-
Thông báo
-
Nội quy Lý Học Plaza
Nội quy này là bản mở rộng Nội Quy - Quy định của Diễn đàn. Khi tham gia mua bán, các thành viên phải tuân theo những quy định sau: Tiêu đề bài viết: Bao gồm: Chỉ dẫn địa lý, Loại hình Mua/Bán, Thông tin mua bán.
Chỉ dẫn địa lý: Tỉnh/thành nơi mua bán. Hoặc sử dụng định nghĩa có sẵn:TQ: Toàn quốc
HCM: TP Hồ Chí Minh
HN: Hà Nội
[*]Ví dụ: HCM - Bán Vòng tay Hổ Phách Nội dung bài viết: Mô tả chi tiết sản phẩm mua/bán
Bắt buộc phải có thông tin liên lạc, giá Mua/Bán
Bài mới đăng chỉ được phép up sau 03 ngày.
Thời gian up bài cho phép: 01 ngày 01 lần.
Các hành vi vi phạm nội quy này sẽ bị xóa bài hoặc khóa tài khoản mà không cần báo trước.
-
Leaderboard
Popular Content
Showing most liked content on 13/12/2010 in Bài viết
-
Mệnh Tử-Tướng không bị tam không / điền cung ,vcd + tuần án ngữ nhật nguyệt xung chiếu ,đây là cách nhật- nguyệt chiếu bích một trong những phú cách /cung tài có vũ phủ đồng cung ,vang ngọc chất đầy kho / cugn phúc kém bị tuần án ngữ phúc đức kém nên ly tổ xa xứ ,không thừa hưởng của phụ ấm để lại / phụ mẫu thiên lương hãm địa , cha mẹ đã ly cách lúc đương số còn nhỏ tuổi nếu không đã có người khút núi sớm ,nếu cha mẹ còn đủ con cũng không thể sống chung /bào đệ phải có anh chị em dị bào cùng mẹ khác cha /theo lá số nầy với tuổi nầy thì người đã có sự nghiệp và giàu có lắm ,nhưng càng về sau thì càng sa sút vì có tật đam mê như cờ bạc hay chơi những trò hăng máu sau đó mà cơ nghiệp như tiền bạc tiêu tán dần .2 likes
-
Tháng giêng âl gặp gỡ ,nếu hình dạng người nầy giống như ở đây thì đó là duyên nợ đã đến rồi ;dạng người từ trung bình đến thấp mặt hơi tròn nước da trắng ,nở nang,nhân hậu nhưng dễ bị lôi cuốn vào những việc ăn chơi đam mê ,tính không dứt khoát không biết lo xa ,có thể có lễ cưới trong khoảng 6 tháng đầu của năm Mão ,[ chắc sẽ có chồng trong năm nầy ] nhưng tỏng lúc cưới xin cũng gặp vài điều trỡ ngại hay gặp khó khăn gì đó những vẫn phải cưới được ; nếu đúng với lời đoán nầy đám cưới xong đừng quên trả thù lao bằng 1kg trà xanh hảohạng ,nếu không xảy ra như dự đoán lên diễn đàn nầy xĩ vã tha hồ .2 likes
-
Trung hoa Ngũ hành ...sử. Trích Sử ký chương Tần thủy hoàng bản kỷ : ....”Thủy Hoàng xét việc năm đức lần lượt thay đổi nhau nên cho nhà Chu được “hỏa đức” nhà Tần thay đức nhà Chu thì phải theo cái đức mà “hỏa” không thắng được. Từ này là “thủy đức” bắt đầu: đổi đầu năm, việc triều cống, chúc mừng đều bắt đầu từ mồng một tháng 10. Áo, quần, cờ tiết, cờ mao đen, lấy số 6 làm đơn vị, các phù và các mũ đều dài sáu tấc, trục xe sáu thước, sáu thước làm một bộ, đi xe sáu ngựa, đổi tên sông Hoàng Hà là đức Thủy vì cho rằng “thủy đức” bắt đầu. Cai trị thì cứng rắn nghiêm nghị, gay gắt, sâu sắc, mọi việc đều dùng pháp luật để quyết định, khắc bạc, không dùng nhân đức, ân nghĩa. Có thế mới hợp với con số năm đức”.... Những dòng trên cho thấy người Tần đã dùng dịch học để thể hiện các đặc tính của triều đại mình , 5 đức họ nói đến chính là Ngũ hành được vận dụng vào nhiều lãnh vực : - hành Thủy , phương nước tức phương đối lập với hành hỏa phương lửa ở Xích đạo . - màu đen đối với màu đỏ . - mùa đông đối mùa Hạ . - số 6 và 7 là 2 số đối trong Hà thư (đồ) theo trục bắc –nam , số 8 - 9 là trục đông –tây. Trong phần trích trên duy có thông tin nhà Chu đức Hỏa là sai với ngũ hành sở dĩ có sự lầm lẫn này vì âm ‘Chu’ cũng nghĩa là màu đỏ như vậy là thuộc hành ‘Hỏa’ , chính xác phải gọi là nhà Châu nghĩa là sáng như trong châu - ngọc vậy , nhà Châu ở phương tây , ông Cơ xương là Tây bá hầu ; tây biến âm của tư - tứ cũng nghĩa là sáng láng , nhiều thông tin lịch sử khác liên quan tới phương tây đều hàm ý sự sáng như Hạo , Chiêu , Bạch, bạc .v.v.. Sở dĩ vậy vì trong ngũ sắc thì phương tây là màu Trắng . Rất có thể là 3 triều đại đầu của vương quốc Trung hoa không hề xưng danh , bản thân triều đại nào cũng chỉ xưng là ‘vua’ mà thôi ; các danh xưng Hạ Thương Chu là do những nhà viết sử đặt ra vì không định danh thì làm sao phân biệt và kết nối thành lịch sử . Vua tổ nhà Hạ gọi là ông vũ hay đại vũ . Vua khai sáng nhà Thương xưng là võ vương . Vua lập nên nhà Chu lại cũng là vũ vương . Vũ - võ chỉ là 1 và ‘vũ’ chính là ký âm từ ‘vua’ của Việt ngữ , việc thêm chữ vương nghĩa là vua vào sau chữ vũ cũng là vua chỉ ra : sử gia đã không xử lý chính xác các thông tin tư liệu , bản thân chẳng hiểu nghĩa từ ‘vũ’ là gì nên đã biến 1 danh từ chung chỉ thủ lãnh thành tên riêng của thủ lãnh ...; phải chăng đây là sự cố như bao sự cố dở khóc dở cười khác xảy ra khi chuyển thông tin từ kiểu chữ ‘đại triện’ sang kiểu chữ ‘tiểu triện’ ở thời Tần ? Trong Lịch sử Trung hoa Không phải chỉ riêng nhà Tần được biểu hiện bằng những tính chất của Ngũ hành mà toàn thể lịch sử cổ đại đều như thế , tên gọi của cả 3 triều đại Hạ Thương Chu đều là những thuộc tính của ngũ hành : Tóm lược những đặc tính của ngũ hành thể hiện trong các lãnh vực : Trước hết xin lưu ý là hành Kim và Thổ đã bị người Tàu hoán đổi vị trí , chi tiết xin đọc Dịch học họ Hùng nhưng để dễ dàng tiếp nhận cho người đọc ở đây vẫn dùng hệ ngũ hành đang biết : - hành Thổ (Dịch học Tàu ) : Trung tâm , không mùa , màu vàng , quân thiên , số Hà thư là 5-10 . - hành Mộc : Phương đông , mùa xuân ,màu xanh , thanh thiên , số Hà thư :3 – 8 . - hành Hỏa : Phương nam ngày nay (xích đạo ) ,mùa hạ , màu đỏ , Viêm thiên ,số Hà thư : 2-7 . - hành Kim ( Dịch học Tàu ): Phương Tây , mùa thu , màu trắng , Hạo thiên , số Hà Thư : 4 – 9 . - hành thủy : Phương bắc ngày nay , mùa đông , màu đen , Huyền thiên , số Hà Thư : 1 – 6 . Nhà Tần thuộc hành thủy đã qúa rõ vì Sử ký đã chép đầy đủ những thuộc tính như màu đen , mùa đông số chủ đạo là số 6 ...ngoài ra dựa vào Ngũ hành do bản thân tên gọi các triều đại còn có thể đễ dàng nhận ra: - Nhà Hạ thuộc hành Hoả : mùa hạ , hướng Xích đạo nhiệt đới , màu đỏ hay Đào Hồng , ,Viêm thiên , số HT: 2 - 7. Thần bản mệnh là Hoả thần Chúc Dung .v.v... - Nhà Thương hành Mộc : màu xanh hay thanh - thương , muà xuân , phương đông , , Thanh thiên , số HT : 3 – 8 . - Nhà Châu (sáng) hành Kim (DH Tàu) : màu trắng - sáng , Hạo thiên ( vùng trời sáng), mùa thu , phương tây ( tư- tứ : sáng ), số HT 4 – 9 . Sử gia thời cổ Trung hoa đã dựa vào Nền tảng ngũ hành , căn cứ vào chính vị trí địa lý miền đất trung tâm của triều đại đó mà tạo ra tên gọi các triều đại ...nên chỉ với thông tin : nhà Tần đức thủy màu đen cũng đã đủ để khẳng định thời tiên Tần lãnh thổ Trung hoa không thể nào nằm ở bắc Hoàng hà được . Các vùng của mặt phẳng phân theo Ngũ hành : Lưu ý : Lãnh thổ Trung hoa nằm trọn ở bắc bán cầu . Vẽ theo quy tắc bản đồ hiện nay Ứng dụng nguyên tắc ‘mặt phẳng ngũ hành ‘ vào thực địa Trung hoa : Nước Cao dịch sang Hán văn là Sùng là tên nước vua Thành Thang tổ nhà Thương phong cho con thứ của mình , chính vì điều này mà người Canh còn có tên là người Keo ... ; chùa Keo ở Hà nội có tên chữ là Sùng Nghiêm .( xin được bàn chi tiết ở 1 bài khác )Ngoài những thông tin mang tính cơ bản trên còn rất nhiều thông tin khác hỗ trợ cho luận thuyết lịch sử ‘ngũ hành ‘ này tiêu biểu như : - thủ đô thứ 3 của nhà Hạ là Dương thành..., Dương thành nay còn sờ sờ ở Quảng châu sao không thấy nhà sử học nào để ý tới ???, đất Cối kê quay ra Nam hải nơi thờ Hạ vũ cũng vẫn còn đứng đó sao không ai đến vùng núi này tìm bản văn mà Tần thủy hoàng đã khắc ?. - Tư liệu lịch sử nói rõ Vùng Giang tây xưa là lãnh thổ của Từ quốc , ‘Từ’ chỉ là tên dịch sang Hán văn chữ ‘Thương’ của Việt ngữ mà thôi nên chính xác nước ở đây là Thương quốc nước ở phía đông ...