• Thông báo

    • Bá Kiến®

      Nội quy Lý Học Plaza

      Nội quy này là bản mở rộng Nội Quy - Quy định của Diễn đàn. Khi tham gia mua bán, các thành viên phải tuân theo những quy định sau: Tiêu đề bài viết: Bao gồm: Chỉ dẫn địa lý, Loại hình Mua/Bán, Thông tin mua bán.
      Chỉ dẫn địa lý: Tỉnh/thành nơi mua bán. Hoặc sử dụng định nghĩa có sẵn:TQ: Toàn quốc
      HCM: TP Hồ Chí Minh
      HN: Hà Nội
      [*]Ví dụ: HCM - Bán Vòng tay Hổ Phách ​Nội dung bài viết: Mô tả chi tiết sản phẩm mua/bán
      Bắt buộc phải có thông tin liên lạc, giá Mua/Bán
      Bài mới đăng chỉ được phép up sau 03 ngày.
      Thời gian up bài cho phép: 01 ngày 01 lần.
      Các hành vi vi phạm nội quy này sẽ bị xóa bài hoặc khóa tài khoản mà không cần báo trước.

Leaderboard


Popular Content

Showing most liked content on 21/12/2010 in all areas

  1. Vài lời lạm bàn về VCD @TAM KHÔNG ,không dám xúc phạm đến các bậc tiền bối đã vãng lai ,nhưng riêng tôi vẫn thấy có nhiều vấn đề bất cập đến việc bàn luận tử vi ,có thể kiến thức tôi còn nông cạn ,nhưng hiểu theo từ Hán Việt , Kiến = gặp ;ngộ=gặp ;đắc=được ,không biết giải nghĩa như thế có hợp lý hay không ? nếu cao nhân hay bậc trí giả nào có trình độ cao hơn về hán nho học xin ra lời co kẻ hậu bối thêm tường tận mở mắt .Về tam không vẫn chưa có ai xác định tại sao là tam không hay tứ không ,tại sao phải đủ tam không mà lại tứ không có nhiều hơn không mà lại không tốt ,nếu là nhị không thì nói không tốt cũng phải ...nhưng có ai biết tại sao không tốt ,hay chỉ có thể trả lời 1 cách ấm ở rằng vì chưa đủ cái Không ,vậy tam không là gì ,chưa có cao nhân nào trả lời được ... Theo tử vi tàu , thì không công nhận có sao Địa không ,chỉ có địa kiếp và thiên không , còn lại tuần triệt thì cho là Không ,như vậy theo phái nầy tam không vẫn là Thiên không và tuần triệt ? Theo tử vi Việt thì có sao Thiên không ,như vậy cộng lại thì có tấT cả Tứ không ,nhưng trước hết chúng ta cho phái nào là đúng ? Có cả trường phái tầu họ không công nhận có tuần lẫn triệt , như vậy thuyết tam không bị đánh đỗ rồi ! Theo tử vi đẫu số tân biên thì tuần trung không vong ;triêt lộ vong , như vậy triệt lộ vong là nghĩa gì ? Nếu các bậc cao nhân nào nghiên cứu tử vi ,cũng đều phải biết rằng cũng có bao nhiêu ngần ấy sao nhưng sự chuyển đổi trên la bàn của tử vi đều lệ thuộc vào ngày giờ tháng năm ,nhưng cũng không thể phủ nhận rằng mỗi sao đó đều mang tính chất về hình dáng tính tình ,các bộ phận trên thân thể người và cũng là tất cả vật dụng bên ngoài ,nhưng người luận có khi không giống nhau do cái nhìn của mỗi người ,và cái điễm quan trọng nhất là khi người nào đọc sách đó thì cho là cách của mình đúng nhất ,mà quên đi có rất nhiều sách chứ không phải 1 , trọng tâm của vấn đề là khi người nghiên cứu nên lượt xét đễ tìm cái đúng hơn là cái mớ lý thuyết lòng vòng trong sách . Theo quan điễm lươm lặt của riêng tôi ; người ta thường nói thuyết về Thiên- Địa -Nhân hay Tinh- Khí -Thần ,mà bất cứ thuyết nào về con người đều có đề cập đến không ít mà với tôi chỉ công nhận có tam Không mà không có tứ Không ,theo như nói ở trên các sao tử vi đều đại diện cho con người và các gì trong thân thể con người mà ngày xưa người lập ra tử vi pháp cũng đã dựa vào đó ,tôi công nhận có tuần triệt và có thiên không, địa không vì theo phái tàu không có địa không thì theo tôi không đủ bản thể để thành hình ra 1 con người ,nhưng tôi không công nhận triệt là Không vì triệt chỉ ảnh hưởng trong thời gian sinh ra đến càng lớn tuổi thì càng giảm dần ,tôi chỉ xem triệt là 1 phương tiện hay vật thể tính tình mà theo thời gian con người có thể thay đổi được theo chiều hướng trí và nhân lực ,nhưng Thiên Địa và tuần không thể thay đổi hay được giảm dần trong suốt dời người ,cho nên triệt chỉ là phụ thuộc là điều kiện có được sau khi thiên địa nhân được thành hình . Tại sao chỉ có tam không ; Thiên Không > THIÊN TINH Địa Không > Địa KHÍ Tuần trung không > NHÂN THẦN Cả 3 yếu tố trên là điều không thể thiếu để tạo lập ra con người .
    7 likes
  2. Đổi tên ko ích gì, VuiSong xem lại bài TP trả lời Liên Châu nhé, vì vận mệnh con người khi sinh ra đã đưa VuiSong tới cái tên như thế, rồi đưa VS tới ngôi nhà như thế - nên có môn phong thủy trong tử vi và môn xem tên là vậy. Để Tiểu Phương ngó giúp cái tên này cho VS xem thế nào: Đỗ Quang Dũng Ng­ườii mang vận số này có cuộc đời chìm nổi, có thành có bại có hung có cát. Nói về ngũ vận thì có thiên vận cát, địa vận cát, nhân vận cát, ngoại vận hung và tổng vận lại hung. Nếu ngoại vận tốt hơn thì đây có thể là người có tài, nhưng vì ngoại vận hung nên có thể nói đây chỉ là người có khả năng mà thôi. Bản thân hơi mềm yếu, hay chán nản nên khó thành việc lớn, trong người bệnh tật lại hay dây dưa, lâu khỏi, lâu dứt. Mọi việc đều khó thành ý nguyện Tuy nhiên, người này khổ trước, sướng sau, về già sẽ an nhàn hơn lúc còn thanh niên. CHỉ lưu ý số dễ cô đọc, khó sống cùng cha mẹ anh em, vợ chồng cũng khắc khẩu. Tiểu Phương chỉ có thể có đôi lời thế này, tên này ko đổi, nhưng chủ nhân lưu ý rèn luyện bản lĩnh, rèn luyện ý chí, không nôn nóng, hãy nhìn vào những điều tốt đẹp trong cuộc sống để thấy rằng cuộc sống này còn rất nhiều điều mới mẻ và ông trời ko khép cửa với ai bao giờ. Phép màu sẽ đến với những người luôn tràn ngập niềm tin và quyết liệt Thân mến
    3 likes
  3. Cảm ơn a Nòng Nọc & các ace đã tín nhiệm. Vì TP chỉ có thể ngồi giải đoán khi thực sự rảnh rỗi mà từ hôm mở quán tới giờ, TP luôn ưu tiên ai gửi trước giải trước nhưng số lượng còn chờ xem vẫn nhiều quá. Vậy Tiểu Phương xin phép đặt lại thứ tự ưu tiên luận giải như sau: - Là thành viên lâu năm, có nhiều bài post: ưu tiên xem trước - Là thành viên năng tham gia làm thiện nguyện: ưu tiên xem trước - Các thành viên đã được giải đoán mà ko có phản hồi đúng sai, Tiểu Phương sẽ ko tiếp tục xem lần sau nữa - Mỗi thành viên chỉ nên hỏi tối đa 2 tên, vì thời gian có hạn và để cơ hội cho những người khác. - Hạn chế xem chó các em nhỏ dưới 12 tuổi, tuy nhiên sẽ ưu tiên xem đặt tên cho trẻ sơ sinh với điều kiện cha mẹ chuẩn bị sẵn tên và TP xem tốt xấu, TP không đặt tên giùm. - Sau đó, những tên còn lại sẽ xét tới ai gửi trước TP xem trước. Mong mọi người thông cảm. Thân mến
    2 likes
  4. Đầu phiên hôm nay fill Gap 473 xong cuối phiên tăng. :D :) :D
    2 likes
  5. TƯ LIỆU THAM KHẢO Tìm lại cội nguồn tổ tiên, cội nguồn văn hoá Hà Văn Thùy (Tiếp theo) Từ thư tịch Trung Hoa, nhiều nhà nghiên cứu cho rằng tiền sử người Việt chia làm 3 thời kỳ sau: 1 - Thời kỳ Thái Sơn: còn gọi thời kỳ Tam hoàng gồm: Toại Nhân là vị vua phát minh ra lửa, gọi là Thiên hoàng; Phục Hy là Nhân hoàng dậy cách chăn nuôi và làm ra bát quái cùng vợ là Nữ Oa coi về thời tiết. Vua cuối cùng là Thần Nông dạy dân trồng lúa nên gọi Ðịa hoàng. Sử Tàu ghi Thần nông truyền được 8 đời, kéo dài 530 năm. Thời kỳ này luôn xảy ra chiến tranh với Hán tộc của Hoàng đế. Trong quyển Kỳ môn độn giáp đại toàn thư có câu hát:Tích nhật Hoàng đế chiến Si Vưu, Trác Lộc kinh kim vị nhược hưu. (Ngày xưa Hoàng đế đánh Si Vưu, cuộc chiến ở Trác Lộc đến nay còn chưa dứt – dẫn theo Kim Ðịnh). Sử Tàu ghi trận Trác Lộc nổ ra vào năm 2500 TCN, Si Vưu là tên xấu mà người Hán đặt cho Ðế Lai. Trong trận này Ðế Lai bị giết, Hiên Viên thắng, được tôn làm Hoàng đế. Như vậy, dòng họ Thần Nông bắt đầu vào khoảng 3000 năm TCN. 2 - Thời kỳ Ngũ Lĩnh: Cháu nội của Thần Nông là Ðế Minh sinh ra Ðế Nghi và Lộc Tục. Ðế Nghi làm vua miền lưu vực sông Hoàng Hà còn Lộc Tục làm vua nước Xích Quỷ phía nam sông Dương Tử, xưng là Kinh Dương vương. Ðế Nghi sinh Ðế Lai thay cha làm vua phương Bắc. Lộc Tục sinh Sùng Lãm làm vua phương Nam, xưng là Lạc Long quân. Ðế Lai liên minh với nước Xích Quỷ để chống Hán tộc, gả con gái là Âu Cơ cho Lạc Long quân. Trong trận Trác Lộc, Ðế Lai tử trận. Bề tôi của ông theo Âu Cơ chạy xuống nước Xích Quỷ. Lạc Long quân đem quân chạy ra biển. Thời kỳ này người Việt tập trung quanh vùng Ngũ Lĩnh. 3 - Thời kỳ Phong Châu: Lạc Long quân chạy ra biển, đi xuống phía Nam lập nước Văn Lang tại vùng Phú Thọ ngày nay. [1] Cho đến nay, toàn bộ hiểu biết về cội nguồn dân tộc Việt mới dừng lại ở đó. Phải thừa nhận, việc chia tiền sử người Việt thành ba thời kỳ như trên là xác đáng. Ðó là công lao của nhiều thế hệ sử gia Việt Nam đã chắt lọc ra từ huyền sử và thư tịch Trung Hoa. Ðiều này giúp cho người Việt phần nào biết được nguồn cội tương đối gần của mình. Tuy nhiên quan niệm trên cũng là hệ quả của cách nhìn nhận sai lầm truyền thống là tổ tiên người Việt từ cao nguyên Thiên Sơn di chuyển về phía Ðông Nam vì vậy không chỉ thiếu sót mà còn sai lạc. Sai lạc ở chỗ: * Ðất phát tích của người Việt vốn từ miền Bắc Việt Nam, bị đẩy lên tận lưu vực Hoàng Hà. *Thời gian lịch sử của người Việt từ 60-70.000 năm rút lại còn 5-6000 năm. Quan niệm lịch sử như thế cắt đứt quan hệ huyết thống của người Việt hiện đại với tổ tiên hàng vạn năm trước và đương nhiên truất quyền thừa kế về mặt huyết thống của chúng ta với văn hóa tiền sử: Sơn Vi, Hòa Bình, Bắc Sơn... Vì vậy trong tâm lý chung, chúng ta chỉ dám nhận là người thừa kế về mặt lãnh thổ của những văn hóa tiền sử! Trong khi đó, theo phát hiện mới thì: * Tổ tiên người Việt phát tích từ miền Trung và miền Bắc Việt Nam, là cháu con những người tiền sử từ Trung Ðông thiên cư theo bờ biển Nam Á đến Ðông Nam Á. * Thời gian lịch sử của người Việt đứng chân trên đất Việt từ 60-70.000 năm trước. Con đường thiên di lên phía Bắc ban đầu rồi sau đó trở về nguồn cho phép ta giải thích vì sao trong máu người Việt yếu tố Mongoloid đậm lên: do hỗn huyết với tộc người Hán trong thời gian ở lưu vực sông Hoàng Hà và Dương Tử . Phát hiện mới cho phép chúng ta khẳng định: Khoảng 40.000 năm trước, người Việt từ Việt Nam đi lên phía Bắc, tràn qua lục địa Trung Hoa. Thời gian này không được nhắc tới trong huyền sử. Chỉ khoảng 5000 năm TCN tổ tiên người Việt mới xuất hiện trong huyền sử với Toại Nhân, Phục Hy... cùng địa danh Thái Sơn. Thái Sơn là trung tâm quần tụ của người Việt thời kỳ Bắc tiến, trước đây vẫn được coi là đất phát tích của người Việt. Từ 2500 năm TCN, do cuộc đụng độ với Hán tộc, tiền sử của người Việt lần đầu tiên được ghi lại bằng văn tự. Ðây cũng là thời kỳ người Việt bỏ chạy khỏi Thái Sơn để lui xuống tụ cư tại vùng Ngũ Lĩnh. Tiếp đó do Hán tộc săn đuổi rốt ráo hơn, người Việt từ Ngũ Lĩnh trở về Phong Châu. Khi Lạc Long quân đem quân dân Việt đổ bộ vào Nghệ Tĩnh xây dựng thời đại Châu Phong là tổ tiên ta trở lại nơi phát tích của mình, nhận vai trò người thừa kế hợp pháp cả về huyết thống cả về lãnh thổ của tổ tiên người Việt. Một dòng lịch sử truyền nối liên tục không đứt quãng. Phát hiện này làm thay đổi hoàn toàn quan niệm của chúng ta về cội nguồn và lịch sử dân tộc. Trên đây là những nét lớn, có tính khái quát. Ði vào cụ thể, ta điểm qua vài chứng cứ bằng văn tự như sau: Theo cuốn sử sớm nhất của Trung Quốc là Sử ký thì chủng tộc Việt Nam bắt nguồn từ nhà Hạ (2205-1770 TCN). Câu Tiễn (505- 465 TCN) vua nước Việt là hậu duệ của vua Hạ Vũ. Nước Sở của Khuất Nguyên cũng là dòng Việt bởi vậy Khuất Nguyên mới ai oán tiếc thương dòng giống Việt trong Sở Từ: Răng đen mình trổ dọc ngang. Xăm mình, cắt tóc ngắn, nhuộm răng đen là đặc điểm của người Việt thời đó. Trước đây, chúng ta mang mặc cảm là đám Tàu lai bị xua đuổi, liều chết chạy về Nam theo bản năng sinh tồn nên vẫn cho mình là kẻ nhập cư trên đất đai người khác, nhất là khi phát hiện ra trong huyết quản đậm phần máu Mongoloid. Trước những nền văn hóa rực rỡ Hòa Bình, Bắc Sơn của người tiền sử, chúng ta cũng tự hào nhưng là niềm tự hào vay mượn bởi mặc cảm của kẻ khác chủng tộc, không liên hệ gì đến chủ nhân của những nền văn hóa đó! Rồi chúng ta phát hiện ra rằng: tổ tiên ta từ đất nước Việt Nam đã mang gươm (rìu đá) đi mở cõi khai thác mở mang đất nước Trung Hoa, tại đây xuất hiện vị tổ gần hơn là Thần Nông vùng Thái Sơn từng giáo dân nghệ ngũ cốc. Tổ tiên đã mở đất, đã chiến đấu kiên cường với kẻ xâm lấn rồi khi không thể ở lại được đã trở về mái nhà xưa. Chính những hậu duệ đi xa trở về này do phải tiếp xúc, đối đầu với nền văn minh du mục, với kẻ địch mạnh đã trở nên mạnh mẽ và khôn ngoan hơn. Ðiều khôn ngoan nhất mà các vua Hùng đem đến cho người Việt phương Nam là tổ chức nhà nước. Chính nhà nước dù còn lỏng lẻo này đã làm thay đổi về chất trong quan hệ của cộng đồng Việt: từ quan hệ bộ tộc chuyển sang quan hệ quốc gia. Quan hệ này giúp các vua Hùng sáng tạo nên văn minh Ðông Sơn rực rỡ và có được sức mạnh trong đấu tranh với kẻ thù. Tới đây, tự nhiên nảy sinh câu hỏi: Vì sao cũng thời gian đó, số dân Bách Việt tăng nhanh, phạm vi phân bố mở rộng ra mênh mông, trong khi người Mông Cổ số dân tăng không đáng kể và chỉ loanh quanh mạn Bắc sông Hoàng Hà? (Bằng chứng xã hội học cũng như di truyền không cho thấy người Mongoloid phương Bắc có mặt ở châu Mỹ). Có thể lý giải điều này bằng 3 nguyên nhân: khí hậu, thổ nhưỡng, phương thức sống và di truyền: 1 - Khí hậu lạnh không tạo thuận lợi cho sinh sản. Dân số tăng chậm không đòi hỏi mở rộng vùng phân bố. 2 - Phương thức sống du mục nên người Mông sống bám vào đồng cỏ cao nguyên, không có khả năng chinh phục miền đất ẩm thấp mạn Nam sông Hoàng. 3 - Người Mông phương Bắc mang gen từ tổ tiên Mongoloid thiên di lên rất sớm nên không kịp hòa huyết với chủng người khác, trong bộ gene tương đối thuần của họ mang khả năng sinh sản thấp? Từ đó có thể rút ra kết luận: Việc xuống phía Nam hòa huyết với người Bách Việt mang dòng máu Indonesien và trồng lúa nước mở ra vận hội lớn đối với người Hán, chẳng những đã cứu họ thoát khỏi tình trạng sinh sản thấp như người Mông Cổ đồng chủng mà còn cho họ hưởng nền văn minh nông nghiệp phát triển rực rỡ. Chính hai nhân tố này tạo nên dân số đông đúc cùng văn hóa ưu tú của dân tộc Trung Hoa hiện đại. Như vậy là một cách ngắn gọn, tôi đã trình bày một phần về CỘI NGUỒN TỔ TIÊN. Sở dĩ chỉ dám nói một phần vì còn một câu hỏi vô cùng bức xúc chưa được trả lời: NHÀ TRIỆU CÓ VAI TRÒ GÌ TRONG LỊCH SỬ DÂN TỘC VIỆT? Từ khi giành lại quyền tự chủ, các triều đại Việt đều đề cao vai trò lịch sử của Triệu Ðà. Nhà Trần phong ông là Khai thiên thế đạo thánh vũ thần triết hoàng đế. [2] Ðại Việt sử ký toàn thư ghi: “Họ Triệu nhân lúc nhà Tần suy loạn, giết trưởng lại nhà Tần, chiếm giữ đất Lĩnh Nam xưng đế, đòi ngang với nhà Hán, hưởng nước truyền ngôi 100 năm mới mất, cũng là bậc vua anh hùng.” Sử gia Lê Văn Hưu nói: “Thế mới biết, người giỏi trị nước không cứ đất rộng hay hẹp, người Hoa hay Di, chỉ xem ở đức mà thôi. Triệu Vũ đế khai thác đất Việt ta mà tự làm đế trong nước, đối ngang với nhà Hán, gửi thư xưng là “lão phu”, mở đầu cơ nghiệp đế vương cho nước ta, công ấy có thể nói là to lắm vậy.” Trong An Nam chí lược, Lê Tắc viết: “Triệu Ðà làm vua Nam Việt, mới lấy thi lễ giáo hóa nhân dân một ít.” Ðiều này chứng tỏ Triệu Ðà là người mang sự học đến nước ta từ trước chứ không phải Sĩ Nhiếp. Ðến nhà Lê, trong Bình Ngô đại cáo, Nguyễn Trãi viết: Trải Triệu, Ðinh, Lý, Trần nối đời dựng nước. Như vậy, Nguyễn Trãi thừa nhận Triệu Ðà là ông vua đầu tiên của nước ta từ thời có sử. Hàng ngàn năm, chính sử Việt Nam ghi nhận vai trò lịch sử lớn lao của nhà Triệu. Ðến thế kỷ XVIII, Ngô Thì Sĩ (1726-1780) trong Việt sử tiêu án viết: “Nước ta bị nội thuộc vào nước Tàu từ đời Hán đến Ðường, truy nguyên thủ họa chả Triệu Ðà thì còn ai nữa? Huống chi Triệu Ðà chia nước ta làm quận huyện, duy chỉ biết biên số thổ địa, thu thuế má, cung cấp ngọc bích cho nhà Hán, đầy túi tham của Lục Giả thôi. Ðến như việc xướng ra cơ nghiệp đế vương trước tiên, tán tụng Triệu Ðà có công to, Lê Văn Hưu sáng lập ra sử chép như thế, Ngô Sĩ Liên theo cách chép hẹp hòi ấy, không biết thay đổi, đến như bài Tổng luận sử của Lê Tung, thơ vịnh sử của Ðặng Minh Khiêm thay nhau mà tán tụng, cho Triệu Ðà là bậc thánh đế của nước ta. Qua hàng nghìn năm mà không ai cải chính lại vì thế mà tôi phải biện bạch kỹ càng.” [3] Cho đến nay, trong giới sử học, việc đánh giá Triệu Ðà vẫn có hai luồng ý kiến ngược nhau. Là kẻ ngoại đạo không dám lạm bàn, tôi chỉ xin lục ra một số tư liệu lịch sử hầu bạn đọc tham khảo. Trong Sử ký, Tư Mã Thiên viết: “Vua Nam Việt họ Triệu tên là Ðà, người huyện Chân Ðịnh, trước làm quan úy. Bấy giờ nhà Tần đã chiếm cả thiên hạ, cướp lấy đất Dương Việt, đặt ra các quận Quế Lâm, Nam Hải và Tượng Quận để đưa những người bị đày đến ở lẫn với người Việt. Như thế đã mười ba năm. Khi nhà Tần bị tiêu diệt, Ðà lập tức đánh chiếm lấy cả Quế Lâm, Tượng Quận, tự lập làm Nam Việt Vũ vương. Ðà bèn tự tôn làm “ Nam Việt Vũ đế”, đem quân đánh các ấp ở biên giới quận Trường Sa. Ðà nhân đó dùng uy lực uy hiếp biên giới, đem của cải đút lót các nước Mân Việt, Tây Âu Lạc để bắt họ lệ thuộc mình. Ðất đai của Ðà chiều ngang có hơn vạn đặm, Ðà bèn đi xe mui lụa màu vàng, cắm cờ tả đạo, mệnh gọi là chế”, chẳng kém gì Trung Quốc.” “Ðến thời Hiếu Cảnh, Ðà vẫn xưng thần, sai người vào chầu. Nhưng trong nước Nam Việt thì vẫn trộm xưng danh hiệu “đế” như cũ; còn khi sai sứ sang thiên tử thì xưng “vương”, triều kiến thỉnh mệnh như các chư hầu.” [4] Triệu Ðà làm vua 70 năm (từ 207 đến 137 TCN), tiếp đó cháu chắt ông truyền 4 đời trị vì 27 năm nữa, đến năm 111 TCN nước Nam Việt vào tay nhà Hán. Nhà Triệu kéo dài được 97 năm. Phủ Biên tạp lục của Lê Quý Ðôn ghi: “Ðem số hộ khẩu chép ở sách Hán chí mà so thì nước ta được ba quận Giao Chỉ, Cửu Chân, Nhật Nam, hơn 20 huyện, đời Hán số hộ cộng là 143.743 nhà, số khẩu cộng là 981.827 người. Thông tính cả hai tỉnh ấy (Quảng Ðông, Quảng Tây) ở đời Hán số hộ chỉ là 71.805 nhà, khẩu chỉ là 389.672 người. Như thế nước ta ở đời Hán thì số hộ gấp đôi mà số khẩu gần gấp ba.” [5] Như vậy, vào năm 220 TCN, nhà Tần chiếm đất của người Việt ở phía Nam sông Dương Tử, và đưa những tội nhân người Hán đến ở chung với người Việt để thực hiện ý đồ lấn đất. Do nhà Tần sụp đổ, thiên hạ đại loạn tạo cơ hội cho Triệu Ðà cát cứ. Tuy xưng vương ở Phiên Ngung nhưng số dân của Triệu ít. Trong khi đó ở phía Nam, nước Âu Lạc của An Dương vương khá mạnh, số dân gần gấp 3 số dân của Triệu. Bên cạnh Âu Lạc còn có các nước Mân Việt, Tây Âu Lạc luôn tranh chấp. Nước Âu Lạc tuy lớn nhất trong khu vực nhưng cũng quá nhỏ so với nhà nước phương Bắc. Nếu nhà Tần không sụp đổ đúng thời điểm đó, có nhiều khả năng tằm ăn dâu, nhà Tần sẽ thôn tính đất Nam Việt. Một khả năng khác: trong cuộc chinh phạt Nam Việt trị tội Triệu Ðà xưng đế, nếu tướng Lâm Lư hầu thắng, nhà Hán chiếm Nam Việt ngay lúc đó, có phần chắc Nam Việt cũng bị đồng hóa như các dòng Bách Việt khác. Khả năng thứ ba: nếu Triệu Ðà theo nhà Hán, sau khi thôn tính Âu Lạc, sáp nhập Nam Việt vào Hán thì có phần chắc là Nam Việt bị xóa sổ trên bản đồ! Nhìn vào thực tế nước Âu Lạc của Thục Phán, ta thấy, Tục Pắn (tên Việt của Thục Phán) là người Ba Thục thuộc nhóm Âu Việt trốn chạy nhà Tần đến nương nhờ Lạc Việt, đã chiếm ngôi của vua Hùng, lập nên Âu Lạc. Ban đầu Thục Phán bị xem là kẻ thoán đoạt cướp ngôi nên bị người Lạc Việt chống lại (sự tích xây Loa Thành bị đổ). Nhưng rồi sau do chính sách cai trị khôn ngoan, nhất là sau hai lần đánh thắng quân Tần, đã được nhân dân tín nhiệm. Về cuối đời do mất cảnh giác nên bị Triệu Ðà dùng mưu thôn tính. Ðúng là Triệu Ðà dùng thủ đoạn chiếm nước Âu Lạc nhưng ý nghĩa của sự kiện lịch sử này cần phải bàn. Thời đó, sự liên kết trong mỗi quốc gia còn lỏng lẻo và biên giới từng quốc gia chưa ổn định, đang trong xu hướng sáp nhập tập trung thành những quốc gia đủ mạnh để tồn tại. Việc thôn tính các nước Sở, Ngô, Việt... để thành nước Tần không phải hành động xâm lược mà là công lớn thống nhất đất nước. Tương tự vậy, việc Triệu Ðà chiếm Âu Lạc cũng không thể coi là cuộc xâm lược mà là hành động thống nhất những nhóm, những tiểu quốc người Việt lại thành một nước Việt lớn hơn, ngăn chặn hành động thôn tính của kẻ mạnh ở phương Bắc. Ðiều quan trọng là họ Triệu đã duy trì được nước Nam Việt thống nhất trong gần một thế kỷ, vừa xây dựng trong hòa bình vừa kiên cường chống ngoại xâm. Chính điều này đã tạo nên và củng cố tinh thần quốc gia của người Việt. Ðây là di sản quý báu nhất họ Triệu để lại cho người Việt. Chính gần một thế kỷ tồn tại của quốc gia Nam Việt giúp cho người Lạc Việt không bị người Hán đồng hóa và sau này có dịp lại vùng lên trong khởi nghĩa Hai Bà Trưng. Nếu không có may mắn một trăm năm Nam Việt ấy, dám chắc người Hán sẽ diệt tiểu quốc của Triệu Ðà sau đó thôn tính Âu Lạc, tộc Lạc Việt đã bị mất hút trong lịch sử như những dòng Việt anh em khác! Các sử gia như Lê Văn Hưu, Ngô Sĩ Liên... đã nhìn nhận công bằng và Nguyễn Trãi đánh giá họ Triệu một cách chuẩn mực. Sử gia Ngô Thì Sĩ khi viết: “Triệu Ðà chia nước ta làm quận huyện, duy chỉ biết biên số thổ địa, thu thuế má, cung cấp ngọc bích cho nhà Hán, đầy túi tham của Lục Giả” đã tỏ ra bất cập. So với một quốc gia còn trong tình trạng nguyên thủy với những lạc hầu lạc tướng cai quản từng bộ lạc thì một quốc gia có quận huyện, biên số thổ địa là bước nhảy vọt về tổ chức hành chính, về khoa học quản lý xã hội. Còn nói “thu thuế má cung cấp ngọc bích cho nhà Hán” cũng không đúng. Suốt 70 năm Triệu Ðà làm vua, quan hệ Việt Hán khá lỏng lẻo. Biết Triệu xưng đế mà nhà Hán đành chịu, không những thế còn phải lấy lòng bằng cách giữ gìn mồ mả tổ tiên của Triệu, cho thân nhân Triệu làm quan (Sử ký). Trong mối quan hệ như vậy, cống phẩm của Triệu Ðà chỉ có nghĩa tượng trưng để xác nhận sự thần phục trên danh nghĩa nên không thể làm đầy túi tham của Lục Giả, không thể so sánh với việc cống người vàng thời Trần-Lê sau này. Rõ ràng, chứng lý đưa ra để kết tội Triệu Ðà là không thuyết phục. Nhưng vì sao Ngô Thì Sĩ lại có cái nhìn việc thiếu chuẩn mực như vậy? Chỉ có thể là, với tinh thần dân tộc hẹp hòi, ông không chịu một ông vua người Hán tộc! Trong lịch sử thế giới, một người nước này làm vua nước khác không hiếm. Ngay bên chúng ta, tới cuối thế kỷ XVIII, vua nước Xiêm là một người Trung Quốc tên là Trịnh Quốc Anh từng kéo quân sang đánh Hà Tiên. Còn với chúng ta thì đúng Triệu Ðà là người Hán nhưng dân Nam Việt lúc đó hầu hết là người Việt, vì vậy không thể phủ nhận việc ông là vị vua đầu tiên của nước Nam Việt, ông vua khai sáng của Việt Nam chúng ta. Mặt khác, vợ ông là Trình thị người Ðường Thâm Giao Chỉ nên con ông, Trọng Thủy ít nhất có nửa phần máu Việt, còn cháu ông là Triệu Hồ có một phần máu Việt, đến Anh Tề, phần máu Việt cao hơn. Họ Triệu chẳng những có công khai sáng Nam Việt mà ngày càng gắn bó bằng tâm hồn bằng máu huyết với Tổ quốc mới của mình! Trong khi viết những dòng này, rất may mắn tôi tìm trên mạng một thông tin bổ ích: Năm 1983, trong khi đào móng dựng nhà, người ta phát hiện được tại đồi Ngung thành Quảng Châu, kinh đô cũ Phiên Ngung thời Triệu lăng mộ của Nam Việt Triệu Văn vương Triệu Hồ. Năm 1988 Bảo tàng Nam Việt vương được xây dựng trên địa điểm đó, gồm có lăng mộ còn giữ một phần xương hàm nhà vua cùng khoảng 1000 hiện vật khác, trong đó có quả ấn Nam đế hành tỷ bằng vàng. Như vậy ở thời làm chủ Nam Việt, Triệu Văn vương vẫn xưng đế! Hiện vật này phủ nhận Sử Ký: khi lên thay Ðà, Hồ dấu ấn đế đi. Cũng phải nói rằng, dù có là nhà sử học vĩ đại thì Tư Mã Thiên vẫn là người kỳ thị chủng tộc. Không chỉ ở chi tiết trên mà còn ở cách gọi: dù viết thành liệt truyện thì ông vẫn gọi Triệu Ðà là Nam Việt úy Ðà. Một danh xưng không thỏa đáng: chức úy chỉ do Nhâm Ngao làm chiếu giả phong cho, còn chức huyện lệnh mới là danh chính ngôn thuận. Vậy tại sao lại dùng cái danh không chính này để gọi nhân vật lịch sử mà không dùng danh khác, nhất là danh vương, đế của một triều đại lừng lững kéo dài một trăm năm? Cũng một điều vô lý nữa: tên bảo tàng được gọi là Tây Hán Nam Việt vương mộ bác vật quán (!)Tại sao lại gán gép vô lối vậy? Hai nhà nước hai cương thổ khác nhau sao lại gộp làm một? Một sự xuyên tạc trắng trợn lịch sử! [6] Một câu hỏi cần phải trả lời gấp: Triệu Ðà ông là ai? Người Tàu không nhận ông là Tàu vì ông là Nam Việt hiệu úy. Còn với người Việt ông bị coi là giặc Tầu xâm lược! Vậy ông là ai?! Ruột bỏ ra da ôm lấy từng là nỗi đau của bao người. Mồ cha không khóc lại khóc đống mối từng là bi kịch của không ít gia đình, dòng họ... Nhưng vì những lầm lẫn mà chối bỏ người sáng lập ra quốc gia, chối bỏ cả thời đại quan trọng trong lịch sử lại là nỗi đau nỗi nhục của cả một dân tộc! Ðã đến lúc vụ án Triệu Ðà -Trọng Thuỷ phải được tính lại. Cội nguồn văn hoá Trong khi trình bày vấn đề cội nguồn tổ tiên, tôi đã phần nào nói tới cội nguồn văn hóa. Ðấy là những nền văn hóa Sơn Vi, Hòa Bình, Bắc Sơn, Ðông Sơn... tổ tiên ta đã làm ra trên đất Việt Nam. Một vấn đề cần làm rõ: trong khoảng thời gian hàng vạn năm sống ở Trung Nguyên, người Việt đã sáng tạo ra những gì? Không làm ra những kỳ tích như Hòa Bình, Bắc Sơn nhưng những người Việt xa quê này không ngừng sáng tạo: thuần hóa gia súc, trồng lúa nước, làm ra đồ gốm, trong đó có cái chõ Tam biên (để đồ xôi) rất đặc trưng rồi đúc trống đồng, đúc Cửu đỉnh. Người Việt ở đây cũng kết thằng tức bện dây làm lưới đánh cá... Cùng với những văn hóa vật thể ấy, trong hàng vạn năm duy trì một xã hội nông nghiệp ổn định, người Việt phương Bắc cũng sáng tạo nên nền văn hóa phi vật thể phong phú. Ðó là những kinh nghiệm về thời tiết về cây trồng mà bà Nữ Oa là bậc thầy có tài đội đá vá trời (cách nói hình tượng của việc quan sát nắm vững thời tiết), những kinh nghiệm về đối xử với thiên nhiên, với hàng xóm láng giềng. Từ những vết chân chim in trên phù sa, cha ông ta làm ra chữ viết: chữ kết nút, chữ hình con nòng nọc (chữ Khoa đẩu), chữ hình ngọn lửa (Hỏa tự), dùng mu rùa bói toán... Hoài niệm về thời Nghiêu Thuấn mà có lúc chúng ta cười giễu các cụ say giấc mơ Tàu thì thực ra lại chính là hồi quang của lối sống Việt tận nguồn: thế giới đại đồng, con người hòa thuận với thiên nhiên, sống với nhau nhân ái, dân chủ. Khi tràn xuống Trung Nguyên, người Hán du mục bắt gặp một cuộc sống mới cùng nền văn hóa mới. Khi kẻ xâm lấn tràn tới, thành phần quý tộc tinh hoa của các bộ tộc Việt bỏ chạy về Nam, một bộ phận bất hợp tác thì vào rừng lẩn trốn thành người thiểu số còn đại đa số dân Việt thích ứng với cuộc sống mới. Cuộc săn đuổi và trốn chạy diễn ra dài dài trong lịch sử, kể đến nhiều nghìn năm. Trong thời gian dằng dặc ấy, chữ Việt ban đầu được viết với bộ Mễ (lúa gạo – chỉ dân trồng lúa nước) bị kẻ chiến thắng đổi thành chữ Việt với bộ Tẩu (vượt – chỉ người Việt chạy vượt qua sông Dương Tử). Trong khi đó người Việt ở lại sống chung với quân xâm lược được gọi là Miêu. Do số dân quá ít, khi đối mặt với kẻ chiến bại đông đảo, kẻ chiến thắng Hán tộc đã áp dụng thái độ ứng xử khôn ngoan với tộc người Miêu này. Khác với người Aryen du mục khi chinh phục Ấn Ðộ đã áp chế người bản địa Dravidiens bằng chế độ nô lệ hà khắc để lại những di họa đến bây giờ, người du mục Hán tộc giữ vai trò lãnh đạo và chuyển sang làm thương nghiệp, công nghiệp còn để cho người Miêu Việt làm công việc nặng nhọc là trồng trọt, chăn nuôi và đi lính. Lúc đầu choáng ngợp trước cuộc sống sung túc và văn hóa khác lạ của dân nông nghiệp, người du mục không chú ý lắm đến các vị thần, đến tín ngưỡng bản địa. Nhưng rất nhanh chóng, cộng đồng dân cư bản địa quá đông đúc đã đồng hóa kẻ xâm lăng, cả về huyết thống cả về văn hóa. Giai cấp lãnh đạo Hán tộc từ bỏ vật tổ truyền thống là con cọp trắng để nhận vật tổ của người Miêu Việt là con rồng làm vật tổ của mình, nhận những ông vua thời Tam hoàng, không chỉ nhân vật chính thống Hoàng đế mà cả Phục Hy, Thần Nông làm tổ. Tiến một bước nữa, những trí thức Hán tộc kết hợp cùng trí thức Miêu Việt tiến hành ghi chép những điều hay lẽ phải trong cộng đồng nông nghiệp Việt tộc để chế tác kinh điển. Những kinh, thư đã ra đời như vậy. Trong Luận ngữ, Khổng tử nói: “Ngô thuật nhi bất trước" (Ta chỉ ghi lại mà không sáng tác). Ðó là lời trung thực, nói lên đúng thực chất những gì ngài đã làm. Kinh Thi bắt đầu từ sự sưu tầm ghi chép những câu ca tồn tại từ lâu trong dân gian. Về nguồn gốc Kinh Dịch, người ta thường nói truyền thuyết con long mã sông Hà dâng đồ, con rùa sông Lạc dâng thư nhưng thực ra đó là những kinh nghiệm bói toán đã có từ lâu trong cộng đồng Việt miền lúa nước sông Hà sông Lạc mà trí thức Hán tộc thâu lượm, nhuận sắc nâng cao lên... Rồi Kinh Lễ cũng là sưu tầm chọn lọc những điều lễ nghĩa trong thiên hạ người Việt... Việc này làm nên nền văn minh cổ Trung Hoa. Như vậy, trong văn hóa Trung Hoa, sự đóng góp của Việt tộc nông nghiệp là phần chủ đạo, phần hồn phần cốt. Nhìn về thực chất, bên trong nền văn minh được đóng gói dán nhãn Trung Quốc chế tạo ấy lại là sản phẩm của Việt tộc. Ý tưởng về nhân tố Việt là chủ đạo trong văn hóa Trung Hoa hơn 30 năm trước đã được học giả Kim Ðịnh nhiệt tâm trình bày trong loạt sách Triết lý An Vi như Việt lý tố nguyên, Dịch kinh linh