sang phải, từ trên xuống dưới, hết một vòng theo đúng chiều thuận, chiều kim đồng hồ…. cho thấy rằng 10 con số trùng hợp với 10 Thiên Can. Khi người viết mạo muội cho áp theo thứ tự của 10 Can theo thứ tự 10 số thì chiều tương sinh của ngũ hành hiển thị chiều vận động của của Thiên Hà trong vũ trụ được diễn giải cô động trên nguyên lý căn để là Hà Đồ. Từ sự giải mã của phần trên, cho rằng đồ hình trò chơi Lò cò xủn là đồ hình giản lược của hình tượng bánh Dầy trên bánh Chưng, linh tượng của văn hiến Việt, biểu thị cho sự lý giải về thể bản nguyên vũ trụ - tức bánh Dầy- và một trạng thái đối đãi có sau nó – tức bánh Chưng- thì ngay trong trò chơi, tính trạng của hai thể đối đãi này được diễn tả trực thị qua quy định và hoạt động của trò chơi. Trước tiên, xin khảo qua một đoạn trong tác phẩm “Thời Hùng Vương qua truyền thuyết và huyền thoại’, trang 40, của nhà nghiên cứu Nguyễn Vũ Tuấn Anh: Quy định của trò chơi, người chơi chỉ “đi”, tức mọi hoạt động di chuyển và diễn biến của trò chơi, chỉ diễn ra trong phạm vi hình vuông, 10 ô số, và chiều di chuyển của người chơi là chiều thuận của chiều kim đồng hồ cũng chính là chiều tương sinh của âm dương ngũ hành. Một cách trực kiến, ô hình vuông được diễn tả ý nghĩa “động” qua những hoạt động của người chơi, theo chiều biểu kiến của người “đi” nước lò cò, là chiều biểu kiến sự vận động tương tác thuận của ngũ hành được thể hiện trên Hà Đồ. Nói một cách khác, phần ô vuông trên đồ hình của trò chơi là diễn tả bằng một hình thức khác đồ hình của Hà Đồ, tức diễn tả trạng thái sau khởi nguyên của vũ trụ là Âm Động đối đãi có sau so với Dương tịnh có trước. Ý nghĩa Dương tịnh, tức Thái Cực chí tịnh là bản nguyên của vũ trụ khi chưa có cái đối đãi, được giản đơn bằng một ô bán nguyệt cung tròn viên mãn, gọi là “mức Trời”, mà nơi đó người chơi không được phép “đi”, tức ô Trời được để trống không, yên tịnh, nhằm diễn tả nghĩa Tịnh của cái Dương, cái Thái Cực. Ẩn ý “Dương tịnh Âm động”, Mẹ tròn con vuông” được mã hóa một cách khéo léo, bí ẩn và giản đơn thông qua mô hình giản lược, một trò chơi của trẻ nhỏ lột tả hết nội dung của một nguyên lý lý thuyết học thuật cổ Đông phương và dường như trong trò chơi còn diễn giải những ẩn ý về sự nhận thức vũ trụ. 4. Ẩn Ý Về Sự Nhận Thức Vũ Trụ: “Tính Thấy Trong Minh Triết Cổ Đông Phương”. Trong cách thức chơi, có một quy định về một “nước đi” như sau: “Khi đi hết các mức từ 1 đến 10 thì người chơi thảy chàm sao cho vào ô Trời rồi di chuyển bằng cách nhảy chàng hảng hai chân từ ô 1-10, 2-9, 3-8, 4-7, 5-6, rồi quay ngược lại dừng lại ở ô 5-6, vẫn ở vị trí chàng hảng nhưng ngồi xổm xuống thấp, lòn tay qua dưới 2 chân mò tìm chàm cho được mới thôi. Xong, người chơi di chuyển bằng cách như lúc đầu về vị trí khởi hành.”. Hoạt động của trò chơi chủ yếu diễn ra trên ô vuông lớn chứa 10 ô theo quy định, riêng ô Trời không được đi vào đó, nhưng khi đi hết 10 ô thường thì được phép thảy chàm vào “ô Trời”, muốn lấy chàm thì phải nhảy cóc bằng 2 chân trong 2 ô, rồi dùng sự phán đoán mà nhặt chàm. Từ những sự giải mã trên, “ô Trời” là mật thư cho hình tượng bánh Dầy, là ý niệm về cái Dương, là Thái Cực, đó là trạng thái về bản nguyên của vũ trụ. Có thể tổ tiên Lạc Hồng với nền văn hiến Lạc Việt gần 5000 năm, kể từ năm Nhâm Tuất 2879 trc CN, muốn chuyển tải một ẩn ngữ rằng “Sự nhận thức về một thực tại khởi nguyên của vũ trụ không thể thông qua sự logich lý trí, suy luận của cái đầu mà phải nhận thức thực tại ấy bằng một tư duy trù tượng cao cấp ngay từ bản nguyên và gốc rể của nó” Chi tiết trong trò chơi cho thấy rõ, người chơi không nhìn trực tiếp để nhặt chàm. Nếu quay lưng lại, không nhìn ra sau,thì phải lòn tay qua hai chân mà không lòn tay ra sau lưng, do vậy phài cần đến sự phán đoán của tư duy trừu tượng - đây chính là sự nhận thức sự khởi nguyên của vũ trụ tại giây /0/tuyệt đối. Cũng tương tự như sự khởi sinh của một con người thoát ra từ bụng mẹ thì hành động lòn tay qua hai chân dưới và ngang bộ phận sinh dục, bộ phận khởi sinh những “tiểu vũ trụ” là con người, thì đó lại là một ẩn ngữ cho biết rằng có một lý thuyết toàn diện giải thích thực tại từ sự khởi nguyên của vũ trụ và muốn nhận thức thực tại ấy thì không gì khác hơn rằng phải dùng tư duy trù tượng nhận thức lại từ căn để thực tại ấy, đó gọi là tính “Thấy” hay gọi là Tính “Biết” được diễn từ hằng ngàn năm trong Lý học Đông phương. Hành động người chơi phải nhảy cóc hai chân trên hai ô, hai hành Âm Dương có thể là một ẩn ngữ cho biết rằng muốn tiến tới một nhận thức tuyệt đối là bản nguyên vũ trụ, tính “Thấy” hay tính “Biết” phải vượt qua tâm lý nhị nguyên, phải đạt được trạng thái của sự cân bằng âm dương thì mới có thể tiệm cận đến trạng thái tuyệt đối ấy. Hình minh họa - Lòn tay ra sau lưng tìm chàm 5. Tịnh - Động là tương đối sau khởi nguyên Vũ Trụ Ở cách chơi phổ biến vùng Nam Bộ Việt Nam, trò chơi diễn tả rõ bản chất của Dương tịnh và Âm Đông qua những biển hiện cụ thể của trò chơi. Nhưng trờ chơi lò cò xủn ở vùng Bắc bộ Việt Nam thì có chút khác biệt về hình thức thể hiện đồ hình, chính sự khác biệt này lại diễn tả một ý khác của Lý học đông phương: “Tịnh động là tương đối sau sự khởi nguyên của vũ trụ”. So với cách chơi và đồ hình trò chơi vùng Nam bộ thì cách chơi vùng Bắc bộ người chơi được phép lò cò vào “Ô Trời”, nhưng không được phép dịch chuyển chàm nhiều lần trong ô này, khác với ô 1 đến 10 được phép dịch chuyển nhiều lần có thể. Như vậy nhìn chung, cả đồ hình, mọi chổ đều thể hiện tính chất “động”, tuy vậy tiền nhân đã ý nhị sắp sẵn sự quy định sự di chuyển ở “ô Trời” bị hạn chế hơn 10 ô còn lại, chi tiết này thật tinh tế. Người viết cho rằng đó là sự diễn tả ý nghĩa “Tịnh động tương đối”. Xin khảo qua một đoạn trong “Thời Hùng Vương và bí ẩn Lục thập hoa giáp”, tg Nguyễn Vũ Tuấn Anh, trang 33: Có thể hiểu, mặt trời tỏa sáng và tịnh so với Trái đất, nhưng ngay trong bản thân mặt trời, các hiện tượng sôi sục, cháy bỏng, bão mặt trời vẫn diễn ra quyết liệt ngay trong nội tại. Sự nhìn nhận cái “Động Tịnh” phải được xem xét trong cái toàn thể và trong mối tương quan đối đãi thì mới thấy được tính chân lý của vấn đề. Hay nói cách khác là sự phân biệt Động Tịnh mang tính đối đãi so sánh và tùy từng hệ quy chiếu. 6. Tri thức nhân loại tiến tới sự nhận thức Bản nguyên Vũ Trụ Trong đồ hình trò chơi vùng Bắc bộ, phần ô Trời được vẽ thêm hình tam giác và khi người chơi không dịch chuyển được chàm ra khỏi tam giác này bằng một lần đẩy duy nhất thì bị phạm quy, gọi là “xê xích thủ”. Yếu tố bí ẩn lại được tăng thêm khi xuất hiện chi tiết này. Các cụ ngày xưa đều biết, khi vẽ hình tượng tam giác là một hình tượng mang ý nghĩa thô tục xấu xa. Một hình tam giác được vẽ trên vách tường nhà, kế bên là câu chửi. Tranh cổ của Hăng-ri -Óc ghe đầu thế kỷ XX. Một hình tam giác được vẽ ở vách một ngôi nhà để “chửi” hay có ý nghĩa mĩa mai một ai đó như ngày nay người ta vẫn vẽ trên tường những câu thô tục vẫn thường thấy. Bởi hình tượng tam giác trong hiện tượng văn hóa dân gian của người Việt thể hiện cho sinh thực khí nữ, hay nói đúng hơn là bộ phận khởi sinh cho những “tiểu vũ trụ” con người. Hình vòng cung bán nguyệt “ô Trời” như một cái bụng bầu của người phụ nữ, điểm xuyết thêm một tam giác và như vậy hình ảnh phồn thực khi phụ nữ lâm bồn, chuyển dạ được cách điệu tinh tế thông qua khả năng trừu tượng của người quan sát. Một chi tiết thật bất ngờ và bí ẩn, ngay cả khi người viết nhận ra hình tượng này, thán phục trước sự tinh tế của tiền nhân Lạc Việt. Từ sự quán xét hình tượng trên, có thể đây hiểu rằng đây là một hình tượng cô động diễn tả nội dung của của Nguyên lý học thuật cổ đông phương về sự khởi nguyên của vũ trụ, cái bản nguyên duy nhất và trước nhất mà mật ngữ dân gian Việt thường gọi “Mẹ tròn”, nay sự điểm xuyết của hình tượng tam giác nâng lên hay khẳng định “tính mẹ” của khái niệm, nghĩa là vũ trụ được khởi sinh từ một thể bản nguyên viên mãn, như một đứa con sinh ra từ bụng người mẹ. Cũng giống như hành động lòn tay qua hai chân của người chơi trong cách chơi thứ nhất, ý nghĩa của hình cung tròn và tam giác muốn chuyển tải một ẩn ngữ diễn đạt về sự nhận thức một thực tại vũ trụ phải thông qua một tư duy trừu tượng mới có thể nhận thức được thực tại đó cho mọi sự khởi nguyên. Hình tam giác trên chóp Kim tự tháp trên tờ đô la. Mặt khác, hình tượng tam giác được nhìn thấy ở nhiều dân tộc trên thế giới như các Kim tự tháp Ai Cập, Hy Lạp, Kim tự tháp InCa, Maya, như chóp tam giác có hình con mắt trên tờ dollar…là biểu tượng sự thông minh, sự huyền bí hay những tri thức chưa được biết đến. Bằng một óc tưởng tượng giản đơn: một hình ảnh của kim tự tháp nào đó hiện ra dưới vòm trời bao la được giản lược qua đồ hình của trò lò cò. Sự trùng lặp đôi khi có hay không có nguyên do, nhưng nếu chỉ gói gọn trong trò chơi dân gian Việt, trong phạm vi giải mã của trò chơi thì tam giác và cung tròn cũng đủ tạo nên một hình tượng “con mắt huyền bí” chứa đựng những ẩn ngữ cho một lý thuyết Âm Dương Ngũ Hành, lý thuyết học thuật cổ đông phương, lý thuyết thống nhất vũ trụ. Do vậy một mật mã cuối cùng của trò chơi được giải nghĩa rằng: “Phải nhận thức bản nguyên của vũ trụ là cái toàn thể, cái duy nhất một, cái mang tính Mẹ với sự viên mãn, chí tịnh khởi sinh vạn hữu và “cái đó” được khái niệm gọi rằng tính Thấy hay tính Biết được diễn giải trong nguyên lý học thuật cổ đông phương từ bao đời nay.” Hình trẻ em Việt Nam chơi lò cò xủm III. LỜI KẾTSự giải mã không nhằm làm bằng chứng chứng minh mà nhằm khám phá những bí ẩn đằng sau những dấu ấn văn hóa vật thể hay phi vật thể còn phổ biến hay âm thầm tồn tại trong xã hội người Việt hằng ngàn năm. Những thăng trầm của lịch sử tương tự như sự thăng trầm tồn tại của một học thuyết cổ Đông phương đã làm cho lý thuyết ấy bị thất truyền thì những giá trị được che giấu hay ít ra là trùng lấp ẩn sau những văn hóa vật thể hay phi vật thể như ca dao, hò vè, tục ngữ, dân ca, hình tượng, biểu tượng hay những trò chơi dân gian…sẽ làm định hướng cho việc làm hoàn chỉnh hay nhận thức đúng đắn một lý thuyết cổ đông phương mà nhà nghiên cứu Nguyễn Vũ Tuấn Anh từng khẳng định đó là một “Lý thuyết thống nhất vũ trụ”, một lý thuyết mà các nhà khoa học hiện đại từng mơ ước: Hay như SW Hawking, nhà vật lý thiên văn hàng đầu thế giới, đã từng viết: Nhưng thật thú vị, những quy luật vũ trụ thuộc một lý thuyết cho sự nhận thức về thực tại vũ trụ lại được diễn tả cô động và sinh động chỉ trên một trò chơi trẻ nhỏ của người Việt. Chỉ có thể có ở một sự thông minh linh hoạt của những chủ nhân của nền học thuật cổ Đông phương thuộc nền văn minh Lạc Việt mới có thể mã hóa một cách xúc tích những ẩn ý của lý thuyết cao cấp ấy. Đó chính là câu trả lời cho sự băn khoăn của nhà khoa học hàng đầu SW Hawking, khi ông đặt vấn đề: Lý thuyết ấy được tập cho trẻ em Lạc Việt ngay từ khi còn thơ ấu qua trò chơi Lò cò xủn, ô ăn quan , bánh chưng, bánh dầy...... Tp HCM, 16/12/2010 Thiên Đồng Bùi Anh Tuấn ===================================== Tài liệu Tham khảo: - Hà Đồ trong văn minh Lạc Việt, tg Nguyễn Vũ Tuấn Anh, NXB Tổng Hợp TpHCM 2007 - Thời Hùng Vương qua truyền thuyết và huyền thoại, tg Nguyễn Vũ Tuấn Anh, NXB Tổng Hợp TpHCM 2003 - Tính minh triết trong tranh dân gian Việt Nam. - Phong thủy Lạc Việt, tg Nguyễn Vũ Tuấn Anh, lưu hành nội bộ.
    8 likes
  2. Thời gian sốt đã qua lâu. Trang thái hững hờ trở lại. Từ nay đến hết mùng 10. 1. Có bản lĩnh thì chơi. Không đủ bản lĩnh thì thận trong.
    4 likes
  3. Tuần -Triệt không phải là tinh đẩu nên không có đắc địa hay hãm địa ,cho nên có 1 trường phái của tàu khựa loại trừ tuần triệt ra ngoài lá số tử vi họ coi như không có 2 tên tuần triệt nầy / cũng có phái cho là Tuần khi đóng cung Dần -Mão thì vô hại vì mộc sanh hỏa nhưng lại không nói nếu như tuần, thì triệt đến cung Thìn-Tuất- Sữu mùi thì vô hại vì 2 cung nầy thuộc Thổ sanh kim ? cho nên theo sách của Tử vi ảo bí ,khi tuần lâm hỏa địa và Triệt đáo kim cung là đúng nhất ,vì qua kinh nghiệm tôi đã xem 1 lá số có triệt đáo kim cung tại cung tài có tài tinh tọa thủ trái lại không bị triệt phá mà lại tốt vì Vũ khúc thuộc kim cho nên kiếm tiền như hái trái trên cây ,1 lá số khác tuần tại Tỵ có các sao như phủ -lộc nếu bị tuần phá thì người nầy chắc có cách như đi xin ăn ,nhưng vẫn có tiền vô thì ít nhưng khi vào thì số lớn chứ không nhỏ như trường hợp triệt đáo kim cung như trên ,cả 2 lá số trên tôi đều nghiệm xét rất nhiều năm để kiễm chứng về triệt đáo kim cung và tuần lâm hỏa địa .Trường hơp tuần nằm tại mộc cung là tốt như có 1 số sách nói nhưng tôi cho là sai vì có vài lá số tôi đã xem qua người có tuần tại Dần liêm trinh thủ mệnh thì người nầy luôn vất vã và khốn khó trong cuộc đời ,lại thật đúng với câu quân tử tại dã trong cách bần tiện cục của Thái Thứ Lang . Trong thập niên kế sẽ bắt đầu khá dần lên mọi chuyện thuận lợi nhất là vào 1/2 cuối của thập niên đó ,nhưng khuyên rằng nên tích cốc phòng cơ tích y phòng hàn ,vì sau thập niên tốt đẹp nầy thập niên sau kế thì rất là đau lòng đủ mọi thứ có thể chỉ đủ gạo để nấu cháo thay cơm .
    4 likes
  4. TU LÀ CHUYỂN NGHIỆP Hòa thượng Thích Thanh Từ Tuyển tập 7 bài viết về "nghiệp" trong Phật giáo 1. Tu Phải Là Hiền 2. Nghiệp Dẫn Đi Trong Luân Hồi Lục Đạo 3. Biệt Nghiệp và Đồng Nghiệp 4. Chánh Báo Và Y Báo 5. Bồ Tát Sợ Nhân, Chúng Sanh Sợ Quả 6. Thần Thông và Nghiệp Lực 7. Tu có chuyển được nhân quả không?[/size] ________________________________________ Tu Phải Là Hiền Buổi nói chuyện hôm nay tôi nhắm vào Quý Phật tử Phước Thái nhiều hơn là Quý Phật tử ở các nơi. Vậy Quý vị hãy lắng nghe cho kỹ. Ở đây tôi không giảng những đề tài cao siêu, mà đặt những câu hỏi rất thực tế, rất thấp, quý vị hãy trả lời đúng như chỗ mình biết, để rồi tôi hướng dẫn cho quý vị tu hành. - Quý vị đi chùa học đạo, có phải tu theo đạo Phật không? - Thưa Phải. - Vậy người tu là hiền hay dữ? - Dạ hiền. - Người đi chùa, lậy Phật, ăn chay, tụng kinh, nếu có người xúc phạm đến thì nóng nảy la lối. như vậy có hiền không? - Dạ chưa hiền. - À, chưa hiền tức là chưa tu. Vậy đi chùa tụng kinh mà chưa hiền chưa gọi là người tu. Người tự nhận mình tu theo đạo Phật mà chưa hiền thì sao?. Phải tu thế nào mới gọi là tu theo đạo Phật. Và làm thế nào để được hiền, quý vị biết không? - Dạ chưa biết. - Đây tôi hướng dẫn cho quý vị để thành người hiền rất thực tế và dễ dàng. Theo tinh thần đạo Phật, tu là tu ở ba nghiệp: Thân nghiệp, khẩu nghiệp, và ý nghiệp. Khi chưa biết tu, Thân có khi làm lành có lúc làm dữ, miệng có khi nói lời thiện có lúc nói lời ác, ý có khi nghĩ tốt có lúc nghĩ xấu. Khi biết tu thì việc lành nên làm, việc dữ nên tránh. Lời thiện thì nói, lời ác thì chừa. Điều tốt thì nghĩ, điều xấu thì dừng. Người biết tu thân không làm ác, miệng không nói ác, ý không nghĩ ác, đó là người hiền. Tu chủ yếu không phải ăn chay nhiều, vậy mà Phật tử cứ đua nhau ăn chay, cho ăn chay nhiều là tu, chứ không biết tu là chừa ba nghiệp ác. Nhân gian có câu ca dao để nhạo báng người ăn chay mà không hiền. Sân si nghiệp chướng không chừa Bo bo mà giữ tương dưa làm gì? Tham sân si là nghiệp chướng của thân miệng và ý thì không chịu chừa bỏ, mà cứ đua nhau ăn chay, rồi cho đó là tu, tu như vậy không đúng với chủ trương của đạo Phật. Tu là thân không làm ác, miệng không nói ác, ý không nghĩ ác. Trong gia đình, nếu mọi người không biết tu thì cứ cãi và chửi bới gây phiền não cho nhau. Thậm chí gây cãi không nguôi còn giận thì đánh đập, đánh đập không thỏa mãn cơn giận thì tình nghĩa không còn, mà tình nghĩa đã hết thì ly dị chia tay, gia đình đổ nát. Nếu mọi người biết tu thì ý vừa khởi nghĩ ác, liền biết xấu chế ngự không dám nói lời nặng, không nói nặng thì đâu có cãi, không cãi thì làm gì có đánh đập, không đánh đập thì đâu có ly dị, gia đình thường an vui hạnh phúc. Như vậy, nếu người biết tu thì ý không bao giờ nghĩ xấu cho ai, tâm không bực bội phiền não, lúc nào cũng vui vẻ an ổn. Nếu ý không nghĩ xấu thì miệng thân đâu có nói, làm hung ác khiến cho người đau khổ. Mà không làm khổ người thì được người thương mến, người thương mến thì không hại, nếu có chuyện bất trắc thì được người giúp đỡ. Khi đã biết tu thì thân miệng ý lúc nào cũng thiện, ba nghiệp mà thiện thì tự thân được an vui, trong gia đình trên thuận dưới hòa, ngoài xã hội không gây xáo trộn sẽ được trật tự an bình. Như vậy người biết tu, chẳng những chính bản thân mình được lợi ích, mà gia đình và xã hội cũng được lợi ích. Đó là người tu đúng theo lời Phật dạy. Nếu chỉ biết ăn chay, tay lần tràng hạt, mỗi khi có ai xúc phạm đến thì la lối chửi rủa không thua ai; Người như thế không hiền, chưa phải là người tu. Do vậy, nên bị kiêu ngạo: "Ngoài miệng thì nam mô, trong bụng thì chứa một bồ dao găm". Ngoài miệng thì niệm Phật lâm râm, nhưng trong tâm thì quá hung dữ. Thế nên, cho ăn chay nhiều, niệm Phật nhiều là tu mà không chịu chuyển thân, miệng, ý cho thiện thì làm trò cười cho thiên hạ. Vì vậy, khi nói lời tu, người Phật tử phải nhớ thân miệng ý phải thiện. Phật dạy, tu một giờ, là được an vui hạnh phúc một giờ, tu một ngày là được an vui hạnh phúc một ngày, tu một năm là được an vui hạnh phúc một năm. Nhưng gần đây có một số Phật tử nghĩ rằng ăn chay, đi chùa, làm công quả có phước nên ham đua nhau làm. Ví dụ, trong gia đình trung bình ăn chay một tháng bốn ngày, vì nghe nói ăn chay có phước nhiều được khen, nên người vợ tăng thêm sáu ngày, rồi mười ngày... chồng con ăn theo không nổi nên có chuyện xào xáo trong gia đình. Rồi than trách rằng mình muốn tu muốn tiến, mà bị quỉ nó phá nó ngăn không cho tu tiến, Người nghĩ nói như vậy có tu không? Tu mà ý khởi nghĩ ác, miệng chửi chồng con là quỉ. Như vậy, chưa phải là người Phật tử chân chính. Người Phật tử chân chính không đặt nặng việc đi chùa thường, tụng kinh giỏi, ăn chay nhiều, mà phải biết tu ba nghiệp thân khẩu ý cho thiện. Tức là chuyển ba nghiệp ác thành ba nghiệp thiện, đi chùa niệm Phật ăn chay là phải nhớ từng hành động, từng lời nói, từng ý nghĩ luôn luôn phải thiện. Như vậy, có lúc nào là không tu. Chẳng hạn thân cuốc cỏ, xưa thấy rắn thì lấy cuốc đập chết, nay thấy rắn tránh không đập, đó là chuyển nghiệp thân ác thành thiện. Xưa khi tiếp xúc với bạn bè họ nói lời hung dữ làm mình tức giận bèn nói nặng lời cho bõ ghét, nhưng nay nhớ mình là người tu không được lớn tiếng gây cãi nên im lặng mà nhẫn nhịn. Đó là chuyển nghiệp khẩu ác thành thiện. Lúc ngồi một mình vừa khởi nghĩ xấu về người liền hổ thẹn dừng không nghĩ nữa. Đó là chuyển nghiệp ý ác thành thiện. Tu như vậy, đâu có đợi vô chùa tụng kinh lạy Phật mới tu, mà giờ nào ở đâu tu cũng được, thế mới đúng ý nghĩa tu của đạo Phật. Nếu hiểu và tu như vậy, thì lo gì mai kia không được về cõi Phật. Trong kinh có câu: "Tam nghiệp hằng thanh tịnh Đồng Phật vãng Tây phương" Ba nghiệp mà hằng trong sạch thì đồng với Phật về cõi Phật. Nếu không bỏ ba nghiệp ác mà cố niệm Phật nhiều câu Phật A-Di-Dà rước về Cực Lạc, cũng không được rước về, vì ba nghiệp còn ác thì về đó cứ gây cãi đánh đập hoài biến cõi Cực Lạc thành cõi Ta Bà khổ hay sao ? Vậy, tu cốt là chuyển ba nghiệp ác thành ba nghiệp thiện là bước đầu, tụng kinh niệm Phật là bước kế tiếp. Bước đầu là nền tảng mà không thực hiện trước, lại đi bước thứ hai, giống như cất nhà lầu mà không xây nền móng, quyết định cái nhà sẽ đổ không thành. Lại cũng có nhiều Phật tử đi chùa lâu năm, ăn chay, niệm Phật, Nếu con cháu có làm gì phật ý thì mắng chửi không tiếc lời, khiến cho con cháu buồn không thương mến. Rồi viện cớ là chỉ hiền với người ngoài thôi, đối với con cháu trong nhà phải khó phải dữ nó mới sợ. Người Phật tử nói vậy là không đúng. Tu là phải hiền, hiền với tất cả mọi người, từ trong nhà cho đến ngoài xã hội. Giả sử con cháu có làm bậy, làm sai, thì nên ôn tồn nhỏ nhẹ khuyên dạy con cháu. Đừng nên chửi bới la rầy, vì lúc nóng giận không kiểm soát được ý nghĩ lời nói, sẽ nói bậy, mà nói bậy thì mất uy tín với con cháu. Kinh Phật ví dụ một Trưởng giả có tất cả bốn bà vợ. Người thứ nhất rất trung thành với ông, thế mà suốt ngày ông không nghĩ tới. Người vợ thứ hai được ông lưu ý chút ít. Người vợ thứ ba được ông nhắc nhở liền miệng. Người vợ thứ tư thì ông ở đâu bà có mặt ở nơi đó, Không rời một gang tấc. Một hôm ông đau nặng sắp chết, hỏi cả bốn người vợ: - Tôi sắp chết, trong bốn bà có ai nguyện chết theo tôi không ? Vợ thứ tư lên tiếng trước: - Bình thường ông ở đâu thì có mặt tôi ở đó, bây giờ ông chết tôi xin đưa ông tới cửa. Vợ thứ ba lên tiếng tiếp: - Bình thường tôi được ông lưu ý nhắc nhở liền miệng, bây giờ ông chết tôi xin đưa ông tới cổng. Vợ thứ hai nói: - Bình thường tôi cũng được ông nhắc nhở, bây giờ ông chết tôi xin đưa ông tới mộ. Vợ thứ nhất nói: - Bình thường tuy ông không nghĩ tới, nhưng bây giờ ông chết, tôi nguyện chết theo ông. Qúy vị thấy ông Trưởng giả quá bất công và bội bạc, người thương mình, trung thành với mình thì lơ là không nghĩ đến, người thương ít thì luôn luôn theo dõi không rời... ông Trưởng giả bất công bội bạc này Phật dụ cho mỗi người chúng ta. Người vợ thứ tư Phật dụ cho tiền bạc, chúng ta ở nhà, hay đi đâu đều có tiền trong túi không thể thiếu nó. Nhưng khi chúng ta chết thì nó nằm trong tủ hoặc ở nơi rương thuộc phạm vi trong nhà, vì vậy mà nói đưa tới cửa. Người vợ thứ ba dụ cho của cải sự nghiệp nhà cửa, nó nằm ở trong phạm vi vòng rào nhà, nên nói đưa tới cổng. Người vợ thứ hai dụ cho công danh chức tước khi đưa quan tài người chết tới huyệt thì đọc điếu văn kể công trạng rồi mới hạ huyệt chôn cất, nên nói đưa tới mộ. Người vợ thứ nhất dụ cho nghiệp lành hay nghiệp dữ theo mình như hình với bóng, có mình ở đâu thì có nó ở đó không rời nhau, nên mới tình nguyện chết theo. Tác động của thân khẩu ý lặp tới lặp lui nhiều lần gọi là nghiệp. Người dậy học hằng ngày thì gọi là nghề giáo hay nghiệp giáo. Người cùng làm một việc thì gọi là bạn đồng nghiệp. Có người là có nghiệp. Người nghiệp không rời nhau. Giả sử như ông thầy giáo đi đường có mang theo một số tiền của, bất thần ông bị tai nạn, bao nhiêu tiền ông mang theo bị mất hết. Nhưng nghiệp dạy học vẫn còn không mất, về nhà vẫn đến trường dạy học trò. Như vậy, tiền của và sự sản là cái ngoài mình nên bị mất dễ dàng không thể giữ được mãi mãi. Còn nghiệp là cái không ngoài mình nên chẳng bao giờ mất. Thế mà trong cuộc sống hằng ngày mọi người đều nghĩ làm sao cho có tiền, làm sao cho có của, nếu có tiền có của rồi thì muốn có địa vị danh vọng. Trong ba thứ đó nghĩ tới tiền nhiều nhất, rồi tới của cải danh vọng. Khi chết, thì tiền của từ giã mình trước nhất, tức là khi chết nó ở lại chứ không theo mình. Trong đời này không ai là (người) không chết, hoặc chết sớm hoặc chết muộn, khi chết thì không ai đem được tiền của theo, chỉ có nghiệp lành hay nghiệp dữ theo mà thôi. Thế nên, nếu là người Phật tử khôn ngoan sáng suốt, dù có làm ra nhiều tiền của mà làm ác thì nhất định không làm, vì khi chết không cứu được tội khổ mà phải để lại tất cả, chỉ có một mình mình chịu quả báo khổ đau. Nghĩ và nói ác mà đem lại lợi lộc cho mình thì cũng không nói. Như thế không bị tiền tài sai sử tạo nghiệp ác. Ngày nay không gây tạo tội lỗi, không bị người chê trách, mai kia chết đi cũng nhẹ nhàng thảnh thơi. Ca dao có câu: Bởi chừng kiếp trước khéo tu Ngày nay con cái võng dù nghênh ngang Do kiếp trước khéo tu nên ngày nay con cháu mới sang trọng, Nếu hiện tại không chịu tu thì con cháu về sau khổ. Để thấy chúng ta tu là tạo cho cuộc sống hiện tại an vui, ngày mai lại càng an vui tốt đẹp hơn. Vậy, biết tu là thường nhớ tới nghiệp, để tránh nghiệp ác làm nghiệp lành, hơn là nhớ tới tiền của vật chất. Tuy trong cuộc sống, chúng ta phải làm ra tiền mới sống được, nhưng phải làm cho công bằng lương thiện, mình an vui, người không khổ, hiện tại mình hạnh phúc, mai sau cũng an lành. Vậy, tu không phải là mong cầu cái gì cao siêu huyền bí, mà ngay trong thực tế thường làm lợi mình lợi người một cách cụ thể, không mơ hồ viễn vông. Đạo Phật chủ trương tu là để giải thoát, song nói giải thoát có vẻ xa vời quá! Nhưng nếu thực tế thân chúng ta không làm ác là giải thoát được cái khổ nghiệp ác của thân. Vì nếu cướp của giết người thì bị cái khổ đánh đập tù tội, bây giờ không tạo nghiệp ác ấy thì thân được lành mạnh tự do, đó là giải thoát nghiệp ác của thân. Nếu miệng không nói lời hung dữ ác độc thì giải thoát được nghiệp ác của miệng, ý không nghĩ ác thì giải thoát được tâm niệm xấu xa buồn ghét người khác. Tuy không hoàn toàn giải thoát nhưng có giải thoát từng phần; tu ít thì giải thoát ít, tu nhiều thì giải thoát nhiều, có tu là có bớt khổ. Chẳng những bớt khổ trong đời này mà trong đời sau còn được an vui nữa. Nên người biết tu không sợ chết. Vì ai cũng phải chết, và biết rằng mình không tạo nghiệp ác thường tạo nghiệp lành, sau khi chết sẽ an vui chớ không khổ. Tuy nhiên, đừng vì muốn giải thoát mà liều chết sớm để được khỏe được sướng thì không đúng với tinh thần giải thoát của đạo Phật. Thông thường thì người đời tham sống sợ chết, nên nghe nói chết thì rất sợ. Nhưng người biết tu thì ngay cuộc sống hiện tại lúc nào cũng an vui, khi chết đến thì bình thản không loạn động, nên không muốn chết sớm mà cũng không sợ chết. Vì vậy mà Phật tổ mới dạy chúng ta tu, tu là nguồn cội hạnh phúc, hết phiền não hết khổ đau. Kể từ ngày nay quý Phật tử ở gần thiền viện, mỗi tháng hai lần vào ngày rằm và ba mươi nên đi chùa sám hối và nghe quý thày giảng để biết phương hướng mà tu tập. Nghe một lần tuy biết đó, nhưng vì cái bệnh chúng sanh hay quên, nên mỗi tháng phải đi hai lần, nhờ các thày nhắc nhở, luôn ghi nhớ mới tinh tấn mà tu hành. ________________________________________ Nghiệp Dẫn Đi Trong Luân Hồi Lục Đạo Giáo lý của nhà Phật cốt yếu dạy cho con người tu để giải thoát luân hồi sanh tử. Tuy nhiên, tùy theo sức huân tu cao thấp mà giải thoát cũng có nhiều từng bậc. Đại lược chúng ta có thể chia làm hai bậc là: Từng phần giải thoát và toàn phần giải thoát. Từng phần giải thoát là bậc thứ nhứt, tu mà còn luân hồi sanh tử, nhưng biết chọn lựa phước lành để đi trong đường tốt hưởng phước báo. Những loại chúng sanh đi trong các đường địa ngục, ngạ quỉ, súc sanh, A tu la đều không biết chọn nghiệp lành nên đi vào con đường ác chịu qủa báo khổ đau. Và ngay như loài người có biết chọn nghiệp thiện, lại cũng có ngườì không biết chọn nên tạo lắm nghiệp ác, vì vậy mà chịu không biết bao nhiêu thứ khổ đau. Thế nên khi còn ở trong lục đạo luân hồi, sau khi bỏ thân này, muốn cho đời sống cuả thân sau được an vui hạnh phúc thì ngay hiện tại phải biết chọn lựa nghiệp lành để làm và để tránh ba nghiệp ác, đó là gốc của sự tu hành. Nghiệp là động lực dẫn chúng ta đi trong luân hồi sanh tử, nên rất hệ trọng đối với sự tu hành. Vậy nghiệp là gì? Nghiệp được dịch từ chữ Phạn Karma nghĩa là hành động lặp đi lặp lại nhiều lần thành thói quen. Thói quen đó gọi là nghiệp. Ví dụ giáo viên dạy học, dạy từ năm này qua năm khác, được gọi là nghề giáo và những người làm cùng nghề thì gọi là bạn đồng nghiệp. Nghiệp là việc làm của chính mình, mình làm chủ và tạo tác thành thói quen rồi cũng chính mình thừa nhận hậu quả do nó đưa tới. Kinh Phật dạy: "Chúng sanh làm chủ tạo nghiệp và thừa kế cái nghiệp do chính mình đã tạo". Không do ai khác ngoài mình. Chúng ta từ thuở sơ sinh cho tới chín mười tuổi đâu có ai mắc bệnh ghiền rượu, ghiền trầu hay ghiền thuốc... Thế mà từ 15, 16 tuổi cho tới già do sự tập tành thành thói quen, người thì ghiền rượu, người thì ghiền thuốc, kẻ thì ghiền á phiện... Đứa trẻ 15, 16 tuổi thấy người lớn cầm thuốc hút nhả khói phì phà tưởng đó là oai là sang, nên bắt chước hút, thành thói quen rồi ghiền thuốc. Lúc mới tập hút thì mình làm chủ, thích hút thì hút không thích hút thì thôi, nhưng hút nhiều lần dần dần thành thói quen, thiếu thuốc thì khó chịu, ngáp, buồn, phải đi mua về hút. Vậy khi đã ghiền rồi thì không còn làm chủ nữa mà nó làm chủ ngược lại mình, sai sử mình làm theo thói quen ưa thích đó, Vậy, nghiệp là cái chúng ta tự tạo, chúng ta làm chủ tạo thành thói quen, khi thói quen thuần thục thì nó làm chủ dẩn dắt sai sử chúng ta. Nếu ta tập thói quen là việc thiện thì được dẫn dắt tiếp tục làm việc thiện, nếu chúng ta tập thói quen làm việc bất thiện thì bị dẫn dắt tiếp tục làm việc bất thiện. Chẳng hạn, người mỗi chiều đi chùa, tụng kinh lâu ngày thành thói quen, một hôm tới giờ tụng kinh không đi cảm thấy thiếu, thấy buồn, có một động lực thôi thúc bắt phải đi chùa tụng kinh. Còn người khác, mỗi chiều đi quán uống rượu, lâu ngày thành thói quen nên ghiền, tới cữ đi uống rượu, không đi thì cảm thấy bức rức khó chịu, ngáp dài, có một ma lực thôi thúc sai khiến tới quán rượu để uống rượu. Người đi chùa tụng kinh tập thành thói quen đó là nghiệp thiện, đưa tới sự an vui lợi ích cho bản thân mình. Người đi quán uống rượu tập thành thói quen là nghiệp ác, đưa tới nghèo thiếu, bệnh hoạn kém trí tuệ. Vậy, nghiệp phát xuất từ đâu? Nếu thân tạo tác thiện đó là nghiệp thiện cuả thân, thân tạo tác ác đó là nghiệp ác của thân. Miệng nói điều lành là nghiệp thiện của miệng, miệng nói lời hung dữ là nghiệp ác của miệng. Ý nghĩ tốt là nghiệp thiện của ý, ý nghĩ xấu là nghiệp ác của ý. Đó là nghiệp phát xuất từ thân khẩu ý. Như vậy, tạo nghiệp chủ động là mình, nếu muốn luân hồi chỗ tốt cho thân lành mạnh tốt đẹp được sống an vui