ấm ớ ‘từ’ biến thành ‘tây’ như trong giang tây thì chỉ có trời mới hiểu ... - Qúy châu âm Hán Việt phát âm đúng ‘tiếng Tàu’ là Cùi Chu hay Kỳ Chu...đó là tên chính xác của đất tổ nhà Chu , dòng Châu giang vẫn lượn lờ bấy lâu không đủ làm bằng chứng cho sự tồn tại của ‘Trung hoa’ thời nhà Chu hay sao ? - Tứ xuyên , Thục xuyên hay Xuyên thục và Tần xuyên chỉ là 1đất , tứ thục tần – tốn chỉ có nghĩa là phía tây , xuyên là sông chỉ phương nam ,đất tây nam này nơi vua Chu phong cho họ Đinh là cố tổ của Tần thủy hoàng ...., liên quan đến vua Chu và nhà Tần nhiều tư liệu nói đến việc vua Chu ban cho tần vương 1 chiếc trống đồng...hỏi vua Chu nếu ở Thiểm tây thì làm gì có trống đồng mà ban với tặng ? Tóm lại còn rất rất nhiều thông tin liên quan đến “Tứ đại ” Trung hoa nếu đem so chiếu với Ngũ hành thì không còn cách nào khác là ....bắt buộc phải xem xét lại toàn bộ lịch sử từ thượng cổ tới ngày nay . Trước đây người viết bài này đã có lúc nghĩ .... phải viết lại 1 lịch sử khác cho Trung hoa nhưng nay ...thấy không cần như thế mà điều cần là phài ‘hiểu’ lại , hiểu cho đúng những gì đã có sẵn trong sách sử là đủ ./.1 like
-
Tết Trùng Dương
Thiên Sứ liked a post in a topic by Lãn Miên
Tết trùng dương LÃN MIÊN Tiết trùng dương ngày 9 tháng 9 âm lịch ở Trung Quốc đến thời Đường đã trở thành tập tục phổ biến ở vùng Trung Nguyên, mà nguồn gốc tập tục được coi là từ chuyện thần thoại, kể rằng: Thời Đông Hán ở huyện Nhữ Nam có anh nông dân tên là Hoàn Cảnh, gia đình gồm bố, mẹ, vợ và con cái đông đúc, cuộc sống tuy không giàu có nhưng cũng đủ ăn. Nào ngờ hai bờ sông Nhữ xảy ra ôn dịch, dân làng nhiều nhà bị bệnh chết, chôn không kịp, bố mẹ của Hoàn Cảnh cũng bị mắc bệnh chết. Từ nhỏ Hoàn Cảnh đã được nghe kể chuyện dưới sông Nhữ có một con quỉ, mỗi năm đều lên bờ một lần đi gây hại, đến đâu gieo bệnh ôn dịch tới đó.( Ở ta cũng có câu dọa trẻ con chớ vọc bẩn mà “quan ôn đến bắt”). Hoàn Cảnh quyết tâm đi tìm thầy học cách trừ quỉ, cứu nguy cho dân làng. Nghe nói ở núi Nam có một Đạo tiên tên là Phí Trường Thành tinh thông thuật pháp, anh ta bèn khăn gói ra đi tìm học. Phí Trường Thành trao cho Hoàn Cảnh một thanh long kiếm (tức gươm rồng đúc bằng đồng thau) gọi là kiếm trừ yêu quái, dạy anh ta ngày đêm luyện tập.Thấm thoắt đã được một năm, một hôm đang luyện tập thì Phí Trường Thành đến nói với anh ta: “ Năm nay ngày 9 tháng 9 ôn quỉ sông Nhữ sẽ xuất hiện, con phải về ngay trừ hại, ta cho con một bọc lá châu du 茱 萸 , một bình rượu hoa cúc để chống nhiễm bệnh, con hãy về làng đưa dân làng lánh hết lên núi cao tị nạn”. Đạo tiên nói xong đưa tay vừa chỉ, một con chim nhạn xòe cánh bay đến hạ xuống trước mặt, Hoàn Cảnh cưỡi chim bay về Nhữ Nam. Đến ngày 9 tháng 9 anh đưa vợ con và dân làng lánh hết lên ngọn núi sau làng, đưa cho mỗi người dắt vào mình một nhúm lá châu du 茱 萸 và uống một ngụm rượu hoa cúc, nói là để trừ tà và chống nhiễm bệnh, còn mình anh ta về nấp ở nhà cầm gươm chờ quỉ đến. Một hồi sau nghe sóng sông Nhữ réo, ôn quỉ lên bờ đi vào làng thấy cảnh vắng tanh, ngẩng mặt thấy dân làng đều đang trên sườn núi. Nó ào đến chân núi, ngửi phải hơi rượu và mùi lá sặc sụa, không dám trèo lên nữa, quay về làng. Thấy bóng quỉ, Hoàn Cảnh cầm gươm lao ra, đánh nhau một chặp, quỉ địch không lại bỏ chạy, Hoàn Cảnh rượt theo đâm trúng phổi ôn quỉ, giết chết nó. Từ đó về sau dân hai bờ sông Nhữ được sống yên bình. Mọi người gọi ngày 9 tháng 9 là “ngày lên núi cao tránh họa” về sau trở thành tập tục nhắc nhớ chuyện xưa. (Giải thích nguồn gốc tập tục bằng chuyện do người đời sau đặt ra kể lại, tuy chưa thỏa đáng, nhưng trong nội dung chuyện cũng cho thấy bóng dáng nguồn gốc Bách Việt của tập tục: miền Nam, đồ đồng, Đạo giáo, chữa bệnh bằng cây thuốc, thời cổ đại có lần phải lên núi cao tránh lũ lụt như chuyện cổ tích “ Sơn tinh thủy tinh”. Trong văn chương truyền miệng như “ Ấu học quỳnh lâm” thì nói: Phí Trường Phòng là người thời Tây Chu giỏi toán thuật đo đạc ruộng đất: Thời Nghiêu trăm họ dân quê; Trong lòng tự đắc hát ca làm đồng. Tây Chu phác thực, nghĩa nhân; Ruộng đồng nhường nhịn ân cần làm chung. Thu gọn đất Phí Trường Phòng ; Biết cách trắc đạc lấy gần từ xa.Thời Tần kỹ thuật làm nhà. Biết cách lăn đá đưa ra xây cầu - “ 擊 壤 而 嬉,上 世 之 黎 民 自 得. 讓 畔 而 耕,西 周 之 百 姓 相 推.長 房有 縮 地 之 方.秦 始 皇 有 鞭 石 之 法 ”). Một “cổ tích” khác lại giải thích: Thời nhà Hán trong hoàng cung mỗi năm ngày 9 tháng 9 đều bày lá châu du 茱 萸,ăn bánh ngọt, uống rượu hoa cúc để trường thọ. Sau vụ ái cơ của Hán Cao Tổ Lưu Bang là Thích phu nhân bị giết hại, cung nữ là Giá Môi 贾 某 bị trục xuất khỏi cung về quê , đem tục này về truyền lại cho dân chúng rồi dần trở thành phong tục dân gian.( Giải thích kiểu này thật vô lý. Đến như nhạc và múa của cung đình cũng là từ dân gian mà ra, được nâng cấp lên mà thành nhạc cung đình và múa cung đình, ẩm thực cung đình cũng vậy, món ăn dân gian được các đầu bếp sành sỏi nghệ thuật nâng cấp lên mà thành đặc sản cung đình như trà cung đình, rượu Minh Mệnh. Đến như bà Từ Hi Thái Hậu của nhà Thanh ở trong cung còn thèm món đầu dê hầm nguyên cả đầu của quê hương bà ta, vốn xuất thân thôn dã vùng quê nghèo, đầu dê để nguyên cả đầu rửa chải sạch lưỡi họng, hầm nguyên cả thủ cho chín rục, dọn nguyên đầu lên vừa ăn vừa gỡ thịt. Do sở thích này của bà ta mà cậu thanh niên khỏe mạnh đẹp trai em chủ quán thịt dê, vốn là đồng hương bà ta lên kinh đô mở quán, cứ bị gọi vào vườn của hoàng cung dâng đầu dê hầm cho bà ta hoài vào buổi tối, bị bà ta ép làm tình cho đến khi gầy xơ xác rồi bị đuổi về quê, giữa đường bị lính do bà ta lệnh đi theo siết cổ chết khi vừa ra khỏi kinh thành. Tuy vậy “cổ tích” này cũng để lộ một sự thật là quan lại người Hán khi được cử đi làm thứ sử ở đất Bách Việt biết học theo cái hay của người Bách Việt rồi truyền lại cho dân Hán chưa biết văn hóa đó để rồi cùng theo. Chuyện cổ tích Việt “Lang Liêu và bánh chưng bánh dầy” mới là phản ánh đúng sự thực là tri thức của dân gian truyền vào cung đình, rồi được “luật hóa” để phổ biến thành truyền thống cho dân cả nước, vậy mà chuyện ấy lại có cách nay hàng bốn ngàn năm! truyền miệng hết đời này sang đời khác). Một thuyết khác về nguồn gốc tục trùng dương nói là: Trong văn hóa truyền thống Trung Hoa con số 9 là con số Dương cũng là con số Cực, là con số thần bí được sùng bái trong tín ngưỡng, chỉ trời cao gọi “cửu trùng” chỉ đất cực gọi “cửu tuyền”. Kinh Dịch coi số 9 là số dương, số 6 là số âm. Ngày 9 tháng 9 cả ngày và tháng đều là số dương, hai dương trùng nhau , bởi vậy gọi là trùng dương, cũng gọi là trùng cửu, nó chiếm vị trí quan trọng trong thời gian của năm. Ngày trùng dương còn gọi là ngày Đạp Thu, giống như ngày 3 tháng 3 âm lịch gọi là ngày Đạp Xuân. Từ thời Ngụy, Tấn ngày này trở thành ngày mà văn nhân mặc khách ngâm vịnh thơ. Tiết trùng dương 9 tháng 9 có tập tục như một lễ tiết dân gian là từ thời Chiến Quốc. (Có thể hiểu là đến thời Chiến Quốc người Hán mới biết đến phong tục này từ người Bách Việt, còn ở người Bách Việt thì tục này đã có hàng ngàn năm trước rồi - NV). Đến thời Tây Hán phong tục đi lên chỗ cao ngắm cảnh đã có ở kinh đô Trường An. Đến thời Đường tiết trùng dương chính thức được coi là một lễ tiết dân gian và giữ mãi tục này cho đến ngày nay. Tập tục là ngày đó mọi người lên núi cao ngắm cảnh để hưởng không khí trong lành thư dãn. Ở đồng bằng không có núi cao thì người ta làm bánh bằng bột do ngâm kỹ gạo rồi xay thành bột nước, ngào đường miếng, chưng lên gọi là bánh “cao 糕” để tượng trưng là đã lên “cao 高” ( Bánh “cao” thực ra là từ phiên âm của bánh “gạo” tiếng Việt, hay “khao” tiếng Thái mà thôi - NV), ý là lên cao thì tránh được họa, cầu mong được tốt lành. Ngoài ra tiết trùng dương còn thưởng ngoạn hoa cúc nở vì đang mùa rộ vào tiết thu vàng nắng nhẹ trời trong, uống rượu hoa cúc là loại rượu nấu bằng nếp vị ngòn ngọt. Tương truyền rượu nếp nấu bằng gạo nếp ủ men lâu trong vò kín, là loại rượu xuất xứ từ các dân tộc thiểu số vùng Tây Bắc TQ (Không hiểu thời cổ đại vùng Tây Bắc TQ có nhập khẩu nếp hay chưa ? hay là nó là vùng Tây Nam thì đúng hơn. Nếp thì chỉ ở người Việt mới có nếp mà thôi - NV), còn hoa cúc chỉ là một trong các nguyên liệu thêm vào cho rượu đó mà thôi. Có hoa ,có rượu tất có phú thơ, thịnh nhất vào thời Đường; và đề từ, thịnh nhất vào thời Tống. (Đó là do các văn nhân mặc khách đã nâng cao tính văn hóa thành một tập tục rất tao nhã cho một lễ hội thời tiết của dân gian vốn rất mộc mạc của người Bách Việt cổ - NV). Như thời Chiến Quốc nhà thơ Khuất Nguyên từng viết trong “Viễn du” câu “tập trùng dương nhân đế cung hề 集 重 阳 人 帝 宫 兮”. Thời Đường tiết trùng dương rất được coi trọng. Người ta có phong tục đi lên núi cao, cài lá châu du 茱 萸. Nhà thơ Vương Duy có câu thơ: “Độc tại dị hương vi dị khách, mỗi phùng giai tiết bội tư thân. Diệu tri huynh đệ đăng cao sở, thiên tháp tống du thiểu nhất nhân 独 在 异 乡为 异 客,每 逢 佳 节 倍 思 亲。遥 知 兄 弟 登 高 处,遍 插 荣 萸 少 一 人 = Mình ta khách lạ xứ người, Mỗi lần tiết đến ngậm ngùi nhớ ghê . Anh em trèo núi ngắm quê, Cài đầu lá ngải thiếu đi một người”.(Chắc nhà thơ là người miền Nam đang ở xứ Bắc làm quan – NV). Nhà thơ Thiệu Đại Chấn có bài thơ: “Cửu nguyệt cửu nhật vọng diệu không; Thu thủy thu thiên sinh tịch phong. Hàn nhạn nhất hướng nam phi viễn; Du nhân kỷ độ cúc hoa tùng 九 月 九 日 望 遥 空,秋 水 秋 天 生 夕 风。 寒 雁 一 向 南 飞 远,游 人 几 度 菊 花 丛 = Trùng cửu lên ngắm trời xa. Mùa thu nước mát đẩy đà gió đêm. Nhạn kia bay mải về nam. Người chơi mấy bận bên lùm cúc hoa”. Riêng ở vùng Nhữ Nam thì còn cả tục cài lá châu du 茱 萸, nhưng ngày nay sau hàng bao nhiêu năm, người ta chẳng còn hiểu biết và hình dung ra lá châu du 茱 萸 là cái thứ lá gì nữa. (Có thể “châu du” hay “châu dâu” , Hán ngữ hiện đại phát âm là “tru dấu”, chỉ là từ phiên âm lá cây “thầu dầu” ?, lá có màu tím đỏ xòe ra như những cái lông cánh gà, cây thầu dầu tía cũng là một cây thuốc, người Việt đi bộ đường xa thường hay giắt vành khăn nhúm lá thầu dầu tía để trừ tà, hoặc có khi là nhúm lá ngải cứu để phòng bịnh - NV).Trong quan niệm phong tục dân gian vì chữ “cửu cửu 九 九” là 9 9 đồng âm với “cửu cửu 久 久” là lâu dài, ngụ ý cầu mong mạnh khỏe trường thọ.(Trong tiếng Việt thì “chín”= “lâu”, như câu “thương nhau chín đợi mười chờ”= “thương nhau chờ đợi lâu”, “lâu ”= “lão” theo qui luật tạo từ cùng nôi khái niệm là bất biến phụ âm đầu mà biến âm vận cuối; Một qui luật khác là bất biến âm vận cuối mà biến phụ âm đầu; “chín lâu” là hai từ đồng nghĩa ghép nhau có ý là càng lâu, theo qui luật lướt để tạo từ đơn âm thì đã lướt thành “cửu”, tiếng Quảng Đông đọc là “cẩu”- NV). Tiết trùng dương đã từ tiết thời gian trong năm diễn biến thành tập tục dân gian, tuy mỗi địa phương có thêm nghi thức tục lệ khác nhau, chung qui vẫn là cầu bình yên hài hòa, nội dung ấy từ hai ngàn năm nay vẫn không thay đổi. Các tập tục ngày trùng dương là: 1. Lên cao. Người ta rủ nhau lên núi cao hay tháp cao, chỗ cao, tùy điều kiện sẵn có từng nơi để thưởng ngoạn phong cảnh , nhớ lại thời cổ đại đã từng phải “lên cao lánh nạn”. Ăn bánh “cao 糕” cũng để nhắc nhớ thời phải lánh lên cao, do lấy chữ đồng âm là “cao”. Bánh cao làm bằng bột gạo xay nước ngào đường đỏ hấp chín đổ thành 9 tầng như bảo tháp, tượng trưng cho đỉnh cao và số 9, bên trên còn nặn hình hai con dê nhỏ tượng trưng trùng dương, lại cắm trên đó một ngọn đèn nến tượng trưng đăng cao là trèo lên cao, và cắm một ngọn cờ giấy nhỏ màu đỏ tượng trưng cho cài lá châu du 茱 萸. Đó là cách làm thời cận đại ở vùng Phúc Kiến. 2. Ngắm hoa cúc và uống rượu hoa cúc. Tương truyền thời Tấn có ẩn sĩ Đào Uyên Minh 陶 渊 明 rượu vào là thơ ra, lại rất yêu hoa cúc, văn nhân mặc khách bắt chước ông ta lấy ngày trùng dương làm ngày ngâm vịnh. Đào Uyên Minh sống vào buổi giao thời Tấn – Tống, chính sự hủ bại, nên ông ta từ quan về quê Giang Tây ở ẩn trồng cúc, làm thơ, nhưng có tật là rượu vào hơi xỉn thì thơ mới ra. Lần đó nhằm ngày trùng dương, ông dạo ngắm hoa mà vì nhà nghèo không có rượu nên không tài nào xỉn được, ông vặt tạm hoa cúc nhai làm mồi mà vẫn không xỉn vì không có rượu vào. Đang lúc buồn thì bỗng có người đến gặp đem cho một bình rượu, đó là sai nhân do thứ sử Giang Châu là Vương Hoằng cử đến đem rượu nói là tặng Đào Uyên Minh. Đào Uyên Minh mừng rỡ mở bình uống cho đến say xỉn. Về sau người ta cho thêm hoa cúc, là loại thảo mộc vẫn làm đồ uống trị liệu, vào trong rượu nếp trùng dương. 3.Cài lá châu du 茱 萸 . Phong tục này rất phổ biến thời Đường, hoặc giắt vào người hoặc bỏ vào túi vải đeo theo người để trừ tà, nhất là phụ nữ và trẻ em. Trái cây châu du là một vị thuốc, chất lượng tốt nhất là vùng đất Ngô tức vùng Giang, Triết ngày nay nên còn gọi là Ngô châu du, lại cũng còn gọi là cây dầu Việt , là loại cây nhỏ, cao hơn một trượng, lá như cái lông vũ, mùa hè nở hoa trắng, quả đặc có cơm béo ngậy màu vàng, quả sau thu thì chín màu tím đỏ, sách “ Bản thảo cương mục” nói cơm quả vị đắng cay mà thơm, tính ôn nhiệt, có thể trị hàn khu độc, người xưa quan niệm giắt lá nó vào người để trừ tà. Phong tục này học giả Chu Sở đầu thời Tấn viết trong “Phong thổ ký” là một phong tục của người Giang Nam. Giải thích chính xác nhất có lẽ là: Trùng cửu là lúc nông nhàn sau thu hoạch vụ thu, lại là lúc các loại cây cỏ dại, mà đa phần đều là các dược thảo quí, sau một mùa hè chói chang quả đã chín, củ đã đầy, đã đến vụ thu hái, chỉ còn hoa cúc thì lại trái khoáy “ trăm hoa đua nở mùa xuân, cớ sao cúa lại muộn mằn về thu” thì nở rộ vàng rực cả mùa thu, làm cho phong cảnh càng thêm đẹp. Người dân tranh thủ lên đồi, lên núi hái lượm cây thuốc về phơi khô dự trữ phòng khi cần chữa bệnh. Có lẽ tập quán nông nghiệp này có từ thời Thần Nông. Từ tập quán làm ăn đó mới nảy sinh ra chọn một ngày nhất định , có ý nghĩa trong mùa đó làm thành ngày lễ, rồi hóa ra tập tục. Cũng như mùa xuân thì có tục trồng cây. Các nhà văn, nhà thơ đã lợi dụng tập quán đó nâng giá trị văn hóa của nó lên với các nội dung tao nhã làm đẹp thêm nội dung của lễ tiết. Năm 1989 chính phủ TQ chính thức lấy ngày 9 tháng 9 âm lịch làm ngày Tết Người Già của toàn xã hội Trung Quốc, thêm nội dung tinh thần quan tâm người già, kính lão, kính thầy, nâng cao thêm tính nhân văn cho một lễ tiết dân gian truyền thống. ( Điểm lại các ngày lễ của ta. Sao không lấy ngày giỗ kỷ niệm Hai Bà Trưng làm ngày lễ hội văn hóa Phụ Nữ VN, tư tưởng bình đẳng vốn có của dân tộc Việt từ thời cổ đại, nhìn mặt trống đồng là thấy rõ ngay, chẳng có ai là “thiên tử” cả, mọi người mọi vật đều bình đẳng hưởng một mặt trời chung trong sáng, hai vợ chồng cùng cầm chày dã gạo đúng là “thuận vợ thuận chồng biển đông tát cạn”, mà vợ lại trước chồng trong kết cấu từ vựng “vợ chồng” đúng đạo thờ mẫu của người Việt, có lẽ nhờ vậy mới có hiện tượng Hai Bà Trưng trong lịch sử. Sao không lấy ngày họp hội nghị Diên Hồng làm lễ hội văn hóa Ngày Hội Đoàn Kết Toàn Dân Tộc – NV).1 like -
Không biết có phải chú Thiên Sứ dựa vào bài này để cảm ứng không nhỉ? Vì thấy CK tăng nóng quá, và lại thấy lời cảnh báo của chú. Nhưng khi xem lại bài trên, thì đó là nội dung của năm 2008 - năm bắt đầu cuộc khủng hoảng. Tuy vậy hãy theo dõi thật cẩn thận diễn biến thị trường1 like
