• Thông báo

    • Bá Kiến®

      Nội quy Lý Học Plaza

      Nội quy này là bản mở rộng Nội Quy - Quy định của Diễn đàn. Khi tham gia mua bán, các thành viên phải tuân theo những quy định sau: Tiêu đề bài viết: Bao gồm: Chỉ dẫn địa lý, Loại hình Mua/Bán, Thông tin mua bán.
      Chỉ dẫn địa lý: Tỉnh/thành nơi mua bán. Hoặc sử dụng định nghĩa có sẵn:TQ: Toàn quốc
      HCM: TP Hồ Chí Minh
      HN: Hà Nội
      [*]Ví dụ: HCM - Bán Vòng tay Hổ Phách ​Nội dung bài viết: Mô tả chi tiết sản phẩm mua/bán
      Bắt buộc phải có thông tin liên lạc, giá Mua/Bán
      Bài mới đăng chỉ được phép up sau 03 ngày.
      Thời gian up bài cho phép: 01 ngày 01 lần.
      Các hành vi vi phạm nội quy này sẽ bị xóa bài hoặc khóa tài khoản mà không cần báo trước.

Leaderboard


Popular Content

Showing most liked content on 18/12/2010 in all areas

  1. Anh Lãn Miên Kính mến. Theo tôi hiểu thì trùng cửu là tháng và ngày cực Dương - tương ứng với mùng 5 - 5 là tháng và ngày cực Âm. Trong phương pháp luận của Lý học Đông phương, mối quan hệ Âm Dương rất phức tạp. Trong đó có mối quan hệ giữa các ký hiệu, khái niệm qui ước với thực tế. Trùng cửu là mối quan hệ có tính quy ước thuần túy lý thuyết về tính cực Dương, dựa trên cơ sở thực tại là chu kỳ ngày tháng trong vòng tuần hoàn năm. Đây là một biểu tượng của thuyết Âm Dương Ngũ hành thuộc về nền văn minh Lạc Việt. Rất cảm ơn anh vì bài viết nói trên. Hoangnt và anh chị em nghiên cứu Phong Thủy Lạc Việt thân mến. Anh chị em nên rất, rất lưu ý rằng: Truyền thống của tổ tiên ta không bao giờ gọi tháng đầu năm là Tháng một, mà gọi là tháng Giêng; Không gọi tháng cuối năm là tháng Mười Hai mà gọi là tháng Chạp; không gọi tháng giáp cuối năm là tháng Mười một , mà gọi là tháng "Một". "Một, Chạp, Giêng... hai" từ lâu là câu nói cửa miệng của ông cha ta. Chúng ta đừng nghi đến một nền văn minh Lạc hậu với người nông dân chân đất , áo nâu thật thà chất phác hay nói câu này thí không có gì quan tâm. Đó chính là những di sản cực kỳ huyền vĩ của tổ tiên chúng ta. Âm lịch không bao giờ lấy ba tháng Một - Chạp - Giêng có tháng nhuận. Cho nên ông cha chúng ta mới đặt những cái tên rất riêng như vậy để lưu ý con cháu đời sau. Điều này liên quan đến một kiến thức thiên văn vô cùng đồ sộ của tổ tiên chúng ta. Tháng Một cũng là tháng Tý tháng đầu tiên của 12 con giáp. Anh chị em nên nhớ rằng: Trong di sản văn hóa Việt ghi lại những dấu ấn vô cùng đồ sộ về một lý thuyết cổ xưa rất cao cấp. Để mất đi, thế hệ sau sẽ khó lòng khôi phục được. Do đó, ông cha nói thế nào thì - nếu chúng ta chưa hiểu - cứ biết như thế và ghi nhận, không chế biến cho khác đi.
    4 likes
  2. Thiệt sao HC ui, chủ quán nghe thế thik tít cả mắt W(^o^)W HC đang mong ngóng 1 tin nhắn hay 1 lá thư từ 1 anh [bạn], thích có 1 chuyến du lịch ngắn bằng tàu và có 1 căn phòng Hihi, sách thì nói rời rạc, ntpt thì không bít kết hợp sao, nên dịch chân chất là vậy :D NDK đang nghĩ vìa xiền, 1 khoản lợi nào đó về tài chính, hay 1 vật muốn sở hữu có màu trắng hay bạc
    2 likes
  3. Bị ngăn cản kết hôn vì không hợp tuổi Tôi tuổi Dần và anh tuổi Hợi. Mẹ tôi và mẹ anh đã ra sức ngăn cản chuyện tôi và anh yêu nhau, rồi đưa ra các dẫn chứng vợ chồng kỵ tuổi lấy nhau, người chồng đã mất khi còn rất trẻ. Tôi đau khổ và bối rối vô cùng. From: Xuân Thu Sent: Thursday, November 25, 2010 2:44 PM Kính gửi các anh chị Ban biên tập mục Tâm sự! Tôi viết câu chuyện của tôi với mong muốn duy nhất là có thể chia sẻ lòng mình cả với những người tôi không hề quen biết dù câu chuyện của tôi có lẽ đã thuộc vào đề tài quá cũ. Hơn 4 năm trước đây tôi đã gặp và nhận lời yêu người yêu tôi bây giờ. Tình cảm của chúng tôi đã trải qua rất nhiều sóng gió với hiểu lầm, không liên lạc và xa cách. Nhưng khi gặp lại nhau vào năm ngoái, cả hai chúng tôi đã quyết định quay lại. Chúng tôi là tình yêu đầu đời trong sáng và đã có rất nhiều kỷ niệm vui buồn, những lúc vượt qua khó khăn luôn ở bên nhau. Giờ đây khi cả hai có công việc ổn định và có thể tiến đến hôn nhân thì tình yêu của chúng tôi cũng đang đi đến lúc bế tắc vô cùng chỉ vì một lý do duy nhất: tôi và anh kỵ tuổi nhau. Tôi tuổi Dần và anh tuổi Hợi. Mẹ tôi và mẹ anh đã ra sức ngăn cản chuyện tôi và anh yêu nhau, rồi đưa ra các dẫn chứng vợ chồng kỵ tuổi lấy nhau, người chồng đã mất khi còn rất trẻ. Đọc đến đây có thể rất nhiều người sẽ nói rằng thời buổi nào rồi mà còn coi trọng chuyện tuổi tác trong hôn nhân. Nhưng có thể các anh chị nằm trong số ít không coi trọng chuyện này. Trong khi đó người Việt Nam rất xem trọng chuyện tuổi tác trong hôn nhân. Nếu lấy nhau trong sự ngăn cản quyết liệt của gia đình 2 bên hẳn tôi và anh đều sẽ không thực sự hạnh phúc. Tôi có thể khẳng định chúng tôi yêu nhau rất nhiều và tình yêu đã đủ lớn, đã được thời gian chứng minh. Nhưng tôi cũng không hiểu sao giờ đây tôi đang quyết định không liên lạc với anh để chúng tôi suy nghĩ lại chuyện này. Tôi có cảm nhận rằng tình yêu của tôi sắp ra đi. Tôi đau khổ và bối rối vô cùng. Các anh chị ai đã có kinh nghiệm giải quyết vấn đề này xin hãy chia sẻ cùng tôi. Hiện tại tôi cảm thấy hụt hẫng trong lòng. Rất mong Ban biên tập đăng bài viết này của tôi để tôi có thể tìm ra hướng đi đúng đắn cho bản thân mình. Chân thành cảm ơn anh chị! Thu http://vnexpress.net/GL/Ban-doc-viet/Tam-s...10/11/3BA237EF/ Hai mối tình của tôi đều tan vỡ vì không hợp tuổi Khi cô ấy nghe nói không hợp như vậy thì tinh thần yêu đương tan biến đi đâu mất và xoay 180 độ. Cô ấy nói thôi mình chỉ có duyên phận tới đó, dừng lại là đúng mức rồi. Tôi nghe mà không tin vào tai mình nữa. (Hung) Xem tiếp : http://vnexpress.net/GL/Ban-doc-viet/Tam-s...10/12/3BA23EAB/ Đau khổ khôn nguôi sau mối tình kỵ tuổi Phải chia tay anh, tôi hụt hẫng, đau khổ, mất niềm tin. Hơn một năm đầu tiên tôi đã đi tìm anh, nấp ở một góc nào đó để đợi anh đi làm về, để thấy bóng dáng anh cho đỡ nhớ, cho đến ngày anh có người khác thì tôi không còn đến tìm anh nữa. (Hien) Xem tiếp : http://vnexpress.net/GL/Ban-doc-viet/Tam-s...10/12/3BA23E2C/ -------------------------------------- Bài trả lời của TTNC Lý Học Đông Phương Kính gửi ban biên tập mục Tâm sự và quý bạn đọc, Mấy hôm nay chúng tôi theo dõi mục tâm sự và cảm thấy khá bức xúc vì các vấn đề về tuổi hợp hay không hợp trong hôn nhân. Là những người đã và đang nghiên cứu văn hóa truyền thống, nghiên cứu hệ thống lý học Phương Đông nên chúng tôi cũng muốn có đôi lời chia sẻ với quý bạn đọc.Chúng tôi viết bài này nhằm cung cấp cho quý vị quan tâm một cái nhìn đúng đắn hơn về vấn đề tuổi và tương tác tuổi trong mối quan hệ nam nữ. Trong truyền thống văn hóa Á Đông, lúc cưới vợ gả chồng thì những người có tuổi trong gia đình đều quan tâm đến vấn đề luận tuổi. Nhưng qua thời gian cũng như thăng trầm của lịch sử, ngày nay, việc luận tuổi đã bi thất truyền dẫn tới những quan niệm chưa chính xác, lệch lạc và trở thành một nỗi lo sợ vô lý cho các cặp trai gái yêu nhau muốn tiến đến hôn nhân. Và cũng qua cả ngàn năm nay, sự thất truyền, tam sao thất bản đã dẫn đến những phương pháp luận tuổi không đầu không đuôi, gây ra những cảnh dở khóc dở cười, chia ly vô cớ và đầy nước mắt của những đôi yêu nhau. Phương pháp phổ biến hiện nay đa số các “thầy” xem tuổi đều áp dụng phương pháp cung phy. Có 8 cung phi cho nam (Càn, Đoài, Ly, Chấn, Tốn, Khảm, Cấn, Khôn) và 8 cung phi tương tự cho nữ, kết hợp lại sẽ cho ra 64 trường hợp, hay còn gọi là 64 cặp tương tác (Càn – Đoài, Càn – Khảm, Đoài – Ly, Cấn – Tốn…), và kết quả của 64 cặp sẽ tương ứng với các chữ : Sinh Khí – Diên Niên – Phúc Đức – Phục Vị - Ngũ Quỷ - Tuyệt Mạng – Lục Sát – Họa Hại. Như vậy chỉ có 64 trường hợp tương tác tuổi. Chúng ta thử làm phép tính nhỏ, với nhân loại mấy tỷ người mà chỉ có 64 trường hợp để xem tốt xấu thì xác xuất giống nhau là rất lớn. Cứ 64 cặp thì có 1 cặp giống nhau. Có thể thấy rằng đây là điều thiếu logic. Ngoài ra, còn có phương pháp ít phổ biến hơn, đó là phương pháp Cao Ly Đồ Hình. Phương pháp này lấy 10 thiên can theo tuổi nam phối 12 địa chi theo tuổi nữ, sau đó sẽ có 1 bảng phân loại và định tuổi cát-hung. Nếu ta lấy 6 tỷ người trên thế giới và giả định có 1 tỷ cặp vợ chồng với trung bình có 4 con một cặp (ứng với 6 tỷ), đem chia cho 120 trường hợp thì ta sẽ có: 1000. 000. 000: 120 = Gần 8.300.000 triệu cặp vợ chồng có chung một hoàn cảnh. Chỉ cần 3/ 10 trong số 120 trường hợp phối cung đó chia ly hoặc chết thì ta sẽ có 8.300.000 x 36 = 298. 800. 000 cặp vợ chồng ly tan. Và hơn 1 tỷ trẻ em mồ côi trên thế gian này. Phổ biến nhất hiện nay là tình trạng trong dân gian vẫn lưu giữ và truyền miệng những câu như “Dần Thân Tỵ Hợi” “Tý Ngọ Mão Dậu” “Thìn Tuất Sửu Mùi” là Tứ hành xung, hoặc “Canh cô Mậu Quả”, “gái tuổi Dần”, nhưng người ta quên rằng đằng sau những câu trên là cả 1 hệ thống lý thuyết hoàn chỉnh các mối quan hệ của Thiên can, Địa chi, mạng. Qua các phương pháp trên, các bạn cũng có thể nhận thấy thiếu sự hợp lý và khập khiễng trong phương pháp luận tuổi. Nhưng đáng tiếc là sự coi tuổi khập khiểng này đã tồn tại trên thực tế và ăn vào tiềm thức của các bậc ông bà cha mẹ, làm họ tin một cách mù quáng. Các phương pháp coi tuổi vợ chồng khập khiễng trên từ những vị thầy nửa mùa, chẳng hiểu thấu lý, nên vô tình đã để lứa đôi tan nát. Để thay đổi những quan niệm sai lầm trên, chúng tôi cần thấy phải có một phương pháp hoàn chỉnh, logic, nhằm giúp cho những đôi lứa yêu nhau đến được với nhau. Chính vì vậy chúng tôi, những người làm công việc nghiên cứu tại trung tâm nghiên cứu Lý Học Đông Phương đã tổng hợp, nghiên cứu và kiểm nghiệm để có được một phương pháp luận tuổi đúng đắn, hợp lý và mang tính khái quát cao nhất. Phương pháp này chúng tôi đặt tên là “Luận Tuổi Lạc Việt” với sự điều chỉnh mạng Thủy – Hỏa trong Lạc Thư Hoa Giáp so với Lục Thập Hoa Giáp của Trung Quốc nhằm chứng mính cách so tuổi vợ chồng còn sót lại trong dân gian hiện nay chỉ là những mảnh vụn rời rạc, không hoàn chỉnh dẫn đến những sai lầm tai hại. “Không có tuổi vợ chồng xấu trong tình yêu đôi lứa đích thực” và “yêu nhau cứ lấy” là quan điểm của chúng tôi. Ngoài ra, tương quan vợ chồng chỉ là những điều kiện ban đầu, khi gia đình có con thì tương quan này sẽ thay đổi tốt hoặc xấu phụ thuộc vào tuổi đứa con có hợp với cha mẹ hay không, đặc biệt là con út! Ông bà ta có câu “giàu con út, khó con út” Theo phương pháp này, tương tác giữa người với người xảy ra ở cả 3 yếu tố Thiên can, Địa chi và Mạng thông qua mối quan hệ về ngũ hành sinh khắc và nguyên lý âm dương. Như vậy, để dể hình dùng, ta có thể làm phép tính như sau : 60 tuổi nam phối 60 tuổi nữ, cùng với tuổi của 60 đứa con út có khả năng sinh ra theo tương quan tuổi vợ chồng, Tức là ta sẽ có: 60 x 60 x 60 = 216.000 trường hợp khác nhau. Xác xuất để tinh toán cao hơn nhiều lần so với các phương pháp trên. Ở đây, chúng tôi chưa nói đến các cách cục tốt trong việc phối tuổi vợ chồng và con cái trong gia đình. Nhưng vấn đề không dừng lại ở những con số khô khan và phương pháp lạnh lùng. Phương pháp “Luận tuổi Lạc Việt” còn có tính nhân bản ở chỗ là nó khẳng định một cách hợp lý theo thuyết Âm Dương Ngũ hành về tình yêu nam nữ -"Yêu nhau cứ lấy" và sinh đứa con chính là nguồn hạnh phúc gia đình, dù tuổi cha mẹ có khắc nhau đi chăng nữa. Và một vấn đề chúng tôi cũng muốn chia sẻ với quý bạn đọc, đó là “tuổi tác” là một trong những điều kiện tương tác mang tính căn bản ảnh hưởng đến một hoặc nhiều mối quan hệ giữa người với người, chứ không có nghĩa tuổi tác sẽ quyết định mọi thứ diễn ra xung quanh bạn. Có rất nhiều các yếu tố khác ảnh hưởng đến cuộc sống của mỗi các nhân, mỗi gia đình như : hoàn cảnh gia đình, công việc, thu nhập, tính cách cá nhân… Chính vì vậy khi gặp các vấn đề nan giải trong cuộc sống, các bạn không nên quy hết vào lý do… không hợp tuổi, để rồi có những đáng tiếc xảy ra và xã hội lại tiếp tục duy trì những quan niệm không chính xác về việc xem xét tương quan tuổi giữa người với người! Xin chân thành cám ơn quý báo và quý bạn đọc. Thiên Luân Trung Tâm Nghiên Cứu Lý Học Đông Phương.
    1 like
  4. XIN SƯ PHỤ VÀ CÁC CAO NHÂN XEM VÀ CHO Ý KIẾN KIẾN NGHỊ XEM THÊM CHỌN TUỔI HỢP XÔNG ĐẤT ĐẦU NĂM Hướng, giờ tốt xuất hành đầu năm Tân Mão 2011 3 ngày Tết đầu năm xét theo Cửu tinh và Sinh khắc can chi thì có sự đánh giá ngược nhau giữa hai lịch,. Theo cách tính sinh khắc can chi 3 ngày đầu năm đều không được tốt nhưng theo cách tính Cửu tinh thì cả 3 ngày đều đẹp. Riêng ngày mùng 1 là ngày khi kết hợp tham khảo thêm lịch Hoàng Đạo là ngày Minh Đường (đẹp) và cách tính thập nhị chỉ Trực là Trực Kiến (đẹp) nên ta có thể coi đây là ngày bình thường còn ngày mùng 2 và mùng 3 đều không được tốt. Vì vậy, khi xuất hành hay khai trương công việc chỉ cần theo hướng và giờ tốt là được...Giờ đẹp xuất hành tính theo bát quái lịch của ngày đầu năm là: Ngày mùng 1: Từ 7h-9h sáng giờ Thìn- quẻ Thủy Hoả Ký Tế tính theo Kinh Dịch là giờ đẹp còn tính theo cách tính giờ Hoàng Đạo còn có giờ Mão từ 5-7h, giờ Tỵ từ 9-11h , giờ Thân từ 15-17h Còn để khai trương, mở cửa hàng cửa hiệu hay mở đầu công việc của năm mới thì ngày : 6/01/2011 – Giáp Ngọ (hành Kim) tức ngày 08/02/2011 (DL) – Theo Sinh khắc Can Chi của ngày có thiên can Giáp (Mộc) sinh cho địa chi Ngọ (Hoả) nên đây là ngày Bảo Nhật - Đại Cát. Xét theo Cửu tinh đây là ngày Tứ Lục - Cửu Tinh tiếp tục đi Thuận (bình thường). Giờ đẹp từ 7h-9h sáng - quẻ Hoả Địa Tấn, 9h-11h sáng - quẻ Hoả Thiên Đại Hữu. Vận khí năm Tân Mão ( 2011) Thuộc năm Thuận Hoá: Thủy Vận; Kim khí Khí sinh Vận; Khí thịnh, Vận suy Đại Vận cả năm Tân Mão: Thủy Vận -- Đại Khí: "Táo Kim" Tư Thiên Khí hậu năm Tân Mão ( 2011) sẽ biến thiên chủ yếu theo Táo Kim : Đầu năm nhiều mưa nhưng nửa cuối năm thiên về khô táo, khí hậu hanh khô. Dễ sinh bệnh táo nhiệt, bệnh thời khí, đường hô hấp, mũi họng. Theo cơ chế “Âm Dương” năm Tân Mão là năm Thiên Vận thuộc Kim (Tân) khắc Địa khí thuộc Mộc (Mão) nên theo thuyết Vận Khí, nhiều khả năng khí hậu thiên về khô táo vốn là bản chất của Tân – Kim. Về nhân sự là năm “thiên thời’ khắc chế “địa cục”, vì vậy sẽ có nhiều khó khăn về thời cơ, cần lưu ý. Cửu tinh năm Tân Mão (2011) Niên Mệnh: Thất Xích - Kim Tinh Hướng sinh vượng: Trung cung, chính Tây và Tây Bắc. Đại Cát hướng: Chính Tây Các hướng Cát Lợi: Chính Bắc, Đông Nam, Chính Nam, Đông Bắc Hướng bình thường - hướng hao Mệnh (sinh xuất):Tây Nam Hướng Đại Hung - Đích sát hướng: Chính Đông Các hướng Hung kỵ: Chính Bắc, Chính Nam Cửu tinh các tháng năm Tân Mão (2011) Tháng Giêng – Tháng Mười : Bát Bạch - Thổ tinh Nhị Hắc - Thổ tinh Tháng hai - Tháng mười một: Thất Xích - Kim tinh Nhất Bạch - Thủy tinh Tháng ba - Tháng mười hai: Lục Bạch - Kim tinh Tháng tư: Ngũ Hoàng - Thổ tinh Tháng năm: Tứ Lục - Mộc tinh Tháng sáu: Tam Bích - Mộc tinh Tháng bảy: Nhị Hắc - Thổ tinh Tháng tám: Nhất Bạch - Thủy tinh Tháng chín: Cửu tử - Hỏa Tinh Theo dự báo của GS.TSKH Hoàng Tuấn, chủ tịch Hội Văn hóa Á Đông, một trong những chuyên gia nghiên cứu về lịch cổ và văn hóa phương Đông. đối với nước ta do chúng ta đang sống ở tiểu vận thứ 8 (từ 2004 - 2023) thuộc Bát Bạch thổ tinh. Nước ta thuộc phương Nam - Cửu tử Hỏa tinh. Thổ và hỏa tương sinh nên tương đối tốt - đất nước hưng thịnh - thời cuộc tốt chung cho mọi người. Năm nay năm Tân Mão có Thiên khí là “Thất xích - kim” được Địa khí luôn là “Ngũ hoàng - thổ” tương sinh nên điều kiện xã hội tạo ra thời vận tốt cho mọi việc không có trở ngại về mặt xã hội đương thời. Con người có thể tạo ra thời vận, triển khai mọi việc lớn, dễ thành sự nghiệp nhưng cũng tốn rất nhiều công lao, hao nhiều sức lực. Giờ tốt trong 3 ngày Tết Ngay đêm giao thừa, từ 23h đêm 30 tháng Chạp năm Canh Dần đến 1h sáng ngày mồng Một tháng Giêng năm Tân Mão thuộc giờ Giáp Tý - ngày Ký Sửu, thuộc giờ bình thường, người dân có thể đi du xuân hái lộc, còn muốn tìm ngày "xuất hành" đầu năm để đi tìm cái may mắn cho mình và gia đình trong cả năm thì nên chọn các giờ tốt phù hợp với mình trong cả 3 ngày Tết như sau: Ngày mồng Một Tết (03/2/2011) là ngày có sự đánh giá ngược nhau giữa hai lịch. Theo phương pháp cửu tinh thì mồng Một là ngày Bát Bạch (Tốt) nhưng theo sinh khắc can chi thì đây là ngày Đồng khí Âm thổ -Nhân dân ly- Hung (xấu). Tham khảo thêm lịch Hoàng Đạo là ngày Minh Đường (đẹp) và cách tính thập nhị chỉ Trực là Trực Kiến (đẹp) nên ta có thể coi đây là ngày bình thường. Khi xuất hành hay khai trương công việc chỉ cần theo hướng và giờ tốt là được. Hướng tốt nhất để xuất hành ngày này là hướng Tây Nam (Đại Cát Hướng - Sinh khí), tiếp đến là hướng chính Tây (Diên Niên - Khỏe mạnh), Đông Bắc (Phục Vị), Tây Bắc (Thiên Y). Hướng tuyệt đối không nên đi là hướng Đông Nam (Tuyệt Mệnh), Chính Đông (Lục Sát - hay mâu thuẫn cãi cọ với người thân, chính Bắc (Ngũ Quỷ - hay bị quấy phá), Chính Nam (Họa Hại - dễ gặp tai nạn, phiền hà. Từ 7h-9h sáng giờ Thìn- quẻ Thủy Hoả Ký Tế tính theo Kinh Dịch là giờ đẹp. Giờ tốt tính theo Hoàng Đạo là: Giờ Mão (5 - 7 giờ sáng), giờ Tị (9 - 11 giờ sáng), giờ Thân (15 - 17 giờ). Ngày mồng 2 Tết (ngày 04/2/2011) cũng là ngày có sự đánh giá ngược nhau giữa hai lịch. Theo Cửu Tinh đây là ngày Cửu Tử , Rất Tốt, nhưng theo sinh khác can chi thì lại là ngày Phạt nhật - đại hung - rất xấu. Hướng tốt nhất - đại cát hướng - là hướng chính Đông (sinh khí), Đông Nam (Thiên Y), chính Nam (Phục Vị), chính Bắc (Diên Niên). Các hướng không có lợi là Tây Bắc (Tuyệt Mệnh), Tây Nam (Lục Sát), Đông Bắc (Họa Hại), chính Tây (Ngũ Quỷ), Giờ Hoàng Đạo là giờ Thìn (từ 7 - 9 giờ sáng), giờ Tị (9 - 11 giờ sáng) và giờ Mùi từ 13 - 15 giờ. Ngày mồng 3 Tết (Ngày 05/2/2010) là ngày xét theo Cửu tinh đó là ngày Nhất Bạch, còn theo Sinh khắc Can chi là ngày Phật nhật - Đại Hung - xấu. Đại cát hướng xuất hành có lợi là Đông Nam (Sinh Khí), tiếp đến là Chính Đông (Thiên Y), Chính Bắc (Phục Vị), chính Nam (Diên Niên). Hướng xấu là Tây Nam (Tuyệt Mệnh), Tây Bắc (Lục Sát), Đông Bắc (Ngũ Quỷ), chính Tây (Họa Hại). Giờ tốt nhất là giờ Mão từ 5 - 7 giờ sáng, giờ Ngọ 11 - 13 giờ sáng và giờ Mùi (13 - 15 giờ)... Bất kể phương pháp tính ngày, chọn hướng nào cũng đều mang tính tương đối và không có gì tuyệt đối nên ta cũng không nên quá câu nệ mà ảnh hưởng tới công việc. Nếu có công việc phải đi hướng xấu thì chỉ cần tìm một đoạn hướng tốt để đi vòng, sau đó vòng sang là được.
