-
Thông báo
-
Nội quy Lý Học Plaza
Nội quy này là bản mở rộng Nội Quy - Quy định của Diễn đàn. Khi tham gia mua bán, các thành viên phải tuân theo những quy định sau: Tiêu đề bài viết: Bao gồm: Chỉ dẫn địa lý, Loại hình Mua/Bán, Thông tin mua bán.
Chỉ dẫn địa lý: Tỉnh/thành nơi mua bán. Hoặc sử dụng định nghĩa có sẵn:TQ: Toàn quốc
HCM: TP Hồ Chí Minh
HN: Hà Nội
[*]Ví dụ: HCM - Bán Vòng tay Hổ Phách Nội dung bài viết: Mô tả chi tiết sản phẩm mua/bán
Bắt buộc phải có thông tin liên lạc, giá Mua/Bán
Bài mới đăng chỉ được phép up sau 03 ngày.
Thời gian up bài cho phép: 01 ngày 01 lần.
Các hành vi vi phạm nội quy này sẽ bị xóa bài hoặc khóa tài khoản mà không cần báo trước.
-
Leaderboard
Popular Content
Showing most liked content on 22/12/2010 in all areas
-
Giải Mã Trò Chơi Lò Cò Xủn
ducnhan and 5 others liked a post in a topic by Thiên Đồng
Giải mã trò chơi dân gian: TÍNH MINH TRIẾT TRONG TRÒ CHƠI LÒ CÒ XỦN Thiên Đồng – Bùi Anh Tuấn Trung tâm nghiên cứu Lý học Đông Phương Một trò chơi của trẻ em rất phổ biến trong dân gian Việt có thể đang ẩn giấu phía sau nó những mật mã có thể làm sáng tỏ hơn cho một lý thuyết học thuật cổ Đông phương đầy tính minh triết thuộc nền Văn hiến Lạc Việt gần 5000 năm huyền vĩ bên bờ nam sông Dương Tử. LỜI GIỚI THIỆU Kính thưa quí vị quan tâm. Có thể nói đây là một bài viết với những ý tương xuất sắc của tác giả Thiên Đồng Bùi Anh Tuấn - một thành viên nghiên cứu của Trung Tâm nghiên cứu Lý học Đông phương. Qua bài viết này, chúng ta thấy một sự liên hệ chặt chẽ giữa một trò chơi của trẻ em Việt Nam với những nguyên lý căn bản của thuyết Âm Dương Ngũ hành và mối liên hệ với những gía trị văn hóa phi vật thể truyền thống khác còn lưu truyền trong văn hóa dân gian Việt; như: Bánh chưng bánh dầy, ô ăn quan...vv.... Từ những sản phẩm của trí tuệ thể hiện qua những hình thức trò chơi dân gian tưởng chừng như đơn giản ấy, chúng ta lại nhận thức được mối liên kết hữu cơ rất chặt chẽ của những di sản văn hiến phi vật thể Việt với một lý thuyết đồ sộ và bí ẩn, làm tốn biết bao giấy mực của các nhà nghiên cứu quốc tế từ hàng thiên niên kỷ. Điều này càng thấy rõ một chân lý khách quan minh chứng cho Việt sử trải gần 5000 năm văn hiến, một thời huyền vĩ ở bờ nam sông Dương tử và là chủ nhân đích thực của nền Lý học Đông phương. Thiên Sứ - Nguyễn Vũ Tuấn Anh. Giám đốc trung tâm nghiên cứu Lý Học Đông phương I. SƠ LƯỢC VỀ TRÒ CHƠI1. Trò lò cò xủn ở Nam Bộ Việt Nam. Dưới đây là đồ hình trong trò chơi Lò cò xủn phổ biến ở Nam bộ Việt Nam. Độc giả xem hình dưới đây: Khi chơi, trẻ em thường vẽ đồ hình trên dưới đất bằng que vạch, hoặc phấn trắng trên nền gạch. Đồ hình gồm 10 ô từ 1 đến 10, gọi là 10 mức. Một ô với hình bán nguyệt trên cùng gọi là ô Trời hay mức Trời. Ba đường thẳng có chia đuôi gọi là đuôi chuột, nhằm phân ranh giới trái phải của vị trí khởi hành và kết thúc. Điều kiện chơi: * Vẽ hình trên mặt đất như hình trên * Ô 1, 2, 3, 4 và 7, 8, 9, 10 buộc phải lò cò (Di chuyển bằng một chân, chân kia co lên). * Ô 5 và 6 thì được phép bẹp 2 chân. * Đối tượng chơi: không phân biệt nam nữ, ấu lão, có thể lực có thể tham gia. * Hình thức: thi đấu tay đôi hay nhóm đối kháng. * Vật dụng: gọi là “chàm” thường là một viên đá, gổ hay những vật tương tự có bề mặt tròn dẹt, phải dùng chân đứng để di chuyển trong lúc chơi. Cách chơi Người chơi đến lượt mình vào vị trí khởi hành, thảy chàm bắt đầu từ ô số 1 và nhảy vào ô số 1 với một chân co một chân duỗi, dùng một chân di chuyển viên chàm từ ô số 1 lần lượt sang ô số 2, cứ thế thuận tự cho đến hết 10 ô. Đi đến ô nào bị phạm lỗi theo quy định thì phải ngừng chơi đến lượt người khác. Khi đến lượt mình thì bắt đầu từ ô đã đi được trong lần trước. Khi đi hết các ô từ 1 đến 10 thì người chơi thảy chàm sao cho vào ô Trời rồi di chuyển bằng cách nhảy chàng hảng hai chân từ ô 1-10, 2-9, 3-8, 4-7, 5-6, rồi quay ngược lại dừng lại ở ô 5-6, vẫn ở vị trí chàng hảng, nhưng ngồi xổm xuống thấp, lòn tay qua dưới 2 chân mò tìm chàm cho được mới thôi. Xong, người chơi di chuyển bằng cách như lúc đầu về vị trí khởi hành. Ở vị trí khởi hành, người chơi lại tiếp tục đi những thử thách tiếp theo, gọi là mụt ghẻ ở tay, ở chân, ở đầu và gánh nước bằng cách để viên chàm ở mu bàn tay, mu bàn chân, vai, đầu rồi di chuyển qua từng ô từ 1 đến 10, mà không lò cò sao cho chàm không rơi. Hết một vòng khi trở về vị trí khởi hành, người chơi tung viên chàm lên không rồi đưa tay bắt lấy, nếu rớt chàm thì dừng chơi, chờ lượt đi lại. Hết những thử thách, người chơi được quyền “cất nhà”, bằng cách đứng dạng hai chân ở vị trí khởi hành và vị trí dừng, quay lưng lại với vị trí đồ hình rồi tung chàm ngược ra sau. Chàm được phép rơi vào một trong 10 ô, không cán mức, không văng ra ngoài đồ hình thì coi như thành công. Chàm ở ô nào thì ô đó gọi là “nhà” và người chơi đi đến đó thì có quyền đứng 2 chân, không được co chân. Nếu lỡ co chân là “cháy nhà”, ô đó trở lại ô bình thường như ban đầu. Những người chơi khác, hoặc không cùng phe, không được quyền đứng hai chân ở nhà người khác, hoặc phe khác. Cất nhà xong, người chơi trở lại mức khởi điểm là mức 1 và tiếp tục một chu trình mới. Cuộc chơi ngừng khi các ô trở thành nhà của mình hoặc của đối thủ. Những ô đã trở thành nhà thì không phải thảy chàm vào ô đó. Ai hoặc phe nào nhiều nhà nhất được coi là thắng cuộc. Điều kiện ngừng chơi: * Trong khi di chuyển chàm, nếu chàm phạm vạch thì phải ngừng chơi và đến lượt người khác. * Chân đạp ranh giới giữa các ô hay chàm dừng ở ranh giới giữa các ô hay văng ra khỏi đồ hình. Tuy nhiên chàm văng vào giữa hai đôi chuột thì không bị phạm điều kiên này. * Lò cò vào ô 5 hay 6 thì người đi bị dừng chơi. * Bẹp 2 chân vào mức 1,2,3,4,7,8,9,10. * Cuộc chơi ngừng khi cả hai bên đồng ý ngừng Hình minh họa - Trẻ em chơi Lò cò xủn. 1. Trò lò cò xủn ở Bắc Bộ Việt Nam. Sự khác nhau giữa hình trò chơi ở miền Bắc với miền Nam - ở trên - là chỗ nơi ô Trời có hình tam giác, vẽ lớn hay nhỏ tùy theo người chơi. Do vậy nội dung quy định và cách thức chơi đại để giống như ở miền Nam, nhưng có cái khác cách chơi ở miền Nam một chút. Cụ thể, khi đi đến mức 5 thì người chơi xủn cho viên chàm vào “ô Trời” đồng thời cũng nhảy lò cò vào ô đấy. Có 2 trường hợp xẩy ra: Nếu chàm ở ngoài phạm vi ô tam giác thì người chơi chỉ được xủn một lần sao cho sang ô 6 mà không di dịch chàm nhiều lần trong “ô Trời”. Nếu chàm rơi vô đúng hình tam giác thì ngưới chơi phải xủn chàm ra khỏi khu vực tam giác rồi được phép xủn tiếp sang ô 6. Nhưng nếu chàm sau khi xủn ra mà vẫn còn vướng lại trong tam giác hay vướng ở biên của tam giác đó thì phạm quy, gọi là “Xê xích thủ”, buộc người chơi phải đi lại từ ô 01 đầu tiên. Trò chơi chỉ đơn giản như vậy nhưng mang đầy tính chất thể thao, nghệ thuật và trí tuệ. Bởi khi người tham gia cuộc chơi cần phải có một thể lực ổn định, một tinh thần nhạy bén giúp cho sự vận động và quan sát để thực hiện cách chơi. Đồng thời cần phải có sự khéo léo trong những động tác, hành động di chuyển để thắng cuộc. Vì vậy có thể nói trò chơi dân gian Việt, ngoài việc mang ý nghĩa lợi ích về tinh thần và thể lực cho người chơi thì nó lại chính là một loại hình văn hóa mang đậm nét trí tuệ sâu sắc của dân tộc Việt. Tuy nhiên, nếu nó chỉ dừng lại ở tác dụng của một trò chơi thì nó không phản ánh được một tư duy cao cấp hơn của một dân tộc có một nền văn hiến rực rỡ, văn hiến Việt 5000 năm. Bởi nội dung của trò trơi đó lại chuyển tải những mật mã, những thông điệp bí ẩn về một tri thức cao cấp của nền văn hiến ấy. II. GIẢI MÃ NHỮNG BÍ ẨN TRONG TRÒ CHƠI Từ những tác phẩm “Thời Hùng Vương qua truyền thuyết và huyền thoại”, “Định mệnh có thật hay không?”, “Hà đồ trong văn minh Lạc Việt”, “Tính minh triết trong tranh dân gian Việt nam”…của nhà nghiên cứu Nguyễn Vũ Tuấn Anh, lấy cảm hứng từ những sự hiệu chỉnh về nguyên lý lý thuyết học thuật cổ Đông phương hay sự giải mã của Ông về những bí ẩn trên linh vật bánh Dầy – bánh Chưng, những câu ca dao hay những trò chơi dân gian “chơi ô ăn quan”…người viết tiếp nối nguồn cảm hứng ấy hay ít ra là sự học tập từ một người Thầy, thử khám phá thêm những bí ẩn đằng sau những trò chơi dân gian, cụ thể là trò “Lò cò xủn” nhằm làm phong phú hơn cho sự nhận thức về một hệ thống lý thuyết thuộc nền văn minh Lạc Việt. 1. Bánh Chưng, Bánh Dầy - Linh vật của nền văn hiến Việt. Nếu câu chuyện bánh chưng bánh dầy lưu truyền trong tâm thức người dân Việt từ ngàn xưa như một mặc khải cho một hình tượng thiêng liêng của nền văn hiến Việt, dân tộc duy nhất trên thế giới dùng thực phẩm làm biểu tượng chuyển tải một giá trị minh triết đông phương, một tri thức về vũ trụ quan sâu sắc thì trò chơi dân gian, cụ thể là trò chơi lò cò xủn, là một phương thức khác âm thầm truyền lưu những tri thức ấy và như là một “dấu ấn” minh chứng cho chủ nhân của nền văn minh này. Từ bao đời nay, trong những ngày xuân mới, Tết đến, người dân Việt, con cháu Rồng Tiên với cả lòng thành kính dân lên tổ tiên Lạc Hồng đôi bánh Chưng – bánh Dầy, biểu hiện cho tâm thức người Việt. Một chi tiết tinh tế cũng như là một nghi thức chuẩn xác rằng khi đặt đôi linh tượng bánh Chưng – bánh Dầy lên bàn thờ tổ tiên Lạc Hồng thì luôn luôn chiếc bánh Dầy được đặt chồng lên trên chiếc bánh Chưng. Cũng theo cách giải thích của người xưa cho hậu nhân rằng Trời ở bên trên, đất ở bên dưới, bánh Dầy để trên bánh Chưng là ý đó. Một chiếc bánh bằng nếp giã trắng tinh hình tròn với vòng cung vồng lên hình bán nguyệt biểu thị cho Trời trên, một bánh Chưng hình khối vuông gói bởi lá xanh biểu thị cho Đất dưới;Lạ lùng thay được tái hiện lại một cách thông minh tuyệt vời bằng đồ hình của trò Lò cò xủn, truyền lại cho hậu thế bằng một loại hình trò chơi dân dã, chứa đựng tài tình nội dung một nguyên lý của thuyết Âm Dương Ngũ hành. Một ô hình cung bán nguyệt bên trên một ô lớn hình vuông chứa 10 ô nhỏ là một cách tái hiện rất giản đơn, nhưng tinh tế và rất cũng vô cùng bí ẩn hình tượng của bánh Dầy để trên bánh Chưng. Hay nói chính xác hơn là một đôi phạm trù Âm Dương. Trong trí nhớ của những trẻ nhỏ chơi trò Lò cò xủn, trong đó có cả người viết, ô hình cung bán nguyệt, theo quy định của trò chơi, được gọi là “ô Trời” hay “mức Trời” và 3 đường tua rua gọi là “đuôi chuột”, chính sự quy định này như là một mật ngữ, như là một chìa khóa để cho người viết khám phá ẩn ý đằng sau trò chơi. 2. Ẩn Ngữ “Dương trước Âm sau”: Vòng cung bên trên, theo một sự hiển nhiên, được đám trẻ nít của bao đời gọi là “ô Trời”, 3 tua rua cuối gọi là “đuôi chuột”. Hai chi tiết nhỏ nhưng qúy báu. Ô vòng cung được gọi là Trời đối lập với cái khác nó là hình vuông hay hình chữ nhật, tùy theo cách vẽ của người chơi, lẽ dĩ nhiên sẽ gọi là Đất theo sự giải mã. Chi tiết còn lại là 3 tua rua “đuôi chuột”. Chi Tý tức là chuột, con giáp đứng đầu trong 12 con giáp, gọi là Địa Chi thì ngay trong trò chời Lò cò xủn được nhắc đến, được dùng làm ranh giới cho mốc khởi đầu và kết thúc lượt chơi. Nhưng chi tiết này chỉ nêu một phần của chuột. Đó là “đuôi chuột”, tức cái phía sau của chuột. Như vậy cái đối lập với Trời, là ô vuông, được gắn kết một chi tiết phụ là “đuôi”, nghĩa là muốn nói cái có “sau”, là Đất, đối đãi với cái có trước là Trời. Cặp phạm trù Trời – Đất được mã hóa bằng đồ hình của trò chơi, cũng chính là một cách vẽ giản lược của hình ảnh bánh Dầy trên bánh Chưng, rõ ràng đây là hình tượng ám chỉ ý “Dương trước Âm sau”. Tuy nhiên, điều này vẫn chưa đủ đầy, khi đằng sau nó còn mang một nội dung sâu sắc hơn… 3. Ẩn ý “ Dương tịnh Âm động” và “ Mẹ tròn Con vuông” Khi vạch xong 10 ô, trẻ nhỏ hay người chơi không quên đánh số thứ tự vào từ 1 đến 10. Đây lại là một bí ẩn…lộ rõ từ hàng ngàn năm trước, nhưng chưa bao giờ được giải nghĩa cũng từ bao lâu...Thuận tự của các số được đánh số từ dưới đi lên, từ trái sang phải, từ trên xuống dưới, hết một vòng theo đúng chiều thuận, chiều kim đồng hồ…. cho thấy rằng 10 con số trùng hợp với 10 Thiên Can. Khi người viết mạo muội cho áp theo thứ tự của 10 Can theo thứ tự 10 số thì chiều tương sinh của ngũ hành hiển thị chiều vận động của của Thiên Hà trong vũ trụ được diễn giải cô động trên nguyên lý căn để là Hà Đồ. Từ sự giải mã của phần trên, cho rằng đồ hình trò chơi Lò cò xủn là đồ hình giản lược của hình tượng bánh Dầy trên bánh Chưng, linh tượng của văn hiến Việt, biểu thị cho sự lý giải về thể bản nguyên vũ trụ - tức bánh Dầy- và một trạng thái đối đãi có sau nó – tức bánh Chưng- thì ngay trong trò chơi, tính trạng của hai thể đối đãi này được diễn tả trực thị qua quy định và hoạt động của trò chơi. Trước tiên, xin khảo qua một đoạn trong tác phẩm “Thời Hùng Vương qua truyền thuyết và huyền thoại’, trang 40, của nhà nghiên cứu Nguyễn Vũ Tuấn Anh: Quy định của trò chơi, người chơi chỉ “đi”, tức mọi hoạt động di chuyển và diễn biến của trò chơi, chỉ diễn ra trong phạm vi hình vuông, 10 ô số, và chiều di chuyển của người chơi là chiều thuận của chiều kim đồng hồ cũng chính là chiều tương sinh của âm dương ngũ hành. Một cách trực kiến, ô hình vuông được diễn tả ý nghĩa “động” qua những hoạt động của người chơi, theo chiều biểu kiến của người “đi” nước lò cò, là chiều biểu kiến sự vận động tương tác thuận của ngũ hành được thể hiện trên Hà Đồ. Nói một cách khác, phần ô vuông trên đồ hình của trò chơi là diễn tả bằng một hình thức khác đồ hình của Hà Đồ, tức diễn tả trạng thái sau khởi nguyên của vũ trụ là Âm Động đối đãi có sau so với Dương tịnh có trước. Ý nghĩa Dương tịnh, tức Thái Cực chí tịnh là bản nguyên của vũ trụ khi chưa có cái đối đãi, được giản đơn bằng một ô bán nguyệt cung tròn viên mãn, gọi là “mức Trời”, mà nơi đó người chơi không được phép “đi”, tức ô Trời được để trống không, yên tịnh, nhằm diễn tả nghĩa Tịnh của cái Dương, cái Thái Cực. Ẩn ý “Dương tịnh Âm động”, Mẹ tròn con vuông” được mã hóa một cách khéo léo, bí ẩn và giản đơn thông qua mô hình giản lược, một trò chơi của trẻ nhỏ lột tả hết nội dung của một nguyên lý lý thuyết học thuật cổ Đông phương và dường như trong trò chơi còn diễn giải những ẩn ý về sự nhận thức vũ trụ. 4. Ẩn Ý Về Sự Nhận Thức Vũ Trụ: “Tính Thấy Trong Minh Triết Cổ Đông Phương”. Trong cách thức chơi, có một quy định về một “nước đi” như sau: “Khi đi hết các mức từ 1 đến 10 thì người chơi thảy chàm sao cho vào ô Trời rồi di chuyển bằng cách nhảy chàng hảng hai chân từ ô 1-10, 2-9, 3-8, 4-7, 5-6, rồi quay ngược lại dừng lại ở ô 5-6, vẫn ở vị trí chàng hảng nhưng ngồi xổm xuống thấp, lòn tay qua dưới 2 chân mò tìm chàm cho được mới thôi. Xong, người chơi di chuyển bằng cách như lúc đầu về vị trí khởi hành.”