-
Đúng nói riêng về lá số thì người nầy rất giầu ,tiền bạc chất dầy tủ xài không hết ,điền sản cò bay thẳng cánh ,quan lộ có lẽ làm quan nơi chốn biên địa hay các tỉnh địa đầu giới tuyến xa xôi ,nhưng đối với người bên ngoài thực tế thì có đúng không ?1 like
-
Vài lời giới thiệu về Thần Chú Thần chú tiếng phạn gọi là Mantra, bao gồm 2 chữ "Man" nghĩa là năng lực suy nghiệm (Thần) và "tra" (hậu tố từ) nghĩa là "chú = phương tiện" là lời, là tiếng, dùng làm phương tiện để diễn đạt. Như vậy, "Thần chú" là phương tiện để suy nghiệm dẫn khởi một sự nối kết giữa thân tâm (vật chất và tinh thần) bằng âm thanh cô động. Chú hay Thần chú cũng có nhiều tên gọi khác nhau như: Chân ngôn, Chân âm, Mật ngữ (Mật ở đây là sự chứng tỏ mối liên hệ Mật thiết bên trong của sự vật hiện tượng và tinh thần. Đừng nên nhầm lẫn chữ Mật là Bí mật). Trong Phật giáo Thần chú là những lời mầu nhiệm chứa đựng năng lực đặc biệt đưa đến kết quả siêu việt áo nghĩa trở thành phương tiện trợ giúp tâm thức cho thân, khẩu, ý (thân mật, khẩu mật và ý mật). Vì nếu chỉ thờ, lạy và cúng Phật, thì cũng chưa có thể gọi là trọn vẹn thuần thành, cho nên còn phải thêm phần tụng kinh, trì chú và niệm Phật để viên dung Sự và Lý. Thần chú hay được lặp đi lặp lại trong các buổi tu tập hành trì, đặc biệt là Mật Tông thực hành để thanh lọc thân khẩu ý bất tịnh trở thành thanh tịnh và thực chứng được Pháp thân mà hiển bài Báo thân hay Hoá thân trần thế này. Chú cũng có nhiều loại khác nhau, dài hay ngắn tùy theo môn phái. Trong lúc niệm Thần chú phải tập trung lên mặt chữ (các chữ đó hiện thành dụng ảnh) hay lắng nghe từng âm thanh của nó (Các tiếng đó biến thành vọng âm). Trong chương 5 của tác phẩm Subāhupariprcchā có ghi cách đọc tụng chú như sau : Đừng quá gấp rút. Đừng quá chậm rãi. Đọc đừng quá to tiếng. Đừng quá thì thầm. Không phải lúc nói năng. Không để bị loạn động. Thần chú không phải là một công thức bất động và không phải là những sóng âm thanh tác động để kêu gọi sự trợ giúp của chư Phật hay Bồ tát giúp chúng ta thoát khỏi khổ đau hoặc tiêu trừ nghiệp chướng. Thần chú chỉ là một phương tiện trợ giúp tinh thần, tri thức, ý chí qua sự nhất tâm bền vững để kết thành năng lực tối cao. Chính nhờ năng lực này Tâm trong sạch và thành thực mới cứu vớt được chúng ta. Như Đại sư Milarepa nói : "Khi chư vị tự hỏi ác nghiệp có được tiêu trừ hay không, chư vị nên biết rằng : nó chỉ tiêu trừ bằng sự ước mong của thiện tâm". Đọc Thần chú là khẩu mật (Khẩu là lời do miệng phát ra. Mật ở đây là sự chứng tỏ mối liên hệ Mật thiết bên trong của sự vật hiện tượng và tinh thần. Đừng nên nhầm lẫn chữ Mật là Bí mật). Cần nên học hỏi rõ ràng qua sự hướng dẫn của một vị tăng hay một đạo sư. Câu thần chú Hán Việt được nhiều người Phật tử đọc là : Úm ma ni bát di hồng. Một câu chú lâu đời của Phật giáo Tây Tạng, và cũng xem là Chân ngôn Bồ Tát Quán Thế Âm để bảo hộ hành giả vượt thẳng vào Phật quả hoặc vào hàng tứ Thánh. Ngoài câu chú ngắn đã kể trên, còn có bài chú căn bản này qua những tên sau : chú Đại Bi, Đại Bi Tâm Đà La Ni (Maha Karunika citta Dharani),Thiên Thủ Thiên Nhãn Quán Thế Âm Đại Bi Tâm Đà La Ni, Quảng Đại Viên Mãn Vô Ngại Đại Bi Tâm Đà La Ni, Thiên Thủ Thiên Nhãn Quán Tự Tại Bồ Tát Quảng Đại Viên Mãn Vô Ngại Đại Bi Tâm Đà La Ni, Thanh Cảnh Đà La Ni.... để minh họa công đức nội chứng của Đức Quán Tự Tại Bồ Tát (Avalokiteśvara Bodhisatva). Theo kinh Mahakarunikacitta, bài chú này được Bồ tát Quán Thế Âm đọc trước một cuộc tập họp của các Phật, bồ tát và các vua quan, cũng như câu Om Mani Padme Hum. Đại Bi chú được 2 Đại sư Phật giáo dịch ra : Ngài Không Kim Cương (tiếng Phạn là amoghavajra) hay gọi ngắn là Bất Không (Phạn ngữ là amogha), Tước hiệu là Trí Tạng Sanh năm 705 tại nước Sư Tử (nước Tích Lan Sri Lanka bây giờ) và mất năm 774. Một Đại sư của Mật tông và cũng là một trong bốn dịch giả danh tiếng nhất của Thánh điển Phật giáo tại Trung Quốc, song song với Cưu-ma-la-thập. Chân Đế và Huyền Trang. Sư được xem là vị Tổ thứ sáu của Mật giáo và người đệ tử của Ngài được đích truyền là sư Huệ Quả, được xem là Tổ thứ bảy của Mật tông Trung Quốc. Một đệ tử quan trọng khác là Huệ Lâm. Ngài Kim Cương Trí ( tiếng Phạn là Vajrabodhi ) hay Kim Cang Trí, sanh năm 671 và mất năm 741. Một Đại Sư Phật giáo cũng là Thầy của Ngài Không Kim Cương và Thai Tạng. Sư sinh ra trong một gia đình Bà La Môn tại Malabar, Nam Ấn, theo học đạo tại Na Lan Đà từ năm lên 10 tuổi. Sau đó đi qua các vùng khác của Ấn Độ và đã học rất nhiều giáo lý Đại Thừa như : Duy Thức Luận, Trung quán Luận, Du Già Luận. Năm 31 tuổi, Ngài đi đến Tích Lan và thọ nhận pháp Mật Tông với Đại Sư Long Trí ( tức Ngài Pháp Mật hay Phổ Hiền ). Sau 7 năm am tường Mật Giáo, Sư trở về Trung Ấn. Một thời gian sau, Sư đi đến Java với một đồ đệ 14 tuổi, chính là Ngài Bất Không Kim Cương sau này, rồi tiếp tục du hành sang Trung Quốc. Cuối năm thứ 7 Khai Nguyên (719) nhà Đường. Tại đây Sư lưu lại ở các chùa Tư Thánh và Đại Tiến để dịch kinh. Trong đó có các bộ kinh Kim Cương Đỉnh Du Già được lưu truyền phổ biến. Ngài đã truyền lại rất nhiều giáo lý Đại Nhật và Kim Cương. Ngài cũng được tôn là bậc Thầy của hệ Kim Cương và Thai Tạng. Dòng truyền thừa của Sư Kim Cương Trí được xem là dòng Chính Mật và nhánh truyền thừa của Ngài như sau : Đại Nhật Như Lai | Kim Cương Tát Đỏa | Long Thọ | Long Trí | Kim Cương Trí. Sau này Đại Sư Không Hải, tổ của Chân ngôn tông, Nhật Bản cũng nhận pháp từ chính dòng này theo nhánh truyền thừa như sau: Kim Cương Trí | Bất Không Kim Cương | Huệ Quả | Không Hải. Đại Bi chú có nhiều bản dịch khác nhau qua sự tìm hiểu và nghiên cứu của các Bậc Đại sư trên thế giới từ xưa, và nhiều cách chia câu không giống nhau so với bản chữ Phạn thì các cách trên không đúng phép ngắt câu văn phạm, nhưng không quan trọng. Chủ yếu là nội dung không thay đổi Chú Đại Bi có hết thảy 84 câu và 415 chữ, là bài Tổng Trì của ngài Quán Âm Thiên Thủ Thiên Nhãn. Các Tổ xưa thường hay cặp đôi Đại Bi với Bát Nhã, vì Từ Bi và Trí Tụê là đôi bạn không thể rời nhau trong dòng giáo truyền. Tran thanh Trich nguon : http://chua-phuoc-binh.com/1 like
-
Cọp rồi Rán1 like
-
Sg Ngập Nắng
+Achau+ liked a post in a topic by Nắng
@khangduong: Tết này mà ra được HN, thế nào a CM cũng xuống HP. 2 mẹ con e cứ khỏe để còn tiếp đón nhé :huh: http://www.lyhocdongphuong.org.vn/forum/public/style_emoticons/default/happy.gif http://www.lyhocdongphuong.org.vn/forum/public/style_emoticons/default/happy.gif . Mà thu xếp được thì 2 mẹ con chị gái e cũng sẽ bám càng xuống thăm e và Haji. @Hạt Gạo Làng: Cô em khangduong hồi đầu năm nhờ Nắng nhờ huynh trưởng xem tử vi, huynh trưởng Nắng đã nói năm nay T11 sinh e bé. Khi có bầu, cô bé nửa tin nửa ngờ, vì đúng ngày đúng tháng sẽ sinh vào T10 chứ ko thể sang T11, nhất là con so thường sinh sớm. Không ngờ, thai hiện bị già quá 41 tuần và thực tế là sang T11. Sự vi diệu của huyền thuật mới bao la cỡ nào??? Thai già nên khangduong cũng khá lo lắng, Nắng chỉ có thể tư vấn về cách sinh cho ko mất sức, cách chăm con chăm mẹ, thực đơn bà mẹ, ... nhưng chờ mãi mà bé vẫn chưa ra đời. Bởi vậy, khangduong có nguyện vọng xem ngày giờ đẹp để có thể mổ và rất tin tưởng vào huyền thuật bởi câu chuyện Nắng nói trên. Bật YM, thấy có a online nên Nắng mạo muội nói khangduong nhờ a là thế. Dù Nắng biết, biết ngày giờ đẹp là một chuyện, còn có đẻ hoặc mổ được đúng ngày giờ đã chọn hay không còn phụ thuộc vào ý trời.1 like -