    1 like
  5. ntpt đang đọc 1 tài liệu chỉ chỉ cách làm sao để hiểu suy nghĩ của đối phương mà không biết có đúng không nên lập chủ đề để kiểm nghiệm. Chỉ xem cho 1 nick 1 lần thôi nhé http://www.lyhocdongphuong.org.vn/forum/public/style_emoticons/default/smile.gif Phương pháp: bạn viết cho ntpt 9 số [có thể trùng lắp] ntpt sẽ noí những gì bạn suy nghĩ và băn khoăn. Hi vọng nhận được feedback Xin mời, xin mời :D PS: mọi người ui, 9 số là từ 0-9. Sorri, xé nháp làm lại :D
    1 like
  6. Trong Topic này Khánh An xin được lần lượt giới thiệu đến mọi người những cuốn sách vô cùng quý giá về cách thức tu tập để giúp mọi người không chỉ "chuyển đổi vận MỆNH" ngay hiện đời của mình mà đặc biệt còn cứu giúp chính mình và mọi người vượt thoát BIỂN KHÔ LUÂN HỒI SANH TỬ khi rời bỏ báo thân ở kiếp này. NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT Con xin đem tất cả công đức này trang nghiêm Tây phương Phật Tịnh Độ, Xin hồi hướng cho thập phương pháp giới hữu tình, trên đền bốn ân nặng, dưới cứu khổ tam đồ, Hồi hướng cho lịch đại kiếp số oán thân trái chủ, tất cả mọi chúng sanh đã bị con não loạn, đã bị con giết hại, ăn thịt trong đời này và nhiều đời kiếp khác. Hồi hướng cho bà con thân thuộc hiện đời và bà con trong vô lượng kiếp cùng tất cả kẻ oán, người thân, dù đang ở trong bất cứ cảnh giới nào tất cả đều được lợi lạc, đều khởi phát TÍN -HẠNH -NGUYỆN cầu sanh Tịnh Độ và đều được thành tựu Nguyện cầu Hồng ân Tam bảo chứng minh và từ bi gia hộ cho con cùng tất cả mọi chúng sanh trong mười phương pháp giới sớm cùng lên thuyền giác, cùng nguyện vãng sanh, cùng sanh Cực lạc, cùng kiến Di Đà, cùng ngộ vô sanh, cùng thành Phật đạo. A DI ĐÀ PHẬT LIỄU PHÀM TỨ HUẤN Hay PHƯƠNG PHÁP TU PHÚC, TÍCH ĐỨC CẢI TẠO VẬN MỆNH Dịch giả : Tuệ Châu – Bùi Dư Long ( Được tham khảo thêm từ bản in của Ấn Quang Đại Sư ) Mục Lục : Quy tắc tu học - Lời Khai Thị của Ấn Quang Đại Sư Đạo lý vận mệnh I. Luận về lập mệnh II. Vân Cốc khuyên cải tạo vận mệnh III. Tu Phúc Tích Đức Thắng Số IV.Dạy con biết sửa lỗi, tu phúc, tích đức Phương pháp sửa lỗi I- Cái nhân của việc sửa lỗi II- Nền tảng của việc sửa lỗi 1. Lòng xấu hổ 2. Lòng úy kính 3. Lòng dũng mãnh III- Phương pháp sửa lỗi 4. Theo sự tướng 5. Theo lý cải sửa 6. Theo tâm địa 7. Hiệu nghiệm của việc sửa lỗi Phương pháp tích thiện I - Một nhà tích thiện hẳn có nhiều vui II - Thế nào là thiện? 1. Bàn luận rõ ràng về thiện 2. Định nghĩa chữ thiện - Thế nào là ngay thẳng, khuất khúc? - Thế nào là âm thiện, dương thiện? - Thế nào là phải và chẳng phải? - Thế nào là thiên lệch và chính đáng? - Thế nào là đầy và vơi ( bán và mãn )? - Thế nào là đại và tiểu? - Thế nào là khó và dễ? 3. Tùy duyên hết sức tu thập thiện - Thế nào là trợ giúp người cùng làm thiện? - Thế nào là giữ lòng kính mến người? - Thế nào là thành toàn việc thiện của người? - Thế nào là khuyến khích người làm thiện? - Thế nào là cứu người nguy cấp? - Thế nào là kiến thiết tu bổ lợi ích lớn? - Thế nào là xả tài làm phúc? - Thế nào là giữ gìn bảo hộ chánh pháp? - Thế nào là kính trọng tôn trưởng? - Thế nào là tiếc mạng sống loài vật? Những lợi ích của khiêm cung I – Mãn ( tự mãn ) có hại, khiêm có lợi II – Lòng khiêm tốn, nhún nhường , nguồn gốc của phúc QUY TẮC TU HỌC Lời Khai Thị của Ấn Quang Đại Sư Bất luận là người tu tại gia hay xuất gia, cần phải trên kính dưới hòa, nhẫn nhục điều người khác khó nhẫn được, làm những việc mà người khác khó làm được, thay người làm những việc cực nhọc, thành toàn cho người là việc tốt đẹp. Khi tĩnh tọa thường nghĩ đến điều lỗi của mình. Lúc nhàn đàm đừng bàn đến điều sai trái của người. Lúc đi, đứng, nằm, ngồi, ăn, mặc, từ sáng đến tối, từ tối đến sáng, chỉ niệm Phật hiệu không gián đoạn, hoặc niệm nho nhỏ, hoặc niệm thầm. Ngoài việc niệm Phật, đừng dấy khởi một niệm nào khác. Nếu khởi vọng niệm, phải tức thời bỏ ngay. Thường có lòng hổ thẹn và tâm sám hối. Nếu đã tu trì, phải tự hiểu là công phu của ta hãy còn nông cạn, chẳng nên tự kiêu căng, khoa trương, chỉ nên chăm sóc việc nhà mình mà đừng nên dính vào việc nhà người. Chỉ nên nhìn đến những hình dáng tốt đẹp mà đừng để mắt tới hình dạng xấu xa bại hoại. Hãy coi mọi người là Bồ Tát, mà ta chỉ là kẻ phàm phu. Nếu quả có thể tu hành được như những điều kể trên, thì nhất định được sinh về Tây Phương Cực Lạc Thế Giới. Cư sĩ Bùi Dư Long dịch. ĐẠO LÝ VẬN MỆNH I– Luận về lập mệnh 1. Khổng Tiên Sinh đoán rõ định mệnh. Ta lúc nhỏ thân phụ mất sớm, lão mẫu dạy bỏ không theo cử nghiệp mà theo học nghề y, vì học y cũng có thể mưu sinh, có thể cứu người giúp đời mà khi y thuật tinh thông thì được thành danh, đó là ý nguyện sớm có của cha con vậy. Sau đó tại chùa Từ Vân, ta gặp một lão nhân râu dài, tướng mạo tốt đẹp có vẻ tiên phong đạo cốt, nên ta dùng lễ mà cung kính lão nhân ấy. Ông bảo ta rằng: Ngươi là người trong sĩ lộ. Năm tới tức phải nhập học, tại sao lại không theo học vậy? Ta nói rõ nguyên cớ cho vị lão nhân ấy nghe, và lễ phép hỏi danh tính cùng xuất xứ của lão nhân. Lão nhân nói: Lão họ Khổng, người Vân Nam. Lão được Thiệu Khang Tiết tiên sinh chân truyền Hoàng cực số, lão nghĩ cũng nên truyền cho ngươi. Ta thỉnh lão nhân về nhà, và báo cáo với lão mẫu thì người dạy phải nên tiếp đãi cho thật cẩn thận tử tế và thử xem ông ấy đoán số ra sao, thì thấy mọi việc lớn nhỏ ông đều đoán trúng cả. Ta bèn có ý định theo đòi việc đèn sách và bàn với biểu huynh là Thẩm Xứng thì biểu huynh bảo: có Úc Hải Cốc tiên sinh mở lớp dạy tại nhà ông Thẩm Hữu Phu, ta gởi ngươi tới đó trọ học thì rất là thuận tiện. Ta bèn bái Úc tiên sinh làm sư phụ. Khổng tiên sinh lấy số cho ta thì khi khảo thí ở huyện, đỗ đồng sinh đứng hạng thứ 14, thi ở phủ đứng vào hạng thứ 71, và thi ở tỉnh do quan đề đốc học viện làm chủ khảo thì đỗ vào hạng thứ 9. Năm tới đi thi, thì ở cả ba nơi số hạng đều đúng y như thế. Sau đó lại lấy số chung thân cho ta, dự đoán những việc cát hung cho cả một đời và bảo rằng vào năm nào thì được khảo thí đứng hạng mấy, năm nào thì được bổ khuyết lẫm sinh (tức được cấp phát lương ăn học bằng gạo), năm nào thì làm cống sinh, và sau khi làm cống sinh, năm nào thì được tuyển làm trưởng quan ở Tứ Xuyên, tại chức sau 3 năm rưỡi thì cáo quan về hưu. Năm 53 tuổi vào giờ sửu ngày 14 tháng tám thì mất trên giường bệnh, tiếc rằng không con nối dõi. Ta cẩn thận ghi lại tất cả. Từ đó về sau, phàm mỗi khi gặp kì khảo thí, danh số trước sau đều đúng như Khổng tiên sinh đã dự đoán sẵn. Chỉ có một dự đoán là khi nào số gạo cấp lương lẫm sinh của ta được tới 91 thạch 5 đấu (1 thạch là 10 đấu) thì lúc đó sẽ được bổ làm cống sinh, nhưng kịp tới khi ta được lãnh hơn 70 thạch thì Đồ tông sư (quan đề học), đã phê chuẩn cho ta được bổ làm cống sinh, duy chỉ có chỗ đó làm ta có điểm hoài nghi. Nhưng thực ra sau đó, sự phê chuẩn này bị quan thự ấn họ Dương bác bỏ. Mãi tới năm Đinh Mão, tông sư Ân Thu Minh thấy bị quyển nơi trường thi của ta (quyển nộp thi đáng được chấm đậu mà bị bỏ rớt lại) thì than rằng: bài ngũ sách đúng là năm thiên tấu nghị, văn chương quảng bác, ý tứ sâu sắc thông suốt của một nho sĩ sao nỡ để cho mai một mãi ru, bèn truyền cho huyện quan dâng thỉnh nguyện lên để ông phê chuẩn cho được bổ cống sinh. Nếu tính số lượng gạo được cấp từ trước trải qua thời gian bị bác bỏ cho tới khi được bổ thì thực đúng là 91 thạch 5 đấu vậy. Nhân thế, ta càng tin rằng sự tiến thoái, thăng trầm nhanh hay chậm đều có thời, có số cả, nên an nhiên tự tại chẳng cần mong cầu sự gì cả. Sau khi được bổ cống sinh, ta phải đi Yến Đô (tức Bắc Kinh), ở lại kinh đô một năm, suốt ngày tĩnh tọa mà không màng tới việc đèn sách. II– Vân Cốc khuyên cải tạo vận mệnh 1. Nguyên lý của việc cải tạo Năm Kỷ Tỵ, ta quay trở về , du ngoạn qua Nam Ung tức Quốc Tử Giám ở Nam Kinh, nhưng trước khi nhập giám, ta tới bái phỏng Vân Cốc Pháp Hội thiền sư ở Thê Hà Sơn, cùng thiền sư đối diện trong một thất, tĩnh tọa ba ngày đêm chẳng nhắm mắt. Thiền sư hỏi ta: Sở dĩ người phàm không làm được thánh nhân chỉ vì bị nhiều vọng niệm vương vấn bao quanh che lấp mất tâm thanh tịnh mà thôi. Nhà ngươi tọa thiền ba ngày không thấy khởi một vọng niệm nào là vì sao vậy? Ta đáp rằng: Khổng tiên sinh đã lấy số chung thân cho ta, sự vinh nhục sinh tử đều do số đã định sẵn cả, nên dù có vọng tưởng hoặc mưu cầu điều chi cũng vô ích mà thôi , nên không khởi vọng tưởng nữa. Thiền sư cười mà nói rằng: Ta tưởng ngươi là một hào kiệt, nào ngờ ngươi vốn cũng chỉ là phàm phu mà thôi. Ta hỏi lí do tại sao thiền sư lại nói như vậy thì thiền sư bảo rằng: Phàm là con người nếu còn chưa được vô tâm, tức tâm còn vọng tưởng chưa được thanh tịnh thì chung cuộc vẫn bị ràng buộc bởi âm dương khí số, mà đã bị ràng buộc bởi âm dương khí số thì làm sao nói là không có số được? Tuy nhiên, chỉ người phàm là có số. Những người làm việc cực thiện cũng như cực ác không bị số mệnh câu thúc mãi, bởi làm nhiều điều thiện có thể đương nghèo hóa giàu, còn trái lại làm nhiều điều ác có thể đương giàu sang phú quý trở thành nghèo hèn. Nhà ngươi 20 năm nay, cứ theo lời đoán của Khổng tiên sinh mà bị số mệnh câu thúc không hề thay đổi một chút nào thì như thế chẳng gọi là phàm phu thì là gì? Ta hỏi ngay rằng: Vậy thì có thể tránh khỏi số mệnh được sao? Thiền sư đáp: Mệnh do chính mình tạo và phúc cũng do tự mình cầu được. Kinh Thư đã nói làm lành được phúc, làm ác bị giảm phúc, thực rõ ràng đúng là những lời minh huấn. Trong kinh Phật có nói cầu phú quý được phú quý, cầu nam nữ được nam nữ, cầu trường thọ được trường thọ. Này, vọng ngữ là điều đại giới của đức Thích Ca; chư Phật, Bồ Tát há lại nói dối trá, lừa người ư? Ta hỏi thêm rằng: Mạnh phu tử nói những điều mình cầu mong mà có thể đạt được là do chính ở nội tâm mình nghĩ đủ sức làm được như vậy, thí dụ như muốn trở thành một người có đạo đức, nhân nghĩa thì tận tâm, tận lực tu tập thì sẽ được, còn như công danh phú quý là những điều ở ngoài thân tâm mình thì làm sao mà cầu được? Vân Cốc thiền sư nói: Lời của Mạnh phu tử không hề sai, chính tự ngươi không hiểu hết ý nghĩa mà thôi. Ngươi chẳng thấy Lục Tổ đã nói là tất cả phúc điền đều không rời tâm địa của con người, từ nơi tâm mình mà tìm cầu thì mọi sự đều được cảm ứng. Tìm cầu ở ngay nội tâm của mình thì không những chỉ được đạo đức, nhân nghĩa mà công danh, phú quý cũng được nữa, đó là nội ngoại song đắc, trong nội tâm cũng như ở ngoài thân tâm đều cùng được cả bởi lẽ khi mình đã là người có đạo đức, nhân nghĩa thì người đời sẽ trọng vọng mình, công danh, phú quý không cầu cũng tự nhiên được; chỗ hữu ích của việc tìm cầu là đạt được sự việc vậy. Nếu không biết hướng về nội tâm, mà chỉ mưu đồ hướng ngoại tìm cầu thì thật không hợp đạo lý và chỉ được những điều định mệnh đã an bài. Nếu là số mệnh đã định thì chẳng cần tổn công phí sức, vì may rủi, tốt, xấu tự nhiên vẫn đến dù có mong cầu hay không mong cầu. Ngược lại trong số mệnh đã không có, lại không biết phương pháp hướng cầu từ nội tâm thì dù có trăm phương ngàn kế, có mưu đồ gì cũng chỉ mất công vô ích không những không đạt được gì, ngược lại còn tạo thêm tai họa cho mình, vì ở trong thì tâm trí thao thức không yên, ưu tư phiền não…bên ngoài thì chẳng được gì cả, đó là nội ngoại song thất (trong ngoài cùng mất). 2. Phương pháp cải tạo vận mệnh a) Biết lỗi thực sự phản tỉnh Nhân đấy thiền sư lại hỏi ta: Khổng tiên sinh lấy số chung thân cho nhà ngươi ra sao? Ta cứ thực sự trình bày rõ ràng thì Vân Cốc thiền sư hỏi: Ngươi tự lượng xét mình xem có nên thành công trên đường khoa cử hay không? Có nên có con nối dõi hay không ? Ta tự xét mình khá lâu rồi đáp: Thực không nên vậy. Những người thành công trên đường khoa bảng như tiến sĩ, bảng nhãn, thám hoa, đều là những người có phúc tướng, tại hạ phúc bạc lại không biết tích lũy công đức, hành thiện để bồi đắp nền tảng của việc đạt được phúc dày, hơn nữa lại không biết nhẫn những sự phiền toái vụn vặt, không có độ lượng rộng rãi bao dung người, có lúc lại ỷ mình tài trí hơn người, thường làm ngay nói thẳng, hay vọng đàm nên ngôn ngữ không được thận trọng. Phàm những điều như thế đều là bạc phúc, há còn dám nghĩ đến việc khoa bảng ru! Chỗ đất ô uế, ẩm ướt thường hay sinh vật, còn chỗ nước trong vắt thì không có cá mà tại hạ lại có tật ưa thích sự tinh khiết sạch sẽ, đó là một điều thứ nhất không nên có con vậy. Hòa khí tức phong vũ thuận hòa, thời tiết thuận tiện, vạn vật dễ sinh trưởng, mà tại hạ thì hay nóng giận, đó là điều thứ hai không nên có con. Ái tức là lòng nhân ái, tâm từ bi là căn bản của sự sinh trưởng, vì nhân sinh quả, quả lại sinh nhân, cứ thế mà sinh sinh mãi mãi, còn nhẫn tâm không phải là gốc rễ của sự sinh dưỡng, tại hạ trọng thanh danh tiết tháo, thường không biết xả thân cứu người, đó là điều thứ ba không nên có con. Hay nhiều lời mất khí lực cũng là điều thứ tư không nên có con; uống rượu nhiều, tinh thần suy nhược là điều thứ năm không nên có con; thường hay ngồi suốt đêm không biết bảo tồn nguyên khí, dưỡng dục nguyên thần là điều thứ sáu không nên có con vậy. Ngoài ra, còn nhiều thói hư tật xấu khác kể ra không hết. Thiền sư Vân Cốc bèn nói: Há chỉ có khoa bảng là nhà ngươi không muốn hay sao! Người đời được hưởng thụ tài sản thiên kim hay bách kim là ở số mệnh do nhân lành kiếp trước đã định cho họ thành đại phú hay trung phú, còn người bị chết đói là do đã gây tạo nhiều nhân xấu, ác nên số mệnh định phải chịu quả báo như vậy; thiên thượng chỉ phụ họa vào theo số phận của họ, chứ chẳng có một ly một chút ý tứ nào thêm thắt vào cả. Nói về việc sinh con nối dõi thì người tích lũy trăm đời công đức hay người tích đức mười đời, con cháu họ trăm đời sau hay mười đời sau sẽ tiếp tục gìn giữ hưởng phúc, còn những người chỉ có phúc ba đời hay hai đời, con cháu ba đời hay hai đời của họ sẽ được hưởng phúc đó. Những người phúc quá bạc thì bị vô hậu, không con nối dõi, dòng giống bị đứt đoạn. :D Việc triệt để sửa lỗi Nay ngươi đã thấy vấn đề ở đâu thì phải hết lòng sửa lại những nguyên nhân làm cho không đậu tiến sĩ cũng như không con nối dõi. Tất cả những việc về trước coi như đã xóa bỏ hết, coi như ngày hôm qua mình đã chết, và từ ngày hôm nay về sau, xem như được tái sinh, nếu phúc bạc thì cần phải tu nhân tích đức, hành thiện cần phải có lòng nhân hậu độ lượng bao dung người, cần phải cư xử hòa thuận, kính ái người và cần phải biết tồn dưỡng nguyên khí tinh thần. Đó là nghĩa lý của thân tái sanh vậy. Cái thân máu mủ huyết nhục của chúng ta hẳn nhiên đã có số nhất định, còn đã biết sửa đổi lỗi lầm, đã được giác ngộ, tâm được thanh tịnh thì thâm nghĩa lý ấy há không cùng thượng thiên cảm ứng, tương thông hay sao? Thiên Thái Giáp trong kinh Thư có nói: Thượng thiện tác hòa, bởi tiền nhân (người đời trước) mà nay chịu hậu quả thì còn có thể tránh được, chứ tự mình gây ra những điều oan nghiệt, những điều ác thì phải tự gánh chịu ác báo, không thể sinh sống an lành, yên ổn được. Kinh Thi có nói: Con người phải luôn luôn tự xét lấy mình mà ăn ở, cư xử sao cho hợp thiện đạo, làm lành lánh dữ ắt hẳn phải được thiện báo. Đó là tự mình biết cầu được nhiều phúc. Khổng tiên sinh đoán là ngươi không có số khoa bảng, không con nối dõi, đó là cái oan nghiệt đã định sẵn từ trước, do vậy có thể tránh được. Nay ngươi nên đem cái thiên tính đạo đức trời đã phú cho mọi người, khai mở thật rộng rãi, chí tâm tận lực hành thiện, tích lũy âm đức, đó là tự mình tạo lấy phúc cho mình thì sao lại không được báo đáp, thụ hưởng ư? Kinh Dịch thường luận bàn việc lấy nhân đạo phối hợp thiên đạo để cảnh giác con người cẩn thận tránh làm những sự bại hoại, đã vì người quân tử có nhân nghĩa đạo đức mà định rằng người ta cần xu hướng về đường thiện, xa lánh ác đạo hung hiểm. Nếu cho rằng số mệnh là hữu thường không thể biến cải được thì sao lại cần xu cát tị hung? Chương mở đầu của Kinh Dịch nói rằng một nhà mà tích đức hành thiện ắt có nhiều sự hỷ khánh, có phúc được hưởng thụ dài lâu. Theo Kinh Dịch thì số mệnh có thể biến cải miễn là biết làm nhiều điều lành và tránh ác. Ngươi có tin thực như vậy không? III– Tu phúc tích đức thắng số Ta tin những lời chỉ dẫn của thiền sư và làm lễ thụ giáo. Nhân đó, trước bàn thờ Phật , thành tâm phát lồ sám hối tất cả những điều lầm lỗi, tội ác đã làm từ trước đến nay, nguyện sau này sẽ không phạm phải nữa, lại dâng sớ nguyện làm ba ngàn điều thiện, trước cầu được đăng khoa để đền đáp ân đức của trời đất và tổ tông. Vân Cốc thiền sư chỉ dẫn cho ta cách thức lập một cuốn sổ ghi công và tội, dặn ta hàng ngày phải ghi thật rõ ràng những điều mình đã làm, dù thiện hay ác đều phải ghi lại, thiện ghi bên cột thiện, và ác ghi vào cột ác để so sánh xem thiện nhiều hay ác nhiều mà tu sửa, ngoài ra lại bảo ta nên niệm chú Chuẩn Đề nhờ Phật gia bị thì những điều cầu nguyện ắt sẽ được ứng nghiệm. Thiền sư còn bảo ta những người chuyên vẽ bùa chú thường nói nếu không được mật truyền thì họa bùa không linh ắt bị quỷ thần cười chê. Chỗ bí quyết đó là khi cất bút họa, trước hết phải dứt bỏ hết mọi sự trần duyên không được khởi một ý niệm nào để cho tâm thực thanh tịnh rồi mới bắt đầu đặt bút họa một điểm gọi là hỗn độn khai cơ, rồi cứ tự nhiên vô tư lự tiếp tục huy bút từng điểm, từng điểm một họa thành lá bùa, như vậy thì bùa mới được linh nghiệm. Phàm muốn cầu lập mệnh đều cần phải giữ tâm cho được thanh tịnh không chút loạn tưởng vọng niệm, kính cẩn cầu nguyện thì mới được cảm thông linh ứng. Bàn về việc lập mệnh, Mạnh phu tử trong thiên Tận Tâm có viết: yểu và thọ không hai, tức thọ yểu chẳng có khác nhau. Thực tế ta thấy chết yểu và sống lâu hai điều khác xa nhau, tại sao thầy Mạnh lại nói khác? Nên biết khi tâm không vọng niệm, thì ngay đó đâu có phân chia số mạng thọ yểu, giàu nghèo, cùng thông... Chỉ từ tâm móng khởi thiện ác mới tạo nên những số mệnh sai khác giữa giàu nghèo v.v... Nhưng phàm đã sinh ra ở đời, ai không coi việc chết sống là quan trọng, nên trên đây chỉ nói đến việc sống lâu và chết yểu, kỳ thật ý đã bao gồm tất cả mọi sự thuận nghịch xảy ra trên suốt cả đời người. Ðến như câu "Tu thân dĩ sĩ chi" mà Mạnh Tử đã nêu lên, là cốt nhắc người đời nhớ lấy điều tích đức tu nhân làm hệ trọng. Hễ tu được nhân đức thời dầu có mọi tội lỗi vẫn cải bỏ được hết, và nói chờ đợi (sĩ) tức có ý nói gắng lo tu nhân tích đức đến khi công phu sâu dầy, tự nhiên số mệnh thay đổi, chớ không phải chỉ đem cái hy vọng suông cầu cho được thế nầy thế kia mà được kết quả thế nầy, thế kia. Người thông đạt đạo lý, dù một mảy may hy vọng cũng chẳng để dính mắc trong lòng, được như thế mới đạt đến cảnh giới bất động niệm hồn nhiên, mới đạt đến chỗ thật học cao siêu. Người còn chưa đạt được vô tâm, chưa được nhất tâm bất loạn, còn chấp trước vọng niệm, chỉ nên trì chú Chuẩn Đề, liên tục niệm đừng để gián đoạn, cũng không cần đếm số, niệm sao cho được thuần thục, niệm mà hóa không niệm, tự mình cũng không hay là mình đang niệm chú nữa, đến chỗ không khởi một niệm đầu nào cả thì mới linh ứng. Sau khi được Thiền sư chỉ dạy ta liền đổi tên hiệu Học Hải thành Liễu Phàm, bởi sau khi hiểu biết đạo lý của việc lập mệnh, ta muốn dứt bỏ các kiến giải phàm tục, lột bỏ lớp vỏ phàm phu đi. Từ đó trở đi ta suốt ngày để ý cẩn thận đề cao cảnh giác không giống như trước kia chỉ hồ đồ tùy tiện phóng túng, ngày lại qua ngày mê hoặc không biết tự kiềm chế giác ngộ. Đến nay sau khi hiểu biết rằng vận mệnh có thể cải biến được, tự nhiên ta có cảm giác dè dặt úy kính, ở nơi phòng tối chẳng ai hay ta cũng thường sợ đắc tội với thiên địa quỷ thần hằng xuất hiện ở nơi chái phía Tây Bắc, và có ai oán ghét ta, muốn hủy báng ta, ta cứ điềm nhiên dung thứ, chịu đựng, bỏ qua chẳng hề để ý tới. Đến năm sau, bộ Lễ mở kỳ khảo thí, Khổng tiên sinh đoán ta được xếp vào hàng thứ ba nào dè ở nơi trường thi mùa thu ấy, ta trúng cử đệ nhất hạng, lời đoán của Khổng tiên sinh đã không được ứng nghiệm. Tuy nhiên, ta tự kiểm thảo thấy sự thi hành các việc đạo nghĩa chưa được thuần thục tự nhiên, mà còn nhiều sai trái khuyết điểm; hoặc khi thấy việc thiện mà không hăng hái, mạnh dạn làm ngay, hoặc muốn cứu giúp người mà trong tâm còn ngần ngại, do dự; hoặc thân gắng sức làm lành mà miệng còn nói ác làm người bất mãn để bụng; hoặc lúc tỉnh thì hăng hái, nhưng khi say lại phóng túng không tự chủ được, vì vậy sợ rằng việc thiện làm ra không đủ bù đắp lại lỗi lầm, và ngày lại ngày để thời gian trôi qua một cách uổng phí. Từ lúc ta phát nguyện vào năm Kỷ Tị cho mãi tới năm Kỷ Mão, mười năm có dư thời ba ngàn điều thiện mới làm xong. Lúc đó ta cùng Lý Tiệm Am tiên sinh từ quận ngoại nhập nội chưa kịp làm lễ hồi hướng ba ngàn công đức trên. Sang năm sau là năm Canh Thìn từ Kinh trở về phương nam, mới thỉnh Tính Không và Huệ Không, hai vị pháp sư làm lễ hồi hướng tại Đông tháp thiền đường. Sau đó bèn phát nguyện cầu sinh con và cũng hứa làm ba ngàn điều thiện. Năm Tân Tị sinh con tên là Thiên Khởi. Mỗi khi ta làm một việc gì thì tùy tiện lấy bút ghi lại, vợ ta không biết viết thì khi làm điều gì bèn liền đó lấy bút lông ngỗng khuyên một vòng son vào tờ lịch của ngày hôm đó; chẳng hạn như thí thực cho người nghèo, hoặc là mua vật phóng sinh, mỗi ngày kể có hơn mười khuyên. Đến tháng tám năm Quý Mùi, số ba ngàn điều thiện đã làm đầy đủ, lại thỉnh các vị Tính Không tề tựu tại gia làm lễ hồi hướng công đức. Vào ngày 13 tháng chín cùng năm, ta lại bắt đầu phát nguyện cầu đỗ tiến sĩ và hứa làm mười ngàn điều thiện. Năm Bính Tuất thì trúng cử và được bổ làm tri huyện Bảo Đề. Khi nhậm chức ở huyện, ta dự bị làm sẵn một cuốn sổ nhỏ có nhiều ô vuông trống gọi là một thiên trị tâm, mục đích để sửa các điều lỗi lầm mà tu tâm. Mỗi buổi sáng khi bắt đầu thăng đường thì gia nhân mang sổ ra cho nha dịch để lên án thư, ta tỉ mỉ ghi lại các điều thiện hay ác trong khi xử án, hoặc xử lý công việc ở huyện. Buổi chiều tối thiết lập bàn hương án ở ngay sân huyện và noi gương ngự sử Triệu Duyệt Đạo, ta đem tất cả các việc làm hàng ngày dâng hương cáo trình thượng thiên, nếu có điều sai trái, lầm lỗi thì thành tâm phát lồ sám hối. Vợ ta thấy đã lâu mà làm được ít điều thiện quá, thời chau mày lo lắng mà nói rằng: Trước đây ở nhà, thiếp còn có thể giúp được nên vì vậy mà số ba ngàn điều thiện phát nguyện mới chóng hoàn thành. Nay ở trong nha, thiếp không giúp được gì cả mà lại nguyện làm những một vạn điều , thì biết đến bao giờ mới được viên mãn. Đêm hôm đó, ta bỗng nằm mộng thấy một vị thần nhân, bèn trình bày duyên cớ khó làm xong 10 ngàn điều thiện đã nguyện hứa, thì thần nhân bảo chỉ cần một việc giảm tiền thuế là vạn sự sẽ hoàn thành đầy đủ. Ta thấy ruộng ở Bảo Đề này mỗi mẫu nạp tô hai phân ba ly bảy hào thì quá cao, nên nghĩ có thể xin giảm xuống tới một phân bốn ly sáu hào; thiết tưởng việc này có thể thi hành được, nhưng trong lòng còn hoang mang hồ nghi không hiểu thần minh có thấu rõ việc ta xin giảm tô hay không, và làm sao chỉ làm một điều thiện lại có thể tương đương với vạn điều được, thì vừa may có thiền sư Thích Huyền Dư từ Ngũ Đài Sơn tới, ta đem những lời thần nhân báo mộng hỏi thiền sư có thể tin được như thế không? Thiền sư bảo làm việc thiện mà tâm khẩn thiết chí thành thì một điều có thể sánh bằng vạn điều, huống hồ lại giảm tô cho cả một huyện, toàn dân đều được hưởng ân huệ thì một điều đó cũng đáng bằng 10 ngàn điều vậy. Ta bèn quyên góp lương bổng để thiền sư trở về Ngũ Đài Sơn trai tăng một vạn người và đem công đức ấy hồi hướng hộ cho. Khổng tiên sinh đoán là năm 53 tuổi ta gặp tai ách khó qua, ta chưa từng cầu đảo xin tăng thọ, mà năm đó lại vô sự, và nay thì ta đã 69 tuổi rồi. Kinh Thi có câu: Trời không dễ tin, mạng không định thường, lại có câu: Vận mạng chẳng nhất định. Những câu ấy đâu phải là lời dối trá! IV– Dạy con biết sửa lỗi, tu phúc, tích đức Ta nhân đó mà hiểu rằng họa phúc là tự mình chuốc lấy, làm lành gặp lành, làm ác gặp ác, các vị thánh hiền đều đã dạy như thế. Nếu nói rằng họa phúc là do mệnh trời định, thì đó là lối luận bàn thông thường của kẻ thế tục vậy. Hiện tại số mệnh con thế nào chưa dễ biết được. Vậy đang khi được hiển vinh hãy tưởng như đang lúc hàn vi chưa được đắc ý, khi gặp được sự thuận lợi, hãy tưởng như đang gặp nghịch cảnh khó khăn; trước mắt có đủ ăn, hãy tưởng là thiếu nghèo; khi được người kính nể, thường phải có ý e dè sợ sệt; khi gia thế được người trọng vọng, thường phải nghĩ tới lúc mình còn ty tiện, thấp kém; khi học vấn có phần cao, hãy tưởng mình còn nông cạn, ngu dốt. Xa về trước, nghĩ tới công đức tổ tiên để lo kế tuyên dương, gần hiện tại, nghĩ tới lầm lỗi của mẹ cha mà tìm cách bồi bổ, trên lo đền ơn trước, dưới lo tạo phước gia đình, ngoài thì giúp người tai nạn, trong thì lo ngăn ngừa tà ác nơi chính mình. Cốt phải ngay thấy chỗ sai quấy của mình để lo toan hối cải. Nếu một ngày không tự biết mình quấy tức một ngày an lòng tự cho mình là phải, một ngày không ăn năn hối quá tức một ngày không tiến bộ. Hạng người thông minh tuấn kiệt trong thiên hạ đâu phải hiếm, nhưng nếu họ không gắng lo tu đức, mở mang thiện nghiệp, họ cũng chỉ sống một đời đình trệ, an phận dật dờ gặp chăng hay chớ, uổng phí một đời mà thôi! Thuyết lập mệnh do Vân Cốc thiền sư chỉ dạy trên đây là một đạo lý thực chân chánh, thực tinh vi thâm thúy, con phải gắng công, gắng sức nghiên cứu cho kĩ rồi theo đó mà thi hành, chớ để thời gian trôi qua vô ích vậy. PHƯƠNG PHÁP SỬA LỖI I– Cái nhân của việc sửa lỗi Vào thời đại Xuân Thu, các quan chức của nhiều nước chư hầu thường có sự lai vãng giao hảo, khi thấy cử chỉ, hành động, ngôn ngữ của một người nào, hoặc khinh bạc, hoặc ôn hòa nhân hậu, họ có thể đàm luận về số phận, họa phúc của người đó và hầu hết lời suy đoán đều ứng nghiệm. Những sự tình như vậy có ghi rõ trong các sách sử như Tả truyện hay Quốc ngữ, đọc đến tất thấy. Do hầu hết những triệu chứng tốt xấu, đều manh nha từ trong tâm ý rồi hành động ra tay chân, như người có cử chỉ hành động nhân hậu đạo đức, biết hy sinh vì người khác thường được phúc, trái lại người có hành vi khắc bạc, toan tính ích kỷ, tham lam cho riêng mình thường gặp họa. Song người phàm mắt tục, nhãn quang bị che lấp nên ít ai thấy rõ điều nầy, mới vội cho họa phúc báo ứng mâu thuẫn khó lường! không thể suy đoán trước được. Hễ người nào đem tâm thành tín làm việc thiện tất yếu việc làm của họ hợp cùng chân lý, mà hạnh phúc sẽ đến với họ, trái lại thì tai họa theo chân. Cứ xem ở điều lành điều ác họ làm, có thể biết trước những việc sẽ đến với họ. Nhưng những người muốn lánh họa cầu phúc, hãy lo ăn năn cải quá, trước khi nói tới việc làm lành. II– Nền tảng của việc sửa lỗi 1. Lòng xấu hổ (Tâm biết tự hổ thẹn) Nay muốn được phúc mà tránh xa các tai họa, chưa vội bàn tới việc làm lành, trước hãy nên cần sửa lỗi đã. Người muốn sửa lỗi, điều khẩn yếu thứ nhất là cần phải biết tự hổ thẹn. Cần luôn nghĩ rằng các bậc cổ Thánh, tiên Hiền xưa cũng là người như ta mà sao có thể nêu gương sáng hàng trăm đời, ta không lẽ lại chịu thân tàn hủ bại, lẹt đẹt thấp hèn một đời ngói bể, chỉ lo chạy theo ngũ dục lục trần (danh, lợi, tình ăn, ngủ) mà nhiễm phải nhiều thói xấu, làm nhiều điều bất nghĩa lại tự cho là người đời không hay, không biết nên cao ngạo, ngang nhiên chẳng chút hổ thẹn, ngày một sa đọa, đời sống không khác cầm thú mà chẳng tự biết. Ở đời chẳng có điều gì lớn hơn là biết tự hổ thẹn. Thầy Mạnh Tử nói: Lòng biết hổ thẹn ở nơi con người là một điều lớn lao vậy, có được tâm tri sỉ ắt thành thánh hiền, không có tâm tri sỉ ắt chỉ là cầm thú, súc sanh mà thôi. Đó là chỗ căn bản quan hệ của việc sửa lỗi vậy. 2. Lòng úy kính (Tâm biết sợ hãi) Điều thứ hai là cần phải phát lòng úy kính, e dè sợ sệt. Hãy nghĩ rằng mình làm việc gì đều có Thánh thần ở trên mình, xung quanh mình biết rõ, không dối trá được. Dẫu mình có phạm tội lỗi nhỏ nào, dù người đời không thấy, Thánh thần đâu có mù mờ. Hễ tạo tội nặng, có trăm họa kéo theo, gây tội nhẹ thì giảm mất phước báo hiện tiền. Như vậy sao được không dè dặt sợ hãi? Chẳng những thế thôi, ngay lúc nhàn cư, vắng vẻ chỉ có mình với mình thần linh càng thấy rõ. Mặc dù ta có che dấu những điều mình làm kín đáo đến đâu, trau chuốt khéo léo thế nào, oan trường rồi vẫn bị bại lộ, cuối cùng không thể tự dối; huống chi đã bị mọi người dòm thấy thì dù một chút giá trị chẳng còn, như vậy há không đáng cẩn thận sao? Dù vậy điều quan trọng nên biết là khi hãy còn một hơi thở, các tội ác đều vẫn có thể sám hối cải sửa, nên lắm người một đời tạo ác, đến phút lâm chung biết hối ngộ, nhất một niệm thiện tâm mãnh liệt, họ vẫn có thể hưởng được một cái chết an lành. Cổ đức nói: Một niệm lành mãnh liệt đủ rửa sạch tội trăm năm, ví như cái hang sâu tối ngàn năm, chỉ rọi một ngọn đèn, bóng tối kia liền biến mất. Vậy không kể tội lỗi đã tạo lâu hay mới tạo, miễn biết thành thật hối cải là tội hết. Cần biết cõi trần vốn là vô thường không nhất định, tấm thân huyết nhục dễ bị hủy hoại, nên nếu cứ cho là làm lỗi rồi có thể sửa được nhưng mà chẳng chịu sửa ngay, một khi hơi tàn thở hắt ra rồi lúc đó muốn sửa thì chẳng còn kịp nữa. Ở dương thế mang lấy tội danh từ trăm năm, ngàn năm trước, tuy có con hiếu cháu hiền cũng không vì mình mà rửa sạch được; ở cõi âm thì bị quả báo sa địa ngục hàng trăm ngàn kiếp, dù cho có thánh hiền, có Phật, Bồ Tát cũng không cứu giúp, dẫn độ được. Vậy há chẳng nên luôn e dè sợ sệt hay sao? 3. Lòng dũng mãnh (Tâm dũng mãnh) Thứ ba, phải phát tâm dũng. Nhiều người không chịu sửa lỗi đa số là vì phóng túng, quá dễ dãi, nuông chiều chính mình, dù biết có lỗi nhưng lại bỏ đấy không chịu cải sửa ắt bị thoái hậu, dần dà có tính thụt lui, tự ngăn con đường tiến bộ của mình. Vì vậy muốn sửa lỗi, cần phải hăng hái phát tâm dũng mãnh dụng công cải sửa ngay lấy mình, đừng nên do dự, trù trừ, chờ đợi. Hãy xem lỗi lầm nhỏ như bị mũi kim nhọn châm chích sẽ làm thối thịt, cần mau khoét vất; sợ lỗi lầm lớn như sợ bị rắn độc cắn phải mau mau cắt bỏ, được không chậm trễ, do dự. Người mà nhất quyết sửa lỗi lầm để tự canh tân thật rất hữu ích cũng như gặp được quẻ Phong Lôi Ích trong Kinh Dịch, một quẻ đại cát vậy. Có đầy đủ ba tâm, tâm tri sỉ, tâm úy kính, và tâm dũng mãnh, ắt lỗi lầm đều cải sửa được ngay cũng như băng tuyết mùa xuân gặp mặt trời, vậy há lo gì mà tội lỗi chẳng tiêu tan? III – Phương pháp sửa lỗi Tội lỗi của người ta có thể theo sự tướng mà cải sửa, hoặc theo lý hay theo tâm mà cải sửa. Cách dụng công không giống nhau thì hiệu quả cũng không tương đồng. 1.Theo sự tướng cải sửa Như hôm trước phạm lỗi sát sinh, hôm sau giữ giới không sát sinh nữa, như hôm trước nóng giận mắng chửi, hôm nay giữ giới không nóng giận nữa. Những sự cải sửa như thế gọi là theo sự tướng xảy ra mà cải sửa vậy. Tuy nhiên lối cải sửa này mới chỉ là lối miễn cưỡng kiềm chế lấy mình, nên khó lòng dứt được sạch tội vì chung cục bệnh căn (gốc bệnh) vẫn tồn tại trong lòng thì dù hôm nay diệt được tội bên đông ngày mai tội lại nẩy sinh bên tây, nên lối cải sửa này chưa phải hoàn hảo, cứu cánh. 2.Theo đạo lý mà cải sửa Người khéo sửa lỗi mình thì khi còn chưa phạm cấm giới, trước hết cần học hỏi để biết rành rẽ đạo lý đã; chẳng hạn: Về tội lỗi sát sinh thì cần nên hiểu rằng Trời đất vốn hiếu sinh, các loài vật đều luyến ái mạng sống, ta giết chúng để nuôi dưỡng thân mình thì sao có thể đang tâm; vả lại khi giết chúng, nào là chặt cắt, mổ xẻ cho vào chảo, vào nồi nấu nướng, chúng phải chịu bao nỗi thống khổ đau đớn thấu cốt tủy…mà ta ăn vào dù béo bổ, ngon bùi đến đâu nhưng một khi nuốt trôi khỏi cổ thì liền trở thành đồ hôi thối rồi cũng tiêu ma như không có gì. Chi bằng dùng rau đậu, canh dưa cũng vẫn no nê đầy bụng, hà tất phải sát hại mạng sống của chúng vật mang lấy tội sát sinh làm tổn phúc của mình không ít. Hơn nữa, những vật thuộc loại có huyết khí đều có linh tính, tri giác, mà đã có linh tính tri giác thì chúng cũng đồng một thể, cũng giống như chúng ta; ví bằng ta chưa tự tu được đến mức độ đạo đức thực cao khiến chúng thân cận ta, tôn trọng ta, há lại hàng ngày sát hại sinh mạng chúng vật để chúng mãi mãi thù oán, cừu hận chúng ta. Nghĩ như vậy thì đối với miếng ăn thực cũng đau lòng mà khó nuốt trôi. Như hôm trước nổi sân cáu giận, ắt nên nghĩ rằng con người không phải thánh nhân, còn có nhiều khuyết điểm lỗi lầm, theo đạo lý mà nói, thực tình đáng nên thương hại; nếu họ phạm lỗi sai quấy là do tự họ không hiểu đạo lý chẳng can dự gì đến ta, bản tâm vốn thanh tịnh không chấp trước thì hà tất phải nổi sân. Lại nữa nên nghĩ rằng trong thiên hạ chắc không ai lại tự nhận mình là thánh hiền, hào kiệt chẳng có chỗ nào sai trái, và cũng không có cái học nào dạy ta oán ghét người, vì người có học vấn, trí thức không oán trời trách người, mình làm chưa đến nơi đến chốn, việc chưa thành tựu đều do tự mình chưa dày công tu phúc, tu đức nên chưa được cảm thông. Chúng ta nên tự phản tỉnh, tự xét lại mình, nếu có những điều phỉ báng, phê bình điều kia tiếng nọ thì nên coi đó là những lời chỉ dạy để mình rèn luyện mài dũa tâm trí, tu tập cho đạt được thành quả, nên hoan hỷ nhận, hà tất phải phát sân phát hận. Nếu nghe những lời phỉ báng mà nổi giận tranh cãi với người, dù có muốn dùng hết sức biện bác thì trong cơn nóng giận ắt những lời biện luận chẳng được rõ ràng minh bạch, giống như con tằm về mùa xuân kéo kén tự ràng buộc lấy mình, tự làm khổ mình. Sự nóng giận chẳng những vô ích mà còn có hại nữa. Ngoài việc sân nộ ra, tất cả những lỗi phạm khác cũng đều cứ y theo đạo lý mà xử sự như vậy. Một khi đạo lý đã sáng tỏ, lỗi phạm sẽ tự đình chỉ. 3.Theo tâm địa mà sửa lỗi Thế nào gọi là theo tâm mà sửa lỗi? Lỗi lầm có thiên hình vạn trạng, chỉ do ở nơi tâm mà tạo ra. Tâm chúng ta chẳng động niệm thì lỗi sao có thể nảy sinh. Người học sửa lỗi lầm như háo danh, háo sắc, tham tài, tham lợi, hoặc hay phát sân nộ…, có quá nhiều tội lỗi bất tất phải phân biệt từng loại một để mà sửa trị, chỉ cần một lòng một dạ thành tâm nghĩ điều lành, làm điều thiện, khi đã có chính niệm phát hiện thì tà niệm tự nhiên bị ô nhiễm rồi bị tiêu diệt. Ví như mặt trời xuất hiện ở trên không thì yêu ma, quỷ quái phải tìm đường lẩn trốn chẳng dám ló dạng. Đây là chỗ chân truyền tinh vi vậy. Tội lỗi do tâm tạo ra thì lại do tâm cải sửa, cũng như chặt một cây độc thụ ắt phải chặt ngay từ gốc rễ, há lại đi cắt từng cành, ngắt một chiếc lá một hay sao! Nói chung thì có thể theo sự tướng, theo lý và theo tâm để tu sửa tội lỗi, nhưng phương pháp theo tâm là tốt hơn cả; tâm đã tu, đã được sửa trị thì sẽ trở thành thanh tịnh, nên mỗi khi một ý niệm ác dấy động ở nơi tâm thì tự mình liền thấy biết ngay, mà đã thấy biết tức đã tỉnh ngộ không còn mê muội thì ác niệm tội lỗi sẽ tiêu tan thành không. Theo tâm để cải sửa là phương pháp tối thượng, nhưng giả sử chẳng theo được thì nên hiểu rằng luân thường đạo lý không cho phép chúng ta tạo tội hay làm ác; nếu chẳng làm được nữa thì nên tùy sự, tùy việc mà giữ giới cấm, cố gắng đừng phạm tội. Khi gặp sự việc dùng phương pháp trên hạ công kiêm với phương pháp hạ chẳng phải là điều thất sách; nhưng chỉ chấp phương pháp hạ mà bỏ lãng phương pháp thượng tức là vụng về vậy. 4.Hiệu nghiệm của việc sửa lỗi Bất quá khi phát nguyện cải sửa lỗi, ở dương thế cần có thiện tri thức (bạn tốt) thường nhắc nhở để cảnh tỉnh mình, ở cõi âm cần quỷ thần chứng minh tấm lòng thành của mình nhất tâm, nhất ý cầu sám hối, ngày đêm chẳng biếng nhác buông thả, như vậy trải qua một hai tuần thất, cho đến một tháng, hai, ba tháng, ắt hẳn có ứng nghiệm. Hoặc thấy tâm thần điềm nhiên, khoan khoái, hoặc thấy trí huệ bỗng được khai mở, hoặc gặp những trường hợp rối ren phiền toái hốt nhiên xử sự giải quyết được rành rọt thông suốt, hoặc gặp kẻ oán thù mà họ bỏ giận làm lành, hoặc mộng thấy khạc ra những vật ô uế, hắc ám; hoặc mộng được các bậc thánh hiền xưa kia tiếp đón dẫn dắt, hoặc mộng thấy bay bổng lên cảnh giới hư không, hoặc mộng thấy tràng phan bảo cái, thấy những sự việc hi hữu ít có như trên, đó đều là cảnh tượng của lỗi tiêu tội diệt vậy. Nhưng đừng thấy thế mà tự kiêu tự đại là mình đã đạt tới trình độ cao để vội ngưng nghỉ làm đứt đoạn mất con đường tiến triển. Xưa quan đại phu Cừ Bá Ngọc, người nước Vệ vào thời đại Xuân Thu, lúc hãy còn trẻ mới 20 tuổi mà đã giác ngộ rằng lỗi lầm cần phải sửa, như lỗi ngày hôm qua thì ngày hôm nay xét lại để gắng sửa cho hết. Tới năm 21 lại hiểu biết được lỗi lầm cải sửa năm trước chưa được hoàn toàn dứt bỏ hết; kịp tới năm 22 tuổi xét nghĩ lại năm 21 tuổi thì tựa như còn mơ mơ hồ hồ về những điều lầm lỗi chưa được tu sửa. Cứ năm này kiểm thảo lại năm trước, theo đó mà dần dần tiếp tục sửa đổi, đến năm 50 tuổi mà còn hay biết được lỗi của năm 49. Cái học tu sửa lỗi lầm của người xưa dụng công như vậy đó. Bọn chúng ta đều là những kẻ phàm phu tục tử, tội ác tích tụ quá nhiều tựa như lông nhím bao bọc toàn thân nó; nếu có hồi tưởng lại những sự việc đã làm thì thường chẳng thấy có chỗ nào lầm lỗi cả, đó là vì tâm tình thô thiển, mắt bị che phủ kín tìm chẳng ra lỗi để tu sửa. Chúng ta hiện mang thân phàm tục, phạm tội lỗi dập dồn, thế mà ít ai tự xét thấy, đó là do tâm còn thô thiển, tập khí hôn ám sâu dày đã huân tập trong nhiều kiếp sống, khiến ta không khác kẻ mù lòa. Nhưng dù ta thấy hay không mặc lòng, luật của tạo hóa vốn tuyệt đối công bằng, hễ đã gây tạo lỗi lầm gì đều không tránh khỏi gặp phải những điều bất hảo, tội lỗi càng sâu dầy càng gặp nhiều tai ương, trước hết sẽ thấy chứng nghiệm ngay qua các trạng tướng: hoặc là tâm tư bế tắc bất định, tinh thần hôn trầm mệt mỏi, mọi việc xảy ra chưa nhớ đã quên, lòng hay phiền não lo lắng; hoặc thường hay nổi sân hận; hoặc gặp người chính nhân quân tử thì thường mất tinh thần, hoặc ngượng ngùng e thẹn; được nghe những lời luận bàn chính đáng hợp đạo lý lại chẳng hoan hỷ, chẳng muốn tin nghe; hoặc làm ơn lại bị mang oán, hoặc ban đêm thường mộng thấy nhiều sự điên đảo, điên đảo cho đến nỗi mất trí sinh ra vọng ngôn, loạn ngữ không được bình thường…; đó đều là những hình trạng của nghiệp chướng phát hiện vậy. Nếu thấy có những hiện tượng như trên thì phải tức khắc khởi phát tinh thần, tự xét lại mình dũng mãnh dứt bỏ lỗi lầm cũ, đừng nên tự mình lại lừa dối mình, may ra mới thoát khỏi những điều mê hoặc và những hậu quả khôn lường về sau. PHƯƠNG PHÁP TÍCH THIỆN I– Một nhà tích thiện hẳn có nhiều vui Mười gương mẫu của người xưa Kinh Dịch nói: một nhà tích thiện hẳn có nhiều vui. Xưa bà Nhan thị đem con gái gả cho Thúc Lương Hột là bà xét kĩ thấy gia đình đó tổ tông đã từng tích đức lâu đời mà đoán biết trước là con cháu họ về sau sẽ hưng thịnh phát đạt. Đức Khổng Tử tôn xưng vua Thuấn là bậc đại hiền có nói: Tổ tiên được hưởng việc tế tự nơi tông miếu, con cháu đời đời hưởng phúc, bảo tồn cơ nghiệp của tổ tông truyền lại, đều là những lời nghị bàn thiết thực xứng đáng. 1. Dưng Vinh làm quan đến chức thiếu sư, nguyên người huyện Kiến Ninh tỉnh Phúc Kiến, gia đình đời đời sinh sống bằng nghề chèo đò đưa khách qua sông. Nhân gặp phải kì mưa lũ quá lâu, nước từ trên núi đổ xuống vùng hạ lưu. Các thuyền khác đều nhân cơ hội mà theo vớt các tài vật trôi nổi trên sông, chỉ riêng thuyền của cụ nội ông thiếu sư chuyên cứu vớt người mà thôi, tuyệt đối không tham vớt một chút tài vật nào cả. Người làng ai cũng cười chê cho là ngớ ngẩn, đần độn. Kịp cho tới khi sinh ra phụ thân của thiếu sư thì gia đình đã dần dần khá, có thần nhân hóa làm một vị đạo sĩ mà mách bảo rằng tổ phụ nhà ngươi có âm đức, con cháu sẽ được vinh hiển phú quý, nên táng vào chỗ đất đó, bèn theo lời chôn cất vào chỗ huyệt đã được chỉ dẫn, tức nay là phần mộ Bách thố vậy. Sau sinh thiếu sư, vào năm 20 tuổi đã đỗ tiến sĩ, làm quan tới chức tam công (tức thiếu sư, thiếu phó, thiếu bảo, hay thái sư, thái phó, thái bảo), tằng tổ, nội tổ và phụ thân cũng được truy phong chức tước như vậy. Con cháu đều vinh hiển, thịnh vượng, cho tới nay trong gia đình cháu chắt còn có nhiều người hiền. 2. Dương Tự Trừng, người huyện Ngân, tỉnh Triết Giang, buổi đầu làm huyện lại, lòng vốn nhân hậu, ngay thẳng, giữ phép công bình. Vào thời ấy, quan huyện lại quá nghiêm khắc, ngẫu nhiên gia hình tù nhân đến máu chảy đầy đất mà cơn giận chưa nguôi. Họ Dương Quỳ xin khoan dung. Huyện quan bảo: tù nhân này đã phạm tội lại không tôn trọng pháp luật, không biết đạo lý nữa, khiến ta làm sao không giận được. Tự Trừng khấu đầu thưa: Người trên lỗi đạo, không còn làm gương mẫu cho kẻ dưới noi theo nên dân tâm thất tán từ lâu rồi, quan trên nếu hiểu rõ tình trạng phạm pháp của dân thì nên thương xót họ, chẳng nên thấy mình xét xử án được phân minh mà vui thích, vui còn chẳng nên huống hồ lại giận dữ sao! Quan huyện nghe nói tỉnh ngộ mà nguôi cơn thịnh nộ. Nhà rất nghèo, lại không nhận một chút tặng vật nào cả. Gặp những lúc tù nhân thiếu ăn, thường tìm cách giúp đỡ. Một hôm có bọn tù nhân mới từ xa tới, dọc đường không có ăn nên đói lả, mà nhà lại thiếu gạo, đem cho tù ăn tất nhà không có miếng, để lại nhà ăn thì khó nhẫn tâm, bèn thương lượng với vợ. Bà vợ hỏi là tù nhân từ đâu lại thì Tự Trừng bảo là từ Hàng Châu tới, dọc đường không có ăn, đói khát khổ sở, sắc mặt xanh xao như tàu lá, nhân đó lấy bớt gạo của nhà nấu cháo cho tù ăn đỡ. Về sau sinh được hai trai, con trưởng đặt tên là Thủ Trần, con thứ là Thủ Chi, đều làm đến Lại bộ thị lang, một người ở Bắc Kinh, một người ở Nam Kinh; cháu nội được hai người, trưởng làm Hình bộ thị lang, và thứ làm Liêm hiến (án sát ty) ở tỉnh Tứ Xuyên, tất cả con và cháu đều là những danh thần. Hiện nay, (tức vào thời của Liễu Phàm tiên sinh) Sở Đình hay Đức Chính cũng đều là dòng dõi của gia đình đó. 3. Xưa vào niên hiệu Chính thống nhà Minh, Đặng Mậu Thất khởi loạn ở Phúc Kiến, sĩ dân theo giặc rất đông. Triều đình cử quan đô hiến Trương Giai người ở huyện Ngân, xuất quân nam chinh, tiễu trừ giặc. Sau Trương Đô hiến phái viên đô sự họ Tạ, thủ hạ của Bố chánh ty tỉnh Phúc Kiến truy sát tầm nã giặc ở phía đông tỉnh. Tạ Đô sự tìm được quyển sổ danh sách của đảng giặc; phàm người không theo phụ họa giặc đều bí mật được phát cho một lá cờ nhỏ bằng vải trắng, ước hẹn tới ngày quân binh tấn công thì treo cờ ở trước nhà, lại nghiêm lệnh cho quân lính không được giết hại bừa bãi, vì thế cứu sống được cả vạn người. Sau con của Tạ Đô Sự là Tạ Thiên thi đỗ trạng nguyên, làm quan đến tể tướng, cháu nội là Phi cũng đỗ thám hoa. 4. Bà họ Lâm, người huyện Phủ Điền, trên có mẹ già chăm làm việc thiện, thường nắm cơm thí thực, ai đến cũng liền cho ngay mà không hề có vẻ phiền hà, ghét bỏ. Một vị tiên hóa trang làm đạo nhân, mỗi sáng đến xin đều đòi cho được sáu bảy nắm. Mỗi ngày đều cho như vậy, suốt ba năm liền, ngày nào cũng như ngày ấy, nên thấu rõ tấm lòng thành thực chỉ bố thí mà không cầu mong gì cả. Nhân vậy, đạo sĩ bèn bảo rằng: Ta ăn của nhà ngươi đã ba năm, chẳng biết lấy gì đền đáp. Sau nhà có chỗ đất quý, nên táng vào chỗ đó, con cháu về sau quan chức, tước vị thật vô số kể như vừng đựng trong đấu vậy. Người con bèn theo chỗ chỉ điểm mà để mộ. Mới đợt đầu đã thấy phát ngay có chín người đăng khoa trúng cử, đời đời quan tước cực thịnh. Ở Phúc Kiến có câu nói: chẳng người họ Lâm nào là chẳng khoa bảng đề danh cả. 5. Phụ thân của thứ sử Phùng Trác Am hồi còn là tú tài, một buổi sáng trời mùa đông cực kì rét buốt, dạy sớm đi lên huyện học, dọc đường gặp một người ngã nằm trên lộ bị tuyết phủ đầy, lại sờ thân thể người đó, thấy nửa mình đã bị đông cứng, bèn cởi áo lông của mình ra mặc cho và đưa về cứu giúp cho tỉnh lại; đêm mộng thấy thần nhân bảo: ngươi do tâm chí thành cứu được một mạng người, ta sẽ khiến Hàn Kỳ (một vị tể tướng đời nhà Tống) đầu thai vào làm con ngươi, kịp đến khi sinh ra Trác Am bèn đặt tên Kỳ. 6. Ưng thượng thư người phủ Đài Châu, tỉnh Triết Giang, lúc còn tráng niên học tập ở trên núi, ban đêm nghe quỷ hú gọi nhau tập hợp, tiếng hú thường làm nhiều người rùng rợn, nhưng ông không hề sợ hãi. Một đêm nghe quỷ bảo nhau mụ vợ nhà kia chồng đi xa đã lâu không về, bố mẹ ở nhà ép gả cho người khác, đêm mai sẽ thắt cổ ở nơi đây; vậy là ta đã có người thế thân rồi. Ông ngầm bán ruộng được bốn lạng bạc bèn giả lời lẽ người chồng viết một bức thư kèm theo tiền gửi về nhà. Bố mẹ ở nhà nhận được thư thấy bút tích không giống cũng hơi hoài nghi nhưng lại nghĩ rằng thư có thể giả được nhưng tiền đâu có giả, vả lại được biết tin con nên thôi không ép gả nữa. Người con sau đó trở về nhà, vợ chồng cùng nhau sum họp vui vầy như thuở ban đầu. Ông lại nghe thấy quỷ nói với nhau: Ta đang sắp được thế thân mà gã tú tài kia làm hỏng chuyện của ta. Một quỷ khác ở cạnh nói: Sao ngươi không hại hắn? Quỷ kia nói: Thượng đế thấy người này tâm địa rất tốt, làm nhiều điều phúc, âm đức dày đáng bậc thượng thư, ta làm sao hại nổi. Nhân đó họ Ưng tự nỗ lực chăm làm lành, ngày càng gia công tu thiện, đức ngày càng thêm dày; gặp người thân thích có chuyện cần cấp tức thì tận tình tìm mọi cách giúp đỡ họ qua lúc khó khăn, gặp trường hợp phải đối xử với người không biết lẽ phải trái, không hiểu được đạo lý thì ngược lại ông chỉ tự trách mình sao không biết cư xử với họ, mà vui vẻ an nhiên không chấp, coi như mình lầm lỗi vậy. Con cháu khoa bảng đỗ đạt cho tới nay thật là nhiều vô kể. 7. Người huyện Thường Thục, tỉnh Giang Tô, họ Từ tên Thức tự Phượng Trúc, phụ thân là điền chủ giàu có, gặp năm mất mùa, trước đề xướng việc quyên tô, tức bỏ không thu địa tô nữa, sau lại đem thóc gạo dự trữ ra phát chuẩn cho người nghèo khó. Ban đêm nghe thấy quỷ hô ở ngoài cửa: ngàn lần không sai, vạn lần không sai, tú tài nhà họ Từ sẽ thành cử nhân lang, cứ thế tiếp tục hô liền nhiều đêm không ngừng. Quả nhiên năm đó Phượng Trúc thi hương đỗ cử nhân. Phụ thân của Phượng Trúc thấy vậy càng gia công tích đức, cần mẫn chăm lo hành thiện chẳng chút lơ là mệt mỏi; phàm những việc có ích lợi đều hết sức tận tâm làm như tu sửa cầu, tu bổ đường sá, thí thực trai tăng, tiếp tế người nghèo… Sau lại nghe thấy quỷ hô ở trước cửa: ngàn lần không sai, vạn lần không sai, cử nhân họ Từ quan chức thăng tới đô sát. Phượng Trúc sau cùng làm quan tới Lưỡng Triết tuần vũ. 8. Ông Đồ Khánh Hy, người phủ Gia Hưng tỉnh Triết Giang, buổi ban đầu giữ chức chủ sự bộ hình, thường vào trong ngục tra xét cẩn thận hỏi lại tình trạng của tù nhân biết được nhiều người vô cớ bị tội. Ông không tự lấy làm công lao của mình mà viết sớ mật trình lên đường quan, tức thượng thư bộ hình. Về sau, các án tích đều được đưa về triều xét lại. Đường quan theo lời trong mật sớ tra vấn lại tình trạng của tù nhân giải oan được cho hàng chục người, khiến cho không ai là không phục. Thời đó ở kinh thành tất cả mọi người đều khen ngợi thượng thư xử án thật công minh. Ông lại bẩm cáo đường quan: ở ngay kinh thành mà còn nhiều dân bị án oan, thì hàng trăm triệu dân ở khắp bốn phương trong nước sao khỏi không có người bị oan ức, khá nên trong năm năm lại sai phái một vị giảm hình quan đi điều tra sự thực xét lại án, hoặc gia giảm tội hình, hoặc giải oan phóng thích họ. Thượng thư bộ hình tấu trình hoàng đế thì lời đề nghị đó liền được phê chuẩn, và ông có tên trong danh sách những người được sai phái làm giảm hình quan. Ông nằm mộng thấy thần nhân bảo: người số không con, nay đề nghị việc giảm hình thật rất hợp lòng trời nên thượng đế ban cho ngươi được ba trai đều mặc cẩm bào đai vàng. Ngay đêm đó, bà vợ thụ thai, sau sinh ra Ưng Huyên, Ưng Khôn, Ưng Tuấn đều quan chức hiển hách cả. 9. Ở phủ Gia Hưng có người tên Bao Bằng, hiệu Tín Chi, thân phụ ông làm thái thú huyện Trì Dương sinh được bảy người con. Bằng là út, gởi rể ở nhà họ Viên, huyện Bình Hồ cùng với phụ thân ta là chỗ thâm giao, học rộng tài cao, nhiều lần thi hương không đậu cử nhân nên chán chuyện khoa bảng mà chuyên tâm học Phật và Lão. Một hôm đi du ngoạn Mão Hồ ở phía đông tỉnh, ngẫu nhiên tới một ngôi chùa ở làng nọ, thấy tượng đức Quán Thế Âm bị lộ thiên, dầm mưa loang lổ, bèn mở túi đẫy lấy mười lạng bạc đưa cúng dường để hòa thượng trụ trì sửa lại chùa cho khỏi dột nát làm tượng bị ướt át, thì hòa thượng cáo bạch là việc tu sửa mất nhiều công mà tiền bạc không đủ, e khó hoàn thành công tác. Bao Bằng cho mở rương mây lấy thêm bốn tấm vải, sản phẩm của Tung Giang, và bảy bộ áo kép bằng vải gai còn mới tinh đưa cúng dường để bán lấy tiền phụ thêm vào việc tu bổ chùa. Người làm có ý tiếc, ngăn cản lại thì Bao Bằng bảo miễn là tượng đức Bồ Tát không bị ướt át là được, ta dù có ở trần cũng chẳng thương tổn gì. Hòa thượng trụ trì nghe nói cảm kích rơi lệ bảo rằng: tiền tài, vải vóc, quần áo xả bỏ không phải là điều khó, chỉ riêng có tấm lòng chân thành như vậy đâu phải dễ có. Sau, công việc tu bổ hoàn thành, ông dẫn cha già cùng đi, đêm ngụ lại ở chùa, mộng thấy các vị hộ pháp lại cảm tạ, bảo: Con cháu nhà ngươi sẽ được hưởng lộc ở đời. Về sau con ông là Biện và cháu là Sanh Phương đều đăng khoa, đỗ đạt, quan chức hiển hách. 10. Phụ thân của Chi Lập, người huyện Gia Thiện, làm lại ở phòng hình sự thấy tù nhân vô cớ bị hàm oan hãm vào trọng tội, ông lấy làm thương hại muốn cứu mạng. Tù nhân cảm kích bảo vợ rằng: Chi công có lòng tốt muốn giải oan cứu sống ta, thực lấy làm hổ thẹn là ta không có gì báo đền ơn đức ấy được. Ngày mai, ngươi hãy về nhà ngỏ ý đem thân hầu hạ, hoặc giả ông ấy chịu thu dụng ngươi, tất ta ắt có đường sống vậy. Người vợ khóc mà nghe lời chồng; kịp khi họ Chi tới, tự mình ra mời rượi và bày tỏ hết ý nguyện của chồng. Họ Chi tuy không nghe nhưng vẫn tận tình giúp đỡ để bạch hóa án oan. Người tù được tha, cả hai vợ chồng cùng đến nhà khấu đầu cảm tạ mà bảo rằng: Chi công ân đức dày như vậy, ở đời thực hiếm có, hiện nay chúng tôi có đứa con gái đã lớn muốn tiến dẫn làm thiếp để hầu hạ công việc nhà cửa, đây cũng là chuyện thường tình hợp lý. Huyện lại họ Chi sắm sanh lễ vật và thâu nạp làm thiếp, sinh ra Chi Lập mới hai mươi tuổi đã đỗ khôi nguyên làm quan tới chức Khổng mục ở Hàn Lâm Viện. Lập sinh ra Cao, Cao sinh ra Lộc đều học rộng và có chức phận cả. Lộc sinh ra Đại Luân cũng khoa bảng đề danh. Mười chuyện trên đây, tuy cách cư xử, hành động của các nhân vật có khác nhau, nhưng đều quy về việc làm lành lại gặp quả báo tốt lành. II–Thế nào là thiện ? 