hạnh phúc thì hiện tại phải biết tạo nghiệp thiện, nếu ngược lại tạo nghiệp ác thì luân hồi đến cõi xấu, thọ thân xấu sống đời đầy đau khổ do mình chủ động trọn vẹn, chớ không do ai khác, ngay Phật trời cũng không dự phần trong đó. Như vậy, chúng ta là chủ chọn lấy hướng đi cho chúng ta mai sau, nếu khôn ngoan đã chọn cho mình một hướng đi tốt đẹp thì cứ theo hướng đó mà đi, chớ có thay đổi. Cũng như các học sinh sau khi đã chọn nghề và tốt nghiệp ra trường, phải theo cái nghề mình đã chọn mà sống, sướng hay khổ tùy theo cái nghề của mình chọn. Vậy, chúng ta tu là phải làm sao? Có nhiều Phật tử than vì bệnh tật vì nghèo khổ không thể tu. Người than như vậy là chưa biết tu, vì họ tưởng phải đi chùa nhiều, tụng kinh giỏi mới là tu. Như đã nói, tu là chuyển nghiệp ác thành nghiệp thiện, mà nghiệp thì phát xuất từ thân, khẩu, ý. Giả sử như người buôn bán, nếu tráo hàng thật ra hàng giả, hoặc cân đo thiếu, hoặc bán người trả giá không đúng, nổi giận la chửi, đó là thân miệng tạo nghiệp ác, không biết tu. Nếu buôn bán với mức lời vừa phải, hàng thật nói là hàng thật, hàng giả nói là hàng giả, cân đo đúng, khách trả đúng giá thì vui vẻ bán, khách trả không đúng giá tuy không bán vẫn vui cười không tức giận mắng chửi. Hoặc đi đường gặp người già yếu nhường lối đi, nhường chỗ ngồi, đưa qua đưòng, đưa qua cầu, bưng xách nặng dùm người... đó là thân khẩu thiện, biết tu, tu trong công ăn việc làm, tu ngoài đường, tu ngoài chợ. Ở trong nhà, đối với người thân cũng phải giữ thân miệng luôn lành, làm cha mẹ giữ đúng tư cách của cha mẹ, con cái có lỗi lầm phải từ tốn răn dạy, hướng dẫn phù hợp với đạo lý cho con nên người, đó là tu. Nếu ỷ quyền cha mẹ, khi con làm không vừa ý, tay đánh đập, miệng la hét, chửi rủa, đó là không biết tu. Phận làm con đối với cha mẹ phải biết thương kính, chăm lo việc ăn mặc thuốc thang cho cha mẹ, đừng để cha mẹ buồn tủi lúc ruổi già. Nếu cha mẹ có sanh tật khó khăn thì nên an ủi khuyên lơn hơn là hờn trách chế diễu. Đó là chuyển nghiệp thân nghiệp khẩu luôn lành. Về ý nghiệp có phần vi tế hơn, với người biết tu cũng chuyển được nghiệp ác thành nghiệp thiện. Nếu đang ngồi chơi hay đi, hoặc làm việc, khởi nghĩ buồn giận người, biết đó là ác ý liền dừng không nghĩ, mà khởi nghĩ thương người nghèo khó, quý kính bậc hiền đức, tìm cách giúp đỡ người khốn khổ... Đó là chuyển nghiệp ý ác thành ý thiện. Nếu cho rằng đi chùa hay tụng kinh mới là tu, thì tu quá ít. Rồi bệnh nào tật ấy vẫn còn nguyên, tham sân si ích kỷ vẫn không chừa, tu như thế hiện tại tự mình không lợi ích và cũng không đem được an hòa cho mọi người chung quanh, mai sau bị nghiệp lôi vào đường ác là địa ngục ngạ quỉ súc sanh. Thế nên Phật dạy trong tất cả ngày giờ của mọi sinh hoạt đều phải tu mới chuyển được ba nghiệp trọn lành. Ba nghiệp lành rồi, ngay đời hiện tại tự mình không phiền não, lúc nào cũng nhẹ nhàng an vui. Trong gia đình mọi người không thắc mắc rày rà, trên thuận dưới hòa, đầm ấm hạnh phúc. Ngoài xã hội được an bình không loạn ly. Tu như thế mới thật là tu. Đừng vì muốn được đi chùa thường xuyên, muốn được tụng kinh nhiều mà phế bỏ cả việc nhà, thân miệng ý không chuyển cho lành, về nhà thì thắc mắc, gây cãi hết người này tới người nọ làm cho gia đình xào xáo. Đối với người ngoài xã hội thì không nhịn một lời không nhượng một bước. Đi chùa tụng kinh như thế là chưa thật tu. Có một bà cụ Nhật Bổn lần chuỗi niệm Phật rất giỏi. Khi lần chuỗi niệm Phật thì rất chăm chỉ, nhưng khi dừng niệm Phật thì rầy rà con cháu inh ỏi. Con trai bà thấy bà tu như thế nꮠbuồn và nói: - Má à. má tu má cứ lo niệm Phật đi, sao má cứ rầy rà hoài khiến xao lãng làm sao Phật chứng cho má? Bà nói: - Khi nào tao niệm Phật thì Phật thông cảm cho tao, còn khi nào tao rầy tụi bây thì tụi bây biết cho tao. Bà chia làm hai phần, phần niệm Phật thì tu với Phật, phần rầy la thì dành cho con cháu! Người thật tu là vừa tu với Phật cũng vừa tu với thế gian, tu như thế mới trọn vẹn. Có người ngoại đạo đến hỏi Phật: - Thưa ngài Cồ Đàm (họ Gautama, tên Siddhartha dòng Shakya, của Đức Phật Thích-Ca), cái gì định đặt cho con người, sinh ra kẻ thì nghèo nàn khổ sở, người thì giàu sang sung sướng, kẻ thì sống lâu, người thì chết yểu, kẻ thì yếu đau, người thì khỏe mạnh, kẻ thì ngu dốt người thì thông minh? Phật trả lời: - Tất cả sự sai biệt giữa con người và con người là do nghiệp mà họ đã tạo định đặt ra, nên có người ưu kẻ liệt. - Do tạo nghiệp gì khiến cho con người sống lâu và do tạo nghiệp gì khiến cho người chết yểu? - Người không tạo nghiệp sát hại chúng sanh thì được thọ mạng lâu dài. Người tạo nghiệp sát, đoản mạng sống của chúng sanh nên thọ mạng yểu. - Do tạo nghiệp gì thân người được khoẻ mạnh và do tạo nghiệp gì mà thân hay yếu đau bệnh tật? - Do nghiệp ác làm cho người đau khổ nên thọ thân hay bệnh tật đau yếu. Và do nghiệp lành an ủi giúp đỡ người qua những tai nạn khốn khó nên được thọ thân khỏe mạnh vui tươi. - Do tạo nghiệp gì mà sinh thân trong gia đình giàu sang sung sướng và do tạo nghiệp gì mà sinh thân trong gia đình nghèo khó khốn khổ? - Do đời trước biết làm lành, biết bố thí cúng dường, biết giúp đỡ người nghèo khó bệnh tật, nên đời này được sinh ra trong cảnh giàu sang sung sướng. Người ở đời trước không biết bố thí cúng dường, không biết giúp đỡ người nghèo khó, lại còn tham lam rút riả của người nên đời này sanh thân trong cảnh ngèo đói thiếu thốn. - Do nghiệp gì người sanh ra được thông minh sáng suốt và do nghiệp gì người sanh ra lại ngu dốt tối tăm? - Người đời trước do siêng năng học hỏi tìm hiểu chân lý, ưa thích giúp người được học hỏi hiểu biết nên đời này được thông minh. Người ở đời trước do lười biếng học, không chịu tìn hiểu chân lý, cản ngăn sự học hỏi của người nên đời này bị tối tăm mê mờ. Vậy, tất cả quả tốt hay xấu mà chúng ta đang thọ hiện nay, gốc là từ cái nhân chúng ta gây thuở trước, chứ không phải bỗng dưng mà có, khi đã biết như thế, chúng ta muốn ngày mai được tốt đẹp an vui hay bị đau khổ, thì ngay bây giờ chúng ta phải chuẩn bị. Nếu chuẩn bị bằng nghiệp lành thì sẽ được đến cõi lành và được an vui hạnh phúc, nếu chuẩn bị bằng nghiệp ác thì sẽ đi vào đường dữ và bị khổ đau. Có người nêu nghi vấn: Hiện tại thân này hành động tạo nghiệp thiện hay ác, mai kia thân hoại rồi hành động cũng mất, vậy nghiệp còn hay mất? Đa số người không tin nhân qủa, họ nghĩ rằng sau khi thân hoại hành động cũng không còn thì nghiệp cũng mất. Trong kinh Phật thường nói nghiệp theo mình như bóng với hình vậy. Đời quá khứ, đời hiện tại, đời vị lai có sự liên hệ tuá theo nghiệp của mỗi người, Ví dụ có hai người khách qua sông, một người chuyên nghề giáo, một người chuyên nghề thương mãi. Khi đi đường người thương mãi đem theo nhiều vàng bạc của cải, nhà giáo chỉ mang theo một cặp sách vở và chút ít tiền lộ phí, thuyền qua giữa sông bất thần gặp sóng làm chìm. Khi thuyền chìm, mạnh ai nấy lo lội vào bờ để thoát chết, lên đến bờ thì tất cả của cải tiền bạc của nhà thương mãi không còn, cặp giấy tờ tiền lộ phí của nhà giáo cũng mất. Cả hai đều trắng tay, nhưng kiến thức giáo dục của nhà giáo không mất, kiến thức mua bán của nhà thương mãi cũng không mất. Kiến thức là cái chuyên môn, sở trường của con người không mất tức là nghề nghiệp không mất. Như vậy, để thấy, qua những cuộc biến đổi tất cả những cái có hình tướng ngoài mình thì mất, nên khi thân này có hoại đi, nghiệp thức không ngoài mình nên không mất. Của cải tài sản thế gian, chúng ta tạo sắm nhiều thế mấy, khi chết rồi tất cả đều phải để lại không đem theo được một món nào, chỉ có mang theo nghiệp mà thôi. Đó là một lẽ thật. Thế mà, có nhiều người không hiểu không tin, rồi mê tín dán nhà lầu xe hơi, mua gấy tiền vàng bạc đốt để đem theo cho cha mẹ chồng con chết xài. Có người vội hỏi: - Con cháu vì thương cha mẹ, sau khi cha mẹ chết họ dán nhà, xe, mua giấy tiền vàng thật nhiều đem đốt và cầu nguyện cho cha mẹ được hưởng. Như vậy, cha mẹ có được hưởng không? - Nếu con cháu đốt giấy tiền vàng bạc rồi cầu nguyện cho cha mẹ lãnh, tôi e rằng ở tù chớ chẳng được hưởng. Tại sao? Vì mang bạc giả xuống diêm vương xài là bất hợp pháp. Nếu đốt nhà lầu xe hơi giấy, cầu cho thân nhân mình lãnh về ở và đi, tôi cho rằng nếu ai làm như vậy là hại thân nhân của mình. Vì nếu họ nhận được thì họ có nhà lầu để ở, có xe hơi để đi, có tiền bạc để xài, đủ tiện nghi quá thì họ sẽ ở mãi cõi âm, không đi đầu thai. Đó là trường hợp thân nhân của mình trong sanh tiền có chút phước lành. Còn nếu là kẻ có tội thì chết đọa địa ngục bị giam nhốt hành hạ làm sao mà nhận lãnh tiền bạc nhà xe để xài? Đó là chưa nói đến nhà xe tiền bạc bị đốt thành tro thì dùng làm sao được? Thật là vô lý! Như vậy, để thấy chính nghiệp lành hay dữ mà mình tạo ra nó dẫn mình đi thọ thân trong cảnh giới sướng hay khổ. Tất cả việc làm bên ngoài của người thân vì thương muốn giúp mình khó mà giúp được, mình làm mình phải chịu, người khác không thể thế được. Lại có người nêu câu hỏi: - Tại sao có nhiều người làm ác mà họ sống phây phây? Có nhiều người rất hiền lành, làm phước làm nghĩa mà lại gặp nhiều hoạn nạn. Như vậy là luật nhân qủa bất công sao? Lại có nhiều người không làm ác vừa làm ác thọ qủa báo liền, hoặc vừa làm thiện thì thọ qủa báo lành liền. Như vậy là sao? Trong kinh Phật có dạy: Nếu tạo nghiệp thiện được phước báo lành, tạo nghiệp ác bị qủa báo khổ thì Phật chấp nhận. Nếu nói rằng làm nghiệp thiện sau khi chết sẽ sanh về cõi Trời, làm nghiệp ác sau khi chết sẽ đọa xuống địa ngục liền, điều đó Phật không chấp nhận. Tại sao nói làm ác chịu chịu qủa báo ác, làm thiện được qủa báo thiện, thì Phật chấp nhận, mà nói tạo nghiệp ác sau khi chết đọa địa ngục, làm lành sau khi chết về cõi Trời thì Phật không chấp nhận? Về thuyết nghiệp Phật có nói cận tử nghiệp và tích luỹ nghiệp. Tích lũy nghiệp chứa nhóm nhiều kiếp đến giờ. Cận tử nghiệp là nghiệp mới tạo tác lúc sắp chết. Cận tử nghiệp và tích lũy nghiệp có ảnh hưởng chi phối nhau mà quyết định đưa người chết đến cõi lành hay cõi dữ. Ví dụ có người tích lũy nghiệp lành từ xưa đến nay, bất thần họ mê muội có người xúi dục họ làm điều ác; làm điều ác này đáng lý phải đọa địa ngục, nhưng vì tích lũy nghiệp lành họ còn nhiều nên chưa đọa địa ngục liền. Lại cũng có người làm nhiều điều ác, đáng lý phải đọa địa ngục, nhưng gần chết họ làm lành, tâm họ luôn nghĩ tưởng đến điều lành. nên không đọa địa ngục. Thế nên nói làm ác khi chết nhất định đọa địa ngục, làm thiện lên thiên đàng, thì không đúng hẳn. Vì tuy họ có làm ác nhưng lúc gần chết cận tử nghiệp thiện họ quá mạnh có thể đưa họ đến cõi thiện. Còn người tuy làm nhiều điều thiện, nhưng khi gần chết họ nổi sân quá hung dữ, lúc đó cận tử nghiệp ác có thể đưa họ đến các đường xấu, Thế nên không phải chỉ tu khi sắp chết, hoặc chỉ tu ở giai đoạn thân còn mạnh khỏe mà phải luôn luôn giữ thân, khẩu, ý lành, từ lúc còn trẻ trung mạnh khỏe cho đến chung cuộc của kiếp người. Xưa có Maha Nam con của Cam Lộ Phạm Vương em nhà chú của đức Phật. Maha Nam tu cư sĩ giữ năm giới, tu thập thiện, thọ bát quan trai... Một hôm hỏi Phật rằng: - Bạch Thế Tôn, bình thường con tu giữ năm giới, thọ bát quan trai, tu thập thiện, giả sử con chết bất đắc ká tử bởi một tai nạn xảy ra, sau khi chết con sẽ đi về đâu? Phật trả lời bằng một ví dụ: - Có một cây mọc từ đất lên, thân và cành cây nghiêng về một bên. Vậy khi cưa, thân ngã về bên nào? Maha Nam đáp: - Cây ngã về phía mà nó đang nghiêng. Phật dạy tiếp: - Cũng vậy, bình thường ông hay làm điều lành, khi chết tuy bị khủng hoảng, nhưng nghiệp thiện tích lũy nhiều sẽ hướng ông đến chỗ lành, không sao, đừng sợ. Vậy, chủ yếu của việc tu hành, chẳng những tạo nghiệp lành trong lúc còn mạnh khỏe mà lúc gần chết tâm niệm cũng phải lành thì mới bảo đảm đi đến cõi lành. Và bình thường tạo nghiệp lành mà lúc gần chết tạo nghiệp dữ thì chưa bảo đảm đi đến cõi lành. Và bình thường nếu lỡ làm ác, lúc gần chết tâm niệm lành thì cũng chuyển được phần nào nghiệp dữ, vì nghiệp không cố định. Để kết thúc buổi nói chuyện hôm nay, tôi nhắc lại câu chuyện Lý Bạch đời Đường ở Trung Hoa. Ông là một nhà thơ nổi tiếng nghe danh Thiền Sư Ô Sào là một cao tăng đắc đạo mới tìm tới tham vấn. Tới nơi thấy Thiền Sư Ô Sào ngồi trên cháng ba của một cây cổ thụ. Chỗ ngài ở giống như một ổ quạ nên người đời gọi Ngài là Thiền Sư Ô Sào. Ông đứng dưới đất nhìn lên hỏi: - Bạch Hòa Thượng, Xin Hòa Thượng dạy cho tôi một phương pháp tu ngắn và gọn để tôi có thể tu được. Thiền Sư Ô Sào ở trên nói xuống: Chư ác mạc tác Chúng thiện phụng hành Tự tịnh ká ý Thị chư Phật giáo Ông hãy về tu đi! Lý Bạch nghe qua, cười và nói: - Hòa Thượng nói bài kệ đó con nít tám tuổi cũng thuộc, vậy Hòa Thượng đem dạy tôi để làm gì? Thiền Sư Ô Sào nói: - Phải, con nít tám tuổi cũng thuộc nhưng ông già tám mươi tuổi làm cũng chưa xong. "Chư ác mạc tác" là tất cả nghiệp ác chớ có làm. "Chúng thiện phụng hành" là vâng làm tất cả các nghiệp lành. "Tự tịnh ká ý" là khéo lóng lặng tâm cho thanh tịnh. "Thị chư Phật giáo" đó là lời dạy của chư Phật. Tu cốt là bỏ nghiệp ác của thân khẩu ý và chuyển thành nghiệp lành. Bài kệ trên vừa nghe qua là dễ nhớ và dường như thấy dễ làm. Song, đi vào kinh nghiệm tu hành thì không đơn giản và dễ dàng vì tình thức mênh mang, chủng tử tập khí sâu dày, vừa bỏ được thói xấu này để phát huy điều tốt nọ, thì lại có dư tập dở khác đang ngủ ngầm hội đủ duyên nó trổi dậy lại phải điều phục nữa, và cứ thế làm mãi cho đến chung cuộc của kiếp người, có khi chưa xong, tâm vẫn còn lao xao lộn xộn. Thế nên người biết hướng thiện luôn luôn phải xoay lại mình để lo tu tập, ở trong mọi hoàn cảnh, trong mọi trường hợp, người rỗi rảnh hay bận rộn, giàu sang hay nghèo hèn ai cũng tu được. Điều tiên quyết là dừng nghiệp ác, rồi tuá theo hoàn cảnh: người nghèo thì ra công sức giúp đỡ, kẻ giàu thì ra tiền của bố thí. Ai ai cũng biết tu thì tự mình được an vui, gia đình được hạnh phúc, xã hội được an bình. Tu chính là nền tảng vững chắc để xây dựng cuộc đời hiện tại được tươi đẹp và tạo cơ hội cho đời sau càng được an vui sáng suốt hơn. Vậy, từ đây về sau trọn đời quí Phật tử cố gắng tránh tất cả các điều ác, làm tất cả các nghiệp lành. Làm đó là làm cho chính mình chớ không phải làm cho ai khác. Đạo Phật được coi là đạo cứu khổ ban vui, mà cứu khổ ban vui là chỉ cho mọi người con đường nào đi đến khổ đau và con đường nào đi đến an lạc. Khi biết con đường đưa tới an lạc thì cố gắng đi, đó là đạo Phật cứu khổ ban vui cho quý vị. Còn nếu quý vị biết con đường thiện đưa tới an lạc, con đường ác đưa tới khổ đau mà cứ đi con đường đau khổ thì đó là tại quý vị không biết chọn đường đi, khổ là do mình chớ không do ai khác. Vì Phật đã vạch lối chỉ đường rất rõ ràng, nếu chọn và thực hành đúng lời Phật dạy thì được an vui, lợi ích, ngược lại thì khổ đau. Đó là then chốt mà quý vị phải biết rõ và nắm vững để tu hành
    3 likes
  5. Gọi bằng anh thôi :D Nếu cần tài liệu gì về chứng khoán hay tài chính (PTCB, PTKT...) cứ PM mình
    2 likes
  6. Đề nghị mấy đứa ko làm loãng topic của Happy. Ước gì có cái nút xóa tự động comment của người khác nhỉ.
    2 likes
  7. Người ta cho rằng 12 con giáp tượng trưng cho 12 năm và nguồn gốc của nó dựa trên một câu truyện cổ tích của Trung Quốc về cuộc thi chạy giữa những con vật. Có người tin rằng người nào sinh vào năm con giáp nào thì mang tính cách na ná như con giáp đó. Riêng Rin86 thì nghĩ rằng 12 con giáp được người xưa sử dụng rất khoa học và thực dụng, nhằm phục vụ cho cuộc sống chứ không hề mê tín hay có chút gì cổ tích trong đó cả. Ta thấy con trâu, con hươu sao được nhắc đến trong những nền văn minh cổ. Đây là một bài viết về đặc tính kỳ lạ của trâu bò và hươu, chúng luôn quay đầu về hướng Bắc. Rất có thể nhờ những khả năng này mà trâu và hươu sao được dùng như một công cụ để người xưa tìm hiểu từ trường trái đất Xin mời đọc một số trích đoạn báo sau đây: Trâu bò luôn quay đầu về một hướng Nếu chẳng may bị lạc ở vùng nông thôn mà không có la bàn, bạn chớ vội hoảng. Theo các nhà khoa học Đức, bạn có thể xác định phương hướng bằng cách quan sát các đàn gia súc. Có bao giờ bạn để ý rằng những đàn gia súc luôn quay đầu về một hướng. Những hình ảnh từ Google Earth cho thấy trâu, bò có xu hướng đứng theo trục bắc-nam, trong đó đầu của chúng hướng về phía bắc. Những đàn hươu hoang dã cũng có hành vi tương tự, nhưng các thợ săn đã không chú ý tới hiện tượng này trong suốt hàng nghìn năm. Nhiều nhà khoa học nhận định rằng từ trường của Trái đất có thể tác động tới hành vi của những con vật. Gia súc quay đầu về phía bắc trong lúc ăn cỏ và nghỉ ngơi. Ảnh: Dailymail.co.uk. Trên thực tế, Trái đất là một cục nam châm khổng lồ, với cực bắc và cực nam nằm sát hai địa cực. Nhiều động vật - trong đó có chim và cá hồi - sử dụng từ trường Trái đất để định hướng trong quá trình di cư. Một số nghiên cứu cũng chứng minh rằng dơi, một động vật có vú, cũng có khả năng định hướng nhờ từ trường. Tiến sĩ Sabine Begall và cộng sự thuộc Đại học Duisburg-Essen (Đức) tiến hành nghiên cứu gia súc để tìm hiểu xem chúng có khả năng định hướng dựa vào từ trường Trái đất hay không. Họ thu thập ảnh của 8.510 con trâu, bò tại 308 đồng cỏ trên khắp hành tinh thông qua Google Earth. Các con vật được chụp ở nhiều tư thế: gặm cỏ, nằm nghỉ, đứng trong đàn, cho con bú. Do toàn bộ ảnh được chụp từ vệ tinh nên rất khó tìm được những ảnh có độ phân giải cao. Các chuyên gia không thể phân biệt được đầu và đuôi các con vật, nhưng họ nhận thấy chúng có xu hướng đứng theo trục bắc-nam. Những con hươu luôn đứng theo hướng bắc-nam. Ảnh: BBC. (con hươu được tìm thấy trên trống đồng Ngọc Lũ) "Ở châu Phi và Nam Mỹ, hướng đứng của gia súc có một khác biệt nhỏ. Thay vì đứng theo hướng nam - bắc, chúng thường quay mặt về phía đông bắc hoặc tây nam. Chúng ta đều biết rằng từ trường ở châu Phi và Nam Mỹ yếu hơn rất nhiều so với những khu vực khác", Sabine phát biểu. Kết quả nghiên cứu loại trừ giả thiết cho rằng vị trí của mặt trời và hướng gió ảnh hưởng tới tư thế đứng của động vật. Nhóm nghiên cứu cũng ghi lại tư thế của 2.974 con hươu hoang dã tại 277 địa điểm thuộc nước Cộng hòa Czech. Họ nhận thấy khoảng hai phần ba số chúng luôn quay đầu về hướng bắc khi ăn và ngủ, số còn lại quay đầu về phía nam. Theo Sabine, đó có thể là một hành vi giúp hươu đối phó với động vật ăn thịt. "Chúng tôi kết luận rằng từ trường của Trái đất là tác nhân chính khiến gia súc có xu hướng quay mặt về phía bắc. Điều đó giải thích tại sao tổ tiên của chúng có thể thực hiện những chuyến di cư dài hàng nghìn km từ châu Phi tới châu Á và châu Âu", Sabine nói. Việt Linh (theo BBC, Daily Mail) VNexpress Rất có thể trong những cuộc di cư xa, người cổ đã dùng trâu bò thay cho la bàn khi mang theo đàn gia súc của mình. Mói đây thôi khi xem chương trình về châu Phi phát trên VTV2, Rin86 thấy những thầy bói châu Phi dùng cua để dự báo tương lai. Họ quan niệm cua có thể trò chuyện với thần đất, họ cho cua vào một sa bàn, đậy nắp lại rồi dựa trên đường đi của con cua để dự đoán tương lai. Có thể cua cũng là một công cụ dự báo của người Việt cổ. Tại sao người cổ lại chọn 12 con vật làm biểu tượng cho chu kỳ thời gian 12 năm (12 tháng). Người xưa đã sống gần gũi với những con vật và tổng kết ra rất nhiều những đặc điểm của chúng. Có lẽ những mối liên quan của hành vi các loài động vật như chuột, trâu, hổ... đối với sự vận động của trái đất, sự tương tác giữa trái đất và vũ trụ, sự thay đổi những hành vi của những loài động vật theo chu kỳ thời gian 12 năm, giống như một công cụ để người xưa tìm hiểu quy luật vũ trụ. Ta có thể thấy loài chuột tìm đường rất tốt trong mê cung, loài trâu luôn đứng theo trục Bắc Nam (đầu hướng về phương Bắc), loài chim có thể đi cư hàng ngàn cây số nhờ định vị được phương hướng..... theo thời gian và sự đốt phá của quân giặc (do thiếu hiểu biết) những kiến thức đó đã không còn nữa. Những nhà khoa học nghiên cứu hành vi của động vật hiện nay chỉ đang lần lại những manh mối đó thôi. Không hiểu trong từng năm nhất định, hành vi của những loài động vật này có thay đổi nhiều không? ví dụ như trong năm Sửu thì loài trâu có thể thực hiện một số công việc đặc biệt hoặc định hướng tốt hơn? trong tháng Sửu của từng năm và giờ sửu của từng ngày? Đó chỉ là phỏng đoán. Có lẽ những nghiên cứu về động vật trong tương lai sẽ tiết lộ nhiều điều thú vị hơn. Loài mèo cũng là một con vật có khả năng dự báo động đất và khả năng tìm đường dựa vào từ trường trái đất. Chính vì vậy Rin86 nghĩ rằng nó hoàn toàn xứng đáng là con vật đứng trong hàng ngũ 12 con giáp (bài hơi dài nên chỉ cần đọc những đoạn in đậm): Theo Desmomd Morris, một chuyên gia về mèo, thì: làm thế nào mèo có thể tìm được đường về dù ở rất xa ?Đó là nhờ trí nhớ thị giác và khứu giác , nhưng chúng cũng có khà năng tìm đường dựa vào từ trường trái đất . Nguồn: http://tuvi.tretoday.net/c6,nammeophan1.html Khả năng kỳ lạ của mèo http://camxahoc.vn/modules.php?name=News&a...le&sid=646# Loài mèo có thể không cần quan sát kỹ và ghi nhận con đường vào trí nhớ khi rời khỏi nhà mà sau đó chúng vẫn trở về "mái nhà xưa" một cách bình thường! Người ta vẫn thường biết rằng loài mèo có năng lực bí ẩn và khác thường - đây chính là loại thế giới ngoại cảm mà thú vật hay sử dụng để phục vụ cho sự sống còn của chúng. Theo nhà khoa học Konrad Lorenz, loài mèo tuy sống chung với con người song chúng vẫn giữ được bản sắc hoang dã. Do đó, mèo thuần hóa vẫn duy trì được khả năng khác thường để nhận thức thế giới như là đồng loại chưa được thuần hóa. Mèo nhìn thấy được bề mặt bao phủ bởi một mạng năng lượng do các trường địa từ phát ra từ mặt đất. Trường địa - từ này giống như tấm thảm với các hoa văn rắc rối. Một số nhân vật ngoại cảm nói rằng, đây là một mạng được sắp đặt rất ngăn nắp tựa như tổ ong. Số người khác cho rằng bề mặt trái đất được kẻ thành các ô vuông; và cũng không loại trừ trường hợp cũng có những đường song song đôi khi cắt ngang các khu vực lân cận. Các nhà động vật học tin rằng, loài ếch, thằn lằn, cá heo mỏ và chắc chắn cả loài mèo đều có năng lực tự định hướng rất tốt với sự hỗ trợ của mạng nói trên. Ngày xưa, con người thường hoài nghi trước những phóng sự báo chí kể rằng, mèo có thể trở về nhà cho dù trước đó bị bắt đi khỏi nhà đến hàng trăm kílômét! Ví dụ, con mèo mang tên Sugar ở California đã phóng khỏi xe chủ nhân trong một chuyến du lịch rồi mất tích; nhưng sau đó 1 năm Sugar đã tìm được đường trở về “mái nhà xưa” qua một khoảng cách lên đến... 2.400 km! Trường hợp khác, con mèo mun tên gọi Suti đã cùng với nữ chủ nhân dọn đến một căn nhà mới, song có lẽ do không khoái chỗ ở mới nên Suti đã quyết định phải quay về căn nhà cũ. Điều kỳ diệu là sau 5 tháng vượt quãng đường bộ dài trên 150 km, con Suti đã đặt chân đến “cố hương” của nó! Ngày nay, các nhà khoa học đã đạt được các tiến bộ rất lớn trong nghiên cứu và khám phá bí ẩn của thế giới loài mèo. Ký ức thị giác của mèo là rất tuyệt vời song chúng chỉ sử dụng khả năng này để tìm đường về nhà trong các khoảng cách ngắn, tại khu vực chúng sinh sống. Một khi ký ức thị giác tỏ ra bất lực, mèo ta sẽ được dẫn đường bởi mạng địa - từ trên bề mặt trái đất. Điều lý thú là loài mèo không cần phải nhìn con đường để ghi nhận vào ký ức khi chúng rời khỏi căn nhà. Một con mèo có khả năng nhớ con đường một cách dễ dàng ngay cả khi nó bị nhốt trong một cái túi trong lúc di chuyển đến một nơi nào đó cách nhà rất xa. Vậy thì, làm thế nào mà mèo nhà ta có thể cảm nhận được mạng các trường từ và điện từ của trái đất? Các nhà nghiên cứu khám phá hạt phân tử từ cực nhỏ trên các phần “cổ” của vuốt chân trước và sau của mèo nhà ta. Phân tử từ này chỉ nhìn thấy được qua kính hiển vi điện tử. Các nhà nghiên cứu ở Nhà bảo tàng tự nhiên ở Stockholm cũng phát hiện “vòng” từ tính trên hai chân mèo và các con thú khác cũng có khả năng tìm đường về nhà dễ dàng (ví dụ: con chó). Điều ngạc nhiên là chính nơi con người có lẽ cũng có vài cơ quan nhạy cảm từ: các phân tử từ cực nhỏ dạng vòng trong xương! Ngoài ra, loài mèo dễ thương còn có khả năng cảm nhận nguy hiểm rất tuyệt vời mà mọi người đều biết nhưng vẫn chưa giải thích được; do đó đôi khi mèo có thể cứu mạng con người. Đơn cử một trường hợp: Li Shuhua sống ở thành phố Fulin (Trung Quốc) giật mình thức giấc lúc 4 giờ sáng vì những âm thanh gừ gừ của con mèo: nó phóng từ cửa cái lên cửa sổ nhà, vừa cào mạnh cửa và rèm cửa. Không mấy chốc sau cả nhà phải chồm dậy vì những tiếng kêu la của con mèo nhà. Con mèo bất ngờ nhảy xổ đến cào vào người đứa cháu trai của chủ nhà. Sau đó, nó quay sang tấn công vợ chủ nhà và buộc người đàn bà sợ hãi phải lùi ra cửa cái. Ngay lúc đó, Li Shuhua nghe thấy tiếng răng rắc trên trần và tường nhà - căn nhà 2 tầng sụp đổ chỉ vài giây sau khi con mèo và cả gia đình đã bỏ chạy ra ngoài đường! Loài mèo nhận thức được áp lực phát sinh trong nhiều kết cấu xây dựng khác nhau cũng như con người có thể thấy được một miếng vải đầu tiên bị kéo căng ra hết mức đến mỏng đi trước khi rách toạc. Có một điều chắc chắn rằng, loài mèo có thể có “linh cảm” trước các cơn địa chấn cũng như các thiên tai khác. Nhiều người nuôi mèo chú ý thấy con vật cưng của họ bắt đầu tỏ vẻ bồn chồn khi động đất sắp xảy ra. Không chỉ có mèo, mà các con vật khác - ví dụ, chó, ngựa và dê (trong 12 con giáp) - cũng “dự đoán” được động đất. Do đó, con người có thể chú ý đến một vài hành vi của thú vật để biết trước tai họa sắp ập đến. Loài mèo cảm giác được động đất nhờ mạng địa - từ bao phủ trên bề mặt trái đất; và mạng này sẽ mỏng dần đi bởi vì lớp vỏ cứng của trái đất căng ra trước khi có động đất. Trong những trường hợp như thế mèo nhà ta sẽ mang các con của chúng đến nơi an toàn hơn. Không loại trừ khả năng có sự thay đổi trong các trường từ dẫn đến sự thay đổi về tĩnh điện. Nhiều quốc gia tin rằng, những con mèo phải được đưa vào các tòa nhà mới xây dựng để kiểm tra xem chúng có an toàn để con người sinh sống hay không. Thực tế, mèo “thấy” được phân tử địa - từ của sàn nhà và cũng cảm nhận được độ căng của trần và tường nhà. Nhiều chuyên gia ghi nhận rằng, mèo không bao giờ tự chuốc nguy hiểm cho bản thân và chỉ ngủ tại nơi an toàn mà thôi. Do đó, con vật nuôi này có thể giúp con người kiểm tra xem góc nhà nào an toàn và góc nhà nào có vấn đề. Một số nhà nghiên cứu cho biết mèo không chỉ dự đoán được động đất, mà còn cảm giác được các thiên tai khác như bão tố, hay thậm chí lửa và bom. Do khả năng ngoại cảm ngoại hạng này của mèo mà trong Thế chiến II quân đội Anh đã dành huy chương đặc biệt thưởng cho những con mèo cứu mạng người... Di An (Theo Công an Nhân dân) nguồn: http://camxahoc.vn/modules.php?name=News&a...cle&sid=646 khả năng dự báo động đất của loài mèo: Từ lâu, những người sống ở những vùng hay xảy ra động đất đã để ý đến việc những con mèo yêu quí của họ có cách cư xử đặc biệt trước khi xảy ra những trận động đất lớn. Các nhà khoa học đã điều tra được rằng có gần 70 loài động vật có khả năng dự báo động đất, nhưng loài mèo nhà đứng ở vị trí hàng đầu. Khả năng này của mèo lại càng quý vì chúng lại luôn ở bên con người. Trong lịch sử đã xảy ra không ít trường hợp mèo bỏ chủ chạy khỏi thành phố trước khi xảy ra động đất hay núi lửa phun và chỉ trở về nhà sau thảm họa. Qua rất nhiều quan sát, trước khi xảy ra thiên tai, mèo thường bị kích động, lông chúng xù lên, tai bị ép sát đầu. Chúng gào thét, cào cấu, run rẩy tìm nơi ẩn nấp mà người chủ không nhận thấy rõ một nguyên nhân đe dọa cụ thể nào, chúng đòi ra khỏi nhà và đôi khi đờ người ra. Có thể chúng cảm thấy đất rung chuyển mà các thiết bị không ghi nhận được. Có giả thiết khác cho rằng sở dĩ mèo nhà có thái độ khác thường như vậy là do chúng phản ứng với việc tăng trường điện tĩnh xảy ra trước khi có động đất. Cơ thể con người cũng cảm nhận được những thay đổi đó: mạch đập nhanh hơn, hệ thần kinh bị kích thích, nhưng con người không biết cách suy luận từ những tín hiệu đó để đoán biết sẽ xảy ra động đất. Ngoài ra, so với các ông bà chủ của mình thì mèo có phản ứng nhạy hơn đối với những thay đổi của từ trường trái đất và hạ âm. Hiện khoa học vẫn chưa xác định được chính xác trong những nhân tố trên thì nhân tố nào cho phép mèo có khả năng dự báo động đất. Nhưng chắc chắn là cả 4 nhân tố: đất rung nhẹ, tác động điện tĩnh, những dao động hạ âm và từ trường đều ảnh hưởng đến khả năng dự báo. Dù sao thì các nhà khoa học ở những nước thường xảy ra động đất đang nghiên cứu nghiêm túc vấn đề này. Họ cũng coi trọng việc điều tra dư luận dân địa phương về thái độ của mèo nuôi trong nhà trong những tình huống xảy ra thiên tai. (Theo KH&CN) Loài chó, một con vật trong 12 con giáp cũng có khả năng này: Khả năng dự báo động đất của chó http://vietbao.vn/index2.php?option=com_co...amp;id=10834922http://vietbao.vn/index2.php?option=com_co...op=1&page=0 Một nhà nghiên cứu Nhật Bản tuyên bố người bạn thân thiết của con người có thể cảm nhận được những trận động đất sắp xảy ra, và theo dõi hành vi của chúng có thể giúp con người đưa ra những dự đoán chính xác. Bác sĩ Kiyoshi Shimamura cho biết trong nhiều năm hành nghề, ông đã nhận thấy sự gia tăng đáng kể số nạn nhân bị chó cắn và các lời phàn nàn về loài vật nuôi này, vào thời điểm các trận động đất xảy ra. Sự chú ý đó đã khiến ông làm một cuộc điều tra hồ sơ bệnh nhân tại 12 trung tâm y tế ở miền tây Nhật Bản, nơi chịu thiệt hại nặng nề bởi trận động đất Kobe vào năm 1995, với hơn 6.000 người bị chết. Kết quả cho thấy những hành vi bất thường của chó như sủa dữ dội hơn, cắn bừa bãi... tăng 18% vào 2 tháng trước và sau cơn động đất có cường độ 7,2 richter. Hồ sơ tại 3 trung tâm ở đảo Awaji, ngay trên tâm chấn, thì cho thấy sự gia tăng là 60% vào một tháng trước khi có động đất. "Phát hiện này có thể cho thấy sự liên quan giữa hành vi của chó với khả năng nhận biết trước động đất", Shimamura nói. Kết quả của ông sẽ được công bố tại Hiệp hội địa chấn học Nhật Bản tháng tới. Tuy nhiên, một chuyên gia tại Cơ quan khí hậu Nhật Bản nhận xét: "Có rất nhiều ghi nhận về hành vi bất thường của động vật trong thời kỳ xảy ra động đất, nhưng việc liên hệ nói với khả năng dự đoán thì chưa có một cơ sở khoa học nào cả". Tokyo cũng đã dành nhiều năm trong thập kỷ trước để nghiên cứu liệu cá trê có thể dự báo được động đất, nhưng đã phải từ bỏ vì không có đủ kết luận. Nhật Bản là một trong những nước hứng chịu nhiều cơn động đất nhất. Minh Thi (theo AP) http://vietbao.vn/Khoa-hoc/Cho-co-the-du-b...t/10834922/188/ Đây là bài báo về một số con vật có họ hàng với những con vật trong 12 con giáp hoặc được nhắc đến trong các nền văn minh cổ: Động vật có thể giúp dự đoán động đất? Đầu tiên là mực nước ở hồ bỗng sụt giảm nghiêm trọng. Kế đó, hàng nghìn con cóc nhảy lên trên đường phố. Cuối cùng, chỉ vài giờ trước khi trận động đất kinh hoàng xảy ra ở Trung Quốc, nhiều loại động vật trong vườn thú có những hành vi kỳ lạ. Trên các blog và chatroom của Trung Quốc vài ngày nay tràn ngập câu hỏi: tại sao những dấu hiệu khác thường của thiên nhiên không được các cơ quan chức năng để ý để có thể cảnh báo về thảm họa động đất cho người dân. "Nếu cơ quan địa chấn có đủ chuyên môn, họ đã có thể dự đoán trước động đất khoảng 10 ngày, khi hàng nghìn mét khối nước trong một cái hồ ở Hồ Bắc (Hubei) biến mất chỉ trong một giờ, nhưng cơ quan này đã không nhận thấy điều đó", một blogger viết. Trên thực tế, các nhà địa chấn học khẳng định rằng không thể dự báo về địa điểm và thời điểm sẽ diễn ra động đất. Một số quốc gia, trong đó có Trung Quốc, đã tìm cách sử dụng những thay đổi của tự nhiên - thường là hành vi của động vật - làm dấu hiệu cảnh báo sớm. Nhưng cho đến nay, vẫn chưa có cách chắc chắn nào để dự báo động đất dựa trên sự thay đổi hành vi của động vật. Tuy nhiên điều đó không chặn được cơn bão những lời bàn tán trên mạng. Ngay cả báo chí chính thống cũng không đứng ngoài. Tờ China Daily số ra hôm thứ ba cũng đặt câu hỏi tại sao chính phủ không dự đoán động đất. Các thành viên cộng động mạng cho hay dấu hiệu đầu tiên xuất hiện từ ba tuần trớc, khi mực nước hồ Enshi ở tỉnh Hồ Bắc - cách tâm chấn chừng 500 km, sụt sâu. Sau đó, chỉ ba ngày trước khi cơn địa chấn kinh hoàng ập đến, hàng nghìn con cóc đã nhảy trên đường phố Miên Châu (Mianzhu), nơi bị ảnh hưởng nặn của động đất và có đến 2.000 người thiệt mạng. Người dân Miên Châu lo ngại rằng cóc nhảy là dấu hiệu cho thấy thiên tai sắp đến, nhưng văn phòng khí tượng địa phương khẳng định điều đó là bình thường, tờ Huaxi Metropolitan đưa tin hôm 10/5, hai ngày trước động đất. Vào hôm diễn ra động đất, những con ngựa vằn ở vườn thú thành phố Vũ Hán (Wuhan) đập đầu vào cửa sắt. Thành phố này cách tâm chấn 900 km. Cũng tại đây, nhiều con voi quay cái vòi của chúng một cách điên cuồng, suýt nữa đập phải nhân viên vườn thú. Khoảng 20 con sư tử và hổ - vốn thường ngủ trưa - cứ đi đi lại lại trong chuồng. 