. Hoạt động của trò chơi chủ yếu diễn ra trên ô vuông lớn chứa 10 ô theo quy định, riêng ô Trời không được đi vào đó, nhưng khi đi hết 10 ô thường thì được phép thảy chàm vào “ô Trời”, muốn lấy chàm thì phải nhảy cóc bằng 2 chân trong 2 ô, rồi dùng sự phán đoán mà nhặt chàm. Từ những sự giải mã trên, “ô Trời” là mật thư cho hình tượng bánh Dầy, là ý niệm về cái Dương, là Thái Cực, đó là trạng thái về bản nguyên của vũ trụ. Có thể tổ tiên Lạc Hồng với nền văn hiến Lạc Việt gần 5000 năm, kể từ năm Nhâm Tuất 2879 trc CN, muốn chuyển tải một ẩn ngữ rằng “Sự nhận thức về một thực tại khởi nguyên của vũ trụ không thể thông qua sự logich lý trí, suy luận của cái đầu mà phải nhận thức thực tại ấy bằng một tư duy trù tượng cao cấp ngay từ bản nguyên và gốc rể của nó” Chi tiết trong trò chơi cho thấy rõ, người chơi không nhìn trực tiếp để nhặt chàm. Nếu quay lưng lại, không nhìn ra sau,thì phải lòn tay qua hai chân mà không lòn tay ra sau lưng, do vậy phài cần đến sự phán đoán của tư duy trừu tượng - đây chính là sự nhận thức sự khởi nguyên của vũ trụ tại giây /0/tuyệt đối. Cũng tương tự như sự khởi sinh của một con người thoát ra từ bụng mẹ thì hành động lòn tay qua hai chân dưới và ngang bộ phận sinh dục, bộ phận khởi sinh những “tiểu vũ trụ” là con người, thì đó lại là một ẩn ngữ cho biết rằng có một lý thuyết toàn diện giải thích thực tại từ sự khởi nguyên của vũ trụ và muốn nhận thức thực tại ấy thì không gì khác hơn rằng phải dùng tư duy trù tượng nhận thức lại từ căn để thực tại ấy, đó gọi là tính “Thấy” hay gọi là Tính “Biết” được diễn từ hằng ngàn năm trong Lý học Đông phương. Hành động người chơi phải nhảy cóc hai chân trên hai ô, hai hành Âm Dương có thể là một ẩn ngữ cho biết rằng muốn tiến tới một nhận thức tuyệt đối là bản nguyên vũ trụ, tính “Thấy” hay tính “Biết” phải vượt qua tâm lý nhị nguyên, phải đạt được trạng thái của sự cân bằng âm dương thì mới có thể tiệm cận đến trạng thái tuyệt đối ấy. Hình minh họa - Lòn tay ra sau lưng tìm chàm 5. Tịnh - Động là tương đối sau khởi nguyên Vũ Trụ Ở cách chơi phổ biến vùng Nam Bộ Việt Nam, trò chơi diễn tả rõ bản chất của Dương tịnh và Âm Đông qua những biển hiện cụ thể của trò chơi. Nhưng trờ chơi lò cò xủn ở vùng Bắc bộ Việt Nam thì có chút khác biệt về hình thức thể hiện đồ hình, chính sự khác biệt này lại diễn tả một ý khác của Lý học đông phương: “Tịnh động là tương đối sau sự khởi nguyên của vũ trụ”. So với cách chơi và đồ hình trò chơi vùng Nam bộ thì cách chơi vùng Bắc bộ người chơi được phép lò cò vào “Ô Trời”, nhưng không được phép dịch chuyển chàm nhiều lần trong ô này, khác với ô 1 đến 10 được phép dịch chuyển nhiều lần có thể. Như vậy nhìn chung, cả đồ hình, mọi chổ đều thể hiện tính chất “động”, tuy vậy tiền nhân đã ý nhị sắp sẵn sự quy định sự di chuyển ở “ô Trời” bị hạn chế hơn 10 ô còn lại, chi tiết này thật tinh tế. Người viết cho rằng đó là sự diễn tả ý nghĩa “Tịnh động tương đối”. Xin khảo qua một đoạn trong “Thời Hùng Vương và bí ẩn Lục thập hoa giáp”, tg Nguyễn Vũ Tuấn Anh, trang 33: Có thể hiểu, mặt trời tỏa sáng và tịnh so với Trái đất, nhưng ngay trong bản thân mặt trời, các hiện tượng sôi sục, cháy bỏng, bão mặt trời vẫn diễn ra quyết liệt ngay trong nội tại. Sự nhìn nhận cái “Động Tịnh” phải được xem xét trong cái toàn thể và trong mối tương quan đối đãi thì mới thấy được tính chân lý của vấn đề. Hay nói cách khác là sự phân biệt Động Tịnh mang tính đối đãi so sánh và tùy từng hệ quy chiếu. 6. Tri thức nhân loại tiến tới sự nhận thức Bản nguyên Vũ Trụ Trong đồ hình trò chơi vùng Bắc bộ, phần ô Trời được vẽ thêm hình tam giác và khi người chơi không dịch chuyển được chàm ra khỏi tam giác này bằng một lần đẩy duy nhất thì bị phạm quy, gọi là “xê xích thủ”. Yếu tố bí ẩn lại được tăng thêm khi xuất hiện chi tiết này. Các cụ ngày xưa đều biết, khi vẽ hình tượng tam giác là một hình tượng mang ý nghĩa thô tục xấu xa. Một hình tam giác được vẽ trên vách tường nhà, kế bên là câu chửi. Tranh cổ của Hăng-ri -Óc ghe đầu thế kỷ XX. Một hình tam giác được vẽ ở vách một ngôi nhà để “chửi” hay có ý nghĩa mĩa mai một ai đó như ngày nay người ta vẫn vẽ trên tường những câu thô tục vẫn thường thấy. Bởi hình tượng tam giác trong hiện tượng văn hóa dân gian của người Việt thể hiện cho sinh thực khí nữ, hay nói đúng hơn là bộ phận khởi sinh cho những “tiểu vũ trụ” con người. Hình vòng cung bán nguyệt “ô Trời” như một cái bụng bầu của người phụ nữ, điểm xuyết thêm một tam giác và như vậy hình ảnh phồn thực khi phụ nữ lâm bồn, chuyển dạ được cách điệu tinh tế thông qua khả năng trừu tượng của người quan sát. Một chi tiết thật bất ngờ và bí ẩn, ngay cả khi người viết nhận ra hình tượng này, thán phục trước sự tinh tế của tiền nhân Lạc Việt. Từ sự quán xét hình tượng trên, có thể đây hiểu rằng đây là một hình tượng cô động diễn tả nội dung của của Nguyên lý học thuật cổ đông phương về sự khởi nguyên của vũ trụ, cái bản nguyên duy nhất và trước nhất mà mật ngữ dân gian Việt thường gọi “Mẹ tròn”, nay sự điểm xuyết của hình tượng tam giác nâng lên hay khẳng định “tính mẹ” của khái niệm, nghĩa là vũ trụ được khởi sinh từ một thể bản nguyên viên mãn, như một đứa con sinh ra từ bụng người mẹ. Cũng giống như hành động lòn tay qua hai chân của người chơi trong cách chơi thứ nhất, ý nghĩa của hình cung tròn và tam giác muốn chuyển tải một ẩn ngữ diễn đạt về sự nhận thức một thực tại vũ trụ phải thông qua một tư duy trừu tượng mới có thể nhận thức được thực tại đó cho mọi sự khởi nguyên. Hình tam giác trên chóp Kim tự tháp trên tờ đô la. Mặt khác, hình tượng tam giác được nhìn thấy ở nhiều dân tộc trên thế giới như các Kim tự tháp Ai Cập, Hy Lạp, Kim tự tháp InCa, Maya, như chóp tam giác có hình con mắt trên tờ dollar…là biểu tượng sự thông minh, sự huyền bí hay những tri thức chưa được biết đến. Bằng một óc tưởng tượng giản đơn: một hình ảnh của kim tự tháp nào đó hiện ra dưới vòm trời bao la được giản lược qua đồ hình của trò lò cò. Sự trùng lặp đôi khi có hay không có nguyên do, nhưng nếu chỉ gói gọn trong trò chơi dân gian Việt, trong phạm vi giải mã của trò chơi thì tam giác và cung tròn cũng đủ tạo nên một hình tượng “con mắt huyền bí” chứa đựng những ẩn ngữ cho một lý thuyết Âm Dương Ngũ Hành, lý thuyết học thuật cổ đông phương, lý thuyết thống nhất vũ trụ. Do vậy một mật mã cuối cùng của trò chơi được giải nghĩa rằng: “Phải nhận thức bản nguyên của vũ trụ là cái toàn thể, cái duy nhất một, cái mang tính Mẹ với sự viên mãn, chí tịnh khởi sinh vạn hữu và “cái đó” được khái niệm gọi rằng tính Thấy hay tính Biết được diễn giải trong nguyên lý học thuật cổ đông phương từ bao đời nay.” Hình trẻ em Việt Nam chơi lò cò xủm III. LỜI KẾTSự giải mã không nhằm làm bằng chứng chứng minh mà nhằm khám phá những bí ẩn đằng sau những dấu ấn văn hóa vật thể hay phi vật thể còn phổ biến hay âm thầm tồn tại trong xã hội người Việt hằng ngàn năm. Những thăng trầm của lịch sử tương tự như sự thăng trầm tồn tại của một học thuyết cổ Đông phương đã làm cho lý thuyết ấy bị thất truyền thì những giá trị được che giấu hay ít ra là trùng lấp ẩn sau những văn hóa vật thể hay phi vật thể như ca dao, hò vè, tục ngữ, dân ca, hình tượng, biểu tượng hay những trò chơi dân gian…sẽ làm định hướng cho việc làm hoàn chỉnh hay nhận thức đúng đắn một lý thuyết cổ đông phương mà nhà nghiên cứu Nguyễn Vũ Tuấn Anh từng khẳng định đó là một “Lý thuyết thống nhất vũ trụ”, một lý thuyết mà các nhà khoa học hiện đại từng mơ ước: Hay như SW Hawking, nhà vật lý thiên văn hàng đầu thế giới, đã từng viết: Nhưng thật thú vị, những quy luật vũ trụ thuộc một lý thuyết cho sự nhận thức về thực tại vũ trụ lại được diễn tả cô động và sinh động chỉ trên một trò chơi trẻ nhỏ của người Việt. Chỉ có thể có ở một sự thông minh linh hoạt của những chủ nhân của nền học thuật cổ Đông phương thuộc nền văn minh Lạc Việt mới có thể mã hóa một cách xúc tích những ẩn ý của lý thuyết cao cấp ấy. Đó chính là câu trả lời cho sự băn khoăn của nhà khoa học hàng đầu SW Hawking, khi ông đặt vấn đề: Lý thuyết ấy được tập cho trẻ em Lạc Việt ngay từ khi còn thơ ấu qua trò chơi Lò cò xủn, ô ăn quan , bánh chưng, bánh dầy...... Tp HCM, 16/12/2010 Thiên Đồng Bùi Anh Tuấn ===================================== Tài liệu Tham khảo: - Hà Đồ trong văn minh Lạc Việt, tg Nguyễn Vũ Tuấn Anh, NXB Tổng Hợp TpHCM 2007 - Thời Hùng Vương qua truyền thuyết và huyền thoại, tg Nguyễn Vũ Tuấn Anh, NXB Tổng Hợp TpHCM 2003 - Tính minh triết trong tranh dân gian Việt Nam. - Phong thủy Lạc Việt, tg Nguyễn Vũ Tuấn Anh, lưu hành nội bộ.6 likes -
BÀN VỀ TRUYỀN THUYẾT "NGÀY TẬN THẾ" (Gửi vào: 11/15/2007 7:05:40 PM) KNTL - Từ hàng ngàn năm nay đã có nhiều người quan tâm tìm hiểu thực chất của truyền thuyết “ngày tận thế”. Sau đây là một bài khảo cứu khá đầy đủ về vấn đề đó của tác giả Nguyễn Văn Thọ, cõ lẽ đã được viết trước năm 2000. Một số ý tưởng của tác giả phù hợp với nội dung thơ văn linh cảm. TẬN THẾ HAY CHUYỂN THẾ? Vấn đề nêu trên thực ra là vấn đề hết sức phức tạp. Tôi lần lượt bàn về các tiết mục sau đây: 1- Cái nhìn của Thánh kinh và Thiên Chúa giáo. 2- Cái nhìn của các nhà tiên tri. 3- Cái nhìn của khoa học. 4- Cái nhìn của các triết gia Đông và Tây. 5- Cái nhìn của tác giả: Cuộc chuyển thế sang kỷ nguyên Bảo Bình. 1. Cái nhìn của Thánh kinh và Thiên Chúa giáo Nếu chúng ta thành khẩn, thì thấy đối với Thiên Chúa giáo, Trời đất, con người và vạn hữu mới có khoảng 7000 năm nay và từ khi có Thiên Chúa giáo cho đến nay, không thế kỷ nào mà nhân loại không lo, không sống trong sự hồi hộp mong chờ ngày tận thế. Đại khái Thiên Chúa giáo - Công giáo cũng như Tin Lành - tin rằng thế giới này đã được tạo dựng nên khoảng năm 4004 trước kỷ nguyên. James Ussher (hay Usher) (1581-1656), Tổng Giám Mục giáo phận Armagh (Ái Nhĩ Lan), dựa vào Sáng Thế ký, cũng như dựa vào bản gia phả Chúa Jesus ghi trong Luke (3:23-38) đã tính toán ra rằng Trời đất đã được tạo dựng nên năm 4004, ngày 23 tháng 10, 9 giờ sáng. Bác sĩ Lightfoot ở Cambridge, sống đồng thời với Ussher cũng tính ra rằng Trời đất đã được tạo dựng nên ngày 23 tháng 10, năm 4004, lúc 9 giờ sáng. (1) Và từ 1701 về sau, Thánh kinh King James (King James Bible), đã có những thời kỳ hiên ngang in nơi giữa trang đầu sách Sáng Thế ký niên kỷ sau: B.C.4004. (2) Về phía Công giáo, quyển Martyrologe Romain, xuất bản theo sắc lệnh Giáo Hoàng Gregory XIII (1572-85), duyệt xét bởi các Giáo Hoàng Urban VIII (1623-1644), và Clement X (1670-1676) và tăng bổ bởi Giáo Hoàng Benedictus XIV (1740-58) vào năm 1749; dịch ra Pháp văn do Dom Albert M Schmitt, tái bản năm 1959, nơi trang 469, nhân dịp lễ Giáng Sinh đã trịnh trọng ghi rằng: Chúa Jesus ra đời: - 5199 năm sau ngày tạo Thiên lập Địa; - 2957 sau Hồng Thủy; - 2015 sau khi Abraham sinh ra; - 1510 sau khi Moses đưa dân Do Thái ra khỏi Ai Cập; - 1032 sau khi vua David thụ phong; - 752 sau khi xây thành La Mã v.v... Ở Âu Châu, cách đây vài thế kỷ, bất kỳ một học giả nào muốn bảo toàn danh dự, hoặc muốn có chút tiếng tăm, thời phải lo sao những điều mình quan sát khảo nghiệm phù hợp với Thánh kinh, hoặc với quan niệm truyền thống của giáo quyền, nếu không sẽ bị tai họa. Năm 1744, trong quyển lịch sử vạn vật (Histoire Universelle) Buffon chủ trương Trái đất đã có khoảng 70.000 năm, thế mà đã bị coi là xúc phạm lớn lao và tác phẩm đã bị giáo quyền cấm lưu hành. Khi Darwin chết (1809-1882), người ta vẫn còn dạy rằng vũ trụ được tạo dựng 4963 năm trước kỷ nguyên và cuốn Từ điển Larousse xuất bản năm 1882 ghi “đó là niên kỷ duy nhứt được chấp nhận trong các trường”. Còn về ngày tận thế thì ngay Chúa Jesus cũng đã phán quyết rằng: sau khi Ngài tử nạn, không bao lâu, Ngài sẽ xuống lại để phán xét thiên hạ và sẽ tận thế. Matthiew chép: "Vì chưng con người sẽ đến trong vinh quang của Cha Ngài, với các Thiên Thần của Ngài và bấy giờ Ngài sẽ trả cho mỗi người tùy theo hành vi của họ. Quả thật, Ta bảo các người: trong những kẻ có mặt đây, có người sẽ không nếm biết cái chết trước khi thấy. Con người đến trong Nước của Ngài” (Mat.16:27-28). Phúc Âm Marc còn chép long trọng gấp bội: "Nhưng trong những ngày ấy, sau cơn khốn quẩn ấy, mặt trời sẽ tối sầm, mặt trăng sẽ mất sáng, tinh tú từ Trời sa xuống và các quyền năng trên các tầng Trời bị lay chuyển. Và bấy giờ, người ta sẽ thấy con người đến trong mây với quyền năng cao cả và vinh quang. Và bấy giờ, Ngài sẽ sai các Thiên Thần thâu họp những kẻ được chọn của Ngài từ bốn phương, từ mút cùng mặt đất, đến mút cùng chân Trời... Quả thật Ta bảo các ngươi: thế hệ nầy sẽ không qua, cho đến khi mọi điều ấy xảy đến. Trời đất sẽ qua đi, nhưng lời Ta nói không bao giờ qua đi” (Marc 13:24-32). Các đại Tông đồ Chúa như Peter, Paul, John đều tin rằng: Tận Thế đến nơi. Thánh thư Peter I,4:7 viết: "Thời cùng tận đã gần rồi cho mọi sự”. Thessalonians I cũng cho rằng khi Chúa xuống phán xét, thì những giáo hữu còn sống sót khi ấy, sẽ được đưa lên mây để họp cùng các vị Thánh đã sống lại, để đón mừng Chúa quang lâm (I Thess. 4:13-18) và xin giáo dân giữ Thần, hồn, xác cho vẹn toàn, chờ ngày Chúa tới (I Thess. 5:23). Sách Khải Huyền của Thánh John mô tả tận thế như sự rung chuyển, sự phá tán, sự tan nát của vũ trụ bằng những lời lẽ hết sức văn vẻ: ”Khi Ngài mở ấn thứ sáu, thì xảy có động đất lớn; và mặt Trời hóa đen sẫm như vải dệt bằng tóc huyền và mặt Trăng hoàn toàn ra như máu. Tinh tú trên trời sa xuống như cây vả trút hết quả non, khi bị cuồng phong quây cho lăn lóc. Và trời biến mất đi như quyển sách bị cuộn lại,và núi non cùng hải đảo hết thảy đều bị đánh bật khỏi chỗ, và vua chúa trên đất cùng vương hầu và khanh tướng giàu sang hay quyền thế và nô lệ hay tự do hết thảy đều chui rúc ẩn mình nơi hang hốc và ghềnh đá núi non và họ nói với núi non đá tảng: Hãy sập đè trên chúng tôi và che khuất chúng tôi cho khỏi nhan Đấng ngự trên ngai, cho khỏi thịnh nộ của Chiên Con”. Tôi chuyển dịch thành thơ như sau: Mặt trời đen vải tóc huyền, Trăng màu ửng máu từ viền vào trong. Sao trời rơi rụng lung tung, Như sung, như vả, giữa chừng phong ba. Sơn nham, hải đảo gần xa, Xê đi, dịch lại la đà chông chênh. Vòm trời như giấy như tranh, Cuốn đi mất hút, lung linh, bẽ bàng. Công hầu khanh tướng trần gian, Sang hèn, tìm hốc, tìm hang rúc càn... Âm thầm van vái núi non, Sập đi cho khỏi thấy nhan thánh Ngài... (3) Cuốn sách Khải Huyền (22:12) có ghi lời Chúa phán: “Này sự tái lâm của Ta đã sắp tới nơi”. Thánh John cũng kết thúc sách Khải Huyền bằng mấy lời sau: "Phải kíp đây, ta sẽ đến!” Amen! Xin hãy đến! Lạy Chúa Jesus! Nhưng khổ nỗi mặc cho những lời tiên tri trang trọng, mặc cho sự nóng lòng trông chờ, thời gian cứ lặng lẽ trôi qua và tận thế vẫn chẳng chịu đến. Giáo dân tỏ ra bất bình. Các tông đồ và người bảo vệ giáo lý đổi giọng. Thánh thư Peter II nói: Ai cho rằng tận thế đến nơi là ngu muội, vì một nghìn năm trước mắt Thiên Chúa chẳng qua là một ngày (II,Peter,3:8). Thánh thư II Thessalonians đưa ra thêm điều kiện: Quỉ vương phải ra đời trước rồi mới tận thế. (II Thess.) Phúc Âm Matthiew đưa thêm điều kiện: Tin lành phải được giảng rao khắp thiên hạ rồi mới tận thế. (Mat. 24:14) Mà chữ “thiên hạ” cũng rất là mơ hồ. Thời ấy, thì vùng quanh Địa Trung Hải là Thiên hạ. Sau dần dần mới biết có Châu Á, Châu Úc, Châu Mỹ. Thành thử “thời gian” trở nên co giãn, "thiên hạ" trở nên co giãn và một phương trình về thời gian đã được tìm ta: “gần tới = còn lâu”. Cho nên khi nói là “Tận thế” ngay thì có thể là “ngay” thật, hay là còn lâu, còn rất lâu mới xảy ra hay sẽ ứng nghiệm vào trong những năm 2000 sắp tới. Cái gì cũng đúng hết... Ngày nay, các vị mục sư diễn giảng trên TIVI luôn tấm tắc khen rằng những lời tiên tri xa xưa, nói cho những người thế kỷ I, áp dụng vào bấy giờ lại thấy quá sức là đúng... Tận thế sẽ xảy ra trong kinh hoàng: "Các từng trời xèo xèo biến sạch, ngũ hành bốc cháy tiêu tan, đất và các công trình trên đó cũng sẽ tan biến.” (II Peter,3:9-12). Như vậy là hoàn cầu sẽ bị thiêu rụi bằng lửa. Phong trào tin “tận thế đến nơi” đã kinh qua nhiều thế kỷ cho mãi đến ngày nay: - Thời đại các Tông đồ, giáo dân đã chờ “tận thế”, đến nỗi nhiều người không còn chịu làm ăn (Xem II Thessalonians, và Vergilius, An Encyclopedia of Religion, Philosophical Library,1945, nơi chữ Thessalonians,First and Second Letters). - Thế kỷ I, có phong trào Montanus. Mọi người thường lên những đồi xứ Phrygia để đợi Chúa đến. - Thế kỷ 3, có phong trào Novatian. - Thế kỷ 4, có Donatus. - Năm 1000, mọi người thật sự tưởng tận thế đến nơi, nên đã ngừng làm ăn hoạt động. Sử gia gọi thời kỳ ấy là “Kinh Hoàng năm 1000”: Người ta tưởng sẽ tận thế năm 992 hoặc 995. Thủa ấy có nhựt thực; có một mùa Đông lạnh quá mức, có dịch tể, núi Vesusius phun lửa, các dân Magyar, Norman, aracen đi xâm chiếm, chinh phục khắp nơi, thành thử ai cũng tưởng là sắp thế mạt. Nhiều thành phố dân ra ngoài trời, dựng Thánh giá lên, rồi quì quanh đợi Chúa tới. Nhưng may mà vẫn chưa tận thế. (4) Sau này còn có những nhóm như là: Waldensians (1170), Albigenses (thế kỷ 11-13), Moravian Brethen (1457-), Anabaptists (1521-), Swiss Brethen v.v... đều tin sắp “tận thế”. Trong những thế kỷ gần đây, người ta quay ra tin “chuyển thế”, thay vì “tận thế”: “Chúa sẽ phục lâm để đánh nhau với Satan. Khi Chúa đến sẽ có 144.000 người được chọn lên mây sống cùng Chúa. Sau trận chiến gọi là Armageddon giữa Chúa và Satan, sẽ có 1000 năm an lạc hòa bình dưới quyền cai trị của Chúa Jesus (Revelation 19:11-21.