1. Bàn luận rõ ràng về thiện. Nếu xét một cách tinh tường mà nói, thì thiện có chân có giả, có ngay thẳng có khuất khúc, có âm có dương, có phải hay chẳng phải, có lệch hay chính đáng, có đầy có vơi, có tiểu có đại, có dễ có khó, đều cần bàn luận rõ ràng. Làm việc thiện mà không hiểu rõ đạo lý là thiện, cứ tự cho việc mình làm là hành thiện, ắt không khỏi tạo nghiệp, uổng phí mất tâm tư một cách vô ích. Thế nào là chân thiện và giả thiện? Xưa có một số nho sinh yết kiến Trung Phong hòa thượng (một vị cao tăng triều đại nhà Nguyên) mà hỏi: Nhà Phật bàn thiện ác báo ứng như bóng theo hình, tức làm lành gặp lành, làm ác gặp ác; nay có người nọ thiện mà con cháu lại không được thịnh vượng, mà kẻ kia ác thì gia đình lại phát đạt, như vậy là Phật nói về việc báo ứng thực vô căn cứ sao? Hòa thượng nói: Người phàm tâm chưa được tẩy sạch, chưa được thanh tịnh, tuệ nhãn chưa khai, thường nhận thiện làm ác, cho ác là thiện; người như vậy không phải là hiếm có, đã tự mình lẫn lộn phải trái, cho ác là thiện, cho thiện là ác, điên đảo đảo điên mà không hay lại còn trách oán trời cho báo ứng là sai, là không công bằng. Bọn nho sinh lại hỏi: Mọi người thấy thiện thì cho là thiện, thấy ác thì cho là ác, sao lại bảo là lẫn lộn, trái ngược, điên đảo vậy? Hòa thượng bảo họ thử ví dụ xem sự tình như thế nào là thiện và thế nào là ác. Một người trong bọn họ nói: Mắng chửi đánh đập người là ác, tôn kính, lễ phép với người là thiện. Hòa thượng nói không nhất định là như vậy. Một người khác cho là tham lam, lấy bậy của người là ác, gìn giữ sự thanh bạch liêm khiết là thiện. Hòa thượng cũng bảo không nhất định như vậy. Mọi người đều lần lượt đưa ra thí dụ về thiện và ác, nhưng Trung Phong hòa thượng đều bảo không nhất định như vậy. Nhân thế bọn họ đều thỉnh hòa thượng giảng giải cho. 2. Định nghĩa chữ thiện Hòa thượng Trung Phong chỉ dạy rằng: Làm việc có ích cho người là thiện, còn chỉ có lợi cho riêng mình là ác. Có ích cho người thì dù có đánh hay mắng chửi họ cũng gọi là thiện, chỉ có ích cho riêng mình thì dù tôn kính, lễ phép đối với người cũng kể là ác. Bởi vậy, người làm việc đem lại lợi ích cho người khác, cho nhiều người khác là công, chỉ lợi cho mình là tư, công là chân là thiện, còn tư là giả là ác. Lại nữa, làm việc thiện mà phát xuất từ tấm lòng thành thật là chân thiện, còn hời hợt, chiếu lệ mà làm là giả thiện. Hơn nữa, hành thiện mà không hề toan tính, không nghĩ tới một sự báo đáp nào cả là chân thiện, trái lại còn toan tính, hy vọng có sự đền đáp là giả thiện, đó là những điều tự mình cần khảo sát kĩ lưỡng. Thế nào là ngay thẳng, khuất khúc? Đừng vì thấy một người cẩn thận, dễ bảo mà vội phân loại cho là thiện nhân có thể dung nạp. Các vị thánh nhân dùng người thì lại khác, thà dùng một cuồng sỹ cao ngạo, quật cường, tiết tháo có tài cán biết mạnh dạn tiến thủ còn hơn. Người cẩn thận, dễ bảo, tuy ở đời ai cũng ưu thích cho là tốt, là hiền; nhưng thánh nhân cho là không có chí khí hướng thượng, chỉ biết vâng dạ không hiểu rõ đạo lý nên có phần không lợi cho nền phong tục đạo đức. Bởi thế cho nên quan niệm của người phàm về thiện ác, tốt xấu thực rõ ràng khác biệt, tương phản với thánh nhân vậy. Suy rộng ra thì mọi sự lựa chọn thiện ác, gìn giữ hay buông xả của người đời đều không giống với thánh nhân, còn chỗ thiên địa, quỷ thần coi là phúc, thiện họa, dâm tà, phải trái đều đồng tiêu chuẩn với thánh nhân mà khác biệt hẳn với người phàm tục. Phàm muốn tích lũy thiện tất phải phát xuất từ chỗ tiềm ẩn của chân tâm đã được thanh lọc hết ý ác, quyết không để tai mắt trần tục sai khiến hành thiện vì tự tư tự lợi. Một lòng một dạ cứu giúp đời là ngay thẳng, còn nếu có chút lòng mị thế, lấy lòng người để có được danh vọng, tiền tài thì là hành động khuất khúc, chỉ một lòng một dạ tôn kính người là ngay thẳng, còn có chút lòng bỡn cợt, coi khinh người là khuất khúc; đều nên bàn luận tường tận. Thế nào là âm thiện, dương thiện? Phàm làm việc thiện mà mọi người đều hay biết được thì gọi là dương thiện, hành thiện mà không một ai biết là âm đức, thực ra đã có thiên địa quỷ thần biết rõ, nên có âm đức thì tự nhiên sẽ được cảm ứng quả báo; dương thiện được hưởng danh tiếng ở đời, đã có danh tiếng tức là đã được phúc báo rồi. Xưa nay những người có danh, có tiếng thường bị tạo hóa ganh ghét đố kỵ; vì thế những người có danh tiếng lừng lẫy mà thực sự không có nhiều công đức xứng đáng với danh tiếng đó, thường gặp phải nhiều tai họa bất ngờ xảy ra. Dù vậy nếu là người không có tội lỗi gì mà bỗng phải chịu mang tiếng xấu một cách oan uổng thì rồi con cháu họ sẽ được đáp đền, mau chóng phát đạt. Chỗ sai biệt của dương thiện và âm thiện do vậy cần phải cẩn thận suy xét cho kỹ. Thế nào là phải và chẳng phải? Nước Lỗ xưa có luật người Lỗ nào chuộc được người bị bắt làm kẻ hầu hạ ở các nước chư hầu về đều được phủ quan thưởng tiền. Tử Cống (học trò đức Khổng tên là Tứ) chuộc người về mà không nhận tiền thưởng. Đức Khổng nghe biết lấy làm buồn phiền mà bảo rằng: Tứ làm việc thất sách rồi. Ôi, thánh nhân xử sự nhất cử nhất động có thể cải sửa phong tục, thay đổi tập quán, làm gương mẫu cho bách tính noi theo, nên chẳng phải cứ nhiệm ý làm những việc thích hợp với riêng mình. Nay nước Lỗ, người giàu ít, người nghèo thì nhiều, nếu nhận thưởng cho là tham tiền, là không liêm khiết, còn không lãnh thưởng thì người nghèo sao có tiền tiếp tục chuộc người? Từ nay về sau chắc không ai chuộc người ở các nước chư hầu về nữa. Tử Lộ (tên Do, học trò đức Khổng) cứu người khỏi chết đuối, được tạ ân một con trâu. Tử Lộ nhận lãnh, đức Khổng hay chuyện hoan hỷ bảo rằng: Từ nay về sau nước Lỗ sẽ có nhiều người lo cấp cứu kẻ chết đuối. Cứ lấy con mắt phàm tục mà xét thì Tử Cống không lãnh tiền thưởng là hay, còn Tử Lộ nhận tặng trâu là kém. Nhưng kiến giải của thánh nhân khác với người phàm nên trái lại đức Khổng lại chọn Do mà truất Tứ. Vậy nên biết người hành thiện không nên chỉ nghĩ tới lợi ích nhãn tiền mà cần xét xem hành động đó có ảnh hưởng tệ hại gì về sau này hay không, không nên bàn đến lợi ích nhất thời ở đời này mà phải nghĩ tới tương lai xa, cũng chẳng nên chỉ nghĩ riêng cho cá nhân mình mà phải nghĩ cho nhiều người, cho thiên hạ đại chúng nữa. Việc làm hiện nay tuy bề ngoài là thiện nhưng trong tương lai lại để hại cho người, thì thiện mà thực chẳng phải thiện, còn việc làm hiện thời tuy chẳng phải thiện nhưng về sau này lại có lợi ích cứu giúp người thì tuy ngày nay chẳng phải thiện mà chính thực là thiện vậy. Chẳng qua ở đây chỉ lấy một vài sự việc mà bàn thế nào là thiện và không phải thiện mà thôi. Ở đời có nhiều sự tình tương tự, chẳng hạn như tưởng là hợp lễ nghĩa, là có trung tín, từ tâm mà thực ra lại là trái lễ nghĩa, không phải trung tín hay từ tâm; đều phải quyết đoán chọn lựa kỹ càng. Thế nào là thiên lệch và chính đáng? Xưa, ông Lã Văn Ý, lúc mới từ chức tể tướng, cáo lỗi hồi hương, dân chúng bốn phương nghênh đón như Thái sơn, Bắc đẩu. Nhưng có một người say rượu mạ lỵ ông. Lã công điềm nhiên bất động bảo gia nhân: Kẻ say chẳng chấp làm gì, đóng cửa lại mặc kệ hắn. Qua một năm sau, người đó phạm tội tử hình bị giam vào ngục. Lã công hay biết sự tình mới hối hận rằng: giá mà ngày ấy ta bắt hắn đưa quan nha xử phạt thì hắn có thể chỉ bị trừng giới với một tội phạm nhẹ mà tránh khỏi phạm trọng tội về sau. Ta lúc đó chỉ muốn giữ lòng nhân hậu tha thứ cho hắn, không ngờ lại hóa ra nuôi dưỡng tính ngông cuồng của hắn để phạm phải tội tử hình như ngày nay vậy. Đó là một sự việc do lòng thiện mà hóa ra làm ác. Lại nữa, có khi làm việc thiện với tâm ác, như một nhà đại phú nọ gặp năm mất mùa, dân nghèo giữa ban ngày cướp bóc thóc gạo ở ngay nơi thị tứ, báo cáo lên huyện thì huyện không xử lý, dân nghèo được thể càng lộng hành. Gia đình nọ bèn tự xử cho bắt những kẻ cướp bóc giam giữ trị tội nên ổn định được tình hình, nếu không hành động như vậy cướp sẽ làm loạn. Sở dĩ ai cũng đều biết làm thiện là chính đáng và làm ác là thiên lệch nhưng tâm tuy thiện là chính, mà việc làm hóa ra ác là thiên lệch nên gọi đó là thiên ở trong chính; còn tâm tuy ác mà việc làm hóa ra thiện, đó là chính ở trong thiên vậy. Sự lý này không thể không hiểu cho thật rõ ràng. Thế nào là đầy và vơi ( bán và mãn)? Kinh Dịch nói việc thiện mà chẳng tích lũy lại cho nhiều không đủ để được danh thơm tiếng tốt, việc ác mà không đọng lại nhiều chẳng đủ để bị họa sát thân. Kinh Thư có nói nhà Thương tội ác quá nhiều như nước vỡ bờ vì thế mà Trụ vương bị diệt. Việc tích thiện cũng như lưu trữ vật dụng, nếu chăm chỉ cất giữ ắt sẽ đầy kho, còn biếng nhác không chịu tích lại thì ngày càng vơi chứ không đầy. Chuyện làm thiện được đầy hay vơi, bán hay mãn là như vậy. Xưa có một nữ thí chủ vào chùa lễ Phật, muốn cúng dường nhưng lại không có tiền, trong túi chỉ còn hai đồng bèn đem cả ra để cúng. Vị trụ trì đích thân làm lễ bái sám hồi hướng cho. Sau nữ nhân đó được tuyển vào cung, tiền tài, phú quý có thừa, đến chùa lễ Phật đem cả ngàn lượng bạc cúng dường. Hòa thượng trụ trì sai đồ đệ thay mình làm lễ hồi hướng mà thôi. Nữ thí chủ nọ thấy vậy liền hỏi: Trước đây tôi chỉ cúng dường có hai đồng mà phương trượng đích thân làm lễ bái sám hồi hướng cho, nay cúng dường cả ngàn lượng bạc mà sư lại không tự mình làm lễ là vì sao vậy? Vị hòa thượng đáp: Trước kia tiền bố thí quả là ít ỏi, nhưng phát xuất từ tấm lòng thật chân thành, nếu bần tăng không đích thân bái sám hồi hướng thì không đủ báo đáp được ân đức ấy. Nay tiền cúng dường tuy thật quá hậu, nhưng tâm bố thí không được chân thành như trước, nên bảo đồ đệ thay bần tăng làm lễ cũng đủ. Với lòng chí thành bố thí cúng dường chỉ hai đồng mà việc thiện được viên mãn, còn bố thí cả ngàn lượng bạc mà lòng không được chí thiết thì công đức đó chỉ được bán phần mà thôi. Trên đây là một câu chuyện nói về làm thiện được bán và mãn hay vơi và đầy vậy. Chung Ly Quyền chỉ dạy cho Lã Đồng Tân cách luyện đan điểm sắt thành vàng có thể đem dùng để cứu giúp người đời. Lã Đồng Tân hỏi rằng vàng đó sau có thể biến chất hay không? Chung Ly Quyền bảo năm trăm năm sau vàng ấy sẽ trở lại nguyên bản chất cũ là sắt, thì họ Lã nói: Như vậy là sẽ gia hại cho người đời 500 năm về sau, ta chẳng muốn học phép ấy làm gì. Chung Ly Quyền bảo: Muốn tu tiên cần phải tích công lũy đức 3000 điều, nhưng chỉ một lời của nhà ngươi nói đó cũng đủ mãn 3000 công đức rồi. Đây lại thêm một thuyết nữa về đầy vơi hay bán mãn vậy. Hơn nữa, làm việc thiện mà tâm không hề chấp trước là mình làm thiện, cứ tùy theo công việc nào mình làm mà được thành tựu thì hành động đó gọi là mãn. Nếu tâm còn chấp việc mình làm là thiện thì dẫu cả đời chăm chỉ hành động cũng chỉ là bán thiện mà thôi. Giả như mang tiền tài cứu giúp người, nội tâm không nghĩ tới mình là người bố thí, ngoài mặt không cần biết người nhận tiền là ai, ở khoảng trung gian cũng không nghĩ tới số tài vật bố thí là bao nhiêu, đó gọi là tam luân thể không, bố thí với tấm lòng thanh tịnh như vậy thì một đấu thóc cũng có thể trồng thành vô lượng vô biên phúc đức, dù một xu cũng có thể tiêu diệt được tội nghiệp của ngàn kiếp trước. Nếu như còn tồn tâm nghĩ tới mình là người làm thiện, số tài vật đem bố thí và người nhận vật là ai, thì dù có vạn lượng bạc đem cho, phúc cũng không được viên mãn. Đây cũng là một thuyết nữa về bán hay mãn thiện, thiện đầy hay vơi. Thế nào là đại và tiểu? Xưa Vệ Trọng Đạt, một quan chức ở Hàn Lâm Viện bị nhiếp hồn đưa xuống âm phủ. Diêm vương sai các phán quan trình những cuốn sổ ghi việc thiện và ác ra để xét. Nếu đem so sánh thì sổ ghi những việc ác thực quá nhiều, còn sổ ghi việc thiện chỉ có một cuốn nhỏ mỏng như que đũa mà thôi. Diêm vương sai bắc lên cân, cân thử thì bên 1 cuốn sổ ghi việc thiện lại nặng nhiều hơn tất cả những cuốn sổ ghi việc ác hợp lại . Trọng Đạt nhân thế mới hỏi: Năm nay, bản chức chưa đến 40 tuổi đời mà sao tội lỗi lại có thể nhiều đến như thế? Thì Diêm vương bảo: Mỗi một niệm ác mới khởi lên trong lòng đã kể là một tội không cần đợi tới lúc có thực sự phạm phải hay không. Trọng Đạt lại hỏi thêm là trong cuốn sổ nhỏ đó ghi việc thiện gì vậy. Diêm vương bảo: Triều đình đã từng dự tính khởi đại công tác tu sửa cầu đá ở Tam Sơn, nhà ngươi dâng sớ can gián. Sớ văn đó có ghi chép vào sổ vậy. Trọng Đạt thưa: Bản chức tuy có dâng sớ, nhưng triều đình không y theo lời tấu trình, thì sự việc đâu có ích gì? Thì Diêm vương lại bảo cho hay là: Triều đình không y theo lời tấu, nhưng một niệm thiện đó của nhà ngươi là vì lợi ích của toàn dân, muốn cho họ khỏi bị lao công vất vả, khỏi bị sưu cao thuế nặng, nếu mà lời tấu được triều đình y theo thì công đức của nhà ngươi thực vô cùng lớn lao. Cho nên nếu có chí nguyện làm lợi ích cho mọi người, cho quốc gia thiên hạ, cho đại chúng thì tuy việc làm đó có nhỏ mà công đức lại lớn, còn dù làm việc công mà chỉ nghĩ và nặng vì lợi ích của riêng mình thì dù có làm thật nhiều mà công đức lại nhỏ vậy. Thế nào là khó và dễ? Các vị tiên nho xưa có nói muốn khắc phục mình, muốn thắng được tâm mình thì nên bắt đầu từ chỗ khó khắc phục mà khởi công trước. Đức Khổng Tử bàn về nhân ái cũng nói bắt đầu từ chỗ khó mà thi hành trước, tức là từ chỗ phải thắng được lòng mình vậy, bởi lẽ khó mà làm được thì dễ ắt cũng làm xong. Như ông họ Thư ở Giang Tây bỏ hết cả tiền lương gom góp trong hai năm dạy học đem nộp quan để trừ vào tiền thiếu nợ giúp cho hai vợ chồng nhà nọ được sum họp khỏi bị bắt đi làm gia nhân nhà người; đó đều có thể gọi là chỗ khó xả bỏ mà xả bỏ được. Lại như ông già họ Cận ở Trấn Giang tuổi đã cao, không con nối dõi, lân gia có người đem đứa con gái còn trẻ đến cho nạp làm thiếp, nhưng ông không nhẫn tâm thu nạp mà đem hoàn trả lại. Đó là chỗ khó có thể nhẫn mà nhẫn được. Vậy nên phúc báo trời cho hưởng sẽ được hậu. Phàm những người có tiền tài, có quyền thế mà họ muốn làm phúc thì thực là dễ, dễ mà chẳng làm là tự hủy hoại mình, người nghèo hèn khốn cùng muốn làm phúc thì thật là khó, nhưng khó mà làm được, đó mới thực là đáng quý vậy. 3.- Tùy duyên hết sức tu thập thiện Tùy lúc gặp duyên lành cứu giúp người, hay tùy hỷ công đức mà hành thiện, nếu phân biệt ra từng loại thì thật rất nhiều, nhưng đại khái có 10 loại việc thiên (thập thiện) như sau: thứ nhất, trợ giúp người cùng làm thiện; thứ hai, giữ lòng kính mến người; thứ ba, thành toàn việc thiện của người; thứ tư, khuyến khích người làm thiện; thứ năm, cứu người gặp nguy khốn; thứ sáu, kiến thiết, tu bổ có lợi ích lớn; thứ bảy, xả tài làm phúc; thứ tám, giữ gìn bảo hộ chánh pháp; thứ chín, kính trọng tôn trưởng; thứ mười, thương tiếc mạng sống loài vật. Thế nào là trợ giúp người cùng làm thiện? Xưa vua Thuấn, lúc chưa tức vị, thấy những người đánh cá ở đầm Lôi Trạch, đều tranh chiếm chỗ nước sâu nhiều cá, còn người già yếu phải tìm chỗ nước nông cạn chảy xiết ít cá mà đánh, nên có lòng trắc ẩn bất nhẫn, bèn cũng tới đánh cá; thấy người nào cũng tranh giành chỗ, thì ông im lặng không đả động gì đến tánh xấu ấy, còn thấy người mà có lòng nhường chỗ thì ông hết lời khen ngợi mà theo gương đó cũng nhường chỗ cho người khác. Một năm sau, những người đánh cá ở những chỗ nước sâu, ai cũng có lòng nhường chỗ cho nhau mà không tranh giành nữa. Ôi, vua Thuấn thực là sáng suốt, há chẳng phải mất lời mà khuyên bảo giáo hóa được người sao! Tuy không dùng lời mà dùng chính bản thân mình làm gương mẫu cho người khác tự sửa đổi lấy mình. Đây là chỗ khổ tâm và khéo dụng công của vua Thuấn vậy. Bọn chúng ta ở đời mạt pháp này chẳng nên thấy mình có chỗ sở trường mà khinh khi chèn ép người; chẳng nên lấy chỗ hay giỏi của mình mà đem so sánh xét người; chẳng nên thấy mình có quyền năng thế lực mà làm khốn khó người; nếu mình có tài có trí cũng chẳng nên khoe khoang biểu lộ ra ngoài mà nên ẩn giấu ở bên trong coi như tài mình còn non, trí còn kém như không thực có gì hết, và thấy người có lỗi lầm thì bao dung ẩn nhẹm cho, tức ẩn ác dương thiện vậy. Một là để cho người tự hối mà sửa lỗi, hai là để họ tự biết lỗi mà e dè úy kỵ không dám phóng túng làm càn. Nếu thấy người có chỗ hay tốt có thể chấp nhận học hỏi được thì dù là việc thiện nhỏ cũng nên ghi nhớ ngay, không những để tự mình học lấy chỗ hay của người, mà còn tán dương thuật lại cho mọi người cùng hay biết. Phàm những việc làm thường ngày, một lời nói, một hành động hoàn toàn đều không nên vì lợi cho mình mà làm, nên đặt ra nguyên tắc nghĩ và làm lợi cho người, cho thiên hạ, đại chúng. Đây là chỗ độ lượng của người chính nhân quân tử coi thiên hạ là công mà mình là tư. Thế nào là giữ lòng kính mến người? Người quân tử và tiểu nhân, nếu chỉ xét hình dáng bề ngoài thường có sự lẫn lộn khó phân biệt, duy có một điểm thiện ác khác nhau xa là ở chỗ tồn tâm biết giữ được lòng mình, và do đó mà phán xét thì trắng đen rõ ràng trái hẳn nhau; cho nên nói người quân tử sở dĩ khác người là ở chỗ tồn tâm vậy. Chỗ tồn tâm của người quân tử chỉ là lòng tôn kính, yêu mến người. Đại khái con người ta ở đời có người thân sơ hay sang hèn, có người thông minh trí tuệ hay đần độn ngu si, có người hiền lương đạo đức hay phàm phu tục tử, hàng vạn vạn người chẳng ai giống ai, nhưng đều là đồng bào của ta, đều cùng một thể chất như ta, sao lại chẳng yêu kính ư? Thánh nhân, hiền nhân thường luôn kính trọng, thương yêu đại chúng làm lợi cho họ, nếu ta cũng kính yêu mọi người là trùng hợp với lòng của các vị thánh hiền, như vậy cũng như ta có lòng kính ái các vị ấy. Nếu như ta thông hiểu được chí nguyện của đại chúng tức là hiểu rõ được tâm ý của thánh hiền. Bởi vì chí nguyện của người đời là mong được lợi lạc an bình, mà tâm ý của thánh hiền vốn dĩ vẫn vì đại chúng mà làm cho họ được như ý muốn, đắc kỳ sở nguyện; lòng chúng ta nếu trùng hợp với lòng kính ái của thánh hiền mà làm cho đại chúng được an lạc tức là chúng ta đã vì thánh nhân và hiền nhân mà làm lợi lạc cho mọi người vậy. Thế nào là thành toàn việc thiện của người? Một hòn đá trong có ngọc nếu bị ném bỏ ắt sẽ vỡ tan như hòn ngói, nhưng nếu đem mài dũa, chạm trổ ắt sẽ thành khuê chương, hốt ngọc của vua quan. Cho nên phàm thấy người làm việc thiện, hoặc thấy ý chí và tư chất của họ có thể tiến thủ thành công thì đều nên khuyến dụ, trợ giúp họ; hoặc khen ngợi khích lệ, hoặc gìn giữ bao bọc họ; hoặc biện bạch hộ cho họ hay chia xẻ cùng họ nỗi oan ức bị người ghen tị mà vu họa phỉ báng họ, cốt sao giúp cho họ được thành công mà thôi. Đại khái, con người thường không ưu thích những người không giống như mình, chẳng hạn như ác không ưa thiện, tiểu nhân không thích quân tử. Người trong một xóm làng, thiện thì ít mà xấu ác thì nhiều, vì thế người thiện ở đời bị kém thế khó có thể tự lập được vững vàng. Hơn nữa người hào kiệt, thông minh tài cán, tính tình thường cương trực không trọng bề ngoài, không ưa tiểu tiết nên hay bị người ta hiểu lầm mà chỉ trích phê bình; vì thế cho nên việc thiện thường dễ bị hư hỏng mà người thiện thường bị nhạo báng, cười chê, chỉ duy có người trưởng giả nhân hậu mới hiểu rõ được sự tình mà phù trợ giúp cho họ được thành công. Thành toàn cho người thì công đức thực là lớn lao vô cùng. Thế nào là khuyến khích người làm thiện? Con người ta đã sinh ra làm người, ai mà không có lương tâm. Đường đời mênh mông mù mịt rất dễ bị sa đọa chìm đắm vì ngũ dục. Đối với những người còn mải mê ham đắm danh, lợi, tình, ăn ngủ dễ tạo thành nghiệp ác, ta nên tìm cách để cảnh tỉnh họ cho thoát khỏi sự mê hoặc, cũng giống như họ đang trải qua một giấc mộng lớn trong đêm dài mà làm cho họ được thức tỉnh, hay giống như họ bị hãm vào vòng phiền não tích tụ từ lâu đời mà ta giúp họ trong trắng đoạn trừ, bại trừ hết thì ân huệ đó thật vô lượng vô biên. Hàm Dũ, đời nhà Đường có nói: Uốn ba tấc lưỡi dùng lời nói mà khuyên người làm việc thiện chỉ là phương pháp nhất thời bởi có thể nghe tai này lọt qua tai khác rồi quên đi, còn muốn có hiệu quả dài lâu đến tận trăm năm về sau thì dùng văn thư sách vở để lại mà khuyên người đời làm lành tránh ác. Tuy nhiên, dùng lời nói hay sách vở khuyên người cũng giống như gặp bệnh nào thì phát thuốc trị bệnh ấy cho bệnh nhân kể cũng có hiệu lực nhưng còn lưu lại dấu vết, còn như dùng chính bản thân mình hành động làm mẫu mực, làm gương cho người trông thấy để họ tự nhiên tỉnh ngộ biết được lỗi lầm mà sửa đổi thì hiệu quả cũng chẳng kém mà không để lại hình tích gì; cả hai phương tiện này đều chẳng thể bỏ qua. Muốn giúp người, khuyên người cần phải thông minh sáng suốt, biết tùy thời, tùy người không để mất lời tức phí lời nói của mình mà người không nghe, cũng không để mất người, tức là gặp người có thể khuyên cải được mà mình không hành động để lỡ mất dịp làm lành, như thế là kém hiểu biết, không có trí tuệ vậy. Thế nào là cứu người lúc nguy cấp? Người ta ai cũng có lúc gặp phải sự tai ương hoạn nạn xảy ra. Ngẫu nhiên mà ta gặp trường hợp người bị nạn thì coi sự đau khổ của người cũng như là mình đau mà mau mau cứu giúp; hoặc dùng lời nói làm nhẹ nỗi oan uổng uất ức cho họ, hoặc tìm mọi cách giúp họ khỏi sự thống khổ triền miên. Thôi Tử có nói: Làm ân không cần để ý tới là nhỏ hay lớn, chỉ cần lúc người gặp nguy khốn mà tới giải cứu, giúp đỡ ngay là được. Đó thực là lời nói của người có lòng nhân hậu, đạo đức vậy. Thế nào là kiến thiết, tu bổ lợi ích lớn? Nhỏ như một thôn xóm, lớn như trong một huyện, phàm những công đức kiến thiết có lợi ích công cộng cần phải nên góp công, góp của, như khai cừ dẫn thủy, như tu bổ đê điều phòng lụt lội, như sửa chữa cầu cống tiện việc giao thông đi lại hay bố thí cơm nước để cứu đói cứu khát; tùy duyên và tùy cơ hội khuyến khích người cùng hợp lực xây dựng, chẳng nề gian khổ, chẳng quản bị ganh tị, hiềm nghi, oán trách, cứ tận tâm, tận lực mà hành động. Thế nào là xả tài làm phúc? Theo nhà Phật thì việc hành thiện có hàng vạn điều để làm nhưng tựu trung bố thí là điều cần trước mắt, muốn bố thí chỉ cần có một chữ xả mà thôi. Người am hiểu rõ ràng lý lẽ này thì trong xả lục căn (nhãn, nhĩ, tỉ, thiệt, thân, ý), ngoài xả lục trần (sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp), nhất thiết những gì mình sở hữu không có gì là không xả được. Nếu không đạt tới trình độ có thể xả bỏ hết, thì trước tiên hãy bắt đầu dùng tiền mà bố thí. Người đời lấy cơm ăn áo mặc làm mạng sống, cho nên rất quý trọng đồng tiền , nay chúng ta có thể xả bỏ được tức là trong lòng bỏ được tính keo kiệt, ngoài mặt thì cứu giúp được người lúc cần gấp; lúc mới bắt đầu thì có vẻ miễn cưỡng mà làm, nhưng rốt cuộc xả bỏ quen rồi thì an nhiên tự tại hành động, có thể rửa sạch được lòng riêng tư, vị kỷ, trừ bỏ được tính biển lận, tham lam, keo sẻn. Thế nào là giữ gìn bảo hộ chánh pháp? Pháp là tai mắt có linh tính và sinh động từ ngàn xưa hàng vạn đời truyền lại. Chánh Pháp là ngọn đèn là nơi nương tựa của tất cả chúng sanh là phương tiện để ba đời mười phương Chư Phật cứu độ chúng sanh thoát khỏi vô minh, đau khổ đến bờ giải thoát, an vui.. Nếu không có chánh pháp thì làm sao có thể trợ giúp sự hóa đức của thiên địa, làm sao có thể tài bồi vạn vật, làm sao có thể cứu chúng sanh thoát ly khỏi sự thúc giục của ngũ dục, lục trần, làm sao có những kinh điển siêu việt thời gian và không gian để lại chỉ cho ta con đường tu thân xuất thế thoát khỏi luân hồi sinh tử? Vì vậy ta phải biết kính trọng bảo vệ, và góp sức chỉnh trang, chùa chiền, đền miếu thờ các vị thánh hiền; giữ gìn, ấn tống suy cử, khuyến khích và truyền bá phổ biến các kinh điển góp phần hoằng dương chánh pháp để đền đáp ân đức của Phật Đà Thế nào là kính trọng tôn trưởng? Đối với các vị tôn trưởng, như ở nhà thì có phụ huynh, trong nước thì có vua chúa, ngoài xã hội thì phàm những người tuổi cao, đạo đức cao ...đều nên đặc biệt để ý tôn kính, phụng sự. Ở nhà thờ phụng cha mẹ phải cực kỳ hết lòng kính mến thương yêu, thái độ đối xử phải dịu dàng hòa nhã, lời ăn tiếng nói phải nhã nhặn, ôn hòa, tập quen cho thành tính nết tốt, tạo được hòa khí mới là phương pháp căn bản cảm ứng với lòng trời. Khi làm việc quan phụng sự vua chúa, thì bất cứ làm một việc gì dù nhà vua không biết tới cũng phải thận trọng không được tự ý làm càn, khi xử án cũng vậy, không thể tự mình tác oai mà cần phải xét xử cho công bằng, minh bạch. Người xưa thường nêu gương mẫu phụng sự vua cũng như thờ trời phải hết lòng cung kính. Đó là chỗ tối quan hệ tới phần âm đức. Chúng ta hãy thử xem những gia đình trung hiếu thì đủ rõ, con cháu họ nhiều đời đều được phát đạt thịnh vượng, thiết tưởng cũng nên cẩn thận lưu ý. Thế nào là tiếc mạng sống loài vật? Phàm con người sinh ra, được gọi là người duy chỉ ở chỗ có lòng trắc ẩn mà thôi. Muốn cầu có lòng nhân hậu, muốn tích đức, đều phải do ở chỗ có lòng trắc ẩn đã. Theo lễ nghi nhà Chu, vào tháng đầu xuân, tế lễ dùng tam sinh như trâu, bò, heo, nhưng không sát hại vật giống cái. Mạnh phu tử nói người quân tử xa chốn nhà bếp, sở dĩ muốn bảo toàn lòng lân mẫn, trắc ẩn vậy, tức là không muốn nghe tiếng kêu bi thương của con vật bị làm thịt; cho nên các vị tiền bối giữ giới tứ bất thực, bốn thứ không ăn; nghe tiếng kêu của vật bị giết thịt, trông thấy người ta làm thịt nó, chính mình nuôi nó, hay người ta vì mình mà làm thịt nó, bốn trường hợp đó thì đều không ăn. Noi gương từ tâm của các vị tiền bối, nếu chúng ta chưa có thể hoàn toàn bỏ hẳn được việc dùng thịt, thì cũng khá nên giữ giới tứ bất thực này. Dần dần tiến bộ, lòng từ ngày càng gia tăng, không những giữ được giới không sát sinh mà còn coi những vật nhỏ bé động đậy ngu xuẩn hay có linh tính đều là có mạng sống cả mà không giết hại, như việc kéo kén lấy tơ làm lụa, cày bừa đất đai chết trùng bọ, nguyên do cũng vì cơm ăn áo mặc mà hại chúng để nuôi dưỡng mình, há chẳng đáng thương hại hay sao, cho nên hủy hoại những vật tiêu dùng cũng tội như sát sinh vậy; đến như vì vô tình không để ý mà tay đập chân giẫm hại không biết bao sinh vật li ti nhỏ nhoi, tưởng cũng nên tìm cách để phòng tránh khỏi việc ấy. Thơ cổ có nói mến chuột thường dành cơm cho ăn, thương con thiêu thân thì chẳng đốt đèn, để chúng khỏi chết. Thật là từ bi nhân hậu biết bao! Thi hành việc thiện thì thật vô cùng, không sao thuật hết được. Theo mười điều trên mà suy rộng ra ắt có thể hoàn bị được hàng vạn công đức. KHIÊM ĐỨC I– Mãn (tự mãn) có hại, khiêm có lợi Kinh Dịch nói thiên đạo và địa đạo không ưu doanh (doanh mãn) mà làm lợi cho khiêm (khiêm hư) là muốn biến cải con người để tự biết sửa mình, bởi thế nên phàm làm việc gì mà kiêu ngạo tự mãn (doanh) thì sẽ chuốc lấy tổn thất, còn nhún nhường (khiêm) coi mình như không thì lại được lợi ích, như trái núi quá cao thì dễ bị lở, chỗ trũng thường được nước chảy tới làm đầy; quỷ thần cũng thường gây hại cho người tự kiêu, và làm lợi ích cho người khiêm tốn nhũn nhặn. Khiêm hư là điều mà trời đất, quỷ thần và người đều trọng. Trong Kinh Dịch có quẻ khiêm là một quẻ đại cát vì lục nào cũng đều tốt cả. Kinh Thư nói tự mãn chuốc lấy tổn hại, tự khiêm được lợi ích. Theo Kinh Dịch và Kinh Thư thì khiêm là điều tốt nhất. Ta nhiều lần cùng các sĩ tử đi thi, cứ mỗi lần thấy một hàn sĩ nào mà diện mạo, dung quang biểu lộ lòng tự khiêm của họ một cách rõ ràng như tỏa ra một ánh hào quang có thể nắm bắt được thì biết ngay người ấy sẽ đỗ đạt. Năm Tân Mùi, mở khoa thi hội ở kinh thành, bọn chúng ta gồm có 10 người đồng hương thuộc huyện Gia Thiện cùng đi, duy chỉ có Đinh Kính Vũ, tên Tân, tuổi trẻ nhất bọn mà cực kì khiêm tốn. Ta nói với Phi Cẩm Pha, một người bạn đồng hành, là anh bạn họ Đinh này năm nay tất nhiên trúng cử. Họ Phi hỏi thấy sao mà biết được, thì ta bảo rằng chỉ có khiêm hư là được phúc. Huynh coi xem trong bọn 10 người chúng ta không ai thành tín chất phác, thực thà, nhường nhịn người, không làm mất lòng người như Kính Vũ cả; không ai cung kính, thuận hòa cẩn thận để ý khiêm nhường như Kính Vũ cả, không ai bị chế nhạo, cười chê, chỉ trích mà chẳng hề đối đáp, tranh cãi, lại cứ thản nhiên chịu đựng như Kính Vũ cả. Con người được như thế thì thiên địa quỷ thần đều trợ giúp cho, há chẳng phát đạt hay sao! Kịp đến khi yết bảng quả nhiên họ Đinh được trúng cử. Năm Đinh Sửu, ta ở kinh cùng với Phùng Khai Chi, thấy con người của họ Phùng cực kì khiêm hư, nghiêm chỉnh, cung kính, là do thói quen tập từ thời thơ ấu biến thành. Phùng Khai Chi có người bạn tốt tên Lý Tệ Nham thực thà, trực tính, hễ gặp điều gì mà Khai Chi làm trái là nói thẳng ngay, chê trách ngay tận mặt mà Khai Chi vẫn bình tâm an hòa, thuận chịu không một lời phản đối, không để bụng giận. Ta có bảo cho biết là họa phúc đều có triệu chứng, người được hưởng phúc nhất định là do đã có sẵn căn nguyên của phúc rồi, có họa cũng do triệu chứng báo trước mà có; chỉ cần tâm thực khiêm hư thì trời đất ắt sẽ tương trợ. Huynh năm nay nhất định cập đệ. Sau thực quả nhiên đúng như vậy. Triệu Dụ Phong, tên Quang Viễn, người huyện Quán, tỉnh Sơn Đông, lúc trẻ thi hương mãi không đậu. Thân phụ của Dụ Phong được bổ làm Tam Doãn ở huyện Gia Thiện nên y tháp tùng. Ở huyện có Tiền Kính Ngô là người có văn tài, học thức rộng. Dụ Phong ngưỡng mộ đem văn bài của mình tới nhờ chỉ giáo. Kính Ngô xem và gạch xóa, sửa bỏ nhiều chỗ. Dụ Phong không những không buồn lòng mà còn bội phục, để ý đổi cách hành văn ngay nên năm sau đi thi được trúng cử. Đó cũng là do biết khiêm tốn, nhũn nhặn, sửa mình mà đạt thành quả. Năm Nhâm Thìn, nhân dịp vào kinh yết kiến hoàng đế, ta gặp Hạ Kiến Sở, thấy người này cực kì cung kính, nhún nhường, lòng khiêm hư biểu lộ rõ ràng khiến ai cũng phải nể; khi về ta nói cùng các bạn hữu là phàm người nào được trời giúp thì khi chưa được phát phúc, trước hết trí tuệ sẽ được khai mở; khi trí tuệ đã mở mang thì người phù phiếm trôi nổi, bất định sẽ tự nhiên biến thành thiết thực, sự phóng túng tự nhiên giảm thiểu. Kiến Sở là người ôn hòa, hiền lương như vậy nhất định sẽ được trời cho phát phúc. Đến khi yết bảng quả nhiên trúng tuyển. Trương Úy Nham, người huyện Giang Âm, tỉnh Giang Tô, là người học rộng, đọc nhiều, văn hay nổi tiếng, năm Giáp Ngọ đi thi hương ở Nam Kinh ngụ tại một ngôi chùa nọ; khi yết bảng không có tên nên lớn tiếng nhục mạ khảo quan là mắt không tròng, không biết người. Lúc đó có một đạo sĩ ở bên cạnh nghe được bèn cười. Úy Nham liền trút cơn giận ngay sang vị đạo sĩ nọ thì đạo sĩ nói: Chắc văn bài của ông nhất định không được hay. Lời nói này lại càng làm cho Úy Nham thêm giận mắng lớn: Ngươi có đọc văn của ta đâu mà biết là không hay? Đạo sĩ nói: Ta nghe nói hành văn quý nhất ở chỗ tâm bình, khí hòa, nay thấy ông hết lời mạ lỵ khảo quan, lòng bất bình cao ngạo quá đáng thì văn làm sao mà hay được? Úy Nham nghe lời bất giác phục thiện, nhân đấy xin thỉnh giáo đạo sĩ nọ. Đạo sĩ nói: Trúng cử hay có công danh hoàn toàn do số mệnh định, số chưa được đỗ thì dù văn có hay cũng vô ích thôi, nên tự mình sửa đổi biến cải. Úy Nham nói: Đã do số mệnh như vậy thì làm sao sửa