5 phút trước khi động đất bắt đầu, hàng chục con công cùng rít lên. (có một số con vật không trong hàng ngũ 12 con giáp nhưng chúng có họ hàng hoặc được nhắc đến trong các nền văn hóa cổ, tuy vậy 12 con giáp vẫn là những con vật nhạy bén nhất) Nhà địa chấn học Roger Musson thuộc Cơ quan nghiên cứu địa lý Anh quốc cho rằng có một số nguyên nhân khiến động vật thay đổi hành vi. Khả năng lớn nhất là do trước động đất, những khối đá lớn dưới lòng đất phát ra sóng điện từ mà động vật có thể tiếp nhận. Một giả thuyết khác là các con vật có khả năng cảm nhận các chấn động yếu xuất hiện trước động đất, điều mà con người không có được. Mùa đông năm 1975, giới chức Trung Quốc đã cho sơ tán một thành phố ở tỉnh đông bắc Liêu Ninh (Liaoning) một ngày trước khi trận động đất mạnh 7,3 độ richter, nhờ quan sát sự thay đổi hành vi của động vật và mực nước trong các ao hồ. Một số sự biến đổi đột ngột các hiện tượng tự nhiên như mực nước cũng được ghi nhận trước cơn địa chấn đẫm máu ở Đường Sơn (Tangshan) năm 1976 làm chết hơn 200.000 người. Khi đó, một nhóm các nhà địa chấn học Trung Quốc đã được điều tới khu vực nhưng không tìm thấy bằng chứng cho thấy khả năng xảy ra động đất. Trên đường trở về, họ dừng nghỉ qua đêm ở Đường Sơn và thiệt mạng trong thảm họa thiên nhiên đó Theo T. Huyền (VnExpress/ AP) Rin86 cũng tìm những bài báo nói về loài thỏ nhưng không có một tài liệu nào Rin86 biết nói về việc thỏ có những khả năng đặc biệt về cảm nhận từ trường hay dự báo động đất mà nó có thính giác phát triển, điều này cũng rất phổ biến trong thế giới động vật. Những con vật như chó, ngựa, dê cũng có khả năng dự báo động đất, con trâu có khả năng định hướng nhờ cảm nhận được từ trường. Vậy nếu sự hình thành nên 12 con giáp Việt Nam là do khả năng dự báo thời tiết của chúng thì con mèo mới là con vật đứng trong hàng ngũ 12 con giáp. Nhưng việc sắp xếp chúng theo thứ tự và sự tương ứng với từng năm và tháng trong năm có ý nghĩa gì? có mối liên quan gì đến sự vận động của trái đất? Điều này có lẽ phải chờ đợi sự nghiên cứu của các nhà sinh vật học, nhưng sẽ tốt hơn nếu họ có định hướng, ví dụ như năm con mèo thì loài mèo có điểm gì khác biệt không? Hầu hết những nhà sinh vật học đều cho rằng 12 con giáp chỉ mang tính biểu tượng văn hóa hoặc dùng trong tử vi mà thôi. Bài báo dưới đây cho thấy khả năng dự báo tai họa của loài vật trong đó có loài lợn: Khả năng dự báo tai họa của loài vật Hậu quả từ những trận động đất gần đây ở Đại Tây Dương, đợt sóng thần hồi tháng 12 năm ngoái và mới đây là cơn bão Katrina cho thấy con người quá nhỏ bé trước các cơn thịnh nộ của thiên nhiên. Tuy nhiên, việc để ý đến các phản ứng về hành vi bản năng ở một số loài động vật có thể giúp chúng ta dự báo được những tai hoạ tự nhiên sắp xảy ra... Hậu quả từ những trận động đất gần đây ở Đại Tây Dương, đợt sóng thần hồi tháng 12 năm ngoái và mới đây là cơn bão Katrina cho thấy con người quá nhỏ bé trước các cơn thịnh nộ của thiên nhiên. Tuy nhiên, việc để ý đến các phản ứng về hành vi bản năng ở một số loài động vật có thể giúp chúng ta dự báo được những tai hoạ tự nhiên sắp xảy ra... Thảm họa sóng thần hồi tháng 12 năm 2004 đã cướp đi sinh mạng của khoảng 300.000 người tại các quốc gia có bờ biển tiếp giáp với Thái Bình Dương, trong khi rất nhiều động vật lại không hề hấn gì. Có rất nhiều giả thuyết giải thích cho hiện tượng tự nhiên bí ẩn này, và người ta để ý thấy rằng một số loài động vật có khả năng phản ứng nhanh trước các nguy cơ từ tự nhiên. Linh cảm bản năng Thảm họa thiên nhiên đầu tiên được ghi nhận là vào năm 2000 trước Công nguyên. Các tài liệu khảo cổ thu thập được cho thấy rằng con người ngày xưa đã biết khai thác khả năng dự báo ở nhiều loài động vật. Loài chồn biến mất khỏi nơi sinh sống trên đảo Crete ngay trước khi một trận động đất cực mạnh xảy ra. Và, một hiện tượng tương tự cũng xảy ra tại Trung Quốc vào năm 1975, đó là loài rắn bỗng nhiên biến mất trong những ngày mùa đông. Là động vật máu lạnh, nhưng chúng lại không di chuyển kiếm ăn như thường thấy mà đã trốn kỹ trong các hang như hiện tượng ngủ đông ở một số loài động vật máu nóng. May mắn là giới chức địa phương đã nhận ra được sự khác thường này và nhanh chóng sơ tán cư dân trong khu vực. Quả nhiên ngay sau đó, một trận động đất khủng khiếp với cường độ lên đến 7,3 độ Richter đã làm rung chuyển cả vùng, hủy hoại phần lớn các công trình xây dựng. Trong suốt thế kỷ XX, giới chuyên môn đã ghi nhận những sự kiện lịch sử về thảm họa tự nhiên, và họ cũng đã chứng minh được rằng nhiều loài động vật có khả năng dự báo hết sức ấn tượng về các tai họa thiên nhiên như động đất, sóng thần, đất trượt, tuyết lở... Thế nhưng, không chỉ có nhạy cảm sâu sắc về thảm họa tự nhiên, một số loài vật còn biết trước các thảm họa do con người gây ra. Cư dân London từng chứng kiến những hành vi khác thường ở mèo và chó như điềm báo trước các trận không kích trong suốt những năm Thế chiến thứ II... Nhiều loài động vật đã biết trước sóng thần? Một nhân viên trạm hải đăng thuộc miền Nam Ấn cho biết, vào tháng 12 năm ngoái anh ta thấy một đàn linh dương bỗng nhiên di chuyển qua khu vực bãi biển hướng về những khu đồi gần đấy chỉ vài giờ trước khi những cơn sóng thần từ tâm chấn ngoài khơi tấn công vào đất liền. Nhiều nhân chứng cho biết tại khu nghỉ mát Phuket Thái Lan, những chú voi phục vụ du lịch gần bãi biển đã rống lên và lồng lộn phá xích, chạy vào đất liền trước khi những cơn sóng dữ ập vào. Từ linh cảm về một tai họa tự nhiên sắp xảy ra, loài hồng hạc ở khu vực này cũng đã rời bỏ những vùng đất trũng để bay đến những vùng núi cao. Các công nhân tại một sở thú ở Malaysia lấy làm ngạc nhiên khi thấy hầu hết các loài động vật bỗng nhiên có những biểu hiện lạ như tìm chỗ ẩn nấp và từ chối ra ngoài mặc dù đã đến bữa ăn. Riêng tại Sri Lanka, thảm họa sóng thần năm ngoái đã giết chết hơn 30.000 người, nhưng hầu hết các loài động vật lớn như voi, dê và nhiều loài động vật hoang dã khác ở khu vực này vẫn bình an vô sự. Trận sóng thần này cũng đã giết chết khoảng 2.000 động vật khác nhau tại một khu bảo tồn ở miền Nam Ấn, trong khi loài lợn lòi (họ hàng với lợn nhà) thì vô sự, bình an. Tại khu triển lãm hải dương học ở Florida, 14 con cá mập bỗng nhiên rời bỏ nơi sống khoảng 12 giờ trước khi cơn bão Charlie đổ bộ vào khu vực này hồi năm ngoái, trong khi nhiều năm qua chúng không hề đi xa hơn 1 km. Theo các nhà sinh vật học, loài cá mập đã di cư đến những vùng nước sâu ở đại dương để lánh nạn và chỉ quay lại 2 tuần sau mặc dù trước đó chúng chưa bao giờ có thói quen di cư tự nhiên này. Con người học được gì từ động vật? Rõ ràng là nhiều loài động vật đã biết được những mối nguy bí ẩn từ thiên nhiên mà con người có thể không bao giờ hiểu và học được. Thảm họa sóng thần tháng 12 năm 2004 đã giúp các nhà khoa học hiểu được phần nào bí ẩn này. Nhiều nhà nghiên cứu đã chứng minh được rằng các loài khác nhau sống trên trái đất đều sở hữu những khả năng thiên bẩm đáng ngạc nhiên, có thể biết trước những tai họa tự nhiên. Không như con người, các loài động vật hoang dã có thể nhận biết và lĩnh hội được nhiều thông tin hơn về thế giới chung quanh. Linh cảm của chúng thực sự siêu đẳng, có thể đánh thức cảm giác bản năng từ một khoảng cách rất xa, thậm chí một sự thay đổi nhỏ về áp suất khí quyển cũng sẽ tác động đến khả năng này. Lợi thế lớn nhất của chúng là khả năng “đọc" và "thấy" được những dấu hiệu nguy cơ từ tự nhiên, giúp chúng lánh nạn an toàn: Các nhà sinh vật học tin rằng con người không thể bắt chước hay học hỏi được khả năng này, mặc dù kinh nghiệm và bản năng của một số loài động vật có thể rất hữu ích cho chúng ta trong việc dự báo các hiện tượng tự nhiên nguy hiểm. Các nhà khoa học còn cho biết rằng động vật hoang dã có khả năng phản ứng tốt hơn trước những biến đổi có tính nguy cơ từ tự nhiên so với những vật nuôi trong nhà. Gia súc, gia cầm thường sống và chịu sự tác động mạnh mẽ bởi văn-hóa-con người. Dần dà theo thời gian, chúng sẽ tự tạo ra một hệ thống các quy luật, điều cấm kỵ và trở nên yếu ớt hơn về thể chất, không phòng thủ hiệu quả trước các tác động từ thiên nhiên. Nhiều nhà khoa học tin rằng con người cũng đã từng là một sinh vật hết sức nhạy cảm với những thay đổi tự nhiên, tương tự như các loài động vật hoang dã hiện nay. Tuy nhiên, trong suốt quá trình tiến hóa, con người đã mất đi khả năng nhận thức sinh học này. Do đó, chúng ta dường như không thể có sự phản ứng tương thích đối với những gì mà cơ thể sinh học nhận thức được, bất chấp các ý định cá nhân của mình. Chẳng hạn như một số người thường nhức mình nhức mẩy, sưng đau các khớp trước những trận đất lở, trong khi số khác lại có biểu hiện xuất huyết nội hay gia tăng thân nhiệt trước một thảm hoạ tự nhiên nào đó mà không rõ nguyên nhân. Trẻ em và một số đối tượng cực kỳ mẫn cảm là những “chuyên gia dự báo” tài tình, họ có thể biết trước những tai họa thiên nhiên sắp xảy ra... Theo Kiến Thức Ngày Nay http://www.khoahoc.com.vn/khampha/the-gioi...a-loai-vat.aspx Loài khỉ là kho thuốc Nam Các nhà khoa học đã ghi nhận khỉ ăn khoảng 198 loài cây, trái khác nhau. Trong đó đáng chú ý là loài cây Aspilia. Đó là cây mọc trên đồng cỏ thuộc loại hoa tán. Thái độ của những con khỉ đối với loài cây này khá lạ. Trên các đồng cỏ ở Tandania, khỉ không bao giờ phá phách loại cây này… Trong vòng 30 năm trở lại đây, các nhà khoa học đã quan sát các con khỉ từ một vài tuổi đến những con khỉ già tìm đến cây Aspilia và ăn những lá non, mặc dù có khi những cây này ở rất xa những nơi chúng thường đi kiếm ăn quen thuộc. Các con khỉ ở vườn quốc gia Gombi ăn lá cây Aspilia vào buổi sáng sớm và chọn loài cây màu đỏ có nhiều lông tơ. Còn những con khỉ ở Mekhâyle thì ăn ở bất cứ giờ nào trong ngày và ăn loài Aspilia Môdămbic. Các con khỉ hoàn toàn không đụng tới hai loài Aspilia khác. Một nhà nhân chủng học Mỹ nhận xét: Thông thường khi gặp lá cây ăn được thì con khỉ liền tống đầy vào mồm và nhai nuốt ngay. Nhưng ở cả hai vườn quốc gia, các con khỉ lựa chọn lá Aspilia rất cẩn trọng. Chúng dùng môi lướt trên lá vài giây và có khi bỏ lại không ăn lá đó. Khi gặp lá thích hợp, chúng vo tròn lá cho vào miệng và nuốt chửng xong mới đi tìm lá khác. Thông thường khỉ ăn rất nhanh, cứ một phút chúng có thể ăn được 44 lá đối với những cây non, nhưng đối với Aspilia chúng chỉ ăn được tối đa 5 lá. Các nhà động vật học chưa rõ khỉ ăn lá Aspilia để làm gì? Có thể đó là một món gia vị để tăng sự ngon miệng. Nhưng cũng không phải. Có thể nó là một loại ma túy. Ông Rangheen đã thử dùng lá này nhưng không thấy tác dụng gì cả. Hóa ra, nhân dân ở vùng nầy đã quen sử dụng rộng rãi lá Aspilia để chữa bệnh. Họ chỉ dùng những loài mà khỉ đã dùng và không đụng đến hai loài mà khỉ chừa ra. Người ta hái lá, sau đó vắt lấy nước để chữa lành các vết thương, vết bỏng, các bệnh ngoài da, hoặc đau bụng giun. Những nghiên cứu tiếp theo cho thấy trong lá Aspilia có chứa chất kháng sinh Tiarubrin-A với nồng độ cao. Đó là chất có màu đỏ rực rỡ. Trước đó chất này được tìm thấy trong rễ cây Henactica Duglaca thuộc họ hoa Tán. Thổ dân Canada dùng rễ Henactica để chữa các vết thương. Điều đáng chú ý là các con khỉ và cư dân châu Phi chỉ dùng các lá còn non, vì chúng có nhiều chất kháng sinh hơn. Mặt khác các con khỉ chỉ ăn lá này vào trước lúc bình minh, vì lúc ấy chúng có tác dụng chữa bệnh cao nhất. Có nghĩa là hàm lượng chất kháng sinh trong lá Aspilia thay đổi theo thời gian trong ngày. Các nhà khoa học cũng nhận thấy chất Tiarubrin-A có tác dụng diệt nấm và diệt trùng cao, ở nồng độ thấp nó đã có tác dụng tiêu diệt đối với nhiều loại giun. Nó cũng có tác dụng diệt vi khuẩn và diệt virus. Trong phòng thí nghiệm chúng có tác dụng chống ung thư mạnh hơn so với chất vinblastin. Các nhà khoa học còn nhận thấy khỉ ở Tandania còn sử dụng một số loài cây thuốc khác. Thí dụ cây Lippia, là loại cây bụi. Người ta quan sát thấy khỉ cái nhai nuốt lá cây này. Cư dân địa phương cũng nghiền nát lá Lippia để nấu nước uống chống đau dạ dày. Ở một số nơi khác thuộc châu Phi, cư dân đã dùng một loài Lippia khác để chữa kiết lỵ và sốt rét. Phân tích cho thấy trong lá các loài cây này có chứa một số chất Monotecpen, có hoạt tính kháng sinh. Một con khỉ cái ốm đã dùng cây Vernonia làm thuốc. Đó là một loài cây dại. Cư dân ở vùng châu Phi xích đạo đã dùng cây này làm thuốc kháng sinh. Phân tích cho thấy trong cây Vernonia có nhiều chất kháng sinh và chống virus, ngoài ra còn có các chất nâng cao khả năng miễn dịch bảo vệ cơ thể. Người ta đã mô tả một trường hợp tự chữa khỏi bệnh của con khỉ cái. Nó rất chậm chạp, yếu đuối do bệnh nhiễm khuẩn. Nó bỏ qua tất cả những cành cây mỡ màng, ngon lành để đến hút nhựa đắng của rễ cây Vernonia. Nó không ăn tất cả rễ mà chỉ hút lấy nhựa rồi nhả bã ra. Sau đó leo lên tổ trên cây. Chỉ một ngày sau con khỉ ốm đã hoạt động nhanh nhẹn như các con khỉ khác trong bầy. Ở Uganda và Tandania, khỉ cũng ăn một loại lá rất cứng của dây leo commelina. Trong lá cây này có chất Tanin và mủ. Cư dân địa phương đã dùng lá này để chữa sốt, đau nhức và cầm máu. Các nhà khoa học đã lên được danh sách gồm 27 loài cây mà khỉ đã ăn không phải vì đói. Nhưng tại sao khỉ lại có khả năng chọn đúng cây để làm thuốc? Tại sao khỉ cái ở Gombi lại ăn lá Aspilia 3 lần nhiều hơn khỉ đực? Các chất hữu hiệu ở những cây này có tác động độc lập hay là hiệu quả của chúng được các chất khác trong cây làm cho tăng thêm? Những câu hỏi đang dành cho các nhà khoa học giải đáp. THANH TÂM Nguồn http://www.baobinhdinh.com.vn/603/2004/1/8138 Rất có thể người cổ đã quan sát loài khỉ để tìm thuốc chữa bệnh và xếp chúng vào hàng ngũ 12 con giáp Rin86 cho rằng, các con vật trong 12 con giáp đều có khả năng giúp con người dự báo thiên tai, tìm phương hướng, có khả năng cảm ứng với mạng địa từ của trái đất, thời gian... Chứ không đơn thuần là những con vật đại diện cho chu kỳ 12 năm theo cách hiểu rằng đó chỉ là truyện cổ tích, phong tục tập quán và một nét văn hóa. Người Việt cổ có thể đã quan sát những con vật quanh mình để giúp ích cho cuộc sống. Bây giờ tới lượt con rắn :( Các nhà khoa học Trung Quốc cho rằng quan sát hành vi của loài rắn có thể dự đoán được các trận động đất. Theo họ, rắn có khả năng cảm nhận một sự rung động của mặt đất cách xa 75 dặm (tương đương khoảng hơn 120km) trước 5 ngày trận động đất. Chúng dự báo tốt và chính xác nhất trong các loài động vật. Các chuyên gia tại cơ quan nghiên cứu động đất ở Nam Ninh, phía Bắc tỉnh Quảng Tây đã giám sát các khu nuôi rắn qua những hình ảnh internet trong 24 giờ. Phát biểu trên tờ nhật báo Trung Quốc, ông Jiang Weisong, giám đốc Cục nghiên cứu động đất Nam Ninh khẳng định: "Trong tất cả các loài vật trên trái đất thì rắn có lẽ là loài động vật nhạy cảm nhất đối với các trận động đất. Khi 1 cơn địa chấn sắp sửa xảy ra, chúng sẽ rời khỏi ổ, kể cả trong các ngày đông giá rét. Nếu sự rung động ấy là một cơn động đất có cường độ mạnh, rắn có khi sẽ đâm mạnh vào tường để tìm lối thoát". Ông bổ sung: "Bằng cách lắp đặt các camera bên ngoài tổ rắn, chúng tôi đã nâng cao thêm khả năng dự báo động đất của mình. Hệ thống này có thể được nhân rộng tới các địa phương khác trên đất nước Trung Hoa để giúp cho việc dự báo động đất chính xác hơn". (Theo VTV.vn) nguồn http://www.tin247.com/ran_du_bao_dong_dat_...3-21272878.html Như vậy Rin86 đã tìm ra công dụng của một số loài trong 12 con giáp phù hợp với giả thuyết của mình như con rắn, con khỉ, con gà, chó, ngựa, dê, con mèo và hổ (họ hàng nhà mèo) con trâu, và một số loài vật khác tuy không trong hàng ngũ 12 con giáp nhưng lại được nhắc đến trong những di vật cổ hoặc trò chơi dân gian như bầu cua cá cọc. Còn lại hy vọng sẽ tìm thêm được manh mối.
    1 like
  8. Trong Topic này Khánh An xin được lần lượt giới thiệu đến mọi người những cuốn sách vô cùng quý giá về cách thức tu tập để giúp mọi người không chỉ "chuyển đổi vận MỆNH" ngay hiện đời của mình mà đặc biệt còn cứu giúp chính mình và mọi người vượt thoát BIỂN KHÔ LUÂN HỒI SANH TỬ khi rời bỏ báo thân ở kiếp này. NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT Con xin đem tất cả công đức này trang nghiêm Tây phương Phật Tịnh Độ, Xin hồi hướng cho thập phương pháp giới hữu tình, trên đền bốn ân nặng, dưới cứu khổ tam đồ, Hồi hướng cho lịch đại kiếp số oán thân trái chủ, tất cả mọi chúng sanh đã bị con não loạn, đã bị con giết hại, ăn thịt trong đời này và nhiều đời kiếp khác. Hồi hướng cho bà con thân thuộc hiện đời và bà con trong vô lượng kiếp cùng tất cả kẻ oán, người thân, dù đang ở trong bất cứ cảnh giới nào tất cả đều được lợi lạc, đều khởi phát TÍN -HẠNH -NGUYỆN cầu sanh Tịnh Độ và đều được thành tựu Nguyện cầu Hồng ân Tam bảo chứng minh và từ bi gia hộ cho con cùng tất cả mọi chúng sanh trong mười phương pháp giới sớm cùng lên thuyền giác, cùng nguyện vãng sanh, cùng sanh Cực lạc, cùng kiến Di Đà, cùng ngộ vô sanh, cùng thành Phật đạo. A DI ĐÀ PHẬT LIỄU PHÀM TỨ HUẤN Hay PHƯƠNG PHÁP TU PHÚC, TÍCH ĐỨC CẢI TẠO VẬN MỆNH Dịch giả : Tuệ Châu – Bùi Dư Long ( Được tham khảo thêm từ bản in của Ấn Quang Đại Sư ) Mục Lục : Quy tắc tu học - Lời Khai Thị của Ấn Quang Đại Sư Đạo lý vận mệnh I. Luận về lập mệnh II. Vân Cốc khuyên cải tạo vận mệnh III. Tu Phúc Tích Đức Thắng Số IV.Dạy con biết sửa lỗi, tu phúc, tích đức Phương pháp sửa lỗi I- Cái nhân của việc sửa lỗi II- Nền tảng của việc sửa lỗi 1. Lòng xấu hổ 2. Lòng úy kính 3. Lòng dũng mãnh III- Phương pháp sửa lỗi 4. Theo sự tướng 5. Theo lý cải sửa 6. Theo tâm địa 7. Hiệu nghiệm của việc sửa lỗi Phương pháp tích thiện I - Một nhà tích thiện hẳn có nhiều vui II - Thế nào là thiện? 1. Bàn luận rõ ràng về thiện 2. Định nghĩa chữ thiện - Thế nào là ngay thẳng, khuất khúc? - Thế nào là âm thiện, dương thiện? - Thế nào là phải và chẳng phải? - Thế nào là thiên lệch và chính đáng? - Thế nào là đầy và vơi ( bán và mãn )? - Thế nào là đại và tiểu? - Thế nào là khó và dễ? 3. Tùy duyên hết sức tu thập thiện - Thế nào là trợ giúp người cùng làm thiện? - Thế nào là giữ lòng kính mến người? - Thế nào là thành toàn việc thiện của người? - Thế nào là khuyến khích người làm thiện? - Thế nào là cứu người nguy cấp? - Thế nào là kiến thiết tu bổ lợi ích lớn? - Thế nào là xả tài làm phúc? - Thế nào là giữ gìn bảo hộ chánh pháp? - Thế nào là kính trọng tôn trưởng? - Thế nào là tiếc mạng sống loài vật? Những lợi ích của khiêm cung I – Mãn ( tự mãn ) có hại, khiêm có lợi II – Lòng khiêm tốn, nhún nhường , nguồn gốc của phúc QUY TẮC TU HỌC Lời Khai Thị của Ấn Quang Đại Sư Bất luận là người tu tại gia hay xuất gia, cần phải trên kính dưới hòa, nhẫn nhục điều người khác khó nhẫn được, làm những việc mà người khác khó làm được, thay người làm những việc cực nhọc, thành toàn cho người là việc tốt đẹp. Khi tĩnh tọa thường nghĩ đến điều lỗi của mình. Lúc nhàn đàm đừng bàn đến điều sai trái của người. Lúc đi, đứng, nằm, ngồi, ăn, mặc, từ sáng đến tối, từ tối đến sáng, chỉ niệm Phật hiệu không gián đoạn, hoặc niệm nho nhỏ, hoặc niệm thầm. Ngoài việc niệm Phật, đừng dấy khởi một niệm nào khác. Nếu khởi vọng niệm, phải tức thời bỏ ngay. Thường có lòng hổ thẹn và tâm sám hối. Nếu đã tu trì, phải tự hiểu là công phu của ta hãy còn nông cạn, chẳng nên tự kiêu căng, khoa trương, chỉ nên chăm sóc việc nhà mình mà đừng nên dính vào việc nhà người. Chỉ nên nhìn đến những hình dáng tốt đẹp mà đừng để mắt tới hình dạng xấu xa bại hoại. Hãy coi mọi người là Bồ Tát, mà ta chỉ là kẻ phàm phu. Nếu quả có thể tu hành được như những điều kể trên, thì nhất định được sinh về Tây Phương Cực Lạc Thế Giới. Cư sĩ Bùi Dư Long dịch. ĐẠO LÝ VẬN MỆNH I– Luận về lập mệnh 1. Khổng Tiên Sinh đoán rõ định mệnh. Ta lúc nhỏ thân phụ mất sớm, lão mẫu dạy bỏ không theo cử nghiệp mà theo học nghề y, vì học y cũng có thể mưu sinh, có thể cứu người giúp đời mà khi y thuật tinh thông thì được thành danh, đó là ý nguyện sớm có của cha con vậy. Sau đó tại chùa Từ Vân, ta gặp một lão nhân râu dài, tướng mạo tốt đẹp có vẻ tiên phong đạo cốt, nên ta dùng lễ mà cung kính lão nhân ấy. Ông bảo ta rằng: Ngươi là người trong sĩ lộ. Năm tới tức phải nhập học, tại sao lại không theo học vậy? Ta nói rõ nguyên cớ cho vị lão nhân ấy nghe, và lễ phép hỏi danh tính cùng xuất xứ của lão nhân. Lão nhân nói: Lão họ Khổng, người Vân Nam. Lão được Thiệu Khang Tiết tiên sinh chân truyền Hoàng cực số, lão nghĩ cũng nên truyền cho ngươi. Ta thỉnh lão nhân về nhà, và báo cáo với lão mẫu thì người dạy phải nên tiếp đãi cho thật cẩn thận tử tế và thử xem ông ấy đoán số ra sao, thì thấy mọi việc lớn nhỏ ông đều đoán trúng cả. Ta bèn có ý định theo đòi việc đèn sách và bàn với biểu huynh là Thẩm Xứng thì biểu huynh bảo: có Úc Hải Cốc tiên sinh mở lớp dạy tại nhà ông Thẩm Hữu Phu, ta gởi ngươi tới đó trọ học thì rất là thuận tiện. Ta bèn bái Úc tiên sinh làm sư phụ. Khổng tiên sinh lấy số cho ta thì khi khảo thí ở huyện, đỗ đồng sinh đứng hạng thứ 14, thi ở phủ đứng vào hạng thứ 71, và thi ở tỉnh do quan đề đốc học viện làm chủ khảo thì đỗ vào hạng thứ 9. Năm tới đi thi, thì ở cả ba nơi số hạng đều đúng y như thế. Sau đó lại lấy số chung thân cho ta, dự đoán những việc cát hung cho cả một đời và bảo rằng vào năm nào thì được khảo thí đứng hạng mấy, năm nào thì được bổ khuyết lẫm sinh (tức được cấp phát lương ăn học bằng gạo), năm nào thì làm cống sinh, và sau khi làm cống sinh, năm nào thì được tuyển làm trưởng quan ở Tứ Xuyên, tại chức sau 3 năm rưỡi thì cáo quan về hưu. Năm 53 tuổi vào giờ sửu ngày 14 tháng tám thì mất trên giường bệnh, tiếc rằng không con nối dõi. Ta cẩn thận ghi lại tất cả. Từ đó về sau, phàm mỗi khi gặp kì khảo thí, danh số trước sau đều đúng như Khổng tiên sinh đã dự đoán sẵn. Chỉ có một dự đoán là khi nào số gạo cấp lương lẫm sinh của ta được tới 91 thạch 5 đấu (1 thạch là 10 đấu) thì lúc đó sẽ được bổ làm cống sinh, nhưng kịp tới khi ta được lãnh hơn 70 thạch thì Đồ tông sư (quan đề học), đã phê chuẩn cho ta được bổ làm cống sinh, duy chỉ có chỗ đó làm ta có điểm hoài nghi. Nhưng thực ra sau đó, sự phê chuẩn này bị quan thự ấn họ Dương bác bỏ. Mãi tới năm Đinh Mão, tông sư Ân Thu Minh thấy bị quyển nơi trường thi của ta (quyển nộp thi đáng được chấm đậu mà bị bỏ rớt lại) thì than rằng: bài ngũ sách đúng là năm thiên tấu nghị, văn chương quảng bác, ý tứ sâu sắc thông suốt của một nho sĩ sao nỡ để cho mai một mãi ru, bèn truyền cho huyện quan dâng thỉnh nguyện lên để ông phê chuẩn cho được bổ cống sinh. Nếu tính số lượng gạo được cấp từ trước trải qua thời gian bị bác bỏ cho tới khi được bổ thì thực đúng là 91 thạch 5 đấu vậy. Nhân thế, ta càng tin rằng sự tiến thoái, thăng trầm nhanh hay chậm đều có thời, có số cả, nên an nhiên tự tại chẳng cần mong cầu sự gì cả. Sau khi được bổ cống sinh, ta phải đi Yến Đô (tức Bắc Kinh), ở lại kinh đô một năm, suốt ngày tĩnh tọa mà không màng tới việc đèn sách. II– Vân Cốc khuyên cải tạo vận mệnh 1. Nguyên lý của việc cải tạo Năm Kỷ Tỵ, ta quay trở về , du ngoạn qua Nam Ung tức Quốc Tử Giám ở Nam Kinh, nhưng trước khi nhập giám, ta tới bái phỏng Vân Cốc Pháp Hội thiền sư ở Thê Hà Sơn, cùng thiền sư đối diện trong một thất, tĩnh tọa ba ngày đêm chẳng nhắm mắt. Thiền sư hỏi ta: Sở dĩ người phàm không làm được thánh nhân chỉ vì bị nhiều vọng niệm vương vấn bao quanh che lấp mất tâm thanh tịnh mà thôi. Nhà ngươi tọa thiền ba ngày không thấy khởi một vọng niệm nào là vì sao vậy? Ta đáp rằng: Khổng tiên sinh đã lấy số chung thân cho ta, sự vinh nhục sinh tử đều do số đã định sẵn cả, nên dù có vọng tưởng hoặc mưu cầu điều chi cũng vô ích mà thôi , nên không khởi vọng tưởng nữa. Thiền sư cười mà nói rằng: Ta tưởng ngươi là một hào kiệt, nào ngờ ngươi vốn cũng chỉ là phàm phu mà thôi. Ta hỏi lí do tại sao thiền sư lại nói như vậy thì thiền sư bảo rằng: Phàm là con người nếu còn chưa được vô tâm, tức tâm còn vọng tưởng chưa được thanh tịnh thì chung cuộc vẫn bị ràng buộc bởi âm dương khí số, mà đã bị ràng buộc bởi âm dương khí số thì làm sao nói là không có số được? Tuy nhiên, chỉ người phàm là có số. Những người làm việc cực thiện cũng như cực ác không bị số mệnh câu thúc mãi, bởi làm nhiều điều thiện có thể đương nghèo hóa giàu, còn trái lại làm nhiều điều ác có thể đương giàu sang phú quý trở thành nghèo hèn. Nhà ngươi 20 năm nay, cứ theo lời đoán của Khổng tiên sinh mà bị số mệnh câu thúc không hề thay đổi một chút nào thì như thế chẳng gọi là phàm phu thì là gì? Ta hỏi ngay rằng: Vậy thì có thể tránh khỏi số mệnh được sao? Thiền sư đáp: Mệnh do chính mình tạo và phúc cũng do tự mình cầu được. Kinh Thư đã nói làm lành được phúc, làm ác bị giảm phúc, thực rõ ràng đúng là những lời minh huấn. Trong kinh Phật có nói cầu phú quý được phú quý, cầu nam nữ được nam nữ, cầu trường thọ được trường thọ. Này, vọng ngữ là điều đại giới của đức Thích Ca; chư Phật, Bồ Tát há lại nói dối trá, lừa người ư? Ta hỏi thêm rằng: Mạnh phu tử nói những điều mình cầu mong mà có thể đạt được là do chính ở nội tâm mình nghĩ đủ sức làm được như vậy, thí dụ như muốn trở thành một người có đạo đức, nhân nghĩa thì tận tâm, tận lực tu tập thì sẽ được, còn như công danh phú quý là những điều ở ngoài thân tâm mình thì làm sao mà cầu được? Vân Cốc thiền sư nói: Lời của Mạnh phu tử không hề sai, chính tự ngươi không hiểu hết ý nghĩa mà thôi. Ngươi chẳng thấy Lục Tổ đã nói là tất cả phúc điền đều không rời tâm địa của con người, từ nơi tâm mình mà tìm cầu thì mọi sự đều được cảm ứng. Tìm cầu ở ngay nội tâm của mình thì không những chỉ được đạo đức, nhân nghĩa mà công danh, phú quý cũng được nữa, đó là nội ngoại song đắc, trong nội tâm cũng như ở ngoài thân tâm đều cùng được cả bởi lẽ khi mình đã là người có đạo đức, nhân nghĩa thì người đời sẽ trọng vọng mình, công danh, phú quý không cầu cũng tự nhiên được; chỗ hữu ích của việc tìm cầu là đạt được sự việc vậy. Nếu không biết hướng về nội tâm, mà chỉ mưu đồ hướng ngoại tìm cầu thì thật không hợp đạo lý và chỉ được những điều định mệnh đã an bài. Nếu là số mệnh đã định thì chẳng cần tổn công phí sức, vì may rủi, tốt, xấu tự nhiên vẫn đến dù có mong cầu hay không mong cầu. Ngược lại trong số mệnh đã không có, lại không biết phương pháp hướng cầu từ nội tâm thì dù có trăm phương ngàn kế, có mưu đồ gì cũng chỉ mất công vô ích không những không đạt được gì, ngược lại còn tạo thêm tai họa cho mình, vì ở trong thì tâm trí thao thức không yên, ưu tư phiền não…bên ngoài thì chẳng được gì cả, đó là nội ngoại song thất (trong ngoài cùng mất). 