thể, Cơ cấu Việt Nho... của ông. Do lúc đó chưa biết con đường Bắc tiến của người Hòa Bình nên ông phải chứng minh khá vất vả về sự tồn tại của văn hóa Việt trên địa bàn Trung Nguyên. Khi bổ sung vào ý tưởng của ông phát kiến di truyền học hiện đại là con đường thiên di lên phía Bắc của người Việt cổ thì mọi chuyện trở nên hiển nhiên: người Việt phương Nam từng thiên cư lên, sống hàng vạn năm trên lưu vực Hoàng Hà thì cố nhiên họ là chủ nhân của những địa tầng văn hóa như Ngưỡng Thiều, Long Sơn hiện hữu nơi đó! Những người Việt sống ở Trung Quốc làm nên phần cốt lõi của văn hóa Trung Hoa. Vậy còn người Việt tại miền Ngũ Lĩnh, Giao Chỉ để lại thành tựu riêng gì? Các sách cổ Trung Quốc như Giao Châu ký, Ngô lục địa lý chí, Nam phương thảo mộc trạng... đều ghi chép: “Dân Lạc Việt trồng lúa mà ăn, dùng lá trà làm thức uống.” “Họ biết uống nước bằng lỗ mũi” “Nuôi tằm mà dệt vải” “Dùng đất sét đào sâu trong đất, thái mỏng, phơi khô làm thức ăn quý để đi hỏi vợ” “Dùng đá màu làm men gốm” “Dùng mu rùa mà bói việc tương lai” “Họ dùng một khúc tre dài chừng hơn một thước, một đầu có trụ cao làm tay cầm, có dây buộc vào trụ nối lại đàng kia làm đàn gọi là độc huyền cầm” “Họ đem tính tình các con vật mà so sánh với người, rồi họ truyền tụng rằng, ngày thứ nhất trời sinh con chuột, ngày thứ hai sinh con trâu, ngày thứ ba sinh con cọp (truyện thần thoại của người Dao, gốc tích của 12 con giáp). Họ biết tìm hiểu các thức ăn nóng mát (thuyết âm dương) để trị bệnh, dùng kim đâm vào da thịt lấy máu để trị bệnh, lấy đá hơ nóng áp vào da thịt để trị bệnh.” Khi một môn đệ đi đến đất Việt, xin Ðức Khổng tử chỉ dạy, Ngài nói: “Người Bách Việt miền Nam có lối sống, tiếng nói, phong tục, tập quán, thức ăn uống riêng”; “dân Bách Việt chuyên làm ruộng lúa mà ăn, không như chúng ta trồng kê và lúa mì. Họ uống nước bằng thứ lá cây hái trong rừng gọi là trà.” Sách Hậu Hán thư quyển 14 viết “Dân Giao Chỉ biết nhiều nghề thủ công, luyện đúc đồng và sắt...” Sách Cổ kim đồ thư chép: “Mã Viện tâu vua, Giao Chỉ ép mía làm đường phèn: Giao Chỉ có cây mía ngọt. Ðem ép lấy nước rồi làm đường phèn.” “Giao chỉ làm giấy mật hương: bằng lá và vỏ cây mật hương (cây dó) trồng ở Giao Chỉ, giấy mềm, dai, thơm, ngâm nước không bở không nát.” [7] Chúng ta biết, người Hán có gốc từ Mông Cổ du mục nên nhà làm theo hình tròn gọi là lều. Trong khi đó người Việt làm nhà sàn hình chữ nhật bằng tranh tre, có mái cong mà mô hình còn thấy trong mộ táng thuộc Văn hóa Ðông Sơn 2000 năm TCN. Khi định cư ở Trung Nguyên, dân Hán đã theo mô thức nhà của người Việt. Khi tìm thấy một số gạch có hoa văn, nhiều học giả Pháp cho đó là hàng nhập về để lát bàn thờ nhưng thực ra đó là gạch lát nền nhà của người Việt thời Lý Trần tìm thấy tại nhà của Hưng Ðạo vương ở Vạn Kiếp và nay càng thấy nhiều trong khi khai quật Hoàng thành Thăng Long. Một thí dụ khá khôi hài là hơn 50 năm trước, khi Bảo tàng Istambul Thổ Nhĩ Kỳ trưng bày chiếc bình gốm Hoa Lam cổ( được bảo hiểm 1.000.000 USD) người Tàu và người Nhật đến xem có phải của họ không. Nhưng khi thấy ghi trên bình Thái Hòa bát niên... Bùi Thị Hi bút ( niên hiệu Lê Thánh tông) người Tàu bèn nói: “Của một ông thầy Tàu qua rồi làm chơi” (!) Ðến khi phát hiện ra lò gốm men lam Chu Ðậu (Hải Dương) thế kỷ XV với rất nhiều hiện vật thì các “thầy” đành chào... thua một người đàn bà Việt Nam! Lều Mông Cổ * Nhà người Việt * Bình men lam Chu Ðậu (Hình của Ts Nguyễn Thị Thanh) Từ nhận thức trên, có thể rút ra hai kết luận: 1 - Ít nhất từ 30.000 năm TCN, sau thời kỳ băng hà, người Bách Việt là chủ nhân miền đất ngày nay có tên là Trung Quốc. Cùng với việc biến cải nơi đây thành vùng nông nghiệp lúa nước, người Bách Việt đã xây dựng nền văn hóa vật thể và phi vật thể độc đáo. 2 - Nếu văn hóa Việt ở Trung Nguyên đạt được những thành tựu như vậy thì điều chắc chắn là văn hóa Việt tộc ở đất tổ, ở nơi gốc phát tích sẽ rực rỡ hơn. Cho dù bị hủy hoại không ít trong thời kỳ Bắc thuộc, nhất là ảnh hưởng suy đồi của Hán Nho, Tống Nho nhưng do sức sống nội tại, văn hóa tận nguồn đó vẫn được người dân Việt lưu giữ bảo tồn. Vấn đề của chúng ta là chọn lọc giữa những yếu tố lai tạp để tìm ra tinh hoa văn hóa cội nguồn của dân tộc. Trong việc này, tinh thần Việt nho giúp chúng ta như một định hướng. Tới đây, một vấn đề cần làm rõ là đánh giá vai trò người Hán đối với sự phát triển của khu vực. Vượt sông Hoàng Hà xuống phía Nam, tiếp thu mảnh đất rộng mênh mông, phì nhiêu với cư dân đông đúc và nông nghiệp, đồ đá đồ đồng phát triển, Hán tộc trong vai trò lãnh đạo đã thực thi một chính sách khôn ngoan là nương theo nền nếp của người Việt, tổ chức xã hội cộng đồng dân chủ mà sau này lịch sử gọi là thời hoàng kim. Ðặc điểm cơ bản của thời kỳ này là con người sống thân ái với nhau và hài hòa với thiên nhiên. Do nghề nông phát triển, lương thực dồi dào, xã hội có sự phân công ra nhiều ngành nghề khác nhau: nông, công, thương. Sau đó tầng lớp sĩ ra đời và ngày càng có vai trò lớn hơn trong xã hội. Chữ viết Hỏa tự, chữ Khoa đẩu của người Việt dần được thay thế và chữ vuông tượng hình ra đời. Từ đây, những kinh nghiệm trong dân gian được tổng kết thành kinh điển, trước hết là Kinh Thi rồi Kinh Dịch... Sự việc như vậy diễn ra trong vòng 1500 năm TCN. Trên cở văn hóa Việt bản địa, người Hán đã bổ sung vào đó tinh túy của Hán tộc để đưa văn minh Trung Quốc lên thời kỳ phát triển rực rỡ. Văn hóa Trung Hoa là đứa con lai tốt đẹp giữa văn hóa Việt nông nghiệp và Hán du mục. Học giả W. G. Solheim II đã nhận xét: “Ðông Nam Á còn tiếp tục là một khu vực tiên tiến ở Viễn Ðông cho đến khi Trung Quốc thay thế xung lực này vào nửa đầu thiên niên kỷ thứ 2 TCN, tức khoảng 1500 năm TCN.” (bđd). Theo tôi, đấy là nhận xét thỏa đáng. Chúng ta, người Lạc Việt, chủng người Bách Việt duy nhất do sự may mắn của số phận thoát khỏi qúa trình Hán hóa, có được cương thổ riêng, giữ được tiếng nói và huyết thống riêng. Trong khi tự hào về những thành tựu vĩ đại của tổ tiên trong quá khứ thì chúng ta cũng cảm ơn người Hán biết tôn trọng văn hóa của Bách Việt bản địa đồng thờ phát triển lên tầm cao mới. Nhờ đó nhiều yếu tố Việt của văn hóa tiền sử được bảo tồn, nâng cao, là thành quả văn hóa mà hai dân tộc chung hưởng hôm nay. Biết được cội nguồn tổ tiên và cội nguồn văn hóa, chúng ta nắm được chiếc chìa khóa thần giải đáp rất nhiều vấn đề văn hóa nhân sinh từng làm đau đầu nhiều thế hệ Việt. Do thời gian quá lâu, người Việt không thể nhớ tổ gốc cũng như đất gốc phát tích của mình là Bắc Bộ Việt Nam mà chỉ có thể nhớ trong hoài niệm vị tổ xa là Toại Nhân làm ra lửa, sau đó là Phục Hy, Thần Nông và núi Thái sông Nguồn trở thành hoài niệm ám ảnh trong tâm linh những thế hệ Việt chạy về Nam... Cũng vậy, ta cắt nghĩa vì sao trên đất nước ta lại có nhiều địa danh “Tàu”? Chính bởi vì khi khai phá lưu vực Hoàng Hà, cha ông chúng ta đã đặt cho đất ấy những tên như Hà Ðông, Hà Tây, Hà Nam, Hà Nội... Khi trở về Nam, các vị nhớ tới đất cũ mà đặt tên cho những nơi vừa khai phá. Không phải vay mượn mà cha ông ta lấy lại bản quyền của mình. Không chỉ thế, đó còn là tình cảm là tâm linh tưởng nhớ cội nguồn! Cũng từ cái chìa khóa thần ấy, ta dễ dàng giải thích vì sao người Việt luôn chống Tàu nhưng lại học hỏi và tôn trọng văn hóa Trung Hoa? Bởi lẽ cha ông ta minh triết: biết phân biệt giặc Tàu xâm lược với “văn hóa Tàu” vốn là văn hóa gốc của mình! Một cách ứng xử văn hoá Sau hàng ngàn năm lội ngược thời gian tìm cội nguồn tổ tiên, cội nguồn văn hóa dân tộc, có lẽ hôm nay nhờ thành tựu mới của khoa học nhân loại, chúng ta đã có lời đáp rõ ràng, thuyết phục. Với nhận thức mới về nguồn cội thiết tưởng chúng ta cần có lối ứng xử văn hóa mới: 1 - Chúng ta có quyền tự hào chính đáng về tổ tiên đã làm nên những nền văn hóa rực rỡ trên đất Việt. Tổ tiên ta cũng là chủ nhân ông thứ nhất khai phá đất nước Trung Hoa và sáng tạo nên văn minh Việt tộc trên vùng đất mênh mông này. Người Việt có chủ quyền chính đáng với nền văn minh gốc Việt ấy. 2 - Về mặt huyết thống, từ bản đồ gene con người, chúng ta thấy mình càng gần gũi với các tộc người anh em sống trên đất nước. Không chỉ cùng tổ tiên với người Kinh mà các tộc người anh em lại là hậu duệ của tổ tiên bám trụ lâu dài trên đất nước và sáng tạo những nền văn hóa mà hôm nay chúng ta tự hào. Ðối với các tộc người anh em chúng ta cần một thái độ biết ơn và trân trọng. Ðối với người Hán trên lục địa Trung Hoa, ta thấy họ cũng là bà con của ta vì trong mỗi người ít nhiều đều có một phần dòng máu của tổ tiên ta từ thuở xa xưa. 3 - Hàng ngàn năm bên cạnh một cường quốc khổng lồ với nền văn hóa vĩ đại, cha ông ta luôn mang mặc cảm một quốc gia nhược tiểu, một dân tộc không có văn hóa gốc. Với nhận thức mới về nguồn cội, chúng ta tự giải phóng khỏi sự cầm tù của mặc cảm truyền kiếp đó, lấy lại niềm tự hào chính đáng: Dân tộc Lạc Việt là người duy nhất trong hệ Bách Việt còn tồn tại và kế tục sự nghiệp của một tổ tiên vĩ đại. Chính tổ tiên ta là người chủ đạo sáng tạo nên nền văn hóa rực rỡ mang tên văn minh Trung Hoa. Với nhận thức mới về cội nguồn, chúng ta mạnh dạn nhận lại văn minh Trung Hoa là của mình. Ðấy là của chung mà ông bà ít nhất có phần hùn 51%. Việc sử dụng văn minh Trung Hoa trước đây vẫn bị coi là vọng ngoại là vay mượn thì từ nay ta sử dụng với tư cách chủ nhân có tác quyền hợp pháp. 4 - Từ nhận thức về cội nguồn tổ tiên, cội nguồn văn hóa, chúng ta xác định bản sắc văn hóa Việt nam: là truyền thống sống hòa đồng với thiên nhiên, tương thân tương ái với đồng loại, là nhân, nghĩa, lễ, trí, tín... Có nghĩa là những yếu tố tốt đẹp nhất của Nho giáo- phần tinh hoa của văn hóa Việt tộc được tổng kết trong những kinh điển Nho giáo thời kỳ đầu. Học giả Kim Ðịnh gọi phần văn hóa Việt tộc này là Việt nho. Tôi cho rằng đó là tên gọi xác đáng cần được tiếp thu. Việt nho là văn hóa Việt khi chưa bị tầng lớp thống trị Hán tộc làm cho tha hóa trở thành Hán nho và Tống nho – công cụ đàn áp nhân dân, thủ tiêu dân chủ. Trong khi Nho giáo Trung Hoa bị suy đồi thì những yếu tố Việt nho vẫn tồn tại trong cộng đồng người Việt Nam như một truyền thống văn hóa tốt đẹp. Ðáng tiếc là do nhận thức chưa đúng về nguồn cội nên chúng ta ngộ nhận cho tất cả đều là của Tàu nên chối bỏ. Cần khẳng định đó là văn hóa đặc hữu của người Việt và lấy làm tiêu chí để gạn bỏ yếu tố Hán và Tống nho bị xảm vào văn hóa Việt do chủ trương đồng hóa của kẻ xâm lược phương Bắc. 5 - Cho dù hôm nay đang đối mặt với những khó khăn chồng chất nhưng từ cội nguồn tổ tiên cội nguồn văn hóa chúng ta có lý do để tin tưởng rằng dân tộc ta sẽ có một tương lai xán lạn. Việc của chúng ta là mỗi người trong khả năng của mình ngay từ bây giờ ra sức xây dựng tương lai đó! Tôi hình dung ra, có thể cái tương lai phía trước chúng ta chính là thời Nghiêu Thuấn: con người thân thiện với thiên nhiên, sống với nhau hòa đồng thân ái, dân chủ, trên cơ sở nhân, nghĩa, lễ, trí, tín... Phải chăng chính đó là lý tưởng phương Ðông mà phương Tây đương tìm đến? * Lời cảm ơn: Người viết chân thành cảm ơn các tác giả có sách tham khảo trong bài viết này. Ðặc biệt cảm ơn những tác giả người Việt ở nước ngoài: Ts Nguyễn Thị Thanh, GsTs. Nguyễn Văn Tuấn, các ông Cung Ðình Thanh, Nguyễn Ðức Hiệp, Nguyễn Quang Trọng. Ông Hoài Thanh báo Đại chúng đã cung cấp những tài liệu quý. Cảm ơn bạn tôi, Ðỗ Thái Nguyên và Gs Ranjan Deka gửi cho tư liệu mới nhất. Chính trí tuệ và thịnh tình của các vị đã soi sáng và động viên tôi hoàn thành bài viết. Một lần nữa xin chân thành cảm ơn. Hà Văn Thùy Cuối năm Giáp Thân =========================================== [1]Kim Ðịnh: Sđd, tr. 62-63 [2]Ðại Việt sử ký toàn thư. [3]Ngô Thì Sỹ: Việt sử tiêu án. Văn sử tái bản năn 1991. Bản điện tử Lê Bắc, tr 10. [4]Sử ký Tư Mã Thiên, Nxb Văn học H.1988, tr.743. [5]Phủ Biên tạp lục, Nxb KHXH. H. 1977 tr. 31 [6]Trương Quang-Daichung.com- Connecticut 4/2003 [7]Nguyễn Thị Thanh, Bđd.
    2 likes
  6. Câu chuyện của một người vô gia cư dùng iPad Trước sự ngạc nhiên của cư dân mạng về bức ảnh người ăn mày đang dùng notebook, một người sống cảnh "màn trời chiếu đất" đã chia sẻ với blog công nghệ Gizmodo câu chuyện của ông. Bức ảnh người vô gia cư dùng notebook nổi tiếng trên mạng. Ảnh: Hardly Normal Tôi vô gia cư, bẩn thỉu, nhếch nhác, nhưng tôi sở hữu một chiếc iPad và netbook MSI Wind u130. Đây là những công cụ không thể thiếu. Thực tế, không có nhà không phải là vấn đề quá to tát hiện nay, khả năng kết nối với thế giới mới là điều quan trọng.Tôi lang thang là do tự mình lựa chọn. Tôi cho và bán tất cả tài sản ở Los Angeles (Mỹ) để chuyển tới Paris (Pháp). Visa của tôi hết hạn. Tôi không được phép sống ở đây, nhưng tôi vẫn làm việc. Khi cần liên hệ với ai, như một người bạn hay Sở giao thông vận tải Paris để phàn nàn về vé tàu, thật khó tưởng tưởng nếu không có sóng Wi-Fi miễn phí ở các cửa hàng ăn nhanh McDonald's. Người đàn ông này không có nhà, nhưng có thể có một "ngôi nhà ảo" trên Facebook. Ảnh: Gizmodo. Tôi dùng laptop để viết sách trong công viên, gọi điện Skype, Google Voice, viết ứng dụng cho iPad... Tôi chưa trả tiền điện thoại quốc tế trong 6 tháng. Kiếm tiền qua dịch vụ quảng cáo Google Ads, một số công việc trên web, viết lách tự do... cũng đem lại chút tiền bạc và đủ giúp tôi chưa bao giờ cảm thấy đói. Thiếu laptop, sao tôi có thể làm được những điều như thế? Tôi sử dụng pin năng lượng mặt trời để sạc iPad. Tôi đổi máy nghe nhạc MP3 của mình để lấy nó qua trang rao vặt Craigslist. Cửa hàng McDonald's không chỉ cho phép dùng Wi-Fi miễn phí mà còn có ổ cắm để nạp điện netbook. Họ hiếm khi phàn nàn vì tôi ngồi quá lâu, miễn là mình gọi đồ ăn. Tôi chỉ cần đến trạm sạc công cộng 3-4 ngày một lần Tôi đang nói về chuyện "ăn mày có phong cách". Tôi không có điện thoại di động. Tôi không cần nó. Nhưng có rất nhiều người vô gia cư ở Los Angeles vẫn sử dụng điện thoại, giấu tai nghe không dây Bluetooth dưới mái tóc dài. Trông như họ đang tự nói chuyện với chính mình. Còn tôi liên lạc qua Skype và Google Voice. Người Paris rất thân thiện với công nghệ. Nhiều người hỏi tôi về chiếc iPad và thật ngộ nghĩnh khi quan sát phản ứng của họ lúc tôi nói rằng tôi sống nhờ nó. Sam Spratt của Gizmodo tưởng tượng về người ăn mày dùng iPad và netbook trong bài viết. Bởi mọi thứ tôi có đều nhờ Internet, tôi thực sự không cần một ngôi nhà. Nhiều người khác cũng thế và chúng tôi gọi nhau là "lữ khách trọn đời". Chúng tôi đi nhờ xe, làm việc trên laptop và khi mùa đông đến, chúng tôi lại rời lên phía Nam nước Pháp. Hai tuần nữa, có thể tôi sẽ ở London (Anh). Đồng hành với tôi là một chiếc túi nhỏ, trong đó có bàn chải đánh răng và chiếc bật lửa Zippo may mắn. Sống kiểu này rất thú vị. Tuy nhiên, nó đòi hỏi bạn phải bắt kịp xu hướng mới nhất về âm nhạc, điện ảnh, công nghệ, chính trị... Đó là tất cả những gì tôi muốn nói. Thật không đúng khi mọi người nghĩ rằng "vô gia cư" đồng nghĩa với "điên, lôi thôi, bẩn thỉu" hay những từ tương tự. Sở hữu laptop cũng không còn khó nữa. Còn sở hữu nhà thì sao? Thử kiếm tiền mua nhà xem. Và nói cho tôi biết khi nào bạn đầu hàng". Châu An vnexpress.net
    2 likes
  7. Trong Topic này Khánh An xin được lần lượt giới thiệu đến mọi người những cuốn sách vô cùng quý giá về cách thức tu tập để giúp mọi người không chỉ "chuyển đổi vận MỆNH" ngay hiện đời của mình mà đặc biệt còn cứu giúp chính mình và mọi người vượt thoát BIỂN KHÔ LUÂN HỒI SANH TỬ khi rời bỏ báo thân ở kiếp này. NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT Con xin đem tất cả công đức này trang nghiêm Tây phương Phật Tịnh Độ, Xin hồi hướng cho thập phương pháp giới hữu tình, trên đền bốn ân nặng, dưới cứu khổ tam đồ, Hồi hướng cho lịch đại kiếp số oán thân trái chủ, tất cả mọi chúng sanh đã bị con não loạn, đã bị con giết hại, ăn thịt trong đời này và nhiều đời kiếp khác. Hồi hướng cho bà con thân thuộc hiện đời và bà con trong vô lượng kiếp cùng tất cả kẻ oán, người thân, dù đang ở trong bất cứ cảnh giới nào tất cả đều được lợi lạc, đều khởi phát TÍN -HẠNH -NGUYỆN cầu sanh Tịnh Độ và đều được thành tựu Nguyện cầu Hồng ân Tam bảo chứng minh và từ bi gia hộ cho con cùng tất cả mọi chúng sanh trong mười phương pháp giới sớm cùng lên thuyền giác, cùng nguyện vãng sanh, cùng sanh Cực lạc, cùng kiến Di Đà, cùng ngộ vô sanh, cùng thành Phật đạo. A DI ĐÀ PHẬT LIỄU PHÀM TỨ HUẤN Hay PHƯƠNG PHÁP TU PHÚC, TÍCH ĐỨC CẢI TẠO VẬN MỆNH Dịch giả : Tuệ Châu – Bùi Dư Long ( Được tham khảo thêm từ bản in của Ấn Quang Đại Sư ) Mục Lục : Quy tắc tu học - Lời Khai Thị của Ấn Quang Đại Sư Đạo lý vận mệnh I. Luận về lập mệnh II. Vân Cốc khuyên cải tạo vận mệnh III. Tu Phúc Tích Đức Thắng Số IV.Dạy con biết sửa lỗi, tu phúc, tích đức Phương pháp sửa lỗi I- Cái nhân của việc sửa lỗi II- Nền tảng của việc sửa lỗi 1. Lòng xấu hổ 2. Lòng úy kính 3. Lòng dũng mãnh III- Phương pháp sửa lỗi 4. Theo sự tướng 5. Theo lý cải sửa 6. Theo tâm địa 7. Hiệu nghiệm của việc sửa lỗi Phương pháp tích thiện I - Một nhà tích thiện hẳn có nhiều vui II - Thế nào là thiện? 1. Bàn luận rõ ràng về thiện 2. Định nghĩa chữ thiện - Thế nào là ngay thẳng, khuất khúc? - Thế nào là âm thiện, dương thiện? - Thế nào là phải và chẳng phải? - Thế nào là thiên lệch và chính đáng? - Thế nào là đầy và vơi ( bán và mãn )? - Thế nào là đại và tiểu? - Thế nào là khó và dễ? 3. Tùy duyên hết sức tu thập thiện - Thế nào là trợ giúp người cùng làm thiện? - Thế nào là giữ lòng kính mến người? - Thế nào là thành toàn việc thiện của người? - Thế nào là khuyến khích người làm thiện? - Thế nào là cứu người nguy cấp? - Thế nào là kiến thiết tu bổ lợi ích lớn? - Thế nào là xả tài làm phúc? - Thế nào là giữ gìn bảo hộ chánh pháp? - Thế nào là kính trọng tôn trưởng? - Thế nào là tiếc mạng sống loài vật? Những lợi ích của khiêm cung I – Mãn ( tự mãn ) có hại, khiêm có lợi II – Lòng khiêm tốn, nhún nhường , nguồn gốc của phúc QUY TẮC TU HỌC Lời Khai Thị của Ấn Quang Đại Sư Bất luận là người tu tại gia hay xuất gia, cần phải trên kính dưới hòa, nhẫn nhục điều người khác khó nhẫn được, làm những việc mà người khác khó làm được, thay người làm những việc cực nhọc, thành toàn cho người là việc tốt đẹp. Khi tĩnh tọa thường nghĩ đến điều lỗi của mình. Lúc nhàn đàm đừng bàn đến điều sai trái của người. Lúc đi, đứng, nằm, ngồi, ăn, mặc, từ sáng đến tối, từ tối đến sáng, chỉ niệm Phật hiệu không gián đoạn, hoặc niệm nho nhỏ, hoặc niệm thầm. Ngoài việc niệm Phật, đừng dấy khởi một niệm nào khác. Nếu khởi vọng niệm, phải tức thời bỏ ngay. Thường có lòng hổ thẹn và tâm sám hối. Nếu đã tu trì, phải tự hiểu là công phu của ta hãy còn nông cạn, chẳng nên tự kiêu căng, khoa trương, chỉ nên chăm sóc việc nhà mình mà đừng nên dính vào việc nhà người. Chỉ nên nhìn đến những hình dáng tốt đẹp mà đừng để mắt tới hình dạng xấu xa bại hoại. Hãy coi mọi người là Bồ Tát, mà ta chỉ là kẻ phàm phu. Nếu quả có thể tu hành được như những điều kể trên, thì nhất định được sinh về Tây Phương Cực Lạc Thế Giới. Cư sĩ Bùi Dư Long dịch. ĐẠO LÝ VẬN MỆNH I– Luận về lập mệnh 1. Khổng Tiên Sinh đoán rõ định mệnh. Ta lúc nhỏ thân phụ mất sớm, lão mẫu dạy bỏ không theo cử nghiệp mà theo học nghề y, vì học y cũng có thể mưu sinh, có thể cứu người giúp đời mà khi y thuật tinh thông thì được thành danh, đó là ý nguyện sớm có của cha con vậy. Sau đó tại chùa Từ Vân, ta gặp một lão nhân râu dài, tướng mạo tốt đẹp có vẻ tiên phong đạo cốt, nên ta dùng lễ mà cung kính lão nhân ấy. Ông bảo ta rằng: Ngươi là người trong sĩ lộ. Năm tới tức phải nhập học, tại sao lại không theo học vậy? Ta nói rõ nguyên cớ cho vị lão nhân ấy nghe, và lễ phép hỏi danh tính cùng xuất xứ của lão nhân. Lão nhân nói: Lão họ Khổng, người Vân Nam. Lão được Thiệu Khang Tiết tiên sinh chân truyền Hoàng cực số, lão nghĩ cũng nên truyền cho ngươi. Ta thỉnh lão nhân về nhà, và báo cáo với lão mẫu thì người dạy phải nên tiếp đãi cho thật cẩn thận tử tế và thử xem ông ấy đoán số ra sao, thì thấy mọi việc lớn nhỏ ông đều đoán trúng cả. Ta bèn có ý định theo đòi việc đèn sách và bàn với biểu huynh là Thẩm Xứng thì biểu huynh bảo: có Úc Hải Cốc tiên sinh mở lớp dạy tại nhà ông Thẩm Hữu Phu, ta gởi ngươi tới đó trọ học thì rất là thuận tiện. Ta bèn bái Úc tiên sinh làm sư phụ. Khổng tiên sinh lấy số cho ta thì khi khảo thí ở huyện, đỗ đồng sinh đứng hạng thứ 14, thi ở phủ đứng vào hạng thứ 71, và thi ở tỉnh do quan đề đốc học viện làm chủ khảo thì đỗ vào hạng thứ 9. Năm tới đi thi, thì ở cả ba nơi số hạng đều đúng y như thế. Sau đó lại lấy số chung thân cho ta, dự đoán những việc cát hung cho cả một đời và bảo rằng vào năm nào thì được khảo thí đứng hạng mấy, năm nào thì được bổ khuyết lẫm sinh (tức được cấp phát lương ăn học bằng gạo), năm nào thì làm cống sinh, và sau khi làm cống sinh, năm nào thì được tuyển làm trưởng quan ở Tứ Xuyên, tại chức sau 3 năm rưỡi thì cáo quan về hưu. Năm 53 tuổi vào giờ sửu ngày 14 tháng tám thì mất trên giường bệnh, tiếc rằng không con nối dõi. Ta cẩn thận ghi lại tất cả. Từ đó về sau, phàm mỗi khi gặp kì khảo thí, danh số trước sau đều đúng như Khổng tiên sinh đã dự đoán sẵn. Chỉ có một dự đoán là khi nào số gạo cấp lương lẫm sinh của ta được tới 91 thạch 5 đấu (1 thạch là 10 đấu) thì lúc đó sẽ được bổ làm cống sinh, nhưng kịp tới khi ta được lãnh hơn 70 thạch thì Đồ tông sư (quan đề học), đã phê chuẩn cho ta được bổ làm cống sinh, duy chỉ có chỗ đó làm ta có điểm hoài nghi. Nhưng thực ra sau đó, sự phê chuẩn này bị quan thự ấn họ Dương bác bỏ. Mãi tới năm Đinh Mão, tông sư Ân Thu Minh thấy bị quyển nơi trường thi của ta (quyển nộp thi đáng được chấm đậu mà bị bỏ rớt lại) thì than rằng: bài ngũ sách đúng là năm thiên tấu nghị, văn chương quảng bác, ý tứ sâu sắc thông suốt của một nho sĩ sao nỡ để cho mai một mãi ru, bèn truyền cho huyện quan dâng thỉnh nguyện lên để ông phê chuẩn cho được bổ cống sinh. Nếu tính số lượng gạo được cấp từ trước trải qua thời gian bị bác bỏ cho tới khi được bổ thì thực đúng là 91 thạch 5 đấu vậy. Nhân thế, ta càng tin rằng sự tiến thoái, thăng trầm nhanh hay chậm đều có thời, có số cả, nên an nhiên tự tại chẳng cần mong cầu sự gì cả. Sau khi được bổ cống sinh, ta phải đi Yến Đô (tức Bắc Kinh), ở lại kinh đô một năm, suốt ngày tĩnh tọa mà không màng tới việc đèn sách. II– Vân Cốc khuyên cải tạo vận mệnh 1. Nguyên lý của việc cải tạo Năm Kỷ Tỵ, ta quay trở về , du ngoạn qua Nam Ung tức Quốc Tử Giám ở Nam Kinh, nhưng trước khi nhập giám, ta tới bái phỏng Vân Cốc Pháp Hội thiền sư ở Thê Hà Sơn, cùng thiền sư đối diện trong một thất, tĩnh tọa ba ngày đêm chẳng nhắm mắt. Thiền sư hỏi ta: Sở dĩ người phàm không làm được thánh nhân chỉ vì bị nhiều vọng niệm vương vấn bao quanh che lấp mất tâm thanh tịnh mà thôi. Nhà ngươi tọa thiền ba ngày không thấy khởi một vọng niệm nào là vì sao vậy? Ta đáp rằng: Khổng tiên sinh đã lấy số chung thân cho ta, sự vinh nhục sinh tử đều do số đã định sẵn cả, nên dù có vọng tưởng hoặc mưu cầu điều chi cũng vô ích mà thôi , nên không khởi vọng tưởng nữa. Thiền sư cười mà nói rằng: Ta tưởng ngươi là một hào kiệt, nào ngờ ngươi vốn cũng chỉ là phàm phu mà thôi. Ta hỏi lí do tại sao thiền sư lại nói như vậy thì thiền sư bảo rằng: Phàm là con người nếu còn chưa được vô tâm, tức tâm còn vọng tưởng chưa được thanh tịnh thì chung cuộc vẫn bị ràng buộc bởi âm dương khí số, mà đã bị ràng buộc bởi âm dương khí số thì làm sao nói là không có số được? Tuy nhiên, chỉ người phàm là có số. Những người làm việc cực thiện cũng như cực ác không bị số mệnh câu thúc mãi, bởi làm nhiều điều thiện có thể đương nghèo hóa giàu, còn trái lại làm nhiều điều ác có thể đương giàu sang phú quý trở thành nghèo hèn. Nhà ngươi 20 năm nay, cứ theo lời đoán của Khổng tiên sinh mà bị số mệnh câu thúc không hề thay đổi một chút nào thì như thế chẳng gọi là phàm phu thì là gì? Ta hỏi ngay rằng: Vậy thì có thể tránh khỏi số mệnh được sao? Thiền sư đáp: Mệnh do chính mình tạo và phúc cũng do tự mình cầu được. Kinh Thư đã nói làm lành được phúc, làm ác bị giảm phúc, thực rõ ràng đúng là những lời minh huấn. Trong kinh Phật có nói cầu phú quý được phú quý, cầu nam nữ được nam nữ, cầu trường thọ được trường thọ. Này, vọng ngữ là điều đại giới của đức Thích Ca; chư Phật, Bồ Tát há lại nói dối trá, lừa người ư? Ta hỏi thêm rằng: Mạnh phu tử nói những điều mình cầu mong mà có thể đạt được là do chính ở nội tâm mình nghĩ đủ sức làm được như vậy, thí dụ như muốn trở thành một người có đạo đức, nhân nghĩa thì tận tâm, tận lực tu tập thì sẽ được, còn như công danh phú quý là những điều ở ngoài thân tâm mình thì làm sao mà cầu được? Vân Cốc thiền sư nói: Lời của Mạnh phu tử không hề sai, chính tự ngươi không hiểu hết ý nghĩa mà thôi. Ngươi chẳng thấy Lục Tổ đã nói là tất cả phúc điền đều không rời tâm địa của con người, từ nơi tâm mình mà tìm cầu thì mọi sự đều được cảm ứng. Tìm cầu ở ngay nội tâm của mình thì không những chỉ được đạo đức, nhân nghĩa mà công danh, phú quý cũng được nữa, đó là nội ngoại song đắc, trong nội tâm cũng như ở ngoài thân tâm đều cùng được cả bởi lẽ khi mình đã là người có đạo đức, nhân nghĩa thì người đời sẽ trọng vọng mình, công danh, phú quý không cầu cũng tự nhiên được; chỗ hữu ích của việc tìm cầu là đạt được sự việc vậy. Nếu không biết hướng về nội tâm, mà chỉ mưu đồ hướng ngoại tìm cầu thì thật không hợp đạo lý và chỉ được những điều định mệnh đã an bài. Nếu là số mệnh đã định thì chẳng cần tổn công phí sức, vì may rủi, tốt, xấu tự nhiên vẫn đến dù có mong cầu hay không mong cầu. Ngược lại trong số mệnh đã không có, lại không biết phương pháp hướng cầu từ nội tâm thì dù có trăm phương ngàn kế, có mưu đồ gì cũng chỉ mất công vô ích không những không đạt được gì, ngược lại còn tạo thêm tai họa cho mình, vì ở trong thì tâm trí thao thức không yên, ưu tư phiền não…bên ngoài thì chẳng được gì cả, đó là nội ngoại song thất (trong ngoài cùng mất). 