Khôgn biết đã đúng lá số chưa? Người có phải cao, hơi nặng xương, khuôn mặt hình chữ nhật, dáng người hơi thô, chân mày đậm? Có nóng nảy thích oánh nhau?1 like
-
Năm 1912, tờ Thông Thiên Học tạp chí "Ubtra" (Revue Théosophique), dưới ngòi bút của Ðại Úy Florendo Battista, người nước Ý, có thuật chuyện lạ dưới đây: Tháng 8 năm 1905, lời của Ðại Úy, tiện nội có mang vừa được ba tháng. Trong khi nằm trên giường còn thức, bỗng thấy đứa con gái chúng tôi chết hơn 3 năm rồi, hiện hình về nói với mẹ nó: "Nầy má, con sẽ trở lại với má đa". Nói xong nó liền biến mất. Tiện nội đem chuyện lạ ấy thuật lại tôi nghe và nói nếu thiệt sanh con gái, thì nên đặt tên là Blanche, tức là tên đứa gái đã qua đời. Tôi cho là chuyện mộng mị và mặc dầu không tin, tôi vẫn hứa cho tiện nội vui lòng. Phải biết, thuở giờ, tôi không chịu tin cái thuyết đầu thai nhiều kiếp. Sáu tháng sau, tiện nội quả sanh được một đứa gái giống hệt con Blanche, vợ tôi hết sức vui mừng. Sự giống nhau đó, đối với tôi, không có chi là lạ, vì tôi tự nghĩ hễ có mang mà mơ tưởng đến ai, khi sanh con, nó giống người ấy, thế thôi. Lúc con bé được sáu tuổi, nó càng giống thêm chị nó, cho tới lời ăn tiếng nói và nết na cũng vậy. Tuy nhiên tôi không thế nào tin đuợc con Blanche chuyển kiếp. Kịp đến khi xảy ra chuyện lạ dưới đây, tôi mới chịu đổi ý kiến. Nguyên hồi trước chúng tôi giao con Blanche cho một chị vú chăm nom tên Marie, người nước Thụy Sĩ nói rành tiếng Pháp, mỗi lần ru em ngủ, Marie thường hát bài "Cantilène" bằng tiếng Pháp. Sau khi con bé tôi bất hạnh, chị vú không còn phận sự nên xin về xứ. Từ đó, trong nhà tôi, không còn nghe bài hát ấy nữa, vả lại, có ai biết hát đâu? Chín năm lặng lẽ trôi qua, một hôm vợ chồng tôi đang loay hoay làm lụng khít bên phòng con Blanche em, bỗng nghe có tiếng ai hát bài "Cantilène" trong phòng ấy. Ngạc nhiên đến cực độ, chúng tôi không ai bảo ai, bước vội vào phòng, thấy con Blanche em, mắt mở trao tráo, miệng hát bài ru em ấy theo giọng Pháp một cách đường hoàng đứng đắn thật là lạ. Tiện nội hỏi nó hát bài gì, nó đáp hát bài hát tiếng Pháp (mà có ai dạy nó tiếng Pháp đâu?) Mẹ nó lại hỏi ai dạy nó hát, thì nó nói: "Không ai dạy hết tự một mình nó biết mà thôi". Từ đây tôi mới chịu tin có kiếp Luân hồi.1 like
-
Tướng Mạo
Trí Phương liked a post in a topic by Lốc Cốc Tử
TƯỚNG MẠO LỐC CỐC TỬ Tiếp theo MIỆNG * Miệng vuông vắn có thành có bờ ( Bờ ở đây là ở viền môi có một đương viền sáng ) Phú quý * Miệng rộng , đầy đặn : Sang giầu . * Miệng như thoa son : Không sợ đói khổ . * Miệng như vành trăng treo ( ngưỡng nguyêt khẩu ), góc miệng đưa lên thật rõ ràng cộng với * Răng trắng môi hồng : Là người văn chương đày bụng , có tiếng tăm * Miệng hình vòng cung ( Loan khẩu ) góc miệng nhích lên , đôi môi đỏ hồng : Người này sẽ được phú quý lâu dài . * Đôi môi thật dầy dầy ( Ngưu khẩu ), quang nhuận , hơi thở thơm tho , tiêng nói như sấm : Thuộc loại người đại phú quý . * Miệng rộng ( Hồ khẩu )cộng đôi môi dầy : Người giầu có . * Miệng dài , nhân trung dài và sâu : Người có phúc lợi nhiều * Miệng lệch và mỏng : Bần hàn . * Miệng như túi buộc túm : Chết đói . * Hai mép xệ xuống như miệng cá : Loại người phá gia bại sản . * Miệng như người đang thổi lửa : Nghèo hèn . * Miệng như cái thuyền úp , môi dầy , mép xệ : Loại người bần cùng , tham ăn . * Miệng như miệng con cá Ngão ( Khang ngư khẩu ) : Bần cùng khổ suốt đời. * Miệng Lợn ( Chư khẩu ) là người có môi trên dài mà thô , môi dưới nhỏ , hai mép chẩy dài : Là loại người nham hiểm , không thọ được lâu . 6 ĐÔI MÔI . Đôi môi là thành quách của cái miệng , môi nên dầy và có bờ . Môi mỏng mà không có bờ là không tốt (Bờ là đường viền sáng quanh môi). * Môi có mầu sắc hồng nhuận , quang minh :Tốt . * Đôi môi dầy : Người trung tín . * Đôi môi bóng bẩy , đỏ cộng với vừa nói vừa thỉng thoảng liếm môi ;Người ham khoái lạc và dâm . * Môi xám mặt xanh : Bệnh tật và tai họa luôn luôn rình rập . * Môi trên mỏng : Người sảo trá . * Môi dưới mỏng : Bần tiện . 7 HÀM RĂNG. * Răng trắng như bạch ngọc : Cao quý . * Răng đều như hạt lựu : Phúc lộc nhiều . * Người có răng nanh : Thường là người có duyên và có khả năng kinh doanh . * Răng trên rộng dưới hẹp : Hay được ăn uống . * Răng đen , xám : Đoản thọ . Đừong tình cảm không được suôn sẻ . * Răng vàng khè : Chuân chuyên . * Răng trên nhọn dưới bằng : Ăn uống kham khổ . * Răng nhỏ ngắn thô : Người nhu nhược . Không thọ , uổng công đèn sách . * Răng trắng , môi hồng : Sĩ tử văn chương , có năng khiếu về nghê thuật , hoặc mỹ thuật . 8 LƯỠI . * Lưỡi ngay ngắn , sắc hồng , cử động dễ dàng : Cao quý . * Lưỡi dài có thể liếm được đàu mũi : Đại quý . * Lưỡi đỏ chót như son : Hoạnh tài . * Lưỡi ngắn nhỏ : Vấy vả , tham lam . * Lưỡi trắng bệch : Khổ sở . * Có nốt ruồi ở lưỡi : Nói dối như cuội . * Chưa nói lưỡi đã thè ra đầu môi : Dối trá . * Vừa nói vừa liếm môi :Con gái cực dâm . * Lưỡi cử động như lưỡi rắn : Là người có tâm địa độc ác . * Lưỡi đầy mồm : Người vụng về . 9 MÁI TÓC . * Đầu tóc bù xù : Thể hiện sư sa đọa . * Tóc thô cứng , đỏ : Người hung ác , ngu xuẩn , độc ác . * Tóc rít không chải được : Bất hiếu bất trung . * Tóc mọc trên trán : thời niên thiếu khổ sở . * Tóc quá rậm : Khắc thê . * Tóc quá ít : Thiếu sinh lực . * Tóc đen , cứng bóng : Người có sinh lực dồi dào . * Ngừời có mái tóc như trên cộng với thân thể to lớn : * Phong phú sinh lực , gan dạ ,tham lam , hiếu sắc , ương ngạnh . * Người nào sau gáy có tóc lô nhô : Trong đời cần đề phòng bệnh hoa liễu . Các cụ xưa có câu : “ Cái Răng , cái Tóc là vóc con người “ . Khi xem tướng ta cần lưu ý .1 like -
Tướng Mạo
phut liked a post in a topic by Lốc Cốc Tử
TƯỚNG MẠO Lốc cốc tử biên soan Sau hàng chục năm được xem nhiều sách của nhiều tác giả và , nhất là được nghiên cứu thực tế trên hàng nghìn bàn tay của mọi lứa tuổi , mọi nghề nghiệp , tôi cũng rút đúc được một số kinh nghiệm về TƯỚNG MẠO của con người .Tôi xin được mạnh dạn trình bầy rất mong được các bạn nghiên cứu và góp ý . -Tâm con người nhà Nho gọi là LINH ĐÀI - Đạo GIÁO gọi là LINH QUAN - Đạo PHẬT gọi là LINH SƠN. *Tâm là chủ gia của hồn phách , lo cho sự động tĩnh của Tinh, Khí, Thần . *Tâm là chỗ của Tinh khí ngự , không có Tâm , Tính không tồn tại . Tính với Tâm hợp thành một khối. Nói:”Tâm hay Tính tốt .” Hai cái đó chỉ là một . * Người đời có hàng trăm tâm tính. Xin đúc kết lại điển hình những lọai sau : _Tính Trung lương từ thiện . _Tính cao thượng cương trực _Tính cẩn thận chừng mực _Tính an thường , thủ phận . _Tính tham lam quá quắt . _Tính hồ đồ đa nghi _Tính bủn xỉn keo bẩn _Tính đó kỵ ghen ghét * Tâm là gốc của hình mạo . Từ Tâm mà xét ra hình mạo , hoặc ngược lại từ hình mạo mà suy ra Tâm của con người . Tất cả những cái đó đều thể hiện ra Tướng mạo . Từ Tâm mà thể hiện ra Tướng . Từ Tâm (Tính ) sự thể hiện của Tâm ra thái độ , chúng ta sẽ đúc kết được những kết quả như sau : - Tâm tính cha mẹ không công bằng: Con cháu hư đốn . - Tâm tính hòa bình: Con cháu vinh hiển - Tâm tính cố chấp: Dễ gây tai họa . - Đại phú quý mà vẫn bình thản: Sẽ được hưởng Phúc Thọ vô cương . - Kính già , thương trẻ: Người đáng tin cậy . - Ngôn ngữ nhiều câu phản phúc: Là con người quỷ quyệt . - Cúi đầu nói nhỏ: Là con người gian tham. - Thái độ hùng hùng hổ hổ: Không phải kẻ anh hùng hào kiệt. - Trọng giầu khinh nghèo: Là người bất nhân. - Có mới nới cũ: Là kẻ bất lương . -Quên ơn, nhớ oán: Công danh bất thành. - Gập ai cũng là tri kỷ mà chơi thân: Là kẻ phản trắc. - Mới có chút tiền mà đã kiêu căng: Là kẻ tiểu nhân , dễ gặp tai họa. - Người hay hứa hẹn, kể công: Là kẻ bất nghĩa . Tất cả những điều nói trên chúng ta có thể quan sát bên ngoài mà họ thể hiện ra TƯỚNG MẠO và qua cử chỉ hành động của người ấy trong một thời gian nào đó . A - Quan sát ngôn ngữ. - Chính nhân quân tử: Nói điềm đạm , mạch lạc. Âm phát ra nghe mạnh . - Người ngay thẳng bác ái: Nói năng ôn tồn thư thái . - Người mềm yếu bạc nhược: Nói bầy nhầy, âm thanh phát ra như đi trong bùn . - Người đa nghi , thiếu nghị lực: Nói quanh co, ậm ừ. - Người cố chấp: Âm thanh phát ra nghe như tiếng cắt sắt, nghe lạnh, vô tình . B - Quan sát thái độ . - Chính nhân quân tử: Thái độ và cách cư xử trang nghiêm đứng đắn. - Lão thành kinh lịch: Thái độ và cách cư xử trước sau như một. - Người cương trực: Thái độ và cách cư xử cẩn thận nhưng không câu nệ - Bọn tiểu nhân: Nói khéo ưa làm thân, quen cầu cạnh. C - Quan sát mục đích và cách làm việc: -Thấy hoạn nạn hay giúp người nhưng không kể công: Là người chuộng nghĩa. Những người này thương hay hy sinh nhận phần thiệt thòi về mình để nhường phần lợi cho người khác. (Họ có thể nói dối. Nhưng câu nói dối đó lại có lợi cho người khác. Thí dụ: Trong một lần ăn cơm, thấy cơm trong nồi còn ít, họ nói với anh bạn: ”Tôi ăn no rồi, anh ăn nốt đi!” Nhưng thực ra họ chưa ăn. Loại người này thường khỏe mạnh và thọ lâu, it ốm đau bệnh tật . -Thấy lợi hay tranh giành: Là những người ti tiện hẹp hòi.( Tất nhiên hiện nay trong kinh doanh là phải cạnh tranh, nhưng đó là sự cạnh tranh lành mạnh . Trong thể thao người ta hay dùng từ fairplay để chỉ những ngừoi có tinh thần thượng võ . - Nay phải, mai trái, hồ nghi bất quyết: Đó là bọn gian trá. - Người quân tử: An phận thủ kỷ. - Kẻ ngu xuẩn: lúc nào cũng gây sự. D - Quan sát đôi mắt: - Mắt sáng, linh hoạt: Người thông minh, gan dạ. - Mắt ôn hòa: Là người chính nhân quân tử. - Kẻ gian ác: Mắt ba góc, có những tia đỏ đầy săc khí . - Kẻ dung tục: Nhãn quang trầm trệ. - Người kiêu căng: Mắt ưa nhìn lên. - Kẻ ích kỷ hại nhân: Mắt ưa nhìn xuống. - Kẻ âm mưu bất chính: Mắt có tà thị , không dám nhìn thẳng. - Kẻ ngạo ngược bất nhân: Mắt dê (Dương nhãn) E - Quan sát tướng mạo. - Người ôn hòa: Ngũ quan chính trực. - Kẻ thủ đoạn: Quyền cốt cao, mặt xanh xanh. - Bọn cơ hội: Đầu nhọn mắt nhỏ . - Kẻ gian giảo: Đầu mũi nhọn, không có thịt . - Kẻ bất nghĩa: Mặt xạm đen. (Chú ý không nên nhầm với nước da ) - Da mặt mỏng: Dễ thay đỏi lòng dạ - Người huyết dũng: Lúc giận thì mặt đỏ . - Người mãnh dũng: Lúc giận thì mặt xanh. - Người cốt dũng: Lúc giận thì mặt trắng bệch. - Người thân dũng: Vui buồn không lộ ra nét mặt . - Người lộ hầu: Dễ xẩy ra nhiều tai ách. - Đầu nhỏ: Nghèo nàn. - Người có dáng đi như rắn bò (Lắc người, uốn lượn): Bôn ba lao khổ . Còn tiếp ……1 like -
1 like
-
Yên tâm đi ông xả dù có hơi trăng hoa 1 chút cũng chẳng sau ,vì 2 lá số nầy có sự truyền hệ, nếu cần ngó lơ cho ông ta xả hơi ,thì vợ chồng cũng sống trong hòa bình tới răng long tóc bạc ,miễn là ông ta không bê tha vợ con thôi ! cả 2 số nầy không thể làm giàu được cuộc sống chỉ mức khá giả ,đừng đặt kỳ vọng nhiều con cái quá sẽ thất vọng ,vì cho thấy con cái không thành đạt cao ,còn nếu muốn cho con du học thì cắc cũm tiền nong để dành đó xem khi nào chúng lớn lên có đứa có số du học hay không nữa .1 like
-
Sinh Tân Mão tuổi con và mẹ trực xung, xấu!1 like
-
Chị hỏi ngta vì sao mà xấu? Canh làm sao năm 2012 sinh con vào mùa xuân và mùa hạ là hợp mùa nhất!1 like
-
1 like
-
1 like
-
Thần chú Cầu Tài Tại một số nhà ngoài hai tượng của Ông Địa và Thần tài như bình thường , người ta còn thờ ở chính giữa ban thờ một vị như hình đầu tiên . Vị đó chính là Hoàng Thần Tài . Hoàng Tài Thần là hóa thân của Bảo Sanh Như Lai (Ratnasambhava) ngự tại Bắc phương trong Mandala tượng trưng Bình Đẳng Tánh Trí . Hoàng Tài Thần có 8 vị thần tướng vận chuyển về tài và Tứ Đại Thiên Vương theo hộ Pháp . Có tất cả 5 vị Thần tài : Hoàng Thần tài , Bạch Thần Tài , Hỏa Thần Tài , Hắc Thần Tài , Lục Thần Tài . Trong đó : ” Hoàng Tài Thần chủ về PHÁP TÀI : Trì tụng chú của Ngài hành giả sẻ được tăng trưởng thêm về Phật Pháp và công đức cũng như tiền bạc , theo kinh điển Mật Tông thì ngài hiện thân trừ thiên ma quấy phá lúc Phật Thích Ca Mâu Ni lần đầu thuyết Bát Nhã Tâm Kinh , sau đó Thế Tôn thọ ký cho Ngài như nguyện làm Thiên Tài-Hộ Pháp . Bạch Tài Thần chủ về TÂM TÀI : Chủ trừ các phiền não về tài và hóa giải các định nghiệp . Hỏa Tài Thần coi về ÁC TÀI : năng trừ các kẻ thù về tài , làm cho trí huệ tăng trưởng . Hắc Tài Thần coi về TÀ TÀI : Chủ trừ các tà quỉ , oan gia đến báo vì tài . Lục Tài Thần coi về YỂU TÀI : Năng trừ yểu mệnh vì tài . Hoàng Tài Thần là hóa thân của Bảo Sanh Như Lai (Ratnasambhava) ngự tại Bắc phương trong Mandala tượng trưng Bình Đẳng Tánh Trí . Hoàng Tài Thần có 8 vị thần tướng vận chuyển về tài và Tứ Đại Thiên Vương theo hộ Pháp . Bạch Tài Thần là hóa thân từ giọt nước mắt bên phải của Ngài Quán Thế Âm Bồ Tát (Tara Độ Mẫu là hóa thân từ giọt nước mắt bên trái), Bạch Tài Thần có 4 vị Đồ Cát Ni (Dakini), hộ trợ , vận chuyển về tài lộc . Hỏa Tài Thần là hóa thân của Ngài Kim Cang Tát Đỏa (Vajrasattva) Hắc Tài Thần là hóa thân của A Súc Bệ (Akshobyah) Diệu Sắc Thân Như Lai , ngự tại hướng đông của Mandala tượng trưng Đại Viên Chủng Trí . Lục Tài Thần là hóa thân của 1 trong Tứ Đại Thiên Vương . Nếu Bạn có trì Chú của Chư Vị này , trước nên trì Kim Cang Tát Đỏa bách tự minh chú hay Đại Bi hoặc các thần chú linh cảm của Quán Thế Âm thì công năng sẻ tăng rất nhiều . Nếu chỉ thuần túy cầu xin tài lộc , chỉ trì tâm chú của Hoàng và Hắc Tài Thần là đủ rồi . Hoàng Tài Thần Tâm Chú : OM DZAMBHALA DZALENTRAYE SVAHA Bạch Tài Thần Tâm Chú : OM PADMA TROTHA ARYA DZAMBHALA SIDDHAYA HUM PHAT . Hỏa Tài Thần Tâm Chú : OM DZAMBHALA DZALIM DZAYA NAMA MUMEI E SHE E . Hắc Tài Thần Tâm Chú : OM JLUM SVAHA OM INDRAYANI MUKHAM BHAMARI SVAHA . Lục (xanh lục) Tài Thần Tâm Chú : OM DZAMBHALA DZALIM DZAYE SVAHA . ” ( Chép lại bài viết của Thày Sương Mãn Thiên ) Một bản Anh ngữ và bản lược dịch kèm theo mà dienbatn sưu tập được ( Quên mất nguồn ) nói về Hoàng Thần Tài như sau để các bạn tham khảo : ” The Lord of Wealth, Granter of Supreme Accomplishments Establish the motivation Main practice: From emptyness appears a multicolored lotus Upon which is a sun with a golden-yellow DZAM (on it) I become golden Dzambhala with a semi-wrathful face Right hand holding a citron fruit and Left hand grasping a mongoose emitting a shower of jewels Wearing a crown of the Five Buddhas And adorned with a garland of blue utpala-flowers and many jewels and heavenly clothing. Both feet pressing on the great treasures (such as) ‘Conch-Owner’ and ‘Lotus-Owner’ In my forehead is a white OM The throat is a red AH And in the heart is a blue HUNG From these three syllables shine forth multicolored lights The gathering of Wisdom-beings and the Empowerment-deities dissolves (into myself) Visualization during mantra-recitation: At the heart is a golden-yellow DZAM circled by a golden-yellow mantra garland with light radiating Making offerings to all Buddhas and Bodhisattvas, gathering back their blessings Purifying the obscurations of all sentient beings of the Three Realms Establishing all in the state of Peace and accomplishing all the enlightened-activities The light returns and dissolves into the mantra-garland and the seed-syllable OM DZAMBHALA DZALENDRAYE SVĀHĀ Offerings: OM VAJRA