- 20: 1-6). Những người tin chuyển thế và tin rằng Chúa sẽ cai trị nghìn năm được gọi là Apocalypticists, Millenarianists, hay Chiliasts. Và có lẽ để chuẩn bị tư tưởng, bản kinh Thánh New English Bible, xuất bản năm 1881, đã thêm vào sau câu Mat. 24:8 một đoạn như sau: Bản cũ: And these are the beginning of sorrows. Bản dịch năm 1881: “With all these things The Birth Pangs of The New Age Begin”. (5) Dịch: “Với tất cả những sự đó, một thời đại mới chuyển dạ thai sinh”. Và những người theo chủ trương mới này dựa vào mấy câu sách Khải Huyền sau: Khải Huyền 19:11-21.- 20: 1- 6. - Giáo Chủ Cơ Đốc Phục Lâm, William Miller (February 15,1782-1849) tin rằng Chúa tái lâm ngày 21 tháng ba năm 1884. Sau đó lại sửa là ngày 22 tháng 10, 1844. Tuy là đã đoán sai nhiều lần, nhưng giáo phái Cơ Đốc Phục Lâm ngày nay, vẫn tin rằng: “Sẽ tận thế không biết lúc nào, vì thế phải sống cho hẳn hoi”. Giáo chủ phái Jehovah's Charles Taze Russel (1852-1916) cũng tin rằng Chúa phục lâm năm 1914. Ông tạ thế ngày 31 tháng 10, 1916 mà vẫn chưa thấy Chúa đến... Người lãnh đạo giáo phái Chứng Nhân đấng Jehovah kế tiếp là J.F. Rutherford, một cựu thẩm phán thuộc tiểu bang Missouri. Dưới quyền lãnh đạo của Rutherford (1869-1942), giáo phái Chứng Nhân Jehovah càng tin Chúa sắp phục lâm, đến nỗi họ đã tạo một căn nhà ở San Diego, gọi là Beth-Sarim (nhà các Hoàng tử) để đón các vị Tiên Thánh như Abel, Noah, Abraham, Samuel, David, Daniel tái lâm, nhưng sau mãi không thấy đại chiến Armaggedon xảy tới, nên họ đã bán căn nhà đó... Họ cũng đã soạn sẵn và hát những bài quân hành như sau: Up, every soldier on Christ's side enlisted, Aye, gird for the fight! Mount Salem's ramparts,fight,shoulder to shoulder, With all who lift up the standard of light! See,all the nations in tumult assambling, Against God's Annointed their rulers are set; Satan,their prince,gives defy to Jehovah, Short is his time ere he suffers defeat. (6) Dịch: Đứng lên chiến sĩ hào hùng, Luôn trong tư thế xung phong mới là, Salem chiến lũy có ta, Kề vai đồng đạo, xông pha chiến trường. Kìa xem bao kẻ bất lương, Tính bài chống Chúa, nhiễu nhương bao nài, Satan kình chống Chúa Trời! Chống Trời, mấy nả mấy hồi sẽ thua! 2. Cái nhìn của các nhà tiên tri Người Âu Mỹ phần đông tin là “tận thế” sẽ lảng vảng đâu đây vào khoảng những năm 2000. Nhưng khảo kỹ các lời tiên tri, ta chỉ thấy có mấy loại dữ kiện sau: 1- Thiên tai như động đất, như giông tố, như núi lửa phun. 2- Chiến tranh nhưng không lâu. 3- Trái đất chuyển trục. 4- Sự suy sụp của các Đạo giáo Công Truyền. 5- Chuyển thế thành một thế giới đẹp đẽ hơn. Ta sẽ duyệt lại ít nhiều lời tiên tri. A- Trước hết là các lời tiên tri của Giám mục Malachi O'Mogan (1094-1148), sau này đã được phong thánh, về các Đức Giáo Hoàng từ 1143 cho đến khoảng 2013. Mỗi Giáo Hoàng được mô tả bằng vài ba chữ. Ví dụ, De Ruro Albo: Adrian IV (1153-1159) là một người Anh sinh tại St. Albans. - Signum Ostiense: Alexander IV (1254-1261): Hồng y tại Ostia. - Aquila rapax: Plus VII (1800-1823) bị Napoleo bắt (Napoleo có thể được coi là con phượng tham mồi). - De Balneis Etruria: Gregory XVI (1831-1846), trước khi lên ngôi đã phục vụ ở Balnean, xứ Rtruria. - Religio depopulata: Benedict XV (1914-1922). Lúc ấy là thế chiến I, nên “Đạo giáo bị hoang tàn”, vì rất nhiều giáo dân Âu Châu đã bị giết. - Pastor Angelicus: Plus XII (1939-1958), một Giáo Hoàng muốn noi gương Thánh Thomas Aquinas, một vị tiến sĩ Thiên thần (angelcius doctor). - Pastor et Nauta: John XXIII (1958-63) người đã chỉ huy và lèo lái Công Đồng Vatican II. - Flos florum: Paul VI (1963-78) vì trên phù hiệu của Ngài có vẽ hoa. De Medietate Lunae: Bán Nguyệt: John Paul I. Ngài sống có 34 ngày, sau khi thụ phong (August 26-78- September 28,78). De Labore Solis: John II (1978-). Sau đó có thêm hai vị Giáo Hoàng với khẩu hiệu Gloria olivae và Petrus Romanus... Nếu mỗi Giáo Hoàng trị vì trung bình là 10 năm, thì đến khoảng năm 2015 sẽ không còn Giáo Hoàng nào nữa. Nhiều người đoán là lúc ấy Giáo Hội Công Giáo Công Truyền sẽ sụp đổ... Tôi không nghĩ rằng Giáo Hội có thể sụp đổ, nhưng sẽ có những chuyển hướng, chuyển biến, gạn đục khơi trong hết sức quan trọng. B- Ursula Sonthiel (1488-1561), nữ tiên tri người Anh, đã nói tiên tri về các phát minh như tầu ngầm, xe lửa, điện thoại, điện tín, nhưng đã nói rằng tận thế vào năm 1881. Như vậy là sai. C- Nostradamus (1503-1566): Theo John Hogue, tác giả quyển Nostradamus and The Millennium (A Dolphin Book, Doubleday & Company, Inc, Garden City, New York, 1987), thì Nostradamus đã có tiên tri rằng khoảng cuối thế kỷ 20 sẽ có những lụt lớn ở Anh, những động đất lớn, dịch tể (AIDS), chiến tranh, Phật Di Lặc giáng trần để cải thiện các Đạo giáo. Từ 2026 đến 3000 sẽ là thời kỳ bình yên. Đối với Nostradamus, nhân loại còn sống qua các thời đại Bảo Bình (2000-4000), Ma Yết (4000-6000), Nhân Mã (6000-8000). Theo các tác giả bộ The People's Almanach, thì Notradamus đã tiên tri rằng vào khoảng những năm cuối thế kỷ 20, sẽ có trận đại chiến giữa Arập - Trung Hoa một bên và Âu Mỹ một bên. Sẽ có những trận chiến tranh lớn vào năm 1999. Sau đó Âu Mỹ sẽ thắng và từ đó sẽ hòa bình... D- Edgar Cayce (1877-1945) cũng tiên tri rằng vào khoảng cuối thế kỷ 20, Nữu Ước, Âu Châu sẽ chìm xuống đáy biển; ông sẽ tái sinh năm 1998 để cứu nhân loại, và hòa bình sẽ đến vào khoảng năm 1998. Tôi không trình bày thêm các lời tiên tri về những năm 2000. Quí vị nào muốn thu thập tất cả các lời tiên tri lớn nhỏ, xin tìm đọc cuốn The People's Almanach của David Wallechinsky và Irving Wallace, Doubleday Garden City, NEW York, xuất bản năm 1975. Thực ra, nếu ta khảo tất cả các lời tiên tri từ 1500 đến nay xem có ai dám đoán quyết sẽ “tận thế” vào khoảng những năm 2000 hay không, thì thấy một là không ai dám tiên tri rằng có, hai là nếu ai dám tiên tri rằng sẽ tận thế thì đã hoàn toàn bị thực tế cho thấy là đã sai như trường hợp giáo chủ các giáo phái Cơ Đốc Phục Lâm, hay Chứng Nhân Đấng Jehovah. (7) 3. Cái nhìn của khoa học - Buffon (1707-1788) và Darwin (1809-1882) là những chiến sĩ tiên phong phất ngọn cờ khoa học xô lùi thời gian càng ngày càng về một quá vãng xa xôi. Sau này các khoa học gia cho rằng con người đã có từ lâu trước năm 4004 - năm Chúa dựng nên con người tính toán theo Thánh kinh - nên họ đã tạo ra chữ Tiền sử “Prehistory” để chỉ thời gian “tiền khai thiên” ấy. Buffon mới đầu cho rằng Trái đất này đã có khoảng 74.832 năm. Sau này càng ngày khoa học càng bỏ xa Thánh kinh. Ngày nay các nhà khoa học lại muốn đi tìm tiên tổ Adam và nơi thực sự đã phát tích khởi nguyên ra loài người. Nhờ có những tư tưởng và giả thuyết táo bạo như thế, nên con người đã làm phục sinh được cả một dĩ vãng tiền sử như: - Nam Hầu (Australopithecus) cách đây chừng 700.000 đến 500.000. - Hầu nhân (Pithecanthropus) cách đây từ 500.000 đến 150.000 năm. - Người Neanderthal cách đây chừng 100.000 năm. - Người Cro-Magnon (Linh Nhân) cách đây chừng 300.000 năm. Về phương diện nghệ thuật, người ta đã tìm thấy một con ngựa khắc bằng ngà khổng tượng (mammoth) cổ chừng 32.000 năm, các bích họa trong những hang động như động Pech-Merle (Lot-Pháp), động Altamira (Tây Ban Nha), động Eysies (gần Perigneux,Pháp), động Lascaux (Pháp) tất cả đều cũng đã có khoảng hai chục ngàn năm tuổi... Rồi người ta lại thấy tuổi Vũ trụ và Mặt trời tối thiểu là 10 tỷ năm; tuổi Trái đất tối thiểu là 2 tỷ năm. Và một khi Vũ trụ này đã dạn dày với phong sương tuế nguyệt hằng tỷ tỷ năm, nay nếu muốn cho nó cáo chung âu cũng phải dự trù thêm ít tỷ năm nữa. Chúng ta cũng đừng nên buồn vì tấn kịch vũ trụ và nhân sinh lại trình diễn quá lâu lai như vậy. 4. Cái nhìn của các triết gia Ấn Độ : Ấn Độ cho chúng ta những quan niệm về thời gian thực cũng rất là lâu dài. Ta có: - năm Người (human year) gồm 360 ngày. - năm Trời (divine year) = 360 năm Người. - ngày Brahma (Brahma day) = 12.000.000 năm Trời = 4.320.000.000 năm Người. - đêm Brahma (Brahma nigtht) = 12.000.000 năm Trời = 4.200.000.000 năm Người. - năm Brahma: 360 ngày và đêm Brahma = 8.640.000.000 năm Trời hay 3.110.400.000.000 năm Người. - kiếp Brahma: Brahma sống 100 năm Brahma. - Trong một ngày Brahma, Brahma chớp mắt 1000 lần: Mở mắt ra thì vũ trụ hiện ra, nhắm mắt lại thì vũ trụ biến đi. Như vậy, mỗi chớp mắt Brahma lâu bằng 12.000 năm Trời và bằng 4.320.000 năm Người. Mỗi cái chớp mắt đó lại chia ra thành 4 thời kỳ (yuga) vắn vần theo xỉ số 4, 3, 2, 1. - Krita yuga (Kim đại) 4=4800 x 360 = 1.728.000 năm người. - Treta yuga (Ngân đại) 3 = 3600 x 360 = 1.296.000 năm Người. - Dvapara 2 (đồng đại) 2 = 2.400 x 360 = 864.000 năm Người. - Kali yuga (Thiết đại) 1 = 1200 x 360 = 420.000 năm Người. (Xem Joseph Campbell, The Mythic Image tr.142-143) Joseph Campbell, trong quyển The Mythic Image của ông, (Bollingen Series C.- Princeton University,1974, nơi tr. 142) đã cho rằng Thời Thiết đại Kali Yuga bắt đầu ngày 17 February 3202 trước kỷ nguyên. Nếu vậy thì chúng ta còn có vô số thì giờ mà kéo lê cuộc sống... Rene Guenon, một nhà huyền học Pháp, sau khi so sánh các chu kỳ niên đại Ấn và Babylon (Chaldean) đã cho rằng, một Nguyên (Manvantara) lâu bằng 64.800 năm. Và như vậy Krita Yuga sẽ là 25.900 năm; Treta yuga là 19.440 năm; Dwapara Yuga là 12.960 năm và Kali Yuga là 6.480 năm. Theo Guenon, Kali Yuga bắt đầu vào năm 4.481 năm trước Kỷ Nguyên và sẽ tận cùng vào năm 1999. (Xem Michel de Socoa,Les Grandes Conjonctions, Paris Chacornac Frères,11 Quai St-Michel, 1051,p.7). Trung Hoa : Về Trung Hoa, Thiệu Khang Tiết lấy 129.600 năm (4320x 30) làm một Nguyên. Một Nguyên có 12 Hội. Mỗi Hội có 10.800 năm. Mỗi Hội có 30 Vận. Mỗi Vận có 360 năm. Mỗi Vận có 12 Thế. Mỗi Thế là 30 năm. Ta viết lại: - Nguyên = 129.600 năm. - Hội = 10.800 năm. - Vận = 360 năm. - Thế = 30 năm. Mỗi Hội lấy tên là Tí, Sửu, Dần, Mão v.v... Ông cho rằng Thiên khai ư Tí, Địa tịch ư Sửu, Nhân sanh ư Dần. Tận thế sẽ vào Hội Tuất. Vua Nghiêu (2357- 2256) sẽ ở vào Hội Ngọ, Vận thứ 30, Thế thứ 9. Như vậy ta có: Trời mở vào Hội Tí (1 - 10.800). Đất sinh vào Hội Sửu (10.800 -20.160). Người sinh vào Hội Dần (20.160 - 32.400). Hội Mão sẽ là 32.400 - 43.200. Hội Tị sẽ là 54.000 - 64.800. Hội Ngọ sẽ là 64.800 - 75.600. Nếu vua Nghiêu trị vì vào Hội Ngọ, Vận thứ 30, Thế thứ 9 thì ta sẽ tính toán ra là vào năm 75.510. Và lịch sử từ Nghiêu đến ngày nay (khoảng 4000 năm, đang diễn ra trong Hội Mùi (75.600 - 86.400). Nếu tận thế vào Hội Tuất (10.800 -11.880), thì ngày đó còn xa vời lắm đối với chúng ta. Thiệu Khang Tiết đã viết sở học nói trên của ông trong quyển Hoàng Cực Kinh Thế. Tôi từ khi so sánh các con số thời gian của ông với khoa học hiện đại, thấy sự khác biệt quá chừng là lớn, nên tôi không đi sâu vào học thuyết của ông nữa. Ba Tư & Hy Lạp : Ba Tư và Hi Lạp cho rằng năm Vũ trụ là 12.960 năm, tức là nhỏ hơn năm Vũ trụ của Thiệu tử 10 lần. - Plato cho rằng năm Vũ trụ là 25.920. Mặt trời phải mất 25.000 năm mới mọc đúng chỗ cũ gọi là điểm Gamma trên (giao điểm giữa Hoàng Đạo và Xích Đạo ở cung Aries (Bạch Dương) vào ngày Xuân phân (21 tháng ba Dương lịch). Nói vậy có nghĩa là không ngày Xuân phân nào mà Mặt trời mọc lại đúng như vị trí cũ. Mỗi năm cứ đến ngày Xuân phân lại mọc cách vị trí cũ là 0,70 độ. 72 năm sẽ mọc cách vị trí nguyên thỉ 1 độ và sau 25.000 mới lại trùng phùng một lần với vị trí nguyên thỉ vào ngày Xuân phân. Vì sự chuyển dịch không ngừng trên vòng Hoàng đạo như vậy mà có sự thay đổi trong lịch sử trần gian này. Người Âu Châu chia vòng Hoàng đạo ra làm 12 cung, gọi là Aries (Bạch Dương); Taurus (Kim Ngưu); Gemini (Song Tử); Cancer (Cự Giải); Leo (Sư Tử); Virgo (Xử Nữ); Libra (Thiên Xứng); Scorpio (Thiên Yết); Sagittarius (Nhân Mã); Capricorn (Ma Yết); Aquarius (Bảo Bình); Pisces (Song Ngư). 