2. Phương pháp cải tạo vận mệnh a) Biết lỗi thực sự phản tỉnh Nhân đấy thiền sư lại hỏi ta: Khổng tiên sinh lấy số chung thân cho nhà ngươi ra sao? Ta cứ thực sự trình bày rõ ràng thì Vân Cốc thiền sư hỏi: Ngươi tự lượng xét mình xem có nên thành công trên đường khoa cử hay không? Có nên có con nối dõi hay không ? Ta tự xét mình khá lâu rồi đáp: Thực không nên vậy. Những người thành công trên đường khoa bảng như tiến sĩ, bảng nhãn, thám hoa, đều là những người có phúc tướng, tại hạ phúc bạc lại không biết tích lũy công đức, hành thiện để bồi đắp nền tảng của việc đạt được phúc dày, hơn nữa lại không biết nhẫn những sự phiền toái vụn vặt, không có độ lượng rộng rãi bao dung người, có lúc lại ỷ mình tài trí hơn người, thường làm ngay nói thẳng, hay vọng đàm nên ngôn ngữ không được thận trọng. Phàm những điều như thế đều là bạc phúc, há còn dám nghĩ đến việc khoa bảng ru! Chỗ đất ô uế, ẩm ướt thường hay sinh vật, còn chỗ nước trong vắt thì không có cá mà tại hạ lại có tật ưa thích sự tinh khiết sạch sẽ, đó là một điều thứ nhất không nên có con vậy. Hòa khí tức phong vũ thuận hòa, thời tiết thuận tiện, vạn vật dễ sinh trưởng, mà tại hạ thì hay nóng giận, đó là điều thứ hai không nên có con. Ái tức là lòng nhân ái, tâm từ bi là căn bản của sự sinh trưởng, vì nhân sinh quả, quả lại sinh nhân, cứ thế mà sinh sinh mãi mãi, còn nhẫn tâm không phải là gốc rễ của sự sinh dưỡng, tại hạ trọng thanh danh tiết tháo, thường không biết xả thân cứu người, đó là điều thứ ba không nên có con. Hay nhiều lời mất khí lực cũng là điều thứ tư không nên có con; uống rượu nhiều, tinh thần suy nhược là điều thứ năm không nên có con; thường hay ngồi suốt đêm không biết bảo tồn nguyên khí, dưỡng dục nguyên thần là điều thứ sáu không nên có con vậy. Ngoài ra, còn nhiều thói hư tật xấu khác kể ra không hết. Thiền sư Vân Cốc bèn nói: Há chỉ có khoa bảng là nhà ngươi không muốn hay sao! Người đời được hưởng thụ tài sản thiên kim hay bách kim là ở số mệnh do nhân lành kiếp trước đã định cho họ thành đại phú hay trung phú, còn người bị chết đói là do đã gây tạo nhiều nhân xấu, ác nên số mệnh định phải chịu quả báo như vậy; thiên thượng chỉ phụ họa vào theo số phận của họ, chứ chẳng có một ly một chút ý tứ nào thêm thắt vào cả. Nói về việc sinh con nối dõi thì người tích lũy trăm đời công đức hay người tích đức mười đời, con cháu họ trăm đời sau hay mười đời sau sẽ tiếp tục gìn giữ hưởng phúc, còn những người chỉ có phúc ba đời hay hai đời, con cháu ba đời hay hai đời của họ sẽ được hưởng phúc đó. Những người phúc quá bạc thì bị vô hậu, không con nối dõi, dòng giống bị đứt đoạn. :D Việc triệt để sửa lỗi Nay ngươi đã thấy vấn đề ở đâu thì phải hết lòng sửa lại những nguyên nhân làm cho không đậu tiến sĩ cũng như không con nối dõi. Tất cả những việc về trước coi như đã xóa bỏ hết, coi như ngày hôm qua mình đã chết, và từ ngày hôm nay về sau, xem như được tái sinh, nếu phúc bạc thì cần phải tu nhân tích đức, hành thiện cần phải có lòng nhân hậu độ lượng bao dung người, cần phải cư xử hòa thuận, kính ái người và cần phải biết tồn dưỡng nguyên khí tinh thần. Đó là nghĩa lý của thân tái sanh vậy. Cái thân máu mủ huyết nhục của chúng ta hẳn nhiên đã có số nhất định, còn đã biết sửa đổi lỗi lầm, đã được giác ngộ, tâm được thanh tịnh thì thâm nghĩa lý ấy há không cùng thượng thiên cảm ứng, tương thông hay sao? Thiên Thái Giáp trong kinh Thư có nói: Thượng thiện tác hòa, bởi tiền nhân (người đời trước) mà nay chịu hậu quả thì còn có thể tránh được, chứ tự mình gây ra những điều oan nghiệt, những điều ác thì phải tự gánh chịu ác báo, không thể sinh sống an lành, yên ổn được. Kinh Thi có nói: Con người phải luôn luôn tự xét lấy mình mà ăn ở, cư xử sao cho hợp thiện đạo, làm lành lánh dữ ắt hẳn phải được thiện báo. Đó là tự mình biết cầu được nhiều phúc. Khổng tiên sinh đoán là ngươi không có số khoa bảng, không con nối dõi, đó là cái oan nghiệt đã định sẵn từ trước, do vậy có thể tránh được. Nay ngươi nên đem cái thiên tính đạo đức trời đã phú cho mọi người, khai mở thật rộng rãi, chí tâm tận lực hành thiện, tích lũy âm đức, đó là tự mình tạo lấy phúc cho mình thì sao lại không được báo đáp, thụ hưởng ư? Kinh Dịch thường luận bàn việc lấy nhân đạo phối hợp thiên đạo để cảnh giác con người cẩn thận tránh làm những sự bại hoại, đã vì người quân tử có nhân nghĩa đạo đức mà định rằng người ta cần xu hướng về đường thiện, xa lánh ác đạo hung hiểm. Nếu cho rằng số mệnh là hữu thường không thể biến cải được thì sao lại cần xu cát tị hung? Chương mở đầu của Kinh Dịch nói rằng một nhà mà tích đức hành thiện ắt có nhiều sự hỷ khánh, có phúc được hưởng thụ dài lâu. Theo Kinh Dịch thì số mệnh có thể biến cải miễn là biết làm nhiều điều lành và tránh ác. Ngươi có tin thực như vậy không? III– Tu phúc tích đức thắng số Ta tin những lời chỉ dẫn của thiền sư và làm lễ thụ giáo. Nhân đó, trước bàn thờ Phật , thành tâm phát lồ sám hối tất cả những điều lầm lỗi, tội ác đã làm từ trước đến nay, nguyện sau này sẽ không phạm phải nữa, lại dâng sớ nguyện làm ba ngàn điều thiện, trước cầu được đăng khoa để đền đáp ân đức của trời đất và tổ tông. Vân Cốc thiền sư chỉ dẫn cho ta cách thức lập một cuốn sổ ghi công và tội, dặn ta hàng ngày phải ghi thật rõ ràng những điều mình đã làm, dù thiện hay ác đều phải ghi lại, thiện ghi bên cột thiện, và ác ghi vào cột ác để so sánh xem thiện nhiều hay ác nhiều mà tu sửa, ngoài ra lại bảo ta nên niệm chú Chuẩn Đề nhờ Phật gia bị thì những điều cầu nguyện ắt sẽ được ứng nghiệm. Thiền sư còn bảo ta những người chuyên vẽ bùa chú thường nói nếu không được mật truyền thì họa bùa không linh ắt bị quỷ thần cười chê. Chỗ bí quyết đó là khi cất bút họa, trước hết phải dứt bỏ hết mọi sự trần duyên không được khởi một ý niệm nào để cho tâm thực thanh tịnh rồi mới bắt đầu đặt bút họa một điểm gọi là hỗn độn khai cơ, rồi cứ tự nhiên vô tư lự tiếp tục huy bút từng điểm, từng điểm một họa thành lá bùa, như vậy thì bùa mới được linh nghiệm. Phàm muốn cầu lập mệnh đều cần phải giữ tâm cho được thanh tịnh không chút loạn tưởng vọng niệm, kính cẩn cầu nguyện thì mới được cảm thông linh ứng. Bàn về việc lập mệnh, Mạnh phu tử trong thiên Tận Tâm có viết: yểu và thọ không hai, tức thọ yểu chẳng có khác nhau. Thực tế ta thấy chết yểu và sống lâu hai điều khác xa nhau, tại sao thầy Mạnh lại nói khác? Nên biết khi tâm không vọng niệm, thì ngay đó đâu có phân chia số mạng thọ yểu, giàu nghèo, cùng thông... Chỉ từ tâm móng khởi thiện ác mới tạo nên những số mệnh sai khác giữa giàu nghèo v.v... Nhưng phàm đã sinh ra ở đời, ai không coi việc chết sống là quan trọng, nên trên đây chỉ nói đến việc sống lâu và chết yểu, kỳ thật ý đã bao gồm tất cả mọi sự thuận nghịch xảy ra trên suốt cả đời người. Ðến như câu "Tu thân dĩ sĩ chi" mà Mạnh Tử đã nêu lên, là cốt nhắc người đời nhớ lấy điều tích đức tu nhân làm hệ trọng. Hễ tu được nhân đức thời dầu có mọi tội lỗi vẫn cải bỏ được hết, và nói chờ đợi (sĩ) tức có ý nói gắng lo tu nhân tích đức đến khi công phu sâu dầy, tự nhiên số mệnh thay đổi, chớ không phải chỉ đem cái hy vọng suông cầu cho được thế nầy thế kia mà được kết quả thế nầy, thế kia. Người thông đạt đạo lý, dù một mảy may hy vọng cũng chẳng để dính mắc trong lòng, được như thế mới đạt đến cảnh giới bất động niệm hồn nhiên, mới đạt đến chỗ thật học cao siêu. Người còn chưa đạt được vô tâm, chưa được nhất tâm bất loạn, còn chấp trước vọng niệm, chỉ nên trì chú Chuẩn Đề, liên tục niệm đừng để gián đoạn, cũng không cần đếm số, niệm sao cho được thuần thục, niệm mà hóa không niệm, tự mình cũng không hay là mình đang niệm chú nữa, đến chỗ không khởi một niệm đầu nào cả thì mới linh ứng. Sau khi được Thiền sư chỉ dạy ta liền đổi tên hiệu Học Hải thành Liễu Phàm, bởi sau khi hiểu biết đạo lý của việc lập mệnh, ta muốn dứt bỏ các kiến giải phàm tục, lột bỏ lớp vỏ phàm phu đi. Từ đó trở đi ta suốt ngày để ý cẩn thận đề cao cảnh giác không giống như trước kia chỉ hồ đồ tùy tiện phóng túng, ngày lại qua ngày mê hoặc không biết tự kiềm chế giác ngộ. Đến nay sau khi hiểu biết rằng vận mệnh có thể cải biến được, tự nhiên ta có cảm giác dè dặt úy kính, ở nơi phòng tối chẳng ai hay ta cũng thường sợ đắc tội với thiên địa quỷ thần hằng xuất hiện ở nơi chái phía Tây Bắc, và có ai oán ghét ta, muốn hủy báng ta, ta cứ điềm nhiên dung thứ, chịu đựng, bỏ qua chẳng hề để ý tới. Đến năm sau, bộ Lễ mở kỳ khảo thí, Khổng tiên sinh đoán ta được xếp vào hàng thứ ba nào dè ở nơi trường thi mùa thu ấy, ta trúng cử đệ nhất hạng, lời đoán của Khổng tiên sinh đã không được ứng nghiệm. Tuy nhiên, ta tự kiểm thảo thấy sự thi hành các việc đạo nghĩa chưa được thuần thục tự nhiên, mà còn nhiều sai trái khuyết điểm; hoặc khi thấy việc thiện mà không hăng hái, mạnh dạn làm ngay, hoặc muốn cứu giúp người mà trong tâm còn ngần ngại, do dự; hoặc thân gắng sức làm lành mà miệng còn nói ác làm người bất mãn để bụng; hoặc lúc tỉnh thì hăng hái, nhưng khi say lại phóng túng không tự chủ được, vì vậy sợ rằng việc thiện làm ra không đủ bù đắp lại lỗi lầm, và ngày lại ngày để thời gian trôi qua một cách uổng phí. Từ lúc ta phát nguyện vào năm Kỷ Tị cho mãi tới năm Kỷ Mão, mười năm có dư thời ba ngàn điều thiện mới làm xong. Lúc đó ta cùng Lý Tiệm Am tiên sinh từ quận ngoại nhập nội chưa kịp làm lễ hồi hướng ba ngàn công đức trên. Sang năm sau là năm Canh Thìn từ Kinh trở về phương nam, mới thỉnh Tính Không và Huệ Không, hai vị pháp sư làm lễ hồi hướng tại Đông tháp thiền đường. Sau đó bèn phát nguyện cầu sinh con và cũng hứa làm ba ngàn điều thiện. Năm Tân Tị sinh con tên là Thiên Khởi. Mỗi khi ta làm một việc gì thì tùy tiện lấy bút ghi lại, vợ ta không biết viết thì khi làm điều gì bèn liền đó lấy bút lông ngỗng khuyên một vòng son vào tờ lịch của ngày hôm đó; chẳng hạn như thí thực cho người nghèo, hoặc là mua vật phóng sinh, mỗi ngày kể có hơn mười khuyên. Đến tháng tám năm Quý Mùi, số ba ngàn điều thiện đã làm đầy đủ, lại thỉnh các vị Tính Không tề tựu tại gia làm lễ hồi hướng công đức. Vào ngày 13 tháng chín cùng năm, ta lại bắt đầu phát nguyện cầu đỗ tiến sĩ và hứa làm mười ngàn điều thiện. Năm Bính Tuất thì trúng cử và được bổ làm tri huyện Bảo Đề. Khi nhậm chức ở huyện, ta dự bị làm sẵn một cuốn sổ nhỏ có nhiều ô vuông trống gọi là một thiên trị tâm, mục đích để sửa các điều lỗi lầm mà tu tâm. Mỗi buổi sáng khi bắt đầu thăng đường thì gia nhân mang sổ ra cho nha dịch để lên án thư, ta tỉ mỉ ghi lại các điều thiện hay ác trong khi xử án, hoặc xử lý công việc ở huyện. Buổi chiều tối thiết lập bàn hương án ở ngay sân huyện và noi gương ngự sử Triệu Duyệt Đạo, ta đem tất cả các việc làm hàng ngày dâng hương cáo trình thượng thiên, nếu có điều sai trái, lầm lỗi thì thành tâm phát lồ sám hối. Vợ ta thấy đã lâu mà làm được ít điều thiện quá, thời chau mày lo lắng mà nói rằng: Trước đây ở nhà, thiếp còn có thể giúp được nên vì vậy mà số ba ngàn điều thiện phát nguyện mới chóng hoàn thành. Nay ở trong nha, thiếp không giúp được gì cả mà lại nguyện làm những một vạn điều , thì biết đến bao giờ mới được viên mãn. Đêm hôm đó, ta bỗng nằm mộng thấy một vị thần nhân, bèn trình bày duyên cớ khó làm xong 10 ngàn điều thiện đã nguyện hứa, thì thần nhân bảo chỉ cần một việc giảm tiền thuế là vạn sự sẽ hoàn thành đầy đủ. Ta thấy ruộng ở Bảo Đề này mỗi mẫu nạp tô hai phân ba ly bảy hào thì quá cao, nên nghĩ có thể xin giảm xuống tới một phân bốn ly sáu hào; thiết tưởng việc này có thể thi hành được, nhưng trong lòng còn hoang mang hồ nghi không hiểu thần minh có thấu rõ việc ta xin giảm tô hay không, và làm sao chỉ làm một điều thiện lại có thể tương đương với vạn điều được, thì vừa may có thiền sư Thích Huyền Dư từ Ngũ Đài Sơn tới, ta đem những lời thần nhân báo mộng hỏi thiền sư có thể tin được như thế không? Thiền sư bảo làm việc thiện mà tâm khẩn thiết chí thành thì một điều có thể sánh bằng vạn điều, huống hồ lại giảm tô cho cả một huyện, toàn dân đều được hưởng ân huệ thì một điều đó cũng đáng bằng 10 ngàn điều vậy. Ta bèn quyên góp lương bổng để thiền sư trở về Ngũ Đài Sơn trai tăng một vạn người và đem công đức ấy hồi hướng hộ cho. Khổng tiên sinh đoán là năm 53 tuổi ta gặp tai ách khó qua, ta chưa từng cầu đảo xin tăng thọ, mà năm đó lại vô sự, và nay thì ta đã 69 tuổi rồi. Kinh Thi có câu: Trời không dễ tin, mạng không định thường, lại có câu: Vận mạng chẳng nhất định. Những câu ấy đâu phải là lời dối trá! IV– Dạy con biết sửa lỗi, tu phúc, tích đức Ta nhân đó mà hiểu rằng họa phúc là tự mình chuốc lấy, làm lành gặp lành, làm ác gặp ác, các vị thánh hiền đều đã dạy như thế. Nếu nói rằng họa phúc là do mệnh trời định, thì đó là lối luận bàn thông thường của kẻ thế tục vậy. Hiện tại số mệnh con thế nào chưa dễ biết được. Vậy đang khi được hiển vinh hãy tưởng như đang lúc hàn vi chưa được đắc ý, khi gặp được sự thuận lợi, hãy tưởng như đang gặp nghịch cảnh khó khăn; trước mắt có đủ ăn, hãy tưởng là thiếu nghèo; khi được người kính nể, thường phải có ý e dè sợ sệt; khi gia thế được người trọng vọng, thường phải nghĩ tới lúc mình còn ty tiện, thấp kém; khi học vấn có phần cao, hãy tưởng mình còn nông cạn, ngu dốt. Xa về trước, nghĩ tới công đức tổ tiên để lo kế tuyên dương, gần hiện tại, nghĩ tới lầm lỗi của mẹ cha mà tìm cách bồi bổ, trên lo đền ơn trước, dưới lo tạo phước gia đình, ngoài thì giúp người tai nạn, trong thì lo ngăn ngừa tà ác nơi chính mình. Cốt phải ngay thấy chỗ sai quấy của mình để lo toan hối cải. Nếu một ngày không tự biết mình quấy tức một ngày an lòng tự cho mình là phải, một ngày không ăn năn hối quá tức một ngày không tiến bộ. Hạng người thông minh tuấn kiệt trong thiên hạ đâu phải hiếm, nhưng nếu họ không gắng lo tu đức, mở mang thiện nghiệp, họ cũng chỉ sống một đời đình trệ, an phận dật dờ gặp chăng hay chớ, uổng phí một đời mà thôi! Thuyết lập mệnh do Vân Cốc thiền sư chỉ dạy trên đây là một đạo lý thực chân chánh, thực tinh vi thâm thúy, con phải gắng công, gắng sức nghiên cứu cho kĩ rồi theo đó mà thi hành, chớ để thời gian trôi qua vô ích vậy. PHƯƠNG PHÁP SỬA LỖI I– Cái nhân của việc sửa lỗi Vào thời đại Xuân Thu, các quan chức của nhiều nước chư hầu thường có sự lai vãng giao hảo, khi thấy cử chỉ, hành động, ngôn ngữ của một người nào, hoặc khinh bạc, hoặc ôn hòa nhân hậu, họ có thể đàm luận về số phận, họa phúc của người đó và hầu hết lời suy đoán đều ứng nghiệm. Những sự tình như vậy có ghi rõ trong các sách sử như Tả truyện hay Quốc ngữ, đọc đến tất thấy. Do hầu hết những triệu chứng tốt xấu, đều manh nha từ trong tâm ý rồi hành động ra tay chân, như người có cử chỉ hành động nhân hậu đạo đức, biết hy sinh vì người khác thường được phúc, trái lại người có hành vi khắc bạc, toan tính ích kỷ, tham lam cho riêng mình thường gặp họa. Song người phàm mắt tục, nhãn quang bị che lấp nên ít ai thấy rõ điều nầy, mới vội cho họa phúc báo ứng mâu thuẫn khó lường! không thể suy đoán trước được. Hễ người nào đem tâm thành tín làm việc thiện tất yếu việc làm của họ hợp cùng chân lý, mà hạnh phúc sẽ đến với họ, trái lại thì tai họa theo chân. Cứ xem ở điều lành điều ác họ làm, có thể biết trước những việc sẽ đến với họ. Nhưng những người muốn lánh họa cầu phúc, hãy lo ăn năn cải quá, trước khi nói tới việc làm lành. II– Nền tảng của việc sửa lỗi 1. Lòng xấu hổ (Tâm biết tự hổ thẹn) Nay muốn được phúc mà tránh xa các tai họa, chưa vội bàn tới việc làm lành, trước hãy nên cần sửa lỗi đã. Người muốn sửa lỗi, điều khẩn yếu thứ nhất là cần phải biết tự hổ thẹn. Cần luôn nghĩ rằng các bậc cổ Thánh, tiên Hiền xưa cũng là người như ta mà sao có thể nêu gương sáng hàng trăm đời, ta không lẽ lại chịu thân tàn hủ bại, lẹt đẹt thấp hèn một đời ngói bể, chỉ lo chạy theo ngũ dục lục trần (danh, lợi, tình ăn, ngủ) mà nhiễm phải nhiều thói xấu, làm nhiều điều bất nghĩa lại tự cho là người đời không hay, không biết nên cao ngạo, ngang nhiên chẳng chút hổ thẹn, ngày một sa đọa, đời sống không khác cầm thú mà chẳng tự biết. Ở đời chẳng có điều gì lớn hơn là biết tự hổ thẹn. Thầy Mạnh Tử nói: Lòng biết hổ thẹn ở nơi con người là một điều lớn lao vậy, có được tâm tri sỉ ắt thành thánh hiền, không có tâm tri sỉ ắt chỉ là cầm thú, súc sanh mà thôi. Đó là chỗ căn bản quan hệ của việc sửa lỗi vậy. 2. Lòng úy kính (Tâm biết sợ hãi) Điều thứ hai là cần phải phát lòng úy kính, e dè sợ sệt. Hãy nghĩ rằng mình làm việc gì đều có Thánh thần ở trên mình, xung quanh mình biết rõ, không dối trá được. Dẫu mình có phạm tội lỗi nhỏ nào, dù người đời không thấy, Thánh thần đâu có mù mờ. Hễ tạo tội nặng, có trăm họa kéo theo, gây tội nhẹ thì giảm mất phước báo hiện tiền. Như vậy sao được không dè dặt sợ hãi? Chẳng những thế thôi, ngay lúc nhàn cư, vắng vẻ chỉ có mình với mình thần linh càng thấy rõ. Mặc dù ta có che dấu những điều mình làm kín đáo đến đâu, trau chuốt khéo léo thế nào, oan trường rồi vẫn bị bại lộ, cuối cùng không thể tự dối; huống chi đã bị mọi người dòm thấy thì dù một chút giá trị chẳng còn, như vậy há không đáng cẩn thận sao? Dù vậy điều quan trọng nên biết là khi hãy còn một hơi thở, các tội ác đều vẫn có thể sám hối cải sửa, nên lắm người một đời tạo ác, đến phút lâm chung biết hối ngộ, nhất một niệm thiện tâm mãnh liệt, họ vẫn có thể hưởng được một cái chết an lành. Cổ đức nói: Một niệm lành mãnh liệt đủ rửa sạch tội trăm năm, ví như cái hang sâu tối ngàn năm, chỉ rọi một ngọn đèn, bóng tối kia liền biến mất. Vậy không kể tội lỗi đã tạo lâu hay mới tạo, miễn biết thành thật hối cải là tội hết. Cần biết cõi trần vốn là vô thường không nhất định, tấm thân huyết nhục dễ bị hủy hoại, nên nếu cứ cho là làm lỗi rồi có thể sửa được nhưng mà chẳng chịu sửa ngay, một khi hơi tàn thở hắt ra rồi lúc đó muốn sửa thì chẳng còn kịp nữa. Ở dương thế mang lấy tội danh từ trăm năm, ngàn năm trước, tuy có con hiếu cháu hiền cũng không vì mình mà rửa sạch được; ở cõi âm thì bị quả báo sa địa ngục hàng trăm ngàn kiếp, dù cho có thánh hiền, có Phật, Bồ Tát cũng không cứu giúp, dẫn độ được. Vậy há chẳng nên luôn e dè sợ sệt hay sao? 3. Lòng dũng mãnh (Tâm dũng mãnh) Thứ ba, phải phát tâm dũng. Nhiều người không chịu sửa lỗi đa số là vì phóng túng, quá dễ dãi, nuông chiều chính mình, dù biết có lỗi nhưng lại bỏ đấy không chịu cải sửa ắt bị thoái hậu, dần dà có tính thụt lui, tự ngăn con đường tiến bộ của mình. Vì vậy muốn sửa lỗi, cần phải hăng hái phát tâm dũng mãnh dụng công cải sửa ngay lấy mình, đừng nên do dự, trù trừ, chờ đợi. Hãy xem lỗi lầm nhỏ như bị mũi kim nhọn châm chích sẽ làm thối thịt, cần mau khoét vất; sợ lỗi lầm lớn như sợ bị rắn độc cắn phải mau mau cắt bỏ, được không chậm trễ, do dự. Người mà nhất quyết sửa lỗi lầm để tự canh tân thật rất hữu ích cũng như gặp được quẻ Phong Lôi Ích trong Kinh Dịch, một quẻ đại cát vậy. Có đầy đủ ba tâm, tâm tri sỉ, tâm úy kính, và tâm dũng mãnh, ắt lỗi lầm đều cải sửa được ngay cũng như băng tuyết mùa xuân gặp mặt trời, vậy há lo gì mà tội lỗi chẳng tiêu tan? III – Phương pháp sửa lỗi Tội lỗi của người ta có thể theo sự tướng mà cải sửa, hoặc theo lý hay theo tâm mà cải sửa. Cách dụng công không giống nhau thì hiệu quả cũng không tương đồng. 1.Theo sự tướng cải sửa Như hôm trước phạm lỗi sát sinh, hôm sau giữ giới không sát sinh nữa, như hôm trước nóng giận mắng chửi, hôm nay giữ giới không nóng giận nữa. Những sự cải sửa như thế gọi là theo sự tướng xảy ra mà cải sửa vậy. Tuy nhiên lối cải sửa này mới chỉ là lối miễn cưỡng kiềm chế lấy mình, nên khó lòng dứt được sạch tội vì chung cục bệnh căn (gốc bệnh) vẫn tồn tại trong lòng thì dù hôm nay diệt được tội bên đông ngày mai tội lại nẩy sinh bên tây, nên lối cải sửa này chưa phải hoàn hảo, cứu cánh. 2.Theo đạo lý mà cải sửa Người khéo sửa lỗi mình thì khi còn chưa phạm cấm giới, trước hết cần học hỏi để biết rành rẽ đạo lý đã; chẳng hạn: Về tội lỗi sát sinh thì cần nên hiểu rằng Trời đất vốn hiếu sinh, các loài vật đều luyến ái mạng sống, ta giết chúng để nuôi dưỡng thân mình thì sao có thể đang tâm; vả lại khi giết chúng, nào là chặt cắt, mổ xẻ cho vào chảo, vào nồi nấu nướng, chúng phải chịu bao nỗi thống khổ đau đớn thấu cốt tủy…mà ta ăn vào dù béo bổ, ngon bùi đến đâu nhưng một khi nuốt trôi khỏi cổ thì liền trở thành đồ hôi thối rồi cũng tiêu ma như không có gì. Chi bằng dùng rau đậu, canh dưa cũng vẫn no nê đầy bụng, hà tất phải sát hại mạng sống của chúng vật mang lấy tội sát sinh làm tổn phúc của mình không ít. Hơn nữa, những vật thuộc loại có huyết khí đều có linh tính, tri giác, mà đã có linh tính tri giác thì chúng cũng đồng một thể, cũng giống như chúng ta; ví bằng ta chưa tự tu được đến mức độ đạo đức thực cao khiến chúng thân cận ta, tôn trọng ta, há lại hàng ngày sát hại sinh mạng chúng vật để chúng mãi mãi thù oán, cừu hận chúng ta. Nghĩ như vậy thì đối với miếng ăn thực cũng đau lòng mà khó nuốt trôi. Như hôm trước nổi sân cáu giận, ắt nên nghĩ rằng con người không phải thánh nhân, còn có nhiều khuyết điểm lỗi lầm, theo đạo lý mà nói, thực tình đáng nên thương hại; nếu họ phạm lỗi sai quấy là do tự họ không hiểu đạo lý chẳng can dự gì đến ta, bản tâm vốn thanh tịnh không chấp trước thì hà tất phải nổi sân. Lại nữa nên nghĩ rằng trong thiên hạ chắc không ai lại tự nhận mình là thánh hiền, hào kiệt chẳng có chỗ nào sai trái, và cũng không có cái học nào dạy ta oán ghét người, vì người có học vấn, trí thức không oán trời trách người, mình làm chưa đến nơi đến chốn, việc chưa thành tựu đều do tự mình chưa dày công tu phúc, tu đức nên chưa được cảm thông. Chúng ta nên tự phản tỉnh, tự xét lại mình, nếu có những điều phỉ báng, phê bình điều kia tiếng nọ thì nên coi đó là những lời chỉ dạy để mình rèn luyện mài dũa tâm trí, tu tập cho đạt được thành quả, nên hoan hỷ nhận, hà tất phải phát sân phát hận. Nếu nghe những lời phỉ báng mà nổi giận tranh cãi với người, dù có muốn dùng hết sức biện bác thì trong cơn nóng giận ắt những lời biện luận chẳng được rõ ràng minh bạch, giống như con tằm về mùa xuân kéo kén tự ràng buộc lấy mình, tự làm khổ mình. Sự nóng giận chẳng những vô ích mà còn có hại nữa. Ngoài việc sân nộ ra, tất cả những lỗi phạm khác cũng đều cứ y theo đạo lý mà xử sự như vậy. Một khi đạo lý đã sáng tỏ, lỗi phạm sẽ tự đình chỉ. 3.Theo tâm địa mà sửa lỗi Thế nào gọi là theo tâm mà sửa lỗi? Lỗi lầm có thiên hình vạn trạng, chỉ do ở nơi tâm mà tạo ra. Tâm chúng ta chẳng động niệm thì lỗi sao có thể nảy sinh. Người học sửa lỗi lầm như háo danh, háo sắc, tham tài, tham lợi, hoặc hay phát sân nộ…, có quá nhiều tội lỗi bất tất phải phân biệt từng loại một để mà sửa trị, chỉ cần một lòng một dạ thành tâm nghĩ điều lành, làm điều thiện, khi đã có chính niệm phát hiện thì tà niệm tự nhiên bị ô nhiễm rồi bị tiêu diệt. Ví như mặt trời xuất hiện ở trên không thì yêu ma, quỷ quái phải tìm đường lẩn trốn chẳng dám ló dạng. Đây là chỗ chân truyền tinh vi vậy. Tội lỗi do tâm tạo ra thì lại do tâm cải sửa, cũng như chặt một cây độc thụ ắt phải chặt ngay từ gốc rễ, há lại đi cắt từng cành, ngắt một chiếc lá một hay sao! Nói chung thì có thể theo sự tướng, theo lý và theo tâm để tu sửa tội lỗi, nhưng phương pháp theo tâm là tốt hơn cả; tâm đã tu, đã được sửa trị thì sẽ trở thành thanh tịnh, nên mỗi khi một ý niệm ác dấy động ở nơi tâm thì tự mình liền thấy biết ngay, mà đã thấy biết tức đã tỉnh ngộ không còn mê muội thì ác niệm tội lỗi sẽ tiêu tan thành không. Theo tâm để cải sửa là phương pháp tối thượng, nhưng giả sử chẳng theo được thì nên hiểu rằng luân thường đạo lý không cho phép chúng ta tạo tội hay làm ác; nếu chẳng làm được nữa thì nên tùy sự, tùy việc mà giữ giới cấm, cố gắng đừng phạm tội. Khi gặp sự việc dùng phương pháp trên hạ công kiêm với phương pháp hạ chẳng phải là điều thất sách; nhưng chỉ chấp phương pháp hạ mà bỏ lãng phương pháp thượng tức là vụng về vậy. 4.Hiệu nghiệm của việc sửa lỗi Bất quá khi phát nguyện cải sửa lỗi, ở dương thế cần có thiện tri thức (bạn tốt) thường nhắc nhở để cảnh tỉnh mình, ở cõi âm cần quỷ thần chứng minh tấm lòng thành của mình nhất tâm, nhất ý cầu sám hối, ngày đêm chẳng biếng nhác buông thả, như vậy trải qua một hai tuần thất, cho đến một tháng, hai, ba tháng, ắt hẳn có ứng nghiệm. Hoặc thấy tâm thần điềm nhiên, khoan khoái, hoặc thấy trí huệ bỗng được khai mở, hoặc gặp những trường hợp rối ren phiền toái hốt nhiên xử sự giải quyết được rành rọt thông suốt, hoặc gặp kẻ oán thù mà họ bỏ giận làm lành, hoặc mộng thấy khạc ra những vật ô uế, hắc ám; hoặc mộng được các bậc thánh hiền xưa kia tiếp đón dẫn dắt, hoặc mộng thấy bay bổng lên cảnh giới hư không, hoặc mộng thấy tràng phan bảo cái, thấy những sự việc hi hữu ít có như trên, đó đều là cảnh tượng của lỗi tiêu tội diệt vậy. Nhưng đừng thấy thế mà tự kiêu tự đại là mình đã đạt tới trình độ cao để vội ngưng nghỉ làm đứt đoạn mất con đường tiến triển. Xưa quan đại phu Cừ Bá Ngọc, người nước Vệ vào thời đại Xuân Thu, lúc hãy còn trẻ mới 20 tuổi mà đã giác ngộ rằng lỗi lầm cần phải sửa, như lỗi ngày hôm qua thì ngày hôm nay xét lại để gắng sửa cho hết. Tới năm 21 lại hiểu biết được lỗi lầm cải sửa năm trước chưa được hoàn toàn dứt bỏ hết; kịp tới năm 22 tuổi xét nghĩ lại năm 21 tuổi thì tựa như còn mơ mơ hồ hồ về những điều lầm lỗi chưa được tu sửa. Cứ năm này kiểm thảo lại năm trước, theo đó mà dần dần tiếp tục sửa đổi, đến năm 50 tuổi mà còn hay biết được lỗi của năm 49. Cái học tu sửa lỗi lầm của người xưa dụng công như vậy đó. Bọn chúng ta đều là những kẻ phàm phu tục tử, tội ác tích tụ quá nhiều tựa như lông nhím bao bọc toàn thân nó; nếu có hồi tưởng lại những sự việc đã làm thì thường chẳng thấy có chỗ nào lầm lỗi cả, đó là vì tâm tình thô thiển, mắt bị che phủ kín tìm chẳng ra lỗi để tu sửa. Chúng ta hiện mang thân phàm tục, phạm tội lỗi dập dồn, thế mà ít ai tự xét thấy, đó là do tâm còn thô thiển, tập khí hôn ám sâu dày đã huân tập trong nhiều kiếp sống, khiến ta không khác kẻ mù lòa. Nhưng dù ta thấy hay không mặc lòng, luật của tạo hóa vốn tuyệt đối công bằng, hễ đã gây tạo lỗi lầm gì đều không tránh khỏi gặp phải những điều bất hảo, tội lỗi càng sâu dầy càng gặp nhiều tai ương, trước hết sẽ thấy chứng nghiệm ngay qua các trạng tướng: hoặc là tâm tư bế tắc bất định, tinh thần hôn trầm mệt mỏi, mọi việc xảy ra chưa nhớ đã quên, lòng hay phiền não lo lắng; hoặc thường hay nổi sân hận; hoặc gặp người chính nhân quân tử thì thường mất tinh thần, hoặc ngượng ngùng e thẹn; được nghe những lời luận bàn chính đáng hợp đạo lý lại chẳng hoan hỷ, chẳng muốn tin nghe; hoặc làm ơn lại bị mang oán, hoặc ban đêm thường mộng thấy nhiều sự điên đảo, điên đảo cho đến nỗi mất trí sinh ra vọng ngôn, loạn ngữ không được bình thường…; đó đều là những hình trạng của nghiệp chướng phát hiện vậy. Nếu thấy có những hiện tượng như trên thì phải tức khắc khởi phát tinh thần, tự xét lại mình dũng mãnh dứt bỏ lỗi lầm cũ, đừng nên tự mình lại lừa dối mình, may ra mới thoát khỏi những điều mê hoặc và những hậu quả khôn lường về sau. PHƯƠNG PHÁP TÍCH THIỆN I– Một nhà tích thiện hẳn có nhiều vui Mười gương mẫu của người xưa Kinh Dịch nói: một nhà tích thiện hẳn có nhiều vui. Xưa bà Nhan thị đem con gái gả cho Thúc Lương Hột là bà xét kĩ thấy gia đình đó tổ tông đã từng tích đức lâu đời mà đoán biết trước là con cháu họ về sau sẽ hưng thịnh phát đạt. Đức Khổng Tử tôn xưng vua Thuấn là bậc đại hiền có nói: Tổ tiên được hưởng việc tế tự nơi tông miếu, con cháu đời đời hưởng phúc, bảo tồn cơ nghiệp của tổ tông truyền lại, đều là những lời nghị bàn thiết thực xứng đáng. 1. Dưng Vinh làm quan đến chức thiếu sư, nguyên người huyện Kiến Ninh tỉnh Phúc Kiến, gia đình đời đời sinh sống bằng nghề chèo đò đưa khách qua sông. Nhân gặp phải kì mưa lũ quá lâu, nước từ trên núi đổ xuống vùng hạ lưu. Các thuyền khác đều nhân cơ hội mà theo vớt các tài vật trôi nổi trên sông, chỉ riêng thuyền của cụ nội ông thiếu sư chuyên cứu vớt người mà thôi, tuyệt đối không tham vớt một chút tài vật nào cả. Người làng ai cũng cười chê cho là ngớ ngẩn, đần độn. Kịp cho tới khi sinh ra phụ thân của thiếu sư thì gia đình đã dần dần khá, có thần nhân hóa làm một vị đạo sĩ mà mách bảo rằng tổ phụ nhà ngươi có âm đức, con cháu sẽ được vinh hiển phú quý, nên táng vào chỗ đất đó, bèn theo lời chôn cất vào chỗ huyệt đã được chỉ dẫn, tức nay là phần mộ Bách thố vậy. Sau sinh thiếu sư, vào năm 20 tuổi đã đỗ tiến sĩ, làm quan tới chức tam công (tức thiếu sư, thiếu phó, thiếu bảo, hay thái sư, thái phó, thái bảo), tằng tổ, nội tổ và phụ thân cũng được truy phong chức tước như vậy. Con cháu đều vinh hiển, thịnh vượng, cho tới nay trong gia đình cháu chắt còn có nhiều người hiền. 2. Dương Tự Trừng, người huyện Ngân, tỉnh Triết Giang, buổi đầu làm huyện lại, lòng vốn nhân hậu, ngay thẳng, giữ phép công bình. Vào thời ấy, quan huyện lại quá nghiêm khắc, ngẫu nhiên gia hình tù nhân đến máu chảy đầy đất mà cơn giận chưa nguôi. Họ Dương Quỳ xin khoan dung. Huyện quan bảo: tù nhân này đã phạm tội lại không tôn trọng pháp luật, không biết đạo lý nữa, khiến ta làm sao không giận được. Tự Trừng khấu đầu thưa: Người trên lỗi đạo, không còn làm gương mẫu cho kẻ dưới noi theo nên dân tâm thất tán từ lâu rồi, quan trên nếu hiểu rõ tình trạng phạm pháp của dân thì nên thương xót họ, chẳng nên thấy mình xét xử án được phân minh mà vui thích, vui còn chẳng nên huống hồ lại giận dữ sao! Quan huyện nghe nói tỉnh ngộ mà nguôi cơn thịnh nộ. Nhà rất nghèo, lại không nhận một chút tặng vật nào cả. Gặp những lúc tù nhân thiếu ăn, thường tìm cách giúp đỡ. Một hôm có bọn tù nhân mới từ xa tới, dọc đường không có ăn nên đói lả, mà nhà lại thiếu gạo, đem cho tù ăn tất nhà không có miếng, để lại nhà ăn thì khó nhẫn tâm, bèn thương lượng với vợ. Bà vợ hỏi là tù nhân từ đâu lại thì Tự Trừng bảo là từ Hàng Châu tới, dọc đường không có ăn, đói khát khổ sở, sắc mặt xanh xao như tàu lá, nhân đó lấy bớt gạo của nhà nấu cháo cho tù ăn đỡ. Về sau sinh được hai trai, con trưởng đặt tên là Thủ Trần, con thứ là Thủ Chi, đều làm đến Lại bộ thị lang, một người ở Bắc Kinh, một người ở Nam Kinh; cháu nội được hai người, trưởng làm Hình bộ thị lang, và thứ làm Liêm hiến (án sát ty) ở tỉnh Tứ Xuyên, tất cả con và cháu đều là những danh thần. Hiện nay, (tức vào thời của Liễu Phàm tiên sinh) Sở Đình hay Đức Chính cũng đều là dòng dõi của gia đình đó. 3. Xưa vào niên hiệu Chính thống nhà Minh, Đặng Mậu Thất khởi loạn ở Phúc Kiến, sĩ dân theo giặc rất đông. Triều đình cử quan đô hiến Trương Giai người ở huyện Ngân, xuất quân nam chinh, tiễu trừ giặc. Sau Trương Đô hiến phái viên đô sự họ Tạ, thủ hạ của Bố chánh ty tỉnh Phúc Kiến truy sát tầm nã giặc ở phía đông tỉnh. Tạ Đô sự tìm được quyển sổ danh sách của đảng giặc; phàm người không theo phụ họa giặc đều bí mật được phát cho một lá cờ nhỏ bằng vải trắng, ước hẹn tới ngày quân binh tấn công thì treo cờ ở trước nhà, lại nghiêm lệnh cho quân lính không được giết hại bừa bãi, vì thế cứu sống được cả vạn người. Sau con của Tạ Đô Sự là Tạ Thiên thi đỗ trạng nguyên, làm quan đến tể tướng, cháu nội là Phi cũng đỗ thám hoa. 4. Bà họ Lâm, người huyện Phủ Điền, trên có mẹ già chăm làm việc thiện, thường nắm cơm thí thực, ai đến cũng liền cho ngay mà không hề có vẻ phiền hà, ghét bỏ. Một vị tiên hóa trang làm đạo nhân, mỗi sáng đến xin đều đòi cho được sáu bảy nắm. Mỗi ngày đều cho như vậy, suốt ba năm liền, ngày nào cũng như ngày ấy, nên thấu rõ tấm lòng thành thực chỉ bố thí mà không cầu mong gì cả. Nhân vậy, đạo sĩ bèn bảo rằng: Ta ăn của nhà ngươi đã ba năm, chẳng biết lấy gì đền đáp. Sau nhà có chỗ đất quý, nên táng vào chỗ đó, con cháu về sau quan chức, tước vị thật vô số kể như vừng đựng trong đấu vậy. Người con bèn theo chỗ chỉ điểm mà để mộ. Mới đợt đầu đã thấy phát ngay có chín người đăng khoa trúng cử, đời đời quan tước cực thịnh. Ở Phúc Kiến có câu nói: chẳng người họ Lâm nào là chẳng khoa bảng đề danh cả. 5. Phụ thân của thứ sử Phùng Trác Am hồi còn là tú tài, một buổi sáng trời mùa đông