ARGHAM/ PĀDYAM/ PUSHPE/ DHŪPE/ ĀLOKE/ GANDHE/ NAIVEDYĀ/ SHABDA/ PRATĪCCHA SVĀHĀ Praise: Lord of Wealth, owner of precious treasures Master of many yaksha keepers of wealth Guardian of the North, Protector Dzambhala Wealth-deity, granter of supreme accomplishments – I prostrate and praise! Dedication: By this virtue, may I swiftly Attain the state of the Noble Dzambhala And (may I) establish all beings without exception In that very same state ” ” zambhala đã hiện hữu trong vô số kiếp . Trong một tiền kiếp của Phật , Ngài chỉ là một gã đốn củi nghèo nàn . Ngài thực hành về thần chú Dzambhla , như một kết quả , Ngài trở thành một vị vua đầy quyền lực và giàu có . Lúc ấy , với nhiều phương tiện trong tay , Ngài hành pháp Bố Thí Ba La Mật và đạt đến viên mãn pháp này . Ngài đắc quả Sơ Địa . Do đó , Dzambhla , dù rằng là Bổn Tôn Tài Bảo Thịnh Vượng , nhưng được xem là Cha Mẹ Chư Phật , tượng trưng cho hạnh Bố Thí Ba La Mật của Chư Phật . Dzambhla được Phật phú chúc vào thời gian sau khi Ngài nhập Niết Bàn , thường qua lại trong các cõi , ủng hộ chúng sinh tăng trưởng hạnh phúc thịnh vượng và hộ pháp . Bản văn trên là một đoản tụng , có thể dành để gieo nhân duyên cho người thành tâm , chân thật thâm tín Phật Pháp . Đi đến sự tăng trưởng hạnh phúc trong vật chất cùng tinh thần là con đường hướng thượng ! Tu là hạnh phúc với Trung Đạo , chớ chẳng phải gò ép xác thân , rồi bị xiềng trói trong một ảo kiến tự ngã vi tế !” B/ Qua nhiều năm thực hành nghiên cứu , dienbatn thấy Thần Tài – Ông Địa có những đặc tính nổi bật sau đây : 1/ Tuy thờ cúng , bàn thờ để dưới đất , nhưng các vị này rất ưa chuộng sự sạch sẽ , sáng sủa . Chính vì vậy , trong quá trình thờ cúng , chúng ta nên giữ cho các vị này luôn sạch sẽ bằng cách tắm rửa thường xuyên bằng nước hoa thơm , xịt nước hoa . Một cách thấy có hiệu quả nhất mà dienbatn nghiệm thấy là khi Trời mưa to , các bạn bê Thần Tài , Ông Địa , Ông Cóc cho vào một cái thau sạch và để tắm mưa ngoài Trời độ 15 phút . Sau đó mang vào lau khô , xịt nước hoa và thắp hương xin . Nhiều lần thấy rất Linh diệu . 2/ Khi cúng Thần Tài – Ông Địa , người ta thường cúng nhiều thứ , nhưng dienbatn thấy có lẽ các vị này thích nhất là đồ ngọt , Thịt quay , bánh hỏi , chuối , bưởi . Có lần một vị về báo mộng xin cúng chuối , sau khi cúng là có lộc liền . Nếu bạn nào ở Sài Gòn , nên mua tiền giấy cúng riêng Thần Tài – Ông Địa , người ta làm sẵn cả một bộ , trong đó có tiền Quý Nhân ( Âm và Dương – Tức là những tờ giấy gập đôi màu đỏ có đục những hình Thần Tài khắp bề mặt ) . Thứ tiền này , dienbatn không thấy có bán ở miền Bắc . 3/ Cách thắp nhang : Khi mới lập bàn thờ , chúng ta nên thắp nhang liên tục trong 100 ngày để bàn thờ tụ Khí . Tuyệt đối không vì sợ tốn điện mà tắt đèn trên bàn thờ , vì những ngọn đèn đó giống như những ngọn Hải Đăng dẫn đường cho các vị giáng xuống . Trong 100 ngày đó mỗi sáng chỉ cần thay nước và thắp một nén nhang . Những lúc cần cầu xin điều gì thì thắp 3 nén cắm theo hàng ngang . Những ngày rằm , mùng một , lễ , tết thắp 5 nén theo hình chữ thập . Nên chọn loại nhang cuốn tàn ( giữ được tàn ) , sau một thời gian sẽ có bát hương rất đẹp và tụ Khí rất tốt . Chỉ đến ngày 23 tháng Chạp mới rút chân nhang và đem hóa cùng tiền giấy . Khi hóa xong nhớ đổ một chút rượu vào đám tro . 4/ Không để hoa , lá héo úa trên bàn thờ , vì khi đó dễ dẫn đến làm ăn khó khăn . C/ CÁC BÀI CHÚ CẦU TÀI ĐỌC TẠI BÀN THỜ ÔNG ĐỊA – THẦN TÀI : ( dienbatn sưu tập và được thày Sương Mãn Thiên chỉ dạy ) các bạn có thể sử dụng : Các loại Chú cầu Tài : BẠCH Y THẦN CHÚ : Câu chú này dùng tất cả trong những công việc của đời thường. Cầu xin may mắn , tai qua nạn khỏi .Cầu xin các Tổ nghề dạy nghề, Thỉnh Long Thần hộ Pháp…Đọc khi Khai trương, mở tiệm ,bán nhà , làm cho vợ chồng thương yêu nhau ,hộ thân , cầu mua may bán đắt , giải ếm , làm mồ mả, hay bất cứ công việc gì đều có thể được . Người thường chỉ cần tụng theo nghi ở dưới, riêng các Thày có thêm phần vẽ Phù Linh Thần. BẠCH Y THẦN CHÚ : (Nam mô đại từ đại bi – Tầm thinh cứu khổ, cứu nạn – Quảng đại linh cảm – Bạch Y Quán thế âm Bồ tát ) – 3 lần. Nam mô – Bút đada – Nam mô – Đạtmada – Nam mô xănggada. Nam mô – Arida – Avalôkitê – Xoarada – Tadactha. ( Ohm – Gara oata – Gara oata – Gaha oata – Raga oata – Raga oata – Xoáha ) – 7 – 21 –108 biến. Thiên la Thần, Địa la Thần. Nhân ly nạn , Nan ly thân , Nhất thiết tai ương hóa vi trần. Nam mô Bạch y Quán Thế Âm Bồ tát – Cảm ứng chứng minh cho con là……….tuổi…….. địa chỉ…….. ( Xin gì thì nói ra ). QUAN ÂM ĐỘ TRÌ GIA MÔN KINH QUAN ÂM ĐỘ TRÌ GIA MÔN KINH ! Phật tử Quan Âm gia môn kinh , bảo ngả gia môn vạn sự hưng , bảo ngả gia nội đại phú quí , bảo ngả gia môn thêm tài đinh. Nhật nhật tụng kinh hửu thât’ biến , Thần Phật thính chi bất cam hiềm , tiền nhật hửu tội kim nhật giải , kim nhật giải tội hửu vạn biến. Nhật nhật tụng kin hửu thiên bàn , kháo Thần kháo Phật tối thái sơn ,nhất lai bảo nam nhị bảo nử , bảo ngả hợp gia độ bình an.Bái Phật bái Thần bái từ bi, cầu Thần cầu Phật lai bảo an , gia trung đại tế Phật lai bảo, gia nội hửu sự phất mạt khai. Bái đáo lô để hương hựu hương , bái đáo đăng quang trúc hựu hồng , bái đáo gia nội đại phú quí , bái đáo tử tôn đô bình an. Quan Âm trụ tại Phổ đà sơn , gia nội phụng kính đô nhất bàn , hửu nhân tụng đắc Quan âm kinh , thiên tai bách nạn tận tiêu hội. Quan Âm nương nương tại gia viên , tảo tảo vảng vảng nương phù trì , ma ha Phật tổ lai tứ phúc , tứ ngả gia môn phúc lộc tồn. Nam mô bồ tát ma ha tát, ma ha chư Phật bảo bình an. Nam mô a di đà Phật (7 lần) án ma ni bát di hồng , ma hắt nghê nha nạp , tích đô đặc ba đạt , tích đặt ta nạp , vi đạt rị cát , tát nhi cáng nhi tháp , bốc rị tất tháp cát nạp , bổ ra nạp nạp bốc rị ,thưu thất ban nạp nại ma lô kiết , thuyết ra da tá ha. (7 lần ) Trì Quan Âm gia môn kinh trên mổi ngày , giải tai ách chướng nạn , hưng vượng phú quí , tùy sở cầu mà có , cầu tài có tài , cầu con có con…….Thần Phật luôn ngự trị , phù trì nơi nhà mình. CHÚ VÁI ĐẤT ĐAI , THỔ ĐỊA , THẦN TÀI . ( sáng chiều 2 lần thắp nhang cầu nguyện đọc 3 lần ) Nam mô Ngũ phương ngũ thổ Long Thần , Tiền hậu địa chủ Tài thần , Thành hoàng bổn xứ , Thành hoàng bổn cảnh , đất đai dương trạch , đất nước ông bà cảm ứng chứng minh phù hộ đệ tử ….(tên họ tuổi v.v…..) gia trạch bình an , thương mại hiệp thuận , đa khách đáo lai v.v….. ( Khi mình đi chổ lạ ngủ qua đêm hay ngủ nơi khách sạn v.v….cần vái câu này , cũng như là dùng lể ra mắt vậy ) CHÚ CẦU TÀI ĐỌC NGAY BÀN THỜ THẦN TÀI SÁNG CHIỀU . Trương thần Táo , quan thần Địa , tài thần chí , chơn thân hạ giáng , hiện thân lai lâm hộ trì đệ tử (tên họ tuổi v.v……) cầu tài hưng vượng , vạn sự an khương ( 3 lần ) Ôm chên pa la cha linh cha na de xoá ha (21 , 36 , 72 , 108 lần bao nhiêu tuỳ mình , càng nhiều càng tốt , đây là tâm chú của HOÀNG THẦN TÀI ) CHÚ CẦU TÀI Phụng thỉnh Tam Thanh giáo chủ cứu độ dương gian , trên ông Hắc Đế ra lịnh . Nam mô Đông phương Thanh Đế Tây phương Bạch Đế Nam phương Xích Đế Bắc phương Hắc Đế Trung Ương Huỳnh Đế . Thần Lôi , Long Thần , Tài Thần , Trạch Thần , Thổ Thần , ngũ phương ngũ thổ nghiêm trang chỉnh tề hộ độ đệ tử (tên họ tuổi ……),sở nguyện thành tâm , sở cầu thương mãi hiệp thuận , đa nhơn lai đáo (hay tài lợi sung mãn v.v….). (Sáng ,chiều 2 thời đốt nhang ngay Đạo Tràng hay bàn thờ Thổ Thần đọc 5 lần mỗi khi ) Chú Cầu Tài Pali Nam tông (của Lục Cả Miên truyền). Nắc mô ta sắ , phắ cá quá to , á rá há to , sam ma sam pút đa sắ (3 lần lạy Tam Bảo 3 lạy) Ê mê hê ly ba thu ba ty , ca rê hê Pút Thăn Thơm Măn Son Khăn , a bi bớt cha đẹt mi , Pút Thăn mê ta Thơm măn mê ta Son khăn mê ta Pút Thăn à nách Thơm Măn à nách Son Khăn à nách Một kho luôn kha-nhum hon …( tên họ tuổi mình v.v…)ê hý mặc mặc . (đọc câu này 5 lần sáng , chiều) Chú Thần Tài Xiêm (Thái Lan) Nắ lư mô linh sa hảnh thù thăn lu cà fụt , danh là danh na sang thì sưởn lảnh ca , Nắ Mô Pút Thê Dắ . ( Nơi đây chúng tôi đã phiên âm từ chử Pali ra theo lối đọc của tiếng Việt , câu chú này có thể đọc 3 , 5 , 7 , 9 , 21 , 36 , 72 , 108 lần tùy ý mỗi ngaỳ , khi đốt nhang bàn thờ Tài Thần , Thổ Địa ) Hoàng Thần Tài chú (Tây Tạng) Om Jăm Pa La cha linh cha na de xoá ha brum . Chú kêu khách đến cửa hàng , tiệm quán của mình cho đông : La ly a thô a úc kha mao ta da rô hô chặc bon sum chô dô lốt . (sáng đọc 21 lần cúng bánh , kẹo , trái cây , rượu trắng , bắp rang ngay bàn thờ Thổ Thần hay ngay cửa .) nguồn: http://mynghevietnam.com1 like