12 cung Hoàng Đạo tương ứng với Nhị Thập Bát Tú đại khái như sau: Aries: Lâu, Vị Taurus: Mão, Tất. Gemni: Chủy, Sâm, Tỉnh. Cancer: Quỉ, Liễu, Tinh. Leo: Chương, Dực, Chẩn. Virgo: Giác, Cang. Libra: Đê, Phòng, Tâm. Scorpio: Vĩ, Cơ. Sagittarius: Đẩu Ngưu. Capricorn: Nữ, Hư. Aquarius: Nguy, Thất. Pisces: Bích, Khuê. Trình bày vòng tròn, ta có đồ bản sau: Cứ 2160 năm Mặt trời lại đi vào một cung mới. Thời từ Chúa Jesus ra đời cho đến nay Mặt trời ở cung Song Ngư. Ngày nay Mật trời sắp đi vào cung Bảo Bình. Vì vậy nhân loại đang trông chờ một cuộc chuyển thế. Chúng ta sắp sửa bước sang một kỷ nguyên mới gọi là Tháng Vũ Trụ Bảo Bình, hay Kỷ Nguyên Bảo Bình (Aquarian age). Có những bạn đến tôi chơi, thấy đầu đề của bài này, hỏi tôi, Thời Đại Bảo Bình là gì? Tôi hiểu ngay là nhiều độc giả cũng ở trong tình trạng đó. Nên tôi muốn dùng sự vận chuyển của Mặt trời trên các Cung Trời mà bàn qua về lịch sử nhân quần từ trước sắp tới Cung Bảo Bình. + 10.000 - 8.000 trước Kỷ Nguyên: Mặt trời ở Cung Sư Tử (Leo). Sư Tử tượng trưng cho sự sáng tạo. Nên thời ấy người tiền sử bắt đầu khắc, vẽ. Những bích họa trong các hang động ở Pháp, ở Tây Ban Nha là những chứng cứ hiển nhiên. + 8.000 - 6000 trước Kỷ Nguyên: Mặt Trời đi vào cung Cự Giải (Cancer). Cự Giải làm liên tưởng đến mẫu hệ, đến mái ấm gia đình. Nên thời ấy, nhân loại bắt đầu ra khỏi hang hốc làm nhà cửa, bắt đầu canh tác. + 6.000 - 4.000 trước Kỷ Nguyên: Mặt trời đi vào Cung Song Tử (Gemini). Song Tử đánh dấu thời kỳ lý trí phát triển. Con người bắt đầu giao thiệp, chuyển di. Thời này bắt đầu phát minh ra chữ viết. Nhân loại bắt đầu biết sử dụng bánh xe. + 4000 - 2000 trước Kỷ Nguyên: Mặt Trời đi vào Cung Kim Ngưu (Taurus). Kim Ngưu tượng trưng cho sự vững chãi, đẹp đẽ. Nhân loại bắt đầu biết kiến trúc. Trong thời gian này, các Kim Tự Tháp được xây cất. + 2000 - 1 trước Kỷ Nguyên: Mặt trời đi vào cung Bạch Dương: Bạch Dương tượng trưng cho sự hăng hái, sống động. Dân Do Thái xuất hiện trong thời kỳ này. + 1-2000 sau Kỷ Nguyên: Mặt trời đi vào Cung Song Ngư (Pisces). Đạo Công giáo xuất sinh và phát triển trong thời kỳ này. + 2000 - 4000 sau Kỷ Nguyên: Mặt trời đi vào Cung Bảo Bình. Bảo Bình ngày nay được gắn liền với “nhân bản” (humanity), với khoa học, kỹ thuật, với điện từ, với đại đồng. Trong thời đại này nhân loại sẽ văn minh hơn, thanh lịch hơn, sẽ bớt phàm tục, sẽ thần tiên hơn, và thế giới sẽ trở thành một Liên Hiệp Quốc thực sự. 5. Tác giả: Cuộc chuyển thế sang thời đại Bảo Bình Trước hết, chúng ta khó mà xác định là bao giờ Mặt trời thực sự đi vào cung Bảo Bình. Mỗi sách nói một khác. Ông Zale H. Bechor, tác giả cuốn Prophecy Yesterday, Today, Tomorrow, (Astro Press 1980), nơi trang 145, đã cho rằng Mặt trời đã đi vào Cung Bảo Bình ngày 19 tháng Giêng năm 1881. Trong sách L'Astrologie của W.E. Peuckert, Payot Paris, 1965, nơi tr. 259, tác giả cho rằng Mặt trời vào cung Song Ngư năm 100 trước Kỷ Nguyên. Nếu vậy thì Mặt trời sẽ vào cung Bảo Bình năm 2060 tới đây. Theo sách Théosophie et Science thì Mặt trời vào cung Song Ngư năm 29 sau Kỷ Nguyên. Như vậy Mặt trời sẽ vào cung Bảo Bình năm 2132. Theo Trung Hoa, thì từ 1924 đến 1984 là Trung Nguyên; từ 1984 đến 2044 là Hạ Nguyên. Như vậy Thượng Nguyên mới sẽ bắt đầu năm 2045. Từ trên xuống dưới: 1. Vị trí Mặt trời ở cung Bạch Dương khoảng năm 900. 2. Vị trí Mặt trời năm 1979 ở cung Song Ngư. 3. Vị trí Mặt trời vào năm 3300 ở giữa cung Bảo Bình. Nguyệt san TIME, trong số ra ngày 21 tháng 3, 1969 cho rằng Tháng Vũ Trụ Song Ngư đầy lo âu, châu lệ, đầy hoài nghi và ảo mộng, còn Tháng Bảo Bình tới đây sẽ là Tháng Vũ Trụ của những niềm vui, của những thực hiện khoa học tân kỳ, của những niềm ước mơ, hoài bão. Trong bài What is the Aquarian Age của Samuel Rittenhouse đăng trong Nguyệt san Rosicrucian Digest, tháng 8 năm 1969, tác giả cho rằng Kỷ nguyên Bảo Bình tới đây sẽ là 2000 năm của Tình Huynh Đệ Đại Đồng, tương thân, tương ái. Đó là thời kỳ của những chinh phục không gian, thời kỳ mà tâm trí con người sẽ mở rộng tầm kích, sẽ trở nên cao đại, đó là thời kỳ mà Đại-Đạo sẽ hiển dương... (8) Năm 1976 khi còn ở lại Việt Nam, tôi đã viết một bài Mùa Xuân Vũ Trụ Tương Lai (kỷ nguyên Bảo Bình) và Đại Đạo, và đã đăng trong Nguyệt San Giáo Lý Cao Đài. Hồi ấy tôi chủ trương rằng, trong thời đại Bảo Bình con người sẽ từ Tôn-Giáo tiến lên Đại-Đạo, mà Đại-Đạo theo tôi hiểu sẽ là tinh hoa các Tôn giáo. Khi ấy tôi dịch chữ Đại-Đạo là Mysticism. Nhưng càng để tâm suy tư chiêm nghiệm, tôi thấy rằng dẫu trong thời kỳ Bảo Bình sẽ có nhiều người đạt tới Đại-Đạo, sẽ Phối Thiên, tuy nhiên con số ấy vẫn luôn luôn là ít. Nhân loại còn phải băng qua một giai đoạn mới là ngồi lại với nhau, sánh tôn giáo mình với tôn giáo người, để học hỏi lẫn nhau. Nên chữ Đại-Đạo dành cho quần chúng trong những thời gian tới sẽ là chữ OECUMENISM (Hoà Đồng Tôn Giáo). Giờ đây, khi viết lại bài này tôi tình cờ đọc quyển The Aquarian Conspiracy của Marilyn Ferguson (J.P. Tarcher Inc. Los Angeles, 1976), và quyển Le Christianisme et les Religions du Monde của Hans Kung và tập đoàn (Editions du Seuil, 27, rue Jacob, Paris VI), tôi càng tin chắc chắn rằng trong một tương lai rất gần nhân loại sẽ tiến sâu hơn về phía tâm linh, sẽ có một tầm nhìn, lối nghĩ mới, sẽ bao dung hơn, khoan quảng hơn, sẽ dám đem các vấn đề tín lý, giáo điều ra mổ xẻ lại để xem đâu là chân lý thật, đâu là chân lý giả, mà xưa người ta đã dùng cường quyền, bạo lực, thủ đoạn, bắt mọi người theo. Nhân loại sẽ hoàn toàn được tự do tín ngưỡng. Tuy nhiên, trước khi đi sâu hơn vào lòng Thời Đại Bảo Bình, chúng ta phải qua cửa “Thiên Môn Tinh Tú”. Chắc quí vị đã biết thời kỳ nào mà Mặt trời, Mặt trăng cùng một số lớn hành tinh tụ tập vào một cung trời nào, thì thường nơi trần gian sẽ bị binh đao, thiên tai, địa họa, như động đất, như lụt lội, hay sẽ có một sự chuyển biến lớn về phía chính trị hoặc tâm linh v.v... Á Châu gọi hiện tượng đó là Nhật Nguyệt Hợp Bích, Thất Tinh Liên Châu. Thuật ngữ chiêm tinh Âu Châu gọi là DORIPHORIE. Xin kể ra đây ít nhiều trường hợp “Nhật Nguyệt Hợp Bích, Thất Tinh Liên Châu” mà tôi rút gọn lại là “Quần tinh hội tụ” trên Trời và tình trạng dưới Thế: 1- Quần tinh hội tụ ở Cung Cự Giải năm 57: Jules Caesar xâm chiếm Đức, Pháp (Gaul) và Anh. 2- Quần tinh hội tụ năm 13 sau Kỷ Nguyên nơi cung Nhân Mã: Vua Augustus trị vì. Bắt đầu thời đại bình an La Mã. 3- Năm 443, quần tinh tụ hội tại cung Cự Giải và Sư Tử: Hung Nô (Huns) xâm chiếm Âu Châu. 4- Quần tinh hội tụ nơi cung Sư Tử và cung Xử Nữ, năm 622: Hồi giáo bắt đầu chinh phục các nước. 5- Quần tinh hội tụ năm 849 tại cung Song Ngư và Bạch Dương: Nước thượng vị Carolingien tan rã. 6- Quần tinh hội tụ tại cung Song Tử năm 913: Nước Đức thuộc dòng Othoniens và Pháp thuộc dòng Capetiens chia rẽ. 7- Quần tinh tụ hội năm 1126 tại cung Thiên xứng: Tại Âu Châu người ta tưởng là đã đến ngày tận thế. Thánh chiến 1. 8- Quần tinh hội tụ năm 1306 tại cung Thiên Yết và Nhân Mã: Thời Trung cổ cáo chung. 9- Quần tinh hội tụ tại cung Cự Giải và Song Tử: Chinh chiến 100 năm. Trận Azincourt, Hòa ước Troyes (1420). 10- Quần tinh hội tụ tại cung Song Ngư và Bạch Dương năm 1850: Bắt đầu thời đại kỹ nghệ. Cuộc đổ xô đi tìm vàng. Tuyên ngôn Cộng sản Marx Engels năm 1848. 11- Quần tinh hội tụ năm 1941 ở cung Kim Ngưu: Thế chiến 2. 12- Quần tinh hội tụ năm 1989, tại cung Nhân Mã & Ma Yết (đồ bản thiết lập cho Mạc Tư Khoa, vào trưa ngày 28 tháng 12; ngoài ra còn có nhật thực toàn phần vào năm 1999 tại Luân Đôn): Động đất lớn như vừa xảy ra tại Armenia (Nga). Chuyển thế sang thời kỳ Hoà Bình Bảo Bình. [Trông vào đồ bản, ta thấy quần tinh hội tụ tại cung Nhân Mã và Ma Yết (Sagittarius & Capricorn). Chỉ duy có Mộc Tinh (Jupiter) ở tại cung Cự Giải (đối đỉnh) và Pluto tại cung Bạch Dương.] Berosus, một chiêm tinh gia thế kỷ 3 trước Kỷ Nguyên đã tiên tri rằng bao giờ quần tinh hội tụ ở cung Ma Yết (Capricorn), sẽ tận thế. Người Ấn Độ ngày nay cũng tin như vậy, nên ngày 5-2-1962, họ tưởng quần tinh hội tụ ở cung Ma Yết, nhiều người ở New Delhi đã thức suốt đêm chờ tận thế. (Xem Louis MacNEICE, Astrology, Doubleday and Co., Garden City, New York, p. 20 & 88.) Vì vậy mà nhiều người sợ tận thế vào những năm khoảng 2000. Cách đây mấy chục năm, một chiêm tinh gia người Ấn Độ tiên đoán sẽ tận thế vào ngày 14-7-1956. Bắt tội nhiều người đã tập họp nhau tại vùng núi Alpes, nước Thụy Sĩ, để chờ tận thế! (Xem sách trích dẫn trên, tr.18). Ông Ossendowski trong quyển Bêtes, Hommes et Dieux, xuất bản năm 1890 đã tiên tri rằng sẽ tận thế vào năm 2030. Ông Moggridge trong quyển Anti-Christ của ông xuất bản năm 1914 dựa vào sách Khải Huyền thánh Joan, cho rằng sẽ tận thế năm 1994. Jean de Pauly đã dựa trên truyền thuyết Do Thái để tính toán ngày tận thế. Do Thái giáo tin rằng sự tạo dựng nên trời đất là vào khoảng năm 3761 và thế giới này chỉ có được 6000 tuổi, nên đã kết luận tận thế vào năm 2239. (Xem Michel de Socoa, Les grandes conjonctions,Paris, Chacornac Frères, 1951, tr. 40-41.) Ngược lại, Michel de Socoa thì cho rằng vụ quần tinh hội tụ ở Cung Ma yết tới sẽ chỉ làm thay đổi cục diện toàn cầu. So sánh Chiêm Tinh Đông Tây, tôi nhận ra rằng Cung Ma Yết ứng với quẻ Phục, nên tổi đã mạnh dạn chủ trương con người sẽ hồi phục, sẽ trở lại sùng thượng những giá trị tâm linh trong một tương lai gần... Trên đây, tôi đã dùng lịch sử, khoa học và uy tín của các nhà tiên tri lớn của nhân quần để chứng minh rằng sẽ chỉ có một sự Chuyển Thế, chứ không thể nào có Tận Thế. Và một lần nữa, tôi muốn xác quyết như Zale H. Bechor, tác giả quyển Prophecy Yesterday, Today and Toorrow rằng sẽ không có tận thế vào khoảng năm 2000, mà chỉ thấy rằng trong tương lai những lo lắng, sầu bi, bệnh hoạn, đói khổ của loài người sẽ cáo chung hay sẽ giảm thiểu tới mức tối đa (9). Trong Thời Đại Bảo Bình (Aquarian Age), chúng ta sẽ thấy những gì? Dĩ nhiên là chúng ta sẽ thấy những phát minh khoa học tân kỳ, làm cho con người sung sướng hơn. Nhưng đây tôi chỉ nhấn mạnh tới sự Chuyển Hoá Tâm Linh Lớn Lao sẽ xảy ra cho nhân loại. Nhân loại sẽ vươn vượt để tìm cho ra Bản Thể Thần Linh, tìm ra Thiên Tính của con người. Những điều mà xưa kia một vài chiến sĩ tiền phong như Meister Eckhart (thế kỷ 14), Giovianni Pico della Mirandola (thế kỷ 15), Jacob Boehme (thế kỷ 16-17), Emmanuel Swedenborg (thế kỷ 17-18) chủ trương đơn độc, trong tương lai sẽ có vô số người tán đồng. Chủ trương đó là: Chúng ta hoàn toàn tự do về phương diện tâm linh. Chúng ta tự tạo số mệnh cho chúng ta, tự lèo lái sự tiến hóa tâm linh của chúng ta. Chúng ta sẽ giác ngộ, sẽ thấy mình có bản thể thần linh, sẽ có một tầm nhìn, một lối nghĩ cao siêu hơn, khoáng đạt hơn, sẽ dám nhìn lấy, suy lấy, nghĩ lấy. Con người sẽ đi sâu vào chiều kích tâm linh và sẽ tìm thấy rằng trong mình có Siêu Thức, có Đại Ngã, có Đại Hồn (Oversoul) của Vũ trụ. Nhiều người sẽ có được Tuệ Giác (Intuition), có được Đại Trí (transcendental reason; transcendent logic). Nhiều người sẽ trở nên Siêu Phàm (transcendentalists). Con người phàm phu, ô trọc đầy hờn giận, ghen tuông, khô khan, máy móc, xu thời sẽ được thay thế dần bằng những con người Siêu Phàm, Thanh Lịch, sảng khoái, thơ mộng, hồn nhiên... Người ta sẽ thực thi khẩu hiệu: Tứ Hải Giai Huynh Đệ; Vũ Trụ Với Mình Là Một; Mình Với Chúng Sinh Là Một, nên sẽ trọng thiên nhiên, tránh không phá phách hay làm ô nhiễm thiên nhiên; tránh không giết hại loài vật; nhất là không xúc phạm đến đồng loại dù người ấy là da đen, da vàng hay da đỏ, như đã làm trong hai nghìn năm vừa qua. Nhân loại sẽ nhìn nhận ra rằng các Đạo bên ngoài chỉ là những hình thức lễ nghi không cần thiết, chỉ là mầm sầu bi, thống khổ, gây chia rẽ giữa người với người; chỉ là một phụ tá cho cảnh sát, cho công quyền, chứ ít khi có thể làm cho con người được sung sướng, hạnh phúc, tự do, giải thoát thật sự... Chính vì vậy mà trong tương lai các đạo giáo công truyền sẽ càng ngày càng bị bẻ vụn ra, các giáo phái càng ngày càng thêm nhiều, để sau này chỉ là những phương tiện cho chúng ta tuỳ nghi sử dụng. Mọi người sẽ thấy rằng nền Minh Triết Á Châu thực sự mới cắt nghĩa được các nghi vấn của con người, và mới giúp con người đạt tới giải thoát thực sự. Trong tương lai nhân loại sẽ cảm nghiệm rằng thực sự Trời không có ở đâu xa mà chính là đã ở ngay trong lòng sâu con người; Đức tin không phải là một sự chấp nhận ngây thơ, ai bảo sao thì đâm lao làm vậy, mà sẽ là kết quả lâu dài của một đời học hỏi và tìm kiếm, suy tư... Con người sẽ tin rằng mình có những khả năng vô biên, tha hồ khai thác, không bao giờ hết, vì trong mỗi người đều có mầm mống Trời, mầm mống Phật. Các từ Trời, Phật ở đây được hiểu với một nghĩa hết sức là rộng rãi và cho đó là chính Bản Thế Của Vũ Trụ & Của Con Người Cũng Như Của Quần Sinh. Con người sẽ nhận ra rằng: 1- Con người không còn ở dưới đất, mà thực sự đang bay trên Trời. Trái đất cũng hoàn toàn giống như trăng sao, đang làm những cuộc vân du vô tận. 2- Con người, trông bên ngoài thời nhớp nhơ, lem luốc, nhưng trông vào bản thể bên trong, thì chói lọi hơn ánh dương quang. 3- Thượng Đế không còn là một vị thần ngồi tòa ở phương trời nào đó, nghe thiên thần ca hát, nhưng chính là Thần Linh nội tại, luôn thi triển quyền uy, luôn tung tỏa sức sống, trong lòng vũ trụ quần sinh, từ đáy lòng nguyên tử cho đến đại thể tinh cầu, cho đến lòng sâu vạn hữu. 4- Vì thế vạn vật, quần sinh, vũ trụ, tinh cầu họp lại đều là một Đại thể, đều là ngoại thân, ngoại thể của Đấng Tối Cao. 5- Như vậy, con người không bao giờ có thể lìa xa Bản thể, lìa xa Đại thể, dù là một phút giây. Cho nên đừng bao giờ dại dột quên đi dòng dõi sang cả của mình, thân thế tuyệt luân của mình, định mệnh huy hoàng của mình. Trái lại phải tham tán, tài thành cùng Trời Đất trong công cuộc hóa sinh, đại tạo, xứng với ngôi vị của mình trong thế Tam Tài: THIÊN-ĐỊA-NHÂN. Tin rằng trong tương lai gần đây, chúng ta sẽ chứng kiến một sự Chuyển Thế huy hoàng, chúng ta hãy bình thản mà đón nhận tương lai, và ngay từ bây giờ hãy giúp nhau mở rộng nhãn giới tâm linh, sống cho khinh khoát, khoan quảng, hòa đồng; lấy từ bi, bác ái làm phương châm; lấy suy tư, tìm hiểu, chứng nghiệm làm phương pháp và luôn cố gắng phát huy các tiềm năng tiềm lực nơi mình, luôn thắp sáng ngọn đuốc lương tâm, để ánh sáng Trời nội tâm ngày một tung tỏa khắp chốn nơi. (10) Chú thích: 1- a) Vòng tròn ngoài ghi tên các hành tinh. Thứ tự từ 12 giờ trưa, đọc thuận theo kim đồng hồ như sau: Neptune (Hải Vương Tinh); Pluto (Diêm Vương Tinh); Saturn (Thổ Tinh); Sun (Thái Dương); Moon (Thái âm); Mars (Hỏa Tinh); Venus (Kim Tinh); Mercury (Thủy Tinh); Jupiter (Mộc Tinh); Uranus (Thiên Vương Tinh). Giữa vòng tròn là dấu hiệu Cung Bảo Bình (Aquarius). 2- Cf. Daniel J. Boorstin The Discoverers,Random House, New York, 1883, p. 451. Garrett Hardin,Nature and Man's fate, A Mentor Book, New American Library, New York, p.19. 3- Thực ra khi đọc đoạn này xong tôi thấy bớt sợ tận thế, vì thấy tác giả tưởng rằng các vì sao chỉ nhỏ bằng cỡ quả vả, chứ không ngờ rằng chúng lớn bằng cả trăm mặt trời. Muốn phá trái đất này, thì đâu cần phải dùng đến nhiều tinh tú như vậy! Và mặc dầu vô số là sao đã rơi rụng xuống, mặc dầu núi non đã bị đánh văng đi hết, nhưng nhân loại vẫn còn sống nguyên, vẫn còn tìm ra được những hốc đá mà ẩn. Hơn nữa tôi rất mừng vì thấy tác giả tưởng rằng khung trời xanh kia là cái gì có thật, như là một cái vòm kiên cố mà Chúa xưa kia đã phải mất cả một ngày mới tạo dựng xong (Sáng thế ký 1:6-8); chứ không biết rằng đó chỉ một huyễn tượng gây nên bởi bầu khí quyển trông xa... 4- Richard Lewinsohn, Science, Prophecy and Prediction, Harper and Brothers Publishers, New York, 1961, tr. 78. 5- Xem Joseph Head and S. L. Cranston, Reincarnation, The Phoenix fire Mystery, Julian Press, Onc. 1977, p.138. 6- Marcus Bach,Strange Sects and Curious Cults,Dodd, Mead & Company, New York,1961, p.109-124. 7- Cf. The People's Almanac by David Vallechinsky & Irving Wallace, Doubleday & Company, Inc. New York, 1975, pp. 1-30. Marcus Bach,Strange Sects and Curious Cults, Dodd, Mead & Company, New York, 1961, pp. 109-124 (Chapter 9: The Apocalypticists). 8- When the world fully enters that sign, it has been prophesied, there will be “2000 years of humanitarian and universal brotherhood.” Further, all developments will be related to a factor as infinite and intangible as AIR. Great advances in aviation and all principles related thereto are predicted for the forthcoming air age. The advance of nuclear physics now being made as a liberation from the more finite substance of WATER and MASS is declared an indication of the coming Aquarian Age. Great breadth of mind or universality of thought, as mystical philosophy, is said to manifest, particularly in the Aquarian Age, as men's minds become as lofty and as unbounded as the air itself. (What is the Aquarian Age by Samuel Rittenhouse, in Rosicrucian Digest August, 1969, p.306.) 9- We are living in “The Time of the End.” The end of the World? The end of our civilization? The end of culture? The end of mankind? No! The end of fear, worry, poverty, starvation, sorrow and sickness. (Xem Zale H. Bechor, Prophecy Yesterday, Today and Tomorrow,Astro Press, 1980, tr.143-145). 10- Những từ in đậm và nghiêng là do KNTL thực hiện. Nguyễn Văn Thọ (Theo http:/forums.gamevn.com) Nhưng mới có 10 năm trong cung Bảo Bình sao lại thấy có nhiều Đạo tặc, đạo chích, đạo tham ô, đạo lừa đảo, đạo văn, xh thì điên loạn, kẻ cậy quyền cậy thế ức hiếp dân lành, vô văn hóa nhiều hơn văn minh...Nhưng có nhiều nhân tài thật, đấy: Tại Bắc Hàn mới có 27 tuổi mà đã làm "Đại tướng" đấy. Bài viết rất hay và đậm chất lý học. À, hoá ra là vậy!1 like