cực kì rét buốt, dạy sớm đi lên huyện học, dọc đường gặp một người ngã nằm trên lộ bị tuyết phủ đầy, lại sờ thân thể người đó, thấy nửa mình đã bị đông cứng, bèn cởi áo lông của mình ra mặc cho và đưa về cứu giúp cho tỉnh lại; đêm mộng thấy thần nhân bảo: ngươi do tâm chí thành cứu được một mạng người, ta sẽ khiến Hàn Kỳ (một vị tể tướng đời nhà Tống) đầu thai vào làm con ngươi, kịp đến khi sinh ra Trác Am bèn đặt tên Kỳ. 6. Ưng thượng thư người phủ Đài Châu, tỉnh Triết Giang, lúc còn tráng niên học tập ở trên núi, ban đêm nghe quỷ hú gọi nhau tập hợp, tiếng hú thường làm nhiều người rùng rợn, nhưng ông không hề sợ hãi. Một đêm nghe quỷ bảo nhau mụ vợ nhà kia chồng đi xa đã lâu không về, bố mẹ ở nhà ép gả cho người khác, đêm mai sẽ thắt cổ ở nơi đây; vậy là ta đã có người thế thân rồi. Ông ngầm bán ruộng được bốn lạng bạc bèn giả lời lẽ người chồng viết một bức thư kèm theo tiền gửi về nhà. Bố mẹ ở nhà nhận được thư thấy bút tích không giống cũng hơi hoài nghi nhưng lại nghĩ rằng thư có thể giả được nhưng tiền đâu có giả, vả lại được biết tin con nên thôi không ép gả nữa. Người con sau đó trở về nhà, vợ chồng cùng nhau sum họp vui vầy như thuở ban đầu. Ông lại nghe thấy quỷ nói với nhau: Ta đang sắp được thế thân mà gã tú tài kia làm hỏng chuyện của ta. Một quỷ khác ở cạnh nói: Sao ngươi không hại hắn? Quỷ kia nói: Thượng đế thấy người này tâm địa rất tốt, làm nhiều điều phúc, âm đức dày đáng bậc thượng thư, ta làm sao hại nổi. Nhân đó họ Ưng tự nỗ lực chăm làm lành, ngày càng gia công tu thiện, đức ngày càng thêm dày; gặp người thân thích có chuyện cần cấp tức thì tận tình tìm mọi cách giúp đỡ họ qua lúc khó khăn, gặp trường hợp phải đối xử với người không biết lẽ phải trái, không hiểu được đạo lý thì ngược lại ông chỉ tự trách mình sao không biết cư xử với họ, mà vui vẻ an nhiên không chấp, coi như mình lầm lỗi vậy. Con cháu khoa bảng đỗ đạt cho tới nay thật là nhiều vô kể. 7. Người huyện Thường Thục, tỉnh Giang Tô, họ Từ tên Thức tự Phượng Trúc, phụ thân là điền chủ giàu có, gặp năm mất mùa, trước đề xướng việc quyên tô, tức bỏ không thu địa tô nữa, sau lại đem thóc gạo dự trữ ra phát chuẩn cho người nghèo khó. Ban đêm nghe thấy quỷ hô ở ngoài cửa: ngàn lần không sai, vạn lần không sai, tú tài nhà họ Từ sẽ thành cử nhân lang, cứ thế tiếp tục hô liền nhiều đêm không ngừng. Quả nhiên năm đó Phượng Trúc thi hương đỗ cử nhân. Phụ thân của Phượng Trúc thấy vậy càng gia công tích đức, cần mẫn chăm lo hành thiện chẳng chút lơ là mệt mỏi; phàm những việc có ích lợi đều hết sức tận tâm làm như tu sửa cầu, tu bổ đường sá, thí thực trai tăng, tiếp tế người nghèo… Sau lại nghe thấy quỷ hô ở trước cửa: ngàn lần không sai, vạn lần không sai, cử nhân họ Từ quan chức thăng tới đô sát. Phượng Trúc sau cùng làm quan tới Lưỡng Triết tuần vũ. 8. Ông Đồ Khánh Hy, người phủ Gia Hưng tỉnh Triết Giang, buổi ban đầu giữ chức chủ sự bộ hình, thường vào trong ngục tra xét cẩn thận hỏi lại tình trạng của tù nhân biết được nhiều người vô cớ bị tội. Ông không tự lấy làm công lao của mình mà viết sớ mật trình lên đường quan, tức thượng thư bộ hình. Về sau, các án tích đều được đưa về triều xét lại. Đường quan theo lời trong mật sớ tra vấn lại tình trạng của tù nhân giải oan được cho hàng chục người, khiến cho không ai là không phục. Thời đó ở kinh thành tất cả mọi người đều khen ngợi thượng thư xử án thật công minh. Ông lại bẩm cáo đường quan: ở ngay kinh thành mà còn nhiều dân bị án oan, thì hàng trăm triệu dân ở khắp bốn phương trong nước sao khỏi không có người bị oan ức, khá nên trong năm năm lại sai phái một vị giảm hình quan đi điều tra sự thực xét lại án, hoặc gia giảm tội hình, hoặc giải oan phóng thích họ. Thượng thư bộ hình tấu trình hoàng đế thì lời đề nghị đó liền được phê chuẩn, và ông có tên trong danh sách những người được sai phái làm giảm hình quan. Ông nằm mộng thấy thần nhân bảo: người số không con, nay đề nghị việc giảm hình thật rất hợp lòng trời nên thượng đế ban cho ngươi được ba trai đều mặc cẩm bào đai vàng. Ngay đêm đó, bà vợ thụ thai, sau sinh ra Ưng Huyên, Ưng Khôn, Ưng Tuấn đều quan chức hiển hách cả. 9. Ở phủ Gia Hưng có người tên Bao Bằng, hiệu Tín Chi, thân phụ ông làm thái thú huyện Trì Dương sinh được bảy người con. Bằng là út, gởi rể ở nhà họ Viên, huyện Bình Hồ cùng với phụ thân ta là chỗ thâm giao, học rộng tài cao, nhiều lần thi hương không đậu cử nhân nên chán chuyện khoa bảng mà chuyên tâm học Phật và Lão. Một hôm đi du ngoạn Mão Hồ ở phía đông tỉnh, ngẫu nhiên tới một ngôi chùa ở làng nọ, thấy tượng đức Quán Thế Âm bị lộ thiên, dầm mưa loang lổ, bèn mở túi đẫy lấy mười lạng bạc đưa cúng dường để hòa thượng trụ trì sửa lại chùa cho khỏi dột nát làm tượng bị ướt át, thì hòa thượng cáo bạch là việc tu sửa mất nhiều công mà tiền bạc không đủ, e khó hoàn thành công tác. Bao Bằng cho mở rương mây lấy thêm bốn tấm vải, sản phẩm của Tung Giang, và bảy bộ áo kép bằng vải gai còn mới tinh đưa cúng dường để bán lấy tiền phụ thêm vào việc tu bổ chùa. Người làm có ý tiếc, ngăn cản lại thì Bao Bằng bảo miễn là tượng đức Bồ Tát không bị ướt át là được, ta dù có ở trần cũng chẳng thương tổn gì. Hòa thượng trụ trì nghe nói cảm kích rơi lệ bảo rằng: tiền tài, vải vóc, quần áo xả bỏ không phải là điều khó, chỉ riêng có tấm lòng chân thành như vậy đâu phải dễ có. Sau, công việc tu bổ hoàn thành, ông dẫn cha già cùng đi, đêm ngụ lại ở chùa, mộng thấy các vị hộ pháp lại cảm tạ, bảo: Con cháu nhà ngươi sẽ được hưởng lộc ở đời. Về sau con ông là Biện và cháu là Sanh Phương đều đăng khoa, đỗ đạt, quan chức hiển hách. 10. Phụ thân của Chi Lập, người huyện Gia Thiện, làm lại ở phòng hình sự thấy tù nhân vô cớ bị hàm oan hãm vào trọng tội, ông lấy làm thương hại muốn cứu mạng. Tù nhân cảm kích bảo vợ rằng: Chi công có lòng tốt muốn giải oan cứu sống ta, thực lấy làm hổ thẹn là ta không có gì báo đền ơn đức ấy được. Ngày mai, ngươi hãy về nhà ngỏ ý đem thân hầu hạ, hoặc giả ông ấy chịu thu dụng ngươi, tất ta ắt có đường sống vậy. Người vợ khóc mà nghe lời chồng; kịp khi họ Chi tới, tự mình ra mời rượi và bày tỏ hết ý nguyện của chồng. Họ Chi tuy không nghe nhưng vẫn tận tình giúp đỡ để bạch hóa án oan. Người tù được tha, cả hai vợ chồng cùng đến nhà khấu đầu cảm tạ mà bảo rằng: Chi công ân đức dày như vậy, ở đời thực hiếm có, hiện nay chúng tôi có đứa con gái đã lớn muốn tiến dẫn làm thiếp để hầu hạ công việc nhà cửa, đây cũng là chuyện thường tình hợp lý. Huyện lại họ Chi sắm sanh lễ vật và thâu nạp làm thiếp, sinh ra Chi Lập mới hai mươi tuổi đã đỗ khôi nguyên làm quan tới chức Khổng mục ở Hàn Lâm Viện. Lập sinh ra Cao, Cao sinh ra Lộc đều học rộng và có chức phận cả. Lộc sinh ra Đại Luân cũng khoa bảng đề danh. Mười chuyện trên đây, tuy cách cư xử, hành động của các nhân vật có khác nhau, nhưng đều quy về việc làm lành lại gặp quả báo tốt lành. II–Thế nào là thiện ? 1. Bàn luận rõ ràng về thiện. Nếu xét một cách tinh tường mà nói, thì thiện có chân có giả, có ngay thẳng có khuất khúc, có âm có dương, có phải hay chẳng phải, có lệch hay chính đáng, có đầy có vơi, có tiểu có đại, có dễ có khó, đều cần bàn luận rõ ràng. Làm việc thiện mà không hiểu rõ đạo lý là thiện, cứ tự cho việc mình làm là hành thiện, ắt không khỏi tạo nghiệp, uổng phí mất tâm tư một cách vô ích. Thế nào là chân thiện và giả thiện? Xưa có một số nho sinh yết kiến Trung Phong hòa thượng (một vị cao tăng triều đại nhà Nguyên) mà hỏi: Nhà Phật bàn thiện ác báo ứng như bóng theo hình, tức làm lành gặp lành, làm ác gặp ác; nay có người nọ thiện mà con cháu lại không được thịnh vượng, mà kẻ kia ác thì gia đình lại phát đạt, như vậy là Phật nói về việc báo ứng thực vô căn cứ sao? Hòa thượng nói: Người phàm tâm chưa được tẩy sạch, chưa được thanh tịnh, tuệ nhãn chưa khai, thường nhận thiện làm ác, cho ác là thiện; người như vậy không phải là hiếm có, đã tự mình lẫn lộn phải trái, cho ác là thiện, cho thiện là ác, điên đảo đảo điên mà không hay lại còn trách oán trời cho báo ứng là sai, là không công bằng. Bọn nho sinh lại hỏi: Mọi người thấy thiện thì cho là thiện, thấy ác thì cho là ác, sao lại bảo là lẫn lộn, trái ngược, điên đảo vậy? Hòa thượng bảo họ thử ví dụ xem sự tình như thế nào là thiện và thế nào là ác. Một người trong bọn họ nói: Mắng chửi đánh đập người là ác, tôn kính, lễ phép với người là thiện. Hòa thượng nói không nhất định là như vậy. Một người khác cho là tham lam, lấy bậy của người là ác, gìn giữ sự thanh bạch liêm khiết là thiện. Hòa thượng cũng bảo không nhất định như vậy. Mọi người đều lần lượt đưa ra thí dụ về thiện và ác, nhưng Trung Phong hòa thượng đều bảo không nhất định như vậy. Nhân thế bọn họ đều thỉnh hòa thượng giảng giải cho. 2. Định nghĩa chữ thiện Hòa thượng Trung Phong chỉ dạy rằng: Làm việc có ích cho người là thiện, còn chỉ có lợi cho riêng mình là ác. Có ích cho người thì dù có đánh hay mắng chửi họ cũng gọi là thiện, chỉ có ích cho riêng mình thì dù tôn kính, lễ phép đối với người cũng kể là ác. Bởi vậy, người làm việc đem lại lợi ích cho người khác, cho nhiều người khác là công, chỉ lợi cho mình là tư, công là chân là thiện, còn tư là giả là ác. Lại nữa, làm việc thiện mà phát xuất từ tấm lòng thành thật là chân thiện, còn hời hợt, chiếu lệ mà làm là giả thiện. Hơn nữa, hành thiện mà không hề toan tính, không nghĩ tới một sự báo đáp nào cả là chân thiện, trái lại còn toan tính, hy vọng có sự đền đáp là giả thiện, đó là những điều tự mình cần khảo sát kĩ lưỡng. Thế nào là ngay thẳng, khuất khúc? Đừng vì thấy một người cẩn thận, dễ bảo mà vội phân loại cho là thiện nhân có thể dung nạp. Các vị thánh nhân dùng người thì lại khác, thà dùng một cuồng sỹ cao ngạo, quật cường, tiết tháo có tài cán biết mạnh dạn tiến thủ còn hơn. Người cẩn thận, dễ bảo, tuy ở đời ai cũng ưu thích cho là tốt, là hiền; nhưng thánh nhân cho là không có chí khí hướng thượng, chỉ biết vâng dạ không hiểu rõ đạo lý nên có phần không lợi cho nền phong tục đạo đức. Bởi thế cho nên quan niệm của người phàm về thiện ác, tốt xấu thực rõ ràng khác biệt, tương phản với thánh nhân vậy. Suy rộng ra thì mọi sự lựa chọn thiện ác, gìn giữ hay buông xả của người đời đều không giống với thánh nhân, còn chỗ thiên địa, quỷ thần coi là phúc, thiện họa, dâm tà, phải trái đều đồng tiêu chuẩn với thánh nhân mà khác biệt hẳn với người phàm tục. Phàm muốn tích lũy thiện tất phải phát xuất từ chỗ tiềm ẩn của chân tâm đã được thanh lọc hết ý ác, quyết không để tai mắt trần tục sai khiến hành thiện vì tự tư tự lợi. Một lòng một dạ cứu giúp đời là ngay thẳng, còn nếu có chút lòng mị thế, lấy lòng người để có được danh vọng, tiền tài thì là hành động khuất khúc, chỉ một lòng một dạ tôn kính người là ngay thẳng, còn có chút lòng bỡn cợt, coi khinh người là khuất khúc; đều nên bàn luận tường tận. Thế nào là âm thiện, dương thiện? Phàm làm việc thiện mà mọi người đều hay biết được thì gọi là dương thiện, hành thiện mà không một ai biết là âm đức, thực ra đã có thiên địa quỷ thần biết rõ, nên có âm đức thì tự nhiên sẽ được cảm ứng quả báo; dương thiện được hưởng danh tiếng ở đời, đã có danh tiếng tức là đã được phúc báo rồi. Xưa nay những người có danh, có tiếng thường bị tạo hóa ganh ghét đố kỵ; vì thế những người có danh tiếng lừng lẫy mà thực sự không có nhiều công đức xứng đáng với danh tiếng đó, thường gặp phải nhiều tai họa bất ngờ xảy ra. Dù vậy nếu là người không có tội lỗi gì mà bỗng phải chịu mang tiếng xấu một cách oan uổng thì rồi con cháu họ sẽ được đáp đền, mau chóng phát đạt. Chỗ sai biệt của dương thiện và âm thiện do vậy cần phải cẩn thận suy xét cho kỹ. Thế nào là phải và chẳng phải? Nước Lỗ xưa có luật người Lỗ nào chuộc được người bị bắt làm kẻ hầu hạ ở các nước chư hầu về đều được phủ quan thưởng tiền. Tử Cống (học trò đức Khổng tên là Tứ) chuộc người về mà không nhận tiền thưởng. Đức Khổng nghe biết lấy làm buồn phiền mà bảo rằng: Tứ làm việc thất sách rồi. Ôi, thánh nhân xử sự nhất cử nhất động có thể cải sửa phong tục, thay đổi tập quán, làm gương mẫu cho bách tính noi theo, nên chẳng phải cứ nhiệm ý làm những việc thích hợp với riêng mình. Nay nước Lỗ, người giàu ít, người nghèo thì nhiều, nếu nhận thưởng cho là tham tiền, là không liêm khiết, còn không lãnh thưởng thì người nghèo sao có tiền tiếp tục chuộc người? Từ nay về sau chắc không ai chuộc người ở các nước chư hầu về nữa. Tử Lộ (tên Do, học trò đức Khổng) cứu người khỏi chết đuối, được tạ ân một con trâu. Tử Lộ nhận lãnh, đức Khổng hay chuyện hoan hỷ bảo rằng: Từ nay về sau nước Lỗ sẽ có nhiều người lo cấp cứu kẻ chết đuối. Cứ lấy con mắt phàm tục mà xét thì Tử Cống không lãnh tiền thưởng là hay, còn Tử Lộ nhận tặng trâu là kém. Nhưng kiến giải của thánh nhân khác với người phàm nên trái lại đức Khổng lại chọn Do mà truất Tứ. Vậy nên biết người hành thiện không nên chỉ nghĩ tới lợi ích nhãn tiền mà cần xét xem hành động đó có ảnh hưởng tệ hại gì về sau này hay không, không nên bàn đến lợi ích nhất thời ở đời này mà phải nghĩ tới tương lai xa, cũng chẳng nên chỉ nghĩ riêng cho cá nhân mình mà phải nghĩ cho nhiều người, cho thiên hạ đại chúng nữa. Việc làm hiện nay tuy bề ngoài là thiện nhưng trong tương lai lại để hại cho người, thì thiện mà thực chẳng phải thiện, còn việc làm hiện thời tuy chẳng phải thiện nhưng về sau này lại có lợi ích cứu giúp người thì tuy ngày nay chẳng phải thiện mà chính thực là thiện vậy. Chẳng qua ở đây chỉ lấy một vài sự việc mà bàn thế nào là thiện và không phải thiện mà thôi. Ở đời có nhiều sự tình tương tự, chẳng hạn như tưởng là hợp lễ nghĩa, là có trung tín, từ tâm mà thực ra lại là trái lễ nghĩa, không phải trung tín hay từ tâm; đều phải quyết đoán chọn lựa kỹ càng. Thế nào là thiên lệch và chính đáng? Xưa, ông Lã Văn Ý, lúc mới từ chức tể tướng, cáo lỗi hồi hương, dân chúng bốn phương nghênh đón như Thái sơn, Bắc đẩu. Nhưng có một người say rượu mạ lỵ ông. Lã công điềm nhiên bất động bảo gia nhân: Kẻ say chẳng chấp làm gì, đóng cửa lại mặc kệ hắn. Qua một năm sau, người đó phạm tội tử hình bị giam vào ngục. Lã công hay biết sự tình mới hối hận rằng: giá mà ngày ấy ta bắt hắn đưa quan nha xử phạt thì hắn có thể chỉ bị trừng giới với một tội phạm nhẹ mà tránh khỏi phạm trọng tội về sau. Ta lúc đó chỉ muốn giữ lòng nhân hậu tha thứ cho hắn, không ngờ lại hóa ra nuôi dưỡng tính ngông cuồng của hắn để phạm phải tội tử hình như ngày nay vậy. Đó là một sự việc do lòng thiện mà hóa ra làm ác. Lại nữa, có khi làm việc thiện với tâm ác, như một nhà đại phú nọ gặp năm mất mùa, dân nghèo giữa ban ngày cướp bóc thóc gạo ở ngay nơi thị tứ, báo cáo lên huyện thì huyện không xử lý, dân nghèo được thể càng lộng hành. Gia đình nọ bèn tự xử cho bắt những kẻ cướp bóc giam giữ trị tội nên ổn định được tình hình, nếu không hành động như vậy cướp sẽ làm loạn. Sở dĩ ai cũng đều biết làm thiện là chính đáng và làm ác là thiên lệch nhưng tâm tuy thiện là chính, mà việc làm hóa ra ác là thiên lệch nên gọi đó là thiên ở trong chính; còn tâm tuy ác mà việc làm hóa ra thiện, đó là chính ở trong thiên vậy. Sự lý này không thể không hiểu cho thật rõ ràng. Thế nào là đầy và vơi ( bán và mãn)? Kinh Dịch nói việc thiện mà chẳng tích lũy lại cho nhiều không đủ để được danh thơm tiếng tốt, việc ác mà không đọng lại nhiều chẳng đủ để bị họa sát thân. Kinh Thư có nói nhà Thương tội ác quá nhiều như nước vỡ bờ vì thế mà Trụ vương bị diệt. Việc tích thiện cũng như lưu trữ vật dụng, nếu chăm chỉ cất giữ ắt sẽ đầy kho, còn biếng nhác không chịu tích lại thì ngày càng vơi chứ không đầy. Chuyện làm thiện được đầy hay vơi, bán hay mãn là như vậy. Xưa có một nữ thí chủ vào chùa lễ Phật, muốn cúng dường nhưng lại không có tiền, trong túi chỉ còn hai đồng bèn đem cả ra để cúng. Vị trụ trì đích thân làm lễ bái sám hồi hướng cho. Sau nữ nhân đó được tuyển vào cung, tiền tài, phú quý có thừa, đến chùa lễ Phật đem cả ngàn lượng bạc cúng dường. Hòa thượng trụ trì sai đồ đệ thay mình làm lễ hồi hướng mà thôi. Nữ thí chủ nọ thấy vậy liền hỏi: Trước đây tôi chỉ cúng dường có hai đồng mà phương trượng đích thân làm lễ bái sám hồi hướng cho, nay cúng dường cả ngàn lượng bạc mà sư lại không tự mình làm lễ là vì sao vậy? Vị hòa thượng đáp: Trước kia tiền bố thí quả là ít ỏi, nhưng phát xuất từ tấm lòng thật chân thành, nếu bần tăng không đích thân bái sám hồi hướng thì không đủ báo đáp được ân đức ấy. Nay tiền cúng dường tuy thật quá hậu, nhưng tâm bố thí không được chân thành như trước, nên bảo đồ đệ thay bần tăng làm lễ cũng đủ. Với lòng chí thành bố thí cúng dường chỉ hai đồng mà việc thiện được viên mãn, còn bố thí cả ngàn lượng bạc mà lòng không được chí thiết thì công đức đó chỉ được bán phần mà thôi. Trên đây là một câu chuyện nói về làm thiện được bán và mãn hay vơi và đầy vậy. Chung Ly Quyền chỉ dạy cho Lã Đồng Tân cách luyện đan điểm sắt thành vàng có thể đem dùng để cứu giúp người đời. Lã Đồng Tân hỏi rằng vàng đó sau có thể biến chất hay không? Chung Ly Quyền bảo năm trăm năm sau vàng ấy sẽ trở lại nguyên bản chất cũ là sắt, thì họ Lã nói: Như vậy là sẽ gia hại cho người đời 500 năm về sau, ta chẳng muốn học phép ấy làm gì. Chung Ly Quyền bảo: Muốn tu tiên cần phải tích công lũy đức 3000 điều, nhưng chỉ một lời của nhà ngươi nói đó cũng đủ mãn 3000 công đức rồi. Đây lại thêm một thuyết nữa về đầy vơi hay bán mãn vậy. Hơn nữa, làm việc thiện mà tâm không hề chấp trước là mình làm thiện, cứ tùy theo công việc nào mình làm mà được thành tựu thì hành động đó gọi là mãn. Nếu tâm còn chấp việc mình làm là thiện thì dẫu cả đời chăm chỉ hành động cũng chỉ là bán thiện mà thôi. Giả như mang tiền tài cứu giúp người, nội tâm không nghĩ tới mình là người bố thí, ngoài mặt không cần biết người nhận tiền là ai, ở khoảng trung gian cũng không nghĩ tới số tài vật bố thí là bao nhiêu, đó gọi là tam luân thể không, bố thí với tấm lòng thanh tịnh như vậy thì một đấu thóc cũng có thể trồng thành vô lượng vô biên phúc đức, dù một xu cũng có thể tiêu diệt được tội nghiệp của ngàn kiếp trước. Nếu như còn tồn tâm nghĩ tới mình là người làm thiện, số tài vật đem bố thí và người nhận vật là ai, thì dù có vạn lượng bạc đem cho, phúc cũng không được viên mãn. Đây cũng là một thuyết nữa về bán hay mãn thiện, thiện đầy hay vơi. Thế nào là đại và tiểu? Xưa Vệ Trọng Đạt, một quan chức ở Hàn Lâm Viện bị nhiếp hồn đưa xuống âm phủ. Diêm vương sai các phán quan trình những cuốn sổ ghi việc thiện và ác ra để xét. Nếu đem so sánh thì sổ ghi những việc ác thực quá nhiều, còn sổ ghi việc thiện chỉ có một cuốn nhỏ mỏng như que đũa mà thôi. Diêm vương sai bắc lên cân, cân thử thì bên 1 cuốn sổ ghi việc thiện lại nặng nhiều hơn tất cả những cuốn sổ ghi việc ác hợp lại . Trọng Đạt nhân thế mới hỏi: Năm nay, bản chức chưa đến 40 tuổi đời mà sao tội lỗi lại có thể nhiều đến như thế? Thì Diêm vương bảo: Mỗi một niệm ác mới khởi lên trong lòng đã kể là một tội không cần đợi tới lúc có thực sự phạm phải hay không. Trọng Đạt lại hỏi thêm là trong cuốn sổ nhỏ đó ghi việc thiện gì vậy. Diêm vương bảo: Triều đình đã từng dự tính khởi đại công tác tu sửa cầu đá ở Tam Sơn, nhà ngươi dâng sớ can gián. Sớ văn đó có ghi chép vào sổ vậy. Trọng Đạt thưa: Bản chức tuy có dâng sớ, nhưng triều đình không y theo lời tấu trình, thì sự việc đâu có ích gì? Thì Diêm vương lại bảo cho hay là: Triều đình không y theo lời tấu, nhưng một niệm thiện đó của nhà ngươi là vì lợi ích của toàn dân, muốn cho họ khỏi bị lao công vất vả, khỏi bị sưu cao thuế nặng, nếu mà lời tấu được triều đình y theo thì công đức của nhà ngươi thực vô cùng lớn lao. Cho nên nếu có chí nguyện làm lợi ích cho mọi người, cho quốc gia thiên hạ, cho đại chúng thì tuy việc làm đó có nhỏ mà công đức lại lớn, còn dù làm việc công mà chỉ nghĩ và nặng vì lợi ích của riêng mình thì dù có làm thật nhiều mà công đức lại nhỏ vậy. Thế nào là khó và dễ? Các vị tiên nho xưa có nói muốn khắc phục mình, muốn thắng được tâm mình thì nên bắt đầu từ chỗ khó khắc phục mà khởi công trước. Đức Khổng Tử bàn về nhân ái cũng nói bắt đầu từ chỗ khó mà thi hành trước, tức là từ chỗ phải thắng được lòng mình vậy, bởi lẽ khó mà làm được thì dễ ắt cũng làm xong. Như ông họ Thư ở Giang Tây bỏ hết cả tiền lương gom góp trong hai năm dạy học đem nộp quan để trừ vào tiền thiếu nợ giúp cho hai vợ chồng nhà nọ được sum họp khỏi bị bắt đi làm gia nhân nhà người; đó đều có thể gọi là chỗ khó xả bỏ mà xả bỏ được. Lại như ông già họ Cận ở Trấn Giang tuổi đã cao, không con nối dõi, lân gia có người đem đứa con gái còn trẻ đến cho nạp làm thiếp, nhưng ông không nhẫn tâm thu nạp mà đem hoàn trả lại. Đó là chỗ khó có thể nhẫn mà nhẫn được. Vậy nên phúc báo trời cho hưởng sẽ được hậu. Phàm những người có tiền tài, có quyền thế mà họ muốn làm phúc thì thực là dễ, dễ mà chẳng làm là tự hủy hoại mình, người nghèo hèn khốn cùng muốn làm phúc thì thật là khó, nhưng khó mà làm được, đó mới thực là đáng quý vậy. 3.- Tùy duyên hết sức tu thập thiện Tùy lúc gặp duyên lành cứu giúp người, hay tùy hỷ công đức mà hành thiện, nếu phân biệt ra từng loại thì thật rất nhiều, nhưng đại khái có 10 loại việc thiên (thập thiện) như sau: thứ nhất, trợ giúp người cùng làm thiện; thứ hai, giữ lòng kính mến người; thứ ba, thành toàn việc thiện của người; thứ tư, khuyến khích người làm thiện; thứ năm, cứu người gặp nguy khốn; thứ sáu, kiến thiết, tu bổ có lợi ích lớn; thứ bảy, xả tài làm phúc; thứ tám, giữ gìn bảo hộ chánh pháp; thứ chín, kính trọng tôn trưởng; thứ mười, thương tiếc mạng sống loài vật. Thế nào là trợ giúp người cùng làm thiện? Xưa vua Thuấn, lúc chưa tức vị, thấy những người đánh cá ở đầm Lôi Trạch, đều tranh chiếm chỗ nước sâu nhiều cá, còn người già yếu phải tìm chỗ nước nông cạn chảy xiết ít cá mà đánh, nên có lòng trắc ẩn bất nhẫn, bèn cũng tới đánh cá; thấy người nào cũng tranh giành chỗ, thì ông im lặng không đả động gì đến tánh xấu ấy, còn thấy người mà có lòng nhường chỗ thì ông hết lời khen ngợi mà theo gương đó cũng nhường chỗ cho người khác. Một năm sau, những người đánh cá ở những chỗ nước sâu, ai cũng có lòng nhường chỗ cho nhau mà không tranh giành nữa. Ôi, vua Thuấn thực là sáng suốt, há chẳng phải mất lời mà khuyên bảo giáo hóa được người sao! Tuy không dùng lời mà dùng chính bản thân mình làm gương mẫu cho người khác tự sửa đổi lấy mình. Đây là chỗ khổ tâm và khéo dụng công của vua Thuấn vậy. Bọn chúng ta ở đời mạt pháp này chẳng nên thấy mình có chỗ sở trường mà khinh khi chèn ép người; chẳng nên lấy chỗ hay giỏi của mình mà đem so sánh xét người; chẳng nên thấy mình có quyền năng thế lực mà làm khốn khó người; nếu mình có tài có trí cũng chẳng nên khoe khoang biểu lộ ra ngoài mà nên ẩn giấu ở bên trong coi như tài mình còn non, trí còn kém như không thực có gì hết, và thấy người có lỗi lầm thì bao dung ẩn nhẹm cho, tức ẩn ác dương thiện vậy. Một là để cho người tự hối mà sửa lỗi, hai là để họ tự biết lỗi mà e dè úy kỵ không dám phóng túng làm càn. Nếu thấy người có chỗ hay tốt có thể chấp nhận học hỏi được thì dù là việc thiện nhỏ cũng nên ghi nhớ ngay, không những để tự mình học lấy chỗ hay của người, mà còn tán dương thuật lại cho mọi người cùng hay biết. Phàm những việc làm thường ngày, một lời nói, một hành động hoàn toàn đều không nên vì lợi cho mình mà làm, nên đặt ra nguyên tắc nghĩ và làm lợi cho người, cho thiên hạ, đại chúng. Đây là chỗ độ lượng của người chính nhân quân tử coi thiên hạ là công mà mình là tư. Thế nào là giữ lòng kính mến người? Người quân tử và tiểu nhân, nếu chỉ xét hình dáng bề ngoài thường có sự lẫn lộn khó phân biệt, duy có một điểm thiện ác khác nhau xa là ở chỗ tồn tâm biết giữ được lòng mình, và do đó mà phán xét thì trắng đen rõ ràng trái hẳn nhau; cho nên nói người quân tử sở dĩ khác người là ở chỗ tồn tâm vậy. Chỗ tồn tâm của người quân tử chỉ là lòng tôn kính, yêu mến người. Đại khái con người ta ở đời có người thân sơ hay sang hèn, có người thông minh trí tuệ hay đần độn ngu si, có người hiền lương đạo đức hay phàm phu tục tử, hàng vạn vạn người chẳng ai giống ai, nhưng đều là đồng bào của ta, đều cùng một thể chất như ta, sao lại chẳng yêu kính ư? Thánh nhân, hiền nhân thường luôn kính trọng, thương yêu đại chúng làm lợi cho họ, nếu ta cũng kính yêu mọi người là trùng hợp với lòng của các vị thánh hiền, như vậy cũng như ta có lòng kính ái các vị ấy. Nếu như ta thông hiểu được chí nguyện của đại chúng tức là hiểu rõ được tâm ý của thánh hiền. Bởi vì chí nguyện của người đời là mong được lợi lạc an bình, mà tâm ý của thánh hiền vốn dĩ vẫn vì đại chúng mà làm cho họ được như ý muốn, đắc kỳ sở nguyện; lòng chúng ta nếu trùng hợp với lòng kính ái của thánh hiền mà làm cho đại chúng được an lạc tức là chúng ta đã vì thánh nhân và hiền nhân mà làm lợi lạc cho mọi người vậy. Thế nào là thành toàn việc thiện của người? Một hòn đá trong có ngọc nếu bị ném bỏ ắt sẽ vỡ tan như hòn ngói, nhưng nếu đem mài dũa, chạm trổ ắt sẽ thành khuê chương, hốt ngọc của vua quan. Cho nên phàm thấy người làm việc thiện, hoặc thấy ý chí và tư chất của họ có thể tiến thủ thành công thì đều nên khuyến dụ, trợ giúp họ; hoặc khen ngợi khích lệ, hoặc gìn giữ bao bọc họ; hoặc biện bạch hộ cho họ hay chia xẻ cùng họ nỗi oan ức bị người ghen tị mà vu họa phỉ báng họ, cốt sao giúp cho họ được thành công mà thôi. Đại khái, con người thường không ưu thích những người không giống như mình, chẳng hạn như ác không ưa thiện, tiểu nhân không thích quân tử. Người trong một xóm làng, thiện thì ít mà xấu ác thì nhiều, vì thế người thiện ở đời bị kém thế khó có thể tự lập được vững vàng. Hơn nữa người hào kiệt, thông minh tài cán, tính tình thường cương trực không trọng bề ngoài, không ưa tiểu tiết nên hay bị người ta hiểu lầm mà chỉ trích phê bình; vì thế cho nên việc thiện thường dễ bị hư hỏng mà người thiện thường bị nhạo báng, cười chê, chỉ duy có người trưởng giả nhân hậu mới hiểu rõ được sự tình mà phù trợ giúp cho họ được thành công. Thành toàn cho người thì công đức thực là lớn lao vô cùng. Thế nào là khuyến khích người làm thiện? Con người ta đã sinh ra làm người, ai mà không có lương tâm. Đường đời mênh mông mù mịt rất dễ bị sa đọa chìm đắm vì ngũ dục. Đối với những người còn mải mê ham đắm danh, lợi, tình, ăn ngủ dễ tạo thành nghiệp ác, ta nên tìm cách để cảnh tỉnh họ cho thoát khỏi sự mê hoặc, cũng giống như họ đang trải qua một giấc mộng lớn trong đêm dài mà làm cho họ được thức tỉnh, hay giống như họ bị hãm vào vòng phiền não tích tụ từ lâu đời mà ta giúp họ trong trắng đoạn trừ, bại trừ hết thì ân huệ đó thật vô lượng vô biên. Hàm Dũ, đời nhà Đường có nói: Uốn ba tấc lưỡi dùng lời nói mà khuyên người làm việc thiện chỉ là phương pháp nhất thời bởi có thể nghe tai này lọt qua tai khác rồi quên đi, còn muốn có hiệu quả dài lâu đến tận trăm năm về sau thì dùng văn thư sách vở để lại mà khuyên người đời làm lành tránh ác. Tuy nhiên, dùng lời nói hay sách vở khuyên người cũng giống như gặp bệnh nào thì phát thuốc trị bệnh ấy cho bệnh nhân kể cũng có hiệu lực nhưng còn lưu lại dấu vết, còn như dùng chính bản thân mình hành động làm mẫu mực, làm gương cho người trông thấy để họ tự nhiên tỉnh ngộ biết được lỗi lầm mà sửa đổi thì hiệu quả cũng chẳng kém mà không để lại hình tích gì; cả hai phương tiện này đều chẳng thể bỏ qua. Muốn giúp người, khuyên người cần phải thông minh sáng suốt, biết tùy thời, tùy người không để mất lời tức phí lời nói của mình mà người không nghe, cũng không để mất người, tức là gặp người có thể khuyên cải được mà mình không hành động để lỡ mất dịp làm lành, như thế là kém hiểu biết, không có trí tuệ vậy. Thế nào là cứu người lúc nguy cấp? Người ta ai cũng có lúc gặp phải sự tai ương hoạn nạn xảy ra. Ngẫu nhiên mà ta gặp trường hợp người bị nạn thì coi sự đau khổ của người cũng như là mình đau mà mau mau cứu giúp; hoặc dùng lời nói làm nhẹ nỗi oan uổng uất ức cho họ, hoặc tìm mọi cách giúp họ khỏi sự thống khổ triền miên. Thôi Tử có nói: Làm ân không cần để ý tới là nhỏ hay lớn, chỉ cần lúc người gặp nguy khốn mà tới giải cứu, giúp đỡ ngay là được. Đó thực là lời nói của người có lòng nhân hậu, đạo đức vậy. Thế nào là kiến thiết, tu bổ lợi ích lớn? Nhỏ như một thôn xóm, lớn như trong một huyện, phàm những công đức kiến thiết có lợi ích công cộng cần phải nên góp công, góp của, như khai cừ dẫn thủy, như tu bổ đê điều phòng lụt lội, như sửa chữa cầu cống tiện việc giao thông đi lại hay bố thí cơm nước để cứu đói cứu khát; tùy duyên và tùy cơ hội khuyến khích người cùng hợp lực xây dựng, chẳng nề gian khổ, chẳng quản bị ganh tị, hiềm nghi, oán trách, cứ tận tâm, tận lực mà hành động. Thế nào là xả tài làm phúc? Theo nhà Phật thì việc hành thiện có hàng vạn điều để làm nhưng tựu trung bố thí là điều cần trước mắt, muốn bố thí chỉ cần có một chữ xả mà thôi. Người am hiểu rõ ràng lý lẽ này thì trong xả lục căn (nhãn, nhĩ, tỉ, thiệt, thân, ý), ngoài xả lục trần (sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp), nhất thiết những gì mình sở hữu không có gì là không xả được. Nếu không đạt tới trình độ có thể xả bỏ hết, thì trước tiên hãy bắt đầu dùng tiền mà bố thí. Người đời lấy cơm ăn áo mặc làm mạng sống, cho nên rất quý trọng đồng tiền , nay chúng ta có thể xả bỏ được tức là trong lòng bỏ được tính keo kiệt, ngoài mặt thì cứu giúp được người lúc cần gấp; lúc mới bắt đầu thì có vẻ miễn cưỡng mà làm, nhưng rốt cuộc xả bỏ quen rồi thì an nhiên tự tại hành động, có thể rửa sạch được lòng riêng tư, vị kỷ, trừ bỏ được tính biển lận, tham lam, keo sẻn. Thế nào là giữ gìn bảo hộ chánh pháp? Pháp là tai mắt có linh tính và sinh động từ ngàn xưa hàng vạn đời truyền lại. Chánh Pháp là ngọn đèn là nơi nương tựa của tất cả chúng sanh là phương tiện để ba đời mười phương Chư Phật cứu độ chúng sanh thoát khỏi vô minh, đau khổ đến bờ giải thoát, an vui.. Nếu không có chánh pháp thì làm sao có thể trợ giúp sự hóa đức của thiên địa, làm sao có thể tài bồi vạn vật, làm sao có thể cứu chúng sanh thoát ly khỏi sự thúc giục của ngũ dục, lục trần, làm sao có những kinh điển siêu việt thời gian và không gian để lại chỉ cho ta con đường tu thân xuất thế thoát khỏi luân hồi sinh tử? Vì vậy ta phải biết kính trọng bảo vệ, và góp sức chỉnh trang, chùa chiền, đền miếu thờ các vị thánh hiền; giữ gìn, ấn tống suy cử, khuyến khích và truyền bá phổ biến các kinh điển góp phần hoằng dương chánh pháp để đền đáp ân đức của Phật Đà Thế nào là kính trọng tôn trưởng? Đối với các vị tôn trưởng, như ở nhà thì có phụ huynh, trong nước thì có vua chúa, ngoài xã hội thì phàm những người tuổi cao, đạo đức cao ...