-
HiỆu Ứng TÂm LỰc
meiji liked a post in a topic by Chemwind
HIỆU ỨNG TÂM LỰC 26.08.2010 Theo nghĩa “linh nghiệm” này là linh ở trong cá thể mọi người, sở dĩ linh nhiều là do ý niệm tập trung, tập hợp ý chí lực của quần chúng, gom rút lại thành khối tinh hoa. Ấy là hiện tượng công năng mãnh liệt của hiệu ứng khí trường. Theo đó suy biết, nghĩa chữ “linh” chẳng phải huyền bí, “linh” chỉ là khối công năng của tâm lực mọi người mà thôi. Trường hợp hiệu ứng của tâm lực: Nhà khí công thường tổ chức trường hợp đông người, tập trung tâm lực để trị bệnh là hiện tượng của ý niệm cảm ứng, tập trung ý niệm của nhiều người để bài trừ bệnh khí, gọi là “khí trường”. Khí trường giống như điện trường, hoặc gọi là sinh vật trường, tức là làn sóng tin tức trường. Mỗi người đều có tâm lực phát ra thành khí, nhưng khí trường của cá nhân rất nhỏ. Nếu tổ chức thành tập thể, hợp thành khí trường đại qui mô thì oai lực của nó rất mạnh, lúc đó nhà khí công chỉ cần phát ý niệm tụ hợp tất cả khí trường của mọi cá nhân, thành một khối năng lượng truyền cho người bệnh thì đạt được mục đích trừ bệnh. Do đó, người càng đông càng tốt, khí trường càng lớn càng mạnh. Dùng ý niệm bắn ra năng lượng tin tức, với người thu nhận tin tức (bệnh nhân), lòng tin tưởng của mọi người càng tốt; nếu có ai thông tin hoặc chống lại, bắn ra làn sóng tin tức khán cự, sẽ làm cho hiệu ứng của khí trường bị giảm bớt công hiệu. Như thế, bất kể công lực của nhà khí công lớn hay nhỏ, ông ấy chỉ là người điều khiển tổ chức, chủ yếu là tập trung khí trường của mọi người, hợp thành một làn sóng tin tức có cường độ cao thì trị bệnh có công hiệu liền. Thí dụ một người chẳng có công năng trị bệnh, nhưng có tiếng tăm lớn, mọi người đều rất tin tưởng, do người đó đứng ra tổ chức điều khiển khí trường, cũng có thể đạt được khí trường rất linh nghiệm. Theo nghĩa “linh nghiệm” này là linh ở trong cá thể mọi người, sở dĩ linh nhiều là do ý niệm tập trung, tập hợp ý chí lực của quần chúng, gom rút lại thành khối tinh hoa. Ấy là hiện tượng công năng mãnh liệt của hiệu ứng khí trường. Theo đó suy biết, nghĩa chữ “linh” chẳng phải huyền bí, “linh” chỉ là khối công năng của tâm lực mọi người mà thôi. - Hiệu ứng linh nghiệm của tín ngưỡng: Tất cả tôn giáo đều có tín đồ, do lòng thành kính của tín đồ, có thể tạo ra một vị thần linh chí cao vô thượng. Lại cũng có công năng của vị thần linh ấy thật sự hiện ra. Hiện tượng hiển linh có nhiều hình thức khác nhau, như sám hối, cầu nguyện, tụng kinh, niệm chú… đều có thể xuất hiện những hiện tượng hiển linh. Những công năng hiển linh này, đôi khi cũng khiến người bất khả tư nghì, ấy gọi là “hiệu ứng tín ngưỡng”, cũng là càng đông càng tốt. - Hiệu ứng nhập ma của những người mê tín: Kỳ thật, hiệu ứng hiển linh chẳng những có thể xuất hiện trong những hoạt động tôn giáo, còn xuất hiện trong mê tín nơi dân gian đời xưa. Như cách thức các thứ hoạt động “cầu cơ, mời linh cô, mời địa thần…” đều thuộc ý niệm tổ hợp khí trường, tụ tập khí trường của nhiều người cũng được sức hiện thần linh, “linh” này hoàn toàn xuất phát từ trong tâm của kẻ sùng bái, hoàn toàn thuộc về “thần nhân tạo”. Vậy bất cứ dùng danh hiệu nào để làm đối tượng sùng bái “như ông lên bà xuống…” chỉ cần nhóm người sùng bái đầy đủ tin tưởng thành kính. Thông qua ý niệm hoạt động tổ chức khí trường, đều có thể hiển linh. Hiện tượng hiệu ứng này gọi là hiệu ứng nhập ma, xưa nay hiện tượng này luôn luôn tồn tại, trải qua nhiều đời cũng là thật sự có xuất hiện trạng thái công năng bất khả tư nghì, khiến người mê tín tẩu hỏa nhập ma, muốn thôi chẳng được. Nguyên lý dùng ý niệm năng dời vật: Thí dụ: Thuốc viên đựng trong chai. • Vật chất thật thể => Dùng ý niệm lực hư hóa => Thành vật chất hư thể => Ý niệm chuyển hóa lại => Thành vật chất thật thể. • Mục tiêu của ý niệm => Bắn ra làn sóng tin tức => Làn sóng đến tột đỉnh => Niệm giảm bớt lại => Trở thành mục tiêu cũ. • Tự xoay theo tốc độ thường => Gia tăng tốc độ tự xoay => Siêu tốc độ ánh sáng chuyển thành hư tử => Giảm bớt ý niệm tự xoay => Trở lại tốc độ thường. • Hiển tánh chiếm không gian => Hiển chuyển thành ẩn => Hư tử chẳng bay, chẳng chiếm không gian => Giảm ẩn tăng hiển => Trở lại hiển tánh, chiếm không gian. • Vật thể của không gian ba chiều => Dùng ý niệm lực tăng chiều => Vật hư tánh, thuộc bốn chiều => Ý niệm giảm chiều => Trở lại vật thể thuộc ba chiều. Xem biểu đồ trên biết được ý niệm năng sanh ra hiệu ứng, siêu việt không gian thời gian; kỳ thật là dùng ý niệm, đem sự vật của không gian ba chiều vận động theo phép tắc vận động của không gian bốn chiều, tiêu trừ chướng ngại của vật chất thật thể, quá trình này gọi là ẩn hiển chuyển hóa. Người có công năng đặc biệt, dù chẳng có cố ý gia tăng tốc độ tự xoay của vật thể, nhưng trong ý niệm đã sẵn có ý niệm năng mãnh liệt so trên vật mục tiêu, khi ấy vật mục tiêu bị kích thích, tự sanh ra phản ứng gia tăng tốc độ tự xoay, hiện ra công năng chuyển hóa. Theo sự hiểu biết của khoa học hiện đại, tất cả vật chất trong vũ trụ đều do nhiều hạt nguyên tử tổ chức mà thành, mỗi mỗi nguyên tử do điện tử xoay vòng theo hạt tâm của nguyên tử cấu kết mà thành, tốc độ tự xoay của mỗi nguyên tử 1/3 – ½ của tốc độ ánh sáng. Nếu tốc độ xoay vòng này bị ý niệm lực kích thích gia tăng tốc độ đến siêu tốc độ ánh sáng, thì nguyên tử thật tánh liền chuyển hóa thành nguyên tử hư tánh, như những vật thể do nhiều nguyên tử thật tánh hợp thành “thuốc viên hiển”, ắt phải bị thành nguyên tử hư tánh “thuốc viên ẩn”, nó chẳng chiếm không gian. Theo lý luận khoa học vũ trụ, dùng ý niệm lực trong một niệm lực dời vật đến chỗ chỉ định, rồi giảm bớt tốc độ, phục hồi nguyên vật như cũ, thì hoàn thành một lần ẩn bay. - Sự sai biệt của điện lực và ý niệm lực: Khoa học hiện đại sử dụng cơ điện lực, đem hình ảnh và âm thanh quay thành phim, chuyển hóa thành làn sóng điện và làn sóng âm thanh, phát ra từ đài truyền hình, qua máy truyền hình tiếp thu, rồi hiện ra hình ảnh và âm thanh như thật. Dù diễn lại bao nhiêu lần cũng không thay đổi chất lượng tiêu chuẩn. Còn sử dụng ý niệm lực, đem vật chất thật thể chuyển hóa thành vật chất hư thể thì chẳng phải lần nào cũng giống nhau và đạt được hiệu quả. Vì do tinh thần có lúc khỏe mạnh hoặc yếu kém mà phát ra cường độ của ý niệm lực mạnh yếu khác nhau. Do đó, có thể nhiều lần biểu diễn, đôi khi có một lần thất bại. Nguyên nhân thất bại là do ý niệm lực chưa đủ mức độ thúc đẩy sự gia tăng tốc độ tự xoay của vật thể, để đạt đến siêu tốc độ ánh sáng thì thật tử chẳng thể biến thành hư tử. Nhưng không thể vì sