-
Thông báo
-
Nội quy Lý Học Plaza
Nội quy này là bản mở rộng Nội Quy - Quy định của Diễn đàn. Khi tham gia mua bán, các thành viên phải tuân theo những quy định sau: Tiêu đề bài viết: Bao gồm: Chỉ dẫn địa lý, Loại hình Mua/Bán, Thông tin mua bán.
Chỉ dẫn địa lý: Tỉnh/thành nơi mua bán. Hoặc sử dụng định nghĩa có sẵn:TQ: Toàn quốc
HCM: TP Hồ Chí Minh
HN: Hà Nội
[*]Ví dụ: HCM - Bán Vòng tay Hổ Phách Nội dung bài viết: Mô tả chi tiết sản phẩm mua/bán
Bắt buộc phải có thông tin liên lạc, giá Mua/Bán
Bài mới đăng chỉ được phép up sau 03 ngày.
Thời gian up bài cho phép: 01 ngày 01 lần.
Các hành vi vi phạm nội quy này sẽ bị xóa bài hoặc khóa tài khoản mà không cần báo trước.
-
Leaderboard
Popular Content
Showing most liked content on 14/12/2010 in Bài viết
-
“Kỳ quái” chuyện người chữa bệnh nan y bằng... cái bắt tay. Nhiều tháng nay, hàng trăm người dân Vĩnh Phúc và các tỉnh lân cận rộ lên thông tin bà Phạm Thị Chanh có khả năng chữa được bệnh ung thư và các căn bệnh nan y khác mà y học hiện đại phải bó tay, bằng một cách rất đơn giản. Chữa bệnh kiểu “kỳ quái” Sáng ngày 8/12, chúng tôi tới nhà bà Phạm Thị Chanh ở thôn Viên Du, xã Thanh Vân, huyện Tam Dương, tỉnh Vĩnh Phúc để mục sở thị khả năng chữa bệnh đến khó tin của bà. Chị Thùy cho biết cánh tay chị trước đây to như cột nhà, sau nhiều tháng điều trị tại nhà bà Chanh đã giảm đi đáng kể. (ảnh: H.Ngân) Cách chữa bệnh của bà Chanh rất đơn giản: Sau khi cầm tay người bệnh, bà lấy cho bệnh nhân một ít loại cỏ cây, hoa, lá bất kì cho bệnh nhân về uống, sau đó bệnh sẽ... tự nhiên khỏi. Tiếp xúc với chúng tôi, hàng trăm người dân đang tụ tập chật kín trong khoảng sân rộng nhà bà Chanh đều quả quyết họ đã được bà Chanh chữa khỏi bệnh nan y theo cách đó dù trước đó họ đã bị các bệnh viện trả về chờ lo hậu sự. Điển hình là trường hợp của chị Phùng Thị Thùy (SN 1978, trú Đông Nghĩa, Đồng Tâm, Vĩnh Phúc), mang trên mình một cánh tay khổng lồ như cái cột nhà. Chị Thùy cho biết, đầu năm 2010 tự nhiên cánh tay trái của chị to dần lên đến mức không thể xỏ vừa ống tay áo. Chị Thùy đi khám ở bệnh viện Vĩnh Yên, được các bác sĩ chẩn đoán là ung thư xương, tiêu xương và chuyển lên viện K (Hà Nội) để làm xét nghiệm, điều trị. “Lên đến viện K, các bác sĩ nhìn thấy đều lắc đầu và trả tôi về nhà chờ lo hậu sự. Nhưng còn nước còn tát, gia đình đưa tôi đến nhà cô Chanh, nhờ cô Chanh bắt tay và hát cho nghe những bài ca ngợi đất nước. Đến nay gần 8 tháng trôi qua, tôi thấy bệnh tình thuyên giảm đi rất nhiều. Người khỏe hơn, da không còn bị tím đen như những ngày đầu…”, chị Thùy nói Ông Vinh khẳng định cháu ông nhờ được bà Chanh chữa mà khỏi u ác tính ở mắt. (ảnh: H.Ngân) Ngồi bên cạnh, bế đứa cháu nội kháu khỉnh tên Nguyễn Thiện Quang, ông Nguyễn Như Vinh (phường Đồng Tâm, Vĩnh Phúc) cũng cho biết, khi đứa cháu trai của ông sinh ra được 9 tháng thì trên mắt trái của cháu mang một khối u. Đi khám tới 3 bệnh viện tuyến trung ương, các bác sĩ đều kết luận “cháu bị u ác tính, không thể động dao, kéo”. Sau nửa tháng điều trị tại bệnh viện, bệnh cháu không thuyên giảm, mắt cháu không thể mở được. Sau đó gia đình ông Vinh đã đưa cháu Thiện Quang về và được bà Chanh “chữa” bằng cách cầm tay và cho một ít “biệt dược” cỏ, cây, hoa, lá mang về nhà đun sôi lên uống. Trong vòng 4 ngày, mắt cháu Quang đã từ từ mở ra và 20 ngày sau, đôi mắt cháu đã mở được hoàn toàn, khối u ác tính đã biến mất. Một người nữa cũng hết sức khâm phục tài chữa bệnh của bà Chanh là chị Nguyễn Thị Liên (trú thôn Viên Du). Chỉ đứa con trai mình đang bế trên tay, chị khẳng định khi đang mang thai đứa con này, chị đi siêu âm, các bác sĩ đều khẳng định thai nhi trong bụng không lành lặn, khuyên chị nên bỏ. Nhưng chị Liên đã tìm đến xin lá thuốc của bà Chanh về uống và sinh ra thằng cu kháu khỉnh. Ngoài những trường hợp kể trên, hàng trăm người dân khác đang có mặt tại nhà bà Chanh cũng đều khẳng định họ đã được bà Chanh chữa khỏi bệnh. Vì thế, người nọ đồn người kia, người dân kéo đến nhà bà Chanh mỗi ngày một đông. Điều đáng nói là dù người bệnh rất đông, nhiều không đếm xuể nhưng bà Chanh hoàn toàn không lấy tiền công khám, ngoại trừ số tiền thuốc là 1.500đ/thang. Nhiều người còn khẳng định bệnh nhân nghèo đến nhà bà Chanh chữa bệnh còn được bà cho tiền lộ phí. Và nhiều khi bệnh nhân đến quá đông, bà Chanh không kịp chữa hết, bà rất buồn. Giải thích cho chúng tôi về kiểu khám, chữa bệnh bằng cách bắt tay, nhìn mặt và cho uống nước cỏ, cây, hoa, lá..., bà Chanh nói chung chung: “Bắt tay chỉ để cho vui, cỏ cây hoa lá chỉ như là tượng trưng, nhưng chính cái đó lại làm cho người ta khỏi bệnh”. Tất cả những người này đều khẳng định: Nếu không được bà Chanh cứu giúp, họ đã về với tổ tiên. (ảnh: H.Ngân) “Chưa cần quan tâm đến hình thức mà hãy nhìn vào hiệu quả” Khi thông tin bà Chanh chữa được nhiều bệnh nan y theo kiểu kì lạ rộ lên, chiều ngày 6/12/2010, chính quyền xã Thanh Vân đã mời bà Phạm Thị Chanh lên trụ sở UBND xã làm việc. Tuy nhiên, hàng trăm người dân đã kéo đến UBND xã Thanh Vân tự nhận mình là những con bệnh đã từng mắc bệnh vô phương cứu chữa, bị viện trả về, nhưng lại được bà Chanh cứu sống. Họ cực lực phản đối chuyện các cơ quan chức năng đình chỉ bà Chanh chữa bệnh. Trao đổi với báo chí, Chủ tịch UBND xã Thanh Vân Nguyễn Công Lương cho biết, chính quyền địa phương đang rất lúng túng trước sự việc này. Diễn biến vụ việc ở xã Thanh Vân có khả năng bị đẩy đi xa hơn, dẫn đến hậu quả xấu về an ninh trật tự, trước tình trạng hàng trăm người dân đã và đang kéo về xã Thanh Vân với sự “cuồng tín” rất đáng lo ngại. Để giải thích về “hiện tượng lạ” bà Chanh, chúng tôi đã có cuộc trao đổi với nhà nghiên cứu Nguyễn Phúc Giác Hải - Trưởng bộ môn Thông tin Dự báo thuộc Trung tâm Nghiên cứu tiềm năng con người. Theo ông Hải, kiểu chữa bệnh như bà Chanh là hết sức kì quái và nhiều người cho rằng có sự thần bí. Nhưng từ những năm 70 của thế kỉ trước, nhà văn hóa Tâm linh Nguyễn Đức Cần cũng đã từng chữa khỏi bệnh cho rất nhiều người bằng phương pháp hết sức kì lạ. Ví dụ, bệnh nhân bị đau, ông ấy chỉ cần xé cho mảnh giấy đắp vào vết đau là tự nhiên bệnh nhân sẽ khỏi. Về bản chất thì những mảnh giấy đó chỉ là những mảnh giấy bản, nhìn không có gì khác lạ so với mảnh giấy bình thường. Hay trường hợp một người có khả năng đặc biệt chữa hóc xương bằng cách nung lưỡi dao nóng đỏ lên rồi hà hơi vào lưỡi dao, sau đó thổi phì phì vào người bị hóc xương thì tự nhiên người đó khỏi hóc… Ngoài ra còn có rất nhiều trường hợp khác có kiểu chữa bệnh hết sức kì quái mà chúng ta chưa khám phá hết Nhà nghiên cứu Nguyễn Phúc Giác Hải: “Chưa cần quan tâm đến hình thức mà hãy nhìn vào hiệu quả". Theo ông Hải, những người có khả năng đặc biệt như vậy, họ đã truyền cho người bệnh một nguồn năng lượng nhất định nào đó thông qua một vật thể hoặc trực tiếp đến người bệnh. Nhưng xét về hình thức để đem giải thích thì chúng ta thấy không “ăn khớp” gì với khoa học hiện đại. Nó có cùng bản chất là bằng cách nào đó, người ta truyền cho người bệnh một luồng sóng, một nguồn năng lượng trực tiếp hoặc thông qua một vật thể. Cái vật thể đó, có thể là cốc nước hay là một mảnh giấy… Do đó nếu nhìn về hình thức, chúng ta cũng cần đưa ra quy tắc: Chúng ta chưa cần quan tâm đến hình thức vội mà hãy quan tâm đến kết quả chữa bệnh. Nếu thực tế là hình thức đó chữa khỏi bệnh với một tỉ lệ cao, đáng tin cậy thì chúng ta phải chấp nhận nó. Còn cách giải thích thì sớm muộn con người cũng sẽ tìm ra. “Nếu xét về quy định của ngành y tế thì việc chữa bệnh của bà Chanh như vậy là không vi phạm. Bởi ngành y quy định rằng: Những người không có bằng cấp y học nhưng tự ý dùng những phương pháp trong ngành y để chữa cho người khác mà gây ra hậu quả xấu cho người bệnh thì người đó vi phạm. Nhưng đằng này bà Chanh hoàn toàn không sử dụng gì đến chuyên ngành y để chữa bệnh nhưng bệnh nhân lại vẫn khỏi bệnh…”, ông Hải phân tích. Theo ông Hải, trong xã hội hiện nay cũng có không ít người lợi dụng lòng tin của người dân để làm những việc không tốt bằng cách dùng một số thủ thuật có vẻ thần bí để kiếm lời. Điều đó đã phần nào làm ảnh hưởng đến những người có khả năng đặc biệt thật sự. Ông Hải cho rằng để việc chữa bệnh của bà Chanh được chứng minh khách quan thì bà Chanh nên cử người làm một cuốn sổ thống kê như là bệnh án của bệnh nhân, ghi chi tiết tên, tuổi, địa chỉ, tình trạng người bệnh trước và sau khi đến chữa bệnh tại nhà. Sau đó nhờ các cơ sở y tế có đủ chuyên môn để kiểm chứng lại. Việc này giống như Trung tâm Nghiên cứu tiềm năng con người từng giúp bà Phú ở thị xã Sông Công, TP Thái Nguyên - người cũng được cho là “hiện tượng kì lạ” chữa khỏi bệnh cho nhiều người bằng cách giẫm lên lưng bệnh nhân. Theo dantri.com3 likes
-