đều nên đặc biệt để ý tôn kính, phụng sự. Ở nhà thờ phụng cha mẹ phải cực kỳ hết lòng kính mến thương yêu, thái độ đối xử phải dịu dàng hòa nhã, lời ăn tiếng nói phải nhã nhặn, ôn hòa, tập quen cho thành tính nết tốt, tạo được hòa khí mới là phương pháp căn bản cảm ứng với lòng trời. Khi làm việc quan phụng sự vua chúa, thì bất cứ làm một việc gì dù nhà vua không biết tới cũng phải thận trọng không được tự ý làm càn, khi xử án cũng vậy, không thể tự mình tác oai mà cần phải xét xử cho công bằng, minh bạch. Người xưa thường nêu gương mẫu phụng sự vua cũng như thờ trời phải hết lòng cung kính. Đó là chỗ tối quan hệ tới phần âm đức. Chúng ta hãy thử xem những gia đình trung hiếu thì đủ rõ, con cháu họ nhiều đời đều được phát đạt thịnh vượng, thiết tưởng cũng nên cẩn thận lưu ý. Thế nào là tiếc mạng sống loài vật? Phàm con người sinh ra, được gọi là người duy chỉ ở chỗ có lòng trắc ẩn mà thôi. Muốn cầu có lòng nhân hậu, muốn tích đức, đều phải do ở chỗ có lòng trắc ẩn đã. Theo lễ nghi nhà Chu, vào tháng đầu xuân, tế lễ dùng tam sinh như trâu, bò, heo, nhưng không sát hại vật giống cái. Mạnh phu tử nói người quân tử xa chốn nhà bếp, sở dĩ muốn bảo toàn lòng lân mẫn, trắc ẩn vậy, tức là không muốn nghe tiếng kêu bi thương của con vật bị làm thịt; cho nên các vị tiền bối giữ giới tứ bất thực, bốn thứ không ăn; nghe tiếng kêu của vật bị giết thịt, trông thấy người ta làm thịt nó, chính mình nuôi nó, hay người ta vì mình mà làm thịt nó, bốn trường hợp đó thì đều không ăn. Noi gương từ tâm của các vị tiền bối, nếu chúng ta chưa có thể hoàn toàn bỏ hẳn được việc dùng thịt, thì cũng khá nên giữ giới tứ bất thực này. Dần dần tiến bộ, lòng từ ngày càng gia tăng, không những giữ được giới không sát sinh mà còn coi những vật nhỏ bé động đậy ngu xuẩn hay có linh tính đều là có mạng sống cả mà không giết hại, như việc kéo kén lấy tơ làm lụa, cày bừa đất đai chết trùng bọ, nguyên do cũng vì cơm ăn áo mặc mà hại chúng để nuôi dưỡng mình, há chẳng đáng thương hại hay sao, cho nên hủy hoại những vật tiêu dùng cũng tội như sát sinh vậy; đến như vì vô tình không để ý mà tay đập chân giẫm hại không biết bao sinh vật li ti nhỏ nhoi, tưởng cũng nên tìm cách để phòng tránh khỏi việc ấy. Thơ cổ có nói mến chuột thường dành cơm cho ăn, thương con thiêu thân thì chẳng đốt đèn, để chúng khỏi chết. Thật là từ bi nhân hậu biết bao! Thi hành việc thiện thì thật vô cùng, không sao thuật hết được. Theo mười điều trên mà suy rộng ra ắt có thể hoàn bị được hàng vạn công đức. KHIÊM ĐỨC I– Mãn (tự mãn) có hại, khiêm có lợi Kinh Dịch nói thiên đạo và địa đạo không ưu doanh (doanh mãn) mà làm lợi cho khiêm (khiêm hư) là muốn biến cải con người để tự biết sửa mình, bởi thế nên phàm làm việc gì mà kiêu ngạo tự mãn (doanh) thì sẽ chuốc lấy tổn thất, còn nhún nhường (khiêm) coi mình như không thì lại được lợi ích, như trái núi quá cao thì dễ bị lở, chỗ trũng thường được nước chảy tới làm đầy; quỷ thần cũng thường gây hại cho người tự kiêu, và làm lợi ích cho người khiêm tốn nhũn nhặn. Khiêm hư là điều mà trời đất, quỷ thần và người đều trọng. Trong Kinh Dịch có quẻ khiêm là một quẻ đại cát vì lục nào cũng đều tốt cả. Kinh Thư nói tự mãn chuốc lấy tổn hại, tự khiêm được lợi ích. Theo Kinh Dịch và Kinh Thư thì khiêm là điều tốt nhất. Ta nhiều lần cùng các sĩ tử đi thi, cứ mỗi lần thấy một hàn sĩ nào mà diện mạo, dung quang biểu lộ lòng tự khiêm của họ một cách rõ ràng như tỏa ra một ánh hào quang có thể nắm bắt được thì biết ngay người ấy sẽ đỗ đạt. Năm Tân Mùi, mở khoa thi hội ở kinh thành, bọn chúng ta gồm có 10 người đồng hương thuộc huyện Gia Thiện cùng đi, duy chỉ có Đinh Kính Vũ, tên Tân, tuổi trẻ nhất bọn mà cực kì khiêm tốn. Ta nói với Phi Cẩm Pha, một người bạn đồng hành, là anh bạn họ Đinh này năm nay tất nhiên trúng cử. Họ Phi hỏi thấy sao mà biết được, thì ta bảo rằng chỉ có khiêm hư là được phúc. Huynh coi xem trong bọn 10 người chúng ta không ai thành tín chất phác, thực thà, nhường nhịn người, không làm mất lòng người như Kính Vũ cả; không ai cung kính, thuận hòa cẩn thận để ý khiêm nhường như Kính Vũ cả, không ai bị chế nhạo, cười chê, chỉ trích mà chẳng hề đối đáp, tranh cãi, lại cứ thản nhiên chịu đựng như Kính Vũ cả. Con người được như thế thì thiên địa quỷ thần đều trợ giúp cho, há chẳng phát đạt hay sao! Kịp đến khi yết bảng quả nhiên họ Đinh được trúng cử. Năm Đinh Sửu, ta ở kinh cùng với Phùng Khai Chi, thấy con người của họ Phùng cực kì khiêm hư, nghiêm chỉnh, cung kính, là do thói quen tập từ thời thơ ấu biến thành. Phùng Khai Chi có người bạn tốt tên Lý Tệ Nham thực thà, trực tính, hễ gặp điều gì mà Khai Chi làm trái là nói thẳng ngay, chê trách ngay tận mặt mà Khai Chi vẫn bình tâm an hòa, thuận chịu không một lời phản đối, không để bụng giận. Ta có bảo cho biết là họa phúc đều có triệu chứng, người được hưởng phúc nhất định là do đã có sẵn căn nguyên của phúc rồi, có họa cũng do triệu chứng báo trước mà có; chỉ cần tâm thực khiêm hư thì trời đất ắt sẽ tương trợ. Huynh năm nay nhất định cập đệ. Sau thực quả nhiên đúng như vậy. Triệu Dụ Phong, tên Quang Viễn, người huyện Quán, tỉnh Sơn Đông, lúc trẻ thi hương mãi không đậu. Thân phụ của Dụ Phong được bổ làm Tam Doãn ở huyện Gia Thiện nên y tháp tùng. Ở huyện có Tiền Kính Ngô là người có văn tài, học thức rộng. Dụ Phong ngưỡng mộ đem văn bài của mình tới nhờ chỉ giáo. Kính Ngô xem và gạch xóa, sửa bỏ nhiều chỗ. Dụ Phong không những không buồn lòng mà còn bội phục, để ý đổi cách hành văn ngay nên năm sau đi thi được trúng cử. Đó cũng là do biết khiêm tốn, nhũn nhặn, sửa mình mà đạt thành quả. Năm Nhâm Thìn, nhân dịp vào kinh yết kiến hoàng đế, ta gặp Hạ Kiến Sở, thấy người này cực kì cung kính, nhún nhường, lòng khiêm hư biểu lộ rõ ràng khiến ai cũng phải nể; khi về ta nói cùng các bạn hữu là phàm người nào được trời giúp thì khi chưa được phát phúc, trước hết trí tuệ sẽ được khai mở; khi trí tuệ đã mở mang thì người phù phiếm trôi nổi, bất định sẽ tự nhiên biến thành thiết thực, sự phóng túng tự nhiên giảm thiểu. Kiến Sở là người ôn hòa, hiền lương như vậy nhất định sẽ được trời cho phát phúc. Đến khi yết bảng quả nhiên trúng tuyển. Trương Úy Nham, người huyện Giang Âm, tỉnh Giang Tô, là người học rộng, đọc nhiều, văn hay nổi tiếng, năm Giáp Ngọ đi thi hương ở Nam Kinh ngụ tại một ngôi chùa nọ; khi yết bảng không có tên nên lớn tiếng nhục mạ khảo quan là mắt không tròng, không biết người. Lúc đó có một đạo sĩ ở bên cạnh nghe được bèn cười. Úy Nham liền trút cơn giận ngay sang vị đạo sĩ nọ thì đạo sĩ nói: Chắc văn bài của ông nhất định không được hay. Lời nói này lại càng làm cho Úy Nham thêm giận mắng lớn: Ngươi có đọc văn của ta đâu mà biết là không hay? Đạo sĩ nói: Ta nghe nói hành văn quý nhất ở chỗ tâm bình, khí hòa, nay thấy ông hết lời mạ lỵ khảo quan, lòng bất bình cao ngạo quá đáng thì văn làm sao mà hay được? Úy Nham nghe lời bất giác phục thiện, nhân đấy xin thỉnh giáo đạo sĩ nọ. Đạo sĩ nói: Trúng cử hay có công danh hoàn toàn do số mệnh định, số chưa được đỗ thì dù văn có hay cũng vô ích thôi, nên tự mình sửa đổi biến cải. Úy Nham nói: Đã do số mệnh như vậy thì làm sao sửa đổi? Đạo sĩ nói: Sáng tạo ra mệnh là do trời, lập mệnh là do ta, gắng sức hành thiện, tích âm đức cho thật sâu rộng thì phúc nào mà chẳng cầu được. Úy Nham lại hỏi: Tại hạ là học trò nghèo thì làm sao làm được? Đạo sĩ bảo: Làm việc thiện, tích âm đức đều do tâm tạo ra, thường phải giữ vững tấm lòng hành thiện này thì công đức vô lượng, chẳng hạn như chỉ một việc khiêm tốn nhũn nhặn thì không phải phí tiền gì cả, sao ngươi không tự phản tỉnh, tự trách lấy mình, mà lại mạ lỵ khảo quan ư? Do đó, Úy Nham tự hạ mình giữ gìn tu sửa, gia công hành thiện ngày một nhiều, gắng sức tu đức ngày một dày; đến năm Đinh Dậu mộng thấy đi tới một tòa nhà phòng ốc cao, được một quyển sổ ghi danh sách các thí sinh được trúng tuyển trong kỳ thi, thấy nhiều hàng bỏ trống mới hỏi người ở kế bên: Xin hỏi danh sách khóa thi này, sao lại có nhiều hàng tên bỏ trống vậy? Thì người đó đáp rằng: Ở cõi âm đối với danh sách thí sinh của khóa thi thì cứ mỗi ba năm lại cứu xét một lần, người nào tu hành, tích đức không tội lỗi gì thì có tên trong sổ, còn những hàng bỏ trống đều có liên quan tới việc trước đây thí sinh đáng lẽ đã được ghi tên vào sổ nhưng sau vì phúc bạc, phạm lỗi lầm nên bị loại bỏ ra; sau đó lại chỉ một hàng mà bảo: Nhà ngươi trong ba năm tới nên giữ thân tu tỉnh cẩn thận, họa may có thể được điền tên vào đấy, mong rằng nhà ngươi nên lưu tâm đừng phạm lỗi lầm. Khóa thi năm đó, Úy Nham trúng cử vào danh sách một trăm lẻ năm người. II– Lòng khiêm tốn, nhún nhường, nguồn gốc của phúc Theo đấy mà xét, chỉ ngửng đầu cao ba thước ắt đã có thần minh soi xét, muốn tránh hung hiểm họa tai, hay muốn mong được sự việc tốt lành, hẳn nhiên đều do tự ở nơi ta biết giữ lấy thiện tâm, một mực làm lành tránh ác, không một chút nào đắc tội với thiên địa quỷ thần, lại biết khiêm tốn nhũn nhặn, không tự cao, tự đại, khiến thiên địa quỷ thần thường có lòng thương mới mong có được hưởng phúc. Người mà đầy lòng kiêu ngạo, tự mãn, nhất định khí lượng hẹp hòi, dù cho có phát đạt cũng chỉ một thời mà thôi, chẳng được lâu bền và cũng chẳng được phúc. Người đã có chút kiến thức ắt phải có độ lượng rộng rãi, bụng dạ không hẹp hòi, đố kỵ mới không tự mình bỏ lỡ cơ hội được hưởng phúc, huống chi người khiêm tốn tự hạ mình thường hay được người đời vui lòng chỉ đường hay lẽ phải cho, lợi ích thực vô cùng tận. Đây là điều mà những người tu học không thể không hiểu biết và không thể thiếu được vậy. Lời người xưa có nói: người có chí hướng cũng như cây có gốc rễ thì mới sinh trưởng ra hoa, ra trái. Người có chí muốn lập công danh thì nhất định sẽ được công danh, muốn được phú quý ắt hẳn sẽ được phú quý. Đã lập chí thì nên thường tự nhắc nhở lấy mình cần phải khiêm hư nhún nhường dù có chuyện thật nhỏ nhặt, đối với mọi người cũng phải để ý cư xử nhũn nhặn thì mới cảm ứng được với trời đất, và cũng nên hiểu rằng việc tạo phúc là do tự mình thành tâm mà tạo nên, chẳng hạn như muốn cầu được đỗ đạt ắt phải giữ vững ý chí chân thành buổi ban đầu, chứ không phải chỉ nay hứng chí thì cầu, mai không hứng thì lại thôi. Mạnh phu tử nói về Tề Tuyên Vương: Nhà vua rất ưa nghe nhạc mà vui thích, đại để có thể làm cho nước Tề được thịnh vượng. Đó là câu trích dẫn trong sách Mạnh Tử, Thiên Lương Huệ Vương, chương cú hạ, đại ý nói nhà vua ưu thích nhạc mà lấy làm vui, đó là niềm vui cho riêng mình, sao bằng biết đem cái lòng vui thích nhạc đó chuyển đổi sang làm cho bách tính cũng được hoan hỷ cùng với nhà vua, thì dân ắt sẽ vì vua tận lực phụng sự, nước Tề ắt phải thịnh. Ta đối với việc khoa cử đề danh cũng tựa như vậy, nghĩa là cũng đem lòng chân thành cầu danh đó với ý định thiết thực tận tâm, tận lực làm việc thiện và giúp đỡ mọi người ngõ hầu mới biến đổi được số đã định để được hưởng phúc bởi một vận mệnh do mình tự tạo ra. Thay đổi quan niệm, thói quen, suy nghĩ và vận mệnh Người xưa nói rằng: “con người không phải thánh hiền làm sao không lỗi?biết lỗi mà sửa là điều thiện lớn nhất”. Đó là khích lệ những người có ý chí sửa lỗi hướng thiện và thay đổi vận mệnh, đối với những sai lầm đã qua không nên nãn lòng lùi bước. Trong cuộc sống gặp phải những điều không tốt cũng đừng oán trời trách người, điều quan trọng là phải kịp thời thay đổi quan niệm, thói quen ,suy nghĩ,cố gắng làm thiện mà không hẹn hò dây dưa , đó không những là điều thiện rất lớn mà còn có khả năng thay đổi vận mệnh. Nếu chúng ta biết được ý nghĩa chói lọi của sanh mạng ở nơi tìm cầu chân lý hoàn hảo chí thiện ,tất cả những phẩm đức tu dưỡng tốt và các việc làm lợi ích cho người khác.Tu tập những phẫm chất tốt chẳng qua chỉ là khơi dậy bản tính thanh tịnh bất sanh bất diệt vốn có,cố gắng đoạn trừ và phòng ngừa những tập tánh không tốt ở đời này và đời trước.Một con người biết thay đổi vận mệnh là biết ngay lập tức ra sức thay đổi quan niệm , thói quen, suy nghĩ, chí thành làm thiện và chuyên tâm niệm Phật là trợ duyên lớn bổ sung cho việc làm này,cuối cùng có thể phá được trói buộc nghiệp cảm của kiếp trước và mở đầu một cuộc sống mới nhất cho tương lai, thành một người xây dựng vận mệnh đúng đắn nhất.Khiến cho vận mệnh vốn có được thay đổi,dần dần phước đức trí huệ tăng trưởng và đạt đến quả vị thánh hiền,cảnh giới hoàn hảo đạo đức chí thiện. Cách nhìn của Phật giáo đối quan niệm vận mệnh là ăn sâu và bao khắp “nhân quả báo ứng như bóng theo hình” “thiện hữu thiện báo, ác hữu ác báo” “muốn biết nhân đời trước,thì xem quả đời này, muốn biết qủa đời sau thi nhìn vào hành động tạo tác của hiện tại”nguyên tắc và ý nghĩa của bài kệ là suy đoán nhân quả vận mệnh của Phật giáo.Lý nhân duyên quả trình bày nhân quả vận mệnh của con người,nhưng từ lý và nguyên tắc của nhân duyên quả đi sâu vào quan sát và tìm hiểu,Phật giáo không phải là “định mệnh luận” Phật giáo chủ trương vận mệnh có thể cải đổi.Phương pháp cải thiện là lợi dụng những trợ duyên đang có mà cố gắng làm thiện,nếu biết rõ phương pháp tu trì,như lý như pháp mà làm,tinh cần ở việc làm lớn “chuyển duyên ,thiện duyên”thì tất cả vận mệnh của con người đều nằm trong tầm tay của chúng ta.Phàm người lập chí sáng tạo vận mệnh thì ngay trong đời này có thể thay đổi nghiệp quả dần dần,nhưng cái nhân tu trì sẽ mở đầu cuộc sống mới cho tương lai. Thậm chí “chuyển phàm thành thánh” “chuyển biến nghiệp quả” (chuyển nghèo thành giàu,chuyển tiện thành sang,chuyển yểu thành thọ) “phá mê khai ngộ” (chuyển ngu thành trí,chuyển độn căn thành lợi căn) tất cả những mong cầu của người tu học Phật dần dần sẽ thành tựu . Tất cả những quả báo gặp phải trong cuộc sống chúng ta dựa theo lý nhân quả của Phật pháp mà nhìn,tất cả quả báo là do “nhiệp nhân quá khứ” cộng thêm “nghiệp duyên hiện tại”sẽ thành “quả báo hiện tại”.Thông thường mà nói,nhân vốn có ở quá khứ (đã tạo thành sự thật rồi ) thì khó mà thay đổi nhưng quả báo của vị lai chúng ta có thể như lý như pháp mà cải đổi,mấu chốt của chuyển biến này là chuyển biến “duyên hiện tại” mà chuyển biến duyên hiện tại tức là thay đổi hai duyên nội ngoại ,cái gọi là hai duyên nội ngoại tức “nội Ý nghiệp”,”ngoại Thân Khẩu nghiệp”,nếu ba nghiệp nội ngoại thân khẩu ý đã được thay đổi thì quả báo hiện tại sẽ dần dần được thay đổi.Chúng ta đã hiểu rõ lý này ,nếu có thể như lý như pháp mà thực hành,thì tất cả quả báo vận mệnh nằm ở trong tay ta.Tiến bộ của người học Phật là xem xét phiền não ,tập khí của mình có giảm bớt hay không? Trí huệ có tăng trưởng hay không?xử lý sự việc có đúng đắn hay không?có cái nhìn xa trông rộng cho tương lai hay không? Đó tức là trí huệ và cũng là chổ quay về y theo đó tu hành sữa đổi cho chính mình về sau. Người học Phật muốn thay đổi vận mệnh,thì quan trọng nhất là lấy Tam huệ văn tư tu lại thay đổi quan niệm mà đi vào trung đạo thanh tịnh của tri kiến Phật,cho nên phẩm Phương Tiện thứ hai của kinh Pháp Hoa nói rằng “chư Phật Thế Tôn chỉ vì muốn chúng sanh khai ngộ tri kiến thanh tịnh của Phật mà hiện ra thế gian” thứ đến người học Phật lấy Tam vô lậu học Giới định huệ lại thay đổi thói quen,quyển thứ 9 Thành Duy Thức Luận nói: “nhị chướng chủng tử ,lập thô trọng danh” ý nói:phiền não và hai sở tri chướng từ vô thỉ đến nay là chủng tử huân tập đeo đuổi con người,nấp trong tám thức làm cho tâm ta cứng cỏi khó điều phục nên gọi là “thô trọng”.Lúc hai chủng tử này hiện hành sẽ sanh ra các phiền não tham,…che mờ tâm vương,chướng ngại trí tuệ bát nhã làm cho không sanh khởi.cho nên gọi là”nhị chướng”.Cái gọi là tập khí phiền não tức là hai chủng tử chướng này.Vì thế chúng ta học Phật muốn thay đổi vận mệnh nên lấy tu trì của Tam học lại đoạn trừ phiền não tập khí.Phật nghĩa là giác ,giác tức là lấy nội quán làm chủ “trở về lắng nghe tự tánh của chính mình,tự tánh là đạo vô thượng”cũng là “trở về quán sát tâm mình” vậy.Do vậy người học Phật muốn cải đổi nhân quả vận mệnh cũng cần nội quán tịnh niệm thay đổi tâm niệm bất thiện,trở về với tâm thanh tịnh vốn có. Ở trên đã nói “lấy Tam huệ thay đổi quan niệm” “lấy Tam học thay đổi thói quen” “lấy Nội quán tịnh niệm thay đổi suy nghĩ”, ba điền này cũng là công phu của “sữa lổi tu đức” “nhất tâm sám hối”.lấy tâm thành khẩn hành các thiện nghiệp làm trợ duyên.Thiện nghiệp tức là tâm niệm thanh tịnh làm tất cả những việc lợi ích chúng sanh. Đó không chỉ làm cho tâm Từ phát khởi (tức bồ đề tâm) mà còn tích lũy công đức vô lượng vô biên là nhu cầu tất yếu để thành Phật và tạo thành tinh thần đại nguyện “phấn đấu không ngừng”là yếu tố để thành Phật quả vậy .Cuối cùng lấy nhất tâm niệm phật làm thanh tịnh các tạp nhiễm,tiêu trừ tất cả những ác nghiệp chướng ngại của vô lượng kiếp trong tương lai,làm cho qủa lành sớm được thành thục,nhân quả nghiệp báo sẽ được thay đổi. Nói chung ,cố ý phá trừ ràng buộc nghiệp cảm của kiếp trước bắt đầu cuộc sống mới cho tương lai là người xây dựng đời sống chánh đáng..Sau khi hiểu được lý nhân duyên quả ,có thể “lấy Tam huệ thay đổi quan niệm”, “lấy Tam học thay đổi tập khí”, “lấy nội quán tịnh niệm thay đổi suy nghỉ”, “chí thành làm thiện “, “nhất tâm niệm Phật”…thay đổi nhân quả vận mệnh ,người học Phật nếu đúng như vậy mà làm dần dần sẽ tạo thành vận mệnh tốt. (Thích Tùng Từ biên soạn ) Như Nguyện dịch LI___U_PH__M_T____HU___N.doc
    1 like
  8. Link bị lỗi, lấy lại cái lá số phức tạp hộ bạn http://www.lyhocdongphuong.org.vn/apps/LaS...reen&size=2
    1 like
  9. Cô này dắt nhau qua Mỹ thì nguy tai, Số cô chọc trời khuấy nước trên đầu biết ai. may mà cô lập nghiệp ở nước ngoài nếu ở trong nước thì thực là khó nói...khó nói... Nhưng với chồng tốt hoặc học hành cao thì chớ mừng vội, chưa khẳng định được.
    1 like
  10. Theo tôi triệt không phải là không vong nhưng mức tác hạo của triệt rất mạnh tuy thời gian ngắn hơn tuần nhưng tác họa của triệt là mạnh hơn tuần rất nhiều ( nên khi theo dõi không thể không xem thường triệt). Triệt là chặt, chia nhỏ, ngăn ra thành nhỏ ...còn địa không địa kiếp là hai sao tối hung, tác họa của nó mạnh như chính tinh không thể lường nổi. cho dù 2 sao này ở vào vị trí đắc địa nhưng bản thân nó lúc nào cũng tiềm tàng một sự phá hoại ghê gớm, dù đắc địa có làm nên nhanh chóng nếu khi nó tác họa thì xuống giốc không phanh, thậm chí phải bỏ mạng thê thảm. Theo tôi lá số này đương số có thể lên như vũ bão chỉ một thời gian ngắn rồi sau đó chìm sâu, chung quy lại là cả cuộc đời khổ nhiều hơn là sướng mất nhiều hơn là được. Chú ý khi lưu hạn đến năm có không kiếp
    1 like
  11. Breakdance bé có thể học khi 4, 5 tuổi a Nòng Nọc à, ko cần chờ tới 6 tuổi đâu, càng bé càng dễ học chứ sao nhỉ? Tiểu Phương tính xem nốt cho hoàng tử nhà anh mà nay xem nhiều nên hơi mệt, luận ko ra. Thôi để từ từ a nhé letrinh cứ hỏi nhé. Tp sẽ từ từ giải quyết.
    1 like
  12. Mua 15,4 là đúng đáy mới rồi, còn bán 16 thì ăn non vì đỉnh kênh giá là 19,3 (20 lấy tròn). Vậy nó đang giao động trong kênh 15-20.Cảm ơn MJ phím hàng nhé, chíp chíp trong ngon thật. Hôm nào HTV vượt 20 với vol khủng thì ới nhé. Giật mình vì MJ chọn các mã cp đặt biệt đấy, :D :D :D
    1 like
  13. Có phải Happy học ở Handai? Lúc học đại học năm 2 thì đi Nhật? Qua Nhật học đại học và hiện giờ đang ở Master course?
    1 like
  14. Có ai giỏi TA dịch hộ tin này nhé. Xin cảm ơn. http://www.bloomberg.com/news/2010-12-20/v...-repayment.html
    1 like
  15. Quý cô tìm trên mạng cũng đầy sách nói về các điều mà quý cô muốn biết.Nếu ngại tìm thì có vài câu này tham khảo. - Thất sát hãm địa là Khắc chồng, khắc con, nhất là đóng ở vị trí của cô - Phúc đức coi như bỏ sau 2 năm nữa, vì hiện nay cô vẫn đang được hưởng phúc ở chiều hướng tốt. Đâu phải do Triệt, Tuần, cô phải cảm ơn 2 sao này mới đúng, nếu ko, chắc giờ này cô đang nhặt rác ở VN chứ ko lênh đênh ở Bển. Nhưng sau này thì có khả năng ấy lắm. 2013, cẩn thận kẻo lại nghiền tác phẩm Đời cô Lựu nhé. Tuổi Hợi gặp năm Dần đã xấu, gặp năm Hợi còn xấu hơn.
    1 like
  16. 11 là đỉnh trong kênh 9,2-11. Khi bứt phá kênh này lên 12 thì giá sẽ giao động tiếp trong kênh 12-1x, như vậy 12 sẽ là đáy trong kênh mới giá lên. Ngược lại giá xuống 9,0 thì 9,2 lại là đỉnh trong kênh mới giá xuống 9,2-x,y. :) :D :D
    1 like
  17. Thị trường chứng khoán SSI: ‘VN-Index có thể tăng khoảng 20-25% trong năm 2011’ Thứ Hai, 20/12/2010, 22:26 Đó là dự báo trong kịch bản chính được Công ty Cổ phần Chứng khoán Sài Gòn (SSI) đưa ra trong “Báo cáo chiến lược” ra ngày 20/12. SSI dự báo, lợi nhuận của các công ty niêm yết (trên sàn HSX) sẽ tăng trung bình khoảng 10-20%. Ảnh: Đức Long Trong bản báo cáo chiến lược, SSI đã đưa ra kịch bản có xác suất cao nhất về khả năng thị trường chứng khoán sẽ “Tăng trưởng ổn định”. Trong kịch bản được SSI cho là có xác suất cao nhất này, Công ty đưa ra những giả định cơ bản chính dựa trên kế hoạch các chỉ tiêu kinh tế 2011 đã được Quốc hội thông qua. Thứ nhất, Việt Nam sẽ có khả năng đạt tăng trưởng GDP khoảng 7% vào năm 2011, với sự hỗ trợ bởi sự tăng trưởng ổn định của các nền kinh tế thế giới và châu Á. Xuất khẩu sẽ tiếp tục tăng trưởng ở mức độ tương tự như năm 2010 và thâm hụt thương mại sẽ ổn định. Tiêu dùng tiếp tục tăng trưởng tốt và đầu tư sẽ dần quay trở lại. Thứ hai, CPI nhiều khả năng xuống lại quanh mức 7% đến 9%, nếu biến động của thành phần lương thực, thực phẩm trong CPI sẽ ổn định lại sau khi đã tăng mạnh trong năm 2010. Bên cạnh đó, SSI cũng đưa ra 3 giả định sau: Một là, trong năm 2011, Ngân hàng Nhà nước sẽ có thể tiếp tục giảm giá đồng Việt Nam khoảng 5% cho cả năm. Tỷ giá VND/USD niêm yiết sẽ có khả năng ở mức 20.500 cùng với sự phục hồi của đồng USD. Ngân hàng Nhà nước sẽ tiếp tục thành công trong việc tìm ra cách thức thu hẹp chênh lệch giữa tỷ giá niêm yết và tỷ giá chợ đen. Hai là, Vinashin đang đàm phán về việc thanh toán các khoản vay với chủ nợ và có khả năng đi tới một phương án thu xếp giữa hai bên. Ba là, lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước công bố sẽ duy trì ở mức 9%, tuy nhiên hệ thống liên ngân hàng vẫn sẽ còn có nhiều thách thức, vì nhiều ngân hàng nhỏ vẫn sẽ gặp khó khăn trong việc đáp ứng yêu cầu về mức vốn pháp định. Căn cứ trên những giả định đó, SSI dự báo P/E forward sẽ tăng nhẹ lên khoảng 11x trong nửa sau năm 2011 (từ mức hiện tại khoảng 10x) với giả định mặt bằng lãi suất thấp hơn và CPI ổn định hơn. Bên cạnh đó, lợi nhuận của các công ty niêm yết (trên sàn HSX) sẽ tăng trung bình khoảng 10-20%. Và điểm đáng chú ý nhất là SSI đưa ra dự báo “VN-Index sẽ tiếp tục biến động nhưng sẽ hồi phục và tăng khoảng 20-25% trong năm 2011”. Tuy vậy, SSI cho biết, có một số rủi ro có thể khiến kịch bản chính nêu trên sẽ không xảy ra, bao gồm các rủi ro như sau: - Kinh tế thế giới và Châu Á có thể sẽ quay trở lại cuộc suy thoái kép, trong trường hợp ngân hàng trung ương Trung Quốc và Mỹ quyết định thắt chặt chính sách tiền tệ để kiếm soát lạm phán và hạn chế đầu cơ. Nếu những sự kiện trên xảy ra, kinh tế thế giới yếu kém có thể sẽ ảnh hưởng lớn đến hàng xuất khẩu từ Việt Nam và thâm hụt thương mại của Việt Nam có thể sẽ tiếp tục tăng. - Trường hợp thâm hụt thương mại tăng khiến cán cân thương mại bị ảnh hưởng và việc nhà đầu tư nước ngoài quan tâm ít hơn đến Việt Nam sẽ buộc NHNN giám giá đồng VND nhiều hơn 5%. - Điều kiện khí hậu khó khăn ở những nước nông nghiệp lớn dẫn đến tăng giá lương thực thực phẩm của Việt Nam, khiến CPI lên mức 10-11%. Để kiểm soát lạm phát, Ngân hàng Nhà nước sẽ thắt chặt tiền tệ bằng cách duy trì mức lãi suất cao và hạn chế tăng trưởng tín dụng. Tỷ lệ nợ xấu của một số ngân hàng có thể sẽ tăng. - Chính phủ và các chủ nợ của Vinashin có thể sẽ không thống nhất được cách giải quyết thoả đáng cho khoản nợ của Vinashin khi các khoản nợ này đáo hạn. Đặc biệt, các nhà đầu tư nước ngoài sẽ lo ngại về khả năng vỡ nợ của các công ty nhà nước, và việc này có thể sẽ có ảnh hường xấu đến niềm tin thị trường. “Trong trường hợp những sự kiện trên xảy ra, thị trường chứng khoán Việt Nam có thể sẽ tiếp tục giảm”, SSI cho biết. Về quan điểm đầu tư ngành năm 2011, SSI khuyến nghị giảm tỷ trọng nắm giữ cổ phiếu bất động sản, xi măng, điện và dược phẩm. Tuy nhiên, SSI khuyến nghị tăng tỷ trọng nắm giữ cổ phiếu thực phẩm, thủy sản, vận tải hàng rời, nhựa, dầu khí và than. Tài liệu đính kèm: SSI_Báo cáo chiến lược NDHMoney
    1 like
  18. Tiếp tục gia đình Nòng Nọc. Hình như từ sáng tới giờ TP làm duy nhất 1 việc, đó là vào lyhocdongphuong xem tên. Phan Quốc Gia Hân Tên này lành nhiều dữ ít, thiên vận hung, hay bị bệnh tật tuy ko nặng nhưng lâu khỏi và càng lớn càng đỡ, chủ yếu đề phòng đường hô hấp. Nhân vận hung, có trắc trở, vất vả, hay bị cô độc Địa vận cát, ngoại vận cát và tổng vận cát. Về con người thì tương đối thông minh, ham học, khả năng lĩnh hội nhanh, nhưng hơi nóng vội, hấp tấp mà kết quả đôi khi ko được cả 100%, chỉ đạt tới 90% thôi. Có quyền có uy đấy, là nam giới sẽ tốt hơn nữ, vì nếu là nữ thì dễ ko giữ được ngàn vàng trước khi về nhà chồng - cái này thì ko hung nhỉ, vì XH giờ cũng tương đối cởi mở rồi. Có sự quan sát và phán xét tinh vi đấy, biết thiện biết ác, và cũng có khiếu về cầm kỳ thi họa, a Nòng Nọc thử cho bé đi học 1 số môn nhạc họa xem sao. Có số làm lãnh đạo đấy, nhưng phải tu đức thêm nhé, sợ lại hơi chuyên quyền dẫn tới trục trặc trong hạnh phúc gia đình. Thôi, nói nhiều quá rồi a Nòng Nọc nhỉ Thân mến
    1 like
  19. 1 like
  20. Nguyễn Thị Hồng Bích Ng­ười mang vận số này có thiên cách, nhân cách, địa cách và ngoại cách đều cát. Là người có khả năng nhưng không thực sự có tài lắm, hình dáng cũng ưa nhìn, ăn nói khéo léo nhưng nói hơi nhiều thì phải. Tính tình đôi khi còn cương trực nên dễ làm mếch lòng người khác. Mọi việc diễn ra người có vận số này có nổi có chìm, có trắc trở lại thêm tâm lý hay chán nản nên việc nếu có thành công cũng tương đối vất vả. Nếu là phụ nữ, dễ cô đơn. Có 1 điều rất tốt là người này luôn được người lớn tuổi giúp đỡ và ủng hộ. Nên thân thiết và hòa nhã hơn với người ít tuổi, tránh bảo thủ khăng khăng áp đặt thì sẽ được nhân hòa. Nên yêu trẻ nhỏ, chăm sóc người già và năng làm từ thiện, sẽ giải được nghiệp nhé. Và nhớ mọi việc khi làm tránh nóng tính quá, hoặc tránh công kích người khác, ... sẽ ko giải trừ được họa hại Thân mến
    1 like
  21. Giá bạn định bán ra là giá Breakout, giá các nhà TA mua vào để ăn "Lồi mồm" đó..... chiều bàn tiếp.
    1 like
  22. 1 like
  23. 1 like
  24. 1 like
  25. cám ơn bác haithienha về những kiến giải và kinh nghiệm của mình! riêng bản thân cháu thì coi lá số vô chính diệu gặp không này không nhiều nên cháu đã bỏ thòng câu bên dưới "đang còn nghiệm chứng!"
    1 like
  26. 2016, 2017 mạng hỏa là theo Lục Thập Hoa Giáp của TQ, còn ở đây chúng tôi xem theo Lạc Thư Hoa Giáp của người Việt. Qua kiểm nghiệm thì Lạc Thư chính xác hơn Lục Thập và cũng trùng với tử vi Ấn Độ! Về nguyên tắc cha mẹ cùng tuổi thì sinh con năm nào cũng được, miễn là năm hợp sinh con trai, năm kỵ sinh con gái. Còn chuyện trai gái thì do trời!!! Sinh năm 2020, 2021 thì mạng con Thổ sinh xuất cho cha và mẹ Kim, 1 sinh cho 2 thì đứa bé này còi cọc lắm! Vả lại ngoài chuyện mạng còn thiên can địa chi. Năm 2020 Canh phá Giáp, 2021 Tân âm Kim phá giáp Dương mộc, loạn đấy!