2. Phương pháp cải tạo vận mệnh a) Biết lỗi thực sự phản tỉnh Nhân đấy thiền sư lại hỏi ta: Khổng tiên sinh lấy số chung thân cho nhà ngươi ra sao? Ta cứ thực sự trình bày rõ ràng thì Vân Cốc thiền sư hỏi: Ngươi tự lượng xét mình xem có nên thành công trên đường khoa cử hay không? Có nên có con nối dõi hay không ? Ta tự xét mình khá lâu rồi đáp: Thực không nên vậy. Những người thành công trên đường khoa bảng như tiến sĩ, bảng nhãn, thám hoa, đều là những người có phúc tướng, tại hạ phúc bạc lại không biết tích lũy công đức, hành thiện để bồi đắp nền tảng của việc đạt được phúc dày, hơn nữa lại không biết nhẫn những sự phiền toái vụn vặt, không có độ lượng rộng rãi bao dung người, có lúc lại ỷ mình tài trí hơn người, thường làm ngay nói thẳng, hay vọng đàm nên ngôn ngữ không được thận trọng. Phàm những điều như thế đều là bạc phúc, há còn dám nghĩ đến việc khoa bảng ru! Chỗ đất ô uế, ẩm ướt thường hay sinh vật, còn chỗ nước trong vắt thì không có cá mà tại hạ lại có tật ưa thích sự tinh khiết sạch sẽ, đó là một điều thứ nhất không nên có con vậy. Hòa khí tức phong vũ thuận hòa, thời tiết thuận tiện, vạn vật dễ sinh trưởng, mà tại hạ thì hay nóng giận, đó là điều thứ hai không nên có con. Ái tức là lòng nhân ái, tâm từ bi là căn bản của sự sinh trưởng, vì nhân sinh quả, quả lại sinh nhân, cứ thế mà sinh sinh mãi mãi, còn nhẫn tâm không phải là gốc rễ của sự sinh dưỡng, tại hạ trọng thanh danh tiết tháo, thường không biết xả thân cứu người, đó là điều thứ ba không nên có con. Hay nhiều lời mất khí lực cũng là điều thứ tư không nên có con; uống rượu nhiều, tinh thần suy nhược là điều thứ năm không nên có con; thường hay ngồi suốt đêm không biết bảo tồn nguyên khí, dưỡng dục nguyên thần là điều thứ sáu không nên có con vậy. Ngoài ra, còn nhiều thói hư tật xấu khác kể ra không hết. Thiền sư Vân Cốc bèn nói: Há chỉ có khoa bảng là nhà ngươi không muốn hay sao! Người đời được hưởng thụ tài sản thiên kim hay bách kim là ở số mệnh do nhân lành kiếp trước đã định cho họ thành đại phú hay trung phú, còn người bị chết đói là do đã gây tạo nhiều nhân xấu, ác nên số mệnh định phải chịu quả báo như vậy; thiên thượng chỉ phụ họa vào theo số phận của họ, chứ chẳng có một ly một chút ý tứ nào thêm thắt vào cả. Nói về việc sinh con nối dõi thì người tích lũy trăm đời công đức hay người tích đức mười đời, con cháu họ trăm đời sau hay mười đời sau sẽ tiếp tục gìn giữ hưởng phúc, còn những người chỉ có phúc ba đời hay hai đời, con cháu ba đời hay hai đời của họ sẽ được hưởng phúc đó. Những người phúc quá bạc thì bị vô hậu, không con nối dõi, dòng giống bị đứt đoạn. :D Việc triệt để sửa lỗi Nay ngươi đã thấy vấn đề ở đâu thì phải hết lòng sửa lại những nguyên nhân làm cho không đậu tiến sĩ cũng như không con nối dõi. Tất cả những việc về trước coi như đã xóa bỏ hết, coi như ngày hôm qua mình đã chết, và từ ngày hôm nay về sau, xem như được tái sinh, nếu phúc bạc thì cần phải tu nhân tích đức, hành thiện cần phải có lòng nhân hậu độ lượng bao dung người, cần phải cư xử hòa thuận, kính ái người và cần phải biết tồn dưỡng nguyên khí tinh thần. Đó là nghĩa lý của thân tái sanh vậy. Cái thân máu mủ huyết nhục của chúng ta hẳn nhiên đã có số nhất định, còn đã biết sửa đổi lỗi lầm, đã được giác ngộ, tâm được thanh tịnh thì thâm nghĩa lý ấy há không cùng thượng thiên cảm ứng, tương thông hay sao? Thiên Thái Giáp trong kinh Thư có nói: Thượng thiện tác hòa, bởi tiền nhân (người đời trước) mà nay chịu hậu quả thì còn có thể tránh được, chứ tự mình gây ra những điều oan nghiệt, những điều ác thì phải tự gánh chịu ác báo, không thể sinh sống an lành, yên ổn được. Kinh Thi có nói: Con người phải luôn luôn tự xét lấy mình mà ăn ở, cư xử sao cho hợp thiện đạo, làm lành lánh dữ ắt hẳn phải được thiện báo. Đó là tự mình biết cầu được nhiều phúc. Khổng tiên sinh đoán là ngươi không có số khoa bảng, không con nối dõi, đó là cái oan nghiệt đã định sẵn từ trước, do vậy có thể tránh được. Nay ngươi nên đem cái thiên tính đạo đức trời đã phú cho mọi người, khai mở thật rộng rãi, chí tâm tận lực hành thiện, tích lũy âm đức, đó là tự mình tạo lấy phúc cho mình thì sao lại không được báo đáp, thụ hưởng ư? Kinh Dịch thường luận bàn việc lấy nhân đạo phối hợp thiên đạo để cảnh giác con người cẩn thận tránh làm những sự bại hoại, đã vì người quân tử có nhân nghĩa đạo đức mà định rằng người ta cần xu hướng về đường thiện, xa lánh ác đạo hung hiểm. Nếu cho rằng số mệnh là hữu thường không thể biến cải được thì sao lại cần xu cát tị hung? Chương mở đầu của Kinh Dịch nói rằng một nhà mà tích đức hành thiện ắt có nhiều sự hỷ khánh, có phúc được hưởng thụ dài lâu. Theo Kinh Dịch thì số mệnh có thể biến cải miễn là biết làm nhiều điều lành và tránh ác. Ngươi có tin thực như vậy không? III– Tu phúc tích đức thắng số Ta tin những lời chỉ dẫn của thiền sư và làm lễ thụ giáo. Nhân đó, trước bàn thờ Phật , thành tâm phát lồ sám hối tất cả những điều lầm lỗi, tội ác đã làm từ trước đến nay, nguyện sau này sẽ không phạm phải nữa, lại dâng sớ nguyện làm ba ngàn điều thiện, trước cầu được đăng khoa để đền đáp ân đức của trời đất và tổ tông. Vân Cốc thiền sư chỉ dẫn cho ta cách thức lập một cuốn sổ ghi công và tội, dặn ta hàng ngày phải ghi thật rõ ràng những điều mình đã làm, dù thiện hay ác đều phải ghi lại, thiện ghi bên cột thiện, và ác ghi vào cột ác để so sánh xem thiện nhiều hay ác nhiều mà tu sửa, ngoài ra lại bảo ta nên niệm chú Chuẩn Đề nhờ Phật gia bị thì những điều cầu nguyện ắt sẽ được ứng nghiệm. Thiền sư còn bảo ta những người chuyên vẽ bùa chú thường nói nếu không được mật truyền thì họa bùa không linh ắt bị quỷ thần cười chê. Chỗ bí quyết đó là khi cất bút họa, trước hết phải dứt bỏ hết mọi sự trần duyên không được khởi một ý niệm nào để cho tâm thực thanh tịnh rồi mới bắt đầu đặt bút họa một điểm gọi là hỗn độn khai cơ, rồi cứ tự nhiên vô tư lự tiếp tục huy bút từng điểm, từng điểm một họa thành lá bùa, như vậy thì bùa mới được linh nghiệm. Phàm muốn cầu lập mệnh đều cần phải giữ tâm cho được thanh tịnh không chút loạn tưởng vọng niệm, kính cẩn cầu nguyện thì mới được cảm thông linh ứng. Bàn về việc lập mệnh, Mạnh phu tử trong thiên Tận Tâm có viết: yểu và thọ không hai, tức thọ yểu chẳng có khác nhau. Thực tế ta thấy chết yểu và sống lâu hai điều khác xa nhau, tại sao thầy Mạnh lại nói khác? Nên biết khi tâm không vọng niệm, thì ngay đó đâu có phân chia số mạng thọ yểu, giàu nghèo, cùng thông... Chỉ từ tâm móng khởi thiện ác mới tạo nên những số mệnh sai khác giữa giàu nghèo v.v... Nhưng phàm đã sinh ra ở đời, ai không coi việc chết sống là quan trọng, nên trên đây chỉ nói đến việc sống lâu và chết yểu, kỳ thật ý đã bao gồm tất cả mọi sự thuận nghịch xảy ra trên suốt cả đời người. Ðến như câu "Tu thân dĩ sĩ chi" mà Mạnh Tử đã nêu lên, là cốt nhắc người đời nhớ lấy điều tích đức tu nhân làm hệ trọng. Hễ tu được nhân đức thời dầu có mọi tội lỗi vẫn cải bỏ được hết, và nói chờ đợi (sĩ) tức có ý nói gắng lo tu nhân tích đức đến khi công phu sâu dầy, tự nhiên số mệnh thay đổi, chớ không phải chỉ đem cái hy vọng suông cầu cho được thế nầy thế kia mà được kết quả thế nầy, thế kia. Người thông đạt đạo lý, dù một mảy may hy vọng cũng chẳng để dính mắc trong lòng, được như thế mới đạt đến cảnh giới bất động niệm hồn nhiên, mới đạt đến chỗ thật học cao siêu. Người còn chưa đạt được vô tâm, chưa được nhất tâm bất loạn, còn chấp trước vọng niệm, chỉ nên trì chú Chuẩn Đề, liên tục niệm đừng để gián đoạn, cũng không cần đếm số, niệm sao cho được thuần thục, niệm mà hóa không niệm, tự mình cũng không hay là mình đang niệm chú nữa, đến chỗ không khởi một niệm đầu nào cả thì mới linh ứng. Sau khi được Thiền sư chỉ dạy ta liền đổi tên hiệu Học Hải thành Liễu Phàm, bởi sau khi hiểu biết đạo lý của việc lập mệnh, ta muốn dứt bỏ các kiến giải phàm tục, lột bỏ lớp vỏ phàm phu đi. Từ đó trở đi ta suốt ngày để ý cẩn thận đề cao cảnh giác không giống như trước kia chỉ hồ đồ tùy tiện phóng túng, ngày lại qua ngày mê hoặc không biết tự kiềm chế giác ngộ. Đến nay sau khi hiểu biết rằng vận mệnh có thể cải biến được, tự nhiên ta có cảm giác dè dặt úy kính, ở nơi phòng tối chẳng ai hay ta cũng thường sợ đắc tội với thiên địa quỷ thần hằng xuất hiện ở nơi chái phía Tây Bắc, và có ai oán ghét ta, muốn hủy báng ta, ta cứ điềm nhiên dung thứ, chịu đựng, bỏ qua chẳng hề để ý tới. Đến năm sau, bộ Lễ mở kỳ khảo thí, Khổng tiên sinh đoán ta được xếp vào hàng thứ ba nào dè ở nơi trường thi mùa thu ấy, ta trúng cử đệ nhất hạng, lời đoán của Khổng tiên sinh đã không được ứng nghiệm. Tuy nhiên, ta tự kiểm thảo thấy sự thi hành các việc đạo nghĩa chưa được thuần thục tự nhiên, mà còn nhiều sai trái khuyết điểm; hoặc khi thấy việc thiện mà không hăng hái, mạnh dạn làm ngay, hoặc muốn cứu giúp người mà trong tâm còn ngần ngại, do dự; hoặc thân gắng sức làm lành mà miệng còn nói ác làm người bất mãn để bụng; hoặc lúc tỉnh thì hăng hái, nhưng khi say lại phóng túng không tự chủ được, vì vậy sợ rằng việc thiện làm ra không đủ bù đắp lại lỗi lầm, và ngày lại ngày để thời gian trôi qua một cách uổng phí. Từ lúc ta phát nguyện vào năm Kỷ Tị cho mãi tới năm Kỷ Mão, mười năm có dư thời ba ngàn điều thiện mới làm xong. Lúc đó ta cùng Lý Tiệm Am tiên sinh từ quận ngoại nhập nội chưa kịp làm lễ hồi hướng ba ngàn công đức trên. Sang năm sau là năm Canh Thìn từ Kinh trở về phương nam, mới thỉnh Tính Không và Huệ Không, hai vị pháp sư làm lễ hồi hướng tại Đông tháp thiền đường. Sau đó bèn phát nguyện cầu sinh con và cũng hứa làm ba ngàn điều thiện. Năm Tân Tị sinh con tên là Thiên Khởi. Mỗi khi ta làm một việc gì thì tùy tiện lấy bút ghi lại, vợ ta không biết viết thì khi làm điều gì bèn liền đó lấy bút lông ngỗng khuyên một vòng son vào tờ lịch của ngày hôm đó; chẳng hạn như thí thực cho người nghèo, hoặc là mua vật phóng sinh, mỗi ngày kể có hơn mười khuyên. Đến tháng tám năm Quý Mùi, số ba ngàn điều thiện đã làm đầy đủ, lại thỉnh các vị Tính Không tề tựu tại gia làm lễ hồi hướng công đức. Vào ngày 13 tháng chín cùng năm, ta lại bắt đầu phát nguyện cầu đỗ tiến sĩ và hứa làm mười ngàn điều thiện. Năm Bính Tuất thì trúng cử và được bổ làm tri huyện Bảo Đề. Khi nhậm chức ở huyện, ta dự bị làm sẵn một cuốn sổ nhỏ có nhiều ô vuông trống gọi là một thiên trị tâm, mục đích để sửa các điều lỗi lầm mà tu tâm. Mỗi buổi sáng khi bắt đầu thăng đường thì gia nhân mang sổ ra cho nha dịch để lên án thư, ta tỉ mỉ ghi lại các điều thiện hay ác trong khi xử án, hoặc xử lý công việc ở huyện. Buổi chiều tối thiết lập bàn hương án ở ngay sân huyện và noi gương ngự sử Triệu Duyệt Đạo, ta đem tất cả các việc làm hàng ngày dâng hương cáo trình thượng thiên, nếu có điều sai trái, lầm lỗi thì thành tâm phát lồ sám hối. Vợ ta thấy đã lâu mà làm được ít điều thiện quá, thời chau mày lo lắng mà nói rằng: Trước đây ở nhà, thiếp còn có thể giúp được nên vì vậy mà số ba ngàn điều thiện phát nguyện mới chóng hoàn thành. Nay ở trong nha, thiếp không giúp được gì cả mà lại nguyện làm những một vạn điều , thì biết đến bao giờ mới được viên mãn. Đêm hôm đó, ta bỗng nằm mộng thấy một vị thần nhân, bèn trình bày duyên cớ khó làm xong 10 ngàn điều thiện đã nguyện hứa, thì thần nhân bảo chỉ cần một việc giảm tiền thuế là vạn sự sẽ hoàn thành đầy đủ. Ta thấy ruộng ở Bảo Đề này mỗi mẫu nạp tô hai phân ba ly bảy hào thì quá cao, nên nghĩ có thể xin giảm xuống tới một phân bốn ly sáu hào; thiết tưởng việc này có thể thi hành được, nhưng trong lòng còn hoang mang hồ nghi không hiểu thần minh có thấu rõ việc ta xin giảm tô hay không, và làm sao chỉ làm một điều thiện lại có thể tương đương với vạn điều được, thì vừa may có thiền sư Thích Huyền Dư từ Ngũ Đài Sơn tới, ta đem những lời thần nhân báo mộng hỏi thiền sư có thể tin được như thế không? Thiền sư bảo làm việc thiện mà tâm khẩn thiết chí thành thì một điều có thể sánh bằng vạn điều, huống hồ lại giảm tô cho cả một huyện, toàn dân đều được hưởng ân huệ thì một điều đó cũng đáng bằng 10 ngàn điều vậy. Ta bèn quyên góp lương bổng để thiền sư trở về Ngũ Đài Sơn trai tăng một vạn người và đem công đức ấy hồi hướng hộ cho. Khổng tiên sinh đoán là năm 53 tuổi ta gặp tai ách khó qua, ta chưa từng cầu đảo xin tăng thọ, mà năm đó lại vô sự, và nay thì ta đã 69 tuổi rồi. Kinh Thi có câu: Trời không dễ tin, mạng không định thường, lại có câu: Vận mạng chẳng nhất định. Những câu ấy đâu phải là lời dối trá! IV– Dạy con biết sửa lỗi, tu phúc, tích đức Ta nhân đó mà hiểu rằng họa phúc là tự mình chuốc lấy, làm lành gặp lành, làm ác gặp ác, các vị thánh hiền đều đã dạy như thế. Nếu nói rằng họa phúc là do mệnh trời định, thì đó là lối luận bàn thông thường của kẻ thế tục vậy. Hiện tại số mệnh con thế nào chưa dễ biết được. Vậy đang khi được hiển vinh hãy tưởng như đang lúc hàn vi chưa được đắc ý, khi gặp được sự thuận lợi, hãy tưởng như đang gặp nghịch cảnh khó khăn; trước mắt có đủ ăn, hãy tưởng là thiếu nghèo; khi được người kính nể, thường phải có ý e dè sợ sệt; khi gia thế được người trọng vọng, thường phải nghĩ tới lúc mình còn ty tiện, thấp kém; khi học vấn có phần cao, hãy tưởng mình còn nông cạn, ngu dốt. Xa về trước, nghĩ tới công đức tổ tiên để lo kế tuyên dương, gần hiện tại, nghĩ tới lầm lỗi của mẹ cha mà tìm cách bồi bổ, trên lo đền ơn trước, dưới lo tạo phước gia đình, ngoài thì giúp người tai nạn, trong thì lo ngăn ngừa tà ác nơi chính mình. Cốt phải ngay thấy chỗ sai quấy của mình để lo toan hối cải. Nếu một ngày không tự biết mình quấy tức một ngày an lòng tự cho mình là phải, một ngày không ăn năn hối quá tức một ngày không tiến bộ. Hạng người thông minh tuấn kiệt trong thiên hạ đâu phải hiếm, nhưng nếu họ không gắng lo tu đức, mở mang thiện nghiệp, họ cũng chỉ sống một đời đình trệ, an phận dật dờ gặp chăng hay chớ, uổng phí một đời mà thôi! Thuyết lập mệnh do Vân Cốc thiền sư chỉ dạy trên đây là một đạo lý thực chân chánh, thực tinh vi thâm thúy, con phải gắng công, gắng sức nghiên cứu cho kĩ rồi theo đó mà thi hành, chớ để thời gian trôi qua vô ích vậy. PHƯƠNG PHÁP SỬA LỖI I– Cái nhân của việc sửa lỗi Vào thời đại Xuân Thu, các quan chức của nhiều nước chư hầu thường có sự lai vãng giao hảo, khi thấy cử chỉ, hành động, ngôn ngữ của một người nào, hoặc khinh bạc, hoặc ôn hòa nhân hậu, họ có thể đàm luận về số phận, họa phúc của người đó và hầu hết lời suy đoán đều ứng nghiệm. Những sự tình như vậy có ghi rõ trong các sách sử như Tả truyện hay Quốc ngữ, đọc đến tất thấy. Do hầu hết những triệu chứng tốt xấu, đều manh nha từ trong tâm ý rồi hành động ra tay chân, như người có cử chỉ hành động nhân hậu đạo đức, biết hy sinh vì người khác thường được phúc, trái lại người có hành vi khắc bạc, toan tính ích kỷ, tham lam cho riêng mình thường gặp họa. Song người phàm mắt tục, nhãn quang bị che lấp nên ít ai thấy rõ điều nầy, mới vội cho họa phúc báo ứng mâu thuẫn khó lường! không thể suy đoán trước được. Hễ người nào đem tâm thành tín làm việc thiện tất yếu việc làm của họ hợp cùng chân lý, mà hạnh phúc sẽ đến với họ, trái lại thì tai họa theo chân. Cứ xem ở điều lành điều ác họ làm, có thể biết trước những việc sẽ đến với họ. Nhưng những người muốn lánh họa cầu phúc, hãy lo ăn năn cải quá, trước khi nói tới việc làm lành. II– Nền tảng của việc sửa lỗi 1. Lòng xấu hổ (Tâm biết tự hổ thẹn) Nay muốn được phúc mà tránh xa các tai họa, chưa vội bàn tới việc làm lành, trước hãy nên cần sửa lỗi đã. Người muốn sửa lỗi, điều khẩn yếu thứ nhất là cần phải biết tự hổ thẹn. Cần luôn nghĩ rằng các bậc cổ Thánh, tiên Hiền xưa cũng là người như ta mà sao có thể nêu gương sáng hàng trăm đời, ta không lẽ lại chịu thân tàn hủ bại, lẹt đẹt thấp hèn một đời ngói bể, chỉ lo chạy theo ngũ dục lục trần (danh, lợi, tình ăn, ngủ) mà nhiễm phải nhiều thói xấu, làm nhiều điều bất nghĩa lại tự cho là người đời không hay, không biết nên cao ngạo, ngang nhiên chẳng chút hổ thẹn, ngày một sa đọa, đời sống không khác cầm thú mà chẳng tự biết. Ở đời chẳng có điều gì lớn hơn là biết tự hổ thẹn. Thầy Mạnh Tử nói: Lòng biết hổ thẹn ở nơi con người là một điều lớn lao vậy, có được tâm tri sỉ ắt thành thánh hiền, không có tâm tri sỉ ắt chỉ là cầm thú, súc sanh mà thôi. Đó là chỗ căn bản quan hệ của việc sửa lỗi vậy. 2. Lòng úy kính (Tâm biết sợ hãi) Điều thứ hai là cần phải phát lòng úy kính, e dè sợ sệt. Hãy nghĩ rằng mình làm việc gì đều có Thánh thần ở trên mình, xung quanh mình biết rõ, không dối trá được. Dẫu mình có phạm tội lỗi nhỏ nào, dù người đời không thấy, Thánh thần đâu có mù mờ. Hễ tạo tội nặng, có trăm họa kéo theo, gây tội nhẹ thì giảm mất phước báo hiện tiền. Như vậy sao được không dè dặt sợ hãi? Chẳng những thế thôi, ngay lúc nhàn cư, vắng vẻ chỉ có mình với mình thần linh càng thấy rõ. Mặc dù ta có che dấu những điều mình làm kín đáo đến đâu, trau chuốt khéo léo thế nào, oan trường rồi vẫn bị bại lộ, cuối cùng không thể tự dối; huống chi đã bị mọi người dòm thấy thì dù một chút giá trị chẳng còn, như vậy há không đáng cẩn thận sao? Dù vậy điều quan trọng nên biết là khi hãy còn một hơi thở, các tội ác đều vẫn có thể sám hối cải sửa, nên lắm người một đời tạo ác, đến phút lâm chung biết hối ngộ, nhất một niệm thiện tâm mãnh liệt, họ vẫn có thể hưởng được một cái chết an lành. Cổ đức nói: Một niệm lành mãnh liệt đủ rửa sạch tội trăm năm, ví như cái hang sâu tối ngàn năm, chỉ rọi một ngọn đèn, bóng tối kia liền biến mất. Vậy không kể tội lỗi đã tạo lâu hay mới tạo, miễn biết thành thật hối cải là tội hết. Cần biết cõi trần vốn là vô thường không nhất định, tấm thân huyết nhục dễ bị hủy hoại, nên nếu cứ cho là làm lỗi rồi có thể sửa được nhưng mà chẳng chịu sửa ngay, một khi hơi tàn thở hắt ra rồi lúc đó muốn sửa thì chẳng còn kịp nữa. Ở dương thế mang lấy tội danh từ trăm năm, ngàn năm trước, tuy có con hiếu cháu hiền cũng không vì mình mà rửa sạch được; ở cõi âm thì bị quả báo sa địa ngục hàng trăm ngàn kiếp, dù cho có thánh hiền, có Phật, Bồ Tát cũng không cứu giúp, dẫn độ được. Vậy há chẳng nên luôn e dè sợ sệt hay sao? 3. Lòng dũng mãnh (Tâm dũng mãnh) Thứ ba, phải phát tâm dũng. Nhiều người không chịu sửa lỗi đa số là vì phóng túng, quá dễ dãi, nuông chiều chính mình, dù biết có lỗi nhưng lại bỏ đấy không chịu cải sửa ắt bị thoái hậu, dần dà có tính thụt lui, tự ngăn con đường tiến bộ của mình. Vì vậy muốn sửa lỗi, cần phải hăng hái phát tâm dũng mãnh dụng công cải sửa ngay lấy mình, đừng nên do dự, trù trừ, chờ đợi. Hãy xem lỗi lầm nhỏ như bị mũi kim nhọn châm chích sẽ làm thối thịt, cần mau khoét vất; sợ lỗi lầm lớn như sợ bị rắn độc cắn phải mau mau cắt bỏ, được không chậm trễ, do dự. Người mà nhất quyết sửa lỗi lầm để tự canh tân thật rất hữu ích cũng như gặp được quẻ Phong Lôi Ích trong Kinh Dịch, một quẻ đại cát vậy. Có đầy đủ ba tâm, tâm tri sỉ, tâm úy kính, và tâm dũng mãnh, ắt lỗi lầm đều cải sửa được ngay cũng như băng tuyết mùa xuân gặp mặt trời, vậy há lo gì mà tội lỗi chẳng tiêu tan? III – Phương pháp sửa lỗi Tội lỗi của người ta có thể theo sự tướng mà cải sửa, hoặc theo lý hay theo tâm mà cải sửa. Cách dụng công không giống nhau thì hiệu quả cũng không tương đồng. 1.Theo sự tướng cải sửa Như hôm trước phạm lỗi sát sinh, hôm sau giữ giới không sát sinh nữa, như hôm trước nóng giận mắng chửi, hôm nay giữ giới không nóng giận nữa. Những sự cải sửa như thế gọi là theo sự tướng xảy ra mà cải sửa vậy. Tuy nhiên lối cải sửa này mới chỉ là lối miễn cưỡng kiềm chế lấy mình, nên khó lòng dứt được sạch tội vì chung cục bệnh căn (gốc bệnh) vẫn tồn tại trong lòng thì dù hôm nay diệt được tội bên đông ngày mai tội lại nẩy sinh bên tây, nên lối cải sửa này chưa phải hoàn hảo, cứu cánh. 2.Theo đạo lý mà cải sửa Người khéo sửa lỗi mình thì khi còn chưa phạm cấm giới, trước hết cần học hỏi để biết rành rẽ đạo lý đã; chẳng hạn: Về tội lỗi sát sinh thì cần nên hiểu rằng Trời đất vốn hiếu sinh, các loài vật đều luyến ái mạng sống, ta giết chúng để nuôi dưỡng thân mình thì sao có thể đang tâm; vả lại khi giết chúng, nào là chặt cắt, mổ xẻ cho vào chảo, vào nồi nấu nướng, chúng phải chịu bao nỗi thống khổ đau đớn thấu cốt tủy…mà ta ăn vào dù béo bổ, ngon bùi đến đâu nhưng một khi nuốt trôi khỏi cổ thì liền trở thành đồ hôi thối rồi cũng tiêu ma như không có gì. Chi bằng dùng rau đậu, canh dưa cũng vẫn no nê đầy bụng, hà tất phải sát hại mạng sống của chúng vật mang lấy tội sát sinh làm tổn phúc của mình không ít. Hơn nữa, những vật thuộc loại có huyết khí đều có linh tính, tri giác, mà đã có linh tính tri giác thì chúng cũng đồng một thể, cũng giống như chúng ta; ví bằng ta chưa tự tu được đến mức độ đạo đức thực cao khiến chúng thân cận ta, tôn trọng ta, há lại hàng ngày sát hại sinh mạng chúng vật để chúng mãi mãi thù oán, cừu hận chúng ta. Nghĩ như vậy thì đối với miếng ăn thực cũng đau lòng mà khó nuốt trôi. Như hôm trước nổi sân cáu giận, ắt nên nghĩ rằng con người không phải thánh nhân, còn có nhiều khuyết điểm lỗi lầm, theo đạo lý mà nói, thực tình đáng nên thương hại; nếu họ phạm lỗi sai quấy là do tự họ không hiểu đạo lý chẳng can dự gì đến ta, bản tâm vốn thanh tịnh không chấp trước thì hà tất phải nổi sân. Lại nữa nên nghĩ rằng trong thiên hạ chắc không ai lại tự nhận mình là thánh hiền, hào kiệt chẳng có chỗ nào sai trái, và cũng không có cái học nào dạy ta oán ghét người, vì người có học vấn, trí thức không oán trời trách người, mình làm chưa đến nơi đến chốn, việc chưa thành tựu đều do tự mình chưa dày công tu phúc, tu đức nên chưa được cảm thông. Chúng ta nên tự phản tỉnh, tự xét lại mình, nếu có những điều phỉ báng, phê bình điều kia tiếng nọ thì nên coi đó là những lời chỉ dạy để mình rèn luyện mài dũa tâm trí, tu tập cho đạt được thành quả, nên hoan hỷ nhận, hà tất phải phát sân phát hận. Nếu nghe những lời phỉ báng mà nổi giận tranh cãi với người, dù có muốn dùng hết sức biện bác thì trong cơn nóng giận ắt những lời biện luận chẳng được rõ ràng minh bạch, giống như con tằm về mùa xuân kéo kén tự ràng buộc lấy mình, tự làm khổ mình. Sự nóng giận chẳng những vô ích mà còn có hại nữa. Ngoài việc sân nộ ra, tất cả những lỗi phạm khác cũng đều cứ y theo đạo lý mà xử sự như vậy. Một khi đạo lý đã sáng tỏ, lỗi phạm sẽ tự đình chỉ. 3.Theo tâm địa mà sửa lỗi Thế nào gọi là theo tâm mà sửa lỗi? Lỗi lầm có thiên hình vạn trạng, chỉ do ở nơi tâm mà tạo ra. Tâm chúng ta chẳng động niệm thì lỗi sao có thể nảy sinh. Người học sửa lỗi lầm như háo danh, háo sắc, tham tài, tham lợi, hoặc hay phát sân nộ…, có quá nhiều tội lỗi bất tất phải phân biệt từng loại một để mà sửa trị, chỉ cần một lòng một dạ thành tâm nghĩ điều lành, làm điều thiện, khi đã có chính niệm phát hiện thì tà niệm tự nhiên bị ô nhiễm rồi bị tiêu diệt. Ví như mặt trời xuất hiện ở trên không thì yêu ma, quỷ quái phải tìm đường lẩn trốn chẳng dám ló dạng. Đây là chỗ chân truyền tinh vi vậy. Tội lỗi do tâm tạo ra thì lại do tâm cải sửa, cũng như chặt một cây độc thụ ắt phải chặt ngay từ gốc rễ, há lại đi cắt từng cành, ngắt một chiếc lá một hay sao! Nói chung thì có thể theo sự tướng, theo lý và theo tâm để tu sửa tội lỗi, nhưng phương pháp theo tâm là tốt hơn cả; tâm đã tu, đã được sửa trị thì sẽ trở thành thanh tịnh, nên mỗi khi một ý niệm ác dấy động ở nơi tâm thì tự mình liền thấy biết ngay, mà đã thấy biết tức đã tỉnh ngộ không còn mê muội thì ác niệm tội lỗi sẽ tiêu tan thành không. Theo tâm để cải sửa là phương pháp tối thượng, nhưng giả sử chẳng theo được thì nên hiểu rằng luân thường đạo lý không cho phép chúng ta tạo tội hay làm ác; nếu chẳng làm được nữa thì nên tùy sự, tùy việc mà giữ giới cấm, cố gắng đừng phạm tội. Khi gặp sự việc dùng phương pháp trên hạ công kiêm với phương pháp hạ chẳng phải là điều thất sách; nhưng chỉ chấp phương pháp hạ mà bỏ lãng phương pháp thượng tức là vụng về vậy. 4.Hiệu nghiệm của việc sửa lỗi Bất quá khi phát nguyện cải sửa lỗi, ở dương thế cần có thiện tri thức (bạn tốt) thường nhắc nhở để cảnh tỉnh mình, ở cõi âm cần quỷ thần chứng minh tấm lòng thành của mình nhất tâm, nhất ý cầu sám hối, ngày đêm chẳng biếng nhác buông thả, như vậy trải qua một hai tuần thất, cho đến một tháng, hai, ba tháng, ắt hẳn có ứng nghiệm. Hoặc thấy tâm thần điềm nhiên, khoan khoái, hoặc thấy trí huệ bỗng được khai mở, hoặc gặp những trường hợp rối ren phiền toái hốt nhiên xử sự giải quyết được rành rọt thông suốt, hoặc gặp kẻ oán thù mà họ bỏ giận làm lành, hoặc mộng thấy khạc ra những vật ô uế, hắc ám; hoặc mộng được các bậc thánh hiền xưa kia tiếp đón dẫn dắt, hoặc mộng thấy bay bổng lên cảnh giới hư không, hoặc mộng thấy tràng phan bảo cái, thấy những sự việc hi hữu ít có như trên, đó đều là cảnh tượng của lỗi tiêu tội diệt vậy. Nhưng đừng thấy thế mà tự kiêu tự đại là mình đã đạt tới trình độ cao để vội ngưng nghỉ làm đứt đoạn mất con đường tiến triển. Xưa quan đại phu Cừ Bá Ngọc, người nước Vệ vào thời đại Xuân Thu, lúc hãy còn trẻ mới 20 tuổi mà đã giác ngộ rằng lỗi lầm cần phải sửa, như lỗi ngày hôm qua thì ngày hôm nay xét lại để gắng sửa cho hết. Tới năm 21 lại hiểu biết được lỗi lầm cải sửa năm trước chưa được hoàn toàn dứt bỏ hết; kịp tới năm 22 tuổi xét nghĩ lại năm 21 tuổi thì tựa như còn mơ mơ hồ hồ về những điều lầm lỗi chưa được tu sửa. Cứ năm này kiểm thảo lại năm trước, theo đó mà dần dần tiếp tục sửa đổi, đến năm 50 tuổi mà còn hay biết được lỗi của năm 49. Cái học tu sửa lỗi lầm của người xưa dụng công như vậy đó. Bọn chúng ta đều là những kẻ phàm phu tục tử, tội ác tích tụ quá nhiều tựa như lông nhím bao bọc toàn thân nó; nếu có hồi tưởng lại những sự việc đã làm thì thường chẳng thấy có chỗ nào lầm lỗi cả, đó là vì tâm tình thô thiển, mắt bị che phủ kín tìm chẳng ra lỗi để tu sửa. Chúng ta hiện mang thân phàm tục, phạm tội lỗi dập dồn, thế mà ít ai tự xét thấy, đó là do tâm còn thô thiển, tập khí hôn ám sâu dày đã huân tập trong nhiều kiếp sống, khiến ta không khác kẻ mù lòa. Nhưng dù ta thấy hay không mặc lòng, luật của tạo hóa vốn tuyệt đối công bằng, hễ đã gây tạo lỗi lầm gì đều không tránh khỏi gặp phải những điều bất hảo, tội lỗi càng sâu dầy càng gặp nhiều tai ương, trước hết sẽ thấy chứng nghiệm ngay qua các trạng tướng: hoặc là tâm tư bế tắc bất định, tinh thần hôn trầm mệt mỏi, mọi việc xảy ra chưa nhớ đã quên, lòng hay phiền não lo lắng; hoặc thường hay nổi sân hận; hoặc gặp người chính nhân quân tử thì thường mất tinh thần, hoặc ngượng ngùng e thẹn; được nghe những lời luận bàn chính đáng hợp đạo lý lại chẳng hoan hỷ, chẳng muốn tin nghe; hoặc làm ơn lại bị mang oán, hoặc ban đêm thường mộng thấy nhiều sự điên đảo, điên đảo cho đến nỗi mất trí sinh ra vọng ngôn, loạn ngữ không được bình thường…; đó đều là những hình trạng của nghiệp chướng phát hiện vậy. Nếu thấy có những hiện tượng như trên thì phải tức khắc khởi phát tinh thần, tự xét lại mình dũng mãnh dứt bỏ lỗi lầm cũ, đừng nên tự mình lại lừa dối mình, may ra mới thoát khỏi những điều mê hoặc và những hậu quả khôn lường về sau. PHƯƠNG PHÁP TÍCH THIỆN I– Một nhà tích thiện hẳn có nhiều vui Mười gương mẫu của người xưa Kinh Dịch nói: một nhà tích thiện hẳn có nhiều vui. Xưa bà Nhan thị đem con gái gả cho Thúc Lương Hột là bà xét kĩ thấy gia đình đó tổ tông đã từng tích đức lâu đời mà đoán biết trước là con cháu họ về sau sẽ hưng thịnh phát đạt. Đức Khổng Tử tôn xưng vua Thuấn là bậc đại hiền có nói: Tổ tiên được hưởng việc tế tự nơi tông miếu, con cháu đời đời hưởng phúc, bảo tồn cơ nghiệp của tổ tông truyền lại, đều là những lời nghị bàn thiết thực xứng đáng. 1. Dưng Vinh làm quan đến chức thiếu sư, nguyên người huyện Kiến Ninh tỉnh Phúc Kiến, gia đình đời đời sinh sống bằng nghề chèo đò đưa khách qua sông. Nhân gặp phải kì mưa lũ quá lâu, nước từ trên núi đổ xuống vùng hạ lưu. Các thuyền khác đều nhân cơ hội mà theo vớt các tài vật trôi nổi trên sông, chỉ riêng thuyền của cụ nội ông thiếu sư chuyên cứu vớt người mà thôi, tuyệt đối không tham vớt một chút tài vật nào cả. Người làng ai cũng cười chê cho là ngớ ngẩn, đần độn. Kịp cho tới khi sinh ra phụ thân của thiếu sư thì gia đình đã dần dần khá, có thần nhân hóa làm một vị đạo sĩ mà mách bảo rằng tổ phụ nhà ngươi có âm đức, con cháu sẽ được vinh hiển phú quý, nên táng vào chỗ đất đó, bèn theo lời chôn cất vào chỗ huyệt đã được chỉ dẫn, tức nay là phần mộ Bách thố vậy. Sau sinh thiếu sư, vào năm 20 tuổi đã đỗ tiến sĩ, làm quan tới chức tam công (tức thiếu sư, thiếu phó, thiếu bảo, hay thái sư, thái phó, thái bảo), tằng tổ, nội tổ và phụ thân cũng được truy phong chức tước như vậy. Con cháu đều vinh hiển, thịnh vượng, cho tới nay trong gia đình cháu chắt còn có nhiều người hiền. 2. Dương Tự Trừng, người huyện Ngân, tỉnh Triết Giang, buổi đầu làm huyện lại, lòng vốn nhân hậu, ngay