đổi? Đạo sĩ nói: Sáng tạo ra mệnh là do trời, lập mệnh là do ta, gắng sức hành thiện, tích âm đức cho thật sâu rộng thì phúc nào mà chẳng cầu được. Úy Nham lại hỏi: Tại hạ là học trò nghèo thì làm sao làm được? Đạo sĩ bảo: Làm việc thiện, tích âm đức đều do tâm tạo ra, thường phải giữ vững tấm lòng hành thiện này thì công đức vô lượng, chẳng hạn như chỉ một việc khiêm tốn nhũn nhặn thì không phải phí tiền gì cả, sao ngươi không tự phản tỉnh, tự trách lấy mình, mà lại mạ lỵ khảo quan ư? Do đó, Úy Nham tự hạ mình giữ gìn tu sửa, gia công hành thiện ngày một nhiều, gắng sức tu đức ngày một dày; đến năm Đinh Dậu mộng thấy đi tới một tòa nhà phòng ốc cao, được một quyển sổ ghi danh sách các thí sinh được trúng tuyển trong kỳ thi, thấy nhiều hàng bỏ trống mới hỏi người ở kế bên: Xin hỏi danh sách khóa thi này, sao lại có nhiều hàng tên bỏ trống vậy? Thì người đó đáp rằng: Ở cõi âm đối với danh sách thí sinh của khóa thi thì cứ mỗi ba năm lại cứu xét một lần, người nào tu hành, tích đức không tội lỗi gì thì có tên trong sổ, còn những hàng bỏ trống đều có liên quan tới việc trước đây thí sinh đáng lẽ đã được ghi tên vào sổ nhưng sau vì phúc bạc, phạm lỗi lầm nên bị loại bỏ ra; sau đó lại chỉ một hàng mà bảo: Nhà ngươi trong ba năm tới nên giữ thân tu tỉnh cẩn thận, họa may có thể được điền tên vào đấy, mong rằng nhà ngươi nên lưu tâm đừng phạm lỗi lầm. Khóa thi năm đó, Úy Nham trúng cử vào danh sách một trăm lẻ năm người. II– Lòng khiêm tốn, nhún nhường, nguồn gốc của phúc Theo đấy mà xét, chỉ ngửng đầu cao ba thước ắt đã có thần minh soi xét, muốn tránh hung hiểm họa tai, hay muốn mong được sự việc tốt lành, hẳn nhiên đều do tự ở nơi ta biết giữ lấy thiện tâm, một mực làm lành tránh ác, không một chút nào đắc tội với thiên địa quỷ thần, lại biết khiêm tốn nhũn nhặn, không tự cao, tự đại, khiến thiên địa quỷ thần thường có lòng thương mới mong có được hưởng phúc. Người mà đầy lòng kiêu ngạo, tự mãn, nhất định khí lượng hẹp hòi, dù cho có phát đạt cũng chỉ một thời mà thôi, chẳng được lâu bền và cũng chẳng được phúc. Người đã có chút kiến thức ắt phải có độ lượng rộng rãi, bụng dạ không hẹp hòi, đố kỵ mới không tự mình bỏ lỡ cơ hội được hưởng phúc, huống chi người khiêm tốn tự hạ mình thường hay được người đời vui lòng chỉ đường hay lẽ phải cho, lợi ích thực vô cùng tận. Đây là điều mà những người tu học không thể không hiểu biết và không thể thiếu được vậy. Lời người xưa có nói: người có chí hướng cũng như cây có gốc rễ thì mới sinh trưởng ra hoa, ra trái. Người có chí muốn lập công danh thì nhất định sẽ được công danh, muốn được phú quý ắt hẳn sẽ được phú quý. Đã lập chí thì nên thường tự nhắc nhở lấy mình cần phải khiêm hư nhún nhường dù có chuyện thật nhỏ nhặt, đối với mọi người cũng phải để ý cư xử nhũn nhặn thì mới cảm ứng được với trời đất, và cũng nên hiểu rằng việc tạo phúc là do tự mình thành tâm mà tạo nên, chẳng hạn như muốn cầu được đỗ đạt ắt phải giữ vững ý chí chân thành buổi ban đầu, chứ không phải chỉ nay hứng chí thì cầu, mai không hứng thì lại thôi. Mạnh phu tử nói về Tề Tuyên Vương: Nhà vua rất ưa nghe nhạc mà vui thích, đại để có thể làm cho nước Tề được thịnh vượng. Đó là câu trích dẫn trong sách Mạnh Tử, Thiên Lương Huệ Vương, chương cú hạ, đại ý nói nhà vua ưu thích nhạc mà lấy làm vui, đó là niềm vui cho riêng mình, sao bằng biết đem cái lòng vui thích nhạc đó chuyển đổi sang làm cho bách tính cũng được hoan hỷ cùng với nhà vua, thì dân ắt sẽ vì vua tận lực phụng sự, nước Tề ắt phải thịnh. Ta đối với việc khoa cử đề danh cũng tựa như vậy, nghĩa là cũng đem lòng chân thành cầu danh đó với ý định thiết thực tận tâm, tận lực làm việc thiện và giúp đỡ mọi người ngõ hầu mới biến đổi được số đã định để được hưởng phúc bởi một vận mệnh do mình tự tạo ra. Thay đổi quan niệm, thói quen, suy nghĩ và vận mệnh Người xưa nói rằng: “con người không phải thánh hiền làm sao không lỗi?biết lỗi mà sửa là điều thiện lớn nhất”. Đó là khích lệ những người có ý chí sửa lỗi hướng thiện và thay đổi vận mệnh, đối với những sai lầm đã qua không nên nãn lòng lùi bước. Trong cuộc sống gặp phải những điều không tốt cũng đừng oán trời trách người, điều quan trọng là phải kịp thời thay đổi quan niệm, thói quen ,suy nghĩ,cố gắng làm thiện mà không hẹn hò dây dưa , đó không những là điều thiện rất lớn mà còn có khả năng thay đổi vận mệnh. Nếu chúng ta biết được ý nghĩa chói lọi của sanh mạng ở nơi tìm cầu chân lý hoàn hảo chí thiện ,tất cả những phẩm đức tu dưỡng tốt và các việc làm lợi ích cho người khác.Tu tập những phẫm chất tốt chẳng qua chỉ là khơi dậy bản tính thanh tịnh bất sanh bất diệt vốn có,cố gắng đoạn trừ và phòng ngừa những tập tánh không tốt ở đời này và đời trước.Một con người biết thay đổi vận mệnh là biết ngay lập tức ra sức thay đổi quan niệm , thói quen, suy nghĩ, chí thành làm thiện và chuyên tâm niệm Phật là trợ duyên lớn bổ sung cho việc làm này,cuối cùng có thể phá được trói buộc nghiệp cảm của kiếp trước và mở đầu một cuộc sống mới nhất cho tương lai, thành một người xây dựng vận mệnh đúng đắn nhất.Khiến cho vận mệnh vốn có được thay đổi,dần dần phước đức trí huệ tăng trưởng và đạt đến quả vị thánh hiền,cảnh giới hoàn hảo đạo đức chí thiện. Cách nhìn của Phật giáo đối quan niệm vận mệnh là ăn sâu và bao khắp “nhân quả báo ứng như bóng theo hình” “thiện hữu thiện báo, ác hữu ác báo” “muốn biết nhân đời trước,thì xem quả đời này, muốn biết qủa đời sau thi nhìn vào hành động tạo tác của hiện tại”nguyên tắc và ý nghĩa của bài kệ là suy đoán nhân quả vận mệnh của Phật giáo.Lý nhân duyên quả trình bày nhân quả vận mệnh của con người,nhưng từ lý và nguyên tắc của nhân duyên quả đi sâu vào quan sát và tìm hiểu,Phật giáo không phải là “định mệnh luận” Phật giáo chủ trương vận mệnh có thể cải đổi.Phương pháp cải thiện là lợi dụng những trợ duyên đang có mà cố gắng làm thiện,nếu biết rõ phương pháp tu trì,như lý như pháp mà làm,tinh cần ở việc làm lớn “chuyển duyên ,thiện duyên”thì tất cả vận mệnh của con người đều nằm trong tầm tay của chúng ta.Phàm người lập chí sáng tạo vận mệnh thì ngay trong đời này có thể thay đổi nghiệp quả dần dần,nhưng cái nhân tu trì sẽ mở đầu cuộc sống mới cho tương lai. Thậm chí “chuyển phàm thành thánh” “chuyển biến nghiệp quả” (chuyển nghèo thành giàu,chuyển tiện thành sang,chuyển yểu thành thọ) “phá mê khai ngộ” (chuyển ngu thành trí,chuyển độn căn thành lợi căn) tất cả những mong cầu của người tu học Phật dần dần sẽ thành tựu . Tất cả những quả báo gặp phải trong cuộc sống chúng ta dựa theo lý nhân quả của Phật pháp mà nhìn,tất cả quả báo là do “nhiệp nhân quá khứ” cộng thêm “nghiệp duyên hiện tại”sẽ thành “quả báo hiện tại”.Thông thường mà nói,nhân vốn có ở quá khứ (đã tạo thành sự thật rồi ) thì khó mà thay đổi nhưng quả báo của vị lai chúng ta có thể như lý như pháp mà cải đổi,mấu chốt của chuyển biến này là chuyển biến “duyên hiện tại” mà chuyển biến duyên hiện tại tức là thay đổi hai duyên nội ngoại ,cái gọi là hai duyên nội ngoại tức “nội Ý nghiệp”,”ngoại Thân Khẩu nghiệp”,nếu ba nghiệp nội ngoại thân khẩu ý đã được thay đổi thì quả báo hiện tại sẽ dần dần được thay đổi.Chúng ta đã hiểu rõ lý này ,nếu có thể như lý như pháp mà thực hành,thì tất cả quả báo vận mệnh nằm ở trong tay ta.Tiến bộ của người học Phật là xem xét phiền não ,tập khí của mình có giảm bớt hay không? Trí huệ có tăng trưởng hay không?xử lý sự việc có đúng đắn hay không?có cái nhìn xa trông rộng cho tương lai hay không? Đó tức là trí huệ và cũng là chổ quay về y theo đó tu hành sữa đổi cho chính mình về sau. Người học Phật muốn thay đổi vận mệnh,thì quan trọng nhất là lấy Tam huệ văn tư tu lại thay đổi quan niệm mà đi vào trung đạo thanh tịnh của tri kiến Phật,cho nên phẩm Phương Tiện thứ hai của kinh Pháp Hoa nói rằng “chư Phật Thế Tôn chỉ vì muốn chúng sanh khai ngộ tri kiến thanh tịnh của Phật mà hiện ra thế gian” thứ đến người học Phật lấy Tam vô lậu học Giới định huệ lại thay đổi thói quen,quyển thứ 9 Thành Duy Thức Luận nói: “nhị chướng chủng tử ,lập thô trọng danh” ý nói:phiền não và hai sở tri chướng từ vô thỉ đến nay là chủng tử huân tập đeo đuổi con người,nấp trong tám thức làm cho tâm ta cứng cỏi khó điều phục nên gọi là “thô trọng”.Lúc hai chủng tử này hiện hành sẽ sanh ra các phiền não tham,…che mờ tâm vương,chướng ngại trí tuệ bát nhã làm cho không sanh khởi.cho nên gọi là”nhị chướng”.Cái gọi là tập khí phiền não tức là hai chủng tử chướng này.Vì thế chúng ta học Phật muốn thay đổi vận mệnh nên lấy tu trì của Tam học lại đoạn trừ phiền não tập khí.Phật nghĩa là giác ,giác tức là lấy nội quán làm chủ “trở về lắng nghe tự tánh của chính mình,tự tánh là đạo vô thượng”cũng là “trở về quán sát tâm mình” vậy.Do vậy người học Phật muốn cải đổi nhân quả vận mệnh cũng cần nội quán tịnh niệm thay đổi tâm niệm bất thiện,trở về với tâm thanh tịnh vốn có. Ở trên đã nói “lấy Tam huệ thay đổi quan niệm” “lấy Tam học thay đổi thói quen” “lấy Nội quán tịnh niệm thay đổi suy nghĩ”, ba điền này cũng là công phu của “sữa lổi tu đức” “nhất tâm sám hối”.lấy tâm thành khẩn hành các thiện nghiệp làm trợ duyên.Thiện nghiệp tức là tâm niệm thanh tịnh làm tất cả những việc lợi ích chúng sanh. Đó không chỉ làm cho tâm Từ phát khởi (tức bồ đề tâm) mà còn tích lũy công đức vô lượng vô biên là nhu cầu tất yếu để thành Phật và tạo thành tinh thần đại nguyện “phấn đấu không ngừng”là yếu tố để thành Phật quả vậy .Cuối cùng lấy nhất tâm niệm phật làm thanh tịnh các tạp nhiễm,tiêu trừ tất cả những ác nghiệp chướng ngại của vô lượng kiếp trong tương lai,làm cho qủa lành sớm được thành thục,nhân quả nghiệp báo sẽ được thay đổi. Nói chung ,cố ý phá trừ ràng buộc nghiệp cảm của kiếp trước bắt đầu cuộc sống mới cho tương lai là người xây dựng đời sống chánh đáng..Sau khi hiểu được lý nhân duyên quả ,có thể “lấy Tam huệ thay đổi quan niệm”, “lấy Tam học thay đổi tập khí”, “lấy nội quán tịnh niệm thay đổi suy nghỉ”, “chí thành làm thiện “, “nhất tâm niệm Phật”…thay đổi nhân quả vận mệnh ,người học Phật nếu đúng như vậy mà làm dần dần sẽ tạo thành vận mệnh tốt. (Thích Tùng Từ biên soạn ) Như Nguyện dịch LI___U_PH__M_T____HU___N.doc
    1 like
  7. Cuộc "đỡ giá" của các quỹ đầu tư chỉ số Biến động của VN-Index thời gian qua khiến giới phân tích trong nước cảm nhận “hơi thở” các ETF tại TTCK nội địa. Vốn ngoại vào TTCK Việt Nam thông qua sự hiện diện trực tiếp của các quỹ, tổ chức đầu tư và các cá nhân. Một hình thức khác là các NĐT quốc tế ủy thác đầu tư qua các định chế tài chính quốc tế có mặt tại Việt Nam. Nhưng gần đây, có một dòng chảy ngầm của vốn ngoại diễn ra mạnh mẽ dưới hình thái quỹ đầu tư theo chỉ số (ETF). Nhận diện được hình thái này có thể giúp NĐT nội địa giải mã phần nào giao dịch bất thường của khối ngoại thời gian qua. Tính ưu việt của ETF Các quỹ đầu tư ETF (Exchange - Traded Fund) bắt đầu được nhắc đến trên TTCK Việt Nam gần đây, dù mô hình này đã khá quen thuộc trên thế giới. Tại các sàn giao dịch chứng khoán lớn như NYSE (Mỹ) luôn có hàng trăm loại ETF được mua bán hàng ngày. Ngay trong khu vực, tại sàn chứng khoán Singapore có 41 ETF niêm yết, TTCK Hồng Kông có 24 ETF... Quỹ ETF ra đời vào những năm 1990 nhằm phục vụ cho nhu cầu của một bộ phận NĐT không muốn quá vất vả để lựa chọn cổ phiếu, mà chỉ cần điểm số của TTCK hoặc giá cả một loại hàng hóa nào đó tăng là có lợi nhuận. Bởi vậy, các quỹ ETF lựa chọn danh mục đầu tư mô phỏng theo các chỉ số chứng khoán, một nhóm ngành hoặc theo các loại hàng hóa có tính thanh khoản cao như dầu mỏ hay vàng. Với đặc điểm như vậy, chiến lược đầu tư của quỹ ETF rất khác biệt. Chẳng hạn, với các ETF chỉ số, họ chọn mua những cổ phiếu chi phối xu hướng thị trường, mà không chú trọng tới các nhân tố cơ bản. Cấu trúc của ETF khiến cho quỹ trở thành một hình thức dầu tư chỉ số được phân tán rủi ro tốt, chi phí khá thấp (thường dưới 1%). Chính điều này đã giúp ETF thu hút các NĐT tổ chức, cũng như các cá nhân đầu tư vào ETF với mục tiêu nắm giữ lâu dài hoặc phục vụ chiến lược giao dịch ngắn hạn. Cơ chế của ETF làm cho giá chứng chỉ quỹ thường theo sát giá trị tài sản ròng (NAV), chứ không biến động quá xa. Điều này khiến ETF ưu việt hơn các quỹ đóng. Nhận diện ETF tại Việt Nam Biến động của VN-Index thời gian qua khiến giới phân tích trong nước cảm nhận “hơi thở” các ETF tại TTCK nội địa. Chẳng hạn, bất chấp xu thế túc tắc đi xuống của VN-Index trong gần cả năm, thì tại khá nhiều blue-chip hợp “khẩu vị” NĐT nước ngoài như HAG, FPT, DPM, HPG... vẫn kiên cường tin vững. Chính các mã này đóng vai trò chiếc “neo” không cho VN-Index giảm sâu. Tại một số mã khác như BVH, MSN, VIC, cuộc chơi còn hoàn toàn do khối ngoại cầm trịch. Dựa trên sức cầu NĐT nước ngoài, cổ phiếu BVH đã tăng giá gấp 3, MSN và VIC tăng gấp đôi trong năm nay, dù trong mắt NĐT nội địa, đây là các mã không hấp dẫn nếu nhìn trên các chỉ số cơ bản. Thậm chí, đôi khi ở các thời điểm nhạy cảm, các mã này còn được “nâng lên đặt xuống” một cách có chủ ý. Thông qua các trụ cột như vậy, NĐT nước ngoài có thể tăng hay giảm tốc VN-Index một cách khéo léo. Theo thông báo chính thức, một trong các quỹ ETF đã hoạt động tại Việt Nam là The Market Vector Vietnam ETF (ký hiệu là VNM). Đây là quỹ do Công ty quản lý đầu tư Van Eck Global thành lập. Chứng chỉ của ETF này được niêm yết trên NYSE từ trong tuần tháng 8/2009, với mã nhận dạng chứng khoán quốc tế (ISIN) số US57060U7616. Số vốn ban đầu của VNM chỉ vỏn vẹn 14 triệu USD. Ban đầu, Quỹ đã đầu tư vào một danh mục gồm 28 chứng khoán niêm yết trên TTCK Việt Nam. Phí quản lý thường niên của ETF này khá thấp, chỉ 0,85% giá trị danh mục/năm. Trong thư ngỏ gửi các NĐT toàn cầu, nhà quản lý Van Eck Global viết: “Mọi NĐT có thể mua ETF của chúng tôi. Bạn có thể mua bán cổ phiếu trên thị trường thứ cấp cùng với cách mà bạn có thể mua bán trên sàn thông qua nhà môi giới chứng khoán. Chứng chỉ VNM sẽ được giao dịch ở nhiều mức giá khác nhau, tùy thuộc vào NAV. Nhưng chúng tôi tin tưởng rằng, sự giảm giá và lợi nhuận giảm trên NAV sẽ không kéo dài”. Dù quy mô khiêm tốn, nhưng quỹ ETF này đã thu hút một luồng vốn ngoại mới cho TTCK Việt Nam năm 2009. Theo tìm hiểu của ĐTCK, VNM không phải là quỹ đầu tư ETF đầu tiên hiện diện trên TTCK Việt Nam. Từ ngày 15/1/2008, Deutsche Bank AG dã thành lập quỹ ETF mang tên FTSE Vietnam Index ETF và có ISIN là LU0322252924, vốn 5,1 triệu USD. Quy mô khá nhỏ nên Quỹ khi đó không được NĐT nội địa chú ý. Tuy nhiên, chỉ hai tháng sau đó, quy mô tài sản quỹ ETF này tăng gấp đôi. Nửa năm sau khi ngày thành lập, tài sản của Quỹ đạt mức 100 triệu USD, tăng gấp 20 lần so ban đầu. Do các NĐT bên ngoài góp thêm vốn và theo đà tăng của VN-Index, tài sản mà Quỹ quản lý liên tục mở rộng. Năm đầu tiên, tài sản Quỹ đạt mức cho nhất 160 triệu USD vào cuối tháng 8/2008, khi VN-Index đạt đỉnh cao. Nhưng khi bóng mây đen của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu vần vũ trên bầu trời thì quy mô của Quỹ đã giảm xuống nhanh chóng, có lúc chỉ còn 40 triệu USD, chỉ bằng 25% lúc cao nhất. Mặc dù vậy, không hổ danh là “quỹ chỉ số”, trong bất cứ hoàn cảnh nào, biến động NAV của Quỹ với VN-Index gần như sát nhau (xem Bảng 1). Thống kê của Rothschild về hoạt động của các quỹ đang hoạt động tại Việt Nam cũng chỉ đề cập đến hoạt động của hai ETF trên. “Cuộc chơi chỉ số” Từ lâu giới phân tích trong nước vẫn hoài nghi lượng mua ròng cổ phiếu của NĐT nước ngoài không xuất phát từ các quỹ “đóng đô”, ở Việt Nam. Họ cho rằng, vốn cũ chỉ nhúc nhích, loay hoay với quá trình tái cơ cấu, còn tiền mới “bơm” vào thị trường thực sự đến từ các gương mặt quỹ mới hay các định chế tài chính lớn như Deutsche Bank, CitiGroup, HSBC... Mối nghi ngờ này dường như được khẳng định nếu nhìn vào thay đổi giá trị tài sản của FTSE Vietnam Index ETF trong 3 năm qua. Chỉ số VN-Index trong năm 2010 biến động khá hẹp, NAV của Quỹ theo sát chỉ số này, nhưng tài sản của Quỹ tăng lên đáng kể, vượt 300 triệu USD - mức cao nhất từ trước tới nay, tăng 60 lần so với mức ban đầu (xem Bảng 2). Điều này cho thấy, quỹ ETF này đã thu hút một lượng đáng kể vốn của các NĐT mới, bên cạnh tăng trưởng (nếu có) của danh mục. Tương tự, Quỹ The Market Vector Vietnam ETF cũng đã âm thầm có bước nhảy vọt về quy mô, thay da đổi thịt. Tính đến ngày 8/12, tài sản của Quỹ quản lý đã tăng lên mức 220 triệu USD. Theo thông tin mới nhất từ Van Eck Global, số tài sản của Quỹ đang quản lý có 68,4% được dành đầu tư trực tiếp vào 24 loại cổ phiếu Việt Nam. Bên cạnh đó, quỹ ETF này còn nắm 1,7 triệu chứng chỉ luỹ Vinacapital Vietnam Opportunity Fund Ltd và một số cổ phiếu của các công ty trong lĩnh vực năng lượng như Talisman Energy Inc (Canada), Premier Oil PLC (Anh)... Chính sự hiện diện của các ETF khiến NĐT trong nước nhận ra VN-Index và một số blue-chip không biến động nhiều, còn rất nhiều mã mất giá mạnh. Điều này xuất phát từ cuộc chơi chỉ số của các quỹ ETF tại TTCK Việt Nam. Nhìn vào Top 10 danh mục của FTSE Vietnam Index ETF và Market Vectors Vietnam ETF có thể thấy, VN-Index đã được khéo léo giữ bằng các mã lớn như BVH, VIC, HAG, DPM. FPT... (xem Bảng 3). Chính động thái đỡ giá này khiến VN-Index đã có một thời gian đi ngang, cho dù phần lớn các mã hạng trung và hạng nhỏ giá đều giảm sâu. Danh mục của các ETF và diễn biến thực tế thị trường cho thấy yếu tố dẫn dắt VN- Index của NĐT ngoại, dù trung bình giá trị mua của khối này chỉ chiếm trên dưới 10%. Nếu các ETF đẩy mạnh giao dịch mang tính lướt sóng có thể tạo ra không ít cú sốc cho các nhóm cổ phiếu nói riêng và thị trường nói chung. Tất nhiên, không thể phủ nhận nhân tố tích cực là càng nhiều loại hình quỹ đầu tư tham gia TTCK Việt Nam thì càng góp phần giúp thị trường cải thiện cả về chất và lượng. Theo Giang Thanh ĐTCK ================================ http://cafef.vn/20101217115423405CA31/cuoc...u-tu-chi-so.chn Khả năng VNI vượt 500 trước 31/12/2010 để chốt NAV.
    1 like
  8. Ý của Du Ca là kệ mấy cái nhỏ thích ba em đi .Bảo mẹ em đừng có lo buồn ủ rũ ,xấu càng thêm xấu,rồi cáu gắt tùm lum , thế chẳng thể nào giữ chồng nổi đâu . Và em cố mà lo học đi,năm sau của em hình như rất là xấu,k cố gắng thì chẳng làm được cái gì đâu,suốt ngày lên đây ngồi hỏi 3 cái mớ lảm nhảm rồi trượt tốt nghiệp là xuống dốc đấy . Về nhà,mở sách ra học và lo ra trường đi Thi thoảng rảnh rỗi đi chùa cầu khấn cho gia đình họ hàng ba mẹ cô dì chú bác
    1 like
  9. Nguyễn Anh Tuấn Tên này thiên vận hung, địa vận hung, nhân vận cát, tổng vận hung Con người có ý chí, khó khăn ko nản, tuy không phải người có tài nhưng lại giỏi đường giao tiếp, nói năng lưu loát, đôi khi hơi hoạt ngôn quá mặc dù ngoại giao tốt là điểm mạnh của ng tên này. Bên cạnh đó, cơ duyên thường mỏng manh, phúc họa đan xen, hay bị cản trở. Nên làm nhiều việc thiện, tích đức để cuộc sống được tốt đẹp hơn. Tổng quan đây là người có cuộc đời bình thường, có thịnh có suy, có được có mất, có thành có bại
    1 like
  10. Ý biểu mẹ lengan kệ ba lengan, hoặc cô, chú, bác ruột đằng nội của lengan. :D).
    1 like
  11. :D Cơ nguyệt đồng lương là người thích đọc sách, viết sách, làm việc liên quan đến lý luận học vấn. Nếu cả 4 đều V hoặc M thì làm sách giỏi giống kiểu Khổng Tử, Lão Tử. Nếu H thì làm dở hơn chút nhưng vẫn liên quan đến giấy tờ sách vở. THời này thì việc phù hợp kiểu đó là làm công chức văn thư, chuyên soạn công văn giấy tờ, thông tư liên tịch, liên ngành :D Hoặc có thể làm nhân viên hành chính cho 1 công ty tư nhân cũng là hợp cách Cơ Nguyệt Đồng Lương chứ ko nhất thiết phải vô nhà nước :D. Hợp thôi chứ ko phải bắt buộc. Như Liên Châu thấy do tính tình người ta vậy nên người ta có xu thế chọn công việc như vậy. Chứ nếu muốn phá cách thì có thể chọn việc khác cũng đc nhưng nhiều khó khăn và ức chế hơn :D
    1 like
  12. hì đã biết dự đoán đúng hay sai đâu :D phương pháp thử nghiệm nên còn nhiều sai sót lắm .nếu lần này đoán trúng td sẽ up lên diễn đàn nếu sai có up lên cũng đâu có ai dùng :D liên châu đợi hết trận bóng nhé :D
    1 like
  13. Sang năm hơi rắc rối về chống con. Tuy nhiên nếu nhịn thì qua. Còn nếu cả ông lẫn bà đều phải cả và hai cái cùng đúng này không thống nhất thì gay. Hóa giải thì cho tôi hỏi vợ chống có nhà riêng hay ở chung với ai? Chờ chú Haithienha cho ý kiến cuối cùng.
    1 like
  14. Nguyễn Thị Lan Phương Tên này có thiên vận cát, luôn có người giúp đỡ Nhân vận hung, hay bị oan ức mà ko bit giải thích ntn. Hay giúp đỡ người khác nhưng nhọc công mà cuối cùng chưa chắc họ đã biết ơn ĐỊa vận hung, hơi cô đơn, nhưng được cái tinh thần kiên cường nên cuối cùng đều vượt qua được cả Ngoại vận cát, sự nghiệp, danh lợi đều chắc chắn, từng bước từng bước mà đi tới thành công Tổng vận cát, là người có khả năng nhưng hơi kiêu ngạo, nói nhiều nên dễ bị hiểu lầm. Có thể nói được thiên thời địa lợi nhưng thiếu nhân hòa, cần rèn luyện bản thân hơn nữa, biết cách cư xử hòa đồng sẽ khắc pục được nghiệp trên.
    1 like
  15. Hôm nay đội Vn thắng 2-0 ! và bước vào loạt sút luân lưu ! rồi thì tới đây ... cùng căng mắt mà xem số phận phán xét vậy ! hi
    1 like
  16. sang năm ly dị rồi, biết rồi còn cố vớt chi cô ơi? ai bảo có nhan có sắc làm chi, lại thêm quý cô thiếu cái Thuật hoặc Kỹ năng sống nên mới đến nông nỗi chồng - vợ bất nhất. Yên tâm, chồng thứ 2 sẽ ngon khôn tả siết. Cẩn thận tháng này và tháng sau bị ốm đau bất ngờ. Ko rõ lý do, có thể bị chồng đánh bằng 1 bó hồng gai.
    1 like
  17. Sang năm cong việc bắt đầu có thuận lợi, tháng giêng thì cẩn thận về mình mẩy đau nhức đi lại phòng chân tay,té ngã. Tháng 2 có tính toán công việc nhưng rút cục lại hao tiền, tuy có kiếm được chút đỉnh. Tháng 4 tuy gặp trắc trở nhưng vẫn nhiều thành công hơn, cẩn thận bệnh về máu huyết, đêm hôm chớ nên đi khuya hoặc qua đêm với anh nào nhé.... Tháng năm có tình duyên có người hỏi cưới nhưng chưa chắc đã chung kết được. nếu chắc chắn chắc bạn phải qua năm thìn đó.
    1 like
  18. Khi mọi việc chỉ là tiên đoán - tức là chưa xảy ra - thì không có cách nào kiểm chứng được nó sẽ xảy ra như thế nào khi con người tác động vào nó. Hay nói cách khác là chúng ta đang giải một bài toán không có kết quả đối chứng và khó hơn một phương trình vô nghiệm. Tôi thí dụ:* Một cô gái có hai chàng trai cầu hôn hỏi thày bói: Tôi lấy anh A tốt , hay anh B tốt? Đây là một câu hỏi không có kiểm chứng. Bởi vì thực tế cuộc đời ngay cho cả lá số tốt nhất thì cũng có lúc gian nan. Khi gian nan thì lại nghĩ thày bói sai (Giả thiết thày siêu cao thủ). * Có hai con đường đến một địa chỉ. Một con đường đi theo đó sẽ chết vì hổ vồ; một con đường thì có thể ngã gãy chân. Người đi đường chỉ được đi chỉ một con đường và không bao giờ có cơ hội đi lại con đường kia. Nếu người chỉ đường chỉ đi con đường sẽ bị gãy chân thì sẽ bị oán trách. * Hiện có nhiều loại thày rùa dọa dẫm thân chủ vì một hiện tại; hoặc tương lai không thể kiểm chứng. Như: Số cô có vong theo, hoặc lấy người này sẽ chết....vv.....Sau đó khuyên người ta cúng vong, hoặc giải hạn với giá.....cõi trên. Tất nhiên nó mang yếu tố lừa đảo. Đó là những lý do, mà phải đợi đến khi vụ việc xảy ra mới có thể xác quyết nó sẽ như thế nào một cách cụ thể để tìm hướng giải quyết. Đại để như: Tôi chỉ bảo đảm được 7 ngày lễ hội, nhưng nếu tính từ mùng 1 đến hết 20/ 8 Âm lịch không có bão đánh vào Việt Nam thì sẽ bảo đảm cả 10 ngày, nhưng có ba ngày không tuyệt đối. Kết quả: Có tối mùng 4/ 10 2010 có mưa cục bộ rải rác từ 18 đến 20g. Việc hóa giải thiên tại cực kỳ khó khăn. Điều này cũng như không phải cứ có DTDĐ thì muốn gọi lúc nào cũng liên lạc được.
    1 like
  19. Trần Minh Phương Tên này thiên vận hung, cuộc sống gặp trắc trở, nhiều thăng trầm sóng gió Nhân vận cát, là người có tài, có dũng, nếu gặp thời gặp vận có thể làm nên sự nghiệp, gặp được minh chủ sẽ như cá gặp nước ngay Địa vận hung, việc gì cũng có tiểu nhân nhòm ngó, có kẻ ganh đua, đường tình duyên có phần lận đận Ngoại vận cát, khó khăn nào cũng vượt qua bởi bản thân túc trí đa mưu, biết lo toan tính toán, trường thọ Tổng vận cát, hiển hách, dù cuộc đời nhiều bão nhưng luôn là thuyền trưởng giỏi để lái tàu cập bến an toàn, sự nghiệp tốt, tài lộc dồi dào CHỉ có điều nếu đây là phụ nữ thì dễ vướng vào chăn đơn gối chiếc, đồng sàng dị mộng mà thôi. Nên tích đức, làm nhiều việc thiện để giải nghiệp nhé Thân mến XiaoFang
    1 like
  20. 2011 có thể bị 1 xòe 7 m khâu 3 mũi. 2 tay thương tích, 4 ngón mỗi bên dính sẹo. Nếu có tình yêu, có thể đây là năm dứt tình (Dù đơn phương, song phương, đa phương) Niềm vui lớn: Có việc làm, có tiền do mình kiếm được nên tiêu pha không đắn đo.
    1 like
  21. Bò hầm đậu xanh, ăn với rau dăm. Đảm bảo thân phụ quý cô sẽ diệt dục tận gốc, có khi còn làm đệ tử của phái Nga My luôn, không thèm chơi với người của phái Toàn Chân.
    1 like
  22. @Hoangnt Hiện nay có các tài liệu khác nhau để nói về đề tài này. Tuy nhiên, các tài liệu đó đều chưa rõ. Vậy YPN chỉ có thể dựa vào sự logic và tính hợp lý để khẳng định rằng Thổ công và Táo quân là hai thần khác nhau, vì: Thổ công (thổ thần, địa thần) là vị thần cai quản đất đai (có thể là nhà của gia chủ, của cơ quan, tổ chức ). Lễ cúng Thổ công có thể tiến hành vào thời điểm tốt (giờ hoàng đạo) trước khi động thổ (đào đất) để xây dựng.. Thổ công hiện diện ở mọi nơi, trừ nơi có nước (Đất có Thổ công, sông có Hà Bá). Thần bếp (Táo quân, ông Táo, vua bếp, ông đầu rau) là 3 thần (2 nam, 1 nữ) trông coi việc bếp núc trong gia đình. Thú vị một điều là tuy gọi là ông Táo nhưng lại là 2 ông 1 bà. Táo quân chỉ hiện diện trong bếp mà thôi. Một số tài liệu gán ghép cho Táo quân là bộ ba Thổ Công, Thổ Địa, Thổ Kỳ và cho rằng Thổ Công coi sóc nhà cửa, Thổ Địa coi việc bếp núc và Thổ Kỳ coi việc chợ búa. Chồng mới là Thổ Công, trông nom việc trong bếp Chống cũ là Thổ Địa, trông nom việc trong nhà Vợ là Thổ Kỳ, trông nom việc chợ búa Theo tôi hiểu thì ngày xưa người ta đun bếp bằng rơm, rạ, củi trên các bếp có 3 cục đầu rau nặn bằng đất sét (3 trụ bằng đất sét để đặt nồi cho vững), và sự tích Táo quân/thần bếp liên quan đến 3 cục đầu rau này. Người ta nghĩ ra câu chuyện 2 ông chồng và 1 bà vợ để tô vẽ cho 3 cục đầu rau Nó khó có thể liên quan đến Thổ công - là vị thần quản lý đất đai, có thể tồn tại ở những chỗ hoàn toàn vắng mặt các thần bếp, cũng giống như người ta nói "núi có sơn thần", thì vị sơn thần ấy có lẽ cũng đóng vai trò giống như thổ công ở đồng bằng, trong thế giới tâm linh họ đều được coi như là các vị thần trấn giữ vùng đất đồng bằng hay đất núi đó, không cho ma quỷ xâm phạm. Còn trong phạm vi gia đình thì thổ công trấn giữ nhà cửa, bảo vệ cho gia chủ khỏi mọi tai ương. Nếu coi Thổ công chỉ là 1 trong 3 vị Táo quân thì sẽ giải thích thế nào khi người ta cúng Thổ công trước khi đào đất để xây dựng (nhà cửa, công sở, . v.v) ở những chỗ hoàn toàn không có người ở trước đó, mà 3 vị Táo quân thì luôn luôn phải đi cùng với nhau và chỉ liên quan đến việc bếp núc.