    1 like
  27. 1 like
  28. TƯ LIỆU THAM KHẢO Tìm lại cội nguồn tổ tiên, cội nguồn văn hoá Hà Văn Thùy Trong hoàn cảnh toàn cầu hóa và hội nhập ngày nay, trước nguy cơ bị xâm lăng văn hóa, thấy trên các phương tiện truyền thông đại chúng và cả những chỉ thị nghị quyết nói nhiều đến cụm từ bảo vệ bản sắc văn hóa dân tộc. Nhưng không hiểu sao có cảm tưởng là, người ta càng nói nhiều thì sự việc càng rối tung rối mù lên, đến nỗi chẳng ai hiểu văn hóa dân tộc là gì! Từ đó mà biết bao việc làm tùy tiện lộn xộn, cái đáng bỏ thì giữ, cái đáng giữ lại bỏ... ruột bỏ ra da ôm lấy... cười ra nước mắt! Thiết tưởng sở dĩ có chuyện trống đánh xuôi kèn thổi ngược như vậy chính bởi vì chưa có được sự thống nhất trong hai nhận thức cơ bản: 1/Dân tộc Việt Nam là ai? 2/ Văn hóa Việt Nam là gì? Không phải là nhà nghiên cứu lịch sử nhưng là người có trách nhiệm với văn hóa dân tộc, tôi xin thử bàn về hai vấn đề trọng đại này. Rất mong quý vị cao minh chỉ giáo. Cội nguồn tổ tiên Xin không nói tới cái thời bọn học trò thò lò mũi tụi tôi học trong sách sử ký: Tổ tiên ta là người Gô-loa vì nó quá khôi hài. Chỉ xin nhắc lại quan điểm của Trường Viễn Ðông bác cổ (E.F.E.O) phổ biến vào những năm 20 thế kỷ trước được công bố trong Tập san của trường (B.E.F.E.O) mà tiêu biểu là của học giả Pháp, ông H. Mansuy: “Người Hòa Bình có mặt trên đất nước Việt Nam vào khoảng từ 5000 đến 3000 năm TCN... coi như chưa biết gì về nông nghiệp và chăn nuôi, không biết gì về gốm...” “Ðá mài đã có vào thời Bắc Sơn, nhưng ít được sử dụng.” Và: “Nghệ thuật đá mài có vai trò rất tiêu biểu cho văn hóa Austro Asiatique, được dùng nhiều ở miền Trung Ðông Dương. Người ta đã cho là những rìu mài này được nhập cảng từ Tây Tạng, Giang Nam bên Tàu, vì chúng cũng có ở Hoa Nam, Ấn Ðộ, Nhật Bản, Ðại Hàn...” Những dụng cụ đá mài hình dĩa là của văn hóa Úc từ Tàu truyền xuống...” Cách nhìn ấy của những bậc thầy khai hóa đã dẫn tới nhận định sau: “Văn minh Việt Nam hoàn toàn từ lưu vực sông Dương Tử di chuyển xuống vào thế kỷ thứ IV TCN. Dân mới đến định cư tại Bắc Việt hiện thời đã mang theo một thứ văn hóa lai Tàu để rồi dần dần trở nên mô thức bản xứ.(!)” [1] Ý tưởng trên lại được củng cố bằng giả thuyết khoa học từng thống trị cho đến tận hôm nay: “Khoảng 500.000 năm trước, loài người từ châu Phi thiên di tới vùng Trung Ðông. Từ đây một nhánh rẽ hướng Tây thành người da trắng châu Âu. Nhánh tới vùng cao nguyên Thiên Sơn thành người da vàng châu Á. Nhánh này chia làm hai: một bộ phận vượt lên phía Bắc sông Hoàng Hà thành tộc người Mông Cổ. Một bộ phận rẽ sang Ðông chiếm lĩnh phần đất từ sông Hoàng Hà tới sông Dương Tử thành người Việt. Người Mông Cổ du mục vượt sông Hoàng chiếm đất và xua đuổi người Việt nông nghiệp chạy xuống phía Nam. Trong quá trình hàng vạn năm như thế, người Việt lai với người Hán và tới thế kỷ thứ IV TCN thì bộ phận này tràn vào vùng đất ngày nay có tên là Việt Nam!” [2] Những điều giáo huấn như vậy của “người thầy khai hóa” đã dần dần ăn sâu vào tiềm thức của lớp trí thức khoa bảng Việt và rồi đến lượt mình, họ truyền giảng cho người dân những tín điều như thế! Kim Ðịnh là một thí dụ. Ông là người có kiến thức uyên bác cùng những suy nghĩ táo bạo mới mẻ, từng là thần tượng của học sinh sinh viên miền Nam những năm 70 thế kỷ trước. Nhưng trong cuốn Việt lý tố nguyên ông viết: “Văn minh cổ thạch ở Hòa Bình: gồm những đồ đá có đục lỗ (một điểm chưa hề thấy nơi khác) thuộc giống người Mêlanê cùng giống người Mã Lai sống vào lối 12.000-10.000 Tr.dl. Ðây là thời đang chuyển mình từ cựu thạch (đồ đá rất thô) sang tân thạch...” [3] “Cách đây lối dăm mười ngàn năm có một nhóm dân từ Tây Bắc tiến dần xuống phía Ðông Nam và lan tỏa khắp nước Tàu. Trong đoàn người mênh mông đó có từng người chỗ này, từng gia tộc chỗ kia ở những thời khác nhau, vì những lý do rất phức tạp (loạn lạc đói kém) tiến mãi xuống miền Cổ Việt và trải qua thời gian dài từng nhiều ngàn năm đã lập ra một nước mà ngày nay ta gọi là Việt Nam.” [4] Quan niệm sai lầm đó đã bao trùm khoa học lịch sử nước ta suốt thế kỷ XX. Nguyên nhân của sai lầm này chủ yếu do người trí thức Việt quá tin “sách dạy” của người thầy đầu tiên nên không chịu cập nhật những kiến thức mới. Năm 1932, tức là 40 năm trước khi học giả Kim Ðịnh viết những dòng trên thì khảo cổ học thế giới đã đánh giá lại về Văn hóa Hòa Bình: tuổi của Hòa Bình không phải 10-12.000 năm mà lên đến 16.000 năm TCN và là trung tâm nông nghiệp và công nghiệp đá sớm nhất thế giới! Phát hiện khảo cổ này có ý nghĩa rất lớn về lý luận và thực tiễn. Nó đặt ra hai câu hỏi: * Con người tiền sử đã đến Việt Nam (Sơn Vi 30.000 năm TCN và Hòa Bình 16.000 năm TCN) bằng con đường nào? * Con người hiện đại đang sống trên đất nước Việt Nam có quan hệ gì với chủ nhân Văn hóa Sơn Vi, Hòa Bình? Theo Gs Nguyễn Ðình Khoa: “Thời đại Ðá mới, cư dân trên lãnh thổ Việt Nam thuộc hai đại chủng Australoid và Mongoloid cùng với các loại hình hỗn chủng giữa chúng cộng cư với nhau, trong đó Indonesien và Melanesien là hai thành phần chủ yếu... Sang thời đại Ðồng- Sắt, người Mongoloid đã là thành phần chủ thể trong khối cư dân Việt Nam, người Australoid mất dần đi trên đất nước này, hoặc do thiên cư hoặc do đồng hóa.” [5] Nhận định này có hàm ý cho rằng: vào thời đại Ðồng-Sắt, một bộ phận lớn người Mongoloid từ phía Bắc tràn xuống khiến cho yếu tố Mongoloid chiếm ưu thế trong cộng đồng dân cư Việt Nam. Và vì thế quan hệ giữa người Việt hiện đại với chủ nhân Văn hóa Hòa Bình chưa được xác quyết! Như vậy là cho đến tận hôm nay chúng ta vẫn chưa trả lời được hai câu hỏi cơ bản NGƯỜI VIỆT NAM LÀ AI? TỪ ÐÂU ÐẾN?(!) Không biết cội nguồn xuất xứ làm sao biết gốc gác tổ tiên, làm sao biết bản sắc văn hóa? Dường như nghìn năm qua cả dân tộc mò mẫm trong đêm tối của nghi ngờ mặc cảm về cội nguồn?! Những năm gần đây, nhờ phát triển của công nghệ gene nên bài toán tìm về cội nguồn của một số tộc người được giải theo phương pháp di truyền học. Có lẽ hăng hái hơn cả trong việc này là người Hán. Nhiều trường đại học lớn ở Bắc Kinh, Thượng Hải kết hợp với đồng nghiệp người Hán của họ tại những đại học danh tiếng ở Mỹ làm việc trong chương trình nghiên cứu lớn “Chinese Human Genetic Diversity Project” (Dự án tính đa dạng di truyền của người Hán). Dự án này đưa lại những kết quả khả quan. Năm 1998, Gs Chu và đồng nghiệp thuộc Ðại học Texas phân tích từ 15-30 mẫu micriosatellites (mtDNA) để thử nghiệm sự khác biệt di truyền trong 24 nhóm người Hán, 4 nhóm Ðông Nam Á, 2 nhóm thổ dân Mỹ, 1 nhóm thổ dân Úc, 1 nhóm thuộc New Guinea và 4 nhóm da trắng Caucase. Kết quả phân tích cho thấy: Các sắc dân Ðông Nam Á tập hợp thành một nhóm di truyền. Nhóm dân có đặc tính di truyền gần gũi với dân Ðông Nam Á là thổ dân Mỹ sau đó là người Úc và New Guinea. Ðặc điểm di truyền của người Hán miền Bắc không giống người Hán phương Nam. Từ đó Gs Chu và đồng nghiệp đưa ra mô hình: Các dân tộc Bắc Á được tiến hóa từ Ðông Nam Á và kết luận: Tổ tiên các nhóm dân Ðông Á ngày nay có nguồn gốc từ Ðông Nam Á. Kết luận này cũng cho rằng, tổ tiên của những người nói tiếng Altaic ở phía Bắc Trung Quốc cũng từ Ðông Nam Á lên chứ không phải từ ngả Trung Á sang. [6] Tuy nhiên, nghiên cứu của Gs Chu có điểm yếu là chỉ dựa vào mtDNA, một nhân tố di truyền rất mẫn cảm nên không bền vững, dễ bị đột biến có thể dẫn đến kết quả sai lạc. Khắc phục nhược điểm trên, một nhóm nghiên cứu khác dựa trên nhiễm sắc thể Y (Y- chromosome) để khảo sát nhóm người Hán ở 22 tỉnh Trung Quốc, 3 nhóm dân Ðông Bắc Á, 5 nhóm Ðông Nam Á (Campuchia, Thái Lan, Mã Lai, Batak, Java) và một số nhóm ngoài châu Á. Kết quả nghiên cứu ghi nhận: mức độ biến thiên đa hình thái (polymorphic variation) trong nhóm Ðông Nam Á cao hơn Ðông Bắc Á. Phân tích di truyền quần thể (population genetics) đã đưa đến kết luận: Con người di cư từ châu Phi sang Ðông Nam Á khoảng 60.000 năm trước và sau đó di chuyển lên Bắc Á, Siberia. Các nhóm dân Polynesian (Ða đảo) cũng có nguồn gốc từ Ðông Nam Á. [7] Một nghiên cứu khác dùng 5 gene trong nhiễm sắc thể Y để khảo sát 2 nhóm dân Bắc Á (Trung Quốc, Nhật, Hàn Quốc, Mông Cổ) và Nam Á (Indonesia, Philippine, Thái Lan, Việt Nam) cho thấy người Việt gần với nhóm dân Bắc Á (nhất là Hàn quốc) hơn là các nhóm Nam Á. [8] Trong một nghiên cứu dùng mtDNA, Ballinger cho thấy chỉ số đa dạng sinh học (F-value) ở người Việt cao nhất trong các sắc dân Ðông Nam Á. Từ đây ông đưa ra kết luận: Người châu Á có nguồn gốc từ dân Mông Cổ phương Nam. [9] Nhà khoa học người Mỹ gốc Hán Lý Huỳnh (Li Jin) của Trường Ðại học Tổng hợp Texas tại thành phố Houston qua công trình khảo sát nhân tố microsatellites lặp lại liên tục trong chuỗi xoắn DNA của 43 nhóm người Hán phân bố khắp châu Á đã đưa ra kết luận:Khoảng 100.000 năm trước, Homo Sapiens (con người khôn ngoan) từ châu Phi thiên di tới Trung Ðông. Từ Trung Ðông một nhóm rẽ sang phía Ðông đi qua Pakistan, Ấn Ðộ rồi men theo bờ biển Nam Á. Nhóm người này đến Ðông Nam Á vào khoảng 60 đến 70.000 năm trước. Họ nghỉ ngơi ở đây khoảng 10.000 năm rồi một bộ phận đi tiếp lên phía Bắc tới Trung Hoa. Từ đây một bộ phận lên cao hơn nữa tới Siberia, băng qua eo biển Bering tới Alasca vào châu Mỹ, thành người thổ dân châu Mỹ. [10] 6. Hai công trình của Peter Savolainen và Jenifer A. Leonard cùng đồng nghiệp phân tích xương chó cổ tìm được ở Mexico, Perou, Bolivia... cho thấy rằng các loài chó được đưa vào châu Mỹ trước thời Columbus đều bắt đầu từ giống chó Âu-Á. Tổ tiên chó nhà là chó sói Ðông Nam Á bởi vì phân tích DNA cho thấy chỉ số đa dạng di truyền trong các loài chó Ðông Nam Á cao hơn nhiều so với loài chó ở châu Âu. Ðó có thể là từ con chó rừng duy nhất được thuần hóa cách nay 15.000 năm. [11] Kết luận này càng khẳng định ý kiến từ lâu của C. Darwin trong cuốn Nguồn gốc các loài (Origin of species): Tất cả các giống gà nuôi trên thế giới đều có nguồn gốc từ gà rừng Ðông Nam Á. Trong cuốn sách “Địa đàng ở phương Ðông” (Eden in the East) bác sĩ Stephen Oppenheimer từ những bằng chứng thuyết phục, cho rằng 8000 năm trước, do hồng thủy, cư dân sống ở Ðông Nam Á di cư lên phía trên tạo nên đồ đá mới ở Trung Quốc. [12] Tổng hợp những công trình nghiên cứu trên, đưa ta đến nhận định sau: Khoảng 100.000 trước, con người khôn ngoan Homo Sapiens từ châu Phi thiên di tới Trung Ðông. Từ đây một nhánh rẽ về hướng Ðông qua Pakistan, Ấn Ðộ rồi men theo bờ biển Nam Á đến lục địa Ðông Nam Á vào khoảng 70-60.000 năm. Nghỉ lại ở đây khoảng 10.000 năm sau đó hậu duệ của họ đi lên phía Bắc, tới Trung Quốc, đến Siberia rồi vượt eo Bering đặt chân sang châu Mỹ khoảng 30.000 năm trước. Cũng từ Ðông Nam Á, một nhánh đến Úc 50.000 năm trước và đến New Guinea 40.000 năm trước. Hiện tượng người Việt gần với dân Bắc Á, nhất là Hàn Quốc (nghiên cứu 3) là lẽ tự nhiên vì rằng cộng đồng Bách Việt sau khi khai phá lục địa Trung Hoa đã tràn ra biển đến Nhật, Hàn Quốc. Người Nhật người Hàn hiện đại là hậu duệ của người U Việt trong dòng Bách Việt. Với người Hàn còn có yếu tố lịch sử nữa: vào cuối thời Lý (thế kỷ XIII) Lý Long Tường dẫn một đoàn di dân hoàng tộc khoảng 500 người sang tỵ nạn ở Hàn Quốc. Ðoàn di dân này bổ sung nguồn gene Việt vào dòng máu Hàn. Kết luận Người Châu Á có nguồn gốc người Mông Cổ phía Nam của Ballinger là có cơ sở: Người tiền sử đến Ðông Nam Á gồm hai đại chủng: Monggoloid và Austroloid. Có thể một nhóm người Mongoloid đi lên phía Bắc theo con đường Ba Thục rồi định cư ở Tây Bắc Trung Quốc thành chủng Mongoloid phương Bắc. Người Hán là một nhánh của chủng tộc Mông Cổ này. Có thể muộn hơn ít nhiều, người Việt thuộc chủng Indonesien – sản phẩm của hòa huyết giữa hai đại chủng Mongoloid và Australoid và là chủ nhân của Văn hóa Sơn Vi, Hòa Bình đi lên khai phá lục địa Trung Hoa. Khoảng 2500 năm TCN người Hán tràn xuống xâm lấn, dồn người Bách Việt trở về Nam. Trong khoảng thời gian nhiều nghìn năm này có sự hòa huyết của người Hán dòng Mông Cổ phía Bắc với người Việt và các sắc dân Ðông Nam Á khác nên yếu tố Mongoloid trong dân cư phía Nam tăng lên. Khi người Việt trở lại Việt Nam, yếu tố Mongoloid trở nên ưu thế, yếu tố Australoid bị thu hẹp. Còn ở mạn nam sông Trường Giang do người Bách Việt đông mà người Hán Mông phía Bắc ít nên trong cuộc hòa huyết giữa hai tộc người, người Hán phía Bắc bị người Indonesien đồng hóa trở thành sắc dân Mông Cổ phương Nam, trong máu có ít nhiều yếu tố Australoid. Ðó là lý do làm cho gene của người Hán phương Bắc không giống với người Hán phương Nam. kết luận của nghiên cứu số 2: biến thiên đa hình thái (polymorphic variation) của người Nam Á cao hơn Bắc Á và nghiên cứu số 4: Chỉ số đa dạng sinh học (F-value) của người Việt cao nhất trong nhóm dân Ðông Nam Á . Hai kết luận này cho thấy người Việt là cư dân lâu đời nhất ở Ðông Nam Á cũng có nghĩa là lâu đời nhất ở Ðông Á. Nghiên cứu số 6 nói về chó cũng là nói về người bởi những vật nuôi đó không thể tự mình làm những hành trình vạn dặm như vậy. Chúng nằm trong tài sản của con người trong bước thiên di. Ðiều này cũng thêm bằng chứng cho thấy người Ðông Nam Á đã tới châu Mỹ ít nhất là15.000 năm trước. * Bằng chứng Di truyền học là đáng tin cậy, giúp cho chúng ta soi sáng những thành quả đã có về tiền sử Ðông Nam Á. Nhưng để có bức tranh toàn cảnh của thời kỳ này cũng cần sự tưởng tượng thông qua những giả thuyết. S. Oppenheimer trong cuốn Địa đàng ở phương Ðông cho rằng, 60-70.000 năm trước, khi người tiền sử đặt chân tới Ðông Nam Á thì lúc này đang trong thời kỳ biển thoái. Mực nước biển thấp hơn hiện nay đến 130 m. Người ta có thể đi bộ tới châu Úc và những hòn đảo ngoài khơi. Ðất liền Việt Nam kéo tới tận đảo Hải Nam. Ông gọi vùng đất ven biển Bắc Bộ cùng đồng bằng sông Hồng là Lục địa Nanhailand. Người tiền sử đã quần tụ ở lục địa này để đánh cá, hái lượm, săn bắt, chế tác gốm. Do khí hậu nhiệt đới nóng và ẩm, cây cối cũng như động vật sinh sản nhanh nên nguồn thức ăn dồi dào. Con người dễ dàng thuần hóa thực, động vật và rất sớm sáng tạo nền văn minh nông nghiệp. Khoảng 30.000 năm trước, từ đây có một bộ phận tiến vào vùng trung du phía Tây trở thành chủ nhân Văn hóa Sơn Vi ở Sơ kỳ đồ đá mới. Từ 18.000 năm trước, nước biển bắt đầu dâng, mỗi năm 1 cm. Dân cư Nanhailand buộc phải di chuyển lên vùng đất cao phía Tây, làm nên Văn hóa Hòa Bình ở thời kỳ Ðồ đá giữa có tuổi từ 18000 đến 7000 năm. Khoảng 8000 năm TCN, do Ðại hồng thủy, nước dâng tới tận Việt Trì, Lục địa Nanhailand bị nhấn chìm, tạo nên đợt di cư lớn của người Việt cổ lên vùng phía Tây và vùng Nam sông Dương Tử. Nanhailand có thể là trung tâm phát triển nông nghiệp và đồ gốm sớm nhất thế giới. Nhưng tiếc rằng khi bị nhấn chìm, lục địa này không để lại dấu tích gì mà chỉ còn Sơn Vi, Hòa Bình vừa muộn hơn vừa không phải là điển hình trung tâm. Chính vì vậy tại Hòa Bình thiếu những bằng chứng khảo cổ cho thấy nền nông nghiệp phát triển sớm như nó phải có là gốm cổ và hạt thóc. Một giả thuyết khác có thể dọi chút ít ánh sáng vào tiền sử Ðông Nam Á là nghiên cứu của Buckminster Fuller, một nhà địa lý kiêm toán học. Ông cho rằng, có thể tìm ra nguồn gốc các nền văn minh căn cứ vào tỷ lệ thuận giữa trình độ văn hóa, di dân và mật độ nhân số. Từ lý thuyết đó, ông lập bản đồ Dynaxion world Maps ( bản đồ động thái thế giới). Từ bản đồ của mình, B. Fuller kết luận: duyên hải Ðông và Ðông Nam Á chỉ chiếm 5% diện tích thế giới nhưng có tới 54% nhân loại đang sống. Từ tính toán của ông, người ta suy ra, vào thiên niên kỷ IV-III TCN, người Việt có thể chiếm 15-20% dân số thế giới. [13] Cố nhiên những trình bày trên chỉ là giả thuyết. Nhưng ít nhiều nó cũng cho ta cái nhìn bao quát hơn về tiền sử vùng đất này. Sau khi ngắm bức tranh toàn cảnh mang tính mơ mộng, ta trở lại với thực tại khoa học. Trong những nền văn hóa từng có mặt trên đất Việt Nam, Văn hóa Hòa Bình có vị trí đặc biệt, được khoa học khảo cổ thế giới xác nhận là trung tâm nông nghiệp và công nghiệp đá cổ nhất thế giới. Trước đây thế giới cho rằng trung tâm nông nghiệp cổ nhất là ở Lưỡng Hà có tuổi C14 là 7000 năm. Nhưng khi phát hiện ra 10.000 năm tuổi của động thực vật được thuần dưỡng tại Hòa Bình thì thế giới chấn động và tâm phục khẩu phục thừa nhận vai trò mở đầu của Văn hóa Hòa Bình. Năm 1932, Hội nghị Khảo cổ học quốc tế về tiền sử Viễn Ðông xác nhận: “Văn hóa Hòa Bình là trung tâm phát minh nông nghiệp và sản xuất nông nghiệp cùng chăn nuôi gia súc đầu tiên trên thế giới. Trung tâm nông nghiệp Hòa Bình có trước vùng Lưỡng Hà 3000 năm.” [14] Một phẩm chất nổi trội của Văn hóa Hòa Bình là kỹ thuật chế tác đá cuội. Ðá cuội là loại đá cực rắn, nên việc ghè mài chúng rất khó khăn nhưng lại cần thiết cho việc chế tạo những dụng cụ khác như cầy, cuốc, thuổng... bằng đá, một thứ “máy cái” như thường nói sau này. Người Hòa Bình là cư dân dẫn đầu thế giới phát minh ra kỹ thuật này và sản phẩm của Hòa Bình được xuất khẩu đi nhiều nơi. Hòa Bình còn là nơi sớm nhất trên thế giới biết thuần dưỡng cây trồng và vật nuôi. Từ đây, lần đầu tiên trên thế giới cây lúa nước và khoai sọ ra đời. Học giả Hoa Kỳ W.G. Solheim II, Jorhman, Trương Quang Trực (Trung Quốc) và học giả Nga N. Vavilow thừa nhận: “Ðông Nam Á mà chủ đạo là Việt Nam đã có một nền văn hóa tiền sử phát triển rất sớm, tiên tiến và nhanh chóng, sáng tạo và sống động chưa từng thấy ở nơi nào trên thế giới.” [15] Học giả Hoa Kỳ C. Sawer viết trong cuốn Ðồng quê: “Ðúng là nông nghiệp đã tiến triển qua hai giai đoạn mà giai đoạn đầu là Văn hóa Hòa Bình. Lúa nước đã được trồng cùng lúc với khoai sọ.” [16] Dường như thấy chưa đủ, ông viết tiếp trong cuốn Cội nguồn nông nghiệp và sự phát tán: Tôi đã chứng minh Ðông Nam Á là cái nôi của nền nông nghiệp cổ nhất. Và tôi cũng chứng minh rằng văn hóa nông nghiệp có nguồn gốc gắn liền với đánh cá bằng lưới ở xứ này. Tôi cũng chứng minh rằng những động vật gia súc xưa nhất bắt nguồn từ Ðông Nam Á, và đây là trung tâm quan trọng của thế giới về kỹ thuật trồng trọt và thuần dưỡng cây trồng bằng cách tái sinh sản thực vật.” [17] Và đây là ý kiến của ông W. G. Solheim II viết từ năm 1967: “Tôi cho rằng khi chúng ta nghiên cứu lại nhiều cứ liệu ở lục địa Ðông Nam Á, chúng ta hoàn toàn có thể phát hiện ra rằng việc thuần dưỡng cây trồng đầu tiên trên thế giới đã được dân cư Hòa Bình (Việt Nam) thực hiện trong khoảng 10.000 năm TCN...” “Rằng Văn hóa Hòa Bình là văn hóa bản địa không hề chịu ảnh hưởng của bên ngoài, đưa tới Văn hóa Bắc Sơn.” "Rằng miền Bắc và miền Trung lục địa Ðông Nam Á có những nền văn hóa tịến bộ mà trong đó đã có sự phát triển của dụng cụ đá mài nhẵn đầu tiên của châu Á, nếu không nói là đầu tiên của thế giới và gốm đã được phát minh...” “Rằng không chỉ là sự thuần hóa thực vật đầu tiên như ông Sawer đã gợi ý và chứng minh mà thôi, mà còn đi xa hơn, nơi đây đã cung cấp tư tưởng về nông nghiệp cho phương Tây. Và sau này một số cây đã được truyền đến Ấn Ðộ và châu Phi. Và Ðông Nam Á còn tiếp tục là một khu vực tiên tiến ở Viễn Ðông cho đến khi Trung Quốc thay thế xung lực này vào nửa đầu thiên niên kỷ thứ 2 TCN, tức khoảng 1500 năm TCN.” [18] Bốn năm sau, tháng 3/1971 nhà khoa học này từ những khảo sát ở Thái Lan lại viết trong tạp chí National Geographic dưới nhan đề Ánh sáng mới dọi vào quá khứ bị lãng quên: “Tôi nghĩ rằng những đồ đá sắc cạnh có sớm nhất tìm thấy ở miền Bắc châu Úc 20.000 năm TCN có nguồn gốc thuộc Hòa Bình.” “Thuyết cho rằng tiền sử Ðông Nam Á đã di chuyển từ phương Bắc xuống, mang theo những tiến triển quan trọng về nghệ thuật. Tôi thấy rằng văn hóa Sơ kỳ đá mới (Proto-Neolithic) phía Bắc Trung Hoa gọi là Văn minh Yangshao (Ngưỡng Thiều) đã do trình độ thấp Văn hóa Hòa Bình phát triển lên từ miền Bắc Nam Á vào khoảng kỷ nguyên thứ VI hay V TCN.” “Tôi cho rằng, văn hóa sau này được gọi là Lungshan (Long Sơn) mà người ta xưa nay vẫn cho là nó xuất phát ở Yangshao phía Bắc Trung Hoa rồi mới bành trướng sang phía Ðông và Ðông Nam, thì thực ra cả hai nền văn hóa ấy đều phát triển từ căn bản Hòa Bình.” “Việc dùng thuyền độc mộc có lẽ đã được sử dụng trên các dòng sông nhỏ ở Ðông Nam Á từ lâu, trước kỷ nguyên thứ V TCN. Tôi tin rằng việc di chuyển bằng thuyền ra ngoài biển bắt đầu khoảng 4000 năm TCN, tình cờ đã đi đến Ðài Loan và Nhật Bản đem theo nghề trồng khoai sọ và có lẽ các hoa màu khác.” “Dân tộc Ðông Nam Á cũng đã di chuyển sang phía tây, đạt tới Madagascar có lẽ vào khoảng 2000 năm TCN. Có lẽ họ đã cống hiến một số cây thuần dưỡng cho nền kinh tế miền Ðông châu Phi.” “Vào khoảng thời gian ấy có sự tiếp xúc đầu tiên giữa Việt Nam và Ðịa Trung Hải có lẽ qua đường biển. Một số đồ đồng ít thông dụng xác chứng nguồn gốc Ðịa Trung Hải cũng đã tìm thấy ở địa điểm Ðông Sơn.” [19] Những nghiên cứu trên của các nhà khoa học trung thực mở cho thế giới và chúng ta cách nhìn hoàn toàn mới về tiền sử của dân tộc Việt. Những địa tầng văn hóa trên đất Việt Nam là liên tục. Chủ nhân của Văn hóa Hòa Bình là hai chủng Australoid và Melanesoid. Tiếp theo Văn hóa Hòa Bình là văn hóa Bắc Sơn mà chủ nhân thuộc về nhóm Indonesien và Melanesoid có tuổi từ 8000 đến 6000 năm TCN. Sau cùng là văn hóa Ðông Sơn kéo dài từ khoảng năm 800 đến 111 TCN. Ðây là thời kỳ phát triển rực rỡ của đồ đồng mà tiêu biểu là linh khí của người Việt: trống đồng. Trống đồng tìm thấy trên địa bàn rộng lớn gồm lục địa Ðông Nam Á, từ Tứ Xuyên cho đến MaLacca. Theo giáo sư Trung Quốc Lân Thuần Thanh thì “Bắt đầu khởi đúc trống đồng là ở Trung Quốc Bách Việt mà Hoa Trung là địa khu từ xa xưa của dân Bách Việt. Trống đồng nhiều nhất ở huyện Hưng Văn tỉnh Tứ Xuyên, còn ở bán đảo Ðông Dương thì trống đồng Lạc Việt ở miền Bắc và miền Trung là có tiếng hơn cả. F. Heger gọi trống đồng Lạc Việt thuộc hạng thứ nhất.” [20] Theo học giả Trung Quốc này thì khởi đúc trống đồng là ở Trung Quốc Bách Việt. Ðiều đó chỉ đúng một nửa: Trống đồng ở Trung Nguyên do người Việt đúc. Nhưng khởi đúc thì phải từ Ðông Sơn. Trống Ðông Sơn có trước trống Hưng Văn mà phẩm chất vượt trội. Theo hành trình gene và Khảo cổ học, chúng ta đã tìm ra con đường thiên di của tổ tiên: Khoảng 40.000 năm TCN, tổ tiên người Việt từ Bắc Việt Nam cùng một số sắc dân Ðông Nam Á khác đã lên sống trên lục địa Trung Hoa và tạo thành cư dân Trung Quốc cho đến hôm nay. Ðấy là phát hiện mang tính cách mạng thay đổi hẳn quan niệm cũ: người Việt phát nguyên từ Tây Bắc Trung Quốc thiên di về phía Ðông Nam. Ðến đây lại nảy sinh vấn đề mới: giải thích ra sao cuộc tranh chấp giữa người Hán và người Việt diễn ra hàng nghìn năm? Giả định tình huống sau: Khoảng 40.000 năm TCN, sau thời kỳ băng hà, khí hậu phía Bắc ấm dần lên, một nhóm người Mongoloid sống bằng săn bắt hái lượm từ Ðông Nam Á di cư lên phía Bắc. Theo dấu con mồi, họ đi vào vùng Ba Thục rồi tiến lên phía Tây Bắc Trung Quốc tạo thành tộc người Mông Cổ phương Bắc. Việc tìm thấy xương người hiện đại tại Hoa lục 40.000 năm trước đã minh chứng điều này. Cùng thời gian trên, nhiều nhóm người từ Ðông Nam Á mà số đông là người Việt sinh ra do hòa huyết giữa người Mongoloid và Australoid thành chủng Indonesien đi lên phía Bắc theo đường ven biển. Phương thức sống của những nhóm người này lúc đầu là săn bắt hái lượm sau đó chuyển dần sang nông nghiệp. Việc thiên di diễn ra chậm chạp nhưng liên tục thành nhiều đợt. Khoảng 30.000 năm trước, người Việt tới Siberia, vượt eo biển Bering và chinh phục châu Mỹ. Bằng chứng là ngoài nguồn gene, họ đã mang theo những con chó con gà được thuần dưỡng từ Hòa Bình. Những quan sát xã hội học ở sắc dân Caduveo sống tại Tây Bắc Canada cho thấy ở họ có nhiều yếu tố giống người Trung Hoa cổ đại như vai trò quan trọng của phụ nữ, hay là việc chú ý đến sự quân bình giữa các nguyên lý khác nhau (Levi-Strauss –Tristes tropicques tr 196. Dẫn theo Kim Ðịnh - Cơ cấu Việt Nho SG 1972 tr. 22), cũng như dân mạn Nam Trung Quốc lại có những nét giống kỳ lạ với một vài sắc dân bên Mỹ (Tristes tropicques tr. 267). Người Trung Hoa cổ đại, dân mạn Nam Trung Quốc là ai nếu không phải người Việt cổ đã mang theo văn minh Việt đến vùng đất mới? Khoảng 8.000 năm TCN, do Ðại hồng thủy, biển dâng tới tận Việt Trì, có một đợt di cư ồ ạt từ ven biển lên phương Bắc và vùng đất cao phía Tây. Nhiều lớp người đến Trung Hoa tập trung quanh vùng Thái Sơn rồi mở rộng ra tới lưu vực sông Hoàng Hà. Người Việt khai thác vùng đất này theo hướng nông nghiệp tạo nên nền văn minh nông nghiệp phát triển. Do sống trên địa bàn rộng và thời gian dài, nhóm người Việt này đã phân hóa thành nhiều tộc Việt khác nhau, được sử sách gọi là Bách Việt. Khoảng 6000 năm TCN người Bách Việt làm nên văn minh Ngưỡng Thiều và sau đó Long Sơn (Việc tìm thấy xương của người Mongoloid phương Nam tại các di chỉ trên chứng minh điều này.) Khoảng 2500 năm TCN nhóm người Hán từ Tây Bắc tràn qua sông Hoàng Hà xâm lấn đất của người Việt. Do ưu thế về sức mạnh võ trang của người du mục, người Hán chiến thắng người Việt nông nghiệp và mở rộng vùng phân bố của mình. Thời kỳ này được sử Trung Hoa gọi là Hoàng đế chiến Si Vưu. Trong khoảng 2000 năm trở lại đây, sự bành trướng của người Hán trở nên mãnh liệt nhất, xảy ra ba đợt sóng tràn xuống phía Nam, biến người Hán thành nhóm sắc tộc đông nhất thế giới [21] . Vốn người Mông Cổ phương Bắc khả năng sinh sản thấp (như hiện nay còn thấy). Do hòa huyết với người Việt đã tạo ra người Hán Mongoloid phương Nam có khả năng sinh sản cao, hơn hẳn người Hán phương Bắc. Chính yếu tố này làm tăng nhanh dân số Trung Quốc. Kết quả của tranh chấp Hán-Việt là phần lớn dân Bách Việt sống ở Trung Quốc bị Hán hóa, duy nhất dân Lạc Việt trở về lại Việt Nam bảo tồn được bản sắc Việt. Tuy nhiên trong quá trình này xảy ra sự hòa huyết với người Hán nên yếu tố Mongoloid vốn có trong máu tăng lên. Một câu hỏi khác được đặt ra: tổ tiên ta sống trên miền đất ấy như thế nào? Ðể giải câu hỏi này, chúng ta dựa vào nguồn tư liệu khác: thư tịch cổ Trung Hoa. Hà Văn Thùy ===================================== [1]Ts Nguyễn Thị Thanh: Việt Nam trung tâm nông nghiệp lúa nước và công nghiệp đá xưa nhất thế giới . ViêtCatholic 30.9. 2001. [2]Vương Ðồng Linh: Trung quốc dân tộc học và Chu Cốc Thành: Trung Quốc thông sử. Dẫn theo Kim Ðịnh: Cơ cấu Việt Nho. Sài Gòn, 1973, tr.244-245. [3] Kim Ðịnh: Việt lý tố nguyên. An Tiêm. Sài Gòn, 1970. tr. 16. [4]Sđd, tr. 24. [5] Nguyễn Ðình Khoa: Nhân chủng học Ðông Nam Á . ÐH &THCN. Hà Nội, 1983, tr. 106. [6]J. Y. Chu và đồng nghiệp: Genetic Relationship of Population in China. Proc. Natl. Acad. Sci.USA 1998 số 95, tr. 11763-11768. [7]Bing Su & đồng nghiệp: Y-chromosome Evidence For a Northward Migration of Modern Human into Eastern Asia During the Last Ice Age. American Jurnal of Human Genetics 1999; 65; 1718-1724. Nhiễm sắc thể Y chỉ có ở con đực, bền vững và chứa nhiều thông tin di truyền hơn mtDNA. Qua Y-chromosome có thể truy tìm “dấu vết di cư” của nhóm dân, từ đó ước đoán được tuổi của tổ tiên. Mức độ biến thiên đa hình thái (polymorphic variation) là chỉ tiêu di truyền quan trọng đánh giá độ đa dạng sinh học của nhóm dân: tổ tiên có mức đa dạng sinh học lớn hơn con cháu.( theo Gs Nguyễn Văn Tuấn Tìm về nguồn gốc dân tộc Việt Nam qua di truyền học. Giaodiem.com) [8]W. Kim & đồng nghiệp: Y-chromosomal DNA Variation in East Asia Populations and its Potential for Inferring the Peopling of Korea. Journal of Human Genetic. 2000. số 45, tr. 76-83. [9]S.W. Ballinger và đồng nghiệp: Southeast Asian Mitochondrial DNA Analysis Reveals Genetic Continuity of Ancient Mongoloid Migration. Genetic 1992 số 130, tr. 139-45. [10]Jin Li: Ngày 29.9.1998 Li Jin thông báo một tin chấn động giới khoa học tại Washinton: “Công trình của chúng tôi cho thấy con người hiện đại trước hết đã đến Ðông Nam Á sau đó đi lên Bắc Trung Hoa.” “Từ Trung Ðông men theo bờ Ấn Ðộ Dương, ngang qua Ấn Ðộ đến Ðông Nam Á. Sau đó họ đi lên Bắc Trung Hoa, Siberia và cuối cùng là châu Mỹ.” (“Our work shows that modern humans first came to Southeast Asia and then move late to Northern China.” “...from Middle East, following the Indian Ocean coatline across India to Southeast Asia. Later, they moved northern China, Siberia and eventually the Americas”) Los Angeles Times, 29.9.1998. [11]Peter Savolainen, Ya ping Zhang... Genetic Evidence for an East Asia Origin of Dometic Dogs. Science Nov 22 2002; Jenifer A. Leonard, Robert K. Wayne ... Ancient DNA Eviden for Old World Origin of New World Dogs. Science Nov 22 2002. (Dẫn theo Nguyễn Văn Tuấn: Năm Mùi nói chuyện dê. Giao Ðiểm Xuân 2003) [12]Stephen Oppenheimer: Eden in the East: The Drowned Continent of Southeast Asia- Nxb Phoenix London 1998. Là bác sĩ nhi khoa sống 20 năm trên các đảo ngoài khơi Ðông Nam Á, ông rất yêu vùng này, để công nghiên cứu và có những phát hiện quan trọng về lịch sử, văn hóa, dân tộc học... Công trình của ông được đánh giá cao. [13]Vũ Hữu San: Vịnh Bắc Việt , tái bản 2004. Tripod.com [14]Encyclope’dia d’Archeologie. [15]Nguyễn Thị Thanh bđd. [16]Nguyễn Thị Thanh bđd. [17]C. Sawer: Agricultural Origins and Dispersals. New York 1952 [18]W.G Solheim II: Southeast Asia and the West –Ðông Nam Á và phương Tây- Science 157 [19]Wilheim G. Solheim H. Ph. D: New Light on Forgotten Past. National Geographic Vol 1339 n 3 tháng 3 năm 1971. [20]Nguyễn Ðăng Thục: 4000 năm văn hiến. Hoadam.net [21]Bowen, Hui Li, Daru Lu và đồng nghiệp: Genetic Evidence Supports Demic Diffusion of Han Culture. Nature /vol 431/ 16 September 2004
    1 like
  29. Ah chỉ muốn biết anh đã khổ đến cảnh giới nào rồi thôi. Muốn hỏi thêm anh đã xa xứ, lập nghiệp phương xa và đường sinh đạo có dài không để được hưởng chữ an nhàn vào hậu vận.