thẳng, giữ phép công bình. Vào thời ấy, quan huyện lại quá nghiêm khắc, ngẫu nhiên gia hình tù nhân đến máu chảy đầy đất mà cơn giận chưa nguôi. Họ Dương Quỳ xin khoan dung. Huyện quan bảo: tù nhân này đã phạm tội lại không tôn trọng pháp luật, không biết đạo lý nữa, khiến ta làm sao không giận được. Tự Trừng khấu đầu thưa: Người trên lỗi đạo, không còn làm gương mẫu cho kẻ dưới noi theo nên dân tâm thất tán từ lâu rồi, quan trên nếu hiểu rõ tình trạng phạm pháp của dân thì nên thương xót họ, chẳng nên thấy mình xét xử án được phân minh mà vui thích, vui còn chẳng nên huống hồ lại giận dữ sao! Quan huyện nghe nói tỉnh ngộ mà nguôi cơn thịnh nộ. Nhà rất nghèo, lại không nhận một chút tặng vật nào cả. Gặp những lúc tù nhân thiếu ăn, thường tìm cách giúp đỡ. Một hôm có bọn tù nhân mới từ xa tới, dọc đường không có ăn nên đói lả, mà nhà lại thiếu gạo, đem cho tù ăn tất nhà không có miếng, để lại nhà ăn thì khó nhẫn tâm, bèn thương lượng với vợ. Bà vợ hỏi là tù nhân từ đâu lại thì Tự Trừng bảo là từ Hàng Châu tới, dọc đường không có ăn, đói khát khổ sở, sắc mặt xanh xao như tàu lá, nhân đó lấy bớt gạo của nhà nấu cháo cho tù ăn đỡ. Về sau sinh được hai trai, con trưởng đặt tên là Thủ Trần, con thứ là Thủ Chi, đều làm đến Lại bộ thị lang, một người ở Bắc Kinh, một người ở Nam Kinh; cháu nội được hai người, trưởng làm Hình bộ thị lang, và thứ làm Liêm hiến (án sát ty) ở tỉnh Tứ Xuyên, tất cả con và cháu đều là những danh thần. Hiện nay, (tức vào thời của Liễu Phàm tiên sinh) Sở Đình hay Đức Chính cũng đều là dòng dõi của gia đình đó. 3. Xưa vào niên hiệu Chính thống nhà Minh, Đặng Mậu Thất khởi loạn ở Phúc Kiến, sĩ dân theo giặc rất đông. Triều đình cử quan đô hiến Trương Giai người ở huyện Ngân, xuất quân nam chinh, tiễu trừ giặc. Sau Trương Đô hiến phái viên đô sự họ Tạ, thủ hạ của Bố chánh ty tỉnh Phúc Kiến truy sát tầm nã giặc ở phía đông tỉnh. Tạ Đô sự tìm được quyển sổ danh sách của đảng giặc; phàm người không theo phụ họa giặc đều bí mật được phát cho một lá cờ nhỏ bằng vải trắng, ước hẹn tới ngày quân binh tấn công thì treo cờ ở trước nhà, lại nghiêm lệnh cho quân lính không được giết hại bừa bãi, vì thế cứu sống được cả vạn người. Sau con của Tạ Đô Sự là Tạ Thiên thi đỗ trạng nguyên, làm quan đến tể tướng, cháu nội là Phi cũng đỗ thám hoa. 4. Bà họ Lâm, người huyện Phủ Điền, trên có mẹ già chăm làm việc thiện, thường nắm cơm thí thực, ai đến cũng liền cho ngay mà không hề có vẻ phiền hà, ghét bỏ. Một vị tiên hóa trang làm đạo nhân, mỗi sáng đến xin đều đòi cho được sáu bảy nắm. Mỗi ngày đều cho như vậy, suốt ba năm liền, ngày nào cũng như ngày ấy, nên thấu rõ tấm lòng thành thực chỉ bố thí mà không cầu mong gì cả. Nhân vậy, đạo sĩ bèn bảo rằng: Ta ăn của nhà ngươi đã ba năm, chẳng biết lấy gì đền đáp. Sau nhà có chỗ đất quý, nên táng vào chỗ đó, con cháu về sau quan chức, tước vị thật vô số kể như vừng đựng trong đấu vậy. Người con bèn theo chỗ chỉ điểm mà để mộ. Mới đợt đầu đã thấy phát ngay có chín người đăng khoa trúng cử, đời đời quan tước cực thịnh. Ở Phúc Kiến có câu nói: chẳng người họ Lâm nào là chẳng khoa bảng đề danh cả. 5. Phụ thân của thứ sử Phùng Trác Am hồi còn là tú tài, một buổi sáng trời mùa đông cực kì rét buốt, dạy sớm đi lên huyện học, dọc đường gặp một người ngã nằm trên lộ bị tuyết phủ đầy, lại sờ thân thể người đó, thấy nửa mình đã bị đông cứng, bèn cởi áo lông của mình ra mặc cho và đưa về cứu giúp cho tỉnh lại; đêm mộng thấy thần nhân bảo: ngươi do tâm chí thành cứu được một mạng người, ta sẽ khiến Hàn Kỳ (một vị tể tướng đời nhà Tống) đầu thai vào làm con ngươi, kịp đến khi sinh ra Trác Am bèn đặt tên Kỳ. 6. Ưng thượng thư người phủ Đài Châu, tỉnh Triết Giang, lúc còn tráng niên học tập ở trên núi, ban đêm nghe quỷ hú gọi nhau tập hợp, tiếng hú thường làm nhiều người rùng rợn, nhưng ông không hề sợ hãi. Một đêm nghe quỷ bảo nhau mụ vợ nhà kia chồng đi xa đã lâu không về, bố mẹ ở nhà ép gả cho người khác, đêm mai sẽ thắt cổ ở nơi đây; vậy là ta đã có người thế thân rồi. Ông ngầm bán ruộng được bốn lạng bạc bèn giả lời lẽ người chồng viết một bức thư kèm theo tiền gửi về nhà. Bố mẹ ở nhà nhận được thư thấy bút tích không giống cũng hơi hoài nghi nhưng lại nghĩ rằng thư có thể giả được nhưng tiền đâu có giả, vả lại được biết tin con nên thôi không ép gả nữa. Người con sau đó trở về nhà, vợ chồng cùng nhau sum họp vui vầy như thuở ban đầu. Ông lại nghe thấy quỷ nói với nhau: Ta đang sắp được thế thân mà gã tú tài kia làm hỏng chuyện của ta. Một quỷ khác ở cạnh nói: Sao ngươi không hại hắn? Quỷ kia nói: Thượng đế thấy người này tâm địa rất tốt, làm nhiều điều phúc, âm đức dày đáng bậc thượng thư, ta làm sao hại nổi. Nhân đó họ Ưng tự nỗ lực chăm làm lành, ngày càng gia công tu thiện, đức ngày càng thêm dày; gặp người thân thích có chuyện cần cấp tức thì tận tình tìm mọi cách giúp đỡ họ qua lúc khó khăn, gặp trường hợp phải đối xử với người không biết lẽ phải trái, không hiểu được đạo lý thì ngược lại ông chỉ tự trách mình sao không biết cư xử với họ, mà vui vẻ an nhiên không chấp, coi như mình lầm lỗi vậy. Con cháu khoa bảng đỗ đạt cho tới nay thật là nhiều vô kể. 7. Người huyện Thường Thục, tỉnh Giang Tô, họ Từ tên Thức tự Phượng Trúc, phụ thân là điền chủ giàu có, gặp năm mất mùa, trước đề xướng việc quyên tô, tức bỏ không thu địa tô nữa, sau lại đem thóc gạo dự trữ ra phát chuẩn cho người nghèo khó. Ban đêm nghe thấy quỷ hô ở ngoài cửa: ngàn lần không sai, vạn lần không sai, tú tài nhà họ Từ sẽ thành cử nhân lang, cứ thế tiếp tục hô liền nhiều đêm không ngừng. Quả nhiên năm đó Phượng Trúc thi hương đỗ cử nhân. Phụ thân của Phượng Trúc thấy vậy càng gia công tích đức, cần mẫn chăm lo hành thiện chẳng chút lơ là mệt mỏi; phàm những việc có ích lợi đều hết sức tận tâm làm như tu sửa cầu, tu bổ đường sá, thí thực trai tăng, tiếp tế người nghèo… Sau lại nghe thấy quỷ hô ở trước cửa: ngàn lần không sai, vạn lần không sai, cử nhân họ Từ quan chức thăng tới đô sát. Phượng Trúc sau cùng làm quan tới Lưỡng Triết tuần vũ. 8. Ông Đồ Khánh Hy, người phủ Gia Hưng tỉnh Triết Giang, buổi ban đầu giữ chức chủ sự bộ hình, thường vào trong ngục tra xét cẩn thận hỏi lại tình trạng của tù nhân biết được nhiều người vô cớ bị tội. Ông không tự lấy làm công lao của mình mà viết sớ mật trình lên đường quan, tức thượng thư bộ hình. Về sau, các án tích đều được đưa về triều xét lại. Đường quan theo lời trong mật sớ tra vấn lại tình trạng của tù nhân giải oan được cho hàng chục người, khiến cho không ai là không phục. Thời đó ở kinh thành tất cả mọi người đều khen ngợi thượng thư xử án thật công minh. Ông lại bẩm cáo đường quan: ở ngay kinh thành mà còn nhiều dân bị án oan, thì hàng trăm triệu dân ở khắp bốn phương trong nước sao khỏi không có người bị oan ức, khá nên trong năm năm lại sai phái một vị giảm hình quan đi điều tra sự thực xét lại án, hoặc gia giảm tội hình, hoặc giải oan phóng thích họ. Thượng thư bộ hình tấu trình hoàng đế thì lời đề nghị đó liền được phê chuẩn, và ông có tên trong danh sách những người được sai phái làm giảm hình quan. Ông nằm mộng thấy thần nhân bảo: người số không con, nay đề nghị việc giảm hình thật rất hợp lòng trời nên thượng đế ban cho ngươi được ba trai đều mặc cẩm bào đai vàng. Ngay đêm đó, bà vợ thụ thai, sau sinh ra Ưng Huyên, Ưng Khôn, Ưng Tuấn đều quan chức hiển hách cả. 9. Ở phủ Gia Hưng có người tên Bao Bằng, hiệu Tín Chi, thân phụ ông làm thái thú huyện Trì Dương sinh được bảy người con. Bằng là út, gởi rể ở nhà họ Viên, huyện Bình Hồ cùng với phụ thân ta là chỗ thâm giao, học rộng tài cao, nhiều lần thi hương không đậu cử nhân nên chán chuyện khoa bảng mà chuyên tâm học Phật và Lão. Một hôm đi du ngoạn Mão Hồ ở phía đông tỉnh, ngẫu nhiên tới một ngôi chùa ở làng nọ, thấy tượng đức Quán Thế Âm bị lộ thiên, dầm mưa loang lổ, bèn mở túi đẫy lấy mười lạng bạc đưa cúng dường để hòa thượng trụ trì sửa lại chùa cho khỏi dột nát làm tượng bị ướt át, thì hòa thượng cáo bạch là việc tu sửa mất nhiều công mà tiền bạc không đủ, e khó hoàn thành công tác. Bao Bằng cho mở rương mây lấy thêm bốn tấm vải, sản phẩm của Tung Giang, và bảy bộ áo kép bằng vải gai còn mới tinh đưa cúng dường để bán lấy tiền phụ thêm vào việc tu bổ chùa. Người làm có ý tiếc, ngăn cản lại thì Bao Bằng bảo miễn là tượng đức Bồ Tát không bị ướt át là được, ta dù có ở trần cũng chẳng thương tổn gì. Hòa thượng trụ trì nghe nói cảm kích rơi lệ bảo rằng: tiền tài, vải vóc, quần áo xả bỏ không phải là điều khó, chỉ riêng có tấm lòng chân thành như vậy đâu phải dễ có. Sau, công việc tu bổ hoàn thành, ông dẫn cha già cùng đi, đêm ngụ lại ở chùa, mộng thấy các vị hộ pháp lại cảm tạ, bảo: Con cháu nhà ngươi sẽ được hưởng lộc ở đời. Về sau con ông là Biện và cháu là Sanh Phương đều đăng khoa, đỗ đạt, quan chức hiển hách. 10. Phụ thân của Chi Lập, người huyện Gia Thiện, làm lại ở phòng hình sự thấy tù nhân vô cớ bị hàm oan hãm vào trọng tội, ông lấy làm thương hại muốn cứu mạng. Tù nhân cảm kích bảo vợ rằng: Chi công có lòng tốt muốn giải oan cứu sống ta, thực lấy làm hổ thẹn là ta không có gì báo đền ơn đức ấy được. Ngày mai, ngươi hãy về nhà ngỏ ý đem thân hầu hạ, hoặc giả ông ấy chịu thu dụng ngươi, tất ta ắt có đường sống vậy. Người vợ khóc mà nghe lời chồng; kịp khi họ Chi tới, tự mình ra mời rượi và bày tỏ hết ý nguyện của chồng. Họ Chi tuy không nghe nhưng vẫn tận tình giúp đỡ để bạch hóa án oan. Người tù được tha, cả hai vợ chồng cùng đến nhà khấu đầu cảm tạ mà bảo rằng: Chi công ân đức dày như vậy, ở đời thực hiếm có, hiện nay chúng tôi có đứa con gái đã lớn muốn tiến dẫn làm thiếp để hầu hạ công việc nhà cửa, đây cũng là chuyện thường tình hợp lý. Huyện lại họ Chi sắm sanh lễ vật và thâu nạp làm thiếp, sinh ra Chi Lập mới hai mươi tuổi đã đỗ khôi nguyên làm quan tới chức Khổng mục ở Hàn Lâm Viện. Lập sinh ra Cao, Cao sinh ra Lộc đều học rộng và có chức phận cả. Lộc sinh ra Đại Luân cũng khoa bảng đề danh. Mười chuyện trên đây, tuy cách cư xử, hành động của các nhân vật có khác nhau, nhưng đều quy về việc làm lành lại gặp quả báo tốt lành. II–Thế nào là thiện ? 1. Bàn luận rõ ràng về thiện. Nếu xét một cách tinh tường mà nói, thì thiện có chân có giả, có ngay thẳng có khuất khúc, có âm có dương, có phải hay chẳng phải, có lệch hay chính đáng, có đầy có vơi, có tiểu có đại, có dễ có khó, đều cần bàn luận rõ ràng. Làm việc thiện mà không hiểu rõ đạo lý là thiện, cứ tự cho việc mình làm là hành thiện, ắt không khỏi tạo nghiệp, uổng phí mất tâm tư một cách vô ích. Thế nào là chân thiện và giả thiện? Xưa có một số nho sinh yết kiến Trung Phong hòa thượng (một vị cao tăng triều đại nhà Nguyên) mà hỏi: Nhà Phật bàn thiện ác báo ứng như bóng theo hình, tức làm lành gặp lành, làm ác gặp ác; nay có người nọ thiện mà con cháu lại không được thịnh vượng, mà kẻ kia ác thì gia đình lại phát đạt, như vậy là Phật nói về việc báo ứng thực vô căn cứ sao? Hòa thượng nói: Người phàm tâm chưa được tẩy sạch, chưa được thanh tịnh, tuệ nhãn chưa khai, thường nhận thiện làm ác, cho ác là thiện; người như vậy không phải là hiếm có, đã tự mình lẫn lộn phải trái, cho ác là thiện, cho thiện là ác, điên đảo đảo điên mà không hay lại còn trách oán trời cho báo ứng là sai, là không công bằng. Bọn nho sinh lại hỏi: Mọi người thấy thiện thì cho là thiện, thấy ác thì cho là ác, sao lại bảo là lẫn lộn, trái ngược, điên đảo vậy? Hòa thượng bảo họ thử ví dụ xem sự tình như thế nào là thiện và thế nào là ác. Một người trong bọn họ nói: Mắng chửi đánh đập người là ác, tôn kính, lễ phép với người là thiện. Hòa thượng nói không nhất định là như vậy. Một người khác cho là tham lam, lấy bậy của người là ác, gìn giữ sự thanh bạch liêm khiết là thiện. Hòa thượng cũng bảo không nhất định như vậy. Mọi người đều lần lượt đưa ra thí dụ về thiện và ác, nhưng Trung Phong hòa thượng đều bảo không nhất định như vậy. Nhân thế bọn họ đều thỉnh hòa thượng giảng giải cho. 2. Định nghĩa chữ thiện Hòa thượng Trung Phong chỉ dạy rằng: Làm việc có ích cho người là thiện, còn chỉ có lợi cho riêng mình là ác. Có ích cho người thì dù có đánh hay mắng chửi họ cũng gọi là thiện, chỉ có ích cho riêng mình thì dù tôn kính, lễ phép đối với người cũng kể là ác. Bởi vậy, người làm việc đem lại lợi ích cho người khác, cho nhiều người khác là công, chỉ lợi cho mình là tư, công là chân là thiện, còn tư là giả là ác. Lại nữa, làm việc thiện mà phát xuất từ tấm lòng thành thật là chân thiện, còn hời hợt, chiếu lệ mà làm là giả thiện. Hơn nữa, hành thiện mà không hề toan tính, không nghĩ tới một sự báo đáp nào cả là chân thiện, trái lại còn toan tính, hy vọng có sự đền đáp là giả thiện, đó là những điều tự mình cần khảo sát kĩ lưỡng. Thế nào là ngay thẳng, khuất khúc? Đừng vì thấy một người cẩn thận, dễ bảo mà vội phân loại cho là thiện nhân có thể dung nạp. Các vị thánh nhân dùng người thì lại khác, thà dùng một cuồng sỹ cao ngạo, quật cường, tiết tháo có tài cán biết mạnh dạn tiến thủ còn hơn. Người cẩn thận, dễ bảo, tuy ở đời ai cũng ưu thích cho là tốt, là hiền; nhưng thánh nhân cho là không có chí khí hướng thượng, chỉ biết vâng dạ không hiểu rõ đạo lý nên có phần không lợi cho nền phong tục đạo đức. Bởi thế cho nên quan niệm của người phàm về thiện ác, tốt xấu thực rõ ràng khác biệt, tương phản với thánh nhân vậy. Suy rộng ra thì mọi sự lựa chọn thiện ác, gìn giữ hay buông xả của người đời đều không giống với thánh nhân, còn chỗ thiên địa, quỷ thần coi là phúc, thiện họa, dâm tà, phải trái đều đồng tiêu chuẩn với thánh nhân mà khác biệt hẳn với người phàm tục. Phàm muốn tích lũy thiện tất phải phát xuất từ chỗ tiềm ẩn của chân tâm đã được thanh lọc hết ý ác, quyết không để tai mắt trần tục sai khiến hành thiện vì tự tư tự lợi. Một lòng một dạ cứu giúp đời là ngay thẳng, còn nếu có chút lòng mị thế, lấy lòng người để có được danh vọng, tiền tài thì là hành động khuất khúc, chỉ một lòng một dạ tôn kính người là ngay thẳng, còn có chút lòng bỡn cợt, coi khinh người là khuất khúc; đều nên bàn luận tường tận. Thế nào là âm thiện, dương thiện? Phàm làm việc thiện mà mọi người đều hay biết được thì gọi là dương thiện, hành thiện mà không một ai biết là âm đức, thực ra đã có thiên địa quỷ thần biết rõ, nên có âm đức thì tự nhiên sẽ được cảm ứng quả báo; dương thiện được hưởng danh tiếng ở đời, đã có danh tiếng tức là đã được phúc báo rồi. Xưa nay những người có danh, có tiếng thường bị tạo hóa ganh ghét đố kỵ; vì thế những người có danh tiếng lừng lẫy mà thực sự không có nhiều công đức xứng đáng với danh tiếng đó, thường gặp phải nhiều tai họa bất ngờ xảy ra. Dù vậy nếu là người không có tội lỗi gì mà bỗng phải chịu mang tiếng xấu một cách oan uổng thì rồi con cháu họ sẽ được đáp đền, mau chóng phát đạt. Chỗ sai biệt của dương thiện và âm thiện do vậy cần phải cẩn thận suy xét cho kỹ. Thế nào là phải và chẳng phải? Nước Lỗ xưa có luật người Lỗ nào chuộc được người bị bắt làm kẻ hầu hạ ở các nước chư hầu về đều được phủ quan thưởng tiền. Tử Cống (học trò đức Khổng tên là Tứ) chuộc người về mà không nhận tiền thưởng. Đức Khổng nghe biết lấy làm buồn phiền mà bảo rằng: Tứ làm việc thất sách rồi. Ôi, thánh nhân xử sự nhất cử nhất động có thể cải sửa phong tục, thay đổi tập quán, làm gương mẫu cho bách tính noi theo, nên chẳng phải cứ nhiệm ý làm những việc thích hợp với riêng mình. Nay nước Lỗ, người giàu ít, người nghèo thì nhiều, nếu nhận thưởng cho là tham tiền, là không liêm khiết, còn không lãnh thưởng thì người nghèo sao có tiền tiếp tục chuộc người? Từ nay về sau chắc không ai chuộc người ở các nước chư hầu về nữa. Tử Lộ (tên Do, học trò đức Khổng) cứu người khỏi chết đuối, được tạ ân một con trâu. Tử Lộ nhận lãnh, đức Khổng hay chuyện hoan hỷ bảo rằng: Từ nay về sau nước Lỗ sẽ có nhiều người lo cấp cứu kẻ chết đuối. Cứ lấy con mắt phàm tục mà xét thì Tử Cống không lãnh tiền thưởng là hay, còn Tử Lộ nhận tặng trâu là kém. Nhưng kiến giải của thánh nhân khác với người phàm nên trái lại đức Khổng lại chọn Do mà truất Tứ. Vậy nên biết người hành thiện không nên chỉ nghĩ tới lợi ích nhãn tiền mà cần xét xem hành động đó có ảnh hưởng tệ hại gì về sau này hay không, không nên bàn đến lợi ích nhất thời ở đời này mà phải nghĩ tới tương lai xa, cũng chẳng nên chỉ nghĩ riêng cho cá nhân mình mà phải nghĩ cho nhiều người, cho thiên hạ đại chúng nữa. Việc làm hiện nay tuy bề ngoài là thiện nhưng trong tương lai lại để hại cho người, thì thiện mà thực chẳng phải thiện, còn việc làm hiện thời tuy chẳng phải thiện nhưng về sau này lại có lợi ích cứu giúp người thì tuy ngày nay chẳng phải thiện mà chính thực là thiện vậy. Chẳng qua ở đây chỉ lấy một vài sự việc mà bàn thế nào là thiện và không phải thiện mà thôi. Ở đời có nhiều sự tình tương tự, chẳng hạn như tưởng là hợp lễ nghĩa, là có trung tín, từ tâm mà thực ra lại là trái lễ nghĩa, không phải trung tín hay từ tâm; đều phải quyết đoán chọn lựa kỹ càng. Thế nào là thiên lệch và chính đáng? Xưa, ông Lã Văn Ý, lúc mới từ chức tể tướng, cáo lỗi hồi hương, dân chúng bốn phương nghênh đón như Thái sơn, Bắc đẩu. Nhưng có một người say rượu mạ lỵ ông. Lã công điềm nhiên bất động bảo gia nhân: Kẻ say chẳng chấp làm gì, đóng cửa lại mặc kệ hắn. Qua một năm sau, người đó phạm tội tử hình bị giam vào ngục. Lã công hay biết sự tình mới hối hận rằng: giá mà ngày ấy ta bắt hắn đưa quan nha xử phạt thì hắn có thể chỉ bị trừng giới với một tội phạm nhẹ mà tránh khỏi phạm trọng tội về sau. Ta lúc đó chỉ muốn giữ lòng nhân hậu tha thứ cho hắn, không ngờ lại hóa ra nuôi dưỡng tính ngông cuồng của hắn để phạm phải tội tử hình như ngày nay vậy. Đó là một sự việc do lòng thiện mà hóa ra làm ác. Lại nữa, có khi làm việc thiện với tâm ác, như một nhà đại phú nọ gặp năm mất mùa, dân nghèo giữa ban ngày cướp bóc thóc gạo ở ngay nơi thị tứ, báo cáo lên huyện thì huyện không xử lý, dân nghèo được thể càng lộng hành. Gia đình nọ bèn tự xử cho bắt những kẻ cướp bóc giam giữ trị tội nên ổn định được tình hình, nếu không hành động như vậy cướp sẽ làm loạn. Sở dĩ ai cũng đều biết làm thiện là chính đáng và làm ác là thiên lệch nhưng tâm tuy thiện là chính, mà việc làm hóa ra ác là thiên lệch nên gọi đó là thiên ở trong chính; còn tâm tuy ác mà việc làm hóa ra thiện, đó là chính ở trong thiên vậy. Sự lý này không thể không hiểu cho thật rõ ràng. Thế nào là đầy và vơi ( bán và mãn)? Kinh Dịch nói việc thiện mà chẳng tích lũy lại cho nhiều không đủ để được danh thơm tiếng tốt, việc ác mà không đọng lại nhiều chẳng đủ để bị họa sát thân. Kinh Thư có nói nhà Thương tội ác quá nhiều như nước vỡ bờ vì thế mà Trụ vương bị diệt. Việc tích thiện cũng như lưu trữ vật dụng, nếu chăm chỉ cất giữ ắt sẽ đầy kho, còn biếng nhác không chịu tích lại thì ngày càng vơi chứ không đầy. Chuyện làm thiện được đầy hay vơi, bán hay mãn là như vậy. Xưa có một nữ thí chủ vào chùa lễ Phật, muốn cúng dường nhưng lại không có tiền, trong túi chỉ còn hai đồng bèn đem cả ra để cúng. Vị trụ trì đích thân làm lễ bái sám hồi hướng cho. Sau nữ nhân đó được tuyển vào cung, tiền tài, phú quý có thừa, đến chùa lễ Phật đem cả ngàn lượng bạc cúng dường. Hòa thượng trụ trì sai đồ đệ thay mình làm lễ hồi hướng mà thôi. Nữ thí chủ nọ thấy vậy liền hỏi: Trước đây tôi chỉ cúng dường có hai đồng mà phương trượng đích thân làm lễ bái sám hồi hướng cho, nay cúng dường cả ngàn lượng bạc mà sư lại không tự mình làm lễ là vì sao vậy? Vị hòa thượng đáp: Trước kia tiền bố thí quả là ít ỏi, nhưng phát xuất từ tấm lòng thật chân thành, nếu bần tăng không đích thân bái sám hồi hướng thì không đủ báo đáp được ân đức ấy. Nay tiền cúng dường tuy thật quá hậu, nhưng tâm bố thí không được chân thành như trước, nên bảo đồ đệ thay bần tăng làm lễ cũng đủ. Với lòng chí thành bố thí cúng dường chỉ hai đồng mà việc thiện được viên mãn, còn bố thí cả ngàn lượng bạc mà lòng không được chí thiết thì công đức đó chỉ được bán phần mà thôi. Trên đây là một câu chuyện nói về làm thiện được bán và mãn hay vơi và đầy vậy. Chung Ly Quyền chỉ dạy cho Lã Đồng Tân cách luyện đan điểm sắt thành vàng có thể đem dùng để cứu giúp người đời. Lã Đồng Tân hỏi rằng vàng đó sau có thể biến chất hay không? Chung Ly Quyền bảo năm trăm năm sau vàng ấy sẽ trở lại nguyên bản chất cũ là sắt, thì họ Lã nói: Như vậy là sẽ gia hại cho người đời 500 năm về sau, ta chẳng muốn học phép ấy làm gì. Chung Ly Quyền bảo: Muốn tu tiên cần phải tích công lũy đức 3000 điều, nhưng chỉ một lời của nhà ngươi nói đó cũng đủ mãn 3000 công đức rồi. Đây lại thêm một thuyết nữa về đầy vơi hay bán mãn vậy. Hơn nữa, làm việc thiện mà tâm không hề chấp trước là mình làm thiện, cứ tùy theo công việc nào mình làm mà được thành tựu thì hành động đó gọi là mãn. Nếu tâm còn chấp việc mình làm là thiện thì dẫu cả đời chăm chỉ hành động cũng chỉ là bán thiện mà thôi. Giả như mang tiền tài cứu giúp người, nội tâm không nghĩ tới mình là người bố thí, ngoài mặt không cần biết người nhận tiền là ai, ở khoảng trung gian cũng không nghĩ tới số tài vật bố thí là bao nhiêu, đó gọi là tam luân thể không, bố thí với tấm lòng thanh tịnh như vậy thì một đấu thóc cũng có thể trồng thành vô lượng vô biên phúc đức, dù một xu cũng có thể tiêu diệt được tội nghiệp của ngàn kiếp trước. Nếu như còn tồn tâm nghĩ tới mình là người làm thiện, số tài vật đem bố thí và người nhận vật là ai, thì dù có vạn lượng bạc đem cho, phúc cũng không được viên mãn. Đây cũng là một thuyết nữa về bán hay mãn thiện, thiện đầy hay vơi. Thế nào là đại và tiểu? Xưa Vệ Trọng Đạt, một quan chức ở Hàn Lâm Viện bị nhiếp hồn đưa xuống âm phủ. Diêm vương sai các phán quan trình những cuốn sổ ghi việc thiện và ác ra để xét. Nếu đem so sánh thì sổ ghi những việc ác thực quá nhiều, còn sổ ghi việc thiện chỉ có một cuốn nhỏ mỏng như que đũa mà thôi. Diêm vương sai bắc lên cân, cân thử thì bên 1 cuốn sổ ghi việc thiện lại nặng nhiều hơn tất cả những cuốn sổ ghi việc ác hợp lại . Trọng Đạt nhân thế mới hỏi: Năm nay, bản chức chưa đến 40 tuổi đời mà sao tội lỗi lại có thể nhiều đến như thế? Thì Diêm vương bảo: Mỗi một niệm ác mới khởi lên trong lòng đã kể là một tội không cần đợi tới lúc có thực sự phạm phải hay không. Trọng Đạt lại hỏi thêm là trong cuốn sổ nhỏ đó ghi việc thiện gì vậy. Diêm vương bảo: Triều đình đã từng dự tính khởi đại công tác tu sửa cầu đá ở Tam Sơn, nhà ngươi dâng sớ can gián. Sớ văn đó có ghi chép vào sổ vậy. Trọng Đạt thưa: Bản chức tuy có dâng sớ, nhưng triều đình không y theo lời tấu trình, thì sự việc đâu có ích gì? Thì Diêm vương lại bảo cho hay là: Triều đình không y theo lời tấu, nhưng một niệm thiện đó của nhà ngươi là vì lợi ích của toàn dân, muốn cho họ khỏi bị lao công vất vả, khỏi bị sưu cao thuế nặng, nếu mà lời tấu được triều đình y theo thì công đức của nhà ngươi thực vô cùng lớn lao. Cho nên nếu có chí nguyện làm lợi ích cho mọi người, cho quốc gia thiên hạ, cho đại chúng thì tuy việc làm đó có nhỏ mà công đức lại lớn, còn dù làm việc công mà chỉ nghĩ và nặng vì lợi ích của riêng mình thì dù có làm thật nhiều mà công đức lại nhỏ vậy. Thế nào là khó và dễ? Các vị tiên nho xưa có nói muốn khắc phục mình, muốn thắng được tâm mình thì nên bắt đầu từ chỗ khó khắc phục mà khởi công trước. Đức Khổng Tử bàn về nhân ái cũng nói bắt đầu từ chỗ khó mà thi hành trước, tức là từ chỗ phải thắng được lòng mình vậy, bởi lẽ khó mà làm được thì dễ ắt cũng làm xong. Như ông họ Thư ở Giang Tây bỏ hết cả tiền lương gom góp trong hai năm dạy học đem nộp quan để trừ vào tiền thiếu nợ giúp cho hai vợ chồng nhà nọ được sum họp khỏi bị bắt đi làm gia nhân nhà người; đó đều có thể gọi là chỗ khó xả bỏ mà xả bỏ được. Lại như ông già họ Cận ở Trấn Giang tuổi đã cao, không con nối dõi, lân gia có người đem đứa con gái còn trẻ đến cho nạp làm thiếp, nhưng ông không nhẫn tâm thu nạp mà đem hoàn trả lại. Đó là chỗ khó có thể nhẫn mà nhẫn được. Vậy nên phúc báo trời cho hưởng sẽ được hậu. Phàm những người có tiền tài, có quyền thế mà họ muốn làm phúc thì thực là dễ, dễ mà chẳng làm là tự hủy hoại mình, người nghèo hèn khốn cùng muốn làm phúc thì thật là khó, nhưng khó mà làm được, đó mới thực là đáng quý vậy. 3.- Tùy duyên hết sức tu thập thiện Tùy lúc gặp duyên lành cứu giúp người, hay tùy hỷ công đức mà hành thiện, nếu phân biệt ra từng loại thì thật rất nhiều, nhưng đại khái có 10 loại việc thiên (thập thiện) như sau: thứ nhất, trợ giúp người cùng làm thiện; thứ hai, giữ lòng kính mến người; thứ ba, thành toàn việc thiện của người; thứ tư, khuyến khích người làm thiện; thứ năm, cứu người gặp nguy khốn; thứ sáu, kiến thiết, tu bổ có lợi ích lớn; thứ bảy, xả tài làm phúc; thứ tám, giữ gìn bảo hộ chánh pháp; thứ chín, kính trọng tôn trưởng; thứ mười, thương tiếc mạng sống loài vật. Thế nào là trợ giúp người cùng làm thiện? Xưa vua Thuấn, lúc chưa tức vị, thấy những người đánh cá ở đầm Lôi Trạch, đều tranh chiếm chỗ nước sâu nhiều cá, còn người già yếu phải tìm chỗ nước nông cạn chảy xiết ít cá mà đánh, nên có lòng trắc ẩn bất nhẫn, bèn cũng tới đánh cá; thấy người nào cũng tranh giành chỗ, thì ông im lặng không đả động gì đến tánh xấu ấy, còn thấy người mà có lòng nhường chỗ thì ông hết lời khen ngợi mà theo gương đó cũng nhường chỗ cho người khác. Một năm sau, những người đánh cá ở những chỗ nước sâu, ai cũng có lòng nhường chỗ cho nhau mà không tranh giành nữa. Ôi, vua Thuấn thực là sáng suốt, há chẳng phải mất lời mà khuyên bảo giáo hóa được người sao! Tuy không dùng lời mà dùng chính bản thân mình làm gương mẫu cho người khác tự sửa đổi lấy mình. Đây là chỗ khổ tâm và khéo dụng công của vua Thuấn vậy. Bọn chúng ta ở đời mạt pháp này chẳng nên thấy mình có chỗ sở trường mà khinh khi chèn ép người; chẳng nên lấy chỗ hay giỏi của mình mà đem so sánh xét người; chẳng nên thấy mình có quyền năng thế lực mà làm khốn khó người; nếu mình có tài có trí cũng chẳng nên khoe khoang biểu lộ ra ngoài mà nên ẩn giấu ở bên trong coi như tài mình còn non, trí còn kém như không thực có gì hết, và thấy người có lỗi lầm thì bao dung ẩn nhẹm cho, tức ẩn ác dương thiện vậy. Một là để cho người tự hối mà sửa lỗi, hai là để họ tự biết lỗi mà e dè úy kỵ không dám phóng túng làm càn. Nếu thấy người có chỗ hay tốt có thể chấp nhận học hỏi được thì dù là việc thiện nhỏ cũng nên ghi nhớ ngay, không những để tự mình học lấy chỗ hay của người, mà còn tán dương thuật lại cho mọi người cùng hay biết. Phàm những việc làm thường ngày, một lời nói, một hành động hoàn toàn đều không nên vì lợi cho mình mà làm, nên đặt ra nguyên tắc nghĩ và làm lợi cho người, cho thiên hạ, đại chúng. Đây là chỗ độ lượng của người chính nhân quân tử coi thiên hạ là công mà mình là tư. Thế nào là giữ lòng kính mến người? Người quân tử và tiểu nhân, nếu chỉ xét hình dáng bề ngoài thường có sự lẫn lộn khó phân biệt, duy có một điểm thiện ác khác nhau xa là ở chỗ tồn tâm biết giữ được lòng mình, và do đó mà phán xét thì trắng đen rõ ràng trái hẳn nhau; cho nên nói người quân tử sở dĩ khác người là ở chỗ tồn tâm vậy. Chỗ tồn tâm của người quân tử chỉ là lòng tôn kính, yêu mến người. Đại khái con người ta ở đời có người thân sơ hay sang hèn, có người thông minh trí tuệ hay đần độn ngu si, có người hiền lương đạo đức hay phàm phu tục tử, hàng vạn vạn người chẳng ai giống ai, nhưng đều là đồng bào của ta, đều cùng một thể chất như ta, sao lại chẳng yêu kính ư? Thánh nhân, hiền nhân thường luôn kính trọng, thương yêu đại chúng làm lợi cho họ, nếu ta cũng kính yêu mọi người là trùng hợp với lòng của các vị thánh hiền, như vậy cũng như ta có lòng kính ái các vị ấy. Nếu như ta thông hiểu được chí nguyện của đại chúng tức là hiểu rõ được tâm ý của thánh hiền. Bởi vì chí nguyện của người đời là mong được lợi lạc an bình, mà tâm ý của thánh hiền vốn dĩ vẫn vì đại chúng mà làm cho họ được như ý muốn, đắc kỳ sở nguyện; lòng chúng ta nếu trùng hợp với lòng kính ái của thánh hiền mà làm cho đại chúng được an lạc tức là chúng ta đã vì thánh nhân và hiền nhân mà làm lợi lạc cho mọi người vậy. Thế nào là thành toàn việc thiện của người? Một hòn đá trong có ngọc nếu bị ném bỏ ắt sẽ vỡ tan như hòn ngói, nhưng nếu đem mài dũa, chạm trổ ắt sẽ thành khuê chương, hốt ngọc của vua quan. Cho nên phàm thấy người làm việc thiện, hoặc thấy ý chí và tư chất của họ có thể tiến thủ thành công thì đều nên khuyến dụ, trợ giúp họ; hoặc khen ngợi khích lệ, hoặc gìn giữ bao bọc họ; hoặc biện bạch hộ cho họ hay chia xẻ cùng họ nỗi oan ức bị người ghen tị mà vu họa phỉ báng họ, cốt sao giúp cho họ được thành công mà thôi. Đại khái, con người thường không ưu thích những người không giống như mình, chẳng hạn như ác không ưa thiện, tiểu nhân không thích quân tử. Người trong một xóm làng, thiện thì ít mà xấu ác thì nhiều, vì thế người thiện ở đời bị kém thế khó có thể tự lập được vững vàng. Hơn nữa người hào kiệt, thông minh tài cán, tính tình thường cương trực không trọng bề ngoài, không ưa tiểu tiết nên hay bị người ta hiểu lầm mà chỉ trích phê bình; vì thế cho nên việc thiện thường dễ bị hư hỏng mà người thiện thường bị nhạo báng, cười chê, chỉ duy có người trưởng giả nhân hậu mới hiểu rõ được sự tình mà phù trợ giúp cho họ được thành công. Thành toàn cho người thì công đức thực là lớn lao vô cùng. Thế nào là khuyến khích người làm thiện? Con người ta đã sinh ra làm người, ai mà không có lương tâm. Đường đời mênh mông mù mịt rất dễ bị sa đọa chìm đắm vì ngũ dục. Đối với những người còn mải mê ham đắm danh, lợi, tình, ăn ngủ dễ tạo thành nghiệp ác, ta nên tìm cách để cảnh tỉnh họ cho thoát khỏi sự mê hoặc, cũng giống như họ đang trải qua một giấc mộng lớn trong đêm dài mà làm cho họ được thức tỉnh, hay giống như họ bị hãm vào vòng phiền não tích tụ từ lâu đời mà ta giúp họ trong trắng đoạn trừ, bại trừ hết thì ân huệ đó thật vô lượng vô biên. Hàm Dũ, đời nhà Đường có nói: Uốn ba tấc lưỡi dùng lời nói mà khuyên người làm việc thiện chỉ là phương pháp nhất thời bởi có thể nghe tai này lọt qua tai khác rồi quên đi, còn muốn có hiệu quả dài lâu đến tận trăm năm về sau thì dùng văn thư sách vở để lại mà khuyên người đời làm lành tránh ác. Tuy nhiên, dùng lời nói hay sách vở khuyên người cũng giống như gặp bệnh nào thì phát thuốc trị bệnh ấy cho bệnh nhân kể cũng có hiệu lực nhưng còn lưu lại dấu vết, còn như dùng chính bản thân mình hành động làm mẫu mực, làm gương cho người trông thấy để họ tự nhiên tỉnh ngộ biết được lỗi lầm mà sửa đổi thì hiệu quả cũng chẳng kém mà không để lại hình tích gì; cả hai phương tiện này đều chẳng thể bỏ qua. Muốn giúp người, khuyên người cần phải thông minh sáng suốt, biết tùy thời, tùy người không để mất lời tức phí lời nói của mình mà người không nghe, cũng không để mất người, tức là gặp người có thể khuyên cải được mà mình không hành động để lỡ mất dịp làm lành, như thế là kém hiểu biết, không có trí tuệ vậy. Thế nào là cứu người lúc nguy cấp? Người ta ai cũng có lúc gặp phải sự tai ương hoạn nạn xảy ra. Ngẫu nhiên mà ta gặp trường hợp người bị nạn thì coi sự đau khổ của người cũng như là mình đau mà mau mau cứu giúp; hoặc dùng lời nói làm nhẹ nỗi oan uổng uất ức cho họ, hoặc tìm mọi cách giúp họ khỏi sự thống khổ triền miên. Thôi Tử có nói: Làm ân không cần để ý tới là nhỏ hay lớn, chỉ cần lúc người gặp nguy khốn mà tới giải cứu, giúp đỡ ngay là được. Đó thực là lời nói của người có lòng nhân hậu, đạo đức vậy. Thế nào là kiến thiết, tu bổ lợi ích lớn? Nhỏ như một thôn xóm, lớn như trong một huyện, phàm những công đức kiến thiết có lợi ích công cộng cần phải nên góp công, góp của, như khai cừ dẫn thủy, như tu bổ đê điều phòng lụt lội, như sửa chữa cầu cống tiện việc giao thông đi lại hay bố thí cơm nước để cứu đói cứu khát; tùy duyên và tùy cơ hội khuyến khích người cùng hợp lực xây dựng, chẳng nề gian khổ, chẳng quản bị ganh tị, hiềm nghi, oán trách, cứ tận tâm, tận lực mà hành động. Thế nào là xả tài làm phúc? Theo nhà Phật thì việc hành thiện có hàng vạn điều để làm nhưng tựu trung bố thí là điều cần trước mắt, muốn bố thí chỉ cần có một chữ xả mà thôi. Người am hiểu rõ ràng lý lẽ này thì trong xả lục căn (nhãn, nhĩ, tỉ, thiệt, thân, ý), ngoài xả lục trần (sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp), nhất thiết những gì mình sở hữu không có gì là không xả được. Nếu không đạt tới trình độ có thể xả bỏ hết, thì trước tiên hãy bắt đầu dùng tiền mà bố thí. Người đời lấy cơm ăn áo mặc làm mạng sống, cho nên rất quý trọng đồng tiền , nay chúng ta có thể xả bỏ được tức là trong lòng bỏ được tính keo kiệt, ngoài mặt thì cứu giúp được người lúc cần gấp; lúc mới bắt đầu thì có vẻ miễn cưỡng mà làm, nhưng rốt cuộc xả bỏ quen rồi thì an nhiên tự tại hành động, có thể rửa sạch được lòng riêng tư, vị kỷ, trừ bỏ được tính biển lận, tham lam, keo sẻn. Thế nào là giữ gìn bảo hộ chánh pháp? Pháp là tai mắt có linh tính và sinh động từ ngàn xưa hàng vạn đời truyền lại. Chánh Pháp là ngọn đèn là nơi nương tựa của tất cả chúng sanh là phương tiện để ba đời mười phương Chư Phật cứu độ chúng sanh thoát khỏi vô minh, đau khổ đến bờ giải thoát, an vui.. Nếu không có chánh pháp thì làm sao có thể trợ giúp sự hóa đức của thiên địa, làm sao có thể tài bồi vạn vật, làm sao có thể cứu chúng sanh thoát ly khỏi sự thúc giục của ngũ dục, lục trần, làm sao có những kinh điển siêu việt thời gian và không gian để lại chỉ cho ta con đường tu thân xuất thế thoát khỏi luân hồi sinh tử? Vì vậy ta phải biết kính trọng bảo vệ, và góp sức chỉnh trang, chùa chiền, đền miếu thờ các vị thánh hiền; giữ gìn, ấn tống suy cử, khuyến khích và truyền bá phổ biến các kinh điển góp phần hoằng dương chánh pháp để đền đáp ân đức của Phật Đà Thế nào là kính trọng tôn trưởng? Đối với các vị tôn trưởng, như ở nhà thì có phụ huynh, trong nước thì có vua chúa, ngoài xã hội thì phàm những người tuổi cao, đạo đức cao ...