Vài lời giới thiệu về Thần Chú Thần chú tiếng phạn gọi là Mantra, bao gồm 2 chữ "Man" nghĩa là năng lực suy nghiệm (Thần) và "tra" (hậu tố từ) nghĩa là "chú = phương tiện" là lời, là tiếng, dùng làm phương tiện để diễn đạt. Như vậy, "Thần chú" là phương tiện để suy nghiệm dẫn khởi một sự nối kết giữa thân tâm (vật chất và tinh thần) bằng âm thanh cô động. Chú hay Thần chú cũng có nhiều tên gọi khác nhau như: Chân ngôn, Chân âm, Mật ngữ (Mật ở đây là sự chứng tỏ mối liên hệ Mật thiết bên trong của sự vật hiện tượng và tinh thần. Đừng nên nhầm lẫn chữ Mật là Bí mật). Trong Phật giáo Thần chú là những lời mầu nhiệm chứa đựng năng lực đặc biệt đưa đến kết quả siêu việt áo nghĩa trở thành phương tiện trợ giúp tâm thức cho thân, khẩu, ý (thân mật, khẩu mật và ý mật). Vì nếu chỉ thờ, lạy và cúng Phật, thì cũng chưa có thể gọi là trọn vẹn thuần thành, cho nên còn phải thêm phần tụng kinh, trì chú và niệm Phật để viên dung Sự và Lý. Thần chú hay được lặp đi lặp lại trong các buổi tu tập hành trì, đặc biệt là Mật Tông thực hành để thanh lọc thân khẩu ý bất tịnh trở thành thanh tịnh và thực chứng được Pháp thân mà hiển bài Báo thân hay Hoá thân trần thế này. Chú cũng có nhiều loại khác nhau, dài hay ngắn tùy theo môn phái. Trong lúc niệm Thần chú phải tập trung lên mặt chữ (các chữ đó hiện thành dụng ảnh) hay lắng nghe từng âm thanh của nó (Các tiếng đó biến thành vọng âm). Trong chương 5 của tác phẩm Subāhupariprcchā có ghi cách đọc tụng chú như sau : Đừng quá gấp rút. Đừng quá chậm rãi. Đọc đừng quá to tiếng. Đừng quá thì thầm. Không phải lúc nói năng. Không để bị loạn động. Thần chú không phải là một công thức bất động và không phải là những sóng âm thanh tác động để kêu gọi sự trợ giúp của chư Phật hay Bồ tát giúp chúng ta thoát khỏi khổ đau hoặc tiêu trừ nghiệp chướng. Thần chú chỉ là một phương tiện trợ giúp tinh thần, tri thức, ý chí qua sự nhất tâm bền vững để kết thành năng lực tối cao. Chính nhờ năng lực này Tâm trong sạch và thành thực mới cứu vớt được chúng ta. Như Đại sư Milarepa nói : "Khi chư vị tự hỏi ác nghiệp có được tiêu trừ hay không, chư vị nên biết rằng : nó chỉ tiêu trừ bằng sự ước mong của thiện tâm". Đọc Thần chú là khẩu mật (Khẩu là lời do miệng phát ra. Mật ở đây là sự chứng tỏ mối liên hệ Mật thiết bên trong của sự vật hiện tượng và tinh thần. Đừng nên nhầm lẫn chữ Mật là Bí mật). Cần nên học hỏi rõ ràng qua sự hướng dẫn của một vị tăng hay một đạo sư. Câu thần chú Hán Việt được nhiều người Phật tử đọc là : Úm ma ni bát di hồng. Một câu chú lâu đời của Phật giáo Tây Tạng, và cũng xem là Chân ngôn Bồ Tát Quán Thế Âm để bảo hộ hành giả vượt thẳng vào Phật quả hoặc vào hàng tứ Thánh. Ngoài câu chú ngắn đã kể trên, còn có bài chú căn bản này qua những tên sau : chú Đại Bi, Đại Bi Tâm Đà La Ni (Maha Karunika citta Dharani),Thiên Thủ Thiên Nhãn Quán Thế Âm Đại Bi Tâm Đà La Ni, Quảng Đại Viên Mãn Vô Ngại Đại Bi Tâm Đà La Ni, Thiên Thủ Thiên Nhãn Quán Tự Tại Bồ Tát Quảng Đại Viên Mãn Vô Ngại Đại Bi Tâm Đà La Ni, Thanh Cảnh Đà La Ni.... để minh họa công đức nội chứng của Đức Quán Tự Tại Bồ Tát (Avalokiteśvara Bodhisatva). Theo kinh Mahakarunikacitta, bài chú này được Bồ tát Quán Thế Âm đọc trước một cuộc tập họp của các Phật, bồ tát và các vua quan, cũng như câu Om Mani Padme Hum. Đại Bi chú được 2 Đại sư Phật giáo dịch ra : Ngài Không Kim Cương (tiếng Phạn là amoghavajra) hay gọi ngắn là Bất Không (Phạn ngữ là amogha), Tước hiệu là Trí Tạng Sanh năm 705 tại nước Sư Tử (nước Tích Lan Sri Lanka bây giờ) và mất năm 774. Một Đại sư của Mật tông và cũng là một trong bốn dịch giả danh tiếng nhất của Thánh điển Phật giáo tại Trung Quốc, song song với Cưu-ma-la-thập. Chân Đế và Huyền Trang. Sư được xem là vị Tổ thứ sáu của Mật giáo và người đệ tử của Ngài được đích truyền là sư Huệ Quả, được xem là Tổ thứ bảy của Mật tông Trung Quốc. Một đệ tử quan trọng khác là Huệ Lâm. Ngài Kim Cương Trí ( tiếng Phạn là Vajrabodhi ) hay Kim Cang Trí, sanh năm 671 và mất năm 741. Một Đại Sư Phật giáo cũng là Thầy của Ngài Không Kim Cương và Thai Tạng. Sư sinh ra trong một gia đình Bà La Môn tại Malabar, Nam Ấn, theo học đạo tại Na Lan Đà từ năm lên 10 tuổi. Sau đó đi qua các vùng khác của Ấn Độ và đã học rất nhiều giáo lý Đại Thừa như : Duy Thức Luận, Trung quán Luận, Du Già Luận. Năm 31 tuổi, Ngài đi đến Tích Lan và thọ nhận pháp Mật Tông với Đại Sư Long Trí ( tức Ngài Pháp Mật hay Phổ Hiền ). Sau 7 năm am tường Mật Giáo, Sư trở về Trung Ấn. Một thời gian sau, Sư đi đến Java với một đồ đệ 14 tuổi, chính là Ngài Bất Không Kim Cương sau này, rồi tiếp tục du hành sang Trung Quốc. Cuối năm thứ 7 Khai Nguyên (719) nhà Đường. Tại đây Sư lưu lại ở các chùa Tư Thánh và Đại Tiến để dịch kinh. Trong đó có các bộ kinh Kim Cương Đỉnh Du Già được lưu truyền phổ biến. Ngài đã truyền lại rất nhiều giáo lý Đại Nhật và Kim Cương. Ngài cũng được tôn là bậc Thầy của hệ Kim Cương và Thai Tạng. Dòng truyền thừa của Sư Kim Cương Trí được xem là dòng Chính Mật và nhánh truyền thừa của Ngài như sau : Đại Nhật Như Lai | Kim Cương Tát Đỏa | Long Thọ | Long Trí | Kim Cương Trí. Sau này Đại Sư Không Hải, tổ của Chân ngôn tông, Nhật Bản cũng nhận pháp từ chính dòng này theo nhánh truyền thừa như sau: Kim Cương Trí | Bất Không Kim Cương | Huệ Quả | Không Hải. Đại Bi chú có nhiều bản dịch khác nhau qua sự tìm hiểu và nghiên cứu của các Bậc Đại sư trên thế giới từ xưa, và nhiều cách chia câu không giống nhau so với bản chữ Phạn thì các cách trên không đúng phép ngắt câu văn phạm, nhưng không quan trọng. Chủ yếu là nội dung không thay đổi Chú Đại Bi có hết thảy 84 câu và 415 chữ, là bài Tổng Trì của ngài Quán Âm Thiên Thủ Thiên Nhãn. Các Tổ xưa thường hay cặp đôi Đại Bi với Bát Nhã, vì Từ Bi và Trí Tụê là đôi bạn không thể rời nhau trong dòng giáo truyền. Tran thanh Trich nguon : http://chua-phuoc-binh.com/2 likes
-
THỔ CÔNG CÓ PHẢI LÀ ÔNG TÁO 03/02/2007 Từ trước đến nay, có thể hai khái niệm giữa một ông thần cai quản nhà cửa của mình ( Thổ Công) và Chư Vị Thần quân coi giữ việc bếp núc của gia đình (Táo quân) là một. Tuy nhiên, đã xuất hiện rất nhiều thắc mắc và cách lý giải khác nhau về lai lịch của hai nhân vật này. Có ý kiến cho rằng Thổ Công là một vị thần cai quản đất đai và nhân vật này nhiều lúc được gọi dưới những cái tên khác như Thổ Thần hay Địa Thần. Không biết Thổ Công là một hay nhiều thần khác nhau, nhưng thường thì trong tưởng tượng người ta vẫn coi đây là một nam thần, hiện diện trên mặt đất. Trong khi đó thì Ông Táo hay còn được gọi là Táo quân, Vua bếp, hay Ông đầu rau là một bộ chư thần gồm ba thần hai nam và một nữ trông coi việc bếp núc gia đình và những vị thần này theo quan niệm chỉ hiện diện trong bếp mà thôi. Ngày xưa người ta đun bếp bằng rơm, rạ, củi trên các bếp có 3 cục đầu rau nặn bằng đất sét. Có lẽ từ chính hình ảnh này, người ta đã thêu dệt nên câu chuyện Ông Táo cảm động. Lễ cúng Ông Táo đúng vào ngày 23 tháng Chạp là ngày theo quan niệm dân gian là ngày tiễn chung Ông Công hay Thổ Công và ông Táo về chầu trời. Trong ngày này đúng phong tục người ta cúng Ông Táo dưới bếp, còn ông Công được cúng ở ban thờ chính trên nhà cùng với gia tiên. Như vậy ông Công và Ông Táo phải là hai người khác nhau. Cũng có ý kiến cho rằng trong ba ông đầu rau thì: Chồng mới là Thổ Công (Ông quan cai quản đất), trông nom việc trong bếp Chồng cũ là Thổ Địa (Người cai quản về đất đai), trông nom việc trong nhà Vợ là Thổ Kỳ (Thần đất), trông nom việc chợ búa Trong rất nhiều sách vở gọi chung tất cả họ là Thổ Công nên đã gây ra nhiều lầm lẫn. Một số tài liệu gán ghép cho Táo quân là bộ ba Thổ Công, Thổ Địa, Thổ Kỳ nói trên và cho rằng Thổ Công coi sóc nhà cửa, Thổ Địa coi việc bếp núc và Thổ Kỳ coi việc chợ búa. Thế có nghĩa là Ông Thổ Công chỉ là một trong ba vị Táo quân. Tuy nhiên, ở nhiều nơi thì người ta vẫn coi Thổ công là Thổ công, Táo quân là Táo quân không lẫn lộn. Dường như vấn đề này trở nên phức tạp hơn bao giờ hết khi những khái niệm và ý kiến càng trở nên rắc rối với các tên gọi Thổ Công, Thổ Địa, Thổ Kỳ xuất hiện trong những bộ phim dân gian về Táo quân của Trung Quốc. Thực ra thì từ lâu trong các tuyển tập truyện cổ tích Việt Nam cũng không nói gì đến việc Thổ Công (Thổ Địa, Thổ thần) liên quan đến Táo quân và cũng không tách bạch 3 táo quân ra với tên gọi cụ thể như phim ảnh Trung Quốc. Nếu coi Thổ công chỉ là 1 trong 3 vị Táo quân thì sẽ rất khó giải thích thế nào khi người ta cúng Thổ công trước khi đào đất để xây dựng (nhà cửa, công sở, mồ mả v.v) ở những chỗ hoàn toàn không có người ở trước đó, mà 3 vị Táo quân thì luôn luôn phải đi cùng với nhau và chỉ liên quan đến việc bếp núc. Ngay như trên bàn thờ tổ tiên (nếu không tách riêng ra) thì Thổ công được thờ ở bên trái mà không thấy ai thờ Táo quân trên nhà cả. Như vậy việc cho Thổ Công chỉ là 1 trong 3 Táo quân, sự tích Táo quân chỉ để tô vẽ hình ảnh của 3 cục đầu rau vốn chỉ tồn tại trong bếp mà thôi là không hề có luận cứ vững chắc. Tết Ông Táo sắp đến, nhân dân khắp nơi chuẩn bị nghe những lời phán bảo của Ngọc Hoàng, và trên môi người Hà Thành vẫn luôn nở nụ cười nhân ngày Ông Công, Ông Táo, khi vấn đề lai lịch vẫn còn là một dấu hỏi. Nguyễn Hạnh Kính mọi người góp ý.1 like
-