    1 like
  30. 1 like
  31. 1 like
  32. Theo tôi được học thì chỉ có tam không chứ không có tứ không, thiên không- (tuần) trung không-địa không. Triệt là lộ vong, không thể áp đặt sở học của người khác theo ý của mình trừ phi anh có thể chứng minh nó một cách thuyết phục bằng cách giải chuẩn xác nhiều lá số có cách cục như vậy, xin có ý kiến riêng về học thuật có gì không phải mong anh bỏ quá, thân chào!
    1 like
  33. Theo tôi thì có thể anh sinh vào giờ Dần, đi về quân sự là đúng cách rồi. Năm sau chắc khoảng cuối tháng 2 âm lịch sẽ được bổ nhiệm công tác nhưng công việc không mấy thuận lợi, thường bị kẻ tiểu nhân dèm pha ngầm hại, gia đình sức khỏe của anh và bà mẹ không được tốt trong năm này. Tới năm Thìn mọi việc mới hanh thông, số sau này có danh chức lớn tài bạch tuy không giàu có nhưng cũng khá giả không khi nào phải lo về chuyện tiền bạc. Ngoài 45t sự nghiệp vững bền cho tới về sau. Gia đạo sau lấy được người vợ đảm đang tháo vát nhưng hơi lấn quyền chồng, nể vợ nên gia đạo cũng hài hòa 1 duyên 1 nợ. năm 2011 chắc chia tay người bạn gái
    1 like
  34. không phải là tam không mà gọi là tứ không tuần triệt thiên địa!nếu đắc tam không thì hưởng phúc bền lâu nhưng vì đắc từ không nên tui chỉ có thể nói chưa đến lúc sướng! nếu muốn học hỏi thêm về cách vô chính diệu thì nên đọc thêm sách của cụ việt viêm tử sẽ hiểu rõ thế nào là nhị là tam là tứ không! thế nào là đắc là kiến hay ngộ! chớ nên nói vội! không vong vốn là lũ khó lường tui cũng đang tự nghiệm chứng về nó!
    1 like
  35. 1 like
  36. Chứng khoán ngày 21/12 qua “lăng kính” kỹ thuật Thứ 2, 20 Tháng 12 2010 20:30 Tác giả Nguyễn Minh Khả năng VN-Index sẽ tích lũy quanh ngưỡng 476 và sau đó tăng điểm Hôm 20/12, VN-Index đã phá vỡ đường xu hướng tăng trên đồ thị phút, hàm ý rằng phiên giao dịch ngày mai chỉ số sẽ tiếp tục đà giảm ít nhất là xuống đáy trước đó tại 476 điểm. Mức tương ứng của HNX-Index là 115 điểm. Chúng tôi thiên về khả năng chỉ số sẽ tích lũy quanh ngưỡng 476 vào đầu phiên giao dịch ngày 21/12 trước khi tăng điểm. Trên quan điểm đó, chúng tôi khuyến nghị nhà đầu tư quan sát ngưỡng điểm 476 như một ngưỡng then chốt trong đợt điều chỉnh này. Thời điểm thích hợp cho hoạt động giải ngân là khi VN-Index chạm xuống 476 và bật trở lại. Mục tiêu của đợt tăng điểm này nằm tại 522 điểm. Quyết định bán theo chúng tôi là không hợp lý trong thời điểm hiện tại. (Công ty Chứng khoán Sài Gòn - SSI) Cây nến Black Candle giảm điểm khá mạnh tương tự các phiên ngày 20 tháng 10 và 19 tháng 11, khối lượng giao dịch không lớn bởi vậy sự giảm điểm sẽ không kéo dài. Như vậy về kỹ thuật, phiên bù khoảng trống (Gap) cuối tuần trước tỏ ra chưa đủ vùng tích lũy, chúng tôi cho rằng Vn-Index nhiều khả năng sẽ có thêm ít nhất 1 phiên giằng co hoặc kiểm định lại vùng hỗ trợ 470- 476 điểm để hấp thụ các cổ phiếu bán chốt lời ngắn hạn trước khi hồi phục trở lại. ...
    1 like
  37. cái lá số này của bạn gọi là vô chính diệu đắc tứ không nên không thể gọi là khổ mà gọi là có thời thế và biết nương theo thời thế nên no cơm ấm áo! không thể gọi là khổ, phải gọi là sướng nhưng chưa đến thời sướng nên tiếp tục chờ đi
    1 like
  38. 1 like
  39. Ủa a Nòng Nọc biết đẻ nữa hả??? Ko thấy a cung cấp cho TP kìa. A làm TP buồn cười quá, có khi lát phải đọc lại luận giải của m về tên a xem ntn. :D :) :D Nhà Nòng Nọc đã tham gia đủ vua và hoàng hậu, và hiện hoàng tử & công chúa thì đang chờ Tiểu Phương cũng đang cố coi nhanh cho mọi ng để xem nốt 2 thành viên cuối cùng trong nhà Nòng Nọc Thân mến
    1 like
  40. Dương Đào Thạch Thảo Thiên vận hung, nhân vận hung, địa vận cát, ngoại vận hung, tổng vận bình thường có cát có hung. Người mang vận số này có phấn đấu nỗ lực, học hành có thành tựu, được lòng người và được tin tưởng, tôn trọng. Tuy nhiên, hay sa vào hoàn cảnh trớ trêu, vất vả, phải cố gắng mới vượt qua được. Bản thân có nhiều tài, khả năng làm được nhiều nghề, nhưng cũng cả thèm chóng chán, hay thay đổi nên ít khi thành việc lớn. Nếu chuyên tâm thì nhất định thành công. Nếu đây là nữ, nên chú ý đường tình duyên lúc đầu lận đận, nên chăm sóc và yêu quí trẻ nhỏ nếu có cơ hội thì sẽ hạnh phúc, ý nguyện thành hiện thực. Cẩn thận có khả năng bị trầm cảm hoặc tự kỷ nhẹ. Thân mến
    1 like
  41. Thì ra Liên Châu cũng muốn được như Lệnh Hồ ca. Có vài điều muốn chia sẻ cùng Liên Châu thế này, qua lá số tử vi, người ta cũng có thể biết LC tên gì, có thể ko chính xác hoàn toàn nhưng ý nghĩa thì là 1. Bởi vì thế, tên đã gắn với vận mệnh m và có thể xem số mệnh theo tên là vậy. VD, nếu theo tử vi, tên m có nghĩa là nước, thì m có thể mang tên THủy (nước), hoặc Biển hoặc Hà (sông). Nếu tên có nghĩa có lòng gan dạ thì có thể là Dũng, Hùng, Mạnh, ... Không thể sai được. Môn xem tên bắt nguồn từ đó. 1 LS mang tên Ngân hoặc Khánh, nếu để đỡ khổ thì phải mang tên Khánh chẳng hạn, nhưng bố mẹ lại đặt là Ngân rồi, âu cũng là ông trời cho ta vận mệnh đó rồi, đổi làm sao??? Liên Châu muốn đổi vận thay mệnh, chỉ có 1 cách duy nhất là tích đức làm việc thiện, nghiệp sẽ hóa giải dần dần. Giờ có đổi tên cũng vô ích mà thôi, bởi LC đã quá 12 tuổi rồi, hết tuổi ăn nhờ phúc đức bố mẹ. Thân mến.
    1 like
  42. PHONG THỦY LẠC VIỆT & BÓNG MA NHÀ HỌ HỨA I -Sự kiện ======================================== BÓNG MA TRONG CĂN NHÀ HOANG VIETNAMNET.VN Cập nhật lúc 18/12/2010 09:09:16 AM (GMT+7) Sự thật liên quan đến những câu chuyện tâm linh dạng truyền miệng về hồn ma nhà họ Hứa đã kéo dài hơn nửa thế kỷ qua tại Sài Gòn và một phần chân dung ông vua bất động sản Hứa Bổn Hòa. Người ta vẫn tin rằng, vào những đêm mưa gió sụt sùi hay khi trời đất âm u, cái thời tiết mà ông bà ngày xưa vẫn quen miệng gọi là “Trời hư quỷ lộng, đất động chó tru” thì phía trên lầu của căn nhà 2 tầng đang bỏ hoang trên đường Phó Đức Chính, Q1, TP.HCM (nằm liền kề Bảo tàng Mỹ thuật TP.HCM) lại xuất hiện cái bóng trắng mang dáng dấp của một người con gái. Thi thoảng những bác tài Honda ôm đậu chờ khách, cô bán cà phê cóc vẫn nghe tiếng bước chân lên cầu thang hoặc tiếng hát ri rỉ từ căn nhà hoang ấy vọng ra… Ngoài phố, ánh đèn đường vàng vọt hắt bóng vào phía bên trong căn nhà tuyệt nhiên chỉ có một màu tối đen. Giai thoại về cái chết và hồn ma nhà họ Hứa Ba tòa nhà liền kề nhau theo vòng cánh cung từ ngã ba Nguyễn Thái Bình kéo dài đến Phó Đức Chính xa xưa cùng có chung một chủ, ông vua bất động sản của Việt Nam thời Pháp thuộc – Hứa Bổn Hòa. Tài liệu còn lưu trữ cho thấy ba căn biệt thự kiểu Pháp nằm liền kề nhau chỉ là một phần rất nhỏ trong hơn 20 nghìn căn nhà mà vua bất động sản Hứa Bổn Hòa sở hữu thời bấy giờ. Người dân từ Sài Gòn quen miệng gọi Hứa Bổn Hòa là chú Hỏa. Gọi riết thành quen, lâu dần thành đường chú Hỏa, phố chú Hỏa, ngã ba chú Hỏa. Tất nhiên không có con đường hoặc khu phố nào được đặt tên như vậy. Tất cả chỉ là do quen miệng gọi mà nên. Ảnh minh họa (Nguồn: CSTC) Giai thoại liên quan đến “hồn ma nhà họ Hứa”, tức người con gái út chết vì bệnh phong của Hứa Bổn Hòa như sau: Lời kể thứ nhất: “Đêm đó vào ca trực của mình, tôi phát hiện trên căn phòng nằm ở tầng 2 của tòa nhà mà mình đang bảo vệ vẫn chưa đóng cửa sổ và đèn đang mở. Không nghĩ ngợi gì nhiều, tôi lập tức leo lên cầu thang tiến về căn phòng ấy để đóng cửa sổ và tắt đèn. Nhưng khi vừa đặt chân lên cầu thang, tôi rùng mình vì thoáng thấy bóng ai đó đang đứng trên lầu và nhìn xuống, rọi đèn pin lên phía trên thì không thấy gì. Lấy hết can đảm tôi bước dần lên từng bậc cầu thang và đột nhiên nghe có bước chân ai đang đi theo sau mình. Khi đến căn phòng, tôi sởn cả gai ốc vì ánh mắt ai đó đang nhìn xoáy sau gáy. Tôi với tay định đóng cửa sổ, thì bất ngờ con mèo đen ở đâu đó phóng ào qua của sổ và đứng nhìn tôi chằm chằm… Từ đó, không ai đủ can đảm để bước lên lầu vào buổi tối”. Lời kể thứ hai: “Tôi là nhân viên của tòa nhà nằm cạnh ngôi nhà mà con gái chú Hỏa từng sinh sống. Trưa, tôi vẫn có thói quen nằm đọc sách trong phòng vắng tại tòa nhà mình đang làm việc. Một lần tôi ngờ ngợ thấy có một người con gái đứng ngay đầu giường chỉ vào tôi và chỉ ra phía cửa phòng như muốn nói đuổi tôi đi. Tôi không nhớ rõ mặt của cô gái đó”. Lời kể thứ ba: “Chạng vạng chiều, khi chúng tôi chuẩn bị giao ca trực thì nghe tiếng báo cháy của thiết bị báo động. Phía phát ra tiếng còi báo cháy là từ căn phòng có đặt linh vị của chú Hỏa. Theo trí nhớ của tôi hầu như không ai thắp hương cho chú Hỏa. Chính vì vậy việc tiếng còi báo cháy xuất phát từ căn phòng đó là điều rất bất thường. Khi chúng tôi chạy đến cửa phòng thì tiếng còi báo cháy bỗng dưng im bặt. Mọi người đều thấy khói nhang bảng lảng trong phòng, vẫn ngửi được mùi thơm, nhưng trên bàn thờ chú Hỏa vẫn lạnh tanh”. Khi tin đồn thành phim “Con ma nhà họ Hứa” Đầu tiên là những thông tin lưu truyền trên mạng Internet. Tiếp đến là lời kể của những người đang làm việc và sinh sống gần khu nhà xưa kia là nhà của chú Hỏa đã kích thích tôi ghê gớm. Vốn dĩ tôi không tin nhiều và chuyện tâm linh, nên cứ cố đi tìm một lời giải hợp lý nhất cho những câu chuyện đầy tính ma mị này. Tài liệu tôi tìm được là cuốn sách được in tại hải ngoại của nhà văn Phạm Phong Dinh, một cuốn sách kể chuyện kinh dị có tựa đề “Ngôi cổ mộ nhà họ Hứa”. Nội dung sách tập trung nhắc lại những chuyện thần bí quanh cái chết của cô con gái út mà ông vua bất động sản Hứa Bổn Hòa nhất mực yêu thương. Đây có thể được coi là tài liệu duy nhất được thể hiện bằng văn bản liên quan đến ngôi nhà này. Tiếc thay nội dung của một tác phẩm văn học và nội dung của một bài báo là hai chuyện hoàn toàn khác nhau. Thế nên, đầu mối duy nhất mà tôi lần theo là lời kể của một người khá am tường về Sài Gòn, đặc biệt là Sài Gòn trước năm 1975. Hiện tại, ông là nhà văn và là nhà biên kịch rất nổi tiếng (tác giả kịch bản phim “Kiều nữ và đại gia”), luôn được giới sản xuất phim săn đón. Nhà văn này lý giải, sở dĩ những tin đồn về hồn ma của cô con gái út Hứa Bổn Hòa vẫn còn sống được đến bây giờ là bởi bộ phim “Con ma nhà họ Hứa” do hãng phim Dạ Lý Hương sản xuất được chỉ đạo bởi đạo diễn Lê Mộng Hoàng đã tạo nên một cơn sốt vé khủng khiếp tại Sài Gòn vào những năm trước 1975. Chính hiệu ứng cinema này đã khiến cho đám đông không biết đâu là “phim thật”, không biết đâu là “ma giả”. Mà những gì liên quan đến chuyện… truyền miệng thì lại cũng khó kiểm định về tính chính xác của nó hơn. Thêm vào đó, đột nhiên căn nhà giữa nơi cô gái út của Hứa Bổn Hòa lại bị bỏ hoang một cách kỳ lạ trong khi hai căn nhà kề bên nó lại được trưng dụng làm các công trình khác nhau. Thứ đến, khoảng sân trước của ngôi nhà khá rộng với nhiều cây cối âm u. Một ngôi nhà vừa to lớn, vừa cũ kỹ lại vừa không có người ở, phía trước là cây cối rậm rạp, thật dễ gây cảm giác liêu trai. Mà không khí liêu trai thì không thể thiếu đi những câu chuyện vừa giật gân vừa lạ lẫm để tô đậm cho sự huyễn hoặc đó. “Bởi theo hiểu biết của tôi, ngoài chuyện trấn yểm để làm thần giữ của trong nhà vốn dĩ được các đại gia người Hoa thường sử dụng, thì hầu như là khi người thân mình nằm xuống, người Hoa sẽ làm mọi cách để họ không còn “quyến luyến” với người còn sống. Và cô con gái út là người mà Hứa Bổn Hòa yêu thương nhất thì không lẽ gì vua bất động sản này lại để cho con gái mình cứ vất vưởng mãi ở trong căn nhà ấy”, nhà văn này nói. Tôi đưa tài liệu mình tìm được cho nhà văn xem. Tài liệu này thể hiện khi cô con gái út mất vì bệnh phong, do quá thương yêu con nên Hứa Bổn Hòa đã không cho khâm liệm mà mang thi thể của cô con gái này đặt vào quan tài bằng đá phía trên được đậy kính trong suốt. Ông cho người đặt quan tài này ngay giữa phòng của con gái như cách để tự lừa dối mình rằng cô con gái út mà ông rất yêu thương vẫn còn sống. Nhà văn không tin vào giả thuyết này lắm, bởi theo ông, Hứa Bổn Hòa là một người cực kỳ thông minh, nhìn xa trông rộng. Đơn giản nhất ông có thể bước một bước dài từ kẻ bần hàn lên ngôi đế vương thì cần thiết phải có một thần kinh thép, tâm vững như núi. Thế nên làm gì có chuyện ông vì bi thương mà điên rồ đến mức độ đặt thi hài con gái ở mãi trong căn phòng đó. Và ông kể theo cách của mình: Khi phát hiện ra mình bị mắc chứng phong cùi, người con gái út của Hứa Bổn Hòa rất hoảng loạn. Vốn dĩ được cưng từ trong trứng cưng ra, nhà lại có nhiều kẻ hầu người hạ nên cô con gái út trút hết những u uất trong người mình lên tôi tớ. Cô gào thét, chửi bới từ sáng sớm đến đêm thâu. Cho đến khi bệnh phong làm cô trở nên dị dạng trong hình hài bị lở loét, thì cơn bấn loạn trong người cô gái này càng lên cao hơn bao giờ hết. Để ngăn chặn những cơn cuồng loạn của con gái, Hứa Bổn Hòa đã cho người dùng gỗ bao quanh căn phòng của cô con gái út lại, chỉ chừa một khoảng hở nhỏ đủ để người hầu đưa cơm và nước uống phục vụ mỗi ngày. Bị nhốt, bị bệnh, tâm trí của cô gái cực kỳ bất thường, cô có thể la hét, chửi rủa, cười nói, khóc lóc bất kể ngày đêm. Điều này, càng khiến những tin đồn về chuyện nhà chú Hỏa có ma có điều kiện để lan rộng. Đám ma giả và nỗi tuyệt vọng của người cha yêu con Trên thực tế, giả thuyết hợp lý nhất về “hồn ma nhà họ Hứa” chính là chuyện khi phát hiện ra con gái út bị bệnh phong. Hứa Bổn Hòa đã làm đủ mọi cách để cứu chữa cho con gái nhưng vô vọng. Ông từng huy động hàng chục đội quân về khu U Minh – Cà Mau để tìm ngọc ong, một loại linh dược của trời đất với hy vọng thứ thần dược thiên nhiên này khi hòa với vàng sẽ làm chậm lại mức độ phát bệnh của con mình. Nhưng tất cả chỉ là giải pháp tình thế. Việc cô con gái út cứ chửi rủa bất kỳ ai vào bất kỳ thời điểm nào đã khiến Hứa Bổn Hòa bận tâm. Sau nhiều đêm suy nghĩ, ông quyết định cho người mang con mình về căn nhà ở Lái Thiêu (nay thuộc Bình Dương) để tiện bề chăm sóc. Trước khi thực hiện kế hoạch này, Hứa Bổn Hòa đã tổ chức một đám ma cho con gái rất hoành tráng nhằm đánh lừa dư luận. Đây là đám ma lớn và ầm ĩ nhất Gia Định thời điểm ấy và hầu như tất cả những người đang sinh sống tại Sài Gòn – Gia Định đều thương tiếc cô con gái út của Hứa Bổn Hòa không may chết sớm. Chỉ một số ít người biết rằng cô gái này mất bởi di chứng của căn bệnh phong nhiều năm sau khi tổ chức đám ma. “Con ma nhà họ Hứa” là phim kinh dị 90 phút do đạo diễn Lê Hoàng Hoa thực hiện trên kịch bản của Nguyễn Phương, hãng Dạ Lý Hương sản xuất, với các diễn viên: Bạch Tuyết, Dũng Thanh Lâm, Tư Rọm, bà Năm Sa Đéc, Ba Vân, Năm Châu, Tâm Phan, Khả Năng, Thanh Việt, Minh Ngọc, Tùng Lâm, bé Thy Mai… Phim là câu chuyện kể về đứa con gái của chú Hỏa. Con gái này bị bệnh phong, lở loét khắp người. Vì con gái bị bệnh như vậy, nên chú Hỏa cho con gái sống cách ly trong phòng kín, hằng ngày cho quản gia đem đồ ăn, áo quần đến chăm sóc. Lúc đầu, người quản gia không thắc mắc gì cho lắm (đối với người Hoa, quản gia là người rất trung thành, chủ biểu gì làm nấy). Nhưng sau đó một thời gian, ông ta mới thắc mắc không hiểu vì sao cô con gái bị bệnh đến bây giờ vẫn còn sống (theo như y học thì những bệnh như vậy không sống được lâu) và mỗi ngày ông vẫn phải đem cơm, quần áo đến phòng rồi lấy đi những bộ quần áo dính đầy máu. Người quản gia quyết định thực hiện cuộc điều tra tìm hiểu sự thật… Phim được quay ở một tòa biệt thự tại Đà Lạt và cho đến nay biệt thự đó vẫn được đồn đoán là “nhà ma”… (Còn nữa...) Theo CSTC ======================================== NGƯỜI CHA GIÀU CÓ VÀ HỒN MA CON GÁI ÚT VIETNAMNET.VN Cập nhật lúc 19/12/2010 05:22:00 AM (GMT+7) Sau khi những lời đồn thổi về “Hồn ma nhà họ Hứa” phát triển thành chuyện… truyền miệng, thì những giai thoại về khu an táng của Hứa Bổn Hòa xuất hiện. Nhấc chân một cái là thoáng chốc, Hứa Bổn Hòa hiện thân thành ông vua không ngai trong ngành bất động sản tại Sài Gòn- Gia Định đầu thế kỷ 20. Hứa Bổn Hòa có cách làm ăn mà mãi đến những năm gần đây, giới đầu tư bất động sản mới nghĩ ra, chính là… mua đất theo dạng đón đầu quy hoạch. Mấy ai biết, hơn 100 năm trước, Hứa Bổn Hòa đã sở hữu hơn 20 nghìn căn nhà và đó chỉ là khối lượng tài sản nổi. Còn khối lượng tài sản chìm của ông thì không ai có thể tính nổi. Chỉ bấy nhiêu đó, đủ thấy cái tầm của Hứa Bổn Hòa lớn đến mức nào (!). Hứa Bổn Hòa là người được xếp thứ tư trong câu vè nổi tiếng của miền Nam thời Pháp thuộc: “Nhất Sỹ - Nhì Phương - Tam Xưởng - Tứ Hỏa” (Tức Huyện Sỹ Lê Phát Đạt – Bá hộ Lý Tường Quan và chú Hỏa Hứa Bổn Hòa (Hui Bon Hoa)). Mặc dầu chỉ xếp thứ tư trong “tứ đại quan gia”, nhưng về mức độ gia sản thì chưa biết ai có thể qua mặt được Hứa Bổn Hòa hay không. Và trong “Tứ đại quan gia” này, Hứa Bổn Hòa là người để lại nhiều giai thoại xung quanh cuộc đời và sự nghiệp… kiếm tiền của mình. Câu chuyện về hồn ma cô con gái Hứa Bổn Hòa đã kéo dài hơn nửa thế kỷ qua tại Sài Gòn (Ảnh: minh họa) Hứa Bổn Hòa gốc là người Minh Hương. Xuất phát điểm của ông vua bất động sản Hứa Bổn Hòa cực thấp. Ông làm nghề thu mua phế liệu (hay còn gọi là buôn bán ve chai) thời khốn khó. Chắt chiu được ít vốn, ông mở đại lý thu gom phế liệu để kiếm lời từ những người buôn bán nhỏ. Cơ hội đến với Hứa Bổn Hòa khi ông thắng thầu trong phi vụ mua hơn 20 nghìn cái máy truyền tin của quân đội Pháp. Trên thực tế, đây là một trong những giai thoại về sự giàu có nhanh chóng của Hứa Bổn Hòa, kiểu như ông nhặt được hàng chục kí vàng khi đi tìm phế liệu, hay chuyện hùn vốn mở sòng bạc và tiệm đồ với người Pháp, rồi được chia của cải ở Nam Kỳ lục tỉnh… Một lần, Hứa Bổn Hòa nhận được lời mới tham gia phiên đấu giá hàng vạn cái máy truyền tin của quân đội Pháp cùng 10 đại lý buôn bán phế liệu khác. Khi viên thượng sĩ người Pháp đặt vấn đề muốn thanh lý toàn bộ số máy truyền tin trên, các chủ phế liệu chỉ mỉm cười, trừ Hứa Bổn Hòa. Bởi vào thời điểm đó, máy truyền tin đối với nhiều người hoàn toàn không có giá trị về mặt… tái sản xuất. Nhưng, Hứa Bổn Hòa lại nghĩ khác. Lời đồn trong giới thương nhân người Hoa cho biết, trước khi tham gia phiên đấu này, Hứa Bổn Hòa từng thành công khi phân kim và tìm thấy vàng từ một chiếc máy truyền tin bị hỏng. Vì vậy, ông nhanh chóng nắm cơ hội dành riêng cho mình từ cuộc đấu giá mà sản phẩm được mang ra “sàn” lại bị chối bỏ này. Vận dụng tất cả các mối quan hệ, Hứa Bổn Hòa đã vay mượn và cầm cố tài sản với số tiền đủ để mua lại toàn bộ số máy truyền tin của quân đội Pháp. Sau khi phân kim, ông thu được một lượng lớn vàng. Có số vốn mạnh trong tay, Hứa Bổn Hòa nhanh chóng rời bỏ ngành phế liệu mà tập trung vốn vào kinh doanh bất động sản. Đây là một trong những quyết định táo bạo của Hứa Bổn Hòa. Quyết định này đã mang lại vị trí vương giả cho ông về sau. Căn phòng trước đây là phòng ngủ của con gái Hứa Bổn Hòa Khi Hứa Bổn Hòa tính kinh doanh bất động sản, thì toàn bộ ngành nghề mới mẻ này đang nằm trong tay những người Chà Và, tức người Ấn Độ. Cuối thế kỉ 19 đầu thế kỉ 20, người Chà Và sang Việt Nam chủ yếu để làm 3 nghề là: mã tà, gác gian và buôn sạp vải. Thực ra việc buôn sạp vải đi kèm với chuyện cho vay nặng lãi và buôn nhà. Nhưng người Chà Và không có thói quen mua đất, mà có thói quen mua nhà đã được xây dựng sẵn từ những con bạc đang túng tiền, người nợ nần hoặc cần tiền gấp để chữa bệnh, kiểu buôn bán “mua rẻ, bán đắt”. Hứa Bổn Hòa không kinh doanh theo cách cò con này. Ông đi theo con đường riêng của mình. Khu Nguyễn Thái Bình – Lê Thị Hồng Gấm, thậm chí là một phần đường Nguyễn Thái Học, quận 1, TP.HCM bây giờ ngày ấy là vũng lầy và là con kênh số 20. Người Pháp quyết định lấp vũng lầy này để mở chợ. Cái chợ mà người Hoa quen gọi là “Tân Nhai Thị”, tức Chợ Mới (dù chưa được kiểm chứng chính xác bởi giới nghiên cứu, nhưng nhiều người cho rằng, Chợ Mới ngày nay chính là chợ Bến Thành). Trước đây, tại khu vực chợ này cũng đã có một cái chợ, gọi là Chợ Cũ. Nhưng để phát triển giao thương, người Pháp bắt đầu lấp vũng và kênh để xây dựng, cái tên “Tân Nhai Thị” bắt nguồn từ nguyên nhân này. Ngày khi nắm bắt được thông tin người Pháp chuẩn bị lấp kênh xây chợ, Hứa Bổn Hòa đã tung tiền mua toàn bộ phần đất… con kênh vừa mới lấp. Đây có thể được coi là lần giao dịch vô tiền khoáng hậu, bởi thời điểm đó, không có giao dịch bất động sản nào được thực hiện theo kiểu… đón đầu quy hoạch như của Hứa Bổn Hòa. Cái thời điểm mà người dân còn xài bạc cắc, đất chưa cất nhà ở Gia Định – Sài Gòn rẻ như… cho không. Thế nên, khi chợ đã được xây dựng, cơ sở hạ tầng được hoàn thiện, Hứa Bổn Hòa nhanh chóng sở hữu trong tay một khối lượng tài sản kếch xù với hơn 20 nghìn căn nhà phố. Những căn nhà to đẹp, cực kỳ hoành tráng với kiến trúc đậm nét châu Âu, có thể kể đến những công trình tiểu biểu của Hứa Bổn Hòa làm và còn lưu dấu ấn đậm nét cho đến ngày nay là: Bảo tàng Mỹ thuật TP.HCM, khách sạn Mejestic (trên đường Tôn Đức Thắng, quận 1), Bệnh viện Từ Dũ, chùa Kỳ Viên… Nghĩa là gần như những căn biệt thự vừa sang trọng vừa lịch lãm ở Sài Gòn đều thuộc quyền quản lý của Hứa Bổn Hòa. Lúc này ông cùng những con của mình chính thức lập Công ty Hui Bon Hoa. Công ty nổi tiếng đến mức, mà cùng thời người ta đặt câu vè “Đi tàu chú Hỷ, ở nhà chú Hỏa”). Người ta đồn rằng khi lên “ngôi vương” trong giới bất động sản, Hứa Bổn Hòa đã cho xây dựng ngôi biệt thự gồm 3 căn liên kết với nhau hình chữ U (nay là Bảo tàng Mỹ thuật TP.HCM, khu phức hợp và một tòa nhà cạnh Bảo tàng đang được sửa chữa) với hàng trăm cánh cửa. Đặc biệt, cổng chính của ngôi nhà này to… hơn cổng Dinh Toàn quyền Đông Dương, chính vì vậy các nhà cầm quyền người Pháp đã yêu cầu Hứa Bổn Hòa phải đập đi và xây lại nhỏ hơn so với cổng của Dinh Toàn quyền cho phải phép. Bảo tàng Mỹ thuật TP.HCM Tuy nhiên, lời đồn này khó có thể là… sự thật. Bởi đơn giản để có thể thành công trong các lần giao dịch bất động sản theo kiểu đón đầu quy hoạch của mình, Hứa Bổn Hòa cần có sự giúp đỡ rất lớn từ các quan chức người Pháp. Thế nên, một con người lọc lõi như Hứa Bổn Hòa không thể vì một chút sĩ diện nhất thời mà làm mất lòng những chiến hữu, vốn dĩ là cái “mỏ vàng” của riêng mình. Sau thành công từ việc đón đầu quy hoạch khu Chợ Mới, Hứa Bổn Hòa tiếp tục phát huy chuyện mua đất đón đầu quy hoạch. Có thời điểm, ông đã thống trị toàn bộ những vị trí kinh doanh bất động sản có máu mặt ở Gia Định – Sài Gòn về dưới trướng của mình. Được cái, Hứa Bổn Hòa không kinh doanh theo kiểu sát ván với đối thủ, nên được nhiều người nể trọng. Đặc biệt là dân lao động rất có cảm tình với “ông vua” xuất thân từ nghèo khó này. Sau khi những lời đồn thổi về “Hồn ma nhà họ Hứa” phát triển thành chuyện… truyền miệng, thì những giai thoại về khu an táng của Hứa Bổn Hòa xuất hiện. Có giai thoại cho rằng mộ của Hứa Bổn Hòa đang nằm tại quận Thủ Đức, TP.HCM. Giai thoại khác lại đồn hài cốt của Hứa Bổn Hòa đã được người thân đưa về Pháp, vốn dĩ ông mang quốc tịch này. Cũng có giai thoại cho rằng, trước khi mất Hứa Bổn Hòa đã cho xây dựng sẵn nhiều lăng mộ để chuẩn bị cho lúc nằm xuống. Mục đích chính của chuyện này là để đảm bảo an toàn cho phần mộ của ông sẽ không bị bọn trộm mộ xâm hại. Bởi, những người giàu như Hứa Bổn Hòa thương mang theo nhiều đồ tùy táng có giá trị khi về với đất. Và cũng để “long mạch” được đảm bảo về mặt “phát” của nó. Từ một gánh ve chai bước lên ngôi vương trong giới buôn bán bất động sản, với gia tài kếch xù và những giai thoại liên quan đến nhiều giai đoạn trong cuộc sống, có thể nói Hứa Bổn Hòa là một trong những nhân vật dân sinh cận đại để lại nhiều tranh cãi nhất cho đến nay. Theo CSTC ======================================== CHÚ HỎA: ĐÒN GÁNH TRE CHÍN RẠN HAI VAI Thanh Thảo (Toquoc)- Chú Hoả là người Tàu, người Tiều, điều ấy đã rõ. “Đòn gánh tre chín dạn hai vai” là câu thơ Nguyễn Du, một thi hào Việt Nam, điều ấy càng rõ hơn. Nhưng lần đầu tiên khi mới về Sài Gòn, đầu tháng 5/75, lần đầu tiên được tới thăm và…ăn nhậu tại Dinh Chú Hoả( hình như gần chợ Cũ, tôi vốn không thuộc đường Sài Gòn lắm), tự nhiên tôi bật nhớ câu thơ Nguyễn Du. Trong “thập loại chúng sinh” thì Chú Hoả bước vào con đường kinh doanh từ một chiếc…đòn gánh, và đôi bồ đựng…đồng nát. Phía trên cổng vẫn còn logo với chữ "H.B.H"- Hui Bon Hoa Đích thực, bây giờ người ta gọi Chú Hoả là người khởi nghiệp từ nghề…ve chai, chà đồ nhôm nhưng không “chôm đồ nhựa”. Ông là người làm ăn đàng hoàng, dù gánh đôi bồ mua hàng đồng nát thì đôi bồ ấy vẫn…sạch, vì Chú Hoả không…chôm. Người buôn bán biết giữ chữ trung chữ tín chữ nghĩa chữ tình như thế mới giàu lên được từ chiếc đòn gánh. Trong dinh thự Chú Hoả, người đã từng (tôi cũng nghe đồn thôi, chưa có số liệu cụ thể) sở hữu 20% bất động sản Sài Gòn, ở vị trí trang trọng nhất của tầng nhà “bảo tàng”, đặt trân trọng trong tủ pha lê một…chiếc đòn gánh cũ. Những người từ bậc thang chót trong xã hội, từ nghèo hèn giàu lên như Chú Hoả, không nhiều người muốn nhắc nhớ lại quá khứ hàn vi của mình. Lắm người còn tự tạo ra một lý lịch “hoành tráng”, là hậu duệ của dòng họ lớn này, là cháu ba đời của vĩ nhân nọ, tất cả chỉ cốt “giải quyết khâu oai”.Chú Hoả không làm thế. Ông cho thờ cái đòn gánh thuở hàn vi là để nhắc cháu con đừng quên quá khứ của gia đình, rằng gia đình này đã thoát nghèo bằng cách gì, đã giàu lên nhờ cái gì. Chiếc đòn gánh tượng trưng cho sự tảo tần, cho lao động nhọc nhằn và mải miết, cho những tháng năm gồng mình gánh chịu biết bao gánh nặng mưu sinh, và cũng tượng trưng cho một quyết tâm đổi đời, một nội lực dữ dội bên dưới đôi vai. Cái ngày tháng 5/1975 ấy, khi lần đầu tiên được nhìn tận mắt chiếc đòn gánh trở thành “vật thiêng” trong nhà Chú Hoả- một dinh thự lộng lẫy-tôi đã ngạc nhiên vô cùng. Với tôi, chiếc đòn gánh ấy không hề xa lạ.Tôi cũng là người đã tập quen gánh gồng từ nhỏ, dù chưa phải đi lượm ve chai hay buôn đồng nát ngày nào. “Hoá ra, người giàu như Chú Hoả cũng xuất thân từ người lao động.” Tôi tự nhủ, vì trước đó, do được học tập nhiều nên tôi cứ nghĩ người giàu có là người bóc lột, là người “sinh ra đã giàu”, họ thuộc về một giai cấp khác với chúng tôi-những người lao động và không “bóc lột”. Nếu Chú Hoả nhờ một loại thần dược nào đó mà sống tới bây giờ, sau nhiều đợt “cải tạo tư sản công thương nghiệp”, sau nhiều lần tính ra đi định cư ở nước ngoài hay “qui cố hương”( Chú Hoả là người Tàu) mà không đi, tôi chắc Chú Hoả sẽ rất vui khi được người bây giờ tôn vinh là “doanh nhân thành đạt”, là “tấm gương khởi nghiệp” là “ tỉ phú từ hai bàn tay trắng”, là…Có thể Chú Hoả sẽ không đòi lại được dinh thự của mình(đã sung công từ sau giải phóng), nhưng tôi nghĩ ông không mấy quan tâm đến chuyện viết và đưa đơn kiện. Dù cái hầm rượu “vĩ đại” dưới tầng hầm nhà ông không còn lấy một chai rượu nhỏ, ông cũng chẳng lấy thế làm phiền. Ông sẽ ngồi đâu đó quán cóc vỉa hè chợ Cũ, ngay cạnh nhà mình, “lỳ một lam” Gò Đen nóng sốt, đưa cay vài nhát ổi , đôi miếng xoài xanh. Và nếu lúc đó kẻ hậu duệ tội lỗi này xuất hiện( tội gì tôi sẽ thưa sau), tôi quyết xin mời ông vài chai bia lùn “ mà ai cũng phải ngước nhìn”, cái giống bia nảy nòi từ một hãng bia Con Cọp Con Rồng gì đó mà thuở mới lập nghiệp ông đã biết nhưng ít dám xài vì sợ…tốn tiền. Và nhân lúc ông vui chuyện nhờ hơi men, tôi sẽ xin thưa thật với ông, là “cái đêm hôm ấy đêm gì” tôi tới thăm nhà ông tháng 5/1975 ấy, mấy anh em chúng tôi sau khi ngắm nghía chiếc đòn gánh của ông, đã lao ngay xuống hầm rượu nhà ông và khuân lên đủ thứ rượu Tây Tàu Nga Mỹ…Không dám ngồi lên các xa-lông bóng loáng nơi phòng khách, chúng tôi đã rủ nhau, theo đúng cách người lao động nghèo, ngồi ngay bậc cầu thang cẩm thạch( cũng bóng lộn) ở nhà ông để…nhậu. Vịt quay nổi tiếng mua từ chợ Cũ bên cạnh nhà, xoài cốc ổi cũng từ quanh quanh đó, rượu xịn thì nhà ông vô thiên lủng, chúng tôi đã uống từ 6 giờ chiều tới 12 giờ đêm và…say khướt. Ấy, tội lỗi chúng tôi chỉ có vậy. Tất cả những món đồ cổ nghe nói là vô giá của nhà ông bày rất đẹp trong các tủ kính quanh phòng khách, quanh “chiếc đòn gánh vĩ đại”, chúng tôi tịnh không động tới. Chúng tôi đã tới nhà Chú Hoả tay không, và ra đi tay không, đúng như cách chủ nhân của nó đã đến với cuộc đời này. Nhưng tới bây giờ, thỉnh thoảng, hương vị những chai