-
Điều gì tạo ra một quốc gia tham nhũng? Tác giả: theatlantic Tuanvietnam.vn Bài đã được xuất bản: 9 giờ trước Tham nhũng là một thực tế của sự phát triển kinh tế. Nó không chỉ là bệnh của các quốc gia nghèo nhất và thực dụng nhất, mà cả ở những nước tăng trưởng nhanh nhất như BRIC Ở ta làm gì còn... bọn tham nhũng Chống "giặc nội xâm" Quốc hội Mỹ được sự đồng ý của lưỡng đảng đã quyết định hoãn thi hành luật cải cách tài chính, và đề nghị các công ty dầu khí và khai mỏ công khai mọi khoản thanh toán cho các chính phủ nước ngoài. Nhưng các nỗ lực như vậy có giúp chặn cơn thủy triều tham nhũng hay không? Phân tích của tôi cho thấy trước khi chúng ta có thể bài trừ được tệ tham nhũng một cách có hệ thống này, chúng ta phải đối diện với thực tế là nó không diễn ra một cách đơn lẻ - đây là triệu chứng của các căn bệnh xã hội và kinh tế đã bắt rễ sâu. Chú thích: Chỉ số nhận thức tham nhũng năm 2010 (theo số liệu của Tổ chức Minh bạch Quốc tế) Bản đồ trên đây cho thấy Chỉ số Nhận thức tham nhũng (CPI) năm 2010 các quốc gia trên thế giới thông qua các hoạt động hối lộ, đút lót, lại quả, tham ô và các hình thức tham nhũng khác của các chính phủ. Nước tham nhũng ít nhất thế giới là Đan Mạch, theo sau lần lượt là New Zealand, Singapore, Phần Lan, Thụy Điển và Canada. Mỹ đứng thứ 22. Các quốc gia thuộc nhóm BRIC - gồm Brazil, Nga, Ấn Độ và Trung Quốc - đứng thứ ba từ dưới lên, dù đây là những nước tăng trưởng nhanh nhất thế giới. Các nước như Angola, Somalia, Afghanistan và Iraq nằm ở tốp dưới cùng. Tôi và đồng nghiệp Charlotta Mellander đã so sánh mối tương quan giữa thứ hạng của một quốc gia về chỉ số tham nhũng với vị trí của nước đó trong một loạt các thước đo tiêu chuẩn khác như sự phát triển kinh tế (sản lượng trên đầu người), mức độ chuyển đổi sang nền kinh tế dựa trên tri thức (nguồn nhân lực và tỷ lệ tầng lớp sáng tạo trong lực lượng lao động), độ khoan dung của xã hội (theo xếp hạng của cuộc thăm dò do Viện Gallup về thái độ đối với người đồng tính và các dân tộc và sắc tộc thiểu số), và mức độ hài lòng về cuộc sống hay cảm giác hạnh phúc (hầu hết dựa theo các số liệu thăm dò của viện Gallup). Phân tích của chúng tôi chỉ có thể nhận dạng mối tương quan giữa các biến số khác nhau, chứ không hàm ý quan hệ nhân quả nào. Chú ý là CPI sắp xếp các nước theo một trật tự đảo ngược, quốc gia càng ở thứ hạng cao hơn là quốc gia càng tham nhũng nhiều. Tham nhũng và mức độ phát triển kinh tế: Tham nhũng được gắn liền với mức độ phát triển chung của nền kinh tế: Quốc gia càng giàu có thì càng ít tham nhũng. Trong bảng trên, các nước giàu có hơn và tiên tiến hơn tập trung ở phía trên, trong khi các nước nghèo hơn và kém phát triển hơn thì tập trung ở phía dưới. Tham nhũng và tầng lớp sáng tạo: Các nền kinh tế dựa trên tri thức tham nhũng ít hơn. CPI có liên quan nhiều đến nguồn nhân lực và đặc biệt là tỷ lệ tầng lớp sáng tạo trong lực lượng lao động. Tham nhũng và độ khoan dung của xã hội: Các quốc gia tham nhũng cũng có xu hướng là những nơi ít khoan dung với người xung quanh. CPI có liên quan đến thái độ đối với các dân tộc thiểu số hoặc các nhóm sắc tộc thiểu số, và đặc biệt là đối với người đồng tính nam và đồng tính nữ. Tham nhũng và hạnh phúc: Các quốc gia tham nhũng có xu hướng cảm thấy ít hạnh phúc và ít hài lòng với cuộc sống hơn. CPI có liên quan mạnh với mức độ hài lòng với cuộc sống nói chung. Lên án tham nhũng dễ hơn nhiều khắc phục tệ nạn này. Phân tích của tôi cho thấy việc trừng phát các công ty đút lót mới chỉ là điều trị một triệu chứng mà không chẩn đoán đúng, khiến cho căn bệnh tham nhũng trở nên trầm trọng và khó chữa hơn. Tham nhũng là một thực tế của sự phát triển kinh tế. Nó không chỉ là bệnh của các quốc gia nghèo nhất và thực dụng nhất, mà cả ở những nước tăng trưởng nhanh nhất như BRIC. Các quốc gia tham nhũng thường có những cấu trúc kinh tế truyền thống hơn, dựa trên sản xuất hoặc khai thác tài nguyên thiên nhiên; chưa chuyển sang các nền kinh tế dựa trên tri thức. Các nước tham nhũng cũng có vẻ ít khoan dung hơn, công dân các nước này không chỉ chịu đựng mức sống thấp hơn mà còn ít hạnh phúc hơn và không hài lòng về cuộc sống. Nếu chúng ta thực sự muốn đấu tranh chống tham nhũng, cần phải giải quyết các thách thức lớn hơn và khó khăn hơn nhiều là phát triển kinh tế. Khi các nước kém phát triển bắt đầu tạo đòn bẩy cho tri thức, năng lực và nguồn nhân lực của mình để nâng cao sản lượng kinh tế, mới có thể thực sự chiến thắng trong cuộc chiến này. Quốc Thái theo theatlantic.com1 like
-
Suy diễn từ nguyên lý đột sinh (Gửi vào: 3/9/2008 8:55:17 PM) Từ nguyên lý đột sinh có thể đi đến ý tưởng sau đây: để nhận thức và thấu hiểu các hiện tượng bí ẩn của thế giới tâm linh (vô hình), các nhà khoa học đương đại cần phải dứt khoát từ bỏ ý tưởng già cỗi là mong muốn dựa trên các hiểu biết vật lý để giải thích mọi hiện tượng phi vật lý! NGUYÊN LÝ ĐỘT SINH VÀ THẾ GIỚI TÂM LINH Như chúng ta đã biết, nguyên lý đột sinh có quan hệ với cấu trúc vật lý, theo đó có thể xuất hiện những định luật mà nói đến cùng không thể được suy diễn từ những nguyên lý vật lý cơ bản hơn (đã biết hoặc chưa phát hiện ra). Nói cách khác, trong vật lý tồn tại những lớp định luật độc lập nhau. Điều đáng chú ý là có thể áp dụng nguyên lý “đột sinh” để xem xét một số luận điểm về thế giới tâm linh. Trước hết cần nhấn mạnh rằng, nguyên lý “đột sinh” chỉ là một khía cạnh biểu hiện của nguyên lý “độc lập”: tồn tại cái gì đó mà không thể được suy diễn từ những cái khác “cơ bản” hơn. Bây giờ chúng ta xét đến thế giới tâm linh hay thế giới phi vật lý (vô hình đối với người thường). Một trong những biểu hiện nổi bật nhất có liên quan đến thế giới tâm linh là hiện hữu sự sống sau cái chết của con người (vong linh). Từ hàng ngàn năm qua, những người nhân danh “khoa học” không thể phủ nhận được sự thật 100% đó. Lý do mà họ không thừa nhận các hiện tượng tâm linh thật là rõ ràng: từ vốn hiểu biết về thế giới vật lý không thể suy diễn được thế giới tâm linh. Xuất phát từ nhận thức như vậy, họ bác bỏ thế giới tâm linh bằng đủ mọi thứ lý lẽ ngang trái và thậm chí phản khoa học, trong khi các hiện tượng bí ẩn vẫn phô diễn trong cuộc sống thường ngày. Câu hỏi đầu tiên có thể được đặt ra xuất phát từ nguyên lý “đột sinh” là: Có tồn tại thế giới vật chất khác mà không thể được suy diễn từ thế giới vật lý của chúng ta? Những người có giác quan đặc biệt từ thời xa xưa đến nay luôn đưa ra câu trả lời khẳng định. Đến đây, lại một vấn đề khác nảy sinh: Sự tồn tại giác quan đặc biệt có thể được suy diễn từ sự tồn tại giác quan vật lý? Câu trả lời rõ ràng là “không” vì bản chất của hai dạng giác quan đó khác nhau căn bản. Một vấn đề nữa có liên quan đến cả thế giới vật lý và thế giới tâm linh được đặt ra: Ý thức từ đâu tới? Nếu ý thức trong thế giới vật lý phát sinh từ mạng nơron thần kinh trong bộ não thì ý thức trong thế giới tâm linh do đâu? Nếu giả định về ý thức trong thế giới hữu hình là đúng đắn thì cơ chế sinh ra ý thức trong thế giới vô hình không thể tương tự như vậy. Quả là bế tắc nếu tiếp tục đặt niềm tin “cơ sở” lên thế giới vật lý. Khía cạnh tiếp theo cần được bàn luận là phương pháp thực nghiệm và cách đánh giá các hiện tượng của thế giới phi vật lý. Từ trước đến nay các nhà “khoa học” thậm chí không để ý đến điều sau đây: thế giới vật lý và thế giới phi vật lý hoàn toàn khác biệt nhau về cấu trúc vật chất và thuộc tính, cho nên phương pháp thực nghiệm và cách đánh giá kết quả đối với thế giới vô hình ít khả năng giống với những gì diễn ra trong thế giới hữu hình. Ví dụ, một người được nói cho biết là vong người thân (bố, mẹ, anh hoặc em) đang nói chuyện với mình, nhưng nội dung thu được lại có nhiều điều không đúng với thực tế. Nếu người đó vội đánh giá việc gọi vong nói chung là bịp bợm thì có thể gặp sai lầm bởi các nguyên nhân sau: - vẫn xảy ra trường hợp vong bên ngoài mạo nhận; - khả năng của vong có hạn, không thể điều gì cũng biết và nhớ chính xác; - vong người thân cố ý nói sai lệch hoặc im lặng vì không có thiện chí; - tâm trí người nhập vong không tương thích v.v... Hoàn toàn có khả năng là quá trình nghiên cứu thế giới phi vật lý phức tạp hơn nhiều so với thế giới vật lý. Vậy mà từ trước đến nay, việc đầu tư nhân lực và tài chính cho lĩnh vực này quá ít ỏi, phiến diện, không liên tục, nửa công khai nửa bí mật và luôn bị quấy nhiễu bởi những người có đầu óc cực đoan. Và một khía cạnh cuối cùng không thể không đề cập tới, đó là thái độ bảo thủ, tự kiêu tự đại của những người ngộ nhận có hiểu biết “khoa học” toàn diện, bất kỳ điều gì cũng phải được quy đổi về vốn tri thức sẵn mà có thể đã quá lỗi thời. Chính Viện sĩ Erono Mundasep cũng đã từng có nhận xét về lớp người đó (trong cuốn sách “Chúng ta thoát thai từ đâu”) thành mấy loại: phản bác cái mới nhằm mục đích bảo vệ thành quả hoặc kiến thức thu nhặt được đã ăn sâu vào máu thịt của mình; đa nghi kiểu Tào Tháo, nghĩa là chỉ thừa nhận những gì có vật chứng; phản bác mang tính thương mại (lo sợ ảnh hưởng đến quyền lợi vật chất và danh tiếng của mình). Lê Huy Toàn1 like
-
CÂU ĐỐ VỀ THẾ GIỚI TÂM LINH Hàng ngàn năm qua, những người thông thái nhất trên thế giới có lẽ đã bị ám ảnh bởi câu đố đơn giản và cụ thể sau đây: Giải thích như thế nào về sự tồn tại các hiện tượng tâm linh? Hàng ngàn năm qua, những người thông thái nhất trên thế giới có lẽ đã bị ám ảnh bởi câu đố đơn giản và cụ thể sau đây: Giải thích như thế nào về sự tồn tại các hiện tượng tâm linh? Theo nhiều ghi chép từ xưa đến nay, các hiện tượng tâm linh thường xuyên xuất hiện trong cuộc sống con người. Do các hiện tượng như vậy không thể được lặp lại một cách cứng nhắc theo những kịch bản khuôn mẫu, nên những người có quan niệm cực đoan dễ dàng phủ nhận chúng và quy chụp cho người đã chứng kiến hoặc có khả năng đặc biệt là bịa đặt, giả mạo, lừa gạt v.v... Thậm chí, ngay cả khi các hiện tượng tâm linh đã được xác nhận một cách không thể chối cãi thì dựa vào kho tàng hiểu biết hiện có người ta cũng không thể giải thích được vì sao có các hiện tượng bí ẩn như vậy. Chúng ta hãy thử phân tích nguyên nhân nằm ở chỗ nào và tìm chìa khoá để giải câu đố nói trên. Trước hết, chúng ta sẽ giới hạn xem xét các hiện tượng tâm linh có liên quan đến những “vong linh” - thực thể vô hình có biểu hiện trí tuệ, cảm xúc, hoạt động sống... ở mức độ như con người hoặc đặc biệt hơn. Rõ ràng, các điểm đặc trưng của những vong linh đối với con người bình thường là phi hình dạng, vô lời, không mùi... Nhưng một số người với khả năng đặc biệt hay các nhà “ngoại cảm” lại có thể nhìn thấy hình dạng, nghe được tiếng nói, nhận biết mùi... của những vong linh. Như vậy, chúng ta có thể dựa vào các nhà ngoại cảm mà thực chất họ là những bộ máy tự nhiên tinh xảo nhất để tiến hành các cuộc thực nghiệm về hiện tượng tâm linh. Và cho đến thời điểm này, dựa trên những kết quả nghiên cứu thực nghiệm của một số cơ quan, tổ chức ở Việt Nam hơn mười năm qua, có thể rút ra kết luận rằng: các hiện tượng tâm linh là có thực, một phần vô hình của con người vẫn tồn tại sau cái chết với đầy đủ giác quan, trí tuệ, cảm xúc, hoạt động sống... nhưng thuộc một bình diện vật chất khác với thế giới hữu hình của chúng ta. Vậy thì vì sao cho đến nay cộng đồng các nhà khoa học đương đại không thể giải thích được các hiện tượng tâm linh? Theo chúng tôi, chìa khoá để giải câu đố về các hiện tượng tâm linh nói riêng và thế giới tâm linh nói chung cần được tìm kiếm từ những vấn đề đặt ra sau đây: 1- Có tồn tại vật chất vô hình hay không? 2- Ý thức hay tính “biết” của con người do đâu mà có? Trong kho tàng tri thức khoa học hiện đại không có chỗ cho sự tồn tại của vật chất vô hình, còn ý thức hay tính “biết” của con người được giả định là do sự phức tạp của cấu trúc vật chất (bộ não) sinh ra. Bởi vậy, sự tồn tại các vong linh dưới nhãn quan của các nhà khoa học là phi lý hoàn toàn. Chúng tôi đã tìm thấy lời giải đáp cho hai vấn đề nêu trên trong cuốn sách “Vũ trụ và con người dưới góc độ khoa học tâm linh” của tác giả Trần Văn Đình (Tạp chí Thế Giới Mới đã giới thiệu trong số 732). Theo đó, hai điểm sau đây cần được chấp nhận như định đề : 1. Toàn bộ vật chất của vũ trụ được cấu tạo theo từng lớp, chúng thâm nhập lẫn nhau và tồn tại trong cùng một không gian như các dải sóng, trong đó chỉ có lớp vật lý là lớp hữu hình, còn những lớp khác đều vô hình đối với mắt người thường; trong số những lớp vô hình có một lớp mịn nhất chứa các hạt nguyên sơ phi cấu trúc với nhiều tính chất đặc biệt, được gọi là “lớp tâm thức”. 