đều nên đặc biệt để ý tôn kính, phụng sự. Ở nhà thờ phụng cha mẹ phải cực kỳ hết lòng kính mến thương yêu, thái độ đối xử phải dịu dàng hòa nhã, lời ăn tiếng nói phải nhã nhặn, ôn hòa, tập quen cho thành tính nết tốt, tạo được hòa khí mới là phương pháp căn bản cảm ứng với lòng trời. Khi làm việc quan phụng sự vua chúa, thì bất cứ làm một việc gì dù nhà vua không biết tới cũng phải thận trọng không được tự ý làm càn, khi xử án cũng vậy, không thể tự mình tác oai mà cần phải xét xử cho công bằng, minh bạch. Người xưa thường nêu gương mẫu phụng sự vua cũng như thờ trời phải hết lòng cung kính. Đó là chỗ tối quan hệ tới phần âm đức. Chúng ta hãy thử xem những gia đình trung hiếu thì đủ rõ, con cháu họ nhiều đời đều được phát đạt thịnh vượng, thiết tưởng cũng nên cẩn thận lưu ý. Thế nào là tiếc mạng sống loài vật? Phàm con người sinh ra, được gọi là người duy chỉ ở chỗ có lòng trắc ẩn mà thôi. Muốn cầu có lòng nhân hậu, muốn tích đức, đều phải do ở chỗ có lòng trắc ẩn đã. Theo lễ nghi nhà Chu, vào tháng đầu xuân, tế lễ dùng tam sinh như trâu, bò, heo, nhưng không sát hại vật giống cái. Mạnh phu tử nói người quân tử xa chốn nhà bếp, sở dĩ muốn bảo toàn lòng lân mẫn, trắc ẩn vậy, tức là không muốn nghe tiếng kêu bi thương của con vật bị làm thịt; cho nên các vị tiền bối giữ giới tứ bất thực, bốn thứ không ăn; nghe tiếng kêu của vật bị giết thịt, trông thấy người ta làm thịt nó, chính mình nuôi nó, hay người ta vì mình mà làm thịt nó, bốn trường hợp đó thì đều không ăn. Noi gương từ tâm của các vị tiền bối, nếu chúng ta chưa có thể hoàn toàn bỏ hẳn được việc dùng thịt, thì cũng khá nên giữ giới tứ bất thực này. Dần dần tiến bộ, lòng từ ngày càng gia tăng, không những giữ được giới không sát sinh mà còn coi những vật nhỏ bé động đậy ngu xuẩn hay có linh tính đều là có mạng sống cả mà không giết hại, như việc kéo kén lấy tơ làm lụa, cày bừa đất đai chết trùng bọ, nguyên do cũng vì cơm ăn áo mặc mà hại chúng để nuôi dưỡng mình, há chẳng đáng thương hại hay sao, cho nên hủy hoại những vật tiêu dùng cũng tội như sát sinh vậy; đến như vì vô tình không để ý mà tay đập chân giẫm hại không biết bao sinh vật li ti nhỏ nhoi, tưởng cũng nên tìm cách để phòng tránh khỏi việc ấy. Thơ cổ có nói mến chuột thường dành cơm cho ăn, thương con thiêu thân thì chẳng đốt đèn, để chúng khỏi chết. Thật là từ bi nhân hậu biết bao! Thi hành việc thiện thì thật vô cùng, không sao thuật hết được. Theo mười điều trên mà suy rộng ra ắt có thể hoàn bị được hàng vạn công đức. KHIÊM ĐỨC I– Mãn (tự mãn) có hại, khiêm có lợi Kinh Dịch nói thiên đạo và địa đạo không ưu doanh (doanh mãn) mà làm lợi cho khiêm (khiêm hư) là muốn biến cải con người để tự biết sửa mình, bởi thế nên phàm làm việc gì mà kiêu ngạo tự mãn (doanh) thì sẽ chuốc lấy tổn thất, còn nhún nhường (khiêm) coi mình như không thì lại được lợi ích, như trái núi quá cao thì dễ bị lở, chỗ trũng thường được nước chảy tới làm đầy; quỷ thần cũng thường gây hại cho người tự kiêu, và làm lợi ích cho người khiêm tốn nhũn nhặn. Khiêm hư là điều mà trời đất, quỷ thần và người đều trọng. Trong Kinh Dịch có quẻ khiêm là một quẻ đại cát vì lục nào cũng đều tốt cả. Kinh Thư nói tự mãn chuốc lấy tổn hại, tự khiêm được lợi ích. Theo Kinh Dịch và Kinh Thư thì khiêm là điều tốt nhất. Ta nhiều lần cùng các sĩ tử đi thi, cứ mỗi lần thấy một hàn sĩ nào mà diện mạo, dung quang biểu lộ lòng tự khiêm của họ một cách rõ ràng như tỏa ra một ánh hào quang có thể nắm bắt được thì biết ngay người ấy sẽ đỗ đạt. Năm Tân Mùi, mở khoa thi hội ở kinh thành, bọn chúng ta gồm có 10 người đồng hương thuộc huyện Gia Thiện cùng đi, duy chỉ có Đinh Kính Vũ, tên Tân, tuổi trẻ nhất bọn mà cực kì khiêm tốn. Ta nói với Phi Cẩm Pha, một người bạn đồng hành, là anh bạn họ Đinh này năm nay tất nhiên trúng cử. Họ Phi hỏi thấy sao mà biết được, thì ta bảo rằng chỉ có khiêm hư là được phúc. Huynh coi xem trong bọn 10 người chúng ta không ai thành tín chất phác, thực thà, nhường nhịn người, không làm mất lòng người như Kính Vũ cả; không ai cung kính, thuận hòa cẩn thận để ý khiêm nhường như Kính Vũ cả, không ai bị chế nhạo, cười chê, chỉ trích mà chẳng hề đối đáp, tranh cãi, lại cứ thản nhiên chịu đựng như Kính Vũ cả. Con người được như thế thì thiên địa quỷ thần đều trợ giúp cho, há chẳng phát đạt hay sao! Kịp đến khi yết bảng quả nhiên họ Đinh được trúng cử. Năm Đinh Sửu, ta ở kinh cùng với Phùng Khai Chi, thấy con người của họ Phùng cực kì khiêm hư, nghiêm chỉnh, cung kính, là do thói quen tập từ thời thơ ấu biến thành. Phùng Khai Chi có người bạn tốt tên Lý Tệ Nham thực thà, trực tính, hễ gặp điều gì mà Khai Chi làm trái là nói thẳng ngay, chê trách ngay tận mặt mà Khai Chi vẫn bình tâm an hòa, thuận chịu không một lời phản đối, không để bụng giận. Ta có bảo cho biết là họa phúc đều có triệu chứng, người được hưởng phúc nhất định là do đã có sẵn căn nguyên của phúc rồi, có họa cũng do triệu chứng báo trước mà có; chỉ cần tâm thực khiêm hư thì trời đất ắt sẽ tương trợ. Huynh năm nay nhất định cập đệ. Sau thực quả nhiên đúng như vậy. Triệu Dụ Phong, tên Quang Viễn, người huyện Quán, tỉnh Sơn Đông, lúc trẻ thi hương mãi không đậu. Thân phụ của Dụ Phong được bổ làm Tam Doãn ở huyện Gia Thiện nên y tháp tùng. Ở huyện có Tiền Kính Ngô là người có văn tài, học thức rộng. Dụ Phong ngưỡng mộ đem văn bài của mình tới nhờ chỉ giáo. Kính Ngô xem và gạch xóa, sửa bỏ nhiều chỗ. Dụ Phong không những không buồn lòng mà còn bội phục, để ý đổi cách hành văn ngay nên năm sau đi thi được trúng cử. Đó cũng là do biết khiêm tốn, nhũn nhặn, sửa mình mà đạt thành quả. Năm Nhâm Thìn, nhân dịp vào kinh yết kiến hoàng đế, ta gặp Hạ Kiến Sở, thấy người này cực kì cung kính, nhún nhường, lòng khiêm hư biểu lộ rõ ràng khiến ai cũng phải nể; khi về ta nói cùng các bạn hữu là phàm người nào được trời giúp thì khi chưa được phát phúc, trước hết trí tuệ sẽ được khai mở; khi trí tuệ đã mở mang thì người phù phiếm trôi nổi, bất định sẽ tự nhiên biến thành thiết thực, sự phóng túng tự nhiên giảm thiểu. Kiến Sở là người ôn hòa, hiền lương như vậy nhất định sẽ được trời cho phát phúc. Đến khi yết bảng quả nhiên trúng tuyển. Trương Úy Nham, người huyện Giang Âm, tỉnh Giang Tô, là người học rộng, đọc nhiều, văn hay nổi tiếng, năm Giáp Ngọ đi thi hương ở Nam Kinh ngụ tại một ngôi chùa nọ; khi yết bảng không có tên nên lớn tiếng nhục mạ khảo quan là mắt không tròng, không biết người. Lúc đó có một đạo sĩ ở bên cạnh nghe được bèn cười. Úy Nham liền trút cơn giận ngay sang vị đạo sĩ nọ thì đạo sĩ nói: Chắc văn bài của ông nhất định không được hay. Lời nói này lại càng làm cho Úy Nham thêm giận mắng lớn: Ngươi có đọc văn của ta đâu mà biết là không hay? Đạo sĩ nói: Ta nghe nói hành văn quý nhất ở chỗ tâm bình, khí hòa, nay thấy ông hết lời mạ lỵ khảo quan, lòng bất bình cao ngạo quá đáng thì văn làm sao mà hay được? Úy Nham nghe lời bất giác phục thiện, nhân đấy xin thỉnh giáo đạo sĩ nọ. Đạo sĩ nói: Trúng cử hay có công danh hoàn toàn do số mệnh định, số chưa được đỗ thì dù văn có hay cũng vô ích thôi, nên tự mình sửa đổi biến cải. Úy Nham nói: Đã do số mệnh như vậy thì làm sao sửa đổi? Đạo sĩ nói: Sáng tạo ra mệnh là do trời, lập mệnh là do ta, gắng sức hành thiện, tích âm đức cho thật sâu rộng thì phúc nào mà chẳng cầu được. Úy Nham lại hỏi: Tại hạ là học trò nghèo thì làm sao làm được? Đạo sĩ bảo: Làm việc thiện, tích âm đức đều do tâm tạo ra, thường phải giữ vững tấm lòng hành thiện này thì công đức vô lượng, chẳng hạn như chỉ một việc khiêm tốn nhũn nhặn thì không phải phí tiền gì cả, sao ngươi không tự phản tỉnh, tự trách lấy mình, mà lại mạ lỵ khảo quan ư? Do đó, Úy Nham tự hạ mình giữ gìn tu sửa, gia công hành thiện ngày một nhiều, gắng sức tu đức ngày một dày; đến năm Đinh Dậu mộng thấy đi tới một tòa nhà phòng ốc cao, được một quyển sổ ghi danh sách các thí sinh được trúng tuyển trong kỳ thi, thấy nhiều hàng bỏ trống mới hỏi người ở kế bên: Xin hỏi danh sách khóa thi này, sao lại có nhiều hàng tên bỏ trống vậy? Thì người đó đáp rằng: Ở cõi âm đối với danh sách thí sinh của khóa thi thì cứ mỗi ba năm lại cứu xét một lần, người nào tu hành, tích đức không tội lỗi gì thì có tên trong sổ, còn những hàng bỏ trống đều có liên quan tới việc trước đây thí sinh đáng lẽ đã được ghi tên vào sổ nhưng sau vì phúc bạc, phạm lỗi lầm nên bị loại bỏ ra; sau đó lại chỉ một hàng mà bảo: Nhà ngươi trong ba năm tới nên giữ thân tu tỉnh cẩn thận, họa may có thể được điền tên vào đấy, mong rằng nhà ngươi nên lưu tâm đừng phạm lỗi lầm. Khóa thi năm đó, Úy Nham trúng cử vào danh sách một trăm lẻ năm người. II– Lòng khiêm tốn, nhún nhường, nguồn gốc của phúc Theo đấy mà xét, chỉ ngửng đầu cao ba thước ắt đã có thần minh soi xét, muốn tránh hung hiểm họa tai, hay muốn mong được sự việc tốt lành, hẳn nhiên đều do tự ở nơi ta biết giữ lấy thiện tâm, một mực làm lành tránh ác, không một chút nào đắc tội với thiên địa quỷ thần, lại biết khiêm tốn nhũn nhặn, không tự cao, tự đại, khiến thiên địa quỷ thần thường có lòng thương mới mong có được hưởng phúc. Người mà đầy lòng kiêu ngạo, tự mãn, nhất định khí lượng hẹp hòi, dù cho có phát đạt cũng chỉ một thời mà thôi, chẳng được lâu bền và cũng chẳng được phúc. Người đã có chút kiến thức ắt phải có độ lượng rộng rãi, bụng dạ không hẹp hòi, đố kỵ mới không tự mình bỏ lỡ cơ hội được hưởng phúc, huống chi người khiêm tốn tự hạ mình thường hay được người đời vui lòng chỉ đường hay lẽ phải cho, lợi ích thực vô cùng tận. Đây là điều mà những người tu học không thể không hiểu biết và không thể thiếu được vậy. Lời người xưa có nói: người có chí hướng cũng như cây có gốc rễ thì mới sinh trưởng ra hoa, ra trái. Người có chí muốn lập công danh thì nhất định sẽ được công danh, muốn được phú quý ắt hẳn sẽ được phú quý. Đã lập chí thì nên thường tự nhắc nhở lấy mình cần phải khiêm hư nhún nhường dù có chuyện thật nhỏ nhặt, đối với mọi người cũng phải để ý cư xử nhũn nhặn thì mới cảm ứng được với trời đất, và cũng nên hiểu rằng việc tạo phúc là do tự mình thành tâm mà tạo nên, chẳng hạn như muốn cầu được đỗ đạt ắt phải giữ vững ý chí chân thành buổi ban đầu, chứ không phải chỉ nay hứng chí thì cầu, mai không hứng thì lại thôi. Mạnh phu tử nói về Tề Tuyên Vương: Nhà vua rất ưa nghe nhạc mà vui thích, đại để có thể làm cho nước Tề được thịnh vượng. Đó là câu trích dẫn trong sách Mạnh Tử, Thiên Lương Huệ Vương, chương cú hạ, đại ý nói nhà vua ưu thích nhạc mà lấy làm vui, đó là niềm vui cho riêng mình, sao bằng biết đem cái lòng vui thích nhạc đó chuyển đổi sang làm cho bách tính cũng được hoan hỷ cùng với nhà vua, thì dân ắt sẽ vì vua tận lực phụng sự, nước Tề ắt phải thịnh. Ta đối với việc khoa cử đề danh cũng tựa như vậy, nghĩa là cũng đem lòng chân thành cầu danh đó với ý định thiết thực tận tâm, tận lực làm việc thiện và giúp đỡ mọi người ngõ hầu mới biến đổi được số đã định để được hưởng phúc bởi một vận mệnh do mình tự tạo ra. Thay đổi quan niệm, thói quen, suy nghĩ và vận mệnh Người xưa nói rằng: “con người không phải thánh hiền làm sao không lỗi?biết lỗi mà sửa là điều thiện lớn nhất”. Đó là khích lệ những người có ý chí sửa lỗi hướng thiện và thay đổi vận mệnh, đối với những sai lầm đã qua không nên nãn lòng lùi bước. Trong cuộc sống gặp phải những điều không tốt cũng đừng oán trời trách người, điều quan trọng là phải kịp thời thay đổi quan niệm, thói quen ,suy nghĩ,cố gắng làm thiện mà không hẹn hò dây dưa , đó không những là điều thiện rất lớn mà còn có khả năng thay đổi vận mệnh. Nếu chúng ta biết được ý nghĩa chói lọi của sanh mạng ở nơi tìm cầu chân lý hoàn hảo chí thiện ,tất cả những phẩm đức tu dưỡng tốt và các việc làm lợi ích cho người khác.Tu tập những phẫm chất tốt chẳng qua chỉ là khơi dậy bản tính thanh tịnh bất sanh bất diệt vốn có,cố gắng đoạn trừ và phòng ngừa những tập tánh không tốt ở đời này và đời trước.Một con người biết thay đổi vận mệnh là biết ngay lập tức ra sức thay đổi quan niệm , thói quen, suy nghĩ, chí thành làm thiện và chuyên tâm niệm Phật là trợ duyên lớn bổ sung cho việc làm này,cuối cùng có thể phá được trói buộc nghiệp cảm của kiếp trước và mở đầu một cuộc sống mới nhất cho tương lai, thành một người xây dựng vận mệnh đúng đắn nhất.Khiến cho vận mệnh vốn có được thay đổi,dần dần phước đức trí huệ tăng trưởng và đạt đến quả vị thánh hiền,cảnh giới hoàn hảo đạo đức chí thiện. Cách nhìn của Phật giáo đối quan niệm vận mệnh là ăn sâu và bao khắp “nhân quả báo ứng như bóng theo hình” “thiện hữu thiện báo, ác hữu ác báo” “muốn biết nhân đời trước,thì xem quả đời này, muốn biết qủa đời sau thi nhìn vào hành động tạo tác của hiện tại”nguyên tắc và ý nghĩa của bài kệ là suy đoán nhân quả vận mệnh của Phật giáo.Lý nhân duyên quả trình bày nhân quả vận mệnh của con người,nhưng từ lý và nguyên tắc của nhân duyên quả đi sâu vào quan sát và tìm hiểu,Phật giáo không phải là “định mệnh luận” Phật giáo chủ trương vận mệnh có thể cải đổi.Phương pháp cải thiện là lợi dụng những trợ duyên đang có mà cố gắng làm thiện,nếu biết rõ phương pháp tu trì,như lý như pháp mà làm,tinh cần ở việc làm lớn “chuyển duyên ,thiện duyên”thì tất cả vận mệnh của con người đều nằm trong tầm tay của chúng ta.Phàm người lập chí sáng tạo vận mệnh thì ngay trong đời này có thể thay đổi nghiệp quả dần dần,nhưng cái nhân tu trì sẽ mở đầu cuộc sống mới cho tương lai. Thậm chí “chuyển phàm thành thánh” “chuyển biến nghiệp quả” (chuyển nghèo thành giàu,chuyển tiện thành sang,chuyển yểu thành thọ) “phá mê khai ngộ” (chuyển ngu thành trí,chuyển độn căn thành lợi căn) tất cả những mong cầu của người tu học Phật dần dần sẽ thành tựu . Tất cả những quả báo gặp phải trong cuộc sống chúng ta dựa theo lý nhân quả của Phật pháp mà nhìn,tất cả quả báo là do “nhiệp nhân quá khứ” cộng thêm “nghiệp duyên hiện tại”sẽ thành “quả báo hiện tại”.Thông thường mà nói,nhân vốn có ở quá khứ (đã tạo thành sự thật rồi ) thì khó mà thay đổi nhưng quả báo của vị lai chúng ta có thể như lý như pháp mà cải đổi,mấu chốt của chuyển biến này là chuyển biến “duyên hiện tại” mà chuyển biến duyên hiện tại tức là thay đổi hai duyên nội ngoại ,cái gọi là hai duyên nội ngoại tức “nội Ý nghiệp”,”ngoại Thân Khẩu nghiệp”,nếu ba nghiệp nội ngoại thân khẩu ý đã được thay đổi thì quả báo hiện tại sẽ dần dần được thay đổi.Chúng ta đã hiểu rõ lý này ,nếu có thể như lý như pháp mà thực hành,thì tất cả quả báo vận mệnh nằm ở trong tay ta.Tiến bộ của người học Phật là xem xét phiền não ,tập khí của mình có giảm bớt hay không? Trí huệ có tăng trưởng hay không?xử lý sự việc có đúng đắn hay không?có cái nhìn xa trông rộng cho tương lai hay không? Đó tức là trí huệ và cũng là chổ quay về y theo đó tu hành sữa đổi cho chính mình về sau. Người học Phật muốn thay đổi vận mệnh,thì quan trọng nhất là lấy Tam huệ văn tư tu lại thay đổi quan niệm mà đi vào trung đạo thanh tịnh của tri kiến Phật,cho nên phẩm Phương Tiện thứ hai của kinh Pháp Hoa nói rằng “chư Phật Thế Tôn chỉ vì muốn chúng sanh khai ngộ tri kiến thanh tịnh của Phật mà hiện ra thế gian” thứ đến người học Phật lấy Tam vô lậu học Giới định huệ lại thay đổi thói quen,quyển thứ 9 Thành Duy Thức Luận nói: “nhị chướng chủng tử ,lập thô trọng danh” ý nói:phiền não và hai sở tri chướng từ vô thỉ đến nay là chủng tử huân tập đeo đuổi con người,nấp trong tám thức làm cho tâm ta cứng cỏi khó điều phục nên gọi là “thô trọng”.Lúc hai chủng tử này hiện hành sẽ sanh ra các phiền não tham,…che mờ tâm vương,chướng ngại trí tuệ bát nhã làm cho không sanh khởi.cho nên gọi là”nhị chướng”.Cái gọi là tập khí phiền não tức là hai chủng tử chướng này.Vì thế chúng ta học Phật muốn thay đổi vận mệnh nên lấy tu trì của Tam học lại đoạn trừ phiền não tập khí.Phật nghĩa là giác ,giác tức là lấy nội quán làm chủ “trở về lắng nghe tự tánh của chính mình,tự tánh là đạo vô thượng”cũng là “trở về quán sát tâm mình” vậy.Do vậy người học Phật muốn cải đổi nhân quả vận mệnh cũng cần nội quán tịnh niệm thay đổi tâm niệm bất thiện,trở về với tâm thanh tịnh vốn có. Ở trên đã nói “lấy Tam huệ thay đổi quan niệm” “lấy Tam học thay đổi thói quen” “lấy Nội quán tịnh niệm thay đổi suy nghĩ”, ba điền này cũng là công phu của “sữa lổi tu đức” “nhất tâm sám hối”.lấy tâm thành khẩn hành các thiện nghiệp làm trợ duyên.Thiện nghiệp tức là tâm niệm thanh tịnh làm tất cả những việc lợi ích chúng sanh. Đó không chỉ làm cho tâm Từ phát khởi (tức bồ đề tâm) mà còn tích lũy công đức vô lượng vô biên là nhu cầu tất yếu để thành Phật và tạo thành tinh thần đại nguyện “phấn đấu không ngừng”là yếu tố để thành Phật quả vậy .Cuối cùng lấy nhất tâm niệm phật làm thanh tịnh các tạp nhiễm,tiêu trừ tất cả những ác nghiệp chướng ngại của vô lượng kiếp trong tương lai,làm cho qủa lành sớm được thành thục,nhân quả nghiệp báo sẽ được thay đổi. Nói chung ,cố ý phá trừ ràng buộc nghiệp cảm của kiếp trước bắt đầu cuộc sống mới cho tương lai là người xây dựng đời sống chánh đáng..Sau khi hiểu được lý nhân duyên quả ,có thể “lấy Tam huệ thay đổi quan niệm”, “lấy Tam học thay đổi tập khí”, “lấy nội quán tịnh niệm thay đổi suy nghỉ”, “chí thành làm thiện “, “nhất tâm niệm Phật”…thay đổi nhân quả vận mệnh ,người học Phật nếu đúng như vậy mà làm dần dần sẽ tạo thành vận mệnh tốt. (Thích Tùng Từ biên soạn ) Như Nguyện dịch LI___U_PH__M_T____HU___N.doc
    1 like
  9. Chữa ho, dưỡng da lúc giao mùa Trời dần chuyển sang mùa đông, lúc này các bệnh như ho, khô da do thời tiết rất hay gặp. Dưới đây là những món ăn, những bài thuốc dân gian, cổ truyền theo lương y Như Tá, lương y Trần Khiết giúp chữa những tình trạng nói trên. Dưỡng da * Hạt sen nấu long nhãn Nguyên liệu: Một ít hạt sen (độ 20-30g), một ít nhãn nhục (8-10g), 30g vị thuốc khiếm thực, 50g vị thuốc dĩ nhân, một muỗng canh mật ong. Cách làm: Cho tất cả các nguyên liệu trên (trừ mật ong) vào nồi cùng 3 chén nước (độ 750 ml), nấu với lửa nhỏ trong một giờ, sau đó cho tiếp mật ong vào là có thể dùng được. Công hiệu của món ăn bài thuốc này là: giúp nhuận da, giúp cải thiện tình trạng da khô ráp khi tiết trời se lạnh. Tắc (trái) là vị thuốc chữa ho do thời tiết, long nhãn - Ảnh: H.Mai * Cúc hoa nấu mật ong Nguyên liệu: 30g cúc hoa còn tươi, 2 muỗng canh mật ong. Cách làm: Cho cúc hoa tươi vào nồi cùng 3 chén nước, nấu sôi, sau khi gần đặc lại thì thêm vào mật ong để làm thành dạng cao. Mỗi lần dùng lấy 15g đem pha với nước sôi (khuấy đều trước khi dùng), có công dụng giúp làn da sáng, chống da khô, lão hóa. * Hạnh nhân cam thảo Nguyên liệu: Hạnh nhân, ma hoàng (mỗi thứ 10g), 30g ý dĩ nhân, và 3g chích cam thảo. Cách làm: Các vị thuốc trên đem sắc (nấu) với 3 chén nước, nấu còn lại 1 chén, chia làm 3 lần dùng trong ngày, dùng trước mỗi bữa ăn, giúp làn da trắng, không bị thô ráp trong mùa lạnh. Chữa ho * Xà lách xoong nấu gừng tươi Nguyên liệu: 10g cải xà lách xoong, 50g lá tía tô, mấy lát gừng tươi. Cách làm: Cho tất cả nguyên liệu vào nồi, cùng 750 ml nước, nấu (sắc) còn lại 250 ml, chia làm 3 lần dùng hết trong ngày; có công dụng chữa ho, nhất là ho do thời tiết chuyển mùa. * Vỏ quýt nấu với cải xoong Nguyên liệu: 30-40g trần bì (vỏ quýt), 100g cải xà lách xoong. Cách làm: Cho cả hai loại vào nồi cùng 750 ml nước, nấu với lửa nhỏ, nấu còn lại 250 ml, chia làm 3 lần dùng hết trong một ngày. * Tắc chưng đường phèn Nguyên liệu: 5-6 trái tắc vừa chín tới, một ít đường phèn. Cách làm: Cắt tắc làm đôi cho vào chén cùng đường phèn, rồi đem chưng cách thủy đến khi thấy chén tắc ra nhiều nước là được (cũng có thể đem chưng vào nồi cơm, khi cơm vừa cạn). Có thể cho vào thêm một ít bông khế còn tươi, dùng trị ho khi chuyển mùa sẽ rất hay. Cách làm tương tự, nhưng thay tắc bằng chanh (chanh cắt lát khoanh tròn thật mỏng) cũng được. Hạ Mai nguồn thanhnienonline
    1 like
  10. Vâng, Cháu còn đang học phân tích thị trường chứng khoán nên còn rất kém.Cám ơn bác đã chỉ dẫn.
    1 like
  11. Theo như SP đã nói thì sau ngày 10.1 DL thị trường sẽ có sóng và nóng trở lại. Còn quẻ của bạn Sinh Tiểu Cát thì cũng trùng với ý của SP là thị trường sẽ bắt đầu "trở mình" dậy và có nhưng khoản lợi kiếm được trong thời gian đó. Tất nhiên đó là hướng chung còn được hay không còn do bạn chọn ngành và mã cổ phiếu phù hợp, có khả năng tăng trưởng. Theo cách viết của bạn nếu mình không lầm thì bạn chưa có nhiều kinh nghiệm trên thị trường lắm. Vậy thì bạn nên tránh những ngành và những mã có tính đầu cơ cao (nói nôm na là mang tính đánh bạc) như ngành khoáng sản (KSS, CMI, KSH, KSB...), SHN, SHI (những mã về tình hình làm ăn rất bình thường nhưng được đội lái chuyên nghiệp cầm lái vượt xa giá trị thực), các mã BĐS, XD (DCS, VPH,...). Ngoài ra là họ dầu khí (PVA, PVC, PVX, PVE...), một số con họ Sông Đà (STP, SSM, SDH, SD9, SDA...).
    1 like
  12. Đọc topic của chị mình lại nhớ tới anh kakalot, 1 người phD ở Nhật, 1 người phD ở Mỹ... giống nhau cách suy nghĩ, cư xử của người ở nước ngoài. Mình thích kiểu này trong công việc. Chưa đi ra nc ngoài đành học hỏi ở những bác này vậy. PS: các bác còn lại đừng ném đá em. Chỉ là cách cư xử trong công việc thôi, chứ đời thường vẫn thích kiểu Vn
    1 like
  13. :D ^_^ ^_^ Happy có thể nhờ BQT close tạm topic này. Còn xóa comment thì ngay BQT cũng ko làm được trừ phi bài post vi phạm nội qui Thân mến
    1 like
  14. Ối, Liên Châu không nói về vấn đề khiêm tốn hay lịch sự chị Tiểu Phương ạ. Ý Liên Châu muốn nói về cách xử lý các xự kiện mỗi vùng khác nhau: Như vùng nào có văn hóa trọng lo gic thì họ tìm cách logic để giải quyết vấn đề gặp phải. Còn vùng nào trọng về văn hóa nhân văn thì tìm cách giải quyết sao cho mọi người đều vui vẻ cả. :D. Do vậy mới dẫn đến có vùng thì tranh luận để giải quyết vấn đề, vùng thì gắng hòa nhã để giữ không khí thân thiện :). Thân ái.
    1 like
  15. Trời, bạn thích làm nội trợ à, chán chết :) . @DuCa: nếu em ngán thì em có thể đi chỗ khác chơi vào đây spam làm gì cho mất thời gian. Người ta đang bàn kiến thức tử vi chứ hổng phải bàn về chuyện nói chuyện khiêm cung lịch sự, hay là cách đối xử hòa nhã.......gì ở đây. Những chuyện như thế này chỉ làm loãng cái topic của Happy.
    1 like
  16. LienChau nhầm rồi, Nhật Bản họ cũng rất coi trọng yếu tố con người, quan hệ người - người, họ rất mềm mỏng và hiếu khách. Tây phương họ cũng trọng các quan hệ thân tình lắm, họ còn vô cùng văn minh lịch sự - nên họ luôn nói good job, well done, ... mà có mấy người trong họ mở miệng chê ng khác? Văn hóa của họ ko phải văn hóa làng xã, văn hóa lúa nước như ta, khác biệt rõ nhất ở điểm họ không phán xét người khác, và ko tự cho m là giỏi. Họ ko quá quan trọng chuyện riêng tư của người khác. Nhưng họ rất khiêm tốn. Nhưng họ rất lịch sự. Nhưng họ cư xử rất hòa nhã. Cuộc đời còn dài lắm. :D
    1 like
  17. Thích người nào đáo để thế không biết :D Nếu happy lên đây xin nhờ xác định giờ sinh/xem tử vi thì làm 1 lượt miêu tả bản thân với các mốc quan trọng trong cuộc đời đi. Ban đầu chẳng nói gì, vài bài thì phát hiện ra có con, vài bài nữa lại ra chồng, tiếp nữa mới biết là anh chàng ngoại quốc, hức. Chẹp, đúng là đời mà. Mình thì vô sản trong khi có người chỉ kém mình vài tháng tuổi mà đang có con xinh để bế, chồng không những hiền lại có danh có chức. Phải mình thì ở nhà ôm con với chăm chồng là mãn nguyện lắm rồi :) À, có mỗi việc đóng topic quyết mấy lần rồi mà mãi không làm được nhỉ :-" (Nhân 1 ngày xổ mũi và mới làm xong mấy cái báo cáo :x:x)
    1 like
  18. He he, Liên Châu nói rất đúng ý Du Ca. Đừng hiểu lầm Du Ca, tranh luận là rất tốt, động lực của phát triển chính là mâu thuẫn. Du Ca cũng thích tranh luận, dưng nên tranh luận sao cho sau này người ta hứng thú nói chuyện với mình, chứ không phải cứ thấy mình là ngán :D Anyway, không dám nói linh tinh nữa, chuẩn bị đi đọc sách để sau này còn làm thạc sĩ tiến sĩ đây :)
    1 like
  19. Chị happynewyear lập luận đúng theo phong cách của nhà khoa học :D. Rất logic. Có lẽ do văn hóa địa lý của hai nơi hơi khác nhau một chút nên có nhiều điểm lệch pha. Em thấy người sống ở VN người ta trọng nhân học hơn. Nên nói chuyện có phần mềm mỏng hơn so với người tây phương hoặc Nhật Bản vốn rất logic và rõ ràng. Mỗi mặt đều có mặt mạnh và mặt yếu riêng. :). Chị happynewyear nếu băn khoăn thì cứ xem cả mấy cái lá số đi. Xem kỹ vận hạn từng lá số rồi coi đó là các vận mà mình cần xem xét và đối mặt. Không đến 5 năm sau là chị biết lá số nào là của mình ấy mà :D.
    1 like
  20. Vâng, Du Ca còn nhỏ tuổi, chẳng biết gì đâu. :D Cử nhân còn chưa xong, nói gì tới thạc sĩ, tiến sĩ, giáo sư... Những người giỏi với cách lập luận thuần logic như happynewyear chỉ nên ngồi trong lab làm việc, không động chạm ai, chỉ chạm sách, không nên đi làm nhân viên, không nên đi buôn bán ... thấy không có hợp. Nên làm công việc thuần nghiên cứu thôi, và càng không nên về nước. Có dư thế, sẽ thành công trong công việc. Còn cuộc sống, thì chưa biết, vì Du Ca còn nhỏ tuổi mà :) Có vài nhời gọi là... sau đây xin nhường lại cho các cao nhân khác.