PHÒNG NGỦ TRONG HÔN NHÂN VÀ HẠNH PHÚC GIA ĐÌNH THEO PHONG THỦY LẠC VIỆT -o0o- Trung tâm nghiên cứu Lý học Đông phương Hạt gạo làng - Nguyễn Đức Thông www.lyhocdongphuong.org.vn Từ xa xưa, phong thủy đã được ứng dụng phổ biến, sâu rộng trong mọi mặt của đời sống xã hội. Do những điều kiện của lịch sử, phong thủy đã bị mai một, thất truyền và bị thần thánh hóa khiến cho nó trở thành một bộ môn huyền bí, có nhiều điều không thể giải thích nổi. Cũng có những người lợi dụng sự thần bí của phong thủy để mê hoặc lòng người nhằm trục lợi cho bản thân khiến cho có thời gian, phong thủy bị coi là mê tín dị đoan. Trong xã hội hiện nay, khi mà cuộc sống con người đã được nâng cao cả về vật chất lẫn tinh thần, con người có mong muốn trở về với cội nguồn, với tâm linh và mong muốn có cuộc sống ngày càng tốt đẹp hơn, phong thủy đã trở thành một đối tượng gây sự chú ý của nhiều người trong xã hội. Trong bài viết này, người viết xin được giải thích một phương pháp ứng dụng trong phong thủy liên quan đến phòng ngủ trong hôn nhân và hạnh phúc gia đình dựa theo nền tảng kiến thức về Phong thủy Lạc Việt của mình góp phần làm cho phong thủy trở thành một bộ môn khoa học mà không còn bị dán nhãn “mê tín dị đoan” nữa. Hiện nay, trên thị trường sách có rất nhiều đầu sách về phong thủy và có nhiều diễn đàn về phong thủy và các môn học huyền bí khác như: tử vi, tử bình, tướng số, thái ất, kỳ môn độn giáp… Đã có rất nhiều câu hỏi được đặt ra cho vấn đề lấy hướng giường theo hướng nào? Theo hướng đầu giường hay theo hướng chân giường của người nằm ngủ nhưng vẫn chưa có lời giải đáp thỏa đáng cho vấn đề này. Các sách thì có cuốn viết nên theo hướng đầu giường, có cuốn viết nên theo hướng chân giường khiến cho người đọc chẳng biết ứng dụng thế nào cho đúng và các thắc mắc cứ ngày càng dài ra. 1. CÁC KHÁI NIỆM CƠ BẢN TRONG PHONG THỦY Để trả lời cho câu hỏi trên, người viết xin được trình bày một số khái niệm cơ bản về phong thủy để những người chưa biết về phong thủy cũng có thể hiểu và ứng dụng được cho mình. - Hiện nay, có rất nhiều người hay nhầm lẫn với khái niệm hướng, hướng tọa và tọa. Người viết xin được giải thích sơ qua về các khái niệm này. Các bạn hãy tưởng tượng một người đang ngồi trên một cái ghế bành thì: + Hướng: là hướng mà mắt của người ngồi trên ghế bành nhìn thẳng về phía trước. Một trong những yếu tố quan trọng của hướng là có khoảng không trống trải phía trước mặt, trong phong thủy thường được gọi là minh đường. Đây cũng là hướng mà con người hít thở không khí vào trong cơ quan hô hấp của mình. + Hướng tọa: là hướng ngược lại với hướng mắt hay còn gọi là hướng lưng. + Tọa: là vị trí đặt cái ghế bành. Tọa cần phải có chỗ dựa vững chắc để kê lưng, kê đầu cũng như khi người ngồi dựa lưng vào ghế thì mới cảm thấy thư thái. Với những khái niệm cơ bản nêu trên, ta có thể suy diễn là đối với bất cứ một vật nào mà đang dựa lưng vào một vật khác và nhìn ra một khoảng không trống thoáng thì hướng của vật đó chính là hướng mà vật đó nhìn ra khoảng trống thoáng và hướng tọa của nó là hướng ngược lại. 2. HƯỚNG GIƯỜNG LÀ HƯỚNG NÀO ĐÂY TA? Phòng ngủ với giường ngủ là nơi ta trải qua hơn một phần ba đời người cho nó, nó chiếm một vị trí quan trọng trong đời sống con người. Nơi đây cũng là nơi diễn ra những yêu thương, âu yếm và có nhiều quyết định quan trọng của con người thường được đưa ra trong phòng ngủ, trên giường ngủ của con người. Trong phong thủy được truyền lại cho đến ngày nay, khi nói về vị trí sắp đặt giường ngủ, bao giờ cũng được khuyên là giường ngủ cần phải được dựa vào một vật gì đó, thường là tường phòng. Như vậy, với một cái giường được kê đầu giường vào tường phòng và phía chân giường có khoảng không trống thoáng thì khi đọc đến đây, các bạn cũng đã biết đâu là hướng và đâu là tọa hướng. Đến đây, nhiều bạn sẽ đặt vấn đề tại sao trong các sách xuất bản trên thị trường lại lấy hướng đầu giường là hướng giường và coi nó là điều quan trọng khi sắp xếp giường ngủ, tức là cần quay về hướng tốt? Rồi có sách lại coi hướng chân giường là hướng giường ngủ vì khi ta nằm phải lấy hướng mà mũi hít thở không khí để làm hướng giường. Có người lại quan niệm, hướng mà mũi hít thở không khí cũng là hướng chân của người nằm, đầy ô uế nên không thể là hướng giường được và cứ thế, cãi nhau loạn xị ngậu cả lên. Vậy ta nên lấy hướng giường theo phương pháp nào? Xin các bạn theo khái niệm sẽ được người viết giải thích, đó là lấy hướng đầu giường làm hướng giường, còn giường ngủ nên được sắp xếp thế nào thì người viết sẽ tiếp tục giải thích ở bên dưới. 3. “ĐƯỢC CÁI NÀY THÌ MẤT CÁI KIA”, SAO KỲ VẬY TA? Đúng là kỳ thật! Đối với con người hay bất kỳ một thực thể sống nào, phần đầu là phần quan trọng nhất bởi nó là linh hồn của một cơ thể sống, điều khiển mọi suy nghĩ, hành động, tâm tư, tình cảm của con người. Ngoài ra, nửa phần trên của cơ thể còn bao gồm cả phổi và trái tim của con người là bộ phận biểu tả cảm xúc của con người và cũng là bộ máy đẩy khí huyết đi nuôi sống cơ thể. Chính vì tầm quan trọng của một nửa phần trên của cơ thể nên nó cần phải được nằm ở vị trí tọa tốt, có hướng tọa tốt. Điều này giải thích tại sao lại chọn hướng đầu giường quay về hướng tốt trong một số sách đã xuất bản. Lại thắc mắc, thế còn hướng chân giường thì sao? Tại sao một số sách lấy chân giường làm hướng? Đó là do thất truyền hay do tam sao thất bản? Nửa phần dưới của cơ thể con người toàn ô uế thì đâu cần quan tâm đâu? Ấy, nhầm đấy các bạn ạ! Nửa bộ phận phía dưới của nó tuy ô uế, nhưng có bộ phận quan trọng điều khiển khí của con người, đó là thận và các bộ phận liên quan đến tình yêu và duy trì nòi giống thì sao nó lại không quan trọng nhỉ? Quan trọng chứ!. Nó cũng cần phải có hướng và tọa tốt chứ. Đó chính là nếu không sắp xếp giường đáp ứng các điều kiện trên thì đúng là “được cái này thì mất cái kia” đấy. 4. VỊ TRÍ SẮP XẾP GIƯỜNG TỐI ƯU THEO PHONG THỦY LẠC VIỆT Trong Phong thủy Lạc Việt, chúng tôi cho rằng, vị trí sắp xếp giường tối ưu chính là phải hội tụ được các yếu tố như: - Giường ngủ được kê tại vị trí vượng khí của căn phòng. Đó chính là vị trí chéo góc so với cửa phòng. - Giường ngủ cần hội tụ đủ các yếu tố: * Có hướng tọa hay sơn hướng tốt. Đây là ưu tiên hàng đầu do tính quan trọng của nửa phần trên trong cơ thể con người như đã nói ở trên. * Tọa ở vị trí tốt, đó chính là cung tốt đối với cung mệnh của gia chủ. * Có hướng tốt, chính là hướng của đầu giường. Ngoài những yếu tố chính nêu trên, giường ngủ còn cần phải đáp ứng các điều kiện sau: - Không kê đầu giường vào vị trí đặt cửa sổ và không bị cửa phòng vệ sinh chiếu vào. Do nửa phần đầu của con người rất quan trọng nên giường ngủ cũng không nên kê đầu vào phòng vệ sinh cho dù hướng tọa của giường tốt. Giường ngủ nằm ở vị trí mộ khí của căn phòng và kê đầu giường vào phòng vệ sinh Giường ngủ kê đầu vào cửa sổ - Không bị xà, dầm, cột cắt ngang giường. Không nên kê giường dưới xà nhà, đà nhà. Phòng ngủ có xà, dầm cắt ngang giường ngủ Giường ngủ nằm dưới xà nhà Nhưng trong xã hội hiện tại và nhất là tại các khu đô thị, thành phố, việc đáp ứng toàn bộ những điều trên là không thể. Do vậy, cần ưu tiên giường nằm ở vị trí vượng khí và có tọa hướng tốt (chính là hướng đầu giường) là đã tạm được. Kế đến là phải nằm trong cung tốt của gia chủ. Khi ta nằm trên giường, đầu ta quay về hướng nào thì đó chính là hướng tọa để xác định hướng giường. Ví dụ, chân đạp Nam, đầu tọa Bắc thì hướng giường hay hướng đầu giường chính là hướng Bắc tức đầu người nằm quay về hướng Bắc. Hướng đầu người nằm hay hướng đầu giường cần được kê dựa tường. Giường ngủ nằm ở vị trí vượng khí và phòng ngủ có lỗ thoái khí - Giường ngủ tránh bị cửa phòng xung thẳng vào giường. Giường ngủ bị cửa phòng đối xung Hướng kê giường tốt nhất chính là hướng theo phúc đức trạch của gia chủ. Người Đông tứ mệnh thì xếp giường theo hướng Bắc – Nam là phúc đức trạch. Người Tây tứ mệnh thì sắp xếp giường theo hướng Tây Bắc – Đông Nam là phúc đức trạch. Đối với phòng ngủ, phải được thông thoáng, ấm cúng và không bị bế khí theo phong thủy, nghĩa là tại vị trí mộ khí của căn phòng cần có cửa nhỏ hoặc cửa phòng vệ sinh. Nếu trường hợp không thể bố trí được cửa nhỏ hoặc phòng vệ sinh ở đó, tại vị trí mộ cần có lỗ nhỏ thông khí theo Phong thủy Lạc Việt để thoái khí nhằm tránh cho phòng ngủ bị bế khí. 5. PHONG THỦY GIƯỜNG NGỦ VỚI VẤN ĐỀ CHỮA BỆNH VÀ HIẾM MUỘN Hiện nay, vấn đề hiếm muộn là một thực trạng đáng lo ngại trong xã hội. Có nhiều người đã mất rất nhiều tiền, nhiều lần đi thụ tinh nhân tạo mà cũng không được. Ngoài ra, trong hôn nhân gia đình, bệnh bất lực ở đàn ông cũng là một thực trạng đáng quan tâm. Vậy Phong thủy nói chung và Phong thủy Lạc Việt nói riêng giải quyết vấn đề này như thế nào? Phong thủy Lạc Việt cho rằng: việc hiếm muộn được gây bởi rất nhiều nguyên nhân mà một trong những nguyên nhân chính, đó là nhà bị vô khí. Để giải quyết vấn đề này, trước hết phải giải quyết được vượng khí cho ngôi nhà, không bị thoái khí, vô khí và bế khí. Tiếp đó, giường ngủ phải đáp ứng được đầy đủ các điều kiện như ở trên, phải được đặt ở cung Thiên Y của cung mệnh gia chủ. Đối với những người bị bệnh tật cũng cần phải đặt giường ở vị trí vượng khí và nằm trong cung Thiên Y. Đối với bệnh bất lực ở đàn ông, giường ngủ phải được sắp xếp ở nơi vượng khí của căn phòng, đáp ứng được các điều kiện nêu trên và tọa tại cung Sinh khí hoặc có hướng giường là hướng Sinh khí. Phòng ngủ là một thành tố trong tập hợp nhiều yếu tố của căn nhà. Bởi vậy phong thủy đối với phòng ngủ chỉ phát huy tác dụng khi tổng thể phong thủy của căn nhà tốt theo quan niệm của Phong Thủy Lạc Việt. Đến đây, chắc các bạn cũng đã có thể tự sắp xếp được giường ngủ của mình một cách hợp lý theo phong thủy. Người viết xin dừng tại đây. Cám ơn sự quan tâm của các bạn./. TP. Hồ Chí Minh ngày 20/10/2010 Ngày Quý Mão, tháng Bính Tuất, năm Canh Dần1 like
-
Tướng Mạo
Sói.Trắng liked a post in a topic by Lốc Cốc Tử
Phần tiếp theo . . . TƯỚNG MẠO 10 _ BỘ RÂU : * Râu dài như tơ : Là người phong lưu , vinh hiển .nhàn hạ . * Râu tốt , cắt lại mau dài : Về già mới nhàn hạ . * Râu sáng ánh như bạc : Người này sớm thành đạt . * Râu cứng như mác : có quyền cao chức trọng . * Râu tía , lông mày hinh lưỡi kiếm cộng với tiếng nói như chuông , thần cốt thanh kỳ : Người này có biểu hiện của sự thành đạt , chức tước cao về nghành quân chính . *Râu xoắn chôn ốc : Người thông minh , khoáng đạt . * Râu rậm mày thưa hoặc ngược lại mày rậm râu thưa : Không tốt . CHÚ Ý : 10 điều kỵ về bộ râu : _ Râu mọc dài không đúng chỗ ( Cổ , má . .). _ Không có râu ở nhân trung . _ Lông mũi thò ra tiếp với ria ( Vận khó hanh thông ) _ Râu phủ xuống miệng : bất đắc chí , khó làm ăn . _ Râu nhiều ria ít : Bôn ba , lao khổ . _ Râu rậm phủ cả xuống kín yết hầu : Người thô tục , đói khổ . _ Râu rẽ ra như đuôi chim : Người này hay gặp tai nạn . _ Râu mọc ngược cộng vối chân mày xoắn : Người hung ác . _ Râu vàng khè , khô khan : lắm bệnh , nhiều tật . _ Râu đỏ như bị cháy : Dễ bị cô độc . 11 _ PHÁP LỆNH Pháp lệnh hay còn có tên gọi khác đôn giản là Râu Thịt . Đó là một đường hằn bắt đầu từ hai cánh mũi kéo vòng cung xuống hai bên khóe miệng , có thể còn xuống nữa hai bên cằm . Vì Lốc Cốc Tử tôi “rất khiêm tốn “ về sử dụng máy vi tính, cho nên đành vẽ và viết ra giấy. Mong quý độc giả bỏ quá cho. PHẦN BA TƯỚNG PHỤ NỮ A- TƯỚNG QUÝ NHÂN . Đầu ngăy ngắn, trán tròn và rộng . Tóc đen va mượt . Mắt trong sáng lông mày thanh tú kéo dài đến cuối đuôi mắt . Quyền cốt bằng phẳng không nhô cao . Tai đầy đủ thành quách. Nhân trung rõ rệt . Răng trắng , môi hồng . Ngón tay nhỏ dài thuôn . Lúc nói , nhìn, đi, đứng , ngồi . . .mỗi cử chỉ đều dứt khoát , rõ ràng không bao giờ tất tưởi hoặc lả lơi . Thái độ cẩn trọng là tốt nhất , đẹp hay xấu là phụ . Có được những điểm trên là là điều lý tưởng đối với đàn bà . A_ TƯỚNG PHÚC HẬU . Người phụ nữ có tướng phúc hậu là người có đôi mắt sáng và dài thần thanh tú, không lộ thần .Hai tai như ép vào đầu đầy đận . Hai cánh mũi phân minh . Nhân trung dài hơi sâu . Địa các nở . Gò má rộng . Góc miệng triều thượng ( hơi nhếch lên ). Đôi bàn tay hồng nhuận . Cổ tròn . lưng đầy .Thân thể tương đối mập mạp ( Không nên nhầm lẫn với béo phì ) Đó là người phụ nữ phúc hậu và giầu có . Nhưng đang mập mạp mà tự nhiên gầy đi ( Không do bệnh tật ) thì phải đề phòng vì đó là trệu chứng sẽ mất của trong những ngày tới . C _ TƯỚNG TRINH TIẾT : Người phụ nữ có tướng trinh tiết là người có cặp mắt hai lòng đen và lòng trắng phân minh. Cái mũi đày đặn mà ngay ngắn . Tai đầy đặn . Khi cười không lơi lả . Dáng đi thong thả , bước nhẹ , thân thể ngay ngắn . tính tình nhu thuận . tiếng nói nhẹ và dễ nghe . D_ TƯỚNG KHÔNG BIẾT CAI QUẢN GIA ĐÌNH . _ Nói rụt rè như có gì mắc trong cổ họng . _ Đầu hai chân mày giao nhau. _ Sống mũi bẹt . _ Sơn căn gẫy , nói năng hàm hồ . _ Ham chơi , ham đánh bạc , hay tụ tập để mục đích “ Buôn Dưa Lê “. _ Cặp mắt lúc nào cũng như khiếp sợ . E _ TƯỚNG KHẮC PHU . - Tóc cứng cuốn rối , tóc khô hay hay vàng ệch . Lúc thiếu thời mà tóc đã rụng . - Trán dài hoặc vuông mà hẹp, trán lệch hay trán có xoáy. Trán có 3 vệt ngang chạy dài hoặc có vết dọc chạy giữa thiên trung .Trán bóng, cặp lông mày lớn . - Cặp lông mày lớn , mi thưa lông mi dựng ngược . phần cốt ở chân mày gồ cao . - Mắt đỏ , mắt vàng ,mắt cực lớn , mắt rất tròn , mắt ốc nhồi . Mắt bốn phía có lông mi trắng. - Mắt hình tam giác , da thịt quanh mắt khô . - Mũi bẹp dí , sống mũi gẫy khúc . Sơn căn có nốt ruồi . - Môi cong răng lộ , miệng rúm . - Bàn tay cực lớn , mặt vênh , xương thô . - Tiếng nói như đàn ông . - Quyền ngang , quyền cốt cao . CÒN TIẾP . . . NGUYỄN THỨC – ĐẶNG THẾ QUANG1 like -
Tết Trùng Dương
Thiên Sứ liked a post in a topic by Lãn Miên
Tết trùng dương LÃN MIÊN Tiết trùng dương ngày 9 tháng 9 âm lịch ở Trung Quốc đến thời Đường đã trở thành tập tục phổ biến ở vùng Trung Nguyên, mà nguồn gốc tập tục được coi là từ chuyện thần thoại, kể rằng: Thời Đông Hán ở huyện Nhữ Nam có anh nông dân tên là Hoàn Cảnh, gia đình gồm bố, mẹ, vợ và con cái đông đúc, cuộc sống tuy không giàu có nhưng cũng đủ ăn. Nào ngờ hai bờ sông Nhữ xảy ra ôn dịch, dân làng nhiều nhà bị bệnh chết, chôn không kịp, bố mẹ của Hoàn Cảnh cũng bị mắc bệnh chết. Từ nhỏ Hoàn Cảnh đã được nghe kể chuyện dưới sông Nhữ có một con quỉ, mỗi năm đều lên bờ một lần đi gây hại, đến đâu gieo bệnh ôn dịch tới đó.( Ở ta cũng có câu dọa trẻ con chớ vọc bẩn mà “quan ôn đến bắt”). Hoàn Cảnh quyết tâm đi tìm thầy học cách trừ quỉ, cứu nguy cho dân làng. Nghe nói ở núi Nam có một Đạo tiên tên là Phí Trường Thành tinh thông thuật pháp, anh ta bèn khăn gói ra đi tìm học. Phí Trường Thành trao cho Hoàn Cảnh một thanh long kiếm (tức gươm rồng đúc bằng đồng thau) gọi là kiếm trừ yêu quái, dạy anh ta ngày đêm luyện tập.Thấm thoắt đã được một năm, một hôm đang luyện tập thì Phí Trường Thành đến nói với anh ta: “ Năm nay ngày 9 tháng 9 ôn quỉ sông Nhữ sẽ xuất hiện, con phải về ngay trừ hại, ta cho con một bọc lá châu du 茱 萸 , một bình rượu hoa cúc để chống nhiễm bệnh, con hãy về làng đưa dân làng lánh hết lên núi cao tị nạn”. Đạo tiên nói xong đưa tay vừa chỉ, một con chim nhạn xòe cánh bay đến hạ xuống trước mặt, Hoàn Cảnh cưỡi chim bay về Nhữ Nam. Đến ngày 9 tháng 9 anh đưa vợ con và dân làng lánh hết lên ngọn núi sau làng, đưa cho mỗi người dắt vào mình một nhúm lá châu du 茱 萸 và uống một ngụm rượu hoa cúc, nói là để trừ tà và chống nhiễm bệnh, còn mình anh ta về nấp ở nhà cầm gươm chờ quỉ đến. Một hồi sau nghe sóng sông Nhữ réo, ôn quỉ lên bờ đi vào làng thấy cảnh vắng tanh, ngẩng mặt thấy dân làng đều đang trên sườn núi. Nó ào đến chân núi, ngửi phải hơi rượu và mùi lá sặc sụa, không dám trèo lên nữa, quay về làng. Thấy bóng quỉ, Hoàn Cảnh cầm gươm lao ra, đánh nhau một chặp, quỉ địch không lại bỏ chạy, Hoàn Cảnh rượt theo đâm trúng phổi ôn quỉ, giết chết nó. Từ đó về sau dân hai bờ sông Nhữ được sống yên bình. Mọi người gọi ngày 9 tháng 9 là “ngày lên núi cao tránh họa” về sau trở thành tập tục nhắc nhớ chuyện xưa. (Giải thích nguồn gốc tập tục bằng chuyện do người đời sau đặt ra kể lại, tuy chưa thỏa đáng, nhưng trong nội dung chuyện cũng cho thấy bóng dáng nguồn gốc Bách Việt của tập tục: miền Nam, đồ đồng, Đạo giáo, chữa bệnh bằng cây thuốc, thời cổ đại có lần phải lên núi cao tránh lũ lụt như chuyện cổ tích “ Sơn tinh thủy tinh”. Trong văn chương truyền miệng như “ Ấu học quỳnh lâm” thì nói: Phí Trường Phòng là người thời Tây Chu giỏi toán thuật đo đạc ruộng đất: Thời Nghiêu trăm họ dân quê; Trong lòng tự đắc hát ca làm đồng. Tây Chu phác thực, nghĩa nhân; Ruộng đồng nhường nhịn ân cần làm chung. Thu gọn đất Phí Trường Phòng ; Biết cách trắc đạc lấy gần từ xa.Thời Tần kỹ thuật làm nhà. Biết cách lăn đá đưa ra xây cầu - “ 擊 壤 而 嬉,上 世 之 黎 民 自 得. 讓 畔 而 耕,西 周 之 百 姓 相 推.長 房有 縮 地 之 方.秦 始 皇 有 鞭 石 之 法 ”). Một “cổ tích” khác lại giải thích: Thời nhà Hán trong hoàng cung mỗi năm ngày 9 tháng 9 đều bày lá châu du 茱 萸,ăn bánh ngọt, uống rượu hoa cúc để trường thọ. Sau vụ ái cơ của Hán Cao Tổ Lưu Bang là Thích phu nhân bị giết hại, cung nữ là Giá Môi 贾 某 bị trục xuất khỏi cung về quê , đem tục này về truyền lại cho dân chúng rồi dần trở thành phong tục dân gian.( Giải thích kiểu này thật vô lý. Đến như nhạc và múa của cung đình cũng là từ dân gian mà ra, được nâng cấp lên mà thành nhạc cung đình và múa cung đình, ẩm thực cung đình cũng vậy, món ăn dân gian được các đầu bếp sành sỏi nghệ thuật nâng cấp lên mà thành đặc sản cung đình như trà cung đình, rượu Minh Mệnh. Đến như bà Từ Hi Thái Hậu của nhà Thanh ở trong cung còn thèm món đầu dê hầm nguyên cả đầu của quê hương bà ta, vốn xuất thân thôn dã vùng quê nghèo, đầu dê để nguyên cả đầu rửa chải sạch lưỡi họng, hầm nguyên cả thủ cho chín rục, dọn nguyên đầu lên vừa ăn vừa gỡ thịt. Do sở thích này của bà ta mà cậu thanh niên khỏe mạnh đẹp trai em chủ quán thịt dê, vốn là đồng hương bà ta lên kinh đô mở quán, cứ bị gọi vào vườn của hoàng cung dâng đầu dê hầm cho bà ta hoài vào buổi tối, bị bà ta ép làm tình cho đến khi gầy xơ xác rồi bị đuổi về quê, giữa đường bị lính do bà ta lệnh đi theo siết cổ chết khi vừa ra khỏi kinh thành. Tuy vậy “cổ tích” này cũng để lộ một sự thật là quan lại người Hán khi được cử đi làm thứ sử ở đất Bách Việt biết học theo cái hay của người Bách Việt rồi truyền lại cho dân Hán chưa biết văn hóa đó để rồi cùng theo. Chuyện cổ tích Việt “Lang Liêu và bánh chưng bánh dầy” mới là phản ánh đúng sự thực là tri thức của dân gian truyền vào cung đình, rồi được “luật hóa” để phổ biến thành truyền thống cho dân cả nước, vậy mà chuyện ấy lại có cách nay hàng bốn ngàn năm! truyền miệng hết đời này sang đời khác). Một thuyết khác về nguồn gốc tục trùng dương nói là: Trong văn hóa truyền thống Trung Hoa con số 9 là con số Dương cũng là con số Cực, là con số thần bí được sùng bái trong tín ngưỡng, chỉ trời cao gọi “cửu trùng” chỉ đất cực gọi “cửu tuyền”. Kinh Dịch coi số 9 là số dương, số 6 là số âm. Ngày 9 tháng 9 cả ngày và tháng đều là số dương, hai dương trùng nhau , bởi vậy gọi là trùng dương, cũng gọi là trùng cửu, nó chiếm vị trí quan trọng trong thời gian của năm. Ngày trùng dương còn gọi là ngày Đạp Thu, giống như ngày 3 tháng 3 âm lịch gọi là ngày Đạp Xuân. Từ thời Ngụy, Tấn ngày này trở thành ngày mà văn nhân mặc khách ngâm vịnh thơ. Tiết trùng dương 9 tháng 9 có tập tục như một lễ tiết dân gian là từ thời Chiến Quốc. (Có thể hiểu là đến thời Chiến Quốc người Hán mới biết đến phong tục này từ người Bách Việt, còn ở người Bách Việt thì tục này đã có hàng ngàn năm trước rồi - NV). Đến thời Tây Hán phong tục đi lên chỗ cao ngắm cảnh đã có ở kinh đô Trường An. Đến thời Đường tiết trùng dương chính thức được coi là một lễ tiết dân gian và giữ mãi tục này cho đến ngày nay. Tập tục là ngày đó mọi người lên núi cao ngắm cảnh để hưởng không khí trong lành thư dãn. Ở đồng bằng không có núi cao thì người ta làm bánh bằng bột do ngâm kỹ gạo rồi xay thành bột nước, ngào đường miếng, chưng lên gọi là bánh “cao 糕” để tượng trưng là đã lên “cao 高” ( Bánh “cao” thực ra là từ phiên âm của bánh “gạo” tiếng Việt, hay “khao” tiếng Thái mà thôi - NV), ý là lên cao thì tránh được họa, cầu mong được tốt lành. Ngoài ra tiết trùng dương còn thưởng ngoạn hoa cúc nở vì đang mùa rộ vào tiết thu vàng nắng nhẹ trời trong, uống rượu hoa cúc là loại rượu nấu bằng nếp vị ngòn ngọt. Tương truyền rượu nếp nấu bằng gạo nếp ủ men lâu trong vò kín, là loại rượu xuất xứ từ các dân tộc thiểu số vùng Tây Bắc TQ (Không hiểu thời cổ đại vùng Tây Bắc TQ có nhập khẩu nếp hay chưa ? hay là nó là vùng Tây Nam thì đúng hơn. Nếp thì chỉ ở người Việt mới có nếp mà thôi - NV), còn hoa cúc chỉ là một trong các nguyên liệu thêm vào cho rượu đó mà thôi. Có hoa ,có rượu tất có phú thơ, thịnh nhất vào thời Đường; và đề từ, thịnh nhất vào thời Tống. (Đó là do các văn nhân mặc khách đã nâng cao tính văn hóa thành một tập tục rất tao nhã cho một lễ hội thời tiết của dân gian vốn rất mộc mạc của người Bách Việt cổ - NV). Như thời Chiến Quốc nhà thơ Khuất Nguyên từng viết trong “Viễn du” câu “tập trùng dương nhân đế cung hề 集 重 阳 人 帝 宫 兮”. Thời Đường tiết trùng dương rất được coi trọng. Người ta có phong tục đi lên núi cao, cài lá châu du 茱 萸. Nhà thơ Vương Duy có câu thơ: “Độc tại dị hương vi dị khách, mỗi phùng giai tiết bội tư thân. Diệu tri huynh đệ đăng cao sở, thiên tháp tống du thiểu nhất nhân 独 在 异 乡为 异 客,每 逢 佳 节 倍 思 亲。遥 知 兄 弟 登 高 处,遍 插 荣 萸 少 一 人 = Mình ta khách lạ xứ người, Mỗi lần tiết đến ngậm ngùi nhớ ghê . Anh em trèo núi ngắm quê, Cài đầu lá ngải thiếu đi một người”.(Chắc nhà thơ là người miền Nam đang ở xứ Bắc làm quan – NV). Nhà thơ Thiệu Đại Chấn có bài thơ: “Cửu nguyệt cửu nhật vọng diệu không; Thu thủy thu thiên sinh tịch phong. Hàn nhạn nhất hướng nam phi viễn; Du nhân kỷ độ cúc hoa tùng 九 月 九 日 望 遥 空,秋 水 秋 天 生 夕 风。 寒 雁 一 向 南 飞 远,游 人 几 度 菊 花 丛 = Trùng cửu lên ngắm trời xa. Mùa thu nước mát đẩy đà gió đêm. Nhạn kia bay mải về nam. Người chơi mấy bận bên lùm cúc hoa”. Riêng ở vùng Nhữ Nam thì còn cả tục cài lá châu du 茱 萸, nhưng ngày nay sau hàng bao nhiêu năm, người ta chẳng còn hiểu biết và hình dung ra lá châu du 茱 萸 là cái thứ lá gì nữa. (Có thể “châu du” hay “châu dâu” , Hán ngữ hiện đại phát âm là “tru dấu”, chỉ là từ phiên âm lá cây “thầu dầu” ?, lá có màu tím đỏ xòe ra như những cái lông cánh gà, cây thầu dầu tía cũng là một cây thuốc, người Việt đi bộ đường xa thường hay giắt vành khăn nhúm lá thầu dầu tía để trừ tà, hoặc có khi là nhúm lá ngải cứu để phòng bịnh - NV).Trong quan niệm phong tục dân gian vì chữ “cửu cửu 九 九” là 9 9 đồng âm với “cửu cửu 久 久” là lâu dài, ngụ ý cầu mong mạnh khỏe trường thọ.(Trong tiếng Việt thì “chín”= “lâu”, như câu “thương nhau chín đợi mười chờ”= “thương nhau chờ đợi lâu”, “lâu ”= “lão” theo qui luật tạo từ cùng nôi khái niệm là bất biến phụ âm đầu mà biến âm vận cuối; Một qui luật khác là bất biến âm vận cuối mà biến phụ âm đầu; “chín lâu” là hai từ đồng nghĩa ghép nhau có ý là càng lâu, theo qui luật lướt để tạo từ đơn âm thì đã lướt thành “cửu”, tiếng Quảng Đông đọc là “cẩu”- NV). Tiết trùng dương đã từ tiết thời gian trong năm diễn biến thành tập tục dân gian, tuy mỗi địa phương có thêm nghi thức tục lệ khác nhau, chung qui vẫn là cầu bình yên hài hòa, nội dung ấy từ hai ngàn năm nay vẫn không thay đổi. Các tập tục ngày trùng dương là: 1. Lên cao. Người ta rủ nhau lên núi cao hay tháp cao, chỗ cao, tùy điều kiện sẵn có từng nơi để thưởng ngoạn phong cảnh , nhớ lại thời cổ đại đã từng phải “lên cao lánh nạn”. Ăn bánh “cao 糕” cũng để nhắc nhớ thời phải lánh lên cao, do lấy chữ đồng âm là “cao”. Bánh cao làm bằng bột gạo xay nước ngào đường đỏ hấp chín đổ thành 9 tầng như bảo tháp, tượng trưng cho đỉnh cao và số 9, bên trên còn nặn hình hai con dê nhỏ tượng trưng trùng dương, lại cắm trên đó một ngọn đèn nến tượng trưng đăng cao là trèo lên cao, và cắm một ngọn cờ giấy nhỏ màu đỏ tượng trưng cho cài lá châu du 茱 萸. Đó là cách làm thời cận đại ở vùng Phúc Kiến. 2. Ngắm hoa cúc và uống rượu hoa cúc. Tương truyền thời Tấn có ẩn sĩ Đào Uyên Minh 陶 渊 明 rượu vào là thơ ra, lại rất yêu hoa cúc, văn nhân mặc khách bắt chước ông ta lấy ngày trùng dương làm ngày ngâm vịnh. Đào Uyên Minh sống vào buổi giao thời Tấn – Tống, chính sự hủ bại, nên ông ta từ quan về quê Giang Tây ở ẩn trồng cúc, làm thơ, nhưng có tật là rượu vào hơi xỉn thì thơ mới ra. Lần đó nhằm ngày trùng dương, ông dạo ngắm hoa mà vì nhà nghèo không có rượu nên không tài nào xỉn được, ông vặt tạm hoa cúc nhai làm mồi mà vẫn không xỉn vì không có rượu vào. Đang lúc buồn thì bỗng có người đến gặp đem cho một bình rượu, đó là sai nhân do thứ sử Giang Châu là Vương Hoằng cử đến đem rượu nói là tặng Đào Uyên Minh. Đào Uyên Minh mừng rỡ mở bình uống cho đến say xỉn. Về sau người ta cho thêm hoa cúc, là loại thảo mộc vẫn làm đồ uống trị liệu, vào trong rượu nếp trùng dương. 3.Cài lá châu du 茱 萸 . Phong tục này rất phổ biến thời Đường, hoặc giắt vào người hoặc bỏ vào túi vải đeo theo người để trừ tà, nhất là phụ nữ và trẻ em. Trái cây châu du là một vị thuốc, chất lượng tốt nhất là vùng đất Ngô tức vùng Giang, Triết ngày nay nên còn gọi là Ngô châu du, lại cũng còn gọi là cây dầu Việt , là loại cây nhỏ, cao hơn một trượng, lá như cái lông vũ, mùa hè nở hoa trắng, quả đặc có cơm béo ngậy màu vàng, quả sau thu thì chín màu tím đỏ, sách “ Bản thảo cương mục” nói cơm quả vị đắng cay mà thơm, tính ôn nhiệt, có thể trị hàn khu độc, người xưa quan niệm giắt lá nó vào người để trừ tà. Phong tục này học giả Chu Sở đầu thời Tấn viết trong “Phong thổ ký” là một phong tục của người Giang Nam. Giải thích chính xác nhất có lẽ là: Trùng cửu là lúc nông nhàn sau thu hoạch vụ thu, lại là lúc các loại cây cỏ dại, mà đa phần đều là các dược thảo quí, sau một mùa hè chói chang quả đã chín, củ đã đầy, đã đến vụ thu hái, chỉ còn hoa cúc thì lại trái khoáy “ trăm hoa đua nở mùa xuân, cớ sao cúa lại muộn mằn về thu” thì nở rộ vàng rực cả mùa thu, làm cho phong cảnh càng thêm đẹp. Người dân tranh thủ lên đồi, lên núi hái lượm cây thuốc về phơi khô dự trữ phòng khi cần chữa bệnh. Có lẽ tập quán nông nghiệp này có từ thời Thần Nông. Từ tập quán làm ăn đó mới nảy sinh ra chọn một ngày nhất định , có ý nghĩa trong mùa đó làm thành ngày lễ, rồi hóa ra tập tục. Cũng như mùa xuân thì có tục trồng cây. Các nhà văn, nhà thơ đã lợi dụng tập quán đó nâng giá trị văn hóa của nó lên với các nội dung tao nhã làm đẹp thêm nội dung của lễ tiết. Năm 1989 chính phủ TQ chính thức lấy ngày 9 tháng 9 âm lịch làm ngày Tết Người Già của toàn xã hội Trung Quốc, thêm nội dung tinh thần quan tâm người già, kính lão, kính thầy, nâng cao thêm tính nhân văn cho một lễ tiết dân gian truyền thống. ( Điểm lại các ngày lễ của ta. Sao không lấy ngày giỗ kỷ niệm Hai Bà Trưng làm ngày lễ hội văn hóa Phụ Nữ VN, tư tưởng bình đẳng vốn có của dân tộc Việt từ thời cổ đại, nhìn mặt trống đồng là thấy rõ ngay, chẳng có ai là “thiên tử” cả, mọi người mọi vật đều bình đẳng hưởng một mặt trời chung trong sáng, hai vợ chồng cùng cầm chày dã gạo đúng là “thuận vợ thuận chồng biển đông tát cạn”, mà vợ lại trước chồng trong kết cấu từ vựng “vợ chồng” đúng đạo thờ mẫu của người Việt, có lẽ nhờ vậy mới có hiện tượng Hai Bà Trưng trong lịch sử. Sao không lấy ngày họp hội nghị Diên Hồng làm lễ hội văn hóa Ngày Hội Đoàn Kết Toàn Dân Tộc – NV).1 like -
Sấm ký trạng Trình : diễn giải về việc bộ đội cụ Hồ tiếp quản thủ đô Trong Sấm ký Trạng Trình in năm 1948 (*nguồn) có bài kệ 4 câu: Cửu cửu càn khôn dĩ định Thanh minh thời tiết hoa tàn. Trực đáo dương đầu mã vĩ Hồ binh bát vạn nhập Tràng An. Có cách lý giải phổ biến là: Trời đất định rằng chín lần chín 81 năm, vào tiết thanh minh sức dịch đã tàn. Đến đầu năm dê và đuôi năm ngựa (1954) tám vạn binh Hồ tiến vào kinh đô. 1- Nếu "cửu cửu" ở đây là đúng thì có nghĩa là 9x9= 81 năm. Tức là sau 81 năm đô hộ của Pháp hoặc nếu câu này đặt trong văn cảnh của cả 4 câu thơ trên thì có dị bản khác là "cửu niên" tức là 9 năm kháng chiến (45-54). 2 -Thanh minh thời tiết hoa tàn là tiết trời trong sáng hoa tàn. 10/10/1954 là đang tiết thu. 3- Vào khi tiết trời trong xanh mát mẻ, hoa cỏ thay đổi (mùa thu) cuối năm Ngọ, đầu năm Mùi (1954 Giáp Ngọ - 1955 Ất Mùi). 4 - Tám vạn (80.000 khoảng 10 sư đoàn) quân Hồ sẽ vào Tràng An. Những ý tứ đó ám chỉ cuộc kháng chiến chống Pháp chín năm của đất nước do Hồ chủ Tịch lãnh đạo (quân Hồ ở đây còn có nghĩa là bộ đội cụ Hồ). Còn có cách hiểu quân Hồ theo nghĩa rợ hồ phương Bắc thì có lẽ không hợp lý vì nếu trạng Trình là người Hán thì mới có RỢ HỒ. Còn trạng Trình là người nước Việt thì không có lý gì lại ám chỉ Hồ quân là rợ Hồ. Bài sấm ký (nếu là) đã được in từ năm 1948, nghĩa là trước ngày tiếp quản thủ đô (10/10/1954) đến 6 năm, thì cách lý giải cho rằng bài sấm được dân gian tạo nên để thần thánh hóa cụ Hồ cũng là không hợp lý. Tuy nhiên, không có con số cụ thể nào nêu ra rằng quân tiếp quản thủ đô lên đến 8 vạn. Tiên tri về việc Hồ Chí Minh ra đời Có 3 câu sấm ký không thấy sách vở nào ghi lại mà chỉ do các cụ bô lão của huyện Nam Đàn kể lại : truyền rằng, Trạng Trình có đí qua Nghệ An, lúc ghé thăm Nam Đàn. Lúc bấy giờ trong huyện có núi Đụn Sơn là 1 quả núi duy nhất và có khe nước tên là Bò Đái nước lúc nào cũng chảy ra. Cụ Trạng ngoạn cảnh xong đã bảo: "Đụn sơn phân giới Bò Đái thất thanh Nam Đàn sinh thánh" Nghĩa là: Khi nào núi Đụn Sơn phân ra làm hai và khe bò đái ngừng kêu thì ở Nam Đàn này có thánh ra đời. Đến sau này họ cứ nghĩ đấy là Phan Bội Châu nhưng thật ra không phải mà là Hồ Chí Minh. Còn có tương truyền rằng, "vào đêm hôm cụ Hồ ra đời, sấm sét to lắm , núi Đụn Sơn bấy giờ sau 300 năm đã bị một vết nứt dài chia ra làm hai, và đêm hôm đó thì khe Bò Đái ngừng chảy và cụ Hồ ra đời." (*nguồn: KARAJAN@Vietlyso) Như vậy bài tiên tri này của cụ Trạng là ứng với Hồ Chủ Tịch. (*chú thích)1 like
-
Tết Trùng Dương
meiji liked a post in a topic by Minh Xuân
Có chỗ này chưa thật sự hiểu: vì sao số 9 lại là dương? Nếu 9 là dương, 6 là âm thì 9 phải là Trời, còn 6 là Đất (trời dương, đất âm). Như vậy phải gọi là Trời cao là "Cửu trùng" và Đất dầy là "Lục tuyền" mới đúng. Còn "Cửu trùng" và "Cửu tuyền" thì thành ra 9 vừa là dương, vừa là âm, không hiểu nổi. Có lẽ phải hiểu Dương đây là giương ra (Cực), chứ không phải âm dương. Tôi nghĩ Tết trùng cửu là tiết kết thúc một chu kỳ trong năm, đón một chu kỳ mới với mong muốn trường tồn (cửu cửu). Và việc uống rượu, ngắm hoa, ngâm thơ trong ngày này chỉ những hoạt động mang tính văn hóa cao, như một gợi ý cho con đường "thoát kiếp" của con người.1 like -
1 like
-
1 like
-
Mệnh Tử-Tướng không bị tam không / điền cung ,vcd + tuần án ngữ nhật nguyệt xung chiếu ,đây là cách nhật- nguyệt chiếu bích một trong những phú cách /cung tài có vũ phủ đồng cung ,vang ngọc chất đầy kho / cugn phúc kém bị tuần án ngữ phúc đức kém nên ly tổ xa xứ ,không thừa hưởng của phụ ấm để lại / phụ mẫu thiên lương hãm địa , cha mẹ đã ly cách lúc đương số còn nhỏ tuổi nếu không đã có người khút núi sớm ,nếu cha mẹ còn đủ con cũng không thể sống chung /bào đệ phải có anh chị em dị bào cùng mẹ khác cha /theo lá số nầy với tuổi nầy thì người đã có sự nghiệp và giàu có lắm ,nhưng càng về sau thì càng sa sút vì có tật đam mê như cờ bạc hay chơi những trò hăng máu sau đó mà cơ nghiệp như tiền bạc tiêu tán dần .1 like
-
theo mình bạn là ng ăn nói nhanh nhẹn,có khả năng thuyết phục,hiện tại tiền bạc có vấn đề(thiếu nợ chăng?)ra ngoài quan cách,sang trọng nhưng thực chất ko dc như bên ngoài.làm việc liên wuan đến khả năng ăn nói ngoại giao.bạn tính toán giỏi nhưng khi làm hay gặp trở ngại lớn khó thành công việc đã dự tính.vài lới mạn đàm đúng sai bỏ wua cho.1 like
-
Chào anh Phương. Mong anh Trần Phương đừng vô tình tiếp tay cho những người này, họ có hẳn một chiến dịch để chống phá ông Calisto đấy anh ạ. Tinh ý một chút anh sẽ thấy: Họ * vui mừng ra mặt khi đội của ông Calisto mà cũng là tuyên VN thua, nhất là thua một đội bóng "mang tên Phi". Họ nhân danh đủ thứ, kể cả thói đạo đức giả để bêu rếu những con người đang "xả thân", đang "cống hiến"... Theo tôi, những người hành động có thể có đôi lúc nóng nảy nhưng bao giờ họ cũng là những con người từng trải, lịch lãm vì trên thực tế nếu thiếu nó họ chẳng bao giờ đạt được một thành công chính đáng nào. Thân mến * Họ ở đây là một số phóng viên của báo TT & VH1 like
-
Quả cầu bằng gì cũng được, rẻ thì mua, to thì mua. Thượng Đế _ nếu nói theo tâm linh ; Vũ trụ - nếu nói theo khoa học - không phân biệt quả cầu kim cương hay bằng đất.1 like
-
Ở am thờ Mỵ Châu có một bài thơ cổ đề trên bảng gỗ: Hoàng thành đoạn kính thảo ly ly Vãng sự thương tâm bất khả ty Tần Việt nhân duyên thành oán ngẫu Sơn hà kiếp vận đáo nga my Quyên đế cố quốc sương thiên mộ Châu dựng hàn lưu bích hải chi Thần nỗ điếu minh hà xứ khứ Ngộ nhân đáo để thị kim qui. Dịch (Đỗ Văn Hỷ): Thành hoang khuất khúc xanh rì cỏ Việc cũ đau lòng biết hỏi ai Tần Việt nhân duyên thành cập oán Non sông vận kiếp tới mày ngài Quyên kêu nước cũ trời sương muộn Trai nở dòng băng biển biếc hay Mờ mịt nỏ thần đâu biệt mất Rùa vàng lẫm lỡ tới ai đây. Bài thơ trên cho biết kẻ đánh tráo nỏ thần, lừa gạt Mỵ Châu không phải là Triệu, mà là Tần. Đây cũng là câu thành ngữ "Kẻ Việt người Tần" như trong bài thơ Khối tình con của Tản Đà: Một đôi kẻ Việt người Tần Nửa phần ân ái nửa phần oán thương Vuốt rùa chàng đổi móng Lông ngỗng thiếp đưa đường Thề nguyền phu phụ Lòng nhi nữ Việc quân vương Duyên nợ tình kia dở dở dang Nệm gấm vó câu Trăm năm giọt lệ Ngọc trai nước giếng Nghìn thu khói nhang. Cuộc kháng chiến chống Tần của Việt đã không thắng lợi, bởi Âu Lạc đã mất nước vào tay nhà Tần. Và như vậy cũng không có chuyện Triệu Đà chiếm Âu Lạc vì Âu Lạc đã bị Tần chiếm từ trước.1 like
-
1 like
-
Kìm lâu là nhà vàng. Tuổi Kim lâu chỉ tính cho người đàn ông khi làm nhà thôi mà, phụ nữ thì cứ vô tư. Anh này Kỷ Tỵ tam tai vào các năm Hợi Tý Sửu đã qua từ lâu rồi, như vậy là muốn cưới năm nào mà chẳng được. Em nói đúng không các huynh! Anh BHVL nhờ các huynh ấy tư vấn ngày giờ cưới nhé! Thân mến1 like
-
Đây cũng thêm 1 trường hợp khác biệt về tháng sinh như vừa rồi có cô có lá số sanh đôi đều sai tháng sanh cho những người sanh 1985 ;theo lịch tàu thì năm nầy nhuận theo lich ta thì năm nầy chưa nhuận mà trình tử vi của lý học đông phương thì dựa theo lịch cổ Tàu , kiểm chứng qua lá số sinh đoi của đó thì hoàn toàn bị đảo ngược từ chị qua em và của người em hoàn toàn sai ,khi tăng thêm 1 tháng tức năm đó không nhuận thì hoàn toàn chính xác về hình dáng và tính cách cũng như khuyết tật trong người ,như vậy theo tôi thì có sự sai lệch giữa lihj ta và tàu trong 2 năm 85-86 , trường hợp của cháu có thể cộng thêm 1 tháng nhưng ngày giờ vẫn giử nguyên .1 like
-
(https://docs.google.com/Doc?docid=0AQoNixfX...tc2Zn&hl=vi)1 like
-
Tướng Mạo
Trí Phương liked a post in a topic by Lốc Cốc Tử
TƯỚNG MẠO LỐC CỐC TỬ Tiếp theo MIỆNG * Miệng vuông vắn có thành có bờ ( Bờ ở đây là ở viền môi có một đương viền sáng ) Phú quý * Miệng rộng , đầy đặn : Sang giầu . * Miệng như thoa son : Không sợ đói khổ . * Miệng như vành trăng treo ( ngưỡng nguyêt khẩu ), góc miệng đưa lên thật rõ ràng cộng với * Răng trắng môi hồng : Là người văn chương đày bụng , có tiếng tăm * Miệng hình vòng cung ( Loan khẩu ) góc miệng nhích lên , đôi môi đỏ hồng : Người này sẽ được phú quý lâu dài . * Đôi môi thật dầy dầy ( Ngưu khẩu ), quang nhuận , hơi thở thơm tho , tiêng nói như sấm : Thuộc loại người đại phú quý . * Miệng rộng ( Hồ khẩu )cộng đôi môi dầy : Người giầu có . * Miệng dài , nhân trung dài và sâu : Người có phúc lợi nhiều * Miệng lệch và mỏng : Bần hàn . * Miệng như túi buộc túm : Chết đói . * Hai mép xệ xuống như miệng cá : Loại người phá gia bại sản . * Miệng như người đang thổi lửa : Nghèo hèn . * Miệng như cái thuyền úp , môi dầy , mép xệ : Loại người bần cùng , tham ăn . * Miệng như miệng con cá Ngão ( Khang ngư khẩu ) : Bần cùng khổ suốt đời. * Miệng Lợn ( Chư khẩu ) là người có môi trên dài mà thô , môi dưới nhỏ , hai mép chẩy dài : Là loại người nham hiểm , không thọ được lâu . 6 ĐÔI MÔI . Đôi môi là thành quách của cái miệng , môi nên dầy và có bờ . Môi mỏng mà không có bờ là không tốt (Bờ là đường viền sáng quanh môi). * Môi có mầu sắc hồng nhuận , quang minh :Tốt . * Đôi môi dầy : Người trung tín . * Đôi môi bóng bẩy , đỏ cộng với vừa nói vừa thỉng thoảng liếm môi ;Người ham khoái lạc và dâm . * Môi xám mặt xanh : Bệnh tật và tai họa luôn luôn rình rập . * Môi trên mỏng : Người sảo trá . * Môi dưới mỏng : Bần tiện . 7 HÀM RĂNG. * Răng trắng như bạch ngọc : Cao quý . * Răng đều như hạt lựu : Phúc lộc nhiều . * Người có răng nanh : Thường là người có duyên và có khả năng kinh doanh . * Răng trên rộng dưới hẹp : Hay được ăn uống . * Răng đen , xám : Đoản thọ . Đừong tình cảm không được suôn sẻ . * Răng vàng khè : Chuân chuyên . * Răng trên nhọn dưới bằng : Ăn uống kham khổ . * Răng nhỏ ngắn thô : Người nhu nhược . Không thọ , uổng công đèn sách . * Răng trắng , môi hồng : Sĩ tử văn chương , có năng khiếu về nghê thuật , hoặc mỹ thuật . 8 LƯỠI . * Lưỡi ngay ngắn , sắc hồng , cử động dễ dàng : Cao quý . * Lưỡi dài có thể liếm được đàu mũi : Đại quý . * Lưỡi đỏ chót như son : Hoạnh tài . * Lưỡi ngắn nhỏ : Vấy vả , tham lam . * Lưỡi trắng bệch : Khổ sở . * Có nốt ruồi ở lưỡi : Nói dối như cuội . * Chưa nói lưỡi đã thè ra đầu môi : Dối trá . * Vừa nói vừa liếm môi :Con gái cực dâm . * Lưỡi cử động như lưỡi rắn : Là người có tâm địa độc ác . * Lưỡi đầy mồm : Người vụng về . 9 MÁI TÓC . * Đầu tóc bù xù : Thể hiện sư sa đọa . * Tóc thô cứng , đỏ : Người hung ác , ngu xuẩn , độc ác . * Tóc rít không chải được : Bất hiếu bất trung . * Tóc mọc trên trán : thời niên thiếu khổ sở . * Tóc quá rậm : Khắc thê . * Tóc quá ít : Thiếu sinh lực . * Tóc đen , cứng bóng : Người có sinh lực dồi dào . * Ngừời có mái tóc như trên cộng với thân thể to lớn : * Phong phú sinh lực , gan dạ ,tham lam , hiếu sắc , ương ngạnh . * Người nào sau gáy có tóc lô nhô : Trong đời cần đề phòng bệnh hoa liễu . Các cụ xưa có câu : “ Cái Răng , cái Tóc là vóc con người “ . Khi xem tướng ta cần lưu ý .1 like -
Bác ơi cho cháu hỏi chút nữa. Thế nhà cháu sinh năm Tân Mão có được ko vì e năm 2012, 2013 nhà cháu không có điều kiện sinh bé.1 like
-
Tốt nhất nên sinh Tân mão! Sinh con thứ 2 năm Quý Tỵ Ở VN thì tính theo âm lịch Vn, theo TQ mần chi? sính ngoại hè! Con út sinh Tân Mão được! Sinh con út năm Quý Tỵ! Con út Tân Sửu 2021! con đầu năm nào cũng được. Tam hợp hỏa cục là xét về địa chi, sao lại đi so với nạp âm kim, so sánh khập khiểng! Sinh Nhâm Thìn thì tốt cho cả nhà!1 like
-
Con đầu Tân Mão hoặc Nhâm Thìn, con út Đinh Dậu! Sửa lại cái chữ kí nhé, không đưa link facebook vào!1 like
-
Trả lời nốt câu cuối cho bạn: 87 lấy 88 là hợp Can: Chồng sinh Vợ Mệnh: cũng Chồng sinh Vợ Chi: Chồng Mão hại Vợ Thìn-> ông nói gà, bà nói vịt 2 tuổi này lấy nhau là OK, quả 88 nên hạn chế ít nhời, đừng có nổi cơn thường xuyên là gia đình hạnh phúc. Góp ý cho lá số: với lá số này, đương số tính tình thâm trầm, nhiều mưu mô. Muốn hưởng phúc và thuận lợi cho cuộc sống, tuyệt đối không hại người kể cả trong lời nói lẫn hành vi. Ngoài 30 cuộc sống sẽ dễ chịu hơn nhiều, cũng nên đi học thêm trong thời gian này để chuẩn bị cho thập niên 36-45 như anh Quốc Tuấn đã viết ở trên. Chúc bạn may mắn1 like
-
IV.- KẾT LUẬN: Vấn đề thờ, cúng và lễ bái là những biểu tượng tín ngưỡng có giá trị chẳng những về phương diện hình thức và còn hữu ích không nhỏ về phương diện tâm linh. Thờ, cúng và lễ bái là nhu cầu cần thiết cho con người không thể thiếu trong việc tu tập đào luyện đạo đức làm người. Vấn đề trên chẳng những cần thiết cho cá nhân mình, cho gia đình mình trong đời này, mà hơn nữa, đây cũng là một nhu cầu hữu ích cho thế hệ con cháu mai sau. Chẳng những thế vấn đề THỜ, CÚNG và LỄ BÁI còn là một yếu tố cần thiết trong việc tạo dựng nhân lành cho cuộc đời mình ở kiếp sau. Điều này rất quan trọng kể cả hình thức lẫn nội dung, kể cả sự tướng cho đến lý tánh, để chúng ta và tất cả chúng sanh sớm giải thoát phiền não khổ đau và được an vui tự tại trong sự giác ngộ. Thờ ở đây nhằm thể hiện sự tưởng niệm, tỏ bày lòng Tôn Kính dâng lên các bậc Tổ Tiên và các vị Thánh Đức mà mình đã gởi trọn niềm tin. Người Thờ Cúng và Lễ Bái là tự tạo điều kiện giao cảm, thiết lập điểm tựa cho Tâm Linh giữa họ với Bề Trên mỗi khi cảm thấy tâm hồn lạc lỏng mà chính họ cần đến quyền năng hỗ trợ của Tiền Nhân. Thờ ở đây còn là một hình thức giáo dục gia đình, nhắc nhở con cháu ý niệm được bổn phận làm người đối với bề trên trong sự nghiệp kế thừa Truyền Thống. Hình Thức Thờ Tự cũng tạo phương tiện cho con cháu noi gương đức hạnh của Tiền Nhân để soi sáng cõi lòng tu tâm dưỡng tánh. Cúng ở đây nhằm tri ân sâu dầy của Tổ Tiên, của Thánh Hiền đáng kính với sự dâng hiến lễ vật quý trọng và mong cầu ơn trên chứng minh gia hộ. Ngoài ra Cúng kỵ còn tăng trưởng phước Ông Bà cho dòng họ Cháu Con và tăng trưởng Đạo Lực giải thoát cho Tín Đồ qua hệ thống Tâm Linh làm gạch nối giữa người nguyện cầu với các bậc Tiền Nhân Thánh Đức. Có thể nói Cúng Kỵ rất cần thiết cho việc giáo dục gia đình ý niệm Truyền Thống Tổ Tiên, lý tưởng Giống Nòi và làm tròn nghĩa vụ Đạo Đức con người. Muốn bồi dưỡng Tâm Linh lành mạnh, người Đạo Đức và Hiếu Nghĩa không thể không Thờ, Cúng và Lễ Bái Tổ Tiên, Chư Phật và Thánh Hiền. Lễ Bái ở đây nhằm báo ân với cung cách quy ngưỡng, hướng về, cũng như noi gương đức hạnh cao quý và ý chí siêu thoát của các bậc Tôn Kính để tu tập. Người Lễ Bái mong cầu sau này kế thừa xứng đáng sự nghiệp của Tiền Nhân trên con đường giác ngộ và giải thoát khổ đau sanh tử. Phận làm cha mẹ cần phải giải thích cho con cháu hiểu rõ ý nghĩa và giá trị Thờ, Cúng và Lễ Bái. Con cháu nhờ đó tiếp nối sự nghiệp Thờ, Cúng và Lễ Bái của Tổ Tiên cho đúng đạo lý. Truyền Thống Văn Hóa Việt Nam, Vấn đề Thờ, Cúng và Lễ Bái là hình ảnh linh động nhất, cao đẹp nhất, sâu đậm nhất của một Dân Tộc có hơn Bốn Ngàn Năm Văn Hiến. Hình ảnh Thờ, Cúng và Lễ Bái làm sống dậy tinh thần Hiếu Nghĩa và Đạo Đức Nhân Luân của con Lạc cháu Hồng, Việt Nam bất diệt. nguồn daophatngaynay.com1 like
-
III.- VẤN ĐỀ LỄ BÁI: Lễ Bái là một Đạo Nghĩa nhằm tiêu biểu ý chí tôn kính, tưởng niệm đến những ân đức sâu dày của Tổ Tiên Ông Bà, của chư Phật, chư Bồ Tát, chư Hiền Thánh Tăng và tự thân Phát nguyện tu tâm luyện trí hầu trở thành người hữu ích trong xã hội để làm tròn bổn phận con cháu của Tông Môn và để xứng đáng là Đệ Tử của các bậc Thánh Đức. Lễ Bái còn là một Đạo Lý có tánh cách quy hướng Chánh Giác, với mục đích diệt trừ những phiền Não sanh tử, loại bỏ tánh cống cao ngã mạn trong mỗi con người, khiến được Nhứt Tâm để thể nhập được Phật Tánh và để trở thành một vị hoàn toàn giải thoát như đức Phật. Trước hết muốn thông suốt ý nghĩa và giá trị của sự Lễ Bái, chúng ta cần phải hiểu qua thế nào là Lễ Bái. A.- ĐỊNH NGHĨA: a. Lễ: là những quy tắc nhứt định của cung cách qua sự đi, đứng, nói năng trong những Quan Hôn Tang Tế nhằm thể hiện sù Tôn Kính. b. Bái: nghĩa là quỳ lạy bằng cách hạ mình xuống đất trước những bậc Hiền Đức mà mình Tôn Kính. c. Lễ Bái: tiếng Phạn là Vandana, Tàu dịch âm là Ban Đàm, còn gọi là Hòa Nam, hoặc gọi là Na Mô Tất Yết La, nghĩa là lễ nghi cung cách với hình thức cúi đầu quỳ lạy trước những bậc Tiền Nhân Thánh Đức mà mình đã đặt trọn niềm tin quy ngưỡng hướng về, như lạy chư Phật, chư Bồ Tát, chư Hiền Thánh Tăng, như lạy Cha Mẹ, Thầy Tổ v.v... Chúng ta quỳ lạy các vị đó nhằm biểu lộ đức tánh khiêm tốn và để tỏ lòng tri ân, báo ân mà bổn phận kẻ dưới hằng tạc dạ ghi tâm, ân tiên công đức. Ngoài ý nghĩa thông thường trên, theo Phật Giáo, sự Lễ Bái còn tiêu biểu nhiều ý nghĩa khác nữa, như tiêu biểu: “Chánh Quán Lễ, Phát Trí Thanh Tịnh Lễ, Thật Tướng Bình Đẳng Lễ và Biến Nhập Pháp Giới Lễ”. Ý nghĩa của những phương cách Lễ Bái này sẽ đề cập ở sau. B.- NGHI CÁCH VÀ Ý NGHĨA LỄ BÁI: Muốn hiểu ý Nghĩa Lễ Bái, chúng ta trước hết nên hiểu qua cách thức Lễ Bái theo mỗi Tôn Giáo cũng như mỗi Tông Phái quy định. Tổng quát chúng ta nên hiểu cách thức Lễ Bái của những Tôn Giáo và của những Tông Phái hên hệ rất gần đối với chúng ta. Giờ đây chúng ta nên hiểu cách thức Lễ Bái của Khổng Giáo và Phật Giáo chủ trương: C.- QUAN NIỆM LÊ BÁI: Mỗi Tôn Giáo Lễ Bái mỗi cách và mang mỗi ý nghĩa khác nhau, theo sự quy định của các Giáo Chủ làm cách nào tổ bày được tâm thành của Tín Đồ đối với những bậc Thánh Đức mà họ quy ngưỡng. Theo Truyền Thống Việt Nam, dân tộc ta phần đông chịu ảnh hưởng sâu đậm Văn Hóa của Khổng Giáo và Phật Giáo, là hai Tôn Giáo có công rất lớn qua quá trình lịch sử xây dựng đất nước. Mỗi người dân đều chịu ảnh hưởng không ít cách Lễ Bái của hai Tôn Giáo này. Thời xưa Vua Chúa đã quy định rõ ràng, mỗi người dân, khi Lễ Bái Vua, Quan, Hiền Thần, Đình Miếu thì phải áp dụng theo cung cách của Khổng Giáo và khi Lễ Bái Phật Trời, Hiền Thánh, Tổ Tiên, Ông Bà v.v... thì phải áp dụng theo cung cách của Phật Giáo. Về sau người dân bị thất truyền, không được ai chú dạy ý nghĩa và cách thức Lễ Bái cho đúng pháp. Thành thử họ chỉ biết Lễ Bái theo thói quen, hành động không đúng nghĩa và cũng không đúng chỗ. Chúng ta muốn rõ Nghi Lễ của Khổng Giáo thì nên đọc “Văn Công Thọ Mai Gia Lễ" và muốn biết Nghi Lễ của Phật Giáo thì nên am tường “Nhân Thừa Phật Học”. Cả hai rất quan hệ cho cuộc sống làm người. Sự Lễ Bái mà người Việt Nam thường áp dụng, như trên đã trình bày, đều theo Nghi Cách của Khổng Giáo và của Phật Giáo. Nghi Cách Lễ Bái khác biệt giữa Khổng Giáo và Phật Giáo được giải thích dưới đây: 1. THEO QUAN NIỆM KHỔNG GIÁO: Cách lạy của Khổng Giáo, trước hết con người phải đứng thẳng là tiêu biểu cho cái UY của kẻ sĩ. Hai tay Cung Thủ, nghĩa là hai tay nắm lại nhau là tiêu biểu cho cái Dũng của Thánh Nhân. Trước khi