2. Ý thức nói riêng hay tính “biết” nói chung của con người và mọi loài sinh vật khác không phải do các cấu trúc vật chất tự sinh ra, đó là kết quả tương tác giữa các sinh vật với “lớp tâm thức”. Nói cách khác, mọi cấu trúc vật chất từ vĩ mô (như các tinh tú) cho đến vi mô (như các hạt quark) đều có biểu hiện tính “biết” ở mức độ này hay mức độ khác. Sau khi đọc đi đọc lại và nghiền ngẫm cuốn sách này nhiều lần, chúng tôi nhận thấy rằng có thể đây là chìa khoá đúng để giải câu đố đã được đưa ra ở đầu bài viết này. Vì sao vậy? Có hai lý do chủ yếu sau đây: - Việc thừa nhận có tồn tại vật chất vô hình vừa phù hợp với các cứ liệu khoa học hiện nay vừa khớp với những gì mà những người có khả năng ngoại cảm nhận biết được trong thế giới phi vật lý. Theo cuốn “Nguồn gốc” của GS TS. Trịnh Xuân Thuận (Phạm Văn Thiều và Ngô Vũ dịch, NXB Trẻ ấn hành quý 2/2006, sách dày 520 trang, giá bìa 150.000đ/cuốn), “vật chất tối” được định nghĩa là vật chất không phát ra bất kỳ thứ ánh sáng nào (dĩ nhiên là đối với mắt người thường) và chỉ bộc lộ thông qua lực hấp dẫn của nó. Điều đáng chú ý là vật chất thông thường (hữu hình) chỉ chiếm một phần rất nhỏ, chỉ đóng góp khoảng 0,5 phần trăm vào mật độ tới hạn (những từ có gạch dưới được trích từ sách). Không loại trừ khả năng là trong số “vật chất tối” có cả vật chất vô hình. Rõ ràng, thứ vật chất vô hình thô nhất mà tất cả chúng ta dễ dàng nhận biết được là không khí (nhờ chuyển động của nó). Vậy thì sự tồn tại những dạng vật chất vô hình khác tinh tế hơn không khí cũng là điều tự nhiên. - Nguồn gốc của ý thức hay tính “biết” là một trong những vấn đề hóc búa từ cổ xưa đến nay và là phần nền tảng của mọi triết học. Trong cuốn “Nguồn gốc” cũng đặt ra những câu hỏi như vậy: Ý thức của con người là gì? Đâu là bản chất của tinh thần? Đâu là nguồn gốc của tư duy? Theo Trịnh Xuân Thuận, các nhà khoa học đương đại vẫn đi theo một trong hai cách lý giải về ý thức sau đây. Cách thứ nhất: Đây là thuyết “nhị nguyên” do triết gia người Pháp là Rene Descartes đã đưa ra vào khoảng năm 1629. Theo đó, con người được ban tặng một tinh thần phi vật chất, không trải rộng trong không gian và không thể phân chia, nhưng lại có một thể xác vật chất trải rộng trong không gian và có thể phân chia; tinh thần tư duy và thể xác vật chất là tách rời nhau, nhưng cùng tồn tại. Tinh thần tiếp xúc với thể xác thông qua “tuyến tùng” trong bộ não. Cách thứ hai: Đây là quan điểm “nhất nguyên” do phần lớn các nhà thần kinh sinh học đương đại thống nhất đưa ra. Theo đó, ý thức không tách rời vật chất, nó “đột khởi xuất hiện” một cách tự nhiên từ vật chất nhờ các hoạt động thần kinh của bộ não. Nói cách khác, ý thức là sự phản ánh các quá trình vật lý, kết quả tổ chức cực kỳ phức tạp của các mạch thần kinh sinh vật. Đáng lưu ý là từ cả hai cách lý giải về sự xuất hiện ý thức trên đây đều dẫn đến một hệ quả tất yếu: không thể tồn tại vong linh của người đã chết. Từ đây chúng ta lại suy ra một hệ quả khác: Nếu các nhà khoa học đương đại không thay đổi quan điểm về nguồn gốc của ý thức nói riêng hay tính “biết” nói chung thì không thể giải thích được các hiện tượng tâm linh. Tác giả cuốn “Vũ trụ và con người dưới góc độ khoa học tâm linh” đã xem xét một ý tưởng hoàn toàn khác về nguồn gốc của ý thức. Theo đó, mọi cấu trúc vật chất, dù đơn giản hay phức tạp, dù vô hình hay hữu hình, dù to hay bé, đều có ý thức ở một mức độ nhất định. Nói khác đi, ý thức là một thuộc tính phổ quát của mọi cấu trúc vật chất, kể cả bản thân vũ trụ. Kết luận này khớp với quan điểm trong một số thuyết tôn giáo khi đưa ra khẳng định rằng, mọi vật đều có “phật tính” hay “thượng đế tính” mà thực chất là tính “biết”. Hơn nữa, ý thức như vậy không phải do các cấu trúc vật chất tự sinh ra, đó là kết quả tương tác giữa chúng với lớp vật chất phi cấu trúc (“lớp tâm thức”). Chính nhờ sự phổ quát của tính “biết” mà trong thế giới sống trên Trái Đất từ khi khai thiên lập địa đến nay đã và đang diễn ra sự tiến hoá với quy mô rộng lớn, sâu sắc, tinh tế, mạnh mẽ, lâu dài và muôn hình muôn vẻ của hàng tỷ tỷ sinh vật từ những dạng đơn bào cho đến các loài phức tạp như con người. Như vậy, chìa khoá để giải đáp các hiện tượng tâm linh đã được đưa ra. Chúng tôi cho rằng, việc thừa nhận ý tưởng này chỉ còn là vấn đề thời gian. GHI CHÚ: Cuốn sách Vũ trụ và con người dưới góc độ khoa học tâm linh đã được Tạp chí Thế Giới Mới số 732 ra ngày 30-4-2007 giới thiệu. Nhóm NC tâm linh, 8-2007 ========================================================= VẬT CHẤT HAY Ý THỨC CÓ TRƯỚC? Câu hỏi này vốn đã tồn tại từ lâu trong triết học. Nhưng chúng ta sẽ xét câu trả lời cho trường hợp tổng quát hơn: Tính “biết” có trước hay vật chất có trước? Lưu ý: “ý thức” chỉ là một dạng của tính “biết”. Theo các đại sư, tính “biết” với mức độ khác nhau hiện hữu ở tất cả các vật sống cũng như không sống, vô hình cũng như hữu hình, bé cũng như lớn. Ví dụ, nhờ tính “biết” mà các thành viên của một đàn kiến, đàn ong hay đàn mối có thể cùng tồn tại với nhau như một xã hội được tổ chức chặt chẽ; cũng nhờ tính “biết” mà hàng tỷ tỷ tế bào trong một cơ thể sống phức tạp có thể cùng hoạt động như một cộng đồng hài hoà lý tưởng. Trước khi đưa ra câu trả lời cho câu hỏi nói trên, cần mở rộng khái niệm “vật chất” cho cả hữu hình và vô hình (“vật chất tối”) mà “tính vật chất” được biểu hiện qua tác động trọng lực. Theo cuốn “Vũ trụ và con người dưới góc độ khoa học tâm linh” mà chúng tôi đã đề cập đến ở trên, toàn bộ các cấu trúc vật chất của vũ trụ đều bắt nguồn từ bình diện tâm thức (lớp vật chất phi cấu trúc vốn tồn tại khắp nơi và vĩnh hằng, vô hạn, phi không gian và phi thời gian). Như vậy, khi nói đến “vật chất” cần phân biệt hai dạng nền tảng: vật chất có cấu trúc và vật chất phi cấu trúc. Đến đây, chúng ta có thể đưa ra hai khía cạnh của câu trả lời cho câu hỏi đã được đặt ra ở đầu bài viết này: - Tính “biết” có sau vật chất phi cấu trúc; - Tính “biết” sinh ra đồng thời với sự xuất hiện vật chất có cấu trúc. Như vậy, mặc dù vấn đề nói trên đặt ra trong triết học có vẻ lớn lao và tuỳ chọn nhưng lời giải đáp ở đây đã được xác định một cách đơn giản và rõ ràng. Nhóm NC tâm linh, 9-2007 ========================================================= HÉ MỞ BÍ ẨN LƯỢNG TỬ Những thí nghiệm trong thế giới lượng tử cho thấy hai điều kỳ lạ sau đây: các photon (lượng tử ánh sáng) dường như có một thứ ý thức nào đó và hiện thực được quan sát của nó gắn liền với cách mà người thực nghiệm suy nghĩ. Hai điều bí ẩn này có thể được lý giải? Thí nghiệm thứ nhất Thí nghiệm nổi tiếng sau đây do nhà vật lý xuất sắc người Anh là Thomas Young đã thực hiện lần đầu tiên vào năm 1801(1). Trước hết chúng ta hãy hình dung những thứ được dùng để thí nghiệm: một tấm phẳng đặt thẳng đứng được chọc thủng bởi hai khe, một nguồn sáng đặt trước nó đối diện với hai khe hở và một màn chắn đặt phía sau. Khi quan sát người ta đã thấy rằng, trên màn chắn có một loạt vệt tối và sáng nằm dọc, đó chính là hiện tượng giao thoa ánh sáng. Nói cách khác, trong trường hợp này ánh sáng giống như một chất lỏng lan ra nhờ các sóng, những sóng này cũng có cùng bản chất như sóng nước. Nhưng theo Einstein, ánh sáng được cấu thành từ những hạt nhỏ, được gọi là photon (lượng tử ánh sáng). Làm thế nào mà những đống hạt xoáy lốc, tách rời nhau ấy lại có thể tạo thành những hình thù cố kết và chính xác của những dải sáng và tối nối tiếp nhau như vậy? Đó chính là một điều bí ẩn mà khoa học chưa lý giải được. Thí nghiệm thứ hai Để thấy rõ hơn, có thể tiến hành thí nghiệm nói trên thành từng giai đoạn như sau. Trước hết, tạm bịt kín một khe, khe bên trái chẳng hạn. Trong trường hợp này các photon phải đi qua khe duy nhất bên phải. Tiếp theo, cần giảm cường độ của nguồn sáng cho tới khi nó phóng ra từng photon một. Bây giờ hãy “bắn” một photon đi. Sau khi đi qua khe bên phải, photon này gặp màn chắn và để lại một điểm vết trên đó. Ta ký hiệu điểm vết này là A. Giả sử bây giờ chúng ta mở khe bên trái ra và lại “bắn” tiếp một photon theo hướng khe bên phải như trước (điểm xuất phát, hướng bay và tốc độ của photon được làm giống nhau hoàn toàn trong cả hai lần “bắn”, sự khác nhau duy nhất chỉ là trong lần thứ hai có thêm khe hở bên trái). Khi gặp màn chắn, photon để lại một điểm vết mới, được ký hiệu bởi B. Bằng quan sát thực tế cho biết rằng, hai điểm A và B không trùng nhau, tức là A khác B. Nói cách khác, sự việc xảy ra như thể ứng xử của photon thứ hai đã bị biến đổi khi mở khe hở bên trái. Điều bí ẩn ở đây là ở chỗ: làm thế nào mà photon “phát hiện” được khe bên trái đã được mở ra? Nếu chúng ta tiếp tục “bắn” các photon qua cả hai khe (không “ngắm” cụ thể vào khe nào) thì trên màn chắn dần dần sẽ hình thành một nền giao thoa ánh sáng. Ở đây lại xuất hiện một câu hỏi nữa: Làm thế nào mà mỗi photon “biết” được là nó phải đụng vào phần nào trên màn chắn để cùng với những photon bên cạnh tạo ra một dạng hình học gồm những vạch thẳng đứng kề nhau theo một trật tự chặt chẽ? Câu hỏi này đã được đặt ra vào năm 1977 bởi nhà vật lý Mỹ Henry Stapp, người bị lay động sâu sắc vì những kết quả thí nghiệm lượng tử đó. Làm thế nào mà các photon biết có hai khe? Làm thế nào mà thông tin về những gì xảy ra ở nơi khác lại được tập hợp để xác dịnh cái gì có thể xảy ra ở đây? Các kết quả thí nghiệm trên đây đã làm cho người ta có cảm giác rằng, các photon có một dạng ý thức nhất định. Điều này trùng hợp với quan điểm của Teilhard de Chardin coi mọi thứ trong vũ trụ, kể cả những hạt nhỏ bé nhất, đều là những cái mang ý thức với mức độ khác nhau. Thí nghiệm thứ ba Một điều bí ẩn khác cũng gắn liền với các hiện tượng lượng tử. Nếu trong thí nghiệm, người quan sát quyết định kiểm tra tính chất hạt của photon thì photon ấy ứng xử giống như một hạt đi qua khe hở. Trái lại, nếu người quan sát không cố gắng theo dõi quỹ đạo của mỗi photon trong thí nghiệm thì sự phân bố các photon trên màn chắn rốt cuộc lại tạo nên một hình giao thoa của các sóng. Dường như ở đây các photon biết rằng, người ta đang quan sát chúng theo suy nghĩ nào hay ý nghĩ của người quan sát ảnh hưởng trực tiếp lên các photon trong thí nghiệm. Hai điều bí ẩn trên đây đều có thể dễ dàng được giải thích nếu xuất phát từ thuyết đa chiều thực tại của vũ trụ và tác động của ý nghĩ lên vật chất dạng năng lượng. - Điều bí ẩn thứ nhất: Photon có một dạng ý thức nào đó? Đúng vậy! Theo tính chất thứ 10 của hệ quả 2 được suy ra từ Định đề về Vũ trụ (xem “Vũ trụ và con người dưới góc độ khoa học tâm linh”), mọi cấu trúc vật chất dù lớn hay bé đều tương tác hay được “nhúng” trong đại dương vật chất phi cấu trúc (bình diện tâm thức) mà kết quả là có tính “biết” - một dạng ý thức nào đó. Như vậy, không chỉ các photon mà tất cả các vi hạt khác cũng đều có biểu hiện tính “biết” ở những mức độ khác nhau tuỳ thuộc vào cấu trúc của chúng. - Điều bí ẩn thứ hai: Ý nghĩ của con người ảnh hưởng trực tiếp đến photon trong thí nghiệm? Đúng vậy! Không phải các photon biết được ý nghĩ của con người để chúng hành xử theo, mà là các ý nghĩ đã tác động trực tiếp đến “chất” ánh sáng (xem “Phiêu lưu ngoài cơ thể”). Theo nhà xuất thần Williams Buhlman, trong một số chiều thực tại năng lượng mà ông đã chứng nghiệm, các ý nghĩ dễ dàng tạo khuôn cho những “chất” năng lượng xung quanh. Vì vậy có thể cho rằng, mỗi photon ở bên ngoài thí nghiệm luôn hành xử như một “mảng sóng” (tựa chất lỏng). Nhưng khi ai đó có ý định quan sát biểu hiện “hạt” của photon trong thí nghiệm, thì chính các ý nghĩ của anh ta đóng vai trò tạo khuôn, làm cho “mảng sóng” photon đậm đặc lại thành “hạt” và người quan sát đã ghi nhận được nó. Điều tương tự đã được mô tả rất nhiều và khá chi tiết trong nhật ký của Williams Buhlman. Tương tự, sự sai khác vị trí của hai điểm vết A và B trong thí nghiệm thứ hai không phải do photon thứ hai biết khe hở bên trái đã được mở ra, mà là do ý nghĩ của người thực nghiệm nghĩ về điều đó gây nên. Chính các ý nghĩ của người quan sát đã làm lệch quỹ đạo chuyển động của photon thứ hai. Bằng những kết quả thực nghiệm xuất thần của mình, Williams Buhlman đã góp phần quan trọng trong việc xác nhận sự dúng đắn của thuyết vũ trụ đa chiều thực tại mà luận điểm nền tảng là Định đề về Vũ trụ. Chúng tôi đề nghị các nhà vật lý xa gần hãy tham khảo những gì được bàn luận ở đây để có một cái nhìn toàn diện và đúng đắn về Vũ trụ của chúng ta. Nhóm NC Khoa học Tâm linh, 1-2008 ========================================================= (1) Tư liệu được lấy từ cuốn sách “Bên ngoài khoa học” của nhiều tác giả (Lê Diên, Trịnh Nguyên Huân, Đặng Mộng Lân, Ngô Quốc Quýnh dịch, NXB Khoa học & kỹ thuật, Hà Nội - 2004).1 like
-
NHỮNG BÀI THƠ HAY
Vô Vi liked a post in a topic by Du Ca
Em Mãi Là Hai Mươi Tuổi Quang Dũng Em mãi là hai mươi tuổi Anh mãi là mùa xanh xưa Những cây ổi thơm ngày ấy Và vầng hoa ngâu mưa thu Tóc anh đã thành mây trắng Mắt em dáng thời gian qua Ngày nay ngày nay Chuyện đẹp qua mau Thời gian gấp ruổi Còn lại chúng ta Em mãi là hai mươi tuổi Ta mãi là mùa xanh xưa Giữ trọn tình người cho đẹp Ơi! Con đường xưa Những mùa trút lá Cành bàng mồ côi Cổng cũ rêu phong Ý đợi người Ơi! Con đường xưa Men vườn ổi thơm Em tuổi hai mươi Yêu anh hào hiệp Bỏ em anh đi Đường hai mươi năm Dài bao chia ly Có những vợ chồng Không là trăm năm Mà tình thương yêu Sông ơi! Dài sao Rộng ơi! Biển cả Thôi em nước mắt Đừng rơi lã chã! Em mãi là hai mươi tuổi Ta mãi là mùa xanh xưa... Giữ trọn tình người cho đẹp1 like -
Tham khảo bài viết hay: ... Quay lại chứng khoán Nếu ai ko am hiểu sâu về các chỉ số tài chính thì chỉ cần áp dụng chỉ số PE mà mua nó chọn một mã PE<10 ( thanh khoản cao) rồi áp dụng phương pháp cấp số nhân mua dần rất thích hợp thị trường Dowtrend. Ví dụ: ví dụ thực tế 1 mã cổ phiếu ở sàn Ha PVX giá 21 Hiện PVX giá 21 Ngày 1 mua 1000 PVX giá 21 Ngày 2 nó xuống còn 20 mua 2000 cp Ngày 3 nó xuống con 19 mua 4000 cp Ngày 4 no xuong 18 mua 8000 cp Áp dụng công thức tính bình quân gia quyền ta có: 1000cp x 21000 đồng + 2000 cp x 20000 đồng + 4000 cp x 19000 đồng + 8000 cp x 18000 đồng =../Tổng số cổ phiếu = giá bình quân? => đảm bảo khi quay đâu 1 phiên lãi luôn toàn bộ cp đã mua ban đầu và lại dc lợi thế T+ PE hiện của PVX là: 6.97 giá càng giảm thì PE càng giảm => chỉ số PE càng hấp dẫn * Ý nghĩa của phương pháp này : - Được lợi thế T+ - Đập tan các thế lực ngầm ( âm mưu đánh xuống) - Chỉ cần 1 phiên quay đầu là lãi toàn bộ đã mua ban đầu - Có thể áp dụng thế cưa chân bàn trong quá trình mua bán ( nếu người nào muôn ăn chắc mặc bền hay còn gọi là ăn non) - rất lợi cho các nhân viên môi giới, lợi cho người định hướng phải theo phương pháp này ( Nhân viên môi giới nào có nhiều khách hàng thì định hương họ chơi theo phương pháp này rất có lợi) lợi nhất là nhân viên môi giới Tóm lại tất cả anh em môi giới ở đây mai mà định hướng khách hàng của mình chơi theo phương pháp này thì đảm bảo các thế lực đánh xuống chỉ còn tìm cách mà cover lại hàng ( nếu hàng đang được đánh xuống) ====================== To MJ: Mã cp MTG đang rất xấu theo TA (Theo LV ĐT quẻ Kinh Vô Vong), rất có khả năng về vùng 8-8,5 nếu ngưỡng 9,0 vỡ. Nếu Mj vẫn cứ tiếp tục dùng chiêu quẻ "Khai Tiểu Cát" thì lỗ đấy. Với người mới chơi thì hay gặp may, đã chơi sâu hơn thì dễ cháy với chiêu đó lắm. Tốt nhất chuyển sang các mã Blu đi cho an toàn. Đừng quan tâm thị giá cao thấp, vì giá chỉ là khái niệm.1 like
-