    1 like
  21. Khâm phục Không thể nói gì hơn ngoài từ này. :D
    1 like
  22. Cảm ơn bạn và ý kiến góp ý của bạn. Thực ra là vì mình ít có thời gian post bài thường xuyên nên cứ muốn "làm một lèo" để mọi người "đọc luôn thể" cho tiện ấy mà. Dù sao mình sẽ cố gắng nếu tài liệu nào dài quá thì sẽ chia nhỏ từng phần như ý kiến của bạn. Mình mở toppic này với hy vọng để giúp mọi người một khi đã biết được "vận mạng" của mình thì cũng cần biết: Số phận của ta thực ra là do chính ta tạo nên, ta là chủ nhân chứ chẳng phải do "trời" định để, sắp đặt gì cả. Lá số Tử vi thực chất là tấm "Bản đồ về đường đi của nghiệp quả" của mỗi người được quy định bởi những nghiệp nhân mà mỗi người đã gây tạo từ tiền kiếp (quá khứ). Vì vậy "vận mạng" (hay số phận)- Thông qua lá số tử vi không phải là thứ "bất biến" mà nó hoàn toàn nằm trong tay ta và phụ thuộc vào Ta. Bằng sự nỗ lực của bản thân ta không chỉ có thể "cải số" ngay trong kiếp sống hiện tại, mà còn từ đó gieo nhân lành tốt đẹp cho hậu đời của ta nữa. Tuy nhiên muốn làm được điều này cần phải có sự hiểu biết và trí tuệ sáng suốt cùng sự kiên trì, bền bỉ "tu thân, sửa mình". Mình xin giới thiệu tiếp với bạn và mọi người bài viết sau của Hòa Thượng Tuyên Hóa, cũng rất chí lý để mỗi người dù ở trong cảnh nào: vui hay buồn, sướng hay khổ, đắc ý hay thất ý... cũng đều nên lắng lòng suy ngẫm mà không quên, không nản việc tu thân, sửa mình ngõ hầu giúp người đang thọ khổ biết an nhẫn hơn trước mọi nghịch cảnh trong cuộc sống và tích cực gieo trồng thêm phước báu để chuyển đỗi những nghiệp quả xấu của mình và kẻ dù đang gặp "vận hên" đang nhiều may mắn thì cũng chớ nên quá "đắc ý" mà quên tích phước tiếp cho mình. Tu hành phải biết chịu khổ Có câu nói rằng: "Chịu khổ thì hết khổ, hưởng phước thì tiêu phước". Chúng ta tu Ðạo phải tu khổ hạnh là vì lẽ gì? Mỗi ngày chúng ta chỉ ăn một bữa vì chúng ta muốn hết khổ. Khổ mà hết thì sẽ có vui. Nói về phước thì có loại nên hưởng và có loại không nên hưởng. Phước nên hưởng là phước do tay ta tạo tác ra, như có nhà đẹp, mặc quần áo đẹp, ăn thứ ngon, đi xe hơi tốt. Tuy nhiên, chúng ta cũng nên nhớ rằng sau khi hưởng thọ hết những thứ đó thì phước cũng tiêu luôn, và trong trương mục của ngân hàng phước báo thì ngạch số tồn khoản cũng không còn. Loại phước không nên hưởng là loại không do chính ta tạo dựng. Chúng đến với ta do mánh lới, như tiền của trộm cắp của người khác chẳng hạn. Chúng ta tiêu xài thứ đó một cách trái phép, tất sẽ bị pháp luật trừng trị. Vậy là ta đã thiếu nợ vì rút tiền quá lạm tại trương mục của ngân hàng phước báo. Thọ hưởng phước thì khi hưởng hết, phước sẽ không còn, huống chi lại cố tình hưởng những loại phước không nên hưởng. Như vậy, không những tiêu mất phước mà lại còn bị vỡ nợ. Vì lẽ đó mà phước chẳng thể hưởng hết, hưởng hết thì hết phước; khổ có thể chịu hết, chịu hết thì hết khổ. Làm người phải ghi nhớ điều này. Gặp hoàn cảnh gian nan khốn khổ, ta vui lòng tiếp nhận nghịch cảnh. Vậy là không có sự oán hận, ta không mang tâm bất mãn. Ðối với kẻ đã từng nghiên cứu Phật Pháp, tư tưởng và hành động của họ khác với người thế tục. Một đàng thì thuận theo giòng sanh tử và tạo nghiệp, còn người tu hành thì đi ngược giòng sanh tử và làm tiêu nghiệp. Trong mọi cảnh ngộ, những người này vẫn giữ tâm an nhiên, nên không cảm thấy khổ. Có câu nói: "Có nếm được cái khổ cùng cực, mới thành bậc thượng nhân". Thật là một câu chí lý. Nay tôi kể một công án để quý vị tham khảo. Vị vua cuối cùng đời nhà Minh là vua Sùng Trinh. Là một vị quân vương, ông có đủ trí huệ, nhưng phước báo dành cho ngôi vị này lại không có. Bởi cớ gì? Bởi lý do gặp khổ nạn mà không lãnh thọ cho đến khi hết khổ. Nguyên kiếp trước ông là một Sa-di, nhưng lại chết trước khi thọ giới Cụ túc, thành thử thân phận ông vẫn là tiểu Sa-di. Trong thời gian làm Sa-di, ông phải nhận hết những công việc nặng nhọc như gánh nước, bổ củi. Ông ráng chịu đựng, nén sự oán giận và ngày ngày khổ công trong công tác hộ trì Ðạo tràng. Một hôm, ông leo lên nóc nhà để sửa mái, nhưng chẳng may trật chân rớt xuống đất chết. Các bạn tu vội báo cho Phương trượng hay. Hòa Thượng viện chủ vốn biết rõ nghiệp quả của vị tiểu Sa-di này, muốn tìm cách giúp cho đệ tử lãnh thọ cho hết khổ nạn, nên đối trước các chúng tuyên bố rằng: "Tiểu Sa-di này làm việc thiếu cẩn thận, sẩy chân ngã chết, làm thiệt hại cho Ðạo tràng. Y đã phạm vào tội xâm tổn thường trú, đáng bị trừng phạt. Các ngươi hãy buộc thi thể của nó vào đoàn ngựa, bắt ngựa kéo đi cho đến khi tan xác. Khỏi cần phải dùng quan tài mai táng nữa". Các bạn tu nghe Phương trượng nói xong, thấy không đang tâm, nghĩ tới tình bạn tu mà động lòng trắc ẩn. Họ không nghe lệnh của Phương trượng rồi bàn bạc với nhau: "Chúng ta là sư huynh sư đệ, cùng tu chung một Ðạo tràng, lý nào để cho y bị ngựa kéo thây như vậy, chúng ta phải chôn cất mới phải". Bàn xong, tất cả chung tiền mua quan tài, rồi đem chôn xác trong núi. Bởi đã khổ công làm việc chùa, tiểu Sa-di đã từng tích lũy công đức, nên kiếp sau được làm vua, tức vua Sùng Trinh. Có điều, ông chỉ tại vị trong thời gian 16 năm, lại gặp lúc thiên hạ đại loạn, trong nước thì Lý Tự Thành làm phản, bên ngoài thì nhà Thanh mang quân xâm lấn. Trong bao năm, ông chưa từng được hưởng một ngày an ổn, liên miên bị bức bách ưu phiền. Chính vì lòng tốt của các vị sư huynh sư đệ của ông đã làm hại ông, không để cho ông thọ lãnh cho hết khổ nạn. Nếu như các bạn đó sớm nghe lời Phương trượng, dùng ngựa kéo thây thì nạn khổ của ông đã hết và ngày sau đâu còn xẩy ra cảnh Sùng Trinh tự ải ở Môi Sơn, vì nước mà tử vong. HT Tuyên Hóa [/size]
    1 like
  23. Du Ca cũng thích nhất câu đầu, đọc câu đầu đã thấy bị cuốn vào bài thơ rồi, chắc tại cùng tâm trạng :D
    1 like
  24. Thực sự không biết chủ topic mở topic này ra để làm gì? Để xác định giờ sinh, nhờ cao thủ giúp, thì ngữ điệu quá thiếu khiêm cung. Kể cả bản thân mình có kiến thức cũng vậy thôi, có tin thì hãy nhờ cậy, còn thắc mắc muốn hỏi cho rõ thì cũng nên dùng giọng mềm mỏng hơn. Thật lạ là với tính cách như thế mà chị có vẻ vẫn thành công trong cuộc sống. May mà chồng chị hiền :D Nói có gì quá đáng mong chị bỏ qua cho Du Ca :) Để tìm ra lối đi cho cuộc sống của mình, thì cuộc sống từ trước tới nay bày rõ cho chị trong khi lá số thì còn chưa biết cái nào với cái nào. Thiết nghĩ nếu như lời bạn tuine là đúng, chị cần biết rõ lá số để xác định hướng đi cho mình, thì theo Du Ca không cần thiết, cuộc sống chị đang trải qua mới là bắng chứng xác thực để giúp chị quyết định đi tiếp như thế nào, chứ không phải là lá số. Ai xem tử vi mà có 2-3 lá số chưa rõ giờ sinh cũng sẽ băn khoăn như chị, nhưng "bụt chùa nhà không thiêng", và con người với cái nhìn về chính bản thân nhất định còn nhiều thiên lệch và tư duy chủ quan. Tốt nhất nên nhờ cao thủ khác phán đoán giùm. Hy vọng chị sớm thoát ra khỏi khúc mắc đang gặp. Thân chào.
    1 like
  25. (Tôi xin bổ xung về các chòm sao cho tư liệu thêm đầy đủ) Truyền thuyết về 12 Cung Hoàng Đạo Theo các nhà thiên văn học thời cổ đại, trong khoảng thời gian chừng 30 ngày hoặc hơn một chút, Mặt Trời sẽ đi qua một trong 12 chòm sao đặc biệt. Chu kỳ này lập lại sau một năm, gọi là Hoàng Đạo. Khoảng thời g mặt trời đi qua 1 chòm sao gọi là một Cung. Vì vậy có tất cả 12 Cung Hoàng Đạo, tên gọi của các Cung này cũng là tên các chòm sao (có nguồn gốc từ thần thoại Hy Lạp): Aries, Taurus, Gemini, Cancer, Leo, Virgo, Libra, Scorpio, Sagittarius, Capricorn, Aquarius và Pisces. Con người vào thời điểm sinh ra trên trái đất cũng chịu ảnh hưởng nhất định của những bức xạ mặt trời và các thiên thể. Vì vậy tính nết và cốt cách của con người sinh ra có cùng Cung Hoàng Đạo, không ít thì nhiều cũng có những nét đặc trưng chung. - Nhân Mã (Sagittarius – Còn gọi là Xạ Thủ) (23/11 – 21/12) Người nửa người nửa ngựa Chiron của Achilles đã bị Heracles, trong một lần truy đuổi kẻ thù, lỡ tay phóng lao đâm chết. Hối hận vì hành động nông nổi Heracles đã đưa người Chiron lên thành một chòm sao trên trời. Chiron là một nhân mã xuất sắc nhất trong loài của mình, ông đã đào tạo nhiều anh hùng trong thần thoại Hy Lạp, ông không những hiểu biết nhiều trong nhiều lĩnh vực mà còn có võ nghệ cao cường với tài bắn cung tuyệt nghệ. Vì lẽ đó người ta thường thấy chòm sao Nhân Mã đang giương cung lên ngắm bắn nên còn gọi là chòm sao Xạ Thủ. - Ma Kết (Capricorn – Con Dê) (22/12 – 20/1) Capricorn hay dê biển (Seagoat) là hình ảnh của nam thần xứ Babylon, đầy quyền năng tên là Ea. Ông có nửa dưới cơ thể là cá, đầu và mình dê. Ban đêm, vị thần sống trong đại dương nhưng mỗi ngày đều ngoi lên để canh giữ đất liền. Nhưng thần thoại Hy Lạp ko nói đến dê biển mà nói đến Pan, một bán thần (demigod) có nửa trên là người nửa dưới là dê. Ông là con của thần Hermes và một nữ thần rừng (Nymph). Khi Pan ra đời, nữ thần hét lên vì khiếp sợ và bỏ chạy mất trong khi Hermes thương đưá con dị dạng, đưa nó lên Olympus nơi các vị thần khác cũng thích cậu bé. Từ đó Pan trở thành vị thần của các mục đồng và gia súc, gánh vác trách nhiệm của cha. Anh ko ở lại Olympus mà thích sống trong những bóng cây trên núi. - Bạch Dương (Aries – Con Cừu) ( 21/3 – 20/4) Vua xứ Thebes được hoàng hậu sinh hạ hai người con nhưng trái tim lại say đắm nàng Ino, người xinh đẹp đến mức nhà vua quyết định ly hôn và sắc phong Ino làm hoàng hậu mới. Người mẹ kế Ino rắp tâm từ bỏ hoàng tử Phrixus và công chúa Helle bằng một lời tiên tri độc ác rằng họ sẽ bị sát hại. “Mùa màng thất bát là dấu hiệu nổi giận của Zeus. Cần phải hy sinh cả hai trước mũi kiếm để làm hài lòng Zeus”. Vua và tất cả dân chúng đều tin vào lời tiên tri độc ác nọ, họ quyết định hy sinh hai đứa trẻ. Từ trên cao, Zeus thấy thương tình bèn gửi một chú cừu vàng có khả năng bay rất nhanh xuống cứu họ. Bộ lông vàng của chú cừu đực này về sau trở thành báu vật khuynh thành của vương quốc Colchis, nơi hai anh em được che giấu suốt đời thoát khỏi Ino. Chính vì bộ lông ấy mà Jason, người anh hùng trong thần thoại Hy Lạp đã tìm kiếm trong suốt hành trình truy tìm bộ lông cừu vàng nổi tiếng của mình, được kể rất kỹ trong câu chuyện về cuộc viễn chinh của nhóm thủy thủ tàu Argo. - Kim Ngưu (Taurus – Con Trâu) (21/4 – 20/5) Một buổi chiều tuyệt đẹp, Europa, con gái một vị vua của Phoenicia đang nhổ cỏ cạnh bờ sông thì một con trâu trắng to lớn không biết từ đâu xuất hiện và tiến lại gần nàng. Kinh ngạc trước vẻ đẹp của chú trâu, Europa quên hết cả cẩn trọng, liền ngồi lên lưng. Bất thình lình, chú trâu đực nhảy ngang qua đất bằng và biển rộng với một sức mạnh khủng khiếp, bước đi trên sóng chẳng khác nào trên đất liền. Chú trâu ấy, kỳ thực chính là Zeus, chúa tể của các vị thần biến thành. Zeus mang Europa ngang qua biển Địa Trung Hải đến vùng đảo Crete của Hy Lạp, và cưới nàng ở đó. Kể từ đấy, miền đất mà Zeus mang Europa đến được biết đến dưới cái tên Europe, chính là châu Âu ngày nay. - Song Tử (Gemini – Sinh Đôi) (21/5 – 21/6) Hai anh em song sinh Castor và Pollux là con của Zeus, chúa tể trong tất cả mười hai vị thần trên đỉnh Olympus, và nữ hoàng của thành Sparta. Đó là hai đứa trẻ trung hậu, rất dũng cảm và cùng nhau nổi danh khi lập được nhiều chiến công hiển hách trong cuộc hành trình của nhóm thủy thủ tàu Argo vĩ đại, và trong biết bao cuộc phiêu lưu khác. Bất kể khi nào, hai anh em luôn luôn tìm cách giúp đỡ lẫn nhau. Trong một trận đánh, Castor bị tử trận sau một vết thương rất đau đớn. Trong nỗi buồn vô hạn, Pollux đã cố gắng tự sát theo anh. Nhưng khác với Castor, Pollux được thừa hưởng dòng máu của Zeus vua cha, nên là một chiến binh bất tử. Khi không còn cách nào nữa, cậu bé thốt lên lời khóc “Hãy để con chết thay Castor, thưa cha!”. Zeus thương tiếc vô cùng, đã đồng ý cho họ thay phiên nhau mỗi người được sống một ngày và đưa họ cùng bay lên bầu trời. Hai anh em hóa thành chòm sao Gemini, mỗi một ngày một người sẽ được sống trên thiên đàng và là ngôi sao được tỏa sáng, ngôi sao còn lại không sáng vì người kia lúc ấy đang ở trần gian. Cũng kể từ đó chòm sao Song Sinh được coi là biểu tượng cho tình bạn, tình anh em. - Cự Giải (Cancer – Con Cua) (22/6 – 22/7) Con cua trong chòm Cancer vốn là bạn của quái vật biển cả Hydra. Câu chuyện về chú cua này xuất hiện trong truyền thuyết về mười hai chiến công của Hercules thời kỳ chàng phải làm nô lệ cho Eurystheus, vì phạm tội giết vợ con mình trong một cơn điên do nữ thần Hera gây nên. Lần này Heracles buộc phải xóa sổ thế giới của Hydra ở Lerna. Vào lúc quái vật có nhiều đầu Hydra xông tới và quấn lấy Heracles, lần lượt từng cái đầu ghê sợ ấy bị Heracles cắt cho đến khi, đối với Hydra, tình thế thật là thê thảm. Nhìn người bạn của mình liều lĩnh mãi trong tuyệt vọng, chú cua bật khóc “Bạn Hydra của ta khổ quá!” và gan góc dùng những chiếc càng tấn công Heracles. Nhưng trước người anh hùng vĩ đại nhất của thần thoại Hy Lạp, chẳng có cơ hội nào cho chú cua cả, và chú bị chế ngự ngay lập tức. Nhìn thấy tình bạn này, các vị thần rất cảm động và đã đưa bức tranh ba nhân vật lên thành một chòm sao trên thiên đàng. - Sư Tử (Leo) (24/7 – 23/8) Hercules, người anh hùng xuất hiện trong rất nhiều thần thoại Hy Lạp, nhận lệnh từ vua Eurystheus thành Tiryns phải thực hiện mười hai nhiệm vụ vô cùng hiểm nghèo, mà sau này đã trở thành truyền thuyết mười hai chiến công của Heracles. Nhiệm vụ đầu tiên trong số ấy là chế ngự một con sư tử chuyên ăn thịt người ở rừng rậm Nemea. Với cung tên và thanh kiếm của mình, Hercules đã tấn công con quái vật ngay khi nó xuất hiện trước chàng. Thế nhưng, kẻ thù vốn là một con sư tử siêu phàm, bất tử với một tấm thân không hề sợ kiếm cung. Hercules bị nó ôm lấy cổ và ghì chặt trên đôi tay với toàn bộ sức mạnh khủng khiếp. Nhưng cuối cùng, chú sư tử siêu phàm nọ cũng không là ngoại lệ trước sức mạnh và khả năng chiến đấu tuyệt vời của Heracles, nên bị tiêu diệt. Chú sư tử có một không hai này đã được vinh danh vào một trong những chiến công lừng lẫy của Heracles. - Xử Nữ (Virgo – Trinh Nữ) (24/8 – 23/9) Demeter, nữ thần Mùa màng cai quản tất cả cây trái của nhân gian, chỉ có một người con gái duy nhất là nàng Persephone xinh đẹp. Một ngày, nàng đang mải hái hoa ngoài đồng thì mặt đất bỗng mở rộng ra và Hades, vua của Địa ngục, xuất hiện, bắt nàng đi trên một cỗ xe ngựa màu đen. Quá đau buồn và thương nhớ con gái yêu quý của mình đã bị mang về Địa ngục, Demeter bỏ đi ở ẩn trong một hang động. Kể từ khi không có bà, chẳng còn hoa trái nào có thể lớn lên nữa và mặt đất trở nên khô cằn, hoang vắng vô cùng. Zeus thấy vậy bèn ra lệnh cho Hades trả Persephone lại cho Demeter. Nhưng trong thời gian bị giam giữ, Persephone trót ăn một miếng của quả lựu, và bất kỳ ai đã nếm thứ gì của Địa ngục đều phải chịu số phận phải sống ở đó. Vĩnh viễn Persephone sẽ chỉ được sống với mẹ trong một nửa của mỗi năm, nửa năm còn lại nàng phải về sống với Địa ngục. Và từ đấy Trái Đất có những mùa khác nhau. - Thiên Bình (Libra – Cái Cân) (24/9 – 23/10) Chòm sao Libra được coi là thứ cán cân mà với nó, Astraea – nữ thần Công Lý – có thể phân định ra thiện và ác. Ngày xưa, ở thời đại Vàng, lúc mà các vị thần dùng vàng để tạo ra giống người đầu tiên (trong thần thoại Hy Lạp, loài người trải qua 5 thế hệ: Vàng, Bạc, Đồng, Bán thần, và Sắt), cán cân của Astraea luôn hướng về sự công bằng. Con người và muông thú sống hạnh phúc với mùa xuân vĩnh hằng cứ dài suốt hàng năm. Khi thời đại Vàng qua đi, thời đại Bạc được thay thế, là lúc mà con người rất xấu xa và bản ác, kẻ mạnh ăn hiếp kẻ yếu. Các vị thần mệt nhọc rút lui về thiên đàng khi sự chịu đựng con người của họ đã khô kiệt. Chỉ mình Astraea còn ở lại với loài người để tiếp tục thực hiện sự công bằng. Rồi thời đại Đồng lại đến, con người trở nên hung bạo bội phần với những chiến tranh, chém giết. Cán cân của Astraea cứ tiếp tục nghiêng về cái ác, làm cho vị nữ thần này không thể chịu đựng được nữa‎, cuối cùng cũng rút lui khỏi thế gian về với thế giới Slanper. - Thiên Yết (Scorpius – Bọ Cạp) (24/10 – 22/11) Theo thần thoại Hy Lạp, cung Scorpius đề cập tới con bọ cạp được nữ thần Hera (hoặc có thể là Gaia) phái đi giết thợ săn Orion, con bọ cạp đã bất ngờ từ dưới đất chui lên tấn công Orion. Mặc dù bọ cạp và Orion xuất hiện cùng nhau trong truyền thuyết này nhưng chòm sao Orion gần như đối lập với chòm sao Scorpius trên bầu trời đêm. Người ta cho rằng sự đối lập này là biện pháp của các vị thần nhằm ngăn chặn mối thù hận tiếp diễn giữa bọ cạp và Orion. Tuy nhiên trong một số dị bản khác, thần Apollo mới là người cử bọ cạp đi giết Orion, bắt nguồn từ sự ghen tuông ngày càng lớn của thần với Orion khi thấy Artemis ngày càng quan tâm tới chàng ta. Sau đó, hối hận vì hành động của mình, Apollo đã giúp Artemis treo hình ảnh của Orion lên bầu trời đêm. Tuy nhiên, hình ảnh của bọ cạp cũng được đưa lên trời, và mỗi khi bọ cạp xuất hiện trên đường chân trời thì ở phía bên kia của bầu trời, Orion bắt đầu lặn đi, Orion vẫn luôn phải bỏ chạy khỏi kẻ thù của mình. Bọ cạp cũng xuất hiện trong một dị bản về câu chuyện của Phaethon, đứa con xấu số của thần Mặt Trời Helios. Phaethon đã nài Helios cho phép mình cưỡi cỗ xe ngựa mặt trời một ngày. Vì quá nuông chiều con, Helios đã chấp thuận. Sau đó Phaethon đã mất điều khiển cỗ xe mặt trời. Lũ ngựa đã hoảng sợ khi trông thấy một con bọ cạp thần khổng lồ hung hãn chặn trên đường đi, và chúng đã kéo cỗ xe di chuyển khắp nơi trên bầu trời, không tuân theo sự điều khiển của Phaethon nữa. Truyền thuyết nói rằng vệt chuyển động của cỗ xe đã tạo ra chòm sao Eridanus. Cuối cùng, thần Zeus đã hất văng Phaethon ra khỏi cỗ xe bằng một tia sét để kết thúc sự hỗn loạn đó. - Bảo Bình (Aquarius – Người mang nước, Cái Bình) (21/1 – 19/2) Trong nhiều nền văn hoá cổ đại, kể cả Babylon, Ai Cập và Hy Lạp, có một vị thần tên “Thần mang nước” hay “Thần đổ nước”. Nước đã cưu mang và duy trì sự sống, do đó quyền lực làm cho nước đổ xuống tứ thiên đường nắm trong số quyền năng được con người cổ đại tôn kính nhất. Theo thần thoại Hy Lạp thì Zeus là “Thần mang nước”. Trong cương vị chúa tể của các vị thần, một trong những nhiệm vụ quan trọng nhất của ông là tạo ra bão. Chòm sao Aquarius là biểu tượng cho “Thần mang nước Zeus”. Một thần thoại khác lại nói đến Deucalion, người sống sót duy nhất trong trận Đại hồng thủy và “Thời đại đồ sắt” trong thần thoại Hy Lạp. Ở thời đại này con người cũng tàn bạo như thú dữ giết chóc lẫn nhau, bất kể cha con. Lời giáo huấn của thần thánh ko có giá trị gì với họ. Thất vọng, Zeus tạo ra trận lụt lớn trên trái đất, giết chết mọi người trừ Deucalion và vợ Pyrrha (Trong chuyến thăm trái đất cuối cùng, Zeus thấy cặp vợ chồng này dù sống trong túp lều đơn sơ ko có đủ thức ăn, vật dụng vẫn cung cấp đầy đủ thức ăn chỗ ở cho mình nên ông mới cho họ sống qua trận lụt) đồng thời giúp họ tạo ra chủng tộc người mới mạnh hơn và có đạo đức. Deucalion chính là “Người mang nước” đặc trưng bằng chòm sao Aquarius. - Song Ngư (Pisces – Đôi Cá) (20/2 – 20/3) Aphrodite, nữ thần sắc đẹp, và con trai Eros, thần tình yêu, đang đi dọc bờ sông thì con quỷ Typhon thình lình ngoi lên lên mặt nước định hủy diệt họ. Typhon là hậu duệ của Gaia và Tartarus, tuy già nua nhưng có sức mạnh như một Titan với đôi mắt toé lửa. Thân hình cao chọc trời, Typhon không có ngón tay mà có 100 đầu rồng mọc lên từ bàn tay. Không có vị thần trên đỉnh Olympus nào đủ mạnh để hủy diệt Typhon. Cách duy nhất để tránh khỏi Typhon là biến hình thành con vật như cá để bơi đi. Aphrodite va Eros cũng biến thành cá, bơi vào nhánh sông và được hai con cá khác dẫn đường đưa đến nơi an toàn. Chòm sao Song Ngư có biểu tượng hai con cá đan đuôi vào nhau để tưởng nhớ hành động cứu giúp thần sắc đẹp và tình yêu.
    1 like
  26. nangxuan Cháu là nữ sinh lúc 6h30 sáng ngày 14/02/1985(AL) Bác xem giúp cháu khi dùng những sdt này thì công việc, tình duyên, các mối quan hệ của cháu thế nào ạ? sdt1: 0948588532, công việc là cho có, hay đối phó với những va chạm, tinh duyên trong lúc buồn rầu, ế dài dài, còn nếu có thì hay xích mích mâu thuẩn rạn nứt sdt2:0904446853, cũng vậy công việc cũng chán phèo, tình duyên cũng èo uột, cố nuoi cho nó tốt đẹp hơn, hoặc cố tìm nhưng không thấy. hue thuong + 0989472809, xấu không dùng. + 01656072906, cũng xấu luôn. htrang sdt: 0168.8395.338, công việc không ổn định, hao tiền cho ăn chơi, bè bạn. Tình cảm không chắc chắn. Thay đổi chó vánh. Cuối năm nay có cơ hội về tài lộc, nhưng coi chừng bị lừa tiền. mr nam Nhờ anh xem dùm em 2 số này nhé 0902731368, 0909365078,nam giới,sinh lúc 14h ngày 25/12/1985 dương lich. 0902731368, nóng nảy thì hư việc. Số này dùng thì có cơ hội làm ăn nhưng dể day dưa chuyện tình cảm bạn bè không tốt. 0909365078, chạy đôn đáo chẳng đâu vào đâu, mệt tinh thần, bệnh chống mặt. gialinh246 kính nhớ các bác, anh chị xem giúp ạ. Cháu là Nữ, sinh vào 4h50 sáng ngày 24/06/1990 (DL) Cháu muốn xem về sức khỏe, việc học hành và công việc sau này. - số dt 1: 0948080230, bao tử có vấn đề, học nhiều điểm thấp, bế tắt trong công việc. - số dt 2: 01234866728, bao tử kém, mắt cận, học không tập trung, làm việc thời vụ. qvt2004 Nếu 2 số trên vẫn ko khá hơn bác xem giúp cháu thêm 1 số này nữa bác nhé. sdt: 0926022296. công việc thì bình thường, tình duyên thì phong phú, có thể tiến tới hôn nhân. nvtuan sđt : 090.252.9949, mắt mờ hay kém, dể bị cảm mạo, công việc nhiều có hiệu quả nhưng không có thời gian nghỉ dưỡng. sercue: 097.669.5819, chịu lợi nhỏ mà bền, làm việc phụ mà lâu dài. gan yếu. thanhnhien - Số dt 1: 0949123426 năm nay kinh tế vất vả, từ đây sang tháng Giêng năm sau dể thở hơn. số này tốt có nhiều mối quan hệ mới, công việc như bắt đầu lại nhưng thuận lợi. ngocnghech sdt1: 0914052836 sdt2: 0946555296 sdt3: 0914682983 không có số nào được cả. luxubu 01685040287, số tốt di chuyển đi lại nhiều, đi xa. tiền vừa đủ, tình lai rai, công việc thuận lợi nhỏ. Hdh sinh: 12:00 ngày 05/11/1977 (dl) sdt: 0903 369 198, cực nhưng có lợi nói chung, nhưng số này dùng thì từ đây đến cuối năm có khó khăn, chỉ lợi ngoại giao, lộc không lợi. Sdt: 0933693398 xấu, bỏ. cotaomobile 0907.40.40.40 chờ đợi mỏi mòn chẳng được gì cả, bỏ không dùng số này. congthang Sim số 1: 0914505489 phải phụ thuộc, lệ thuộc mà lợi chẳng xứng. Sim số 2: 01224751406 tất cả đều dở, chẳng lợi lộc gì. phuong05 0983330338 công việc ổn, quan hệ tốt, lợi đều đều. 0988921288 có lợi nhưng tiêu hết. Tình cảm rắc rối. Nếu đã quen nhau lâu thì tiến tới hôn nhân. trần đình anh Số dt 1: 0975426879 (đang dùng), lợi lớn do nghề phụ, trúng mánh, đa số thời gian là chờ cơ hội. - Số dt 2: 0926620246 dể sa lầy trong làm ăn, lổ lã. Coi chừng bị lừa. canhcut - Số dt 1: 0943.291.668 xấu - Số dt 2: 0982.052.388 làm ăn thời vụ thì dùng số này. NAMPHONG - 0912.076.267 công việc hay di chuyển thì ổn, ở một chổ thì dể va chạm, nhưng không đến nỗi, gia đình có hay rầy ra nhưng là quan tâm - 0984.858.986 số xấu, ngồi không ngáp gió. Tiểu Phương 097 sáu một hai 10 tám không Người sử dụng: Nữ, sinh năm 1981 công việc: có những mối quan hệ tốt và chất lượng. khuôn khép, chuẩn mực. tình cảm: nhạy cảm, trọng về tinh thần hướng thượng, đang yêu. cảm xúc: yêu những gì mang giá trị nghệ thuật tinh thần sâu sắc. tinh thần: đôi khi có nổi loạn hay dể vào lĩnh vực siêu nhiên. thể thao; thích chay bộ. Chúc may mắn lần sau Thiên Đồng
    1 like
  27. LỊCH SỬ LOÀI NGƯỜI TRÊN TRÁI ĐẤT Lịch sử loài người được phác hoạ sau đây có cơ sở từ nhiều nguồn tư liệu khác nhau: sách Kinh, dẫn liệu của các Bậc được bí truyền, thông tin từ các latma và đạo sư... Điều đáng chú ý trước tiên là con người đã xuất hiện nhờ sự cô đặc phần “hồn” dần dần. Cho đến nay, trên Trái đất đã tồn tại 5 chủng tộc (chúng ta thuộc chủng tộc thứ Năm), chủng tộc sau xuất hiện trong lòng chủng tộc trước và dần dần thay thế nhau. Lịch sử loài người được phác hoạ sau đây có cơ sở từ nhiều nguồn tư liệu khác nhau: sách Kinh, dẫn liệu của các Bậc được bí truyền, thông tin từ các latma và đạo sư... Điều đáng chú ý trước tiên là con người đã xuất hiện nhờ sự cô đặc phần “hồn” dần dần. Cho đến nay, trên Trái đất đã tồn tại 5 chủng tộc (chúng ta thuộc chủng tộc thứ Năm), chủng tộc sau xuất hiện trong lòng chủng tộc trước và dần dần thay thế nhau. Vũ trụ và sự phát sinh con người Người cổ xưa cho rằng, vật chất phát sinh từ “khoảng không”. Nhà vật lý thiên tài Nga G. Sipop, người đã lập được phương trình mô tả vật lý Chân không (Tuyệt đối) mà bản thân Einstein không làm được, cũng đã ủng hộ ý tưởng như vậy. Mundasep và một số bạn ông cũng có đồng quan điểm này. Cái Tuyệt đối không đơn thuần là hư không (không có gì), đó là khoảng không chứa Cái gì đó(1). Trước mắt khoa học chưa biết Cái gì đó. Theo G. Sipop, các nguyên tử và phản nguyên tử phát sinh từ Tuyệt đối. Chúng sinh ra, đụng độ nhau và tiêu huỷ nhau. Nhưng có một lần cách đây nhiều tỷ năm, các nguyên tử và phản nguyên tử sau khi được tạo thành trong không gian đã tản đi ngay, nên mỗi thứ vẫn tồn tại. Vật chất đã phát sinh từ Tuyệt đối là như vậy. Vào thời gian đầu, tồn tại các trường xoắn siêu cao tần và các trường phản xoắn triệt tiêu lẫn nhau. Chúng cũng phát sinh từ Tuyệt đối. Nhưng đã xuất hiện một thời điểm, mà sau khi các trường xoắn và phàn xoắn được hình thành thì chúng đã tản đi mỗi thứ một nơi. Phần trường xoắn siêu cao tần đó tạo thành “thế giới vi tế” (thế giới phi vật lý hay thế giới tâm linh - BT). Theo giả thuyết của G. Sipop, giữa các trường xoắn của thế giới vi tế và ý thức có mối liên hệ trực tiếp bởi các trường xoắn là những chất chứa dusa và dukhơ(2). Như vậy, từ Tuyệt đối đã phát sinh ra hai thế giới: thế giới vi tế và thế giới vật thể. Thế giới vật thể phức tạp dần. Đã xuất hiện các sao, hành tinh, các hệ thiên hà v.v... Thế giới vi tế bao gồm các trường xoắn (vật chất siêu mịn và tinh tế) cũng phức tạp dần. Dần dần trong quá trình tiến hoá, trong thế giới vi tế đã xuất hiện các dukhơ là những khối năng lượng tinh tế kết đông dưới dạng các trường xoắn có khả năng bảo toàn vĩnh cửu trong mình một khối lượng thông tin to lớn. Những mối liên hệ thông tin đã được tạo ra giữa các dukhơ và dần dần đã tạo ra Không gian thông tin toàn thể. Có thể đây chính là Trung tâm điều hành sự sống, Cõi kia hay Chúa Trời như các tôn giáo đã nói tới. Trong khi ở thế giới vi tế diễn ra quá trình hoàn thiện, giữ gìn và truyền tải thông tin thì tại thế giới vật thể tồn tại song song vẫn vô sinh và chưa có bản sắc. Thân thể người trong thế giới vật thể có thể đã được tạo ra bằng cách cô đặc phần dukhơ dần dần. Hình thái sự sống trong thế giới vi tế phải được hoàn thiện đến một mức nào đó mới có thể dùng năng lượng của thế giới đó tạo ra bộ gen và thân thể người. Không phải ngẫu nhiên mà người xưa nói rằng: ‘Con người là tiểu vũ trụ”. Cùng với sự tạo ra con người, các dạng sự sống đơn giản hơn cũng được sinh ra ở thế giới vật thể: con vật, côn trùng, cây cỏ... Nguyên lý tạo thế giới thực vật và thế giới động vật vẫn như vậy - bằng cách cô đặc dần dần các dạng trường xoắn đơn giản hơn của thế giới vi tế. ******************************************************************************** KNTL - Chúng tôi sẽ trích giới thiệu một số khía cạnh khác thường của cuốn sách “Chúng ta thoát thai từ đâu?” (tác giả người Nga Erono Mundasep, Hoàng Giang dịch, NXB Thế giới, Hà Nội, 2002, 532 trang). Đây là cuốn sách có nội dung kỳ lạ về Khoa học và Tâm linh của một nhà bác học Nga nổi tiếng thế giới, đặc biệt là trong lĩnh vực y học... GIỚI THIỆU TÁC GIẢ Erono Mundasep là Tiến sĩ y học, Giáo sư, Giám đốc Trung tâm phẫu thuật mắt và tạo hình liên bang thuộc Bộ Y tế Nga, Thầy thuốc Công huân, nhà phẩu thuật thượng hạng, nhà tư vấn danh dự thuộc Đại học Luinsvin của Mỹ, Viện sĩ Viện hàn lâm Nhãn khoa của Mỹ, bằng bác sĩ nhãn khoa của Mehico, kiện tướng du lịch thể thao. Erono Mundasep được coi là nhà bác học lớn trên trường quốc tế. Ông là người khai sáng phương hướng mới trong y học: phẩu thuật tái sinh hay phẫu thuật cấy ghép mô người. Ông là người đầu tiên trên thế giới tiến hành phẫu thuật cấy ghép mắt thành công. Những năm gần đây, ông bắt tay nghiên cứu các cơ sở của phẫu thuật tái sinh hàng loạt bộ phận cơ thể người. Erono Mundasep đã nghiên cứu 90 loại phẫu thuật mới, sáng chế và đưa vào ứng dụng 60 loại nguyên liệu sinh học alloplant, đã có trên 300 công trình khoa học được đăng tải, đã nhận 36 bằng sáng chế của Nga và nhiều nước khác trên thế giới. Ông đã đi thỉnh giảng và phẫu thuật trên 40 nước. Hàng năm, ông thực hiện khoảng 600-800 ca phẫu thuật phức tạp nhất. Bản thân nhà bác học cho đến nay vẫn thú nhận rằng, ông chưa hiểu thực chất của sáng chế chủ yếu của mình là nguyên liệu sinh học “alloplant” được chế tạo từ mô người chết, mang trong nó những cơ cấu tự nhiên cao sâu trong việc sáng tạo cơ thể con người. Vì thế, trong quá trình nghiên cứu ông không chỉ tiếp xúc với các nhà khoa học thuộc nhiều lĩnh vực như vật lý, sinh học phân tử v.v... mà còn tìm hiểu cơ sở của các tín ngưỡng tôn giáo và huyền học, nghiên cứu năng lượng tâm thần, cũng như những vấn đề liên quan đến nguồn gốc loài người và Vũ trụ. Phần 1 CHÚNG TA THOÁT THAI... Lịch sử loài người được phác hoạ sau đây có cơ sở từ nhiều nguồn tư liệu khác nhau: sách Kinh, dẫn liệu của các Bậc được bí truyền, thông tin từ các latma và đạo sư... Điều đáng chú ý trước tiên là con người đã xuất hiện nhờ sự cô đặc phần “hồn” dần dần. Cho đến nay, trên Trái đất đã tồn tại 5 chủng tộc (chúng ta thuộc chủng tộc thứ Năm), chủng tộc sau xuất hiện trong lòng chủng tộc trước và dần dần thay thế nhau. Các giai đoạn phát triển loài người Có thể phân chia sự phát triển nhân loại thành mấy giai đoạn sau đây: giai đoạn người giống thiên thần và ma, giai đoạn người Lemuri, giai đoạn người Atlan và giai đoạn người văn minh chúng ta. Giai đoạn người giống thiên thần và ma Nhiều triệu năm về trước, trên Trái đất xuất hiện những sinh vật tựa thiên thần, cao tới 60 mét và hơn thế. Những người đó ở dạng năng lượng nên có thể đi xuyên vật cản đặc. Có nhiều thứ sống trong thiên nhiên cũng chưa đặc: cây cối, con vật v.v... Tuy vậy, những người chưa đặc cũng có bộ gen cho phép tái tạo dòng giống tựa như họ nhờ cách đâm chồi và phân chia. Những người tựa thiên thần khi sống phải tuân thủ quy luật của thế giới vi tế và liên hệ trực tiếp với Cõi kia. Họ khó có thể thay đổi và thực hiện được điều gì trong thế giới vật thể đông đặc hơn họ nhiều. Vì vậy, tiến trình hoàn thiện dukhơ có quan hệ trực tiếp với sự năng động của con người, nó cũng đã diễn ra từ từ. Có thể gọi giai đoạn người giống thiên thần là thời kỳ hài nhi của nhân loại. Mặc dù Cõi kia và dukhơ đã hỗ trợ những người xuất hiện trên Trái đất, nhưng thực tế đã không nhận được gì thay thế. Trong quá trình tiến hoá, thân thể người được cô đặc dần, nhỏ đi về kích thước và con người từ chỗ giống thiên thần (chủng tộc thứ Nhất) đã chuyển thành người giống ma (chủng tộc thứ Hai). Người giống ma có một mắt nhìn thấy trong thế giới vi tế, họ cũng sinh sôi bằng cách đâm chồi và phân chia, có thể đi xuyên vật cản đông đặc, nhưng đã có thể làm một số việc trong thế giới vật thể chỉ nhờ năng lượng của thế giới tế vi như tác động lên lực hấp dẫn để di chuyển vật nặng. Người giống ma bắt đầu hoạt động tích cực trong thế giới vật thể, nó đã đem lại những kết quả đầu tiên đối với việc hoàn thiện dukhơ ở Cõi kia. Từ thời kỳ hài nhi, loài người chuyển sang thời kỳ ấu thơ. Giai đoạn người Lemuri Việc cô đặc dần dần thân thể người giống ma đến một mức nào đó đã làm xuất hiện người Lemuri (chủng tộc thứ Ba). Người Lemuri sơ kỳ cao gần 20 mét, có hai mặt, 3 mắt và bốn tay. Hai tay phía trước