    1 like
  23. Tết trùng dương LÃN MIÊN Tiết trùng dương ngày 9 tháng 9 âm lịch ở Trung Quốc đến thời Đường đã trở thành tập tục phổ biến ở vùng Trung Nguyên, mà nguồn gốc tập tục được coi là từ chuyện thần thoại, kể rằng: Thời Đông Hán ở huyện Nhữ Nam có anh nông dân tên là Hoàn Cảnh, gia đình gồm bố, mẹ, vợ và con cái đông đúc, cuộc sống tuy không giàu có nhưng cũng đủ ăn. Nào ngờ hai bờ sông Nhữ xảy ra ôn dịch, dân làng nhiều nhà bị bệnh chết, chôn không kịp, bố mẹ của Hoàn Cảnh cũng bị mắc bệnh chết. Từ nhỏ Hoàn Cảnh đã được nghe kể chuyện dưới sông Nhữ có một con quỉ, mỗi năm đều lên bờ một lần đi gây hại, đến đâu gieo bệnh ôn dịch tới đó.( Ở ta cũng có câu dọa trẻ con chớ vọc bẩn mà “quan ôn đến bắt”). Hoàn Cảnh quyết tâm đi tìm thầy học cách trừ quỉ, cứu nguy cho dân làng. Nghe nói ở núi Nam có một Đạo tiên tên là Phí Trường Thành tinh thông thuật pháp, anh ta bèn khăn gói ra đi tìm học. Phí Trường Thành trao cho Hoàn Cảnh một thanh long kiếm (tức gươm rồng đúc bằng đồng thau) gọi là kiếm trừ yêu quái, dạy anh ta ngày đêm luyện tập.Thấm thoắt đã được một năm, một hôm đang luyện tập thì Phí Trường Thành đến nói với anh ta: “ Năm nay ngày 9 tháng 9 ôn quỉ sông Nhữ sẽ xuất hiện, con phải về ngay trừ hại, ta cho con một bọc lá châu du 茱 萸 , một bình rượu hoa cúc để chống nhiễm bệnh, con hãy về làng đưa dân làng lánh hết lên núi cao tị nạn”. Đạo tiên nói xong đưa tay vừa chỉ, một con chim nhạn xòe cánh bay đến hạ xuống trước mặt, Hoàn Cảnh cưỡi chim bay về Nhữ Nam. Đến ngày 9 tháng 9 anh đưa vợ con và dân làng lánh hết lên ngọn núi sau làng, đưa cho mỗi người dắt vào mình một nhúm lá châu du 茱 萸 và uống một ngụm rượu hoa cúc, nói là để trừ tà và chống nhiễm bệnh, còn mình anh ta về nấp ở nhà cầm gươm chờ quỉ đến. Một hồi sau nghe sóng sông Nhữ réo, ôn quỉ lên bờ đi vào làng thấy cảnh vắng tanh, ngẩng mặt thấy dân làng đều đang trên sườn núi. Nó ào đến chân núi, ngửi phải hơi rượu và mùi lá sặc sụa, không dám trèo lên nữa, quay về làng. Thấy bóng quỉ, Hoàn Cảnh cầm gươm lao ra, đánh nhau một chặp, quỉ địch không lại bỏ chạy, Hoàn Cảnh rượt theo đâm trúng phổi ôn quỉ, giết chết nó. Từ đó về sau dân hai bờ sông Nhữ được sống yên bình. Mọi người gọi ngày 9 tháng 9 là “ngày lên núi cao tránh họa” về sau trở thành tập tục nhắc nhớ chuyện xưa. (Giải thích nguồn gốc tập tục bằng chuyện do người đời sau đặt ra kể lại, tuy chưa thỏa đáng, nhưng trong nội dung chuyện cũng cho thấy bóng dáng nguồn gốc Bách Việt của tập tục: miền Nam, đồ đồng, Đạo giáo, chữa bệnh bằng cây thuốc, thời cổ đại có lần phải lên núi cao tránh lũ lụt như chuyện cổ tích “ Sơn tinh thủy tinh”. Trong văn chương truyền miệng như “ Ấu học quỳnh lâm” thì nói: Phí Trường Phòng là người thời Tây Chu giỏi toán thuật đo đạc ruộng đất: Thời Nghiêu trăm họ dân quê; Trong lòng tự đắc hát ca làm đồng. Tây Chu phác thực, nghĩa nhân; Ruộng đồng nhường nhịn ân cần làm chung. Thu gọn đất Phí Trường Phòng ; Biết cách trắc đạc lấy gần từ xa.Thời Tần kỹ thuật làm nhà. Biết cách lăn đá đưa ra xây cầu - “ 擊 壤 而 嬉,上 世 之 黎 民 自 得. 讓 畔 而 耕,西 周 之 百 姓 相 推.長 房有 縮 地 之 方.秦 始 皇 有 鞭 石 之 法 ”). Một “cổ tích” khác lại giải thích: Thời nhà Hán trong hoàng cung mỗi năm ngày 9 tháng 9 đều bày lá châu du 茱 萸,ăn bánh ngọt, uống rượu hoa cúc để trường thọ. Sau vụ ái cơ của Hán Cao Tổ Lưu Bang là Thích phu nhân bị giết hại, cung nữ là Giá Môi 贾 某 bị trục xuất khỏi cung về quê , đem tục này về truyền lại cho dân chúng rồi dần trở thành phong tục dân gian.( Giải thích kiểu này thật vô lý. Đến như nhạc và múa của cung đình cũng là từ dân gian mà ra, được nâng cấp lên mà thành nhạc cung đình và múa cung đình, ẩm thực cung đình cũng vậy, món ăn dân gian được các đầu bếp sành sỏi nghệ thuật nâng cấp lên mà thành đặc sản cung đình như trà cung đình, rượu Minh Mệnh. Đến như bà Từ Hi Thái Hậu của nhà Thanh ở trong cung còn thèm món đầu dê hầm nguyên cả đầu của quê hương bà ta, vốn xuất thân thôn dã vùng quê nghèo, đầu dê để nguyên cả đầu rửa chải sạch lưỡi họng, hầm nguyên cả thủ cho chín rục, dọn nguyên đầu lên vừa ăn vừa gỡ thịt. Do sở thích này của bà ta mà cậu thanh niên khỏe mạnh đẹp trai em chủ quán thịt dê, vốn là đồng hương bà ta lên kinh đô mở quán, cứ bị gọi vào vườn của hoàng cung dâng đầu dê hầm cho bà ta hoài vào buổi tối, bị bà ta ép làm tình cho đến khi gầy xơ xác rồi bị đuổi về quê, giữa đường bị lính do bà ta lệnh đi theo siết cổ chết khi vừa ra khỏi kinh thành. Tuy vậy “cổ tích” này cũng để lộ một sự thật là quan lại người Hán khi được cử đi làm thứ sử ở đất Bách Việt biết học theo cái hay của người Bách Việt rồi truyền lại cho dân Hán chưa biết văn hóa đó để rồi cùng theo. Chuyện cổ tích Việt “Lang Liêu và bánh chưng bánh dầy” mới là phản ánh đúng sự thực là tri thức của dân gian truyền vào cung đình, rồi được “luật hóa” để phổ biến thành truyền thống cho dân cả nước, vậy mà chuyện ấy lại có cách nay hàng bốn ngàn năm! truyền miệng hết đời này sang đời khác). Một thuyết khác về nguồn gốc tục trùng dương nói là: Trong văn hóa truyền thống Trung Hoa con số 9 là con số Dương cũng là con số Cực, là con số thần bí được sùng bái trong tín ngưỡng, chỉ trời cao gọi “cửu trùng” chỉ đất cực gọi “cửu tuyền”. Kinh Dịch coi số 9 là số dương, số 6 là số âm. Ngày 9 tháng 9 cả ngày và tháng đều là số dương, hai dương trùng nhau , bởi vậy gọi là trùng dương, cũng gọi là trùng cửu, nó chiếm vị trí quan trọng trong thời gian của năm. Ngày trùng dương còn gọi là ngày Đạp Thu, giống như ngày 3 tháng 3 âm lịch gọi là ngày Đạp Xuân. Từ thời Ngụy, Tấn ngày này trở thành ngày mà văn nhân mặc khách ngâm vịnh thơ. Tiết trùng dương 9 tháng 9 có tập tục như một lễ tiết dân gian là từ thời Chiến Quốc. (Có thể hiểu là đến thời Chiến Quốc người Hán mới biết đến phong tục này từ người Bách Việt, còn ở người Bách Việt thì tục này đã có hàng ngàn năm trước rồi - NV). Đến thời Tây Hán phong tục đi lên chỗ cao ngắm cảnh đã có ở kinh đô Trường An. Đến thời Đường tiết trùng dương chính thức được coi là một lễ tiết dân gian và giữ mãi tục này cho đến ngày nay. Tập tục là ngày đó mọi người lên núi cao ngắm cảnh để hưởng không khí trong lành thư dãn. Ở đồng bằng không có núi cao thì người ta làm bánh bằng bột do ngâm kỹ gạo rồi xay thành bột nước, ngào đường miếng, chưng lên gọi là bánh “cao 糕” để tượng trưng là đã lên “cao 高” ( Bánh “cao” thực ra là từ phiên âm của bánh “gạo” tiếng Việt, hay “khao” tiếng Thái mà thôi - NV), ý là lên cao thì tránh được họa, cầu mong được tốt lành. Ngoài ra tiết trùng dương còn thưởng ngoạn hoa cúc nở vì đang mùa rộ vào tiết thu vàng nắng nhẹ trời trong, uống rượu hoa cúc là loại rượu nấu bằng nếp vị ngòn ngọt. Tương truyền rượu nếp nấu bằng gạo nếp ủ men lâu trong vò kín, là loại rượu xuất xứ từ các dân tộc thiểu số vùng Tây Bắc TQ (Không hiểu thời cổ đại vùng Tây Bắc TQ có nhập khẩu nếp hay chưa ? hay là nó là vùng Tây Nam thì đúng hơn. Nếp thì chỉ ở người Việt mới có nếp mà thôi - NV), còn hoa cúc chỉ là một trong các nguyên liệu thêm vào cho rượu đó mà thôi. Có hoa ,có rượu tất có phú thơ, thịnh nhất vào thời Đường; và đề từ, thịnh nhất vào thời Tống. (Đó là do các văn nhân mặc khách đã nâng cao tính văn hóa thành một tập tục rất tao nhã cho một lễ hội thời tiết của dân gian vốn rất mộc mạc của người Bách Việt cổ - NV). Như thời Chiến Quốc nhà thơ Khuất Nguyên từng viết trong “Viễn du” câu “tập trùng dương nhân đế cung hề 集 重 阳 人 帝 宫 兮”. Thời Đường tiết trùng dương rất được coi trọng. Người ta có phong tục đi lên núi cao, cài lá châu du 茱 萸. Nhà thơ Vương Duy có câu thơ: “Độc tại dị hương vi dị khách, mỗi phùng giai tiết bội tư thân. Diệu tri huynh đệ đăng cao sở, thiên tháp tống du thiểu nhất nhân 独 在 异 乡为 异 客,每 逢 佳 节 倍 思 亲。遥 知 兄 弟 登 高 处,遍 插 荣 萸 少 一 人 = Mình ta khách lạ xứ người, Mỗi lần tiết đến ngậm ngùi nhớ ghê . Anh em trèo núi ngắm quê, Cài đầu lá ngải thiếu đi một người”.(Chắc nhà thơ là người miền Nam đang ở xứ Bắc làm quan – NV). Nhà thơ Thiệu Đại Chấn có bài thơ: “Cửu nguyệt cửu nhật vọng diệu không; Thu thủy thu thiên sinh tịch phong. Hàn nhạn nhất hướng nam phi viễn; Du nhân kỷ độ cúc hoa tùng 九 月 九 日 望 遥 空,秋 水 秋 天 生 夕 风。 寒 雁 一 向 南 飞 远,游 人 几 度 菊 花 丛 = Trùng cửu lên ngắm trời xa. Mùa thu nước mát đẩy đà gió đêm. Nhạn kia bay mải về nam. Người chơi mấy bận bên lùm cúc hoa”. Riêng ở vùng Nhữ Nam thì còn cả tục cài lá châu du 茱 萸, nhưng ngày nay sau hàng bao nhiêu năm, người ta chẳng còn hiểu biết và hình dung ra lá châu du 茱 萸 là cái thứ lá gì nữa. (Có thể “châu du” hay “châu dâu” , Hán ngữ hiện đại phát âm là “tru dấu”, chỉ là từ phiên âm lá cây “thầu dầu” ?, lá có màu tím đỏ xòe ra như những cái lông cánh gà, cây thầu dầu tía cũng là một cây thuốc, người Việt đi bộ đường xa thường hay giắt vành khăn nhúm lá thầu dầu tía để trừ tà, hoặc có khi là nhúm lá ngải cứu để phòng bịnh - NV).Trong quan niệm phong tục dân gian vì chữ “cửu cửu 九 九” là 9 9 đồng âm với “cửu cửu 久 久” là lâu dài, ngụ ý cầu mong mạnh khỏe trường thọ.(Trong tiếng Việt thì “chín”= “lâu”, như câu “thương nhau chín đợi mười chờ”= “thương nhau chờ đợi lâu”, “lâu ”= “lão” theo qui luật tạo từ cùng nôi khái niệm là bất biến phụ âm đầu mà biến âm vận cuối; Một qui luật khác là bất biến âm vận cuối mà biến phụ âm đầu; “chín lâu” là hai từ đồng nghĩa ghép nhau có ý là càng lâu, theo qui luật lướt để tạo từ đơn âm thì đã lướt thành “cửu”, tiếng Quảng Đông đọc là “cẩu”- NV). Tiết trùng dương đã từ tiết thời gian trong năm diễn biến thành tập tục dân gian, tuy mỗi địa phương có thêm nghi thức tục lệ khác nhau, chung qui vẫn là cầu bình yên hài hòa, nội dung ấy từ hai ngàn năm nay vẫn không thay đổi. Các tập tục ngày trùng dương là: 1. Lên cao. Người ta rủ nhau lên núi cao hay tháp cao, chỗ cao, tùy điều kiện sẵn có từng nơi để thưởng ngoạn phong cảnh , nhớ lại thời cổ đại đã từng phải “lên cao lánh nạn”. Ăn bánh “cao 糕” cũng để nhắc nhớ thời phải lánh lên cao, do lấy chữ đồng âm là “cao”. Bánh cao làm bằng bột gạo xay nước ngào đường đỏ hấp chín đổ thành 9 tầng như bảo tháp, tượng trưng cho đỉnh cao và số 9, bên trên còn nặn hình hai con dê nhỏ tượng trưng trùng dương, lại cắm trên đó một ngọn đèn nến tượng trưng đăng cao là trèo lên cao, và cắm một ngọn cờ giấy nhỏ màu đỏ tượng trưng cho cài lá châu du 茱 萸. Đó là cách làm thời cận đại ở vùng Phúc Kiến. 2. Ngắm hoa cúc và uống rượu hoa cúc. Tương truyền thời Tấn có ẩn sĩ Đào Uyên Minh 陶 渊 明 rượu vào là thơ ra, lại rất yêu hoa cúc, văn nhân mặc khách bắt chước ông ta lấy ngày trùng dương làm ngày ngâm vịnh. Đào Uyên Minh sống vào buổi giao thời Tấn – Tống, chính sự hủ bại, nên ông ta từ quan về quê Giang Tây ở ẩn trồng cúc, làm thơ, nhưng có tật là rượu vào hơi xỉn thì thơ mới ra. Lần đó nhằm ngày trùng dương, ông dạo ngắm hoa mà vì nhà nghèo không có rượu nên không tài nào xỉn được, ông vặt tạm hoa cúc nhai làm mồi mà vẫn không xỉn vì không có rượu vào. Đang lúc buồn thì bỗng có người đến gặp đem cho một bình rượu, đó là sai nhân do thứ sử Giang Châu là Vương Hoằng cử đến đem rượu nói là tặng Đào Uyên Minh. Đào Uyên Minh mừng rỡ mở bình uống cho đến say xỉn. Về sau người ta cho thêm hoa cúc, là loại thảo mộc vẫn làm đồ uống trị liệu, vào trong rượu nếp trùng dương. 3.Cài lá châu du 茱 萸 . Phong tục này rất phổ biến thời Đường, hoặc giắt vào người hoặc bỏ vào túi vải đeo theo người để trừ tà, nhất là phụ nữ và trẻ em. Trái cây châu du là một vị thuốc, chất lượng tốt nhất là vùng đất Ngô tức vùng Giang, Triết ngày nay nên còn gọi là Ngô châu du, lại cũng còn gọi là cây dầu Việt , là loại cây nhỏ, cao hơn một trượng, lá như cái lông vũ, mùa hè nở hoa trắng, quả đặc có cơm béo ngậy màu vàng, quả sau thu thì chín màu tím đỏ, sách “ Bản thảo cương mục” nói cơm quả vị đắng cay mà thơm, tính ôn nhiệt, có thể trị hàn khu độc, người xưa quan niệm giắt lá nó vào người để trừ tà. Phong tục này học giả Chu Sở đầu thời Tấn viết trong “Phong thổ ký” là một phong tục của người Giang Nam.    Giải thích chính xác nhất có lẽ là: Trùng cửu là lúc nông nhàn sau thu hoạch vụ thu, lại là lúc các loại cây cỏ dại, mà đa phần đều là các dược thảo quí, sau một mùa hè chói chang quả đã chín, củ đã đầy, đã đến vụ thu hái, chỉ còn hoa cúc thì lại trái khoáy “ trăm hoa đua nở mùa xuân, cớ sao cúa lại muộn mằn về thu” thì nở rộ vàng rực cả mùa thu, làm cho phong cảnh càng thêm đẹp. Người dân tranh thủ lên đồi, lên núi hái lượm cây thuốc về phơi khô dự trữ phòng khi cần chữa bệnh. Có lẽ tập quán nông nghiệp này có từ thời Thần Nông. Từ tập quán làm ăn đó mới nảy sinh ra chọn một ngày nhất định , có ý nghĩa trong mùa đó làm thành ngày lễ, rồi hóa ra tập tục. Cũng như mùa xuân thì có tục trồng cây. Các nhà văn, nhà thơ đã lợi dụng tập quán đó nâng giá trị văn hóa của nó lên với các nội dung tao nhã làm đẹp thêm nội dung của lễ tiết. Năm 1989 chính phủ TQ chính thức lấy ngày 9 tháng 9 âm lịch làm ngày Tết Người Già của toàn xã hội Trung Quốc, thêm nội dung tinh thần quan tâm người già, kính lão, kính thầy, nâng cao thêm tính nhân văn cho một lễ tiết dân gian truyền thống. ( Điểm lại các ngày lễ của ta. Sao không lấy ngày giỗ kỷ niệm Hai Bà Trưng làm ngày lễ hội văn hóa Phụ Nữ VN, tư tưởng bình đẳng vốn có của dân tộc Việt từ thời cổ đại, nhìn mặt trống đồng là thấy rõ ngay, chẳng có ai là “thiên tử” cả, mọi người mọi vật đều bình đẳng hưởng một mặt trời chung trong sáng, hai vợ chồng cùng cầm chày dã gạo đúng là “thuận vợ thuận chồng biển đông tát cạn”, mà vợ lại trước chồng trong kết cấu từ vựng “vợ chồng” đúng đạo thờ mẫu của người Việt, có lẽ nhờ vậy mới có hiện tượng Hai Bà Trưng trong lịch sử. Sao không lấy ngày họp hội nghị Diên Hồng làm lễ hội văn hóa Ngày Hội Đoàn Kết Toàn Dân Tộc – NV).
    1 like
  24. 1 like
  25. Nữ 33t thì sinh con bình thường mà, ngày xưa .40t vẫn còn sinh nở được! Các năm trước đấy không tốt!
    1 like
  26. Lá số giờ Tuất thì may mắn hơn giờ Dậu :D. Bạn có thể hỏi kỹ hoặc kết thân với mấy đại sư như bác quynhnguyen, ntpt cô nương, Vô Vị đại ca, DuCa đại thúc, Giaback đại huynh ... đặng hỏi cho được nhiều hén :D. Nhất là bác quynhnguyen có gợi ý cho bạn rồi :D
    1 like
  27. Lá số giờ Dậu của bạn mình đọc sách thấy có cách Liêm Tham tỵ hợi, ngục hình nan đào. Cung quan lộc có thiên hình, kình dương Vũ Khúc, Thất Sát chủ làm về tài chính nhưng dễ tham ô dẫn đến tù tội. Mấy câu của bác Quynhnguyen hình như là: 1. Đi làm không nên tham ô tiền bạc, như vậy có thể tránh được tù tội. 2. Nếu ko tránh được tù tội thì luyện ngồi trong tù mà cs nó vẫn vui là ổn. 3. Nếu chưa luyện đc 2 cái trên đi kím 1 "ông", "bà" thày bói mà xin cách giải tai giải nạn :D Đây là mình đọc trên mạng, tham khảo tý thôi. Bạn có thể tham khảo bài luận khá hay tại: http://vn.360plus.yahoo.com/buudinh49@ymai...4&next=2031 Cần tu dưỡng cho tốt. Người tốt hay xấu hay bình thường nửa tốt nửa xấu đều cần tu dưỡng cả. Edit: đây là LienChau đang nói lá số giờ Dậu. :D
    1 like
  28. Người đem lại chiến thắng cho đội tuyển: TRỌNG HOÀNG: 01 TRÁI (HIỆP 1) VŨ PHONG : 01 TRÁI (HIỆP 2) HIỆP PHỤ: TRỌNG HOÀNG 01 TRÁI.
    1 like
  29. lá số của một người không có cái hoàn hảo trăm phần trăm, được mệnh thân được phúc đức được quan lộc được tài bạch thì ắt mất cung khác sẽ xấu! như lá số bạn nhachuot tui thiết nghĩ là tốt rồi! có tiền có quyền thì gia đình khó mà chu toàn nô bộc bạn bè sẽ có điều dèm pha ganh tỵ! giữ vững hanh phúc gia đình thì không nhiều thời gian cho kiếm tiền va giao tiếp! nếu vừa giỏi kiếm tiền giỏi giao tiếp dụng quyền mưu chức lớn công cao thì cực khổ thân não tâm óc mà lao lực thành bệnh thọ hưởng khó bền lâu! nếu có cái lá số mà có 12 cung đều tốt thì tui chưa bao giờ thấy, hoạ là tranh vẽ! như lá số này nữ mệnh có tham vũ hoá lộc thì quả là một tay kinh thương khét tiếng, dù nữ hay nam cũng có thể nói là đại phú gia! quan lộc tử sát đồng cung thì quyền lại càng quyền thế lại càng thế, được tả hữu hoá khoa hoá lộc không kiếp cùng đắc địa chiếu thì chỉ có nước một tiếng thét trời kinh đất động, nhưng quyền khí nhiều sát khí cũng lại càng nhiều! về chuyện tình duyên đành chịu vậy! mệnh thân đồng cung cùng bị tuần triệt chiếu thì phước tuy có lớn nhưng cũng bị cản bớt, vả lại nữ nhi mà có thiên không đào hoa thì tình duyên trắc trở là chuyện bình thường! không nên lo nghĩ nhiều
    1 like
  30. Em cứ cố gắng học thật tốt vào . Tập trung vào học rồi thi tốt nghiệp ,kiếm cái bằng khá giỏi ra trường,rồi học liên thông lên đại học , làm thêm ít ngoại ngữ . Vừa đi làm thêm vừa học liên thông,khi lúc em xong liên thông ,cũng là lúc có tương đối kinh nghiệm . Lúc đó thì việc kiếm mình chứ k phải lo kiếm việc nữa .
    1 like
  31. NHẬN ĐỊNH THỊ TRƯỜNG TUẦN 20 – 24/12/2010 của Vietstock: Triển vọng ngắn hạn: Xét các yếu tố vĩ mô trong tuần tới vẫn chưa có nhiều cải thiện, tuy nhiên nền kinh tế đang dần ổn định hơn. Đối với chỉ số giá tiêu dùng (CPI) là một trong những yếu tố đáng chú ý vào tuần tới, chúng tôi cho rằng con số thực tế dù cao nhưng vẫn nằm trong kỳ vọng của nhà đầu tư. Do vậy, nhiều khả năng thị trường sẽ không bị ảnh hưởng nhiều bởi thông tin CPI. Diễn biến phiên tăng điểm vào cuối tuần này cho thấy nhà đầu tư đang kỳ vọng vào đợt sóng này của thị trường sẽ kéo dài đến hết năm dương lịch. Đây là một yếu tố hỗ trợ tích cực cho những phiên giao dịch tuần sau. Do vậy, chúng tôi đánh giá triển vọng của thị trường khá tích cực. Tuy nhiên, áp lực bán ra đối với những cổ phiếu tăng giá mạnh sẽ ngày càng cao. Trong khi đó dưới góc nhìn phân tích kỹ thuật VN-Index điều chỉnh trong một vài phiên trước chưa đến mức cảnh báo. Sự thoái lui này có thể chỉ là điều chỉnh kỹ thuật do sự bứt phá mạnh của giá trong các đợt phục hồi trước. Hiện tượng throwback có lẽ đã kết thúc và trong những phiên đầu tuần sau giá có thể tiếp tục bứt phá. Đối với HNX-Index áp lực điều chỉnh cuối cùng cũng đã qua khi mà giá đã phá vỡ trở lại Fibonacci Retracement 261.8%. Đây là tín hiệu tốt vì nó cho thấy các tín hiệu nhiễu đã bị loại bỏ. Phân tích kỹ thuật chỉ số VN-Index Phân tích kỹ thuật chỉ số HNX-Index Triển vọng trung và dài hạn: Hiện tại dù kinh tế vĩ mô chưa có nhiều cải thiện, đặc biệt sau việc Moody’s hạ tín nhiệm của Việt Nam cho thấy nền kinh tế vẫn đá khá rủi ro. Tuy nhiên, nhìn về dài hạn Việt Nam vẫn còn rất nhiều tiềm năng tăng trưởng. Trên thị trường chứng khoán, dù VN-Index sắp phục hồi về mức cuối năm 2009, tuy nhiên giá của phần lớn cổ phiếu vẫn còn giảm khá sâu so với thời điểm đó. Chỉ số P/E, và P/B của thị trường Việt Nam vẫn còn rất hấp dẫn so với phần lớn các nước trong khu vực. Trong khi đó dưới góc nhìn phân tích kỹ thuật VN-Index một lần nữa giá lại vượt lên trên SMA 200. Xu hướng trung hạn chưa có thay đổi lớn và giá vẫn đang ở sóng III tăng giá dài hạn. Phân tích kỹ thuật của HSC: Ngày 17/12/2010, VNINDEX tăng 5.08 điểm, tương đương 1.06% đóng cửa ở mốc 485.29 điểm. Tổng khối lượng khớp lệnh là 69.21 triệu cổ phiếu, thấp hơn -5.42% so với phiên trước và cao hơn 78.43% so với khối lượng trung bình 90-ngày. Độ rộng thị trường tích cực, với số mã tăng nhiều hơn số mã giảm (A/D ratio là 6.7) với 215 mã tăng, chỉ có 32 mã giảm. Quan điểm phân tích ngắn hạn: Thị trường tăng điểm mạnh hôm nay sau khi giảm chạm mức thấp trong ngày tại 476 điểm tại đường EMA 9 ngày. Thị trường tăng điểm, tuy nhiên khối lượng lại suy giảm, điều này cho thấy mặc dù cầu vẫn cao hơn cung nhưng lực mua là không mạnh ngày hôm nay. Chúng tôi thấy tín hiệu phân kỳ của RSI (5) ngày cho thấy tín hiệu cảnh báo. Trong đầu tuần sau, thị trường nhiều khả năng sẽ kiểm định mức đỉnh cũ 497 một lần nữa. Tuy nhiên nếu thanh khoản không được cải thiện khi thị trường tiếp cận vùng kháng cự này, vùng kháng cự 497-500 nhiều khả năng sẽ được giữ và thị trường sẽ quay lại retest vùng hỗ trợ dưới của mình. Tóm lại, chúng tôi vẫn lạc quan trọng trung hạn nhưng cẩn trọng trong ngắn hạn và khuyên các nhà đầu tư ngắn hạn không nên mua đuổi giá. Thách thức đối với đà tăng điểm: Vùng 497-500 nơi có đường internal trendline, ngưỡng Fibonacci Retracement 61.8% của đợt suy giảm tháng 05/2010, Fibonacci Extension 161.8% và đáy ngắn hạn vào ngày 20/05/2009 trở thành vùng kháng cự gần nhất cho thị trường. Vùng hỗ trợ đáng chú ý: Vùng hỗ trợ gần nhất xung quanh 468 (+/-2) ở tại ba đỉnh ngắn hạn gần đây và ngưỡng Fibonacci Retracement 38.2%, đường EMA và khoảng trống tăng giá ngày 10/12/2009. Quan điểm phân tích kỹ thuật trung hạn: Xu hướng trung hạn là tăng. Trong xu hướng trung hạn tăng, thị trường sẽ tạo ra đáy mới cao hơn đáy cũ và đỉnh sau cao hơn đỉnh cũ. Nhà đầu tư nên tận dụng những đợt điều chỉnh ngắn hạn để mua vào cổ phiếu. Chiến lược giao dịch: Trung tính. Nhà đầu tư trung và dài hạn nên mua khi điều chỉnh. Nhà đầu tư lướt sóng ngắn hạn nắm giữ. ------------------------------------------------------------- ĐP: Tuần từ 20/12/2010 đến 24/12/2010 VNI có tăng không? Giờ Tý ngày 13/11/Canh Dần: Quẻ Sinh Đại An: Tăng tốt, ổn định. VNI giai đoạn quẻ Khai Đại An là sóng 1/III, trong sóng 1/III lại có 5 sóng nhỏ 1-2-3-4-5. Cụ thể sóng nhỏ như sau: Làm tròn số (Lấy dung sai +5,-5). -Sóng 1 VNI từ 420 - 470: Đã kết thúc 6/12/2010. -Sóng 2 VNI từ 470 - 450: Đã kết thúc 9/12/2010. -Sóng 3 VNI từ 450 - 500: Đã kết thúc 14/12/2010. -Sóng 4 VNI từ 500 - 480: Đã kết thúc 17/12/2010. +Sóng 5: Dự đoán sẽ lên 520-550. Theo TA thì fib 261,8 đo sóng 1 là 548, Fib 161,8 đo sóng 3 là 527. Khả năng cao là 530+,-5. :D :D :D
    1 like
  32. Chúc mừng Sinh Nhật Thiên Luân! May mắn mọi việc & Như ý mọi điều!
    1 like
  33. Chứng khoán ngày 17/12: Khối ngoại khuynh đảo blue-chip Thứ 6, 17 Tháng 12 2010 16:40 Tác giả Mạnh Chung (Theo VnEconomy) Điều thú vị hôm nay là khối ngoại lại đóng vai trò chủ đạo trong lực bắt đáy, đặc biệt là tại nhóm ngân hàng và bất động sản Lực mua tại nhóm cổ phiếu lớn trong đó có nhóm tài chính ngân hàng hôm nay cực mạnh. Tổng khối lượng giao dịch tại 40 mã vốn hóa lớn nhất của HOSE đạt 31,55 triệu đơn vị, chiếm 56% tổng thanh khoản tại sàn này. Riêng trong số này, khối ngoại đóng góp 10,48 triệu, đơn vị tương đương 33% lực cầu. Nhóm ngân hàng và bất động sản được thu gom thực sự bất ngờ. CTG được khối ngoại mua 1,31 triệu cổ phiếu, chiếm 68,2% thanh khoản. VCB được mua 2,26 triệu cổ phiếu, chiếm 90% thanh khoản. Ngoài ra còn có PVF với 91,4% khối lượng, DPM (78,5%), PPC (77%), PVD (70%), SJS (51%), KBC (87,5%)... Tổng khối lượng mua vào của khối ngoại tại HOSE vọt lên mức gần 13,85 triệu đơn vị chỉ tính riêng khớp lệnh, tương đương 408,5 tỷ đồng. Như vậy lực mua của nhà đầu tư nước ngoài chiếm tới 20% khối lượng và 24,3% giá trị của HOSE. Đây là lực mua mạnh nhất kể từ phiên ngày 22/6/2010. Tổng giá trị giao dịch của HOSE hôm nay tăng nhẹ so với phiên trước và nếu cung hàng tại nhóm cổ phiếu lớn mạnh hơn chắc chắn thanh khoản sẽ còn cao nữa. Nhóm cổ phiếu nhỏ cũng có rất nhiều mã quay trở lại tăng trần và dư mua lớn. Nhìn chung lực mua của khối ngoại chỉ tập trung vào các mã vốn hóa lớn, còn lại dòng tiền “nội”. Tuy nhiên không thể phủ nhận động lực của nhà đầu tư nước ngoài góp phần quan trọng khơi mào một sóng phục hồi rất mạnh hôm nay. Trong phần lớn thời gian giao dịch đến trước 10h, nhà đầu tư nước ngoài chỉ tập trung vào một số mã ngân hàng chứ chưa mua trên diện rộng tại blue-chip. Thanh khoản thị trường ở mức bình thường, khoảng hơn 1.000 tỷ đồng. Thời gian này giao dịch của VIC và BVH ảnh hưởng rất lớn đến VN-Index. Chỉ cần biến động một bước giá tại hai mã này, chẳng hạn BVH hết khớp sàn, Index đã nhảy tăng vài điểm và ngược lại. Một số cổ phiếu tín hiệu khởi sắc sớm. SSI khoảng 9h30 đã được bên mua quét lên giá trần, kế đó là REE, ITA. Nhóm ngân hàng có CTG tăng trần khá sớm do khối ngoại mua mạnh. Mặt bằng chung các cổ phiếu còn lại vẫn trong trạng thái dao động bình thường, một số lớn tăng giá ở mức độ nhẹ nhờ lượng cầu bắt đáy. Sau khi các mã dẫn dắt giao dịch tích cực, cầu tại các cổ phiếu khác không còn là bắt đáy nữa mà được đánh “thốc” lên các bước giá cao hơn. Tâm lý do dự và cẩn trọng đầu phiên thay đổi ngay lập tức, kéo theo một lượng lớn tiền đổ vào mua. Khá nhiều mã quay lại tình trạng dư mua trần khối lượng lớn. Đóng cửa lực mua thực sự tốt khi niềm hưng phấn dâng cao. Nhóm ngân hàng, chứng khoán lại kịch trần với vài triệu cổ dư mua và đà tăng lan sang toàn thị trường. Nhà đầu tư sẵn sàng đổ mua giá ATC chứng tỏ sự hưng phấn rất cao. Tổng khối lượng đợt 3 lên tới 13,19 triệu đơn vị, chiếm 19% thanh khoản cả phiên tại HOSE. Đây là lượng giao dịch đóng cửa kỷ lục chỉ kém phiên ngày 21/9/2010 . Điểm khác biệt là phiên 21/9 do bên bán xả hàng còn hôm nay bên mua hăng hái mua trần. VN-Index tính riêng đợt đóng cửa tăng thêm 1,5 điểm, chung cuộc tăng 5,08 điểm. Gần 41% khối lượng giao dịch của phiên hôm nay được thực hiện trong 30 phút cuối đợt hai và đợt đóng cửa. Lượng vốn tung ra mua thời điểm này khoảng 750 tỷ đồng. Lực mua mạnh lên hôm nay là một tín hiệu tích cực dù bên bán có tình trạng tiết cung ở nhiều mã. Bên mua tung lực lượng ra sớm mà không đợt giá giảm sâu, phần nào cho thấy sự nóng ruột. Có lẽ tâm lý người chờ bắt đáy đã bị ảnh hưởng bởi lực cầu tại các mã dẫn dắt và mức độ giảm giá không như mong đợi. Với phiên cuối tuần rất tốt, tâm lý người mua sẽ còn kéo dài. Mặc dù đối tượng khởi phát của diễn biến tăng hôm nay là nhà đầu tư nước ngoài nhưng lượng tiền của nhà đầu tư trong nước vẫn chiếm đa số. Dù vậy rất nhiều cổ phiếu vẫn đang tiến đến thử lại mức đỉnh cao của mấy phiên trước, số tạo đỉnh cao mới vẫn chưa nhiều, nhất là nhóm cổ phiếu nhỏ trong 4 phiên vừa qua giảm khá mạnh.
    1 like
  34. Rất lâu mới thấy lá số Tham Vũ đồng hành, Thân Mệnh đồng cung. Trong khi chờ bác Haithienha giúp bạn, Giaback có đôi lời luận đoán: Nếu xét chung, đây là lá số tương đối tốt, nhưng có lẽ hợp với nam hơn nữ vì vốn dĩ bộ Sát Phá Tham thường lận đận tình duyên. Cung Phu của bạn cho thấy ông chồng là người hiền lành tốt tính nhưng đầy mâu thuẫn, nóng lạnh thất thường, tốt đấy xấu đấy ... Bản thân bạn là người tính cương, quyết đoán, lúc mừng lúc giận, khi hiền khi giận, và đặc biệt hơn nữa tính bạn rất ưa sự cô độc, cho dù có chồng con, bạn vẫn cảm thấy lẻ loi, cô độc. Với lá số này, thường trong gia đình, đương số là người đứng mũi chịu sào hoặc đoạt quyền chồng. Đứng mũi chịu sào tất là phải ly khắc, đoạt quyền chồng thì cô đơn. Vậy không hẳn cuộc sống không hạnh phúc, mà có lẽ, bạn cô đơn
    1 like
  35. Phải rồi 2 năm nay thật tệ hại năm ngoái thì tiếng tai, nhức đầu, điều ra tiếng vào hư hao đủ thứ. Năm nay vớ phải một tên tặc tình xong việc nó nó chạy, lại còn bệnh tật mấy tháng cuối năm suy sụp , thôi yên tâm sang năm mặt trời bắt đầu sáng không lo đâu - Rêu đá!
    1 like
  36. 1 like
  37. Ở am thờ Mỵ Châu có một bài thơ cổ đề trên bảng gỗ: Hoàng thành đoạn kính thảo ly ly Vãng sự thương tâm bất khả ty Tần Việt nhân duyên thành oán ngẫu Sơn hà kiếp vận đáo nga my Quyên đế cố quốc sương thiên mộ Châu dựng hàn lưu bích hải chi Thần nỗ điếu minh hà xứ khứ Ngộ nhân đáo để thị kim qui. Dịch (Đỗ Văn Hỷ): Thành hoang khuất khúc xanh rì cỏ Việc cũ đau lòng biết hỏi ai Tần Việt nhân duyên thành cập oán Non sông vận kiếp tới mày ngài Quyên kêu nước cũ trời sương muộn Trai nở dòng băng biển biếc hay Mờ mịt nỏ thần đâu biệt mất Rùa vàng lẫm lỡ tới ai đây. Bài thơ trên cho biết kẻ đánh tráo nỏ thần, lừa gạt Mỵ Châu không phải là Triệu, mà là Tần. Đây cũng là câu thành ngữ "Kẻ Việt người Tần" như trong bài thơ Khối tình con của Tản Đà: Một đôi kẻ Việt người Tần Nửa phần ân ái nửa phần oán thương Vuốt rùa chàng đổi móng Lông ngỗng thiếp đưa đường Thề nguyền phu phụ Lòng nhi nữ Việc quân vương Duyên nợ tình kia dở dở dang Nệm gấm vó câu Trăm năm giọt lệ Ngọc trai nước giếng Nghìn thu khói nhang. Cuộc kháng chiến chống Tần của Việt đã không thắng lợi, bởi Âu Lạc đã mất nước vào tay nhà Tần. Và như vậy cũng không có chuyện Triệu Đà chiếm Âu Lạc vì Âu Lạc đã bị Tần chiếm từ trước.
    1 like
  38. Nếu như bạn nói: "...cách luận của ông Thiệu Vỹ Hoa thì đã có ở Việt Nam ta trước giải phóng 1975,..." thì nhóm Lão Làng (tức nhóm 1) không biết sao, bộ chỉ có tôi biết chắc ? Bạn thật là quá ngây thơ khi nghe "...người ta bảo rằng...". Bạn không nên trở thành "Người đẽo cày giữa đường" như vậy. Tôi chỉ biết đến Tử Bình từ năm 2004 qua cuốn "Dự Đoán Theo Tứ Trụ" của thầy trò Thiệu Vĩ Hoa, sau đó tôi có vào mục thư viện của tuvilyso.net có biết thêm được mấy cuốn ở trong đó nhưng đọc qua mấy đoạn thấy chả có gì mới mẻ cả nên bỏ.
    1 like
  39. 1 like
  40. Tết ta Tiếng Việt thuộc hệ ngữ Nam Á, nhánh Môn - Khơ Me. Hàng vạn năm trước, ngôn ngữ Nam Á là một ngôn ngữ thống nhất của chủng Indonesian trên tiểu lục địa Trung - Ấn trong đó có bán đảo Đông Dương. Khảo cổ và nghiên cứu nhân chủng học cho thấy đây là cư dân bản địa của nền văn minh Đông Nam Á cổ, nền văn minh nông nghiệp sớm nhất của nhân loại.Từ đó họ thiên cư “50 con theo mẹ đi lên núi, 50 con theo cha đi xuống biển” khai phá nông nghiệp vùng lục địa Trường Giang, Hoàng Hà (Trung Quốc ngày nay) và vùng đảo Indonexia, Đài Loan, Nhật Bản và các đảo Thái Bình Dương. Ngôn ngữ Nam Á thống nhất ấy lúc đầu là ngôn ngữ đa âm tiết không có thanh điệu. Dần dần chủng tộc Indonesien này phát triển thành nhiều dân tộc, và ngôn ngữ cũng phát triển theo nhiều xu hướng khác nhau, một số đã theo xu hướng đơn âm hóa đương nhiên nảy sinh thanh điệu, như ở tiếng Việt thành ra có 6 thanh điệu, ở tiếng Thái thành ra có 5 thanh điệu, ở tiếng Hoa thành ra có 4 thanh điệu trong tiếng phổ thông Trung Quốc ngày nay còn ở tiếng địa phương như Đài Loan lại có 8 thanh điệu. Căn cứ để xác định ngôn ngữ có cùng gốc là: qui luật kết cấu ngữ pháp, cách phát âm, sự gần gũi của các từ cơ bản. Ví dụ từ cơ bản tiếng Việt so với từ đồng nghĩa của các sắc tộc khác (trong ngoặc đơn) sẽ thấy rõ cùng cội nguồn: Nước = Đắc (Ba Na) = Lạc (Việt cổ vùng Hoa Nam) = Nác (Việt ở Trung Bộ ) = Nậm (Tày) = Nam (Thái Lan); Sông = Krông (BaNa) = Krong (Chăm) = Không (Mường) = Khoỏng (Thái Lan) = Giang (Hoa) = Sônggai (Mã Lai)= Sông ngòi (Việt); Cá = Kaa (XêĐăng )= Pá (Thái) = Ká (Mạ) = Cả (Mường ) = Aka (Mã Lai) = Xacana (Nhật Bản) = Kán (Chăm - đây chính là gốc các từ Cần, Cờn, Quèn, Còng chỉ địa danh như Cần Giờ, Cần Thơ ở Nam Bộ, cửa Cờn ở Nghệ An, lạch Quèn, chợ Còng ở Thanh Hóa, là các cửa sông, bến cá); Con = Kon (Mạ) = Cón (Mường) = Koon (Ba Na) = Kooon (Xê Đăng) = Kodomo (Nhật Bản) = Côn (Khơ Me) = Coong (Việt ở Nam Bộ); Ruồi = Rooi (Ba Na) = Ròi (Việt ở Nghệ An) = Rhai (Mạ) = Ruuêi (Mường) = Ruy (Khơ Me); Ngày = Ngai (Mường) = Thngay (Khơ Me) = Haai (Xê Đăng) = Tngay (Môn ở Mianma); Mặt Trăng = Mạt Tlăng (Ba Na) = Maht Kăn (Mạ) = Blaăng (Chăm) = Bulăng (Mã Lai) = Đoong Chăn (Lào); Trái cây = Trấy (Việt ở Trung Bộ) = Plây (Ba Na, Xê Đăng) = Blái (Mạ); Chim = Chim (Mạ, Xê Đăng) = Sêêm (Ba Na) = Tiêm ( Khơ Mú ở Tây Bắc – từ Tiêm này sau sinh ra từ Tiên trong chữ nho để thần tượng hóa người biết bay lên trời thành Tiên, tục thờ chim Hạc = chim Lạc đưa hồn người lên trời) = Cầm (Việt cổ ở Hoa Nam – người Hán phiên âm là “Sín” nhưng chỉ dùng để chỉ giống chim nuôi trong nông nghiệp dịch từ “chim nhà” gọi ngược là “gia cầm”, đủ thấy nghề này là từ phương Nam truyền lên, chim trời họ gọi là con “nẻo” tức “điểu” chứ không hề có từ “gia điểu”). Học giả Haudricourt nghiên cứu ngôn ngữ Việt (năm 1953,1954) chỉ ra một trong các đặc điểm tạo từ của tiếng Việt là tạo thêm từ bằng phụ tố như kiểu: Giết - chết, cọc - nọc, kẹp - nẹp. Điều này quá rõ, nếu trích dẫn các từ cùng gốc như vậy ra thì nhiều vô cùng. Vì cái logic ấy cho nên con Ròi thì con của nó phải là con Dòi, con Cóc thì con của nó phải là con Nòng-Nọc, con Ong thì con của nó phải là con Nhộng, con Người hay con Ngài thì con của nó phải là Hài do lớn lên từ cái Thai (mà Hán ngữ mượn dùng từ Hài phải nói là “hài tử” hay “hài nhi” hay “hài đồng” thì mới thành nghĩa “con”), Con Người còn có cái để thể hiện linh khí của nó ra ngoài là Con Ngươi của mắt. Trong thiên nhiên thuở hồng hoang thì con Người cũng như các động vật khác chỉ là con Mồi, chỉ khác là biết đứng thẳng, nên chữ nho viết là chữ Mùi hoàn toàn biểu ý bằng chữ nhân 人 ghép với chữ lập 立 nghĩa là đứng, thành chữ Mùi 位 sau đọc là Vị 位 (Hán ngữ phiên âm là “wei”), các Người = các Ngài = các Vị. Nhưng cái “phụ tố” mà học giả Haudricourt nêu mới chỉ là nói phần âm vận ở cuối chữ tạo nên cái âm lõi như “ết”, “ọc”, “ẹp” ở trên v.v. Người Việt còn cách tạo từ cực kỳ quan trọng, có thể tạo ra hàng vạn vạn từ đơn âm tiết có nghĩa, bằng cách Vo các từ đa âm tiết của ngôn ngữ Nam Á trong cái Vỏ đựng, như cái Vò hình cầu là biểu tượng Âm Dương của người Lạc Việt, như cái Vũ của vũ trụ hình cầu chứa đựng tất cả, để từ ấy rụng đầu rụng đuôi đi rồi còn mỗi lõi giữa là một âm tiết có kèm thêm thanh điệu. Ví dụ từ “O-NA-DI” của tiếng Nhật nghĩa là “giống”, khi bị vo tròn nhưng chưa dứt hẳn nó đã bị rụng mất đầu “O” và đuôi “DI” đi, còn lõi giữa là “NA” nhưng chưa sạch hẳn nên nó thành từ dính, tức láy là hai âm tiết dính nhau không thể đảo ngược, là “NA-NÁ” nghĩa là “hơi giống”. Nhưng cũng có lúc do vo mạnh tay hơn nhưng lại vo không đều tức không tròn trịa nên nó bị rụng mất “O” và “NA” ở đầu đi, còn lại mỗi “DI” ở cuối kèm theo vài mảnh vụn bám vào nên nó thành có đuôi và có thanh điệu thành từ “DỐNG” mà đa số phát âm là “GIỐNG” nên chính tả chấp nhận là “GIỐNG”. Như vậy ở tiếng Nhật chỉ có mỗi “O-NA-DI” nhưng ở tiếng Việt có “NA-NÁ” và “GIỐNG” mang hai sắc thái khác nhau của cùng một nghĩa. Ai có lý giải nào khác về nguồn gốc hai từ này, tôi xin được tham khảo. Việc “vo” này xảy ra hàng sáu bảy ngàn năm trước rồi chứ không phải trong thời cận đại đâu. Lại còn nhờ qui tắc chia đôi Âm Dương một tiếng đơn âm thành từ láy dính hai âm tiết mà trong cách tạo từ của tiếng Việt còn có vai trò của một “phụ tố “ nữa là: cùng phụ âm đầu. Ví dụ từ “Lộ” nghĩa là con đường đi, do có qui tắc phụ tố là cùng phụ âm đầu mà nó đã cho ra biết bao từ trong tiếng Việt cùng gốc phụ âm “lờ” đầu với nó để chỉ các loại đường đi và các cách đi khác nhau: LỐI là đường đi nhỏ trong xóm làng; LỘI là đi bằng chân, lội bộ = đi bộ; LOẠNG-CHOẠNG là đi như muốn ngã; LÁCH, LUỒN, LẺN, LẤN là những cách đi có tính toán; LÙA là xua bầy gia súc gia cầm đi; LEN- LỎI là vừa đi vừa tìm đường; LEN trâu là vừa lùa trâu đi vừa tìm đường trong nước lụt (phim “Mùa len trâu”); LỎI là tìm đường ngoi lên cho hơn người, “sao mày lỏi thế hả đồ khôn lỏi!”; LƯỚT là đi nhanh bằng thuyền; LƯỢT (rượt) là chạy nhanh để đuổi ; LÓN-LÉN (rón-rén) là đi nhẹ tránh phát hiện; LÁI là điều khiển cho phương tiện đi; LEO là đi lên độ cao ( Người Hán dùng từ “lộ” của chữ nho 路 chỉ con đường, nhưng trong tiếng Hán không thấy từ nào khác cùng phụ âm đầu là “lờ” với nó mà có cùng khái niệm đường đi hoặc cách đi cả, có lẽ vì dân trên đồng cỏ mênh mông bằng phẳng chẳng cần phải có đường,chỉ có dân rừng nhiệt đới mới phải len lỏi tìm lộ để đi thành đường mòn. Vậy chữ nho LỘ 路 này nguyên gốc là từ đâu? chữ này có phần biểu ý là bộ túc 足 tức chân đi, và phần biểu âm là chữ các 各, đáng lý phải đọc là Lạc, hiểu ý là “cách đi của Lạc dân”, có phải do người Việt là dân sông nước nên phương tiện đi lại chủ yếu là bằng thuyền trên Nác hay Lạc?). Còn một qui tắc tạo từ nữa trong tiếng Việt là qui tắc “lướt”, từ ghép hay cả câu dài đều có thể lướt thành một âm tiết, như: “hai mươi” = “hăm”; “ba mươi” = “băm”; “TRái cÂY” dân miền Trung lướt thành “TRẤY”, “Hỏi gì đẤY?” lướt thành “HẤY?”; đi “té re” là nói chung đi lỏng, nhưng trẻ sơ sinh “đi Té re làm ƯỚT cả tã do nó không thể tự kềm chế được” người ta lướt thành “đi TƯỚT”, chỉ dùng cho trẻ sơ sinh mà thôi; “THỢ tay nghề cao có thể dũa Lưỡi cưa cho sắc và đúng góc độ như mỚI” gọi lướt là “THỢ LỠI”; “HỖN hợp LẮM thứ BA lăng nhĂNG” lướt thành từ “HẰM BÀ LẰNG”; “tự ĐI du lịch PHóng khoáng VƯỢT qua mọi trở ngại thiên nhiên và chối bỏ sự gò bó của tua truyền thống” gọi lướt thành từ “ĐI PHƯỢT” (từ mới của dân teen trên mạng đã được phương tiện thông tin đại chúng sử dụng) v.v.Qui luật lướt này cũng là đã có từ nhiều ngàn năm trước rồi. Cụ thể là học giả Hứa Thận thời Đông Hán đã sử dụng qui tắc này để “thiết” tự làm nên cuốn sách công cụ dạy cách đọc chữ nho cho đúng âm, mỗi chữ nho được “thiết” bằng hai chữ nho khác (tức đọc lướt hai chữ nho khác) cho ra âm đúng của chữ cần đọc, đó là cuốn “Thuyết văn giải tự” (nhưng mà khi đọc thì phải đọc đúng như âm Việt của người Việt đọc chữ nho thì mới thấy đúng, chứ nếu đọc theo phiên âm latin như tiếng phổ thông Trung Quốc tức “Hán ngữ hiện đại” thì lại trật, thời Đông Hán ông Hứa Thận viết cuốn này để giải nghĩa hàng vạn chữ kèm cách đọc, chưa có biết đến chữ phiên âm latin). Vài ví dụ như sau: (phiên âm latin của Hán ngữ viết trong ngoặc đơn, dấu “ = ” là để thay cho chữ “lướt thành” TÚC 足 (zú) nghĩa là cái chân , đọcTỨC 即 NGỌC 即 = TÚC ( jí yù = jù ; jù trật zú) HÀNH 行 (xíng) nghĩa là làm, đọc HỘ 戶 CANH 庚 = HÀNH (hù geng = heng, trật xíng) CẬN 近 ( jìn) nghĩa là gần, đọc CỪ 渠 LÂN 遴 = CẬN ( qú lín = qín; qín trật jìn) ĐẬU 逗 (dòu) nghĩa là dừng, đọc ĐIỀN 田 HẦU 侯 = ĐẬU (tián hòu = tòu, tòu trật dòu) VẬN 運 (yùn) nghĩa là chở, đọc VƯƠNG 王 VẤN 問 = VẬN (wáng wèn = wén, trật yùn) NGỘ 遇 ( yù) nghĩa là gặp, đọc NGƯU 牛 CỤ 具 = NGỤ ( níu jù = nù; nù trật yù) TẠO 造 (zào) nghĩa là chế, đọc THẤT 七 ĐÁO 到 = TẠO ( qi dào = qiào; qiào trật zào) QUÁ 過 (guò) nghĩa là qua, đọc CỔ 古 HÒA 禾 = QUA ( gu hé = gé; gé trật guò) TIỀN 前 (qián) nghĩa là trước, đọc TẠC 昨 TIÊN 先 = TIỀN (zuó xian = zan; zán trật qián) CÁC 各 (gè) nghĩa là nhiều, đọc CỔ 古 LẠC 洛 = CÁC ( gu luò = guò; guò trật gè) KHIẾU 叫 (jiào) ,nghĩa là kêu, đọc CỔ 古 ĐIỀU 伄 = KHIẾU ( gu diào = giào, trật jiào) DUY 唯 ( wei) nghĩa là dạ vâng, đọc DĨ 以 THỦY 水 = DUY ( yi shui = yui; yui trật wei) TRIẾT 哲 ( zhé) nghĩa là biết, đọc TRẮC 陟 LIỆT 列 = TRIẾT( zhì liè = zhiè; zhiè trật zhé) NGƯU 牛( níu) nghĩa là trâu, đọc NGỮ 語 CẦU 求 = NGƯU ( yu qíu = yiu; yiu trật níu) NGỮ CẦU = NGẦU (tiếng Quảng Đông) = TRÂU (tiếng Việt) = TRU (tiếng Việt ở Nghệ An) = TLU( tiếng Mường) TIẾN 薦 (jiàn) nghĩa là cử, đọc TẠI 在 ĐIỆN 甸 = TIẾN (zài diàn = ziàn; ziàn trật jiàn) LẠC 落( luò) nghĩa là rớt, đọc LÔ 盧 CÁC 各 = LẠC ( lú gè = lè; lè trật luò) DÂN 珉( mín) nghĩa là cái đẹp của đá, đọc VŨ 武 CÂN 巾 = VÂN ( wu jin = win, trật mín) HÀ瑕 ( xía) nghĩa là đá giống ngọc, đọc HỒ 胡 QUẢI 拐 = CUỘI ( hú guai = huai trật xía) GIAM 瑊 ( jian) nghĩa là đá đẹp như ngọc, đọc CỔ 古 HÀM 函 = CƯỜM ( gu hán = gán; trật jian) - Trang sức như vòng đeo tay hay khuyên đeo tai bằng cuội hay cườm có ở di chỉ khảo cổ văn hóa Sa Huỳnh miền Trung Việt Nam. THỤY 瑞 ( rùi) là ngọc làm tin, đọc THỊ 是 NGỤY 偽 = THỤY ( shì wei = shei; trật rùi) VƯƠNG 王 ( wáng) nghĩa là vua , đọc VŨ 雨 PHƯƠNG 方 = VƯƠNG ( yu fang=yang; trật wáng) VINH 榮 ( róng) nghĩa là vẻ vang, đọc VI 為 MỊNH 命 = VINH ( wéi ming = wing; wing trật róng) PHÚC 福 ( fù) nghĩa là được phù hộ, đọc PHƯƠNG 方 LỤC 六 = PHÚC ( fang lìu = fìu; trật fù) THẦN 神 ( shén) nghĩa là thần, đọc THỰC 食 LÂN 遴 = THẦN (shí lín = shín ; trật shén) BÍ 秘 (mì) nghĩa là thần bí, đọc BINH 兵 MI 媚 = BÍ ( bing méi = béi; béi trật mì). VIỆT 越 (yuè) nghĩa là vượt qua (nguyên văn: độ dã), đọc VƯƠNG 王 PHẠT 伐 = VIỆT(wáng fá = wá; wá trật yuè). Có lẽ phần “giải tự” chữ Việt này của ông Hứa Thận là chính xác nhất về nguồn gốc từ “Việt” xuất hiện từ khi nào trong lịch sử. Hán thư thì viết rằng từ “Việt” xuất hiện vào thời Xuân Thu. Theo “giải tự” ở đây thì VIỆT= VƯƠNG PHẠT tức “ông vua đi chinh phạt” thì phải có sớm hơn rất nhiều, đó là sự kiện nổi tiếng lịch sử cổ đại là vụ vua Chu Văn Vương tức ông Tây Bá Cơ Xương vượt sông đi bắc phạt tiêu diệt vua Trụ nhà Thương, có lẽ từ đó người ta mới gọi quân của “ Vương Phạt” là quân “Việt”, trước đó thì họ chỉ gọi là dân Lạc của Lạc Quốc mà thôi. Qua đó bạn đọc tự thấy là chữ nho và cách đọc nó đúng như Trung Hoa đọc thời thượng cổ là đã truyền từ Nam lên Bắc hay nó đã đi từ Bắc xuống Nam? Người quan tộc đọc không nổi chữ nho nên thầy Hứa Thận mới phải soạn ra sách “Thuyết văn giải tự” là cuốn sách công cụ để dạy cho họ cách đọc chữ nho cho đúng âm điệu của nó. Qui tắc lướt để tạo từ như nêu ở trên, và thời cổ đại đã được Hứa Thận vận dụng để dạy cách đọc chữ nho , cho ta thấy là chữ QUỐC là hậu duệ trực hệ của chữ NƯỚC. Hán thư viết thời Tam Hoàng Ngũ Đế thì dân sống theo “thủy” (ý nói dòng chảy, con nước) nên lấy tên “thủy” đó làm tên xứ sở và làm họ. Vậy mà cho đến tận bây giờ cũng chỉ còn có mỗi dân tộc Việt là duy nhất trên thế giới này gọi xứ sở mình là “nước”, vậy họ có phải chính là hậu duệ đích tôn của Tam Hoàng Ngũ Đế ấy hay không?. Con nước nơi quần cư, thời cổ đại dân Việt gọi là Nác hay Lạc mà Hán phải gọi là Lạc Thủy. Nhiều Nác nhỏ hợp lại thì thành một nền hành chính lớn cấp trên là “Nác Của Nác”. Chữ “Của Nác” ấy đọc lướt theo qui tắc tạo từ của tiếng Việt thì thành Quốc. Của Nác = Quốc( cụ Hồ còn ký là Nguyễn Ái Quấc), nên “Nác Của Nác” thành “Nác Quốc” mà chữ nho viết là Lạc Quốc. Chữ “Của” thì trong tiếng Quảng Đông là “Cơ”, Của Nác họ đọc là Cơ Lạc nên lướt thành Coọc. Chữ nho Quốc 國 là một vuông nghĩa là “ Vùng”, bên trong có chữ "Hoặc 或 ” là âm lướt của hai chữ “Họ Lạc” (" Hoặc" = "Họ Lạc" ), ghép bằng chữ Qua 戈 là cái qua đồng của người Lạc Việt. Hán thư viết, dân thời Tam Hoàng Ngũ Đế sống theo “thủy” lấy “thủy” làm họ, vậy “Họ Lạc” tức dân Lạc lấy Lạc làm họ đó thôi. Chữ Chu 周được ông Hứa Thận thời Đông Hán “giải tự” nghĩa là Mật tức đông đúc, nên Chu Văn Vương 周 文 王 nghĩa là Vua Vùng Đông Đúc, vì chữ Văn 文 tiếng Quảng Đông đọc là Mảnh cũng có nghĩa là Vuông tức Vùng, là một diện tích, như từ Mảnh Ruộng trong tiếng Việt, mà về hìnhchữ Văn 文 thì nó có vạch chéo là cái đường chéo tượng trưng cho hình vuông, cũng có nghĩa là Giao, chữ Giao 交 cũng có hình chéo, tức vùng Giữa, là nơi giao lưu của mọi miền, Chỗ Giữa đọc ngược lại theo cú pháp Hán là Giao Chỉ. Chu Văn Vương tức vua vùng đông đúc mà thôi, chứ không phải ông ấy họ Chu, mà ông ấy lại là họ Cơ 姬, gốc từ vùng sông Cả, tên ông ấy là Cơ Xương姬 昌, được phong đất vùng Tây Bá tức vùng núi đá phía tây ( theo như tiếng Choang “bá” nghĩa là “núi đá” mà ngày nay khai quật được di chỉ trống đồng ở núi Ba Thị tức “núi đá gốc” theo tiếng Choang, nay gọi là Đại Minh sơn ở Quảng Tây, là đất tổ của người Choang, hậu duệ của người Tày cổ tức dân Lạc Việt). Tây Bá tức vùng Qúi Châu và Quảng Tây ngày nay, sau khi được phong đất Tây Bá thì ông Cơ Xương được gọi là Tây Bá Cơ Xương. Chữ 國 ấy người Việt Nam đọc là Quốc, người Quảng Đông đọc là Coọc. Quốc Vương là Vua của Nước, vì “Quốc” = “Của Nước” mà trong chữ Quốc ấy còn rõ cả Họ Lạc và cái qua đồng của dân Lạc Việt thì rõ ràng không phải là ta đi mượn của “từ Hán Việt” nào cả, như các nhà hàn lâm vẫn nói. Cái từ “Nác của Nác” hay Nác Nác = Lạc Quốc còn hiện diện ở miền Trung Việt Nam trong từ Đắc Lắc, nơi các sắc tộc vẫn còn có cây Nêu trong ngày hội như ở người Kinh có cây Nêu trong ngày Tết, Đắc nghĩa là nước, Lắc cũng nghĩa là Nước, cái “hồ Lắc” là miệng núi lửa xưa ở đó có nghĩa là “hồ Nước”, Đắc Lắc cũng có nghĩa là một Nác Nác = một Lạc Quốc vậy. Ở đó cư dân vẫn còn ở nhà sàn tre mái cong như nhà sàn tre mái cong của người Việt xưa hay ở các vùng khác của Đông Nam Á, mà kiểu nhà ấy tiếng Mã Lai và Indonexia gọi là “Tangga”, tiếng Chăm gọi là “Thanggiơ” đều có nghĩa là “bước lên Thang mới vào được Nhà”, mà từ “Thang” thì có nghĩa là “cái để leo” của tiếng Việt, còn từ “Thoòng” của tiếng Hoa nghĩa là “cái nhà” mà chữ nho viết là chữ Đường 堂 trong “từ đường” là cái “nhà thờ”. Ngôn ngữ và văn hóa từ thời thượng cổ đã từ phương Nam mà đi lên phương Bắc là như vậy. Cái mái cong bằng tre của nhà rông ấy hiện diện ở khắp Hoa Nam là mái ngói cong, còn lên phía Bắc là mái bầu chóp tròn như cái nậm rượu hồ lô, dư ấn của cái lều vải úp của dân du mục đồng cỏ. Từ qui tắc lướt để tạo từ của tiếng Việt, ta còn thấy nguồn gốc rặc Việt của từ TẾT. Các nhà hàn lâm ở Hà Nội thì giải thích rằng “Tết ta là ăn tết theo tết Tàu, theo lịch Tàu; người Tàu gọi cái lễ đón năm mới ấy là Xuân Tiết, ta mới gọi tắt một tiếng là Tiết rồi đọc chệch đi thành Tết ” (?). Nhưng chính các nhà hàn lâm ấy khi gọi tắt thì vẫn theo qui luật là gọi bằng tiếng đầu bỏ tiếng đuôi, ví dụ đi vô xứ Nghệ An thì nói tắt là đi vô xứ Nghệ chứ không nói là đi vô xứ An, đi vô xứ Quảng Ngãi thì nói tắt là đi vô xứ Quảng chứ không nói là đi vô xứ Ngãi. Ấy vậy mà Xuân Tiết lại không gọi tắt là Xuân mà lại gọi tắt là Tiết kể cũng tài (?). Làm tội các cháu khi du học bên Tây, nghỉ ngày Tết âm lịch, các bạn Tây hỏi ồ sao chúng mày cũng đón Chinese New Year à ? thì không biết trả lời như thế nào. Tục Tết là từ ta đi lên hay từ Tàu đi xuống?. Nguyên thủy nó là từ Té , là té nước trong lễ hội cầu mưa của cư dân nông nghiệp Nam Á, nghi lễ cầu trời gọi là Tế, chữ nho viết là Tế 祭. Lễ lớn nhất trong năm là lễ cúng lúc đón giao thừa kết thúc năm cũ sang năm mới gọi là Tế Hết Năm (Tàu gọi là Quá Niên , cũng còn gọi là Tất Niên là hoàn tất một năm cũ). Do qui luật lướt nên “Tế Hết Năm” đã lướt thành “Tết Năm” (Tế Hết = Tết), cái từ Tết Năm ấy gọi tắt thì theo qui luật lấy tiếng đầu là Tết chứ không lấy tiếng cuối là Năm. Đó là sự hình thành chính xác nhất từ Tết trong ngôn ngữ Việt bắt nguồn từ phong tục cổ xưa nhất của người Việt từ thời Thần Nông cách nay hàng vạn năm. (Tết bắt nguồn từ lễ hội Té nước, nước té rồi thì nó ngã rạp xuống đất, nên người phương nam còn gọi ngã là Té nhưng nó bao hàm cả rớt xuống nước, bởi dân sông nước thì ngã chỉ có nghĩa là rớt xuống nước tức Té, về sau từ Té dùng chung cho cả trên cạn nên ngã xe máy cũng gọi là Té xe máy). Chuẩn bị cho Tết nhất định phải có cây Nêu, là cây tre dựng đứng mà từ thời cổ đại tổ tiên ta đã dùng đo bóng nắng mặt trời để tính ra lịch nông nghiệp gọi là âm lịch, nên cây Nêu phải dựng ngoài sân tức ngoài trời để thờ Trời, tức cây trụ của từ Trụ nghĩa là thời gian trong từ ghép Vũ Trụ, mà Vũ có nghĩa là không gian lại là do từ Vỏ, là cái vỏ mênh mông chứa đựng và vo tròn tất cả . Nội dung Tết Việt là phải đủ như câu: “Thịt mỡ, dưa hành, câu đối đỏ; Cây nêu, tràng pháo, bánh chưng xanh”, trong đó thấy đủ cả Âm Dương Ngũ Hành, nông nghiệp, công nghiệp và văn học. Tục cây Nêu ngày nay vẫn tồn tại trong các lễ hội và trong Tết. Ở thành phố nhà không có sân để dựng cây Nêu thì người ta đành dựng bên lễ cúng là cây mía còn nguyên cả ngọn tượng trưng cho cây Nêu, vì nó cũng nhiều đốt như cây tre vậy. Trên cây Nêu treo các thứ tượng trưng cho mong ước tốt đẹp, nên từ Nêu là ý đẹp, nêu gương tốt. Nhưng trong đời sống cũng có khi bắt buộc phải nêu gương xấu để răn đe. Cái cây Bắt (phải) Nêu ấy lướt thành cây Bêu, như cây treo con bù nhìn xấu xí để đe chim khỏi phá hạt mới gieo ở ngoài đồng, gọi là cây Bêu. Cũng có khi chẳng phải ý đẹp hay ý xấu mà vẫn buộc phải Bắt Nêu thì người ta đã lướt thành cây Bẹo, đó là cây tre dựng treo các loại trái cây và hàng hóa mẫu để “quảng cáo tiếp thị” gọi là cây Bẹo trên mỗi thuyền bán hàng của chợ nổi vùng sông nước miền tây Nam Bộ. Cây Nêu đã từ Tết đi vào cuộc sống bình thường của người dân. Tìm khắp đất Hoa Bắc chẳng có tục cây nêu từ thượng cổ đến nay mà học giả nước ta lại dám bảo là Tết ta là do từ bên Tàu kể cũng lạ.
    1 like
  41. Bát Sát Hoàng Tuyền Dạo một vòng trên mạng chỉ thấy các trang web nói về các tính Bát Sát và Hoàng Tuyền, nhưng không thấy trang nào nói về nguyên lý cặn kẻ của vấn đề quan trọng này. Nhiều trang chỉ chép lại, mà nội dung củng không chính xác. Học phong thủy tự coi cho mình thì qua loa củng tạm, nhưng học để phục vụ người thì nên nghiên cứu và hiểu cặn kẻ trước khi áp dụng để tránh sai một ly đi một dặm, sát hại cả mấy đời người. Bát Sát Hoàng Tuyền thật ra là hai loại Sát, Bát Diệu Sát và Hoàng Tuyền Sát. Bát Sát còn được gọi là Bát Diệu Sát hay là Tọa Sơn Bát Sát Nguyên lý của Sát là từ ngũ hành thụ khắc. Ngủ hành tương khắc là Thủy khăc Hỏa, Hỏa khắc Kim, Kim khắc Mộc, Mộc khắc Thổ, Thổ khắc Thủy. Trong phong thủy Lai Long thụ khắc củng gọi là Sát, Tọa Sơn thụ khắc, hay Hướng, Thủy Lai, Thủy Khứ thụ khắc đều được gọi là Sát, nhưng Bát Diệu Sát thì chính là căn cứ vào hào Quan Quỷ của Dịch Quái. Trong Dịch Quái, Hỗn Thiên Giáp Tý dùng để nạp Giáp, can chi cho hào, sau đó so sánh ngũ hành của bản quái (cung) và chi để mà lập Lục Thân, theo quyết Sinh Ta là Phụ Mẫu, Đồng Ta là Huynh Đệ, Ta Sinh là Tử Tôn, Ta Khắc là Thê Tài, Khắc Ta là Quan Quỷ, Quan Quỷ hào củng tức là Sát Diệu. Quẻ bát thuần Kiền thuộc hành Kim --- Nhâm Tuất, Phụ Mẫu, Thổ --- Nhâm Thân, Huynh Đệ, Kim --- Nhâm Ngọ, Quan Quỷ, Hỏa Diệu --- Giáp Thìn, Phụ Mẫu, Thổ --- Giáp Dần, Thê Tài, Mộc --- Giáp Tý, Tử Tôn, Thủy Quẻ bát thuần Khôn, thuộc hành Thổ - - Quý Dậu, Tử Tôn, Kim - - Quý Hợi, Thê Tài, Thủy - - Quý Sửu, Huynh Đệ, Thổ - - Ất Mão, Quan Quỷ, Mộc Diệu - - Ất Tỵ, Phụ Mẫu, Hỏa - - Ất Mùi, Huynh Đệ, Thổ Quẻ bát thuần Khãm, thuộc hành Thủy - - Mậu Tý, Huynh. Đệ, Thủy --- Mậu Tuất, Quan Quỷ, Thổ Diệu - - Mậu Thân, Phụ Mẫu, Kim - - Mậu Ngọ, Thê Tài, Hỏa --- Mậu Thìn, Quan Quỷ, Thổ Diệu - - Mậu Dần, Tử Tôn, Mộc Quẻ bát thuần Ly thuộc hành Hỏa --- Kỷ Tỵ, Huynh Đệ, Hỏa - - Kỷ Mùi, Tử Tôn, Thổ --- Kỷ Dậu, Thê Tài, Kim --- Kỷ Hợi, Quan Quỷ, Thủy Diệu - - Kỷ Sửu, Huynh Đệ, Thổ --- Kỷ Mão, Phụ Mẫu, Mộc Quẻ bát thuần Chấn thuộc Mộc - - Canh Tuất, Thê Tài, Thổ - - Canh Thân, Quan Quỷ, Kim Diệu --- Canh Ngọ, Tử Tôn, Hỏa - - Canh Thìn, Thê Tài, Kim Diệu - - Canh Dần, Huynh Đệ, Mộc --- Canh Tý, Phụ Mẫu, Thủy Quẻ bát thuần Tốn thuộc hành Mộc --- Tân Mão, Huynh Đệ, Mộc --- Tân Tỵ, Tử Tôn, Hỏa - - Tân Mùi, Thê Tài, Thổ --- Tân Dậu, Quan Quỷ, Kim Diệu --- Tân Hợi, Phụ Mẫu, Thủy - - Tân Sửu, Thê Tài, Thổ Quẻ bát thuần Cấn thuộc hành Thổ --- Bính Dần, Quan Quỷ, Mộc Diệu - - Bính Tý, Thê Tài, Thủy - - Bính Tuất, Huynh Đệ, Thổ --- Bính Thân, Tử Tôn, Kim - - Bính Ngọ, Phụ Mẫu, Hỏa - - Bính Thìn, Huynh Đệ, Thổ Quẻ bát thuần Đoài thuộc hành Kim - - Đinh Mùi, Phụ Mẫu, Thổ --- Đinh Dậu, Huynh Đệ, Kim --- Đinh Hợi, Tử Tôn, Thủy - - Đinh Sửu, Phụ Mẫu, Thổ --- Đinh Mão, Thê Tài, Mộc --- Đinh Tỵ, Quan Quỷ, Hỏa Diệu Ta có các hào Quan Quỷ Sát Diệu như sau: Kiền: Nhâm Ngọ Khôn: Ất Mão Khãm: Mậu Thìn, Mậu Tuất Ly: Kỷ Hợi Chấn: Canh Thân Tốn: Tân Dậu Cấn: Bính Dần Đoài: Đinh Tỵ Riêng quẻ Khãm có hai hào Quan Quỷ, nhiều sách chỉ lấy hào Mậu Thìn của quẻ nội làm Sát Diệu. Nhưng nhiều sách thì tính luôn Mậu Tuất cho chắc ăn. Từ đó mà ta có bài quyết Bát Diệu hay Bát Sát: Khãm Long (Thìn), Khôn Thố (Mão), Chấn sơn Hầu (Thân) Tốn Kê (Dậu), Kiền Mã (Ngọ), Đoài Xà (Tỵ) đầu Cấn Hổ (Dần), Ly Trư (Hợi), vi Sát Diệu Phạm chi Trạch Mộ, nhất tề hưu. Kinh (Ngọc Xích) viết: Vượng trung Đới Sát Lai bất nghi, Khố trung Tàng Sát Khứ diệc phi. Theo lý thuyết Dịch Quái thì Thê Tài sinh Quan Quỷ, trong phong thủy thì Thủy được coi là Tài, mà thủy lai ở nơi Quỷ thì thành Quỷ Vượng, Quỷ dử, là Sát Quỷ:-) Ngoài ra, Bát Sát còn được kiêng cử trong cách trọn ngày (Trạch Nhật). Theo sách La Kinh Thấu Giải thì phương pháp tính toán là phải đem năm, tháng, ngày, giờ vào trung cung, thuận phi theo phi tinh (như Huyền Không phi tinh), nếu các sơn quái mà gặp can chi kỵ thì không nên tu tạo nơi sơn đó. Nói đến vấn đề này thì quá nhiều trang web trên mạng, cứ hể Kiền Sơn thì phải kỵ Năm Tháng Ngày Giờ Nhâm Ngọ, Khôn sơn thì kỵ Năm Tháng Ngày Giờ Ất Mão, theo lối bao đồng cho chắc ăn. Đúng là học một đường hiểu một nẻo, sớm muộn sẻ chuốc Họa vào thân, thí dụ như Khôn Sơn thì nói là tránh Năm Tháng Ngày Giờ Ất Mão thì không chính xác rồi. Trong quyển La Kinh Thấu Giải có dần giải rỏ ràng, Năm Tháng Ngày Giờ là Kỷ Dậu, lấy Kỷ Dậu nhập trung cung, phi theo phi tinh như sau: Kỷ Dậu Trung cung Canh Tuất Kiền Cung Tân Hợi Đoài Cung Nhâm Tý Cấn Cung Quý Sửu Ly Cung Giáp Dần Khãm Cung Ất Mão Khôn Cung. Đấy Ất Mão lâm Khôn Cung, nên kỵ tu tạo ở Khôn Sơn ở Năm Tháng Ngày Giờ Kỷ Dậu, chứ nào phải Năm Tháng Ngày Giờ Ất Mão. Đó củng chính là phép lấy Trực Sử bay theo Chi Giờ để an Bát Môn của Kỳ Mộn Độn Giáp đó mà. Đợt tới bàn về Hoàng Tuyền Sát hay Suối Vàng Giết!!!