Lâu mới thấy Cự Môn tại Tỵ. Về tình duyên, bản thân bạn là người khó tiếp cận, lập gia đình càng muộn càng tốt (con trai giờ toàn 30-35 mới lấy vợ). Cưới xin dễ dàng, vợ là người ưa nhìn (đúng ý bạn nhé - vợ cứ phải là xinh) Để cuộc sống dễ thở và thuận lợi hơn cho bạn, lưu ý mấy vấn đề sau: - Hạn chế sông nước, không nên tham gia bơi lội gì hết - Ăn uống cẩn trọng, bộ máy tiêu hóa của bạn ko được tốt - Tích cực nghe nhiều nói ít, đây là điểm quan trọng nhất. Cân nhắc thật kỹ trước khi nói, tránh nói suy diễn hoặc nói không đúng thực tế, nói thật ngắn gọn. - Nên đọc nhiều sách - Cũng nên cởi mở hầu bao một chút, bạn yên tâm, hết tiền lại có. Cho dù bạn tiết kiệm (mà hình như tiết kiệm quá) cũng vẫn vậy, tiêu vẫn thế. Tiền là quí nhưng không nên qui là tất cả. Vận hạn sang năm nói chung chưa thuận lợi, cẩn thận xe cộ va quệt nhưng sẽ qua, sau vụ này bạn sẽ thấy dường như có người âm đi theo cứu giúp.1 like
-
1 like
-
Sang năm có thực hiện ý tưởng gì đó ( dạng như đồ án, luận văn..) coi chừng việc đi lại đêm hôm mà ngã ngụi , hoặc phải hao chút tiền, nói chung là cẩn thận Năm tiếp theo học hành thành đạt (tốt), đề phòng sức khỏe của cha1 like
-
Từ nhỏ đến giờ bạn có hay bị tai bay vạ gió, những việc không đâu xảy đến như ràng buộc lấy mình không? hay lúc mình đang thành đạt (vui vẻ, cảm thấy thành công)đột nhiên có tai vạ đổ xuống đầu không?1 like
-
Chồng còn xa lắm ngoài 25 tuổi cứ lo học hành làm ăn đi, chuyện chồng con tính sau, nên lấy muộn thì đỡ được hình khắc1 like
-
cuộc đời buồn nhiều vui ít, khó khăn khó khăn......1 like
-
công danh nhỏ thấp nhưng được nâng đỡ làm tay chân thân tính! nhưng đến lúc sẽ bị gánh tội thay cho sếp lớn! coi chừng vạ tù đày! lá số ngoài 30 sẽ khá! năm sau cẩn thận mọi chuyện đại hạn 22 rơi vào mệnh tiểu hạn năm mão rơi vào tài! không kiếp kình đà linh hỏa đi kèm tả hữu thì họa lớn lại càng lớn! nếu năm sau vượt qua thì là kỳ tích1 like
-
Chồng 7 phần hư 3 phần thực nói nhiều làm ít phá phách vũ phu1 like
-
lá số giờ tuất đó bạn bố là con trai trưởng, mẹ mất năm 2004! phụ mẫu thiên khôi, năm 2004 tiểu hạn vào năm thân ở cung phụ mẫu, đại hạn 15 vào cung tật tang điếu khốc hư! theo lá số này vì cái miệng mà hại cái thân1 like
-
Khả năng bạn sinh giờ Tuất. Kiểm chứng nhé: Bạn có hơi bị méo miệng? Bạn ăn nói vụng về và hay bị vạ miệng. Trong người đã bị mổ xẻ ?(bụng)1 like
-
Thực tế hôm nay khối ngoại vẫn mua vào trên 7,7 triệu đơn vị. Tuy nhiên độ hăng hái lại không như hôm qua. Không có hiện tượng mua đẩy giá lên cấp tập nữa. Nói chung chiến lược mua mà không tác động lớn đến giá mới là hợp lý đối với hoạt động thu gom. Cầu nội không mạnh, cung hàng tiềm năng lớn thì không có lý gì phải tranh nhau mua giá cao1 like
-
Có số xuất ngoại, có số bỏ chồng , không bị cọp ăn , con cái hiếm, khó nuôi1 like
-
cái này đã phần nào nói lên HPGĐ, QN e sẽ có một ngày bạn sẽ thay đổi, quả nhiên con người bạn dám làm những điều mà người khác còn phải suy nghĩ, Vì vậy QN nói may mà bạn không sống ở VN, vì ở VN suốt đời bạn bất đắc chí, công không thành mà danh không toại.Giờ sinh của bạn và con người của bạn QN nghĩ là đúng rồi khỏi cần bàn cãi. Chỉ e bạn sang Mỹ làm chính trị thì thật là gay go...1 like
-
Năm con mèo sắp tới, hy vọng các nhà khoa học sẽ có những nghiên cứu nói về con mèo, con vật trong hàng ngũ 12 con giáp. Rin86 xin được tổng kết những bài viết về con mèo của mình để đón mừng năm Tân Mão: Người ta cho rằng 12 con giáp tượng trưng cho chu kỳ 12 năm (12 tháng) và nguồn gốc của nó dựa trên một câu truyện cổ tích của Trung Quốc về cuộc thi chạy giữa những con vật. Có người tin rằng người nào sinh vào năm con giáp nào thì mang tính cách na ná như con giáp đó. Nhưng cũng có thể 12 con giáp được người xưa sử dụng khoa học và thực dụng, nhằm phục vụ cho cuộc sống chứ không hề mê tín hay có chút gì cổ tích trong đó cả. Người xưa đã sống gần gũi với những con vật và tổng kết ra rất nhiều những đặc điểm của chúng. Có lẽ những mối liên quan của hành vi các loài động vật như mèo, chuột, trâu, hổ... đối với sự vận động của trái đất, sự tương tác giữa trái đất và vũ trụ, sự thay đổi những hành vi của những loài động vật theo chu kỳ thời gian 12 năm, giống như một công cụ để người xưa tìm hiểu quy luật vũ trụ. Ta có thể thấy loài chuột tìm đường rất tốt trong mê cung, loài trâu luôn đứng theo trục Bắc Nam (đầu hướng về phương Bắc), loài mèo có khả năng dự báo động đất và tìm đường nhờ vào mạng địa từ, loài hổ và loài gà luôn gắn liền với chu kỳ thời gian (hình ảnh loài hổ gắn liền với ngày 30 hàng tháng, người ta gọi chúng là "ông 30" còn loài gà báo giờ hàng ngày rất chính xác)..... theo thời gian và sự đốt phá của quân giặc (do thiếu hiểu biết) những kiến thức đó đã không còn nữa. Những nhà khoa học nghiên cứu hành vi của động vật hiện nay chỉ đang lần lại những manh mối đó thôi. Không hiểu trong từng năm nhất định, hành vi của những loài động vật này có thay đổi nhiều không? ví dụ như trong năm Sửu thì loài trâu có thể thực hiện một số công việc đặc biệt hoặc định hướng tốt hơn? trong tháng Sửu của từng năm và giờ sửu của từng ngày? Đó chỉ là phỏng đoán. Có lẽ những nghiên cứu về động vật trong tương lai sẽ tiết lộ nhiều điều thú vị hơn. Loài mèo cũng là một con vật có khả năng dự báo động đất và khả năng tìm đường dựa vào từ trường trái đất. Chính vì vậy nó hoàn toàn xứng đáng là con vật đứng trong hàng ngũ 12 con giáp. Theo Desmomd Morris, một chuyên gia về mèo, thì mèo có thể tìm được đường về dù ở rất xa. Đó là nhờ trí nhớ thị giác và khứu giác , nhưng chúng cũng có khà năng tìm đường dựa vào từ trường trái đất. Loài mèo có thể không cần quan sát kỹ và ghi nhận con đường vào trí nhớ khi rời khỏi nhà mà sau đó chúng vẫn trở về "mái nhà xưa" một cách bình thường! Người ta vẫn thường biết rằng loài mèo có năng lực bí ẩn và khác thường - đây chính là loại thế giới ngoại cảm mà thú vật hay sử dụng để phục vụ cho sự sống còn của chúng. Theo nhà khoa học Konrad Lorenz, loài mèo tuy sống chung với con người song chúng vẫn giữ được bản sắc hoang dã. Do đó, mèo thuần hóa vẫn duy trì được khả năng khác thường để nhận thức thế giới như là đồng loại chưa được thuần hóa. Mèo nhìn thấy được bề mặt bao phủ bởi một mạng năng lượng do các trường địa từ phát ra từ mặt đất. Trường địa - từ này giống như tấm thảm với các hoa văn rắc rối. Một số nhân vật ngoại cảm nói rằng, đây là một mạng được sắp đặt rất ngăn nắp tựa như tổ ong. Số người khác cho rằng bề mặt trái đất được kẻ thành các ô vuông; và cũng không loại trừ trường hợp cũng có những đường song song đôi khi cắt ngang các khu vực lân cận. Các nhà động vật học tin rằng, loài ếch, thằn lằn, cá heo mỏ và chắc chắn cả loài mèo đều có năng lực tự định hướng rất tốt với sự hỗ trợ của mạng nói trên. Ngày nay, các nhà khoa học đã đạt được các tiến bộ rất lớn trong nghiên cứu và khám phá bí ẩn của thế giới loài mèo. Ký ức thị giác của mèo là rất tuyệt vời song chúng chỉ sử dụng khả năng này để tìm đường về nhà trong các khoảng cách ngắn, tại khu vực chúng sinh sống. Một khi ký ức thị giác tỏ ra bất lực, mèo ta sẽ được dẫn đường bởi mạng địa - từ trên bề mặt trái đất. Điều lý thú là loài mèo không cần phải nhìn con đường để ghi nhận vào ký ức khi chúng rời khỏi căn nhà. Một con mèo có khả năng nhớ con đường một cách dễ dàng ngay cả khi nó bị nhốt trong một cái túi trong lúc di chuyển đến một nơi nào đó cách nhà rất xa. Vậy thì, làm thế nào mà mèo nhà ta có thể cảm nhận được mạng các trường từ và điện từ của trái đất? Các nhà nghiên cứu khám phá hạt phân tử từ cực nhỏ trên các phần “cổ” của vuốt chân trước và sau của mèo nhà ta. Phân tử từ này chỉ nhìn thấy được qua kính hiển vi điện tử. Các nhà nghiên cứu ở Nhà bảo tàng tự nhiên ở Stockholm cũng phát hiện “vòng” từ tính trên hai chân mèo và các con thú khác cũng có khả năng tìm đường về nhà dễ dàng (ví dụ: con chó). Điều ngạc nhiên là chính nơi con người có lẽ cũng có vài cơ quan nhạy cảm từ: các phân tử từ cực nhỏ dạng vòng trong xương! Ngoài ra, loài mèo dễ thương còn có khả năng cảm nhận nguy hiểm rất tuyệt vời mà mọi người đều biết nhưng vẫn chưa giải thích được; do đó đôi khi mèo có thể cứu mạng con người. Một số nhà nghiên cứu cho biết mèo không chỉ dự đoán được động đất, mà còn cảm giác được các thiên tai khác như bão tố, hay thậm chí lửa và bom. Do khả năng ngoại cảm ngoại hạng này của mèo mà trong Thế chiến II quân đội Anh đã dành huy chương đặc biệt thưởng cho những con mèo cứu mạng người... Các nhà khoa học đã điều tra được rằng có gần 70 loài động vật có khả năng dự báo động đất, nhưng loài mèo nhà đứng ở vị trí hàng đầu. Khả năng này của mèo lại càng quý vì chúng lại luôn ở bên con người. Qua rất nhiều quan sát, trước khi xảy ra thiên tai, mèo thường bị kích động, lông chúng xù lên, tai bị ép sát đầu. Chúng gào thét, cào cấu, run rẩy tìm nơi ẩn nấp mà người chủ không nhận thấy rõ một nguyên nhân đe dọa cụ thể nào, chúng đòi ra khỏi nhà và đôi khi đờ người ra. Có thể chúng cảm thấy đất rung chuyển mà các thiết bị không ghi nhận được. Vậy chúng ta có thể thấy, loài mèo có những khả năng rất phi thường có thể giúp đỡ loài người trong thiên tai, hoạn nạn và chúng luôn ở bên cạnh con người. Vậy nếu 12 con giáp được hình thành nên từ kinh nghiệm người cổ tổng kết được khi quan sát các con vật trong môi trường tự nhiên, sự thay đổi hành vi của chúng tương ứng với sự thay đổi của tự nhiên thi con mèo là một con vật có nhiều khả năng phi thường có thể giúp đỡ loài người rất nhiều trong cuộc sống nên nó xứng đáng là con vật đứng trong hàng ngũ 12 con giáp. Người ta có thể sử dụng loài mèo để nghiên cứu mạng địa từ của trái đất và có lẽ còn rất nhiều ứng dụng khác nữa mà chúng ta chưa biết tới. (các ví dụ và dẫn chứng trong bài viết này Rin86 tổng kết từ các bài báo trên internet)1 like
-
Khâm phục bạn. :D :) :D Chuyện học hành vốn ko bao giờ đơn giản, nên các cụ mới nói từ KHỔ HỌC.1 like
-
lậy Phật, xin mượn mấy nhời của ngài. Phật pháp vô biên, bể học vô bờ. xuyên tạc câu: Kẻ thù lớn nhất của đời người chính là cái ác trong con người. Stress lớn nhất của đời người chính là sự căng thẳng thái quá trong mỗi con người. Hãy ngồi xuống Thiền 1 cái, Đạo Phật tồn tại và phát triển được là nhờ Thiền. Hãy Thiền để thưởng thức cuộc sống sẽ ngộ ra được nhiều điều hơn cả đi học. Sống nhanh hay sống chậm ko bằng sống đúng mức. Lộng ngôn cái cho khẩu nghiệp gia tăng nội lực.1 like
-
Ông Phan Dũng Khánh, Trưởng phòng Phân tích, CTCK Kim Eng: Năm 2011 là thời kỳ phục hồi của TTCK Năm 2011 là thời kỳ phục hồi của TTCK "Mua lúc này có cơ hội lớn, với rủi ro thấp. Đặc biệt, triển vọng năm 2011 về mặt cơ bản hay kỹ thuật đều là thời kỳ phục hồi của TTCK” - Trưởng phòng phân tích CTCP Kim Eng. Trong đầu tư có nhiều trường phái, trong đó có việc các NĐT giàu kinh nghiệm chờ đợi thị trường có lực bật rõ ràng, đáy và đỉnh sau cao hơn đáy và đỉnh trước thì mua vào sẽ an toàn hơn. Giống như việc chúng ta đi ngược gió bao giờ cũng khó khăn hơn là đi cùng chiều. Với việc đầu tư chứng khoán thuận xu hướng, dù khó bắt được ngay đáy, nhưng sẽ vào được thị trường an toàn hơn. Với việc thị trường gia tăng mạnh mẽ từ nửa cuối tháng 11 đến nay, thì những phiên điều chỉnh là cơ hội cho những người chưa vào thị trường kịp có thể giải ngân, kể cả các NĐT lớn hoặc dòng tiền mai phục cả năm nay. Dù thị trường đã phục hồi được một quãng đường, nhưng nếu nhìn lại năm 2010, thì vùng hiện tại của VN-Index, HNX-Index và giá nhiều loại chứng khoán vẫn đang ở vùng thấp nhất trong năm. Như vậy, nếu tính thời điểm mua của năm 2010, lúc này là cơ hội lớn, với rủi ro thấp. Nhìn rộng ra triển vọng năm 2011, tôi thấy về mặt cơ bản hay kỹ thuật đều là thời kỳ phục hồi của TTCK. Chứng khoán có nhiều cơ hội để tăng trưởng cao nhất so với các sản phẩm tài chính khác (vốn đã tăng giá mạnh như vàng, bạc hay đồng Yên Nhật). Ngoài ra, việc TTCK liên tục sụt giảm từ năm 2007 đến nay tính ra đã 3 năm rưỡi và xét theo yếu tố chu kỳ thì sang năm 2011 sẽ mở ra một giai đoạn phục hồi và tăng trưởng mới của TTCK. TTCK thường phản ánh kỳ vọng của NĐT về triển vọng lợi nhuận của DN, vì thế không nhất thiết phản ánh các yếu tố vĩ mô hiện tại. Về cơ bản, nền kinh tế và thị trường tài chính còn nhiều vấn đề khó khăn. Tuy nhiên, đây chính là sự vận động tất yếu của một chu kỳ kinh tế và thị trường lúc nào cũng có những vấn đề cần phải giải quyết. Thị trường đã phản ánh điều này từ mấy năm nay, thậm chí có nhiều chuyên gia cho rằng, có sự phản ánh bi quan hơi thái quá. Một khi những vấn đề khó khăn vượt qua được, kinh tế phục hồi (trên thế giới, nhiều quốc gia bắt đầu có tăng trưởng và cùng với Việt Nam, họ bắt đầu lo lắng đến lạm phát - yếu tố thường đi chung với tăng trưởng), thì thị trường sẽ trở nên mạnh mẽ hơn bao giờ hết. Về mặt phân tích kỹ thuật, tín hiệu mua ở những đồ thị tháng, tuần đều xuất hiện. Dĩ nhiên, trong ngắn hạn, khi thị trường tăng mạnh thì sự điều chỉnh là cần thiết để duy trì sự tăng trưởng ổn định và bền vững. Tuy nhiên, tôi cho rằng, mức đáy của 2 sàn HOSE và HNX sẽ khó lặp lại. Theo Ngọc Giang ĐTCK1 like
-
uh, đúng là học thì nhanh, hành thì lâu. cứ vui đã, tính sau cũng chưa muộn. Quý cô quả là có tinh thần lạc quan đáng quý. Chúc quý cô vui vẻ nhân ngày Nó ẻn.1 like
-
Đúng là Thất sát tại mệnh. Làm ko cần nói. Khẩu khí luôn hăng hái dù ở thế đứng nào. 2013 đang đón chờ. Tầm đó hoặc 2014 quay lại cũng chưa muộn.1 like
-
Vậy thì phải dùng chiêu thứ 2: Quẻ Tử Đại An rồi.Tuần trước khi chưa NGỘ hết 3 chiêu vì luận giải chưa chuyên tâm, tham lam nên nhảy vào chiêu quẻ Khai Tiểu Cát nên mất hết LN và lỗ rồi. Cần phải dùng chiêu quẻ Khai Tốc Hỷ để sửa chữa sai lầm khẩn cấp thôi. (Quẻ Đỗ Tiểu Cát: Sẽ thành công)1 like
-
"Thị trường sẽ có rung lắc mạnh để loại bỏ bớt những nhà đầu tư ít trung thành" Tối qua trong lúc lo lắng mình chợt nhớ đến câu này và cảm thấy yên tâm phần nào. Kết thúc phiên giao dịch hôm nay vẫn là 1 màu đỏ. Có vẻ như thị trường đang thử thách sự nhẫn nại của các NĐT :D1 like
-
Xấu tệ, VNI closse quẻ Thương Xích Khẩu có khác. Âm đang lấn át Dương. NAV cũng bị Âm luôn.1 like
-
Con MHC của MJ ngon nhỉ, đi ngược TT mới có đấy. :D1 like
-
VNI đến giờ này: Nhìn chart trong ngày đang theo mô hình tam giác đi lên chậm nhưng chắc, khả năng cuối phiên xanh tốt. Chỉ số méo mó kg chịu nổi. 10h33:Kiểu này VNI closse kg xanh tốt rồi.1 like
-
Phù Cơ Tạo Tên này có cát có hung, có thành có bại Thiên vận hung, nhân vận cát, địa vận hung, ngoại vận cát, tổng vận có cát có hung. Người mang tên trên có ý chí kiên định, khả năng quan sát tốt, khá về đường kinh thương hơn là công danh. Nhưng nếu sớm bằng lòng với những gì mình có thì không thành đại gia được. Tuy là người cứng cỏi, có ý chí nhưng hay bị hoàn cảnh cản trở, không được như ý, nên giữ vững lập trường, kiên nhẫn chờ tới vận hạn tốt là qua được thôi. Khả năng kiếm tiền có, học hành ở mức trung bình khá nhưng lại khá khéo tay. Sống chân thành nhưng đôi khi ko hẳn thế gian ai cũng hiểu nên hay rơi vào trạng thái bi phẫn. CHỉ có lời khuyên với chủ nhân là nên bình tĩnh, sáng suốt suy nghĩ thấu đáo trong mọi việc, biết kiên nhẫn, bền bỉ là sẽ thành công. P/S: Tiểu Phương ko đặt tên cho ai và cugnx không biết xem tên cửa hàng, công ty, cái này bạn có thể hỏi bên Phong thủy. Thân mến1 like