lạy, hai tay Cung Thủ đưa lên trán, kế đưa sang phía phải, rồi đưa sang phía trái là tiêu biểu cho Tam Tài (Trời, Đất và Người). Khi lạy, hai tay Cung Thủ chống lên đầu gối chân mặt và quỳ chân trái xuống trước là tiêu biểu cho sự Tôn Kính mà không mất tư thế cái Uy Dũng của kẻ sĩ Cúi đầu xuống đất là tiêu biểu cho sự Cung Kính những bậc mà mình đảnh lễ. Đó là Cung Cách và Ý Nghĩa tổng quát mà Khổng Giáo quan niệm. 2. THEO QUAN NIỆM PHẬT GIÁO: Sự Lễ Bái của Phật Giáo so với sự Lễ Bái của Khổng Giáo có phần khác biệt về cung cách cũng như về ý nghĩa. Riêng về Phật Giáo, ý nghĩa và giá trị Lễ Bái được rất nhiều kinh luận đề cập đến. Theo Phật Giáo quan niệm, sự lễ bái cũng là một trong những phương pháp tu tập để diệt phiền não mà bổn phận người con Phật phải hành trì thường xuyên trong hằng ngày để được giải thoát tất cả nghiệp chướng khổ đau sanh tử và sớm chứng quả Bồ Đề Niết Bàn Tịch Tịnh. Nam Hải Ký Quy Nội Pháp Truyện quyển 4 ghi rằng: "Phật chỉ dạy các Đệ Tử phải Lễ Bái Tam Bảo và Lễ Bái các bậc Đại Tỳ Kheo”. Kinh Phạm Võng quyển hạ giải thích rằng: “Nếu có bậc Hoà Thượng, Thượng Tọa, A Xà Lê, hoặc người bạn đồng học, người đồng kiến giải người đồng hành đều phải nghinh tiếp Lễ Bái và vấn an". Luật Ngũ Phần quyển 7 ghi rằng: “Một vị Tỳ Kheo Ni một trăm tuổi, đã thọ giới Cụ Túc từ lâu cũng phải Lễ Bái một vị Tỳ Kheo Tăng mới thọ giới Cụ Túc”. Đại Đường Tây Vực Ký quyển 2 ghi rằng: “Ấn Độ có chín cách Lễ Bái được gọi là Tây Trúc Cửu Nghi”. Chín cách lễ bái nói trên được ghi nhận như sau; 1. Phát Ngôn Úy Vấn Lễ: nghĩa là Lễ Bái bằng cách mở lời vấn an. 2 . Phủ Thủ Thi Kính Lễ: nghĩa là Lễ Bái bằng cách cúi đầu tôn kính. 3. Cử Thủ Cao Ấp Lễ: nghĩa là Lễ Bái bằng cách dơ tay cao vái chào. 4. Hiệp Chưởng Bình Cung Lễ: nghĩa là Lễ Bái bằng cách chấp tay ngang bằng vái chào. 5. Khuất Tất Lễ: nghĩa là Lễ Bái bằng cách quỳ gối. 6. Trường Quy Lễ: nghĩa là Lễ Bái bằng cách quỳ nầm dài ra. 7. Thủ Tất Cứ Địa Lễ: nghĩa là Lễ Bái bằng cách hai tay và hai đầu gối quỳ sát đất. 8. Ngũ Luân Cu Khuất Lễ: nghĩa là Lễ bái bằng cách năm vóc đều cúi xuống. 9. Ngũ Thể Đầu Địa Lễ: nghĩa là Lễ Bái bầng cách năm vóc gieo xuống đất. Ngoài ra người ấn Độ còn có nhiều cách Lễ Bái khác nhau. Theo phong tục mỗi nơi, người Tín Đồ Lễ Bái trước Tượng Phật hoặc trước Bảo Tháp có hơi khác về cung cách. Sự khác biệt về cung cách Lễ Bái được nêu cử như sau: 1. Tồn Cứ Lễ: nghĩa là Lễ Bái bằng cách đứng một chân quỳ lạy. 2. Khởi Cư Lễ: nghĩa là dùng nghi thức bước một bước Lễ một lạy. 3. Hữu Nhiễu Tam Thất Lễ: nghĩa là Lễ một lạy rồi đi nhiễu ba vòng về phía bên hữu của Phật hoặc của Bảo Tháp. 4. Tạ Lễ: nghĩa là Lễ Bái bằng cách ngồi xuống đất cúi đầu lạy, tức là lạy bằng cách ngồi v.v... Phật Giáo Việt Nam hầu hết đều áp dụng phơng pháp “Ngũ Thể Đầu Địa Lễ” trong khi lễ bái. Đây là một phương pháp tiêu biểu ý chí Tôn Kính cao đẹp nhất trong các cung cách Lễ Bái. Khi Lễ Bái, người Phật Tử đầu tiên phải đứng ngay thẳng trước Tượng Phật cho nghiêm trang và khép hai chân sát vào nhau để lấy lại sự an tâm thanh tịnh, đồng thời kiềm thúc Tâm ý không cho chao động vọng tưởng. Ngay lúc đó, đôi mắt họ nhìn lên Tượng Phật và Tâm họ quán tưởng các tướng tốt, quán niệm những đức hạnh cao quý của đức Phật để tỏ bày nguyện vọng chân chánh của mình hầu mong Ngài chứng minh. Hai tay họ thay vì Cung Thủ (nắm lại nhau) mà ở đây phải HIỆP CHƯỞNG, nghĩa là hai tay chắp lại nhau cho khít là tiêu biểu Thức Tâm hiệp nhứt (Nhất Tâm) và để hai tay nơi ngực là tiêu biểu ý nghĩa Ấn Tâm. Khi lạy Phật, có người để hai tay nơi ngực lạy xuống, nhưng có người đưa hai tay lên trán rồi mới lạy xuống, cách nào cũng có ý nghĩa của nó. Cách lạy để hai tay nơi ngực là tiêu biểu ý nghĩa Ấn Tâm như đã giải thích ở trên. Còn cách lạy đưa hai tay lên trán là tiêu biểu ý nghĩa tâm nguyện của mình dung thông đến chư Phật qua nhục đỉnh kế (qua Mỏ Ác, hay qua Đỉnh Đầu) và lạy theo nguyên tắc “Ngũ Thể Đầu Địa”, nghĩa là đầu, hai tay, hai đầu gối của người Lễ Bái phải đặt sát đất và họ lạy xuống với tư thế ngồi để khỏi thất lễ nơi người đứng sau. Tiếp theo họ chỏi tay phải lên mặt đất rồi quỳ hai đầu gối và ngửa hai bàn tay ra giống như đóa sen nở. Họ quán tưởng đức Phật hiện đang đứng trên đóa sen kết thành bởi hai bàn tay của họ và họ đặt trán mình vào lòng hai bàn tay như đặt đầu mình lên chân của Phật, đồng thời họ nằm mọp xuống đất để biểu hiện sự Tôn Kính với tâm thành quy ngưỡng nương tựa. Cách Lễ Bái này là tiêu biểu cho ý nghĩa “Đầu diện tiếp túc quy mạng lễ” (nghĩa là đầu và mặt của mình để lên chân của Phật gọi là Quy Mạng Lễ). Phật Giáo cho rằng, người Phật Tử ngoài sự Lễ Bái để tỏ lòng Tôn Kính các đức Phật, các vị Bồ Tát, các Hiền Thánh Tăng, còn phải tưởng niệm những ân đức cao dày của các Ngài và phát nguyện suốt đời hướng về các Ngài tiến tu đạo nghiệp để được trở thành đức Phật như quý Ngài. Người Phật Tử thật hành hạnh nguyện như trên được gọi là quy mạng lễ. Nhân Thừa Phật Giáo có chia làm bảy cách lạy, trong đó có ba cách lạy của Thế Gian thường áp dụng và bốn cách lạy của Thánh Giáo thường hành trì về mặt sự (về mặt hình thức) cũng như về mặt lý (về mặt nội dung). Để cho Phật Tử nhận thức dễ dàng và chọn lựa tu tập cho đúng pháp, bảy cách lạy được phân tích như sau: D. VỀ CÁCH LẠY CỦA THẾ GIAN: Trong Thế Gian về mặt sự tướng, tức là về mặt hình thức, có ba cách lạy phổ thông mà người đời thường áp dụng. Trong ba cách lạy nói trên, có hai cách lạy mà người Phật Tử chân chánh cần phải để ý và tuyệt đối không nên áp dụng. Hai cách lạy đó là Ngã Mạn Lễ và Cầu Danh Lễ. Hai cách lạy này chính là những tật xấu không thể có nơi con người thánh thiện. Bảy cách lạy nói trên dựa theo tinh thần Kinh Pháp Uyển Châu Lâm, quyển 20 được trình bày như sau: 1. Ngã Mạn Lễ: nghĩa là người lạy Phật hoặc lạy Ông, lạy Bà, lạy Tổ Tiên, vì hoàn cảnh bắt buộc phải hành lễ, nhưng thâm tâm của họ không muốn lạy, do dó họ lạy với cử chỉ ngạo nghễ, thái độ kiêu căng, không có chút nào lễ độ cung kính cả. Đầu họ lạy xuống không sát đất và họ đứng lên cúi xuống một cách cẩu thả cho qua việc. Họ vì sợ mất thể diện với bạn bè và sợ dơ bẩn quần áo quý giá của mình, nên buộc lòng phải lễ bái theo kiểu Ngã Mạn. Họ sợ bạn bè chê trách mình là kẻ bất hiếu, bất nghĩa, bất tín, bất trung, cũng như họ quý trọng quần áo và bạn bè hơn chư Phật, Ông Bà Tổ Tiên. Cách lạy đó gọi là Ngã Mạn Lễ. 2. Cầu Danh Lễ: nghĩa là người lạy vì mong cầu danh vọng, quyền tước qua sự chú ý và ngợi khen của cấp trên cũng như lấy lòng quần chúng ủng hộ. Khi có cấp trên cũng như khi có quần chúng, họ siêng năng lễ lạy để cho mọi người thấy rằng mình có đạo đức, thượng cấp nên nâng đỡ và quần chúng nên ủng hộ. Thật ra thâm tâm của họ không có chút gì tín thành cả và ngược lại, một khi không có ai, họ lại biếng nhác giải đãi trong việc lễ lạy. Như vậy họ lễ lạy vì mọi người chứ thật ra không phải lễ lạy cho chính họ. Cách lạy này gọi là Cầu Danh Lễ. Hai cách lễ lạy vừa trình bày là hành động dối trá không thể có nơi người Đạo Đức chân chánh. Đức Phật sở dĩ nêu lên trong kinh điển nhằm mục đích chỉ dạy cho người con Phật sau này phải ngăn ngừa và người con Hiếu Hạnh phải tránh xa. 3. Thân Tâm Cung Kính Lễ: nghĩa là người lễ lạy phải thể hiện thân và tâm đều cung kính. Thân và Tâm người lễ lạy đều cung kính thì sự Lễ Bái mới có giá trị. Nói một cách khác, người lễ lạy phải chí thành cả Thân và Tâm, nghĩa là họ phải có đức tin trong sự lễ lạy thì sự cảm ứng rất dễ dàng với chư Phật, với các Thánh Hiền, với Ông Bà, Tổ Tiên. Ngược lại, Tâm người lễ lạy nếu như thiếu cung kính thì thân họ sẽ hiện ra phong cách thiếu lễ độ dễ nhìn thấy (Hữu ư trung xuất hình ư ngoại, nghĩa là Tâm ở trong như thế nào thì tướng hiện ra như thế đó). Người lễ lạy muốn cho Thân và Tâm đều cung kính thì phải theo cách lạy của Phật Giáo mà ở trên đã giải thích và phải lạy thường xuyên để cho cung cách được thuần thục. Người lễ lạy đã thuần thục thì mới có khả năng nhiếp phục Tâm loạn động của mình. Thân Tâm Cung Kính Lễ là cách lạy cơ bản của Phật Giáo về mặt sự tướng, tức là về mặt hình thức mà người xuất gia cũng như kẻ tại gia phải hành trì cho nghiêm túc. Nhờ đó họ sau này mới đủ khả năng bước vào lãnh vực Thánh Giáo Lễ của các bậc Thánh Chúng về mặt lý tánh không cảm thấy trở ngại.1 like
-
Theo tôi: Chính xác là như vậy. Có thể đây là câu chuyện cảnh tỉnh lòng tham và sự bạc nghĩa của con người, lấy cụ Tả Ao làm nguyên nhân.Tôi có xem chuyện "Bát tiên quá hải". Tiên ông Lã Đồng Tân giúp cho một bà nghèo sống bằng nghề bán nước giếng, bằng cách lấy mấy hạt gạo bỏ vào giếng nước của bà ta. Từ đó giếng chảy ra toàn rượu. Bà ta trở nên giàu có. Hơn 10 năm sau, tiên ông quay lại ghé thăm. Lúc ấy bà ta nhà cao cửa rộng, con cái đầy đàn. Tiên ông hỏi: Nhà bà còn thiếu thống gì nữa không? Con rể trả lời: Thưa tiên ông, nhà tuy đầy đủ, nhưng có rượu mà không có bã rượu cho lợn ăn. Tiên ông than rằng: Lòng tham của con người không có chỗ để dừng. Nói xong, Lã Đồng Tân lấy cây gậy khoắng xuống giếng. Mấy hạt gạo dính vào đầu gậy. Khi ông bay đi, giếng rượu lại trở thành nước lã.1 like