    1 like
  42. ĐỊNH XÍCH KỲ THƯ Chọn kích thước nhà cửa cát tường Nguyễn Văn Trung ******* Thân chủ: Họ tên: Nguyễn Văn Trung Hướng nhà: Nam, lệch 0 độ Gang nách trái rộng: 17 cm Gang nách phải rộng: 18 cm Một thốn rộng: 2 cm Chú thích: Gang nách trái hoặc phải là chiều rộng của một gang tay trái hoặc phải, tính từ đầu ngón trỏ đến đầu ngón cái, khi đang dang ra hết cỡ Thốn là kích thước của một đốt ngón tay giữa (tương tự với Thốn trong Đông y) ******* LỜI MỞ ĐẦU Từ xưa đến nay, phàm những người làm nhà thường luôn muốn chọn cho mình các kích thước đẹp, hợp phong thủy để sử dụng cho cửa, ban thờ, bếp và các vật dụng khác trong nhà. Để làm được điều đó, công cụ thường được sử dụng là thước Lỗ Ban. Thước Lỗ Ban là cây thước được Lỗ Ban, ông Tổ nghề mộc ở Trung Quốc thời Xuân Thu phát minh ra. Nhưng trên thực tế, trong ngành địa lý cổ phương Đông, ngoài thước Lỗ ban (Lỗ Ban xích) còn có nhiều loại thước khác được áp dụng.như thước Đinh Lan (Đinh Lan xích), thước Áp Bạch (Áp Bạch xích), bản thân thước Lỗ Ban cũng bao gồm nhiều phiên bản khác nhau như các bản 52,2cm, 42,9cm, ... Trên thị trường hiện bán phổ biến loại thước cuộn trên đó có in thước Lỗ Ban loại 42,9cm ở hàng trên dùng để đo dương trạch và thước Đinh Lan (38,8cm) in ở hàng dưới dùng để đo âm phần. Thợ mộc khi sử dụng loại thước cuộn này thường tâm niệm câu khẩu ngữ: hai đen thì bỏ, hai đỏ thì dùng. Nghĩa là nếu cả hai loại thước (Lỗ Ban 42,9cm và Đinh Lan 38,8cm) đều rơi vào vạch đỏ (cung tốt) thì chọn kích thước đó cho vật dụng, bằng ngược lại thì bỏ đi. Thực chất quan niệm này theo chúng tôi là không đúng, bởi lẽ trong ngành địa lý cổ Trung Hoa thì thước Đinh Lan là để đo âm phần (phần đất của người chết), nên việc đo đồ đạc theo thước này là không phù hợp. Tuy nhiên, khi không hiểu rõ tác dụng của mỗi loại thì chọn cả hai loại tốt cũng là giải pháp chấp nhận được, kiểu như "có thờ có thiêng" vậy. Khi đi sâu nghiên cứu ngành địa lý cổ phương Đông, tìm hiểu các loại thước cổ, chúng tôi thấy rằng các thước như Lỗ Ban, Đinh Lan dầu là sự đúc kết hàng ngàn năm dựa trên kinh nghiệm xây dựng của người xưa, nhưng chưa thực sự dành riêng cho từng căn nhà, từng gia chủ. Chúng được áp dụng một cách chung chung cho hầu hết các trường hợp. Chỉ có loại thước Áp Bạch (Áp Bạch Xích) với các căn cứ tính dựa trên Bát trạch (tọa hướng của căn nhà) và thước Huyết Thống (căn cứ trên chiều dài gang nách và một đốt thốn ngón tay của gia chủ) mới là loại thước áp dụng riêng cho từng căn nhà, từng gia chủ. Tập Định Xích Kỳ Thư này là một tập tài liệu chuyên nghiên cứu để lựa chọn ra những kích thước tốt nhất cho các bộ phận, đồ đạc trong nhà, trên cơ sở sự kết hợp của Áp Bạch Xích, Lỗ Ban Xích và Đinh Lan Xích Nhà hướng Nam, lệch 0 độ. Theo la bàn, hướng nhà rơi vào 180 độ, tính từ hướng chính Bắc Theo Bát Trạch: nhà tọa Khảm hướng Ly Tức tọa sơn Tý, hướng Ngọ, thuộc Thiên Nguyên Long, quẻ Phụ Mẫu, sơn Âm. Trong Áp Bạch Xích, người ta thường sử dụng hai loại thước đó là Xích Bạch (đo các khoảng lớn) và Thốn Bạch (đo các khoảng nhỏ). Kết hợp kết quả từ Xích Bạch và Thốn Bạch sẽ được kích thước cần tìm. 1. Phép đo Xích Bạch (尺白): Trong Xích bạch có hai phép là Thiên phụ quái và Địa mẫu quái. Thiên phụ quái là phép Đại du niên bát biến, dùng để đo kích thước chiều cao và chiều sâu (theo phương thẳng đứng thì dùng phép này). Địa mẫu quái là phép Tiểu du niên, dùng để đo kích thước chiều ngang, dài rộng (phương nằm ngang). Áp Bạch Xích vốn là một loại thước trực 8 (Bát môn xích), bao gồm 8 khoảng là Tài, Bệnh, Ly, Nghĩa, Quan, Kiếp, Hại, Bổn (hay Cát), được an tương ứng 8 vì sao. Căn cứ vào Tọa sơn của căn nhà để tìm sao được an tương ứng với từng thước trong Xích Bạch. Gang nách trái của gia chủ rộng 17 cm, gang nách phải rộng 18 cm, cộng lại được một xích là 35 cm. 1.1. Thiên phụ quái: Thiên phụ quái là phép Đại du niên bát biến, dùng để đo kích thước chiều cao và chiều sâu (phương thẳng đứng). Căn nhà này tọa sơn Tý, phép đo Thiên phụ quái được khởi an từ sao Văn Khúc (sao Xấu). Lần lượt an 8 vì sao theo thứ tự dùng cho dương trạch có: Thước thứ 1: an sao Văn Khúc, sao Xấu, ứng với kích thước từ 0 đến 35 cm Thước thứ 2: an sao Liêm Trinh, sao Xấu, ứng với kích thước từ 35 đến 70 cm Thước thứ 3: an sao Vũ Khúc, sao Tốt, ứng với kích thước từ 70 đến 105 cm Thước thứ 4: an sao Phá Quân, sao Xấu, ứng với kích thước từ 105 đến 140 cm Thước thứ 5: an sao Phụ Bật, sao Tốt, ứng với kích thước từ 140 đến 175 cm Thước thứ 6: an sao Tham Lang, sao Tốt, ứng với kích thước từ 175 đến 210 cm Thước thứ 7: an sao Cự Môn, sao Tốt, ứng với kích thước từ 210 đến 245 cm Thước thứ 8: an sao Lộc Tồn, sao Xấu, ứng với kích thước từ 245 đến 280 cm Thước thứ 9: an sao Văn Khúc, sao Xấu, ứng với kích thước từ 280 đến 315 cm 1.2. Địa mẫu quái: Địa mẫu quái là phép Tiểu du niên, dùng để đo kích thước chiều ngang, dài rộng (phương nằm ngang). Căn nhà này tọa sơn Tý, phép đo Địa mẫu quái được khởi an từ sao Phá Quân (sao Xấu). Lần lượt an 8 vì sao theo thứ tự dùng cho dương trạch có: Thước thứ 1: an sao Phá Quân, sao Xấu, ứng với kích thước từ 0 đến 35 cm Thước thứ 2: an sao Phụ Bật, sao Tốt, ứng với kích thước từ 35 đến 70 cm Thước thứ 3: an sao Tham Lang, sao Tốt, ứng với kích thước từ 70 đến 105 cm Thước thứ 4: an sao Cự Môn, sao Tốt, ứng với kích thước từ 105 đến 140 cm Thước thứ 5: an sao Lộc Tồn, sao Xấu, ứng với kích thước từ 140 đến 175 cm Thước thứ 6: an sao Văn Khúc, sao Xấu, ứng với kích thước từ 175 đến 210 cm Thước thứ 7: an sao Liêm Trinh, sao Xấu, ứng với kích thước từ 210 đến 245 cm Thước thứ 8: an sao Vũ Khúc, sao Tốt, ứng với kích thước từ 245 đến 280 cm Thước thứ 9: an sao Phá Quân, sao Xấu, ứng với kích thước từ 280 đến 315 cm 鲁班 2. Phép đo Thốn Bạch (寸白): Thốn là độ dài của một đốt ngón tay giữa (tương tự Thốn trong Đông y). Thốn của gia chủ dài 2 cm 2.1. Thiên phụ quái: Thiên phụ quái là phép Đại du niên bát biến, dùng để đo kích thước chiều cao và chiều sâu (phương thẳng đứng). Căn nhà này tọa sơn Tý, phép đo Thiên phụ quái được khởi an từ sao Nhị Hắc (sao Xấu). Lần lượt an 8 vì sao theo thứ tự dùng cho dương trạch có: Thước thứ 1: an sao Nhị Hắc, sao Xấu, ứng với kích thước từ 0 đến 2 cm Thước thứ 2: an sao Tam Bích, sao Xấu, ứng với kích thước từ 2 đến 4 cm Thước thứ 3: an sao Tứ Lục, sao Xấu, ứng với kích thước từ 4 đến 6 cm Thước thứ 4: an sao Ngũ Hoàng, sao Xấu, ứng với kích thước từ 6 đến 8 cm Thước thứ 5: an sao Lục Bạch, sao Tốt, ứng với kích thước từ 8 đến 10 cm Thước thứ 6: an sao Thất Xích, sao Xấu, ứng với kích thước từ 10 đến 12 cm Thước thứ 7: an sao Bát Bạch, sao Tốt, ứng với kích thước từ 12 đến 14 cm Thước thứ 8: an sao Cửu Tử, sao Tốt, ứng với kích thước từ 14 đến 16 cm Thước thứ 9: an sao Nhất Bạch, sao Tốt, ứng với kích thước từ 16 đến 18 cm Thước thứ 10: an sao Nhị Hắc, sao Xấu, ứng với kích thước từ 18 đến 20 cm Thước thứ 11: an sao Tam Bích, sao Xấu, ứng với kích thước từ 20 đến 22 cm Thước thứ 12: an sao Tứ Lục, sao Xấu, ứng với kích thước từ 22 đến 24 cm Thước thứ 13: an sao Ngũ Hoàng, sao Xấu, ứng với kích thước từ 24 đến 26 cm Thước thứ 14: an sao Lục Bạch, sao Tốt, ứng với kích thước từ 26 đến 28 cm Thước thứ 15: an sao Thất Xích, sao Xấu, ứng với kích thước từ 28 đến 30 cm Thước thứ 16: an sao Bát Bạch, sao Tốt, ứng với kích thước từ 30 đến 32 cm Thước thứ 17: an sao Cửu Tử, sao Tốt, ứng với kích thước từ 32 đến 34 cm Thước thứ 18: an sao Nhất Bạch, sao Tốt, ứng với kích thước từ 34 đến 36 cm 2.2. Địa mẫu quái: Địa mẫu quái là phép Tiểu du niên, dùng để đo kích thước chiều ngang, dài rộng (phương nằm ngang). Căn nhà này tọa sơn Tý, phép đo Địa mẫu quái được khởi an từ sao Ngũ Hoàng (sao Xấu). Lần lượt an 8 vì sao theo thứ tự dùng cho dương trạch có: Thước thứ 1: an sao Ngũ Hoàng, sao Xấu, ứng với kích thước từ 0 đến 2 cm Thước thứ 2: an sao Lục Bạch, sao Tốt, ứng với kích thước từ 2 đến 4 cm Thước thứ 3: an sao Thất Xích, sao Xấu, ứng với kích thước từ 4 đến 6 cm Thước thứ 4: an sao Bát Bạch, sao Tốt, ứng với kích thước từ 6 đến 8 cm Thước thứ 5: an sao Cửu Tử, sao Tốt, ứng với kích thước từ 8 đến 10 cm Thước thứ 6: an sao Nhất Bạch, sao Tốt, ứng với kích thước từ 10 đến 12 cm Thước thứ 7: an sao Nhị Hắc, sao Xấu, ứng với kích thước từ 12 đến 14 cm Thước thứ 8: an sao Tam Bích, sao Xấu, ứng với kích thước từ 14 đến 16 cm Thước thứ 9: an sao Tứ Lục, sao Xấu, ứng với kích thước từ 16 đến 18 cm Thước thứ 10: an sao Ngũ Hoàng, sao Xấu, ứng với kích thước từ 18 đến 20 cm Thước thứ 11: an sao Lục Bạch, sao Tốt, ứng với kích thước từ 20 đến 22 cm Thước thứ 12: an sao Thất Xích, sao Xấu, ứng với kích thước từ 22 đến 24 cm Thước thứ 13: an sao Bát Bạch, sao Tốt, ứng với kích thước từ 24 đến 26 cm Thước thứ 14: an sao Cửu Tử, sao Tốt, ứng với kích thước từ 26 đến 28 cm Thước thứ 15: an sao Nhất Bạch, sao Tốt, ứng với kích thước từ 28 đến 30 cm Thước thứ 16: an sao Nhị Hắc, sao Xấu, ứng với kích thước từ 30 đến 32 cm Thước thứ 17: an sao Tam Bích, sao Xấu, ứng với kích thước từ 32 đến 34 cm Thước thứ 18: an sao Tứ Lục, sao Xấu, ứng với kích thước từ 34 đến 36 cm 鲁班 3. Tổng hợp từ kết quả của hai phép đo Xích Bạch và Thốn Bạch, ta được: Các kích thước đẹp theo chiều cao (đơn vị cm): 78; 79; 82; 83; 84; 85; 86; 87; 96; 97; 100; 101; 102; 103; 104; 105; 148; 149; 152; 153; 154; 155; 156; 157; 166; 167; 170; 171; 172; 173; 174; 175; 183; 184; 187; 188; 189; 190; 191; 192; 201; 202; 205; 206; 207; 208; 209; 210; 218; 219; 222; 223; 224; 225; 226; 227; 236; 237; 240; 241; 242; 243; 244; 245; Các kích thước đẹp theo chiều rộng (đơn vị cm): 37; 38; 41; 42; 43; 44; 45; 46; 55; 56; 59; 60; 61; 62; 63; 64; 72; 73; 76; 77; 78; 79; 80; 81; 90; 91; 94; 95; 96; 97; 98; 99; 107; 108; 111; 112; 113; 114; 115; 116; 125; 126; 129; 130; 131; 132; 133; 134; 247; 248; 251; 252; 253; 254; 255; 256; 265; 266; 269; 270; 271; 272; 273; 274; Đến đây ta đã có các số đo đẹp ứng với phương vị căn nhà, từ kết quả đo của Áp Bạch Xích. Với các số đo này, quý thân chủ hoàn toàn có thể tin tưởng để định các kích thước cửa đi, cửa sổ, ban thờ, giường, tủ, bàn, ghế,... Tuy nhiên với những người cầu kỳ, muốn có một sự cát tường tuyệt đối, có thể sử dụng thêm các thước Lỗ Ban loại 52,2cm, thước Lỗ Ban loại 42,9cm và thước Đinh Lan để so sánh và có được những kết quả hoàn mỹ nhất. Lưu ý rằng, thước Lỗ Ban 52,2cm được coi là loại thước Lỗ Ban gốc được lưu truyền từ Trung Hoa. Còn thước Lỗ Ban 42,9cm thì lại là loại thước được sử dụng rộng rãi nhất. Thước này cùng với thước Đinh Lan (38,8cm) được in trên loại thước sắt do Đài Loan sản xuất hiện bán nhiều trên thị trường. Tuy nhiên, theo quan điểm của chúng tôi, thước Đinh Lan là loại thước dùng để đo âm trạch (mồ mả người chết) nên việc sử dụng cho các kích thước trong nhà ở là không hợp lý. Vì vậy phần 6 dưới đây chỉ là để quý thân chủ tham khảo thêm mà thôi. 鲁班 4. Đối chiếu các kích thước này với thước Lỗ Ban 52,2cm (thước đo dương trạch) và lọc bỏ đi các kích thước không tốt thì còn lại: Các kích thước đẹp theo chiều cao (đơn vị cm): 78; 79; 82; 83; 84; 85; 86; 100; 101; 102; 103; 104; 105; 152; 153; 154; 155; 156; 157; 183; 184; 187; 188; 189; 190; 205; 206; 207; 208; 209; 210; 236; 237; 240; 241; 242; Các kích thước đẹp theo chiều rộng (đơn vị cm): 55; 56; 59; 76; 77; 78; 79; 80; 81; 107; 108; 111; 112; 126; 129; 130; 131; 132; 133; 134; 256; 265; 266; 鲁班 5. Đối chiếu các kích thước này với thước Lỗ Ban 42,9cm (thước đo dương trạch) và lọc bỏ đi các kích thước không tốt thì còn lại: Các kích thước đẹp theo chiều cao (đơn vị cm): 82; 83; 84; 85; 86; 104; 105; 152; 153; 154; 155; 156; 189; 190; 236; 237; 240; 241; 242; Các kích thước đẹp theo chiều rộng (đơn vị cm): 107; 108; 111; 112; 126; 129; 130; 131; 132; 133; 134; 256; 鲁班 6. Đối chiếu các kích thước này với thước Đinh Lan 38,8cm (thước đo âm trạch) và lọc bỏ đi các kích thước không tốt thì còn lại: Các kích thước đẹp theo chiều cao (đơn vị cm): 82; 153; 154; 155; 156; 236; 237; 242; Các kích thước đẹp theo chiều rộng (đơn vị cm): 107; 108; 126; 133; 134; 256; 鲁班 Ghi chú: Trong các kết quả trên, có hai khái niệm: - Các kích thước đẹp theo chiều cao (hoặc chiều sâu): gọi là H - Các kích thước đẹp theo chiều rộng: gọi là W Đo cửa: - Đo kích thước thông khí trong lòng khung cửa, không đo cánh cửa - Chỉ đo phần ô để đi lại, không đo các phần ô thoáng phía trên cửa - Chiều cao từ đất lên đến dưới ngưỡng cửa (không kể ô thoáng) được tính theo H - Chiều rộng thông khí lòng cửa được tính theo W Đo đồ đạc, vật dụng: - Đo kích thước phủ bì dài, rộng, cao hoặc đường kính - Với bàn, ghế, giường, tủ,... thì chiều cao và chiều dài của vật dụng tính theo H - Chiều rộng, đường kính tính theo W Đo chiều cao nhà: - Đo từ mặt cốt sàn dưới lên mặt cốt sàn trên (bao gồm cả lớp lát sàn) - Tổng chiều cao nhà thì cộng các chiều cao của từng tầng - Tính chiều cao nhà theo H 鲁班 nguồn:http://phongthuy.vietaa.com/Tools/Kythu/Template/dinhxichkythu.htm
    1 like
  43. Ẩn số đá phong thủy. Các tiêu chí về đẹp, xấu, đắt, rẻ, lớn, nhỏ… của những loại hàng hóa thông thường đều trở nên vô nghĩa với mặt hàng này. Có người thấy tự hào khi sở hữu một tác phẩm được định giá bạc tỉ nhưng cũng có người xem tác phẩm ấy chỉ đáng giá vài triệu đồng. Tất cả, đều phụ thuộc vào lòng tin của mỗi cá nhân. Trong thị trường đá phong thủy hiện nay, bên cạnh những sản phẩm truyền thống được tạo ra từ các loại đá như ngọc đa sắc, hồng ngọc, bích ngọc… tìm thấy tại các vùng miền trong nước còn có các sản phẩm như đá thạch anh tím, thạch anh vàng, cẩm thạch được nhập từ Pakistan, Ấn Độ, Trung Quốc… Bùng nổ trong dòng chảy âm ỉ “Xuất hiện từ hàng chục năm qua nhưng thị trường đá phong thủy thật sự phát triển mạnh mẽ khoảng 3 năm trở lại đây. Có thể nói nó đang bùng nổ trong dòng chảy lặng lẽ của thị trường đặc biệt này” - Anh Thiện, chủ hệ thống cửa hàng vật phẩm phong thủy đưa ra nhận xét về thị trường đá phong thủy hiện nay. Anh Vũ Minh Tuân – Giám đốc công ty Nguyễn Duy- cũng tán thành ý kiến trên và cho biết thêm: Chính vì dự đoán được sự gia tăng mạnh mẽ của thị trường đặc biệt này mà cách đây một năm anh đã mạnh dạn tăng vốn điều lệ từ 20 tỉ đồng lên 68 tỉ đồng để đầu tư thêm công nghệ sản xuất, mở rộng hệ thống đại lý bán hàng khắp TP.HCM và các tỉnh miền Đông, miền Tây Nam bộ. Một số đơn vị kinh doanh đá phong thủy khác cũng có nhận định tương tự... Tác phẩm Độc mã trị giá hơn 3 tỉ đồng - Ảnh: Đào Ngọc Thạch Giờ người ta thấy đá có mặt ở mọi nơi, đến nỗi có người nói đi đâu cũng “va” phải đá, từ tư gia đến công sở, từ quán trà đến tiệm ăn, đều có trưng bày đá. Có thể nói, “chơi” đá phong thủy đang trở thành một phong trào. Trên địa bàn TP.HCM, không khó để tìm một địa chỉ bán đá phong thủy: Đường Cộng Hòa, Trần Quốc Thảo, Lê Thị Riêng, Nguyễn Công Trứ… không biết tự lúc nào đã trở thành “vùng đất thánh” để người dân mê đá tìm đến. Một số người đã dùng đá trấn giữ ở cửa hoặc ở phòng khách, thậm chí cả trong phòng ngủ. Đá phong thủy giá nào cũng có Chỉ tay về hòn đá mang dáng dấp một thiếu nữ được đặt bên cạnh bàn làm việc của mình, anh Tuân nói: “Đó là những tác phẩm ở giai đoạn đầu trong quá trình phát triển của thị trường đá phong thủy được khai thác trong nước. Hoàn toàn là tuyệt tác của thiên nhiên. Tìm không ra hòn đá thứ hai có hình dáng như thế đâu. Công ty Nguyễn Duy mang nó về từ rừng, chỉ tách lớp vỏ xù xì bên ngoài và đánh bóng. Người chơi đá có thể chiêm ngưỡng ở nhiều góc cạnh, tùy theo trí tưởng tượng của mỗi người mà hình dáng đá hiện lên hoàn toàn khác nhau. Còn ngày nay, với sự phát triển của ngành công nghiệp điêu khắc, những tác phẩm điêu khắc hoàn mỹ trên đá đã ra đời. Với hai giai đoạn phát triển như thế, đã tạo ra hai trường phái chơi đá phong thủy khác nhau, một là tác phẩm đá thiên nhiên, hai là tác phẩm đá điêu khắc”. Và, dù là tuyệt tác của thiên nhiên hay do bàn tay khối óc của con người tạo ra, thì giá bán của những viên đá này cũng hoàn toàn là một sự xác lập mang tính… “bí ẩn”. Không hề có một thang bậc nào cho người chơi đá có thể so sánh, định giá chính xác những hòn đá này. Cùng một viên hồng ngọc to bằng quả trứng gà, có nơi bán giá vài trăm ngàn đồng, có nơi lại niêm yết giá vài triệu đồng… Những tác phẩm đá phong thủy được định giá bạc tỉ giờ không còn là chuyện hiếm: Tại siêu thị đá của công ty Thiên Vạn Sài Gòn, tác phẩm Độc mã cao khoảng 1,7m được làm từ khối đá đa sắc nặng khoảng 2,5 tấn, trị giá hơn 3 tỉ đồng; tác phẩm Đôi công được chế tác từ một hòn đá xẻ đôi với các vân màu đối xứng nhau có giá hơn 3 tỉ đồng; Tại Tùng Sơn Thạch Hoa Viên cũng đang có không ít những tác phẩm hồ đá nghệ thuật do chính thiên nhiên tạo nên, không có sự can thiệp của bàn tay con người, giá bán khoảng 30.000 USD… “Khách ưng thì mua, chứ không có sự mặc cả như nhiều mặt hàng khác, có chăng là sự cảm mến giữa người bán và người mua rồi giảm giá chút ít gọi là “hữu duyên”. Bởi có người thấy chúng quý nhưng có người lại thấy chúng chỉ là vật vô tri vô giác”. - Anh Nguyễn Nhật Trung - Quản lý khối đá quý của công ty Nguyễn Duy cho biết. Thậm chí, còn nhiều tác phẩm khác tại siêu thị đá của công ty Thiên Vạn Sài Gòn mà chủ nhân của chúng là ông Phan Chánh Tâm cho rằng nó vô giá và quyết… không bán, dù đã có người bảo giá nào cũng mua, ngồi năn nỉ hàng giờ đồng hồ. Trước sự cao giá đến mức… bí hiểm của những hòn đá thoạt trông có vẻ vô tri, chúng tôi đã đi tìm hiểu những giá trị cấu thành mức giá không tưởng của đá phong thủy. Những ai chấp nhận bỏ một số tiền bằng cả gia tài ra để được sở hữu những hòn đá rất có khả năng sẽ vô giá trị đối với một người khác? Rủ nhau đi mua… niềm tin! Người giàu, người nghèo, làm việc ở ngành nghề nào… cũng có mặt trong số khách hàng hiện tại và “tiềm năng” của thị trường đá phong thủy. Có nhiều lý do để người ta mua đá. Người nhiều tiền thì chơi đá cho bằng anh bằng em, như trường hợp anh Mạnh Tường nhà ở quận 7, đang tìm mua khối đá hàng chục tấn được nhập từ Nhật để làm tiểu cảnh sân vườn, giá cả không là vấn đề. “Một sản phẩm mà vừa thể hiện được đẳng cấp lại vừa mang đến may mắn cho gia đình thì tại sao không chứ?” - Anh thẳng thắn. Nhưng cũng có người quyết tâm mua đá là vì… cần phải có. Anh Ngọc Long, chủ một công ty tư nhân ở quận 2, bảo: “Vừa rồi người bạn mê đá và nghiên cứu kỹ về phong thủy của tôi cho biết, chúng ta đang ở Vận 8 - vận mà vàng chỉ là vật điểm trang cho đá, nên phải sắm đá đặt ở tiền sảnh, công ty mới tiếp tục ăn nên làm ra”. Thế là anh Ngọc ráo riết tìm mua một cặp thạch anh tím, giá bạc tỉ cũng được, miễn đẹp như ý anh muốn. Kỳ hưu được làm từ ngọc phỉ thúy đang được nhiều người chuộng mua. Ảnh: Cẩm Nhi Chị Thanh Vy, nhà ở quận 8, người chuyên đầu tư vàng, sau một thời gian lướt sóng cứ bị thua lỗ, đã nghe lời một người bạn mua một con kỳ hưu nhỏ bằng ngọc phỉ thúy với giá hơn 100 triệu đồng về đặt ở phòng khách. Đến nay, theo chị là nó vô cùng linh nghiệm, vàng lên ào ào, đầu tư mẻ nào trúng mẻ đó, bởi kỳ hưu không có hậu môn lại được làm từ ngọc quý nên tài lộc chỉ vào chứ không ra (?!). Người thành đạt cần đá để “tiếp tục phát triển bền vững”, người làm ăn thất bát lại tìm đến với đá như một lý do để giúp họ thoát khỏi “vận đen”. Đá phong thủy, trong một vài trường hợp, đã trở thành một thế lực siêu nhiên để con người… dựa dẫm. Có người còn xem đá như “thần dược” chữa bách bệnh. Cuộc sống gia đình không hòa hợp cũng tìm mua đá. Muốn con cái học hành tiến bộ lại cúng đá. Đá trấn trạch nhà cửa cho người sống và trấn giữ cả mồ mả cho người chết. Anh Tuân cho biết, đã có không ít gia đình sẵn sàng chi hàng tỉ đồng để làm bia mộ cho người chết với hy vọng sức mạnh của đá cộng thêm sự phù hộ của người thân đã mất chắc chắn sẽ giúp họ công thành danh toại, giàu sang phú quý… Khi chúng tôi mang câu hỏi về tiêu chí định nên giá bán của một tác phẩm đá phong thủy thì đều nhận được cái lắc đầu của giới kinh doanh. Với họ, giá của đá là vô cùng, không thể nói có mức giá cao nhất và cũng không có chuẩn mực rõ ràng nào để định giá bán ngoài yếu tố “có một không hai”, sự hình thành do tuyệt tác của thiên nhiên, hoặc tài nghệ của những nghệ nhân tạo nên. Không còn nghi ngờ gì nữa, chính niềm tin là yếu tố quyết định giá bán đá phong thủy. Tác phẩm đôi thạch anh trị giá hơn 2 tỉ đồng, có người hỏi mua nhưng công ty Thiên Vạn Sài Gòn không bán. Trong vai người đi mua đá, chúng tôi đi đến đâu cũng nhận được câu hỏi của người bán đại loại như: “Làm nghề gì? Mua đá với mục đích gì?”... Tùy vào ngành nghề và mục đích của người mua, người bán sẽ tư vấn. Khi chúng tôi bảo mua đá cầu vận may vì đang bị chôn vốn vào bất động sản, cô nhân viên bán hàng liền tư vấn mua hòn đá thạch anh tím to gần bằng đầu người với giá hơn 300 triệu đồng, kèm lời thuyết phục: “Mua đá sẽ gặp may, thị trường địa ốc sẽ sôi động trở lại, lúc đó chị hốt bạc tỉ thì đáng gì mấy trăm triệu này”. Trong số những vị khách đến mua đá phong thủy chúng tôi gặp, có chị đã tìm đến trong trạng thái khá lo âu: “Nghe nói mua cóc ngậm tiền sẽ mang tiền lộc vào nhà, tôi đã mua một ông cóc rồi mà cứ đầu tư chứng khoán lỗ hoài vậy em?”. “Vì chị đầu tư lớn như vậy mà mua ông cóc nhỏ quá, giờ chị mua ông lớn hơn hoặc kỳ hưu đi. Chắc chắc may mắn sẽ đến”. Rồi cô nhân viên bán hàng kể về sự tích kỳ hưu đem lộc vào nhà cho vị khách này nghe. Sau khi nghe xong câu chuyện, vị khách có vẻ mặt hứng khởi hẳn, quyết định mua ngay một con kỳ hưu mà không cần để ý đến giá bán. Trước khi vị khách hàng ra về, người bán còn nói với theo “phải có niềm tin mới hiệu nghiệm nghen chị”. Cẩm Nhi nguồn thanhnienonline.
    1 like
  44. Đá của ma thuật 25/06/2010 14:31 (GMT +7) Thời nay, những người lắm tiền nhiều của sử dụng đá quý như vật trang sức cho bản thân hay décor nội thất nhằm phô trương sự giàu sang của mình. Rất ít người trong số họ hiểu về tinh thần của đá quý. Hầu hết nhiều người không biết rằng, trên cả giá trị vật chất ấy là một giá trị tinh thần rất lớn. Đó là giá trị tâm linh. Linh vật của các nhà tiên tri Các nhà trường sinh học trên thế giới cho rằng thạch anh giúp con người giao tiếp với vũ trụ và với thế giới siêu nhiên, giúp chúng ta nhìn thấy quá khứ và tiên đoán tương lai. Vì có truyền thuyết cho rằng thạch anh có một sức mạnh tiềm ẩn bên trong nên nó còn được gọi là đá của ma thuật. Nhà tiên tri Jane Dickson nổi tiếng thế giới cực kỳ coi trọng việc nhìn vào viên đá thạch anh của mình mỗi khi tiên lượng. Bà là người đã báo trước cho tổng thống Mỹ Roosevelt về thời gian còn lại của ông trên cõi đời, bà cũng là người nói trước về việc John Kennedy sẽ trở thành tổng thống Mỹ 5 năm trước khi việc đó xảy ra và nhiều sự kiện quan trọng khác của thế giới.Gần đây, hàng loạt thí nghiệm do các nhà khoa học và bác sĩ tâm lý nổi tiếng của Mỹ tiến hành cho thấy, những hình ảnh hiện lên trên viên đá thạch anh là có thật chứ không hề là bịa đặt. Những sự việc, hiện tượng thu nhận được trong các cuộc thí nghiệm với con người cụ thể càng củng cố quan điểm cho rằng, thạch anh có một số tính năng thông tin đặc biệt mà khoa học rồi đây sẽ phải khám phá. Trang sức chữa bệnh Thạch anh thuộc loại đá bán quý (semi-gemstone), rất cứng, chỉ cứng sau kim cương. Bạn có thể thử độ thật của chúng khi cần phân biệt với hàng giả bằng cách xem độ mát lạnh của đá khi áp chúng vào má. Đá thạch anh được con người phát hiện từ gần 300.000 năm trước, là loại tinh thể nhiều màu hồng, tím, xanh rất bắt mắt. Nhiều dấu tích cho thấy con người thời kỳ tiền sử đã biết sử dụng thạch anh làm đồ trang sức và biết đến khả năng chữa bệnh của nó. Thạch anh tím có thể chữa bệnh mất ngủ, giúp con người giữ được niềm tin và lòng dũng cảm. Trang sức làm từ thạch anh hồng giúp con người tăng cường thể lực và tinh thần. Ngày nay, nhiều loại đá thạch anh anh được dùng trong các thiết bị mas-sage để day vào các huyệt đạo giúp lưu thông khí huyết và điều tiết năng lượng. Những người Hy Lạp cổ sử dụng các chiếc cốc làm bằng đá thạch anh đỏ và cho rằng nó sẽ giúp lọc chất độc hoặc uống rượu mà không bị say. Vòng đeo tay làm bằng thạch anh tóc là loại thạch anh quý nhất, tuổi cao nhất có tác dụng rất lớn trong việc tăng cường sức khỏe, giải trừ tật bệnh, tốt cho tình duyên, quan hệ xã hội. Khi mua, bạn nên nhờ chuyên gia về phong thủy tư vấn để chọn màu đá thạch anh phù hợp với cung mạng, giúp phát huy tối đa tác dụng của thạch anh. Biểu tượng tốt đẹp trong phong thủyĐặc tính của thạch anh là đá thiên nhiên có dương khí rất mạnh, vì trải qua vài triệu năm hình thành, đá thạch anh thu hút năng lượng dương cực mạnh, có thể đem đến sự may mắn trong cuộc sống và công việc, chống lại sự ảnh hưởng của năng lượng xấu. Khoa học cũng đo được những dao động riêng của thạch anh rất lớn nên thường dùng thạch anh trong công nghiệp vũ trụ, công nghệ đo lường... Chính vì mang một quyền lực siêu nhiên mạnh mẽ nên thạch anh còn được gọi dưới một cái tên khác: Đá Phong Thủy (Fengshui Stone). Đây được coi là một món hàng độc dành cho những đại gia chơi đá cảnh và được dùng như một món bùa hộ mệnh, có nhiều ích lợi đối với gia trạch và bản thân gia chủ. Để phát huy được hết những ích lợi của thạch anh, cần lưu ý một số điểm chính sau đây: 1. Gia đình bình an - tài vận thông thuận: Đá cầu thạch anh - động thạch anh - thạch anh hình trụ khối lớn - đá Hắc Diệu Thạch đặt ở các góc nhà. Tác dụng: Truyền khí từ tường, không những bảo hộ gia trung bình an, tránh tà mà còn giúp lưu thông không khí trong nhà đem lại nhiều may mắn. 2. Cải thiện phong thủy và tích tài khí: Đặt động thủy tinh trong nhà có tác dụng hóa xung giải sát, ngoài ra còn có thể tích phú, tích lộc. 3. Trấn thạch, tránh tà, vừa vượng vừa phát: Đặt động thạch anh hoặc thạch an hình trụ ở góc tài lộc ở trong phòng làm việc, công ty hoặc trong nhà có tác dụng trấn án - tránh tà - chặn sát khí, giúp bạn làm ăn thịnh vượng, phát đạt. 4. Tăng cường phát triển trí tuệ và ổn định trạng thái tinh thần: Đặt thạch anh tím trên bàn học hoặc đầu giường giúp bạn phát huy trí tuệ và cải thiện thị lực. 5. Khử sóng từ phát ra từ tivi, máy tính, lò vi sóng: Bên cạnh tivi, máy tính, lò vi sóng đặt một sản phẩm thuộc gia tộc họ thạch anh màu trắng, có tác dụng giảm bớt bức xạ phát ra. 6. Nhà không được hướng: Đối diện chính cửa ra vào là đường cái hoặc vị trí nhà ở góc đường hình chữ L, cửa nhà có cây to hoặc cột điện nên treo trước cửa ra vào một quả chuông gió bằng đá thuộc họ thạch anh hoặc góc nhà hướng cửa ra vào đặt động thạch anh tím có thể tránh tà. 7. Khử mùi: Cửa nhà vệ sinh treo thạch anh hoặc đặt thạch anh có thể giải uế khí. 8. Hiện tượng bóng đè: Đầu giường oạc dưới chân giường nen để một tảng thạch anh hình trụ hoặc một sản phẩm bất kỳ thuộc họ thạch anh có thể hóa giải hiện tượng bị bóng đè. 9. Nơi buôn bán: Tại quầy bán hàng đặt thạch anh tím hoặc màu phấn hồng giúp tăng cường nhân duyên và duyên bán hàng. 10. Cách cầu tài: Dùng Trận thất tinh hoặc thạch anh vàng cầu tài; Lục Du Linh gây dựng sự nghiệp - tài phúc. 11. Cải thiện tình cảm, thắt chặt nhân duyên: Đầu giường đặt thạch anh phấn hồng có tác dụng dung hòa tình cảm giữa bạn bè, người thân, cải thiện mối quan hệ chăn gối hai vợ chồng. Theo Thu Trang TGĐÔ
    1 like