-
1 like
-
Không thấy sách nào đề cập tính của triệt là dương hay âm nhưng tất cả đều cho nó là hành kim ,nhưng cũng chưa ai xác nhận tuần -triệt là gì từ đâu mà đến cũng chỉ biết nó không phải là Sao , theo tôi tất cả vạn vật ở trên đời nầy đều có mang tính âm hay dương và ngũ hành ,cũng như con ngừoi có 2 phái tính Đực và Cái , Còn về ngũ hành thì triệt hành kim chủ về sát phạt cho nên khi nhập cung THân- Dậu thì gọi là triệt đáo kim cung tức là lưỡng kim thành khí ,tuần thuộc hỏa nên khi nhập cung Tỵ -Ngọ thì gọi là tuần lâm hỏa địa tức là lưỡng hỏa thành diêm1 like
-
Xin copy của a VC lên đây tham khảo: Những Dấu Hiệu Của Overtrading: Những Dấu Hiệu Của Overtrading: 1. Chỉ sau vài lần thắng, bạn trở nên quá tự tin. Thay vì bỏ tí thời giờ ra phân tích, bạn chỉ muốn trade liên tục. Hơi men chiến thắng làm bạn cảm thấy mình trở nên vô địch. Mọi luật lệ về trading mà bạn đã học, hay thu nhặt được qua kinh nghiệm cá nhân đều được quên hết. 2. Trong trường hợp thứ nhì thì bạn vừa thua vài trades. Bạn cảm thấy mình cần phải gở, và bạn sẵn sàng nhảy vào bất cứ cái trade nào trước mắt miễn sau gở lại số tiền vừa thua thật nhanh. Nói cách khác rằng bạn đang rất nóng lòng để gở. Điều này và điều số một phía trên là hai điều đại kỵ trong trading. Nếu bạn mai mắn thắng được vài cái trades trong lúc này thì nó càng làm cho bạn hăng máu hơn nữa. Thông thường thì bạn rất ít bao giờ mai mắn nhiều lần như thế. Trade kiểu này bạn chỉ có thể gở lại được vài % của số tiền đã thua, nhưng chỉ một vài cái trades sau đó thì bạn lại thua hết lại. 4. Khi thua, bạn rất nóng lòng gở. Bạn nghĩ rằng nếu tôi trade lớn hơn lúc trước thì sẽ gở mau 5. Song song với sự kiện nóng lòng, bạn còn sợ rằng nếu không trade kịp thì mình có thể trễ “chuyến tàu.” Thành ra bạn còn trade mạnh và nhiều hơn nữa. 6. Nếu không trade được thì bạn mất bình tỉnh. Càng mất bình tỉnh thì bạn lại càng muốn trade cho thật mau. Vì trade mau cho nên bạn trade ẩu. Vì trade ẩu cho nên bạn trade thua. Vì trade thua nên càng thêm muốn trade. Nói các khác thì bạn bị xoáy vào một vòng quay điên đảo được điều khiển bởi tình cảm, nhiều hơn là lý trí. 7. Ngược lại, nếu bạn không lọt vào tình trạng bên trên thì bạn có thể là loại người trade để tìm cảm giác mạnh. Bạn trade để tìm cảm giác mạnh như những người đi săn hay những kẽ tìm hứng thú trong hiểm nguy. Bạn đọc xong bài viết này rồi ngồi xuống xem mình trade vì lý do gì. Sau khi xem xong, có thể nói rằng bạn sẽ thấy rằng mình thuộc về một trong 6 loại người này. Đây là 6 lỗi lầm rất thường xảy ra cho mọi người khi trade. Nhiều người vướng vào đó vẫn không biết tại sao. Một trong những trường hợp account bị cháy là vì phạm một trong 6 lỗi này. Có nhiều người chỉ phạm một hoặc hai. Ngược lại, cũng có nhiều người phạm hết sáu lỗi trên. Phạm lỗi trong trading là một chuyện đương nhiên. Tuy nhiên, điểm khác biệt của một người trade thành công trong thương trường và người thường thua lỗ khi trade là cách khắc phục những lỗi lầm này. Phương Cách Sửa Đổi Những Lỗi Lầm Này: 1. Giữ tâm thần cho thật yên tịnh trước khi trade: Tâm thần yên tịnh ở đây có nhiều nghĩa. Yên tịnh ở đây không có nghĩa là bạn vừa cải lộn trước khi trade nên tâm thần còn đang trong trạng thái giận hờn. Yên tịnh ở đây có nghĩa là bạn biết mình làm gì trong market hiện tại. Bạn hãy có một kế hoạch cho từng giai đoạn của thị trường. Thị trường có nhiều giai đoạn. Lúc lên, lúc xuống. Có một kế hoạch cho lúc lên cũng không kém phần quan trọng cho một kế hoạch khi nó xuống. Có kế hoạch khi nó lên cho phép bạn tối ưu hóa lợi nhuận. Kế hoạch khi thị trường xuống giúp bạn giảm thiệt hại tối đa. Một người surfer nhà nghề so sánh financial market và sự giao động của biển nghe rất chính xác. Anh ta nói rằng khi ra biển surf mà gặp cơn sóng lớn. Nếu anh ta bình tỉnh thì anh ta sẽ có từ 45 đến 60 giây để thở và để phản ứng. Ngược lại, nếu anh ta hoảng sợ, bối rối thì anh ta chỉ có từ 5 đến 7 giây để sống còn. Trong financial market cũng thế. Người có kế hoạch cho mọi hoàn cảnh thường có nhiều sát xuất sống còn so với ngườii vào đó với vỏn vẹn hai chữ HY VỌNG thật to. 2. Hãy Phân Tích Từng Cái Trade Một: Hãy hỏi bạn các câu hỏi sau đây: · Tại sao tôi CẦN trade cái này? · Sát xuất thành công của tôi trong này cao lắm không? · Biết đâu rằng sau cái này sẽ có cái khác tốt hơn thì sao? Các câu hỏi này dùng để đánh vào tâm thức bạn để cho bạn có một khoảng thời gian suy nghĩ. Hy vọng rằng trong khoảng thời gian dùng để trả lời câu hỏi này, bạn kịp nhận thức rằng bạn không cần phải trade cái này. Nói cách khác rằng cái trade này tuy có tốt, nhưng chưa tốt đủ để bạn phải trade liền. Đây là một điều khá sâu sắc mà người mới học trade khó nhận thức được. Traders gọi nó là TRADE SELECTION. Trade selection là một cách thức dùng để gạn lọc và để giữ cho người traders đừng overtrade. Người mới học trade thường quan niệm rằng nếu cái trade đó tốt thì mình PHẢI trade liền. Vì họ chỉ nghĩ đến cái thắng mà thôi. Họ quên rằng cái thắng mà họ đang nghĩ đến trong cái trade này có một sát xuất thành công khá thấp. Ngược lại, nếu họ chịu khó dùng các câu hỏi phía trên để thật sự hỏi chính bản thân mình rằng cái trade ấy có thật sự đáng trade hay không thì có thể nói rằng hơn 80% của những cái gì mà người ta thấy NGAY LÚC đầu, và tự cho là tốt, là đáng trade…..thật ra chỉ là một loại trades với một sát xuất thành công khá thấp. 3. Hãy tạo cho mình một chương trình mà mình phải bắt buộc làm theo đó hằng ngày: Từ lâu rồi các nhà khoa học gia đều biết rằng con người là một động vật thích làm theo thói quen (creature of habit). Nếu người trader muốn thành công thì phải bắt buột bản thân mình làm một số công việc hàng ngày. Công việc ở đây không có nghĩa là các công việc không dính líu gì đến trading. Công việc ở đây có nghĩa là các hành động gì cần làm để nâng cao khả năng thành công của mình trong trading. Thí dụ như đọc các bài research hay ngồi xuống dò tin tức v…v…..Những việc này nói nghe thì rất dể nhưng trên thật tế không mấy ai làm hằng ngày. Người trade dựa vào sự phân tích thường rất ít khi trade ẩu. Lý do là họ đã bỏ quá nhiều công lao vào việc phân tích. Họ không còn bị tâm thần chi phối nhiều khi nhìn giá lên xuống, hay giao động hằng ngày. Mỗi một cái trade sẽ trở thành một sự chọn lựa khá kỹ càng. Khi việc làm nào được cân nhắc một cách kỹ lưỡng thì sát xuất thành công sẽ cao. Bạn có biết rằng 80% của tât cả các trades mà chúng ta trade hằng năm đều không đáng để trade không? Hãy nghe nhà toán học Aristotle nhận định về con người: "We are what we repeatedly do. Therefore, excellence is not an act, but a habit." Tạm dịch rằng: “Chúng ta thường làm theo thói quen. Cho nên, tuyệt diệu không phải là một hành động, mà là một thói quen.” 4. Bình Tĩnh –Đợi Cơ Hội Thuận Tiện Nhất. Đây là một chân lý hay nhất trong trading. Nếu bạn không học được điều gì tại đây thì chỉ nên nhớ điều này. Người Mỹ thường ví von rằng: There are a lot more fishes in the sea. Nghĩa là nếu hôm nay không trade được (bad trade selection) thì hãy đợi vì “cá vẫn còn mà.” Người VN thì có câu: Non xanh còn đó lo gì thiếu củi đun.” Cả hai câu đều là chân lý, nói lên cái đức tánh tối cần thiết trong trading. Đó là: Kiên Nhẫn. 5. Hãy giữ nhật ký trading: Trong đó, bạn viết lại những suy nghĩ riêng của mình về từng cái trade một. Cố gắng trả lời từng câu hỏi. Chẵn hạn như: Tại sao tôi trade, tôi vô ở giá nào, và tôi ra ở giá nào. Những câu hỏi mà bề mặt xem rất thường, rất hiển nhiên; nhưng khi được đào sâu thì sẽ thấy tâm tư của mình trong đó. Mình sẽ thấy lại mình, thấy lại từng hành động, từ lối suy nghĩ, hay thấy rỏ lại cái dở của mình. Để rồi từ đó mỗi khi mình muốn trade thì tự nhiên nhớ lại lỗi xưa. Rồi cứ thế mà tự sửa cho đến khi số lỗi giảm dần, và kinh nghiệm từ đó lại tăng lên. Tiền trong account cũng vì thế mà tăng dần. Trading, nói một cách ngắn gọn, chỉ có bao nhiêu đó thôi. 8. Hãy nhớ rằng trading là một quá trình. Nó cần thời gian để trau chuốt. Không thể làm xong trong vòng một sớm một chiều được. Vạn Lý Trường Thành của Trung Quốc cũng đâu có xây được trong vòng một ngày. 6. Tự thưởng mình khi bạn trade đúng phương pháp do mình đặt ra. Lời nói nghe có vẻ khôi hài. Nhưng con người thường thích được khen ngợi. Cho dù người khen mình chính lại là mình. Khi được khen, thói thường người ta vẫn thích. Cho nên con người tự cố gắng để làm đúng, và để được khen. Cái này giúp cho cá nhân đừng làm sai những gì đã học được từ những nhận thức của nhật ký trading. Cuối cùng thì bạn hãy nhớ câu này: Trading thì đơn giản lắm, nhưng không có dể. Điều khó nhất trong trading là phải tuân theo một số luật đơn giản với một kỷ luật sắt đá.1 like
-
Dục tốc bất đạt. VuiSong hãy để mọi thứ tự nhiên, ko nên gượng ép, mọi thứ cũng từ 1 chữ DUYÊN mà ra. Tiểu Phương nghĩ, cách tốt nhất là VS giữ cho m luôn được điềm đạm bằng cách nếu gặp hoàn cảnh nào khiến m chán nản, hãy bấm đốt ngón tay mà niệm A di đà Phật đễ giữ m điềm tĩnh trở lại. Dần dần, bản lĩnh, ý chí, ... và các phép màu sẽ đến với VS. Tiểu Phương tin là như vậy Thân mến1 like
-
Chắc ăn thì ra 18-19, còn nó qua 20 với vol khủng thì giữ lại.Các mã MJ chon toàn penny giảm sâu, nếu có cơ hội lên được đỉnh cũ thì ăn lồi mồm. Nhưng penny thường chạy sau Blu, vì vậy chờ penny chạy thì hơi lâu.1 like
-
1 like
-
Vài lời lạm bàn về VCD @TAM KHÔNG ,không dám xúc phạm đến các bậc tiền bối đã vãng lai ,nhưng riêng tôi vẫn thấy có nhiều vấn đề bất cập đến việc bàn luận tử vi ,có thể kiến thức tôi còn nông cạn ,nhưng hiểu theo từ Hán Việt , Kiến = gặp ;ngộ=gặp ;đắc=được ,không biết giải nghĩa như thế có hợp lý hay không ? nếu cao nhân hay bậc trí giả nào có trình độ cao hơn về hán nho học xin ra lời co kẻ hậu bối thêm tường tận mở mắt .Về tam không vẫn chưa có ai xác định tại sao là tam không hay tứ không ,tại sao phải đủ tam không mà lại tứ không có nhiều hơn không mà lại không tốt ,nếu là nhị không thì nói không tốt cũng phải ...nhưng có ai biết tại sao không tốt ,hay chỉ có thể trả lời 1 cách ấm ở rằng vì chưa đủ cái Không ,vậy tam không là gì ,chưa có cao nhân nào trả lời được ... Theo tử vi tàu , thì không công nhận có sao Địa không ,chỉ có địa kiếp và thiên không , còn lại tuần triệt thì cho là Không ,như vậy theo phái nầy tam không vẫn là Thiên không và tuần triệt ? Theo tử vi Việt thì có sao Thiên không ,như vậy cộng lại thì có tấT cả Tứ không ,nhưng trước hết chúng ta cho phái nào là đúng ? Có cả trường phái tầu họ không công nhận có tuần lẫn triệt , như vậy thuyết tam không bị đánh đỗ rồi ! Theo tử vi đẫu số tân biên thì tuần trung không vong ;triêt lộ vong , như vậy triệt lộ vong là nghĩa gì ? Nếu các bậc cao nhân nào nghiên cứu tử vi ,cũng đều phải biết rằng cũng có bao nhiêu ngần ấy sao nhưng sự chuyển đổi trên la bàn của tử vi đều lệ thuộc vào ngày giờ tháng năm ,nhưng cũng không thể phủ nhận rằng mỗi sao đó đều mang tính chất về hình dáng tính tình ,các bộ phận trên thân thể người và cũng là tất cả vật dụng bên ngoài ,nhưng người luận có khi không giống nhau do cái nhìn của mỗi người ,và cái điễm quan trọng nhất là khi người nào đọc sách đó thì cho là cách của mình đúng nhất ,mà quên đi có rất nhiều sách chứ không phải 1 , trọng tâm của vấn đề là khi người nghiên cứu nên lượt xét đễ tìm cái đúng hơn là cái mớ lý thuyết lòng vòng trong sách . Theo quan điễm lươm lặt của riêng tôi ; người ta thường nói thuyết về Thiên- Địa -Nhân hay Tinh- Khí -Thần ,mà bất cứ thuyết nào về con người đều có đề cập đến không ít mà với tôi chỉ công nhận có tam Không mà không có tứ Không ,theo như nói ở trên các sao tử vi đều đại diện cho con người và các gì trong thân thể con người mà ngày xưa người lập ra tử vi pháp cũng đã dựa vào đó ,tôi công nhận có tuần triệt và có thiên không, địa không vì theo phái tàu không có địa không thì theo tôi không đủ bản thể để thành hình ra 1 con người ,nhưng tôi không công nhận triệt là Không vì triệt chỉ ảnh hưởng trong thời gian sinh ra đến càng lớn tuổi thì càng giảm dần ,tôi chỉ xem triệt là 1 phương tiện hay vật thể tính tình mà theo thời gian con người có thể thay đổi được theo chiều hướng trí và nhân lực ,nhưng Thiên Địa và tuần không thể thay đổi hay được giảm dần trong suốt dời người ,cho nên triệt chỉ là phụ thuộc là điều kiện có được sau khi thiên địa nhân được thành hình . Tại sao chỉ có tam không ; Thiên Không > THIÊN TINH Địa Không > Địa KHÍ Tuần trung không > NHÂN THẦN Cả 3 yếu tố trên là điều không thể thiếu để tạo lập ra con người .1 like
-
ầy da 1 chút nhầm lẫn tai hại cảm ơn thầy Thiên Luân Phi Cung Chấn cửa lập hướng Nam Sinh khí là tốt nhất vì Nam thuộc Ly Hỏa , Sinh Khí Tham Lang là Mộc -> Mộc sinh Hỏa . Thành thật nhận sai sót với chủ TOPIC1 like
-
Ngoài ra chồng bạn sinh năm 1979 mệnh Chấn sang năm có chữ Quỷ xây nhà ko tốt phải đợi sang năm 2013 có chữ " Bảo " mới xây được .1 like
-
Hôm nay đọc bài thơ này của bạn cũng thấy con tim nhảy nhót trong lòng ngực và nhớ lại thời trai trẻ hào hoa, bỗng nhớ tới bài thơ này là môt khía cạnh nữa của tình yêu:Em bảo anh đi đi... Em bảo: "Anh đi đi" Sao anh không đứng lại ? Em bảo: "Anh đừng đợi" Sao anh vội về ngay ? Lời nói thoảng gió bay Đôi mắt huyền đẫm lệ Mà sao anh dại thế Không nhìn vào mắt em Mà sao anh dại thế Không nhìn vào mắt em Không nhìn vào mắt sầu Không nhìn vào mắt sâu ? Những chuyện buồn qua đi Xin anh không nhắc lại Em ngu khờ vụng dại Anh mơ mộng viễn vông Đời sống nghiệt ngã không cho chúng mình ấm mộng Thì thôi xin gửi sóng Đưa tình về cuối sông Thì thôi xin gửi sóng Đưa tình về cuối sông Đưa tình về với mộng Đưa tinh vào cõi không. (không rõ tác giả) Lạ thật có cô gái yêu đến si mê mà cứ còn hay vờ vịt để rồi trong cuộc đời thỉnh thoảng lai Giá như......1 like
-
Thiên Văn Học Phương Đông
Guest liked a post in a topic by Thiên Sứ
PHONG THỦY LẠC VIỆT A -Gió từ hướng Nam thổi tới là Cảnh phong, quẻ Ly. -Gió từ hướng Tây Nam thổi tới là Lương phong, quẻ Tốn. -Gió từ hướng Tây thổi tới là Xương hạp phong, quẻ Đoài. -Gió từ hướng Tây Bắc thổi tới là Bất chu phong, quẻ Càn. -Gió từ hướng Bắc thổi tới là Quản mạc phong, quẻ Khảm. -Gió từ hướng Đông Bắc thổi tới là Điều phong, quẻ Cấn. -Gió từ hướng Đông thổi tới là Minh thứ phong, quẻ Chấn. -Gió từ hướng Đông Nam thổi tới là Thanh minh phong, quẻ Khôn. B -Gió từ hướng Nam thổi tới là Đại Nhược phong -Gió từ hướng Tây Nam thổi tới là Mưu phong -Gió từ hướng Tây thổi tới là Cương phong -Gió từ hướng Tây Bắc thổi tới là Chiết phong -Gió từ hướng Bắc thổi tới là Đại Cương phong -Gió từ hướng Đông Bắc thổi tới là Hung phong -Gió từ hướng Đông thổi tới là Anh Nhi phong -Gió từ hướng Đông Nam thổi tới là Nhược phong Tên gọi cả hai cách đều đúng, tùy theo mùa.1 like