phục vụ hai con mắt trong thế giới vật thể, còn hai tay phía sau phục vụ con mắt trong thế giới vi tế. Người Lemuri không còn khả năng đi xuyên qua vật cản đông đặc, nhưng nhờ có bốn tay nên đã làm được nhiều việc trong thế giới vật thể. Họ có thể không những sử dụng có hiệu quả năng lượng của thế giới vi tế (tác động lên lực hấp dẫn, tác động lên loài vật...), mà cả năng lượng của thế giới vật thể (sử dụng cơ bắp, lửa, nước...). Bộ gen của họ đã hoàn thiện tới mức là đã có sự phân chia giới (nam và nữ) để có thể sinh con cái. Quá trình cô đặc thân thể vẫn được tiếp diễn, tầm vóc người Lemuri trung kỳ (Lemuri - Atlan) nhỏ dần, cao chỉ còn 10 mét. Con mắt thứ ba ở phía sau tụt vào khoang sọ, nhưng vẫn giữ các chức năng là cơ quan điều chỉnh sang sóng của Cõi kia. Hai tay phía sau phục vụ con mắt thứ ba biến mất. Người Lemuri hậu kỳ sống nửa dưới nước, có những cái mang nhỏ giúp họ hít thở dưới nước. Họ xây dựng các đô thị to lớn, có trình độ kỹ thuật cao (thiết bị bay, chinh phục vũ trụ...), có nền khoa học phát triển, biết cách sử dụng nội năng để chữa bệnh. Tuổi thọ của họ vào khoảng 1000 - 2000 hoặc nhiều hơn. Người Lemuri hậu kỳ biết sử dụng toàn diện năng lượng của thế giới vật thể, nhưng công nghệ của họ dựa chủ yếu vào sự hiểu biết quy luật của thế giới vi tế. Người nào cũng có quan hệ với Cõi kia, thu nhận kiến thức từ đó, còn sự hoạt động của họ có tác dụng bổ sung tri thức cho Cõi kia. Họ có khả năng ngồi thiền và nhập định dễ dàng. Những người Lemuri ưu tú nhất biết cách phi vật chất hoá và vật chất hoá (giảm hoặc tăng cô đặc vật chất). Họ thông thạo thuật khinh thân (bay nhanh trong không trung). Thậm chí, họ có thể phi vật chát hoá và vật chất hoá cả máy bay hay những thiết bị khác. Cõi kia có thể tự hào về đứa con của mình đã sinh ra - con người ở thời kỳ văn minh. Những người Lemuri không chỉ chinh phục được thế giới vật thể và củng cố hình thái của sự sống vật thể, họ còn bằng các hoạt động nghiên cứu và việc thiện của mình đã làm phong phú trường xoắn của Không gian thông tin toàn thể (Cõi kia hay Chúa Trời), bổ sung thông tin mới cho nó. Họ đã đạt được mục tiêu là tạo dựng cuộc sống ở mức cao trong thế giới vật thể, thúc đẩy quá trình hoàn thiện và phát triển sự sống nơi thế giới vi tế. Trong lịch sử nhân loại, giai đoạn người Lemuri kéo dài và tiến bộ hơn cả. Khi đó cái Thiện và Tri thức được tôn vinh trong nhiều triệu năm đã đem đến sự tiến bộ mà vĩ lẽ đó mà Cõi kia đã tạo dựng nên loài người. Tuy nhiên, trong lòng nền văn minh Lemuri phát triển cao đã diễn ra quá trình thay thế tri thức bởi nạn sùng bái quyền lực. Kiến thức bị sử dụng vào việc giành giật quyền lực, sự tôn sùng cái Thiện dần bị phá vỡ và cái Ác xuát hiện. Bắt đầu sản xuất vũ khí, người Lemuri chia thành các nhóm đe doạ thù địch nhau. Bầu âm khí xuất hiện trên mặt đất. Không gian thông tin toàn thể được tiếp nhận ở người Lemuri không những về kiến thức và năng lượng tâm thần tích cực, mà cả tâm năng tiêu cực(3), gây tác động huỷ hoại lên trường xoắn của Cõi kia. “Kho tư liệu” về sự sống trên Trái đất đã được thiết lập trong suốt thời kỳ tiến hoá của con người và tập trung trong các trường xoắn của Cõi kia đã bị huỷ hoại. Tại sao người Lemuri từ chỗ đề cao tri thức lại chuyển sang tôn sùng quyền lực? Khó cắt nghĩa vì sao lại xảy ra như vậy. Có thể người Lemuri đã phạm phải một tội tầy đình - họ tự cho mình là cao siêu nhất trong Vũ trụ mà quên mất chính Cõi kia đã sinh ra họ. Điều rõ ràng là, trong số những người Lemuri chỉ có thể có một “Chúa” (người cầm đầu), cho nên họ phải tiến hành chiến tranh để giành ngôi thứ. Những người Lemuri phát triển nhất (những người có kinh nghiệm phi vật chất hoá, vật chất hoá và di chuyển trong không gian) đã hiểu rằng, Chúa Trời không để tâm năng tiêu cực tác động huỷ hoại kéo dài, có thể dẫn đến xoá bỏ “kho tư liệu” về sự sống trên Trái đất trong các trường xoắn của Cõi kia. Họ cũng đã hiểu rằng, cả thể giới vật thể lẫn thế giới vi tế có cùng một khởi nguồn là Tuyệt đối, rằng thế giới vi tế tiến bộ trước thế giới vật thể và vì vậy, có thể có ảnh hưởng lên Tuyệt đối, mà kết quả là các khách thể vũ trụ (hành tinh, thiên thạch...) sẽ thay đổi và tiếp theo là thảm hoạ toàn cầu. Nhiều người Lemuri hiểu là tất yếu sẽ có thảm hoạ, nên đã bỏ đi vào hang động, nhập định và tổ chức Quỹ gen nhân loại (phòng khi loài người bên ngoài bị huỷ diệt toàn bộ). Những người Lemuri phát triển nhất đã sử dụng khả năng phi vật chất hoá và vật chất hoá để chuyển xuống dưới lòng Trái đất. Họ mang theo các máy móc thiết bị, lập nên Sambala và Agatchi để bảo toàn và phát triển công nghệ văn minh Lemuri, gìn giữ "Quỹ gen nhân loại". Rồi thảm hoạ toàn cầu đã xảy ra. Nền văn minh của người Lemuri trên mặt đất đã bị tiêu vong. Cái giá của sự đề cao quyền lực, thay vì tri thức, đã dẫn đến hậu quả thê thảm như vậy. Đấng Trí Tôn không thể để “kho tư liệu” về sự sống trên Trái đất trong các trường xoắn của Cõi kia bị phá huỷ hoàn toàn. Và chỉ Sambala và Agachi còn lại, những cái đó như một biểu tượng của nền văn minh Lemuri hùng vĩ và tiếp tục bổ sung kiến thức cho Cõi kia. Nhưng trước khi xảy ra thảm hoạ rất lâu, trong xã hội Lemuri đã bắt đầu sinh ra những người tầm vóc nhỏ hơn và có diện mạo khác thường. Họ cao khoảng 3-5 mét. Số lượng những người như vậy ngày càng gia tăng. Đó là đại diện đầu tiên của chủng tộc tiếp theo trên Trái đất - người Atlan. Một bộ phận người này đã sống sót sau thảm hoạ Lemuri và còn lại như những bộ lạc người thiểu số. Giai đoạn người Atlan Người Atlan thời kỳ văn minh Lemuri về mọi mặt đều dựa vào kinh nghiệm và công nghệ của bậc đàn anh là người Lemuri - được coi là các Thiên tử. Nhưng sau khi nền văn minh Lemuri bị tiêu vong, người Atlan đã rơi vào hoàn cảnh nguy kịch - điều kiện sống trên Trái đất đã thay đổi, còn bậc đàn anh Lemuri lại không còn nữa. Trong số những người Atlan sống sót sau thảm hoạ, chỉ một số người tiếp tục tồn tại kiểu tự nhiên bán khai. Cũng như người Lemuri, người Atlan có “con mắt thứ ba” phát triển. Nhờ vậy, họ có thể tự điều chỉnh sang sóng của Không gian thông tin toàn thể và thu nhận từ đó kiến thức của người Lemuri. Nhưng kiến thức của người Lemuri ẩn chứa trong trường xoắn của Cõi kia không lộ ngay cho người Atlan biết. Bởi vậy, giai đoạn đời sống bán khai của người Atlan kéo dài rất lâu. Lý do mà người Atlan chưa thể sử dụng ngay được tri thức của người Lemuri có thể như sau: - Bộ nào người Atlan kém phát triển hơn người Lemuri. Cho nên khi tiếp cận với Trường kiến thức toàn thể cũng không hiểu được gì. Quá trình tiến hoá lâu dài đã tạo cho họ thói quen dựa dẫm nhiều vào bậc đàn anh Lemuri, không cho họ khả năng tự phân tích kiến thức và áp dụng vào đời sống để tiến bộ. - Đấng Trí Tôn đã cắt mối liên hệ của người Atlan khỏi Không gian thông tin toàn thể (Cõi kia), tức là đưa ra nguyên tắc “SoHm” (hãy tự thể hiện mình). Có nhiều khả năng nguyên tắc “SoHm” đã có từ thời văn minh Lemuri khi tồn tại nhiều cuộc xung đột và quyền lực được đề cao. Nguyên tắc “SoHm” có lẽ có vai trò che chở các trường thông tin khỏi sự huỷ hoại của năng lượng tâm thần tiêu cực xuất phát từ Trái đất. Còn ở giai đoạn đầu văn minh Atlan, nguyên tắc đó chưa bị huỷ bỏ bởi chưa có gì đảm bảo là người Atlan sẽ là nguồn tâm năng tích cực. Chỉ có Sambala và Agatchi đề cao tri thức và tư tưởng hướng thiện là không bị nguyên tắc “SoHm” phong toả đường vào tri thức của Cõi kia. Trong một số tôn giáo có khái niệm “Thời hoàng kim”, khi mà tri thức cổ xưa luôn mở ra trước con người. Nói cách khác, “Thời hoàng kim” là thời kỳ mà nguyên tắc “SoHm” được huỷ bỏ đối với loài người và con người được tự do tiếp cận với tri thức cổ xưa của người Lemuri. Trong điều kiện phải tự xoay xở, nền văn minh Atlan đã phát triển rất chậm. Con người biết sử dụng thông thạo một số dạng năng lượng vật thể như sức cơ bắp, lửa, nước... để xây cất nhà cửa, tìm kiếm thức ăn (chủ yếu ở biển), sinh sống vừa dưới nước vừa trên cạn. Trong thời kỳ đó, thỉnh thoảng Sambala và Agatchi lại thả những người Lemuri từ Quỹ gen nhân loại ra để làm nhiệm vụ tiên tri. Cõ lẽ người Atlan khi thấy người Lemuri đã tung hô: “Các Thiên tử về rồi!”. Những người Lemuri “tiên tri” chủ yếu truyền cho người Atlan tinh thần bác ái và điều thiện là những thứ sẽ giúp cho sự tiến bộ xã hội Rồi văn minh người Atlan đã có những bước tiến nhảy vọt. Họ thông thạo khoa thần giao cách cảm, tác động tâm thần lên lực hấp dẫn, nắm được sức mạnh của thần chú và các dạng năng lượng khác của thế giới vi tế. Họ có khả năng dùng ánh mắt di chuyển vật nặng khi xây dựng phố phường, tự chữa bệnh bằng nội năng, sử dụng sức mạnh của thần chú trong ngành hàng không, xây dựng các thành phố lớn, máy vimana bay lượn trên bầu trởi, dưới nước có những đồn điền tuyệt vời, những đài kỷ niệm đồ sộ (vẫn còn đến ngày nay). Tất cả những thứ đó chứng tỏ người Atlan đã có một nền văn minh hùng hậu. Thế giới sống trong những sắc màu đỏ thắm. Vào thời kỳ đó, cái thiện và tình yêu thương là quy tắc sinh hoạt cơ bản của người Atlan. Tri thức được đề cao, nhưng chưa chắc chắn, bởi người Atlan nhờ con “mắt thứ ba” tự điều chỉnh sang sóng của Không gian thông tin toàn thể, bằng thần giao cách cảm dễ dàng thu nhận kiến thức của nền văn minh Lemuri. Con em của người Atlan không cần phải học hành tại các trường thấp cũng như cao. Nhờ sự phát triển của bộ não, kiến thức đã đến với họ từ không gian thông tin toàn thể. Kiến thức của nền văn minh Lemuri được lưu trữ trong các trường xoắn của Cõi kia phong phú tới mức mà người Atlan cảm thấy không cần phải khẩn trương phát triển khoa học, họ chỉ cần sử dụng một phần hiểu biết của người Lemuri cũng đủ rồi. Có vẻ như đã sinh ra thói quen “ăn không ngồi rồi” trong tìm hiểu và nghiên cứu khoa học. Thói “ăn không ngồi rồi” của người Atlan trong khoa học đã không thể đề cao được tri thức rất cần thiết để bổ sung vào trường thông tin của Cõi kia. Việc khó nhất là có được kiến thức mới, điều này thuộc chức phận của một số người có năng lực và tiến bộ nhất. Trong khi đó, người Atlan nào cũng có thể nhận được kiến thức bằng cách tự điều chỉnh sang sóng của Không gian thông tin toàn thể. Bởi vậy, các kiến thức dần dần đã lọt vào tay những kẻ háo danh và thiển cận, đã không đứng vững trước sự cám dỗ của quyền lực. Thế là thay vì tri thức, một số người Atlan đã đề cao quyền lực. Lòng tôn sùng cái Thiện đã không đương đầu nổi với những ham muốn quyền lực tiêu cực và có thể dẫn đến những hiểm hoạ mới. Người ta cho rằng, con người đã được sắp đặt để luôn luôn được hướng tới một cái gì đó. Con người được tạo ra như một thực thể tự phát triển. Vì vậy, ý nguyện của con người cần được hướng vào đâu đó. Vào chỗ nào? Câu trả lời thật giản đơn: kiến thức và cái Thiện. Việc đề cao cái Thiện và tri thức là thứ cấu thành chủ yếu sự tiến bộ của cả nhân loại. Nếu khác đi thì sẽ là tình trạng sùng bái quyền lực và đi kèm là cái Ác và hậu quả tất yếu sẽ là sự diệt vong. Tình hình sùng bái quyền lực ở người Atlan gia tăng. Họ được chia thành những nhóm người kình địch nhau. Kiến thức của Cõi kia do tiếp nhận của người Lemuri đã bị người Atlan sử dụng để chế tạo vũ khí. Bắt đầu những cuộc chiến tranh triền miên. Các trường xoắn của Cõi kia tiếp nhận một số lượng lớn năng lượng tâm thần tiêu cực. Nhìn thấy trước sẽ có thảm hoạ toàn cầu, những người Atlan tiến bộ nhất đã bỏ vào hang động và nhập định, bổ sung Quỹ gen nhân loại. Có cảm tưởng rằng, hiện tượng nhập định có tính chất đại chúng. Vì vậy, bộ phận chủ yếu của Quỹ gen nhân loại hiện nay vẫn là từ người Atlan. Sambala và Agatchi đã không ngăn cản được thảm hoạ toàn cầu, bởi các nhà tiên tri là người Lemuri không đủ khả năng thuyết phục, còn sử dụng quân sự thì không thể. Rất có thể người Atlan chưa đủ trình độ để bổ sung Quỹ gen nhân loại ở sâu trong mặt đất vì họ chưa đạt đến khả năng phi vật chất hoá và vật chất hoá là tối cần thiết trong điều kiện như vậy. Thảm hoạ đã xảy ra cách nay khoảng 850.000 năm. Trục Trái đất thay đổi vị trí, các cực chuyển chỗ, bắt đầu trận đại hồng thuỷ. Nguyên tắc phong toả “SoHm” lại phát huy hiệu lực. Nhưng nền văn minh Atlan không tiêu vong ngay một lúc. Một bộ phận (người Atlan da vàng) dùng thiết bị bay vimana đã kịp bay thoát tới vùng cao Himalaya (Tây Tạng) và sa mạc Gobi, những nơi trước đại hồng thuỷ là Bắc cực. Họ sinh cơ lập nghiệp trên bờ và các đảo của Nội hải, rồi sống ở đó thêm vài nghìn năm nữa. Nhưng cuộc sống cô lập, dân số ít ỏi và điều chủ yếu là không có kiến thức từ Không gian thông tin toàn thể đã làm cho xã hội như vậy đi đến chỗ thoái hoá, hoá hoang và diệt vong. Thói quen “ăn không ngồi rồi” của người Atlan đã làm hại họ. Một bộ phận khác (người Atlan da đen) đã sống sót ở những vùng cao của lục địa châu Phi. Nhưng họ nhanh chóng bị thoái hoá, hoá hoang và tiêu vong cũng vì các nguyên nhân như trên. Rất có thể, những người Atlan đen đó đã góp phần vào sự hình thành lớp người da đen ngày nay. Còn một bộ phận người Atlan thứ ba nữa cũng đã thoát chết nhờ sống trên hòn đảo Platon(4) ở khu vực Đại Tây Dương. Nhóm người Atlan này tiến bộ hơn cả. Họ đã không bị thất thoát kiến thức của mình trong hoàn cảnh không thể tiếp xúc với Không gian thông tin toàn thể do nguyên tắc phong toả “SoHm”. Họ vẫn tổ chức nghiên cứu khoa học, bảo toàn được công nghệ và bắt buộc mọi người phải tu thân hoàn thiện về mặt tâm linh mà không có sự hỗ trợ trực tiếp của Cõi kia. Người Atlan trên đảo Platon đã tự khẳng định được mình trong điều kiện mới của Trái đất và sống qua một thời kỳ dài từ năm 850.000 đến năm 11.000 về trước. Trong thời kỳ đó, nước của trận Đại hồng thuỷ tràn ngập Trái đất rút dần đã để lộ ra những vùng đất mới, người chủng tộc mới (chủng tộc thứ Năm, lớp người của thời dại chúng ta) đã đến sống ở đó. Đối với người Atlan, những người mới đó bé nhỏ (cao 2-3 mét), nhưng hiếu chiến và đần độn. Người Atlan đảo Platon đã gây chiến với một số người mới này, nhưng cũng như duy trì tình hữu nghị với một số người mới khác. Ví dụ, người Atlan đảo Platon đã có liên hệ chặt chẽ với người Ai Cập cổ đại, dạy bảo họ nhiều kỹ thuật của mình và cùng họ xây nên những kim tự tháp Ai Cập. Khi di chuyển các vật cực nặng (khối đá), họ đã dùng tâm năng tác động lên lực hấp dẫn. Các kim tự tháp đã được xây dựng cách đây khoảng 75.000 - 80.000 năm. Sau khi xây xong kim tự tháp, nhiều người Atlan và cả một số đại diện người Ai Cập đã chuyển xuống dưới kim tự tháp ở. Họ nhập định và bổ sung Quỹ gen nhân loại. Nhưng rồi cách nay 11.000 năm, các nhà thiên văn người Atlan đảo Platon đã tiên đoán sao chổi Chifon sắp lao vào Trái đất. Và sao chổi này đã rơi xuống vùng Đại Tây Dương. Nơi cư trú cuối cùng của người Atlan đảo Platon đã bị chìm sâu xuống biển. Nền văn minh Atlan tiêu vong hoàn toàn kể từ đó. Giai đoạn tồn tại nền văn minh Atlan ngắn ngủi hơn nhiều so với nền văn minh Lemuri và kém xa về mặt tiến bộ. Giai đoạn người arian Không hiểu vì sao mà chúng ta quen gọi người Jecman là người Arian. Điều này không đúng. Trong tất cả các nguồn tư liệu cổ đại, người thuộc nền văn minh chúng ta đều được gọi là người Arian. Người Arian đã xuất hiện trong lòng nền văn minh Atlan có mặt gần một triệu năm về trước. Trong số người Atlan bắt đầu sinh ra những người có tầm vóc thấp hơn, không có màng giữa các ngón chân, mũi và bàn chân to bè. Những người này thích nghi với đời sống trên cạn hơn, vì thế có nhiều thuận lợi hơn so với người Atlan. Những người có ngoại hình khác thường đó năng động và có sức làm việc hơn, nhưng về mặt tâm linh và đặc biệt về khả năng tạo tác động tâm năng thì thua kém người Atlan nhiều. Tuy vậy, khả năng tâm linh của họ phát triển cao hơn đáng kể so với loài người ngày nay. Nhờ học hỏi bậc tổ tiên Atlan của mình, người Arian thông thạo một số dạng năng lượng của thế giới vi tế; họ có thể nhập định và tạo hiệu quả thần giao cách cảm cũng như điều khiển từ xa. Những người Arian đầu tiên cao khoảng 2-3 mét. Ở giai đoạn cuối của nền văn minh Atlan, khi đã xuất hiện những người Arian đầu tiên, nguyên tắc phong toả “SoHm” hết hiệu lực. Vì thế, cả người Arian và người Atlan đều có thể sử dụng kiến thức của Cõi kia. Con cháu của những người Arian đầu tiên cũng không đi học. Khả năng tiếp thu kiến thức từ Không gian thông tin toàn thể tuỳ thuộc vào sự phát triển của bộ não. “Mắt thứ ba” ở những người Arian đầu tiên phát triển, nhưng về mặt cơ năng kém hơn người Atlan. Họ có nhiều tính vật chất và phàm tục hơn người Atlan. Giai đoạn sinh tồn đầu tiên của những người Arian trùng với thời kỳ hiềm khích, chiến tranh giành quyền lực của người Atlan. Những người Arian đầu tiên đã hấp thụ đức tính sùng bái quyền lực của người Atlan, tính này được lưu giữ trong nền văn minh Arian của chúng ta cho đến tận ngày nay. Cùng với người Atlan, những người Arian đã tham gia các cuộc chiến tương tàn. Họ tỏ ra dai sức và ít đòi hỏi quyền lợi hơn người Atlan. Người Arian cũng nhận thức được sắp có thảm hoạ toàn cầu, nhưng tính sùng bái quyền lực của họ đã trội hơn. Trước khi xảy ra thảm hoạ, có nhiều người Arian đã bỏ vào hang động, nhập định và bổ sung vào Quỹ gen nhân loại. Rất có thể, những người Arian đầu tiên biết được và tôn sùng Sambala và Agatchi, sùng kính người Lemuri là “Thiên tử”. Trước khi xảy ra tai biến toàn cầu, có nhiều người Arian đã nhập định không những nhằm mục đích bổ sung Quỹ gen nhân loại, mà còn để tránh thảm họa. Phần lớn những người Arian và cả người Atlan đều đã chết trong thời gian trận Đại hồng thủy sau đó. Chỉ có số ít người sống sót trên khu vực không bị ngập lụt. Bắt đầu thời kỳ khó khăn vì nhà cửa, máy móc và công nghệ bị mất sạch. Nhưng khó khăn nhất vẫn là điều con người bị tách khỏi tri thức của Cõi kia do hiệu lực của nguyên tắc “SoHm”. Hầu hết con người bị hóa hoang và chuyển sang đời sống nguyên thủy. Trong bối cảnh đó, người Arian đã thường xuyên gây chiến với người Atlan còn lại. Người Arian tỏ ra thích nghi hơn với điều kiện sống khắc nghiệt và đẩy lùi người Atlan ở nhiều khu vực. Họ nhanh chóng dọn đến những vùng nước vừa rút để xây dựng làng xóm. Còn người Atlan vẫn sống thành từng khu biệt lập. Do ít người và những cuộc hôn nhân đồng huyết thống nên họ bị suy thoái dần. Sự tiến bộ của xã hội người Arian không kéo dài đến 100.000 năm. Lý do là sau trận Đại hồng thủy, đất đai trong một thời gian dài chỉ toàn là đá, sự cô lập và hôn nhân đồng huyết thống đã làm cho các chỉ số di truyền của người Arian ngày càng xấu đi. Có một số tư liệu cho biết rằng, vào thời gian đó Quỹ gen nhân loại đã xuất ra không ít các nhà tiên tri (ở dạng Phật), nhưng hình như sự hoạt động của họ không có kết quả. Tầm vóc của người Arian nhỏ dần, chỉ còn cao 1,5 mét và nhanh chóng trở thành các bộ lạc mọi rợ. Dường như khoảng 100.000 - 200.000 năm về trước có ba nhóm người Arian chủ yếu sinh sống ở vùng Tây Tạng, miền Nam châu Phi và Địa Trung Hải. Nhưng hai nhóm đầu hoàn toàn thoái hóa và hóa hoang, chỉ còn nhóm Địa Trung Hải từ từ đi trên con đường tiến bộ và kết quả đã hình thành nên nền văn minh Ai Cập cổ đại. Nền văn minh Ai Cập cổ đại đã phát triển cao, có lẽ kim tự tháp là công trình hợp tác của họ với người Atlan đảo Platon. Sự tiêu vong của Ai Cập cổ đại có thể là do thảm họa của sao chổi Chifon va vào Trái đất (cách đây 11.000 năm) và sự diệt vong của người Atlan đảo Platon - những người có kiến thức và kinh nghiệm mà người Ai Cập vẫn sử dụng. Cách đây 18.013 năm, ở vùng Tây Tạng và Himalaya đã xuất hiện một bậc tiên tri mới. Một số người gọi Ngài là Manu, số khác gọi Ngài là Rama, còn số khác nữa gọi Ngài là Phật Ponpo. Nhà tiên tri này có tầm vóc to lớn và ngoại hình khác thường. Có vẻ như cặp mắt của Ngài đã được vẽ trên tất cả các đền chùa Tây Tạng. Dựa vào đặc điểm của đôi mắt, nhà tiên tri đó có nhiều khả năng là người Lemuri. Khoảng thời kỳ 18.000 năm về trước, nhân loại chủ yếu là các bộ lạc man rợ và bán khai, triển vọng phát triển ngày một thu hẹp. Chỉ có nền văn minh Ai Cập là nổi bật, nhưng cũng đã có những thoái hóa nghiêm trọng. Sambala và Agatchi đã tìm hiểu trong nền văn minh Arian, cuối cùng đã quyết định để người Lemurri làm nhiệm vụ tiên tri. Và đó chính là Phật Ponpo như trên đã nói tới. Ngài bắt đầu hoạt động ở vùng Tây Tạng bằng việc tuyển chọn những cặp vợ chồng tốt nhất của người Arian, rồi cách ly họ với các bộ lạc man rợ, dạy bảo họ cách sống, giúp đỡ họ nhân giống và xếp đặt nơi cư trú trên Trái đất. Chính những người như vậy đã lan tỏa ra khắp địa cầu, lấn át các bộ lạc bán khai. Tuy có pha trộn với các bộ lạc bán khai và có hiện tượng hóa hoang ở một số khu vực, nhưng những người Arian xuất thân từ Tây Tạng đã đem lại cho nền văn minh chúng ta sự tiến bộ dần dần. Nhà tiên tri người Lemuri đã ngăn chặn được con đường thoái hóa của chủng tộc Arian. Vì vậy, Ngài sẽ còn mãi mãi trong ký ức mọi người, còn đôi mắt của Ngài tô điểm cho các đền chùa Tây Tạng có ý nghĩa như biểu tượng của sự tiến bộ. Sambala và Agatchi luôn theo sát cuộc sống của người Arian. Nguyên tắc phong tỏa “SoHm” đã làm cho người Arian tôn sùng quyền lực và không né tránh cái Ác. Nhiều cuộc chiến tranh triền miên xảy ra. Dần dần con người không còn biết đến Cõi kia là gì. Khoảng trên dưới hai ngàn năm trước đây, đã xuất hiện một nhóm các bậc tiên tri như Phật Thích Ca, Chúa Jesus, Mohammed... để dạy bảo loài người kiến thức về Cõi kia. Hoạt động của các nhà tiên tri đó có kết quả rõ ràng, các tôn giáo ra đời ngày càng nhiều: đạo Phật, Ấn Độ giáo, đạo Hồi v.v... Tinh thần tôn vinh cái Thiện và tri thức gia tăng, nhưng không thắng nổi tư tưởng đề cao quyền lực và bắt tay với cái Ác. Trong tình hình như vậy không thể có chuyện tiết lộ tri thức cổ xưa của người Lemuri cho người Arian. Nhưng rồi vào các thế kỷ 18-19 của kỷ nguyên chúng ta, ở một số vùng trên thế giới đã xuất hiện sự sùng mộ kiến thức khác lạ, chỉ nghiên cứu thế giới vật thể (các tiến bộ KHKT, học thuyết tiến hóa...), không có sự tìm hiểu kinh nghiệm thần thánh. Người Arian như thể muốn tỏ rõ vẫn có tiến bộ khoa học kỹ thuật mà không cần đến kiến thức của Cõi kia. Song, sự tôn sùng kiến thức kiểu đó đã dẫn đến tai họa. Thảm họa nhanh chóng giáng xuống nhân loại là hai cuộc chiến tranh thế giới lần thứ nhất và lần thứ hai. Tệ tôn sùng quyền lực đã làm cho sự hiện hữu các trào lưu tôn giáo trở nên nguy hiểm. Con người không nhận biết được một điều rằng: cội nguồn của mọi tín ngưỡng, tôn giáo là một. Đã đến lúc cần phải thống nhất các tôn giáo và xây dựng thành một Tín ngưỡng Duy nhất. Liệu bằng sự việc này có thể tránh được chiến tranh và thảm họa toàn cầu hay không? Chưa thể biết được! Năm 1999 là năm cuối và bắt đầu một giai đoạn mới của Phật lịch. Có nhiều nhà tiên tri đã phán rằng: thời điểm này chính là ngày tận thế. Hậu quả có khoảng 2/3 nhân loại sẽ bị hủy diệt. Họ còn cho biết thêm: sẽ xuất hiện các nhà tiên tri mới, các Ngài sẽ thống nhất các tín ngưỡng và tạo dựng Tôn giáo Thống nhất trên cơ sở cái Thiện và lòng nhân ái. Cũng sẽ xuất hiện nhiều tiên tri giả danh do lực lượng Ác phái đến. Nhân loại sẽ tiến dần đến “Kỷ nguyên của Chân lý” và được tiết lộ tri thức cổ xưa. Có hay không “Ngày tận thế?” Sẽ có Ngày tận thế hay không? Không thể có lời giải đáp đơn nhất cho câu hỏi này. Những người tiên đoán tương lai có lẽ đã dựa vào kiến thức của Không gian thông tin toàn thể mà họ có khả năng tiếp cận. Nhưng một số người cho rằng, thông tin ở trong đó về tương lai không phải là hoàn toàn xác định và bất biến, tất yếu xảy ra. Tất cả các thứ đó cũng chỉ là dự báo và kết cục cụ thể phụ thuộc phần lớn vào sự phát triển của nhân loại. Sự kiện Ngày tận thế có xảy ra hay không sẽ phụ thuộc nhiều ở chúng ta. Chúng ta cần ghi nhớ rằng, cái Thiện và tri thức sẽ thúc đẩy quá trình hiện thực hóa dự báo tích cực đối với sự phát triển của nhân loại, còn cái Ác và thói hám quyền lực có thể dẫn đến thảm họa toàn cầu trong tương lai, kể cả tận thế, hoặc tạo điều kiện phát triển yếu tố thụt lùi, dẫn đến hóa hoang. Nguyễn Hiếu (Sưu tầm và giới thiệu) (còn tiếp) ============================================= (1) Cái gì đó hay Tuyệt đối được gọi là lớp vật chất phi cấu trúc hay bình diện tâm thức trong cuốn sách “Vũ trụ và con người dưới góc độ khoa học tâm linh”. (2) Theo tiếng Nga, “dusa” có nghĩa là tâm hồn, nó ngụ ý phần cảm xúc và lý trí của con người. Trong thuyết tâm linh hiện nay, hai thứ đó được gộp làm một và được gọi là tâm trí. Còn từ “dukhơ” có nghĩa là linh hồn. Nó thường được dùng để chỉ một cái gì đó trường cửu của con người, vẫn tồn tại sau cái chết của thể xác. (3) Theo nhiều tài liệu tâm linh của Nga, năng lượng tâm thần (tâm năng) được sinh ra từ các ý nghĩ và xúc cảm của con người. (4) Đó chính là châu lục Atlan huyền thoại.
    1 like
  28. Chị Happy thân mến! Em phần nào hiểu được nổi lo lắng của chị,có lẽ vì quá suy nghĩ và lo lắng mà chị bị stress.em nghĩ chị nóng lòng muốn biết mình sinh chính xác là giờ nào để chị tiếp tục suy nghĩ về tương lai của mình vì chị bây giờ không biết làm gì sẽ đúng nhất.cuộc sống gia đình chị bắt đâu trở nên nhàm chán có lẽ vì chông chị không hiểu được chị và chị nghĩ giá như mình không phải lấy chồng sớm thì tương lai của chị sẽ dễ dàng hơn so với bây giờ.nhưng thực tế thì mọi việc đã và đang xãy ra chị nên đối mặt với nó.em nghĩ chị muốn xem lá số của mình coi có xãy ra chuyện rời xa anh chồng này hay không hay suốt đời phải sống như vậy.bởi vì anh ấy rất hiền nên chị cảm thấy mình sẽ có lỗi khi rời xa chồng mình vì thực sự chị không có nhiều niềm vui khi ở bên anh ấy.em cũng thấy là chị rất yêu thương con mình.chị có nghĩ mình là người áp đặt không?chị tự đặt ra mọi thứ cho cuộc đời của những người xung quanh chị.nhưng chị cũng thừa hiểu rằng mọi người điều có suy nghĩ của riêng mình chị hãy thử lắng nghe họ,thử đặt mình vào người khác.cha mẹ nào mà không muốn con cái học giỏi nên người nhưng đâu phải đứa con nào cũng hiểu được cha mẹ và cha mẹ cũng hiểu được con mình.đâu phải thương con là lo lắng cho con về tiền bạc cho con vào học ở một trường đại học danh tiếng(chưa biết là sức học con mình như thế nào).mà phải biết con mình muốn gì thích gì rồi động viên con phân tích cho con làm thế này sẽ như thế nào,thế kia sẽ ra sao,nhưng cũng chưa chắc làm cha mẹ mà chúng ta nói tất cả điều đúng mà phải học cách lắng nghe con mình nữa. Điều chị cần làm bây giờ là nói chuyện với chồng của mình,chị không thích anh ấy những gì,anh ấy có khắc phục được như ý chị không.2 bên hãy bày tỏ quan điểm để cùng nhau giải quyết vấn đề.chị đang bị stress vì có nhiều ràng buộc nhưng cuộc sống là như vậy.chị mạnh mẽ lên để giải quyết những vấn đề của mình.và cách giải quyết của chị sẽ ảnh hưởng lớn đến cuộc đời của chị.hãy thật bình tỉnh và sáng suốt. Thân mến!
    1 like
  29. Bạn phải đưa sơ đồ nhà lên đây thì mới tư vấn được chứ?
    1 like
  30. Chị nghĩ thế thì cũng không ổn lắm ( theo ý kiến chủ quan của em :D ). Lúc chị 45t, con chị đã lớn, người thân hơn so với các cháu vì các cháu không tiếp xúc nhiều với chị, mà thế hệ sau chưa biết thế nào, có khi giống cách sống Tây. Sống một thời gian với bố mẹ, đến lúc chị già lại cô quạnh à, 2 ông bà phải ở viện dưỡng lão ở Nhật để thỉnh thoảng con vào chăm chứ. Cháu làm sao gần gũi và chăm cô dc.
    1 like
  31. Bài này hay hen. Thích nhất câu "Giá được một chén say mà ngủ suốt triệu năm"
    1 like
  32. Bác haithienha là người đương thời. Em đang lấy bác haithienha làm chuẩn để "phán xét" ( thực ra là sự nhận định chủ quan ) là chị học và xem tử vi chưa nhiều ( so với bác haithienha ). Qua sự theo dõi em thấy bác còn xem được chông (vợ ) là người nước ngoài nữa cơ, rồi người nước ngoài gốc Việt hay là khác hẳn chủng tộc nữa mà. Em lau chau góp ý thế thui, có gì chị bỏ qua cho em.hihi Ps: Những người có tư chất như chị không nhiều đâu. Em là em thua hẳn. Em biết được cái giải quốc gia nó thế nào rồi, những người đạt giải cũng kinh lắm. hehe. Hồi phổ thông em dc cao nhất là giải 2 tỉnh, mà đi học sơ tuyển với chúng nó thấy khoảng cách còn xa lắm, chất xám nó khác nhau lắm. hihi. Cuộc sống chị còn khá lắm, hơn nhiều người, cứ cố gắng hết sức thôi. Thân mến!
    1 like
  33. ko phải "đanh đá" cũng chẳng phải "đanh phép" mà là "Đanh hợp kim có gắn Kim cương"
    1 like
  34. Theo em chị học và xem lá số tử vi chưa nhiều vì thế nên đọc kỹ và chiêm nghiệm lời bác haithienha đã ( chưa chắc những gì chị nói về giờ hợi đã đúng, bác đã chỉ ra giờ tuất mới có hiện tượng lấy chồng xa và khác chủng tộc ). Bác haithienha ngoài học từ sách bác còn có được kinh nghiệm thực tế rất nhiều, có khi nhiều cái là bí quyết của bác chứ chưa chắc sách nào đã có.Thân mến!
    1 like
  35. Theo tôi lá số giờ Tuất đúng hơn là lá số giờ Hợi ,vì cung phu có điếu khách và song hao thì đúng là lấy chồng phương xa và là chồng là người nước ngoài khác chũng tộc .Dưới đây để xác định thêm với giờ nào thì đúng.Giờ Tuất / người từ trung bình đến thấp ,nước da hơi tối ,mắt cận mặt nhỏ và dài ,chân mày cong đẹp ,trong mình có nhiều nốt ruồi đen bên cạnh trái khóe miệng có nốt ruồi ở phía tai trái ,người tánh tình cẩn thận làm việc gì hay suy nghĩ quá đắn đo và quá chi tiết cho nên nhiều khi đam ra thất bại hay đi không đúng kế hoạch hay sự mong mõi . Giờ Hợi / dạng người từ trung bình đến thấp ,nước da ngâm đen dòn cháy ,mắt to lộ ,chân mày đậm mà ngắn ,tiếng nói to ,trên mặt có nhiều vết nếu không thì da sần sùi rất xấu ,tánh tình háo thắng ,ăn nói sất sược đại ngôn ,xảo ngữ ./ Nếu là giờ Tuất năm tới có những chuyện xảy ra không may cho ông chồng ,nữ mệnh có đà la thủ là cách ám lệ trường lưu ,tuổi Hợi ,rất kỵ kình- đà nhập hạn ,năm Mão hạn nhập lại cung mệnh có Đà La và giải thần ...
    1 like
  36. Anh này lại lạm dụng Đà-Xương-Khúc nhé :D
    1 like
  37. Mặc dù Happy tự đóng topic, nhưng Giaback hôm nay mới đọc và thấy nhiều điều thú vị với cách đặc biệt của lá số này, cũng hy vọng bác Haithienha có lời luận đoán để ACE diễn đàn học hỏi thêm. Với cá nhân Giaback, có lẽ lá số giờ Tuất có nhiều điểm trùng hợp, hơn nữa lời ăn tiếng nói và cách lập luận của đương số vô cùng thông minh và sắc sảo, phải chăng là Cự Môn Hóa quyền tại Thân? Lại thêm Thiên Cơ tại Mệnh phản ứng mau lẹ, nóng nẩy, lúc hành động dễ nóng vội, dù kế hoặc thấu đáo mà tự mình làm không thành. Nhưng dù thế nào đi nữa, Cự Quyền mà đã phát ngôn thì khó mà chống đỡ :D Hy vọng bác Haithienha có lời bình giúp bạn
    1 like
  38. Nguyên tắc xây nhà là nếu ko được tuổi thì " mượn tuổi " . Nhưng " đã mượn " thì phải cho ra mượn . Nên tìm 1 người nào đó thành đạt và cung số năm đó hợp làm nhà thì mang xôi , thịt đến mà nhờ vả . Hướng nhà người mệnh Chấn thì cửa mở là hướng Nam là Ly Hỏa là vượng nhất . Nhưng cũng phải tìm hiểu xem chỗ đó có thoáng ko , đón gió ra sao vv... ( vì ngay cái nghĩa Phong Thủy là ta cũng đã hiểu là gió và nước rồi ) . Nếu ko gian chưa hợp lý thì chọn những thứ tốt nhì như Thiên Y hay Diên Niên cũng ko sao .
    1 like
  39. Vậy là vào cung đó nghĩa là tuần triệt rất mạnh phải không bác Quynh Nguyen,nghĩa là vào đó là xấu nhất nhỉ . Vậy không biết cung nào tuần triệt yếu nhất nhỉ . Ôi tuần triệt lá số mình nó đều đắc địa . Mình khổ rồi :D . Ai cứu với T_T!
    1 like
  40. Nhưng theo tôi được biết thì Tuần đắc địa phải cư mộc. Nên có câu :"Tuần cư mộc vị Triệt đáo kim cung" đây là vị trí đắc địa của 2 sao này. Và cũng theo sự hiểu hạn hẹp của QN thì Tuần và Triệt thường chỉ làm cho tốt thành xấu. Còn việc xấu thành tốt thì cũng chưa hẳn như thế (ngoại trừ bộ âm dương) còn đi với các sát tinh khác chỉ tăng thêm tác hại chứ không làm giảm bớt được
    1 like