rượu quí nhà Chú Hoả như còn phảng phất đâu đó trong tôi. Cùng với chiếc đòn gánh. Và hình bóng một doanh nhân cặm cụi làm ăn, giàu lên từ chiếc đòn gánh và đôi bồ đựng đồ…đồng nát. Nguồn : www.toquoc.gov.vn ======================================== GIAI THOẠI NHÀ CHÚ HỎA 23/08/2007 Tọa lạc tại số 97 đường Phó Đức Chính, Q1, TPHCM trải qua bao thời gian tòa nhà vẫn sừng sững với dáng dấp cổ kính, tĩnh lặng, thâm u, càng làm cho những giai thoại về chủ nhân và ngôi nhà thêm phần huyền hoăc. Dù nay đã là trụ sở Bảo tàng Mỹ thuật thành phố nhưng ngôi nhà vẫn chất rất nhiều điều bí ẩn , gợi tò mò bởi nó gắn liền với nhiều huyền thoại cùng tên tuổi một đại phú người Hoa lừng lẫy của Sài Gòn trăm năm về trước. Nhà chú Hỏa Đó là chú Hỏa, một trong tứ đại hào phú lừng lẫy của Sài Gòn xưa mà dân gian từng tôn vinh: "Nhất Sỹ, nhì Phương, tam Xường, tứ Hỏa" (Huyện Sỹ - Lê Phát Đạt; Tổng đốc Phương - Đỗ Hữu Phương; Bá hộ Xường - Lý Tường Quan và chú Hỏa - Hui Bon Hoa). Tuy xếp thứ tư nhưng chú Hỏa là người có nhiều huyền thoại và để lại nhiều dấu ấn nhất, trong đó phải kể đến tấm lòng không chỉ thu vén cho riêng mình mà còn biết hướng tới cộng đồng của ông, "tuy làm giàu cho mình đã đành, nhưng cũng giúp ích rất nhiều cho sự mở mang thịnh vượng kinh tế miền Nam" (Vương Hồng sển - Sài Gòn năm xưa, phần VII: Nhơn vật Hoa kiều) Chú Hỏa - Hui Bon Hoa, hay như nhiều người Sài Gòn cũ vẫn gọi thân mật là chú chệt Hứa Bổn Hòa, gốc người Minh Hương - nhóm người Hoa rời bỏ Trung Quốc di cư sang nước ta khi triều đình Mãn Thanh tiêu diệt nhà Minh - được chúa Nguyễn cho định cư ở Nam bộ từ thế kỷ 17. Tương truyền, từ hai bàn tay trắng với một gánh ve chai trên vai, chú đã tạo dựng nên sự nghiệp lừng lẫy khiến cho người đời sau còn nhắc nhở . Vua nhà đất "Đi tàu chú Hỷ, ở nhà chú Hỏa" là câu truyền khẩu nổi tiếng của người Sài Gòn xựa Nếu chú Hỷ là ông "vua tàu bè" có tàu Thông Hiệp chạy khắp Nam kỳ - Lục tỉnh lúc bấy giờ thì chú Hỏa là ông "vua nhà đất" với gia sản ước trên 20.000 căn nhà phố khắp khu vực Sài Gòn - Gia Định - Chợ Lớn. Ông thành lập Công ty Hui Bon Hoa và các con, cực thịnh vào khoảng thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20, có những đóng góp rất quan trọng trong việc xây dựng thành phố Sài Gòn. Theo nhà nghiên cứu Vương Hồng Sển: "Hui Bon Hoa có nhiều con cháu luôn luôn hòa thuận, gia tài giữ nguyên vẹn không chia phần manh mún, chỉ cùng nhau chia lợi tức, và mỗi khi cần dùng số tiền to tát thì người trong họ phải xin chữ ký của người trưởng huynh, khi ấy ngân hàng mới phát bạc. Nhờ giữ gìn có phương pháp nên sự nghiệp Hui Bon Hoa ngày càng đồ sộ thêm mãi, không sứt mẻ mảy may nào. Sơ khởi, chú Hỏa nghe đâu hùn hiệp với một người Pháp bao thầu khuếch trương các tiệm cầm đồ (Mont de piété) trong Nam Kỳ. Hiện nay phố xá Sài Gòn một phần lớn là của công ty Hui Bon Hoa làm chủ. nhưng công ty này được tiếng là "rất biết điều" và không eo xách, làm khó người mướn phố". Không chỉ xây các dinh thự hoành tráng cho gia đình mình, chú Hỏa còn xây những dãy phố, cùng hàng loạt các công trình dân dụng dành cho cộng đồng như bệnh viện, chùa chiền...Trong số những công trình tiêu biểu vẫn còn được sử dụng cho đến ngày này có Bào tàng Mỹ thuật thành phố, khách sạn Majestic, Bệnh viện Từ Dũ, Trung tâm cấp cứu Sài Gòn, Nhà khách Chính phủ, chùa Kỳ Viên, khác sạn Palace - Long Hải...Majestic là khách sạn đồ sộ bậc nhất thời ấy, được thiết kế theo đồ án của một kiến trúc sư người Pháp. Cũng như Bảo tàng Mỹ thuật hay Nhà khách Chính phủ, Majestic xây dựng theo phong cách Baroque rất được ưa chuộng thời bấy giờ và ngay cả hiện nay, nó mang dáng vẻ kiến trúc cổ châu Âu thời phục hưng, cổ kính và sang trọng bậc nhất Sài Gòn ngay khi xây xong vào năm 1925. Mua ve chai nhặt được vàng Đó là giai thoại được kể nhiều nhất khi nói về chú Hỏa, trong đó có nhiều điểm trùng nhau, ví dụ sinh thời chú Hỏa làm nghề mua bán ve chai. Nhiều người kể, có dịp vào nhà chú Hỏa lúc trước giải phóng đã nhìn thấy đôi quang gánh đặt trong tủ kính, chưng giữa nhà như vật vừa trang trí, vừa là kỷ niệm thuở hàn vi. Rất nhiều người kể, trong một lần thu mua ve chai, chú Hỏa nhặt được cả túi vàng nằm trong một chiếc ghế nệm cũ; người khác nói chú mua được bức tượng đúc đồng nhưng bên trong đầy vàng. Còn theo một số người khác, khi lê la hầu như khắp Sài Gòn - Chợ Lớn để thu mua những thứ bỏ đi của thiên hạ, chú Hỏa đã mua trúng đồ cổ, "chú thạo chữ Hán nên biết trong đám đồ người ta vứt ra đó có đồ cổ từ thời Nguyên, đời Thanh, thậm chí từ đời Hán". Một giai thoại nữa cho rằng chú Hỏa rất rành về phong thủy nên đã an táng mộ cha đúng long mạch nên làm ăn phát đạt. Số khác cho rằng chú vốn dòng dõi nhà Minh, do ly loạn nên tạm chôn giấu của cải để lánh thân, về sau chú trở lại quê nhà Trung Quốc, đào số của cải gia bảo ấy lên mang sang làm vốn hùn hạp làm ăn với người Pháp rồi dần dà phát đạt. Số khác lại cho rằng vào thời ấy chú đã là ... đại lý ve chai, khấm khá, chú chuyển sang mở tiệm cầm đồ, một mặt mua đất cất nhà bán hoặc cho thuê. Nói theo ngôn ngữ bây giờ thì chú là "trùm nhà đất", mà "kinh doanh bất động sản thì thời nào chả chóng phất" - nhiều người bình luận. Một giả thuyết khác cho rằng chú Hỏa đã làm việc với một chủ người Pháp, nhờ tính siêng năng lại thật thà nên ông chủ Pháp thương, giúp chú vốn liếng mở tiệm cầm đồ và buôn bán. Các giai thoại trên đều mơ hồ nhưng có một thực tế ít ai đề cập đến đó là ngoài sự cần mẫn làm ăn, chịu khó, chú Hỏa còn có một đầu óc kinh doanh siêu hạng. Không chỉ nổi tiếng trong nước, bấy giờ, chú Hỏa còn lừng lẫy khắp Đông Dương không chỉ bởi gia sản kếch sù mà còn bởi sự thức thời. Chú có hơn chục người con thì hầu hết được cho du học tại các nước lớn như Anh, Pháp, Đức, Nhật... Được biết, các con chú ai nấy đều học hành thành đạt, mỗi người đều được nhập quốc tịch, được lưu lại làm việc ở nước sở tại. Dinh thự có 99 cửa Nằm ở khu tứ giác đắc địa của Sài Gòn là Phó Đức Chính - Lê Thị Hồng Gấm - Calmette - Nguyễn Thái Bình, hiện tòa nhà được dùng làm Bảo tàng Mỹ thuật thành phố. Từ trước 1975 đã có rất nhiều lời đồn đại, cho rằng ngôi nhà này có... ma! Nhiều người kể đã nhiều lần nhìn thấy bóng trắng thấp thoáng lướt đi qua các dãy hành lang trong đêm khuya, người khác khẳng định đã nghe hồn ma đêm đêm hiện về gào khóc. Giai thoại ngày càng nhiều, đến nỗi trước 1975 có cả một bộ phim tựa đề "Con ma nhà họ Hứa" (hãng phim Dạ Lý Hương, đạo diễn Lê Mộng Hoàng), gắn liền với tên tuổi các ngôi sao màn bạc Việt Nam thời bấy giờ như Bạch Tuyết, Thanh Tú, Dũng Thanh Lâm, Thanh Việt, Tùng Lâm, bà Năm Sa Đéc... Bộ phim gây tiếng vang lớn, là một trong những bộ phim ma đầu tiên trong nền điện ảnh Việt Nam, dù kỹ thuật "nhát ma" của ta lúc ấy được xếp vào hàng ... thô sơ. Tòa nhà vốn là dinh thự chính của chú Hỏa, được thiết kế rất đẹp và độc đáo theo phong cách Art décort, kiểu dáng kiến trúc cổ hòa hợp giữa hai trường phái xây dựng Á-Âu, tường nhà được đúc kiên cố, dày từ 40-60cm. Ngôi nhà hiện đã trên trăm tuổi, được xây dựng vào những năm 20 của thế kỷ trước. Tương truyền khi thiết kế, dinh thự này có một trăm cửa lớn, cửa nhỏ và cửa sổ. Thế nhưng, Toàn quyền Đông Dương khi duyệt thiết kế đã bắt chủ nhân bỏ đi một cửa và không được mở cổng chính với lý do cổng này to hơn cổng Dinh Toàn quyền, vậy nên hiện nay dinh thự chỉ có chín mươi chín cửa. Phía trên cổng vẫn còn logo với chữ "H.B.H"- Hui Bon Hoa Mặt bằng tổng thể khối nhà hình chữ U, cấu trúc bên trong tòa nhà hiện bao gồm: tầng hầm dành cho khối văn phòng làm việc; tầng trệt dành cho các gallery hoạt động triển lãm và kinh doanh tranh như Không Gian Xanh, Lạc Hồng, Nhật Lệ, Spring...; lầu 1 là nơi trưng bày tranh tượng mỹ thuật; lầu 2 trưng bày các đồ gốm sứ, thủ công mỹ nghệ truyền thống. Chính thức thành lập từ năm 1987 và đưa vào hoạt động năm 1992, cho đến nay số hiện vật được trưng bày tại Bảo tàng Mỹ thuật TP đã lên đến gần 20.000, trên diện tích hơn 4000 m², đây là nơi lý tưởng để tổ chức các hoạt động triển lãm và sinh hoạt văn hóa nghệ thuật. Nguồn: vanhoaphuongdong.com ======================================== BÀI CỦA THÀNH VIÊN CHIMBOICA BÊN TRANG THẾ GIỚI VÔ HÌNH Giới thiệu: Công Minh ======================================== NGHI ÁN PHONG THỦY TRONG CĂN NHÀ CHÚ HỎA Công Minh
    1 like
  43. Tiểu Phương biết 1 người, chỉ cầu tâm an, cầu 1 cuộc sống yên bình. Bởi số phận người ta đã quá đa đoan, bởi con người của họ thấy việc là làm, thấy người là giúp, ... hoặc bởi cái nghiệp bản thân.Xem ra, được 1 cuộc sống yên bình chính là điều khó khăn nhất đấy LC ạ, và đại đa số khi về già khi đã đủ chiêm nghiệm, đều chỉ mong cuộc sống bình yên đó sao??? TP cũng thế, đôi lúc cũng muốn được như Lệnh Hồ ca, phong lưu tiêu sái, tấu khúc tiếu ngạo sau khi tu bình rượu, ngao du khắp nơi, 1 bình rượu và 1 cây sáo, chẳng lo nghĩ chi tới cơm áo gạo tiền, chẳng phải là thần tiên lắm sao??? Nếu LC biết tên nào mà cuộc đời được yên bình, chỉ TP nhé, TP sẽ đổi ngay lập tức.
    1 like
  44. Kính thưa quí vị và anh chị em quan tâm. Để bài viết thêm phong phú về nội dung và có tính minh chứng rõ hơn những luận cứ trong Phong Thủy Lạc Việt. Chúng tôi cần những hình ảnh minh họa cụ thể, mà lúc đầu tôi tưởng có sẵn trong bài viết vào năm 2008. Nhưng đến nay, chúng tôi đã không lưu giữ được nhình hình này. Vì vậy, chúng tôi xin khất vaòi ngày nữa sẽ chụp anh cụ thể những hình ảnh thuyết minh cho bài viết - lúc đó sẽ thực hiện. Xin thành thật cáo lỗi.
    1 like
  45. Nguyễn Cao Cường. Tên này cát ít hung nhiều, được thiên cách, địa cách, nhân cách đều cát, nhưng ngoại cách đại hung đến nỗi Tổng cách đại hung. Người mang số trên có ý chí kiên cường, có đầu óc tính toán tốt nên kinh doanh dễ kiếm tiền, được về tài lộc nhưng ko thành công trong công danh sự nghiệp. Cũng là một người đa tài đa cảm, nhạy cảm đó chứ. Nhưng dễ bị phá quân cư thê, lép vế với vợ :D :D :D - cái này ko biết là tốt hay là xấu nữa. Người này kiếm tiền khá dễ dàng, nhưng bất ổn luôn rình rập, cẩn thận sức khỏe vì hay đau đầu và có tai họa bất ngờ, - theo đúng sách thì có thể mất vợ con hoặc bị ốm nặng Cũng là người nghĩa hiệp, hay giúp đỡ người khác, được mọi ng tin tưởng yêu quí, nhưng ko hiểu sao lại lép vế trước vợ tới thế??? Hay là vì quá yêu???
    1 like
  46. :D 53 tuổi muh vẫn đào hoa, các bác QN và Học Trò xem thế nào để học tập đi nhé :D Hỏi không phải để xem tuổi mà để có đôi nhời nói với cô em dư lày. Thế nào là đào hoa? Nếu chỉ là được người khác phái để ý quyến luyến thì về nói với mẹ em kệ cm nó đi, lo làm gì cho mệt xác :) Thời gian lo đấy để tự chiều mình, tranh thủ đi spa làm đẹp, shopping vui vẻ có phải hơn không, đằng nào cũng là tiền của... chồng, tội giề <_< Còn nếu ba em có "bồ nhí" nhá, chia làm 2 loại dư lày: 1. Ong bướm lả lơi qua đường <_< coi như thêm tí gia vị vào cuộc sống. Cái này dễ cắt, có điều cắt xong... dễ mọc nhánh mới :D để tiệt thì cứ làm theo lời các anh HT, QN và LC, mua thực phẩm bổ dưỡng về táng. Hoặc cho ăn nhiều thịt nhiều mỡ nhiều đồ bổ vào, không tiểu đường thì cũng bị Gut, lúc đấy cũng bó cả tay lẫn 3 chân thôi :D 2. Yêu như thật :) thế này thì em bảo mẹ đầu hàng cho nó nhanh. Đàn ông chừng này tuổi, họ không "dại dột" bị lừa nữa đâu, mà là thật, làm thật, muốn thật. Có zời nó cản :D làm mạnh tay quá, lôi cơ quan đoàn thể ra dọa, động tới tự ái sĩ diện của người ta :D thì họ không hoạt động công khai nữa mà lui vào bí mật, lúc đấy lại càng có zời mới tìm ra. Vài nhời với em dư thế, tất nhiên có dững cách độc ác khác, nhưng thứ lỗi Du Ca không thể bày cho em được :D
    1 like
  47. Nhân đây Các Bác cao nhân xem giúp số em có được sống gần Ba Mẹ không? Cảnh - Vô Vong: chắc sẽ xa cha mẹ. Con gái theo chồng tỷ lệ ở xa sẽ nhiều lắm. vận mệnh của em vào năm sau được không ạ, Tử - Đại An: nói chung là hơi buồn phiền 1 tý nhưng không nhiều. Sinh xuất bất lợi nhưng ko nhiều. và năm sau em nên thận trọng vào tháng nào không ạ? Đầu năm, mùa xuân.
    1 like
  48. NHẬN ĐỊNH THỊ TRƯỜNG TUẦN 20 – 24/12/2010 của Vietstock: Triển vọng ngắn hạn: Xét các yếu tố vĩ mô trong tuần tới vẫn chưa có nhiều cải thiện, tuy nhiên nền kinh tế đang dần ổn định hơn. Đối với chỉ số giá tiêu dùng (CPI) là một trong những yếu tố đáng chú ý vào tuần tới, chúng tôi cho rằng con số thực tế dù cao nhưng vẫn nằm trong kỳ vọng của nhà đầu tư. Do vậy, nhiều khả năng thị trường sẽ không bị ảnh hưởng nhiều bởi thông tin CPI. Diễn biến phiên tăng điểm vào cuối tuần này cho thấy nhà đầu tư đang kỳ vọng vào đợt sóng này của thị trường sẽ kéo dài đến hết năm dương lịch. Đây là một yếu tố hỗ trợ tích cực cho những phiên giao dịch tuần sau. Do vậy, chúng tôi đánh giá triển vọng của thị trường khá tích cực. Tuy nhiên, áp lực bán ra đối với những cổ phiếu tăng giá mạnh sẽ ngày càng cao. Trong khi đó dưới góc nhìn phân tích kỹ thuật VN-Index điều chỉnh trong một vài phiên trước chưa đến mức cảnh báo. Sự thoái lui này có thể chỉ là điều chỉnh kỹ thuật do sự bứt phá mạnh của giá trong các đợt phục hồi trước. Hiện tượng throwback có lẽ đã kết thúc và trong những phiên đầu tuần sau giá có thể tiếp tục bứt phá. Đối với HNX-Index áp lực điều chỉnh cuối cùng cũng đã qua khi mà giá đã phá vỡ trở lại Fibonacci Retracement 261.8%. Đây là tín hiệu tốt vì nó cho thấy các tín hiệu nhiễu đã bị loại bỏ. Phân tích kỹ thuật chỉ số VN-Index Phân tích kỹ thuật chỉ số HNX-Index Triển vọng trung và dài hạn: Hiện tại dù kinh tế vĩ mô chưa có nhiều cải thiện, đặc biệt sau việc Moody’s hạ tín nhiệm của Việt Nam cho thấy nền kinh tế vẫn đá khá rủi ro. Tuy nhiên, nhìn về dài hạn Việt Nam vẫn còn rất nhiều tiềm năng tăng trưởng. Trên thị trường chứng khoán, dù VN-Index sắp phục hồi về mức cuối năm 2009, tuy nhiên giá của phần lớn cổ phiếu vẫn còn giảm khá sâu so với thời điểm đó. Chỉ số P/E, và P/B của thị trường Việt Nam vẫn còn rất hấp dẫn so với phần lớn các nước trong khu vực. Trong khi đó dưới góc nhìn phân tích kỹ thuật VN-Index một lần nữa giá lại vượt lên trên SMA 200. Xu hướng trung hạn chưa có thay đổi lớn và giá vẫn đang ở sóng III tăng giá dài hạn. Phân tích kỹ thuật của HSC: Ngày 17/12/2010, VNINDEX tăng 5.08 điểm, tương đương 1.06% đóng cửa ở mốc 485.29 điểm. Tổng khối lượng khớp lệnh là 69.21 triệu cổ phiếu, thấp hơn -5.42% so với phiên trước và cao hơn 78.43% so với khối lượng trung bình 90-ngày. Độ rộng thị trường tích cực, với số mã tăng nhiều hơn số mã giảm (A/D ratio là 6.7) với 215 mã tăng, chỉ có 32 mã giảm. Quan điểm phân tích ngắn hạn: Thị trường tăng điểm mạnh hôm nay sau khi giảm chạm mức thấp trong ngày tại 476 điểm tại đường EMA 9 ngày. Thị trường tăng điểm, tuy nhiên khối lượng lại suy giảm, điều này cho thấy mặc dù cầu vẫn cao hơn cung nhưng lực mua là không mạnh ngày hôm nay. Chúng tôi thấy tín hiệu phân kỳ của RSI (5) ngày cho thấy tín hiệu cảnh báo. Trong đầu tuần sau, thị trường nhiều khả năng sẽ kiểm định mức đỉnh cũ 497 một lần nữa. Tuy nhiên nếu thanh khoản không được cải thiện khi thị trường tiếp cận vùng kháng cự này, vùng kháng cự 497-500 nhiều khả năng sẽ được giữ và thị trường sẽ quay lại retest vùng hỗ trợ dưới của mình. Tóm lại, chúng tôi vẫn lạc quan trọng trung hạn nhưng cẩn trọng trong ngắn hạn và khuyên các nhà đầu tư ngắn hạn không nên mua đuổi giá. Thách thức đối với đà tăng điểm: Vùng 497-500 nơi có đường internal trendline, ngưỡng Fibonacci Retracement 61.8% của đợt suy giảm tháng 05/2010, Fibonacci Extension 161.8% và đáy ngắn hạn vào ngày 20/05/2009 trở thành vùng kháng cự gần nhất cho thị trường. Vùng hỗ trợ đáng chú ý: Vùng hỗ trợ gần nhất xung quanh 468 (+/-2) ở tại ba đỉnh ngắn hạn gần đây và ngưỡng Fibonacci Retracement 38.2%, đường EMA và khoảng trống tăng giá ngày 10/12/2009. Quan điểm phân tích kỹ thuật trung hạn: Xu hướng trung hạn là tăng. Trong xu hướng trung hạn tăng, thị trường sẽ tạo ra đáy mới cao hơn đáy cũ và đỉnh sau cao hơn đỉnh cũ. Nhà đầu tư nên tận dụng những đợt điều chỉnh ngắn hạn để mua vào cổ phiếu. Chiến lược giao dịch: Trung tính. Nhà đầu tư trung và dài hạn nên mua khi điều chỉnh. Nhà đầu tư lướt sóng ngắn hạn nắm giữ. ------------------------------------------------------------- ĐP: Tuần từ 20/12/2010 đến 24/12/2010 VNI có tăng không? Giờ Tý ngày 13/11/Canh Dần: Quẻ Sinh Đại An: Tăng tốt, ổn định. VNI giai đoạn quẻ Khai Đại An là sóng 1/III, trong sóng 1/III lại có 5 sóng nhỏ 1-2-3-4-5. Cụ thể sóng nhỏ như sau: Làm tròn số (Lấy dung sai +5,-5). -Sóng 1 VNI từ 420 - 470: Đã kết thúc 6/12/2010. -Sóng 2 VNI từ 470 - 450: Đã kết thúc 9/12/2010. -Sóng 3 VNI từ 450 - 500: Đã kết thúc 14/12/2010. -Sóng 4 VNI từ 500 - 480: Đã kết thúc 17/12/2010. +Sóng 5: Dự đoán sẽ lên 520-550. Theo TA thì fib 261,8 đo sóng 1 là 548, Fib 161,8 đo sóng 3 là 527. Khả năng cao là 530+,-5. :D :D :D
    1 like
  49. Vài lời giới thiệu về Thần Chú Thần chú tiếng phạn gọi là Mantra, bao gồm 2 chữ "Man" nghĩa là năng lực suy nghiệm (Thần) và "tra" (hậu tố từ) nghĩa là "chú = phương tiện" là lời, là tiếng, dùng làm phương tiện để diễn đạt. Như vậy, "Thần chú" là phương tiện để suy nghiệm dẫn khởi một sự nối kết giữa thân tâm (vật chất và tinh thần) bằng âm thanh cô động. Chú hay Thần chú cũng có nhiều tên gọi khác nhau như: Chân ngôn, Chân âm, Mật ngữ (Mật ở đây là sự chứng tỏ mối liên hệ Mật thiết bên trong của sự vật hiện tượng và tinh thần. Đừng nên nhầm lẫn chữ Mật là Bí mật). Trong Phật giáo Thần chú là những lời mầu nhiệm chứa đựng năng lực đặc biệt đưa đến kết quả siêu việt áo nghĩa trở thành phương tiện trợ giúp tâm thức cho thân, khẩu, ý (thân mật, khẩu mật và ý mật). Vì nếu chỉ thờ, lạy và cúng Phật, thì cũng chưa có thể gọi là trọn vẹn thuần thành, cho nên còn phải thêm phần tụng kinh, trì chú và niệm Phật để viên dung Sự và Lý. Thần chú hay được lặp đi lặp lại trong các buổi tu tập hành trì, đặc biệt là Mật Tông thực hành để thanh lọc thân khẩu ý bất tịnh trở thành thanh tịnh và thực chứng được Pháp thân mà hiển bài Báo thân hay Hoá thân trần thế này. Chú cũng có nhiều loại khác nhau, dài hay ngắn tùy theo môn phái. Trong lúc niệm Thần chú phải tập trung lên mặt chữ (các chữ đó hiện thành dụng ảnh) hay lắng nghe từng âm thanh của nó (Các tiếng đó biến thành vọng âm). Trong chương 5 của tác phẩm Subāhupariprcchā có ghi cách đọc tụng chú như sau : Đừng quá gấp rút. Đừng quá chậm rãi. Đọc đừng quá to tiếng. Đừng quá thì thầm. Không phải lúc nói năng. Không để bị loạn động. Thần chú không phải là một công thức bất động và không phải là những sóng âm thanh tác động để kêu gọi sự trợ giúp của chư Phật hay Bồ tát giúp chúng ta thoát khỏi khổ đau hoặc tiêu trừ nghiệp chướng. Thần chú chỉ là một phương tiện trợ giúp tinh thần, tri thức, ý chí qua sự nhất tâm bền vững để kết thành năng lực tối cao. Chính nhờ năng lực này Tâm trong sạch và thành thực mới cứu vớt được chúng ta. Như Đại sư Milarepa nói : "Khi chư vị tự hỏi ác nghiệp có được tiêu trừ hay không, chư vị nên biết rằng : nó chỉ tiêu trừ bằng sự ước mong của thiện tâm". Đọc Thần chú là khẩu mật (Khẩu là lời do miệng phát ra. Mật ở đây là sự chứng tỏ mối liên hệ Mật thiết bên trong của sự vật hiện tượng và tinh thần. Đừng nên nhầm lẫn chữ Mật là Bí mật). Cần nên học hỏi rõ ràng qua sự hướng dẫn của một vị tăng hay một đạo sư. Câu thần chú Hán Việt được nhiều người Phật tử đọc là : Úm ma ni bát di hồng. Một câu chú lâu đời của Phật giáo Tây Tạng, và cũng xem là Chân ngôn Bồ Tát Quán Thế Âm để bảo hộ hành giả vượt thẳng vào Phật quả hoặc vào hàng tứ Thánh. Ngoài câu chú ngắn đã kể trên, còn có bài chú căn bản này qua những tên sau : chú Đại Bi, Đại Bi Tâm Đà La Ni (Maha Karunika citta Dharani),Thiên Thủ Thiên Nhãn Quán Thế Âm Đại Bi Tâm Đà La Ni, Quảng Đại Viên Mãn Vô Ngại Đại Bi Tâm Đà La Ni, Thiên Thủ Thiên Nhãn Quán Tự Tại Bồ Tát Quảng Đại Viên Mãn Vô Ngại Đại Bi Tâm Đà La Ni, Thanh Cảnh Đà La Ni.... để minh họa công đức nội chứng của Đức Quán Tự Tại Bồ Tát (Avalokiteśvara Bodhisatva). Theo kinh Mahakarunikacitta, bài chú này được Bồ tát Quán Thế Âm đọc trước một cuộc tập họp của các Phật, bồ tát và các vua quan, cũng như câu Om Mani Padme Hum. Đại Bi chú được 2 Đại sư Phật giáo dịch ra : Ngài Không Kim Cương (tiếng Phạn là amoghavajra) hay gọi ngắn là Bất Không (Phạn ngữ là amogha), Tước hiệu là Trí Tạng Sanh năm 705 tại nước Sư Tử (nước Tích Lan Sri Lanka bây giờ) và mất năm 774. Một Đại sư của Mật tông và cũng là một trong bốn dịch giả danh tiếng nhất của Thánh điển Phật giáo tại Trung Quốc, song song với Cưu-ma-la-thập. Chân Đế và Huyền Trang. Sư được xem là vị Tổ thứ sáu của Mật giáo và người đệ tử của Ngài được đích truyền là sư Huệ Quả, được xem là Tổ thứ bảy của Mật tông Trung Quốc. Một đệ tử quan trọng khác là Huệ Lâm. Ngài Kim Cương Trí ( tiếng Phạn là Vajrabodhi ) hay Kim Cang Trí, sanh năm 671 và mất năm 741. Một Đại Sư Phật giáo cũng là Thầy của Ngài Không Kim Cương và Thai Tạng. Sư sinh ra trong một gia đình Bà La Môn tại Malabar, Nam Ấn, theo học đạo tại Na Lan Đà từ năm lên 10 tuổi. Sau đó đi qua các vùng khác của Ấn Độ và đã học rất nhiều giáo lý Đại Thừa như : Duy Thức Luận, Trung quán Luận, Du Già Luận. Năm 31 tuổi, Ngài đi đến Tích Lan và thọ nhận pháp Mật Tông với Đại Sư Long Trí ( tức Ngài Pháp Mật hay Phổ Hiền ). Sau 7 năm am tường Mật Giáo, Sư trở về Trung Ấn. Một thời gian sau, Sư đi đến Java với một đồ đệ 14 tuổi, chính là Ngài Bất Không Kim Cương sau này, rồi tiếp tục du hành sang Trung Quốc. Cuối năm thứ 7 Khai Nguyên (719) nhà Đường. Tại đây Sư lưu lại ở các chùa Tư Thánh và Đại Tiến để dịch kinh. Trong đó có các bộ kinh Kim Cương Đỉnh Du Già được lưu truyền phổ biến. Ngài đã truyền lại rất nhiều giáo lý Đại Nhật và Kim Cương. Ngài cũng được tôn là bậc Thầy của hệ Kim Cương và Thai Tạng. Dòng truyền thừa của Sư Kim Cương Trí được xem là dòng Chính Mật và nhánh truyền thừa của Ngài như sau : Đại Nhật Như Lai | Kim Cương Tát Đỏa | Long Thọ | Long Trí | Kim Cương Trí. Sau này Đại Sư Không Hải, tổ của Chân ngôn tông, Nhật Bản cũng nhận pháp từ chính dòng này theo nhánh truyền thừa như sau: Kim Cương Trí | Bất Không Kim Cương | Huệ Quả | Không Hải. Đại Bi chú có nhiều bản dịch khác nhau qua sự tìm hiểu và nghiên cứu của các Bậc Đại sư trên thế giới từ xưa, và nhiều cách chia câu không giống nhau so với bản chữ Phạn thì các cách trên không đúng phép ngắt câu văn phạm, nhưng không quan trọng. Chủ yếu là nội dung không thay đổi Chú Đại Bi có hết thảy 84 câu và 415 chữ, là bài Tổng Trì của ngài Quán Âm Thiên Thủ Thiên Nhãn. Các Tổ xưa thường hay cặp đôi Đại Bi với Bát Nhã, vì Từ Bi và Trí Tụê là đôi bạn không thể rời nhau trong dòng giáo truyền. Tran thanh Trich nguon : http://chua-phuoc-binh.com/
    1 like
  50. Vâng! Cảm ơn anh 'trai_viet_o_houston' đã có tín nhiệm hỏi tôi. Tôi xin được trả lời tóm tắt thế này:I - Theo lý thuyết khoa học hiện đại. Trước hết, mời Trai Việt tham khảo bài số 208 theo đường link này: http://www.lyhocdongphuong.org.vn/diendan/...2490&st=200 Như vậy chúng ta thấy rằng: Bắt đầu từ sự tương tác từ những thực tại ít ỏi trong giai đoạn khởi nguyên vũ trụ - qua quá trình tương tác qua lại thì ngày càng nhiều thực tế tồn tại xuất hiện tiếp tục tương tác lẫn nhau - cho đến hiện nay, được thể hiện qua mô hình dưới đây: Như vậy, đây chính là đồ hình mô phỏng sự tương tác từ đơn giản đến phức tạp tạo ra các sản phẩm tồn tại trên thực tế trong vũ trụ - trong đó có trái đất của chúng ta, nơi sinh ra các sinh vật có ý thức mà đỉnh cao chính là con người. Đỉnh Kim tự tháp coi là sự khởi nguyên của vũ trụ và đáy chính là giai đoạn hiện nay của vũ trụ. Từ đỉnh cho đến đáy là trục thời gian. Bây giờ chúng ta lấy một điểm bất kỳ trong đồ hình Kim Tự tháp Vonfram ở trên vào giai đoạn xuất hiện trái đất - thì - chúng ta sẽ thấy điều kiện tương tác của môi trường để xuất hiện trái Đất qua mô hình này sẽ không giống bất cứ một điểm nào khác. Khoa học hiện đại xác định rằng: Bản chất tương tác thế nào thì sự vật, sự việc hình thành như thế đó. Bởi vậy, với điều kiện môi trường khác nhau, không thể tạo ra một trái đất thứ hai, hay một khả năng tạo ra một hành tinh nào đó để sau đó nó có sự phát triển tiến hóa hình thành ra những sinh vật có ý thức như trên trái Đất chúng ta. Bây giờ chúng ta chọn vài điểm giống nhau từ đồ hình trên thì chúng ta thấy rằng: Điều kiện chung quanh điểm giống nhau đó hoàn toàn khác nhau. Hay nói một cách khác: Giả sử tất cả các điểm trong đồ hình trên đều giống nhau thì sự tương tác cũng khác nhau, do chúng ở vị trí khác nhau, nên tương tác khác nhau. Huống chi chúng lại không giống nhau trong từng vùng điểm. Cũng trên cơ sở này, tôi cũng đã xác quyết rằng: Không thể có nước trên mặt trăng. Tôi đã xác định đúng. II - Theo Lý học Đông phương. II - 1: Khái quát. Như tôi đã nhiều lần trình bày: Thuyết Âm Dương Ngũ hành, lý thuyết nền tảng của Lý học Đông phương chính là Lý thuyết thống nhất vũ trụ. Về chủ quan của tôi thì đã xác quyết điều này và tôi tiếp tục nghiên cứu theo xu hướng đã xác quyết của tôi. Còn về trình bày khách quan thì tôi coi như một giả thuyết có cơ sở và tôi giả thuyết rằng nó đúng. Lý thuyết này phân chia mọi sự vật, sự việc theo Ngũ Hành trong sự chi phối của Âm Dương. Lý thuyết này có khái niệm sinh khắc của mọi hiện tượng tương tự với khái niệm tương tác của khoa học hiện đại. Lý thuyết này giải thích tất cả mọi hiện tượng từ khởi nguyên vũ trụ cho đến mọi vấn đề liên quan đến con người với khả năng tiên tri mà chưa một lý thuyết khoa học hiện đại nào đạt được (SW Hawking cũng thừa nhận sự hạn chế trong khả năng tiên tri của các lý thuyết khoa học hiện đại). Lý học cũng phân chia vũ trụ này thành 9 vùng quy ước theo Ngũ hành, từng vùng lại phân chia nhỏ hơn. Hay nói cách khác, sự sinh, khắc, thừa vũ của từng vùng trong vũ trụ cũng hoàn toàn khác nhau. Bởi vậy - nói theo cách nói của khoa học hiện đại - sự tương tác cũng hoàn toàn khác nhau cho từng vùng theo ngũ hành. Bởi vậy không thể xuất hiện một loại sinh vật có ý thức như ở Thái Dương hệ. II - 2: Hậu Thiên. Hậu Thiên bát quái chính là công thức miêu tả quy luật đặc thù của quy luật sinh khắc thừa vũ của vùng trời quanh Thái Dương hệ và Thái Dương hệ lên địa cầu và mô tả quy luật tiến hóa trên trái Đất - trong đó có con người với khả năng tiên tri. Khả năng tiên tri thật tuyệt vời , vượt xa tất cả kiến thức đầy tự hào của nền khoa học hiện đại. Nếu kiến thức này được ứng dụng thì ngay cả phi công bay trên siêu máy bay vũ trụ mà Hoa Kỳ đang thử nghiệm cũng phải coi là thần thánh. Qui luật đặc thù này của Hậu Thiên không thể lặp lại ở bất cứ nơi nào trong vũ trụ. III - 3. Tính thấy và cấu trúc vật chất. Tính thấy có trong tất cả vạn vật trong vũ trụ và trong cả hư vô. Đó chính là bản chất của Thái cực theo quan niệm của Lý học. * Chúa Jesu nói: Ta ở trong Cha ta, Cha ta ở trong ta và ở trong tất cả các người. Lời cầu nguyện thường nói: Chúa ở cùng cha (Linh mục) và ở cùng anh chị em. * Đức Phật nói (Đại ý): Tính thấy có từ vô thủy đến vô chung và là bản chất của sự thấy, có trong tất cả chúng sinh (Chúng sinh đều có Phật tính). * Lý học Đông phương nhân danh văn hiến Việt: Thái cực là cái tuyệt đối khởi nguyên của vũ trụ, không phân Âm Dương, tốc độ vũ trụ bằng /0/, chính là tính thấy. Đại ý vậy. Trên cơ sở này thì tính thấy bao trùm vạn vật từ hạt vật chất nhỏ nhất đến thiên hà khổng lồ. Vấn đề là cấu trúc vật chất như thể nào để tạo ra sinh vật có ý thức trong sự nhận biết của Tính thấy. Nhưng như tôi đã trình bày ở trên, không thể có tính tương tác giống nhau trong vũ trụ này để phát triển tiến hóa tạo ra sinh vật như trên trái Đất. Con người cô đơn trong vũ trụ này. Các sinh vật đang cùng tồn tại với chúng ta chính là kết quả rất hiếm hoi của vũ trụ. Bởi vậy Lý học đặt tính nhân bản lên hàng đầu và tính yêu thương với tất cả sinh vật trên thế gian. Bởi vì nó cô đơn trong vũ trụ. Con người chỉ có thể chia sẻ với chính đồng loại của mình. Cảm ơn Trai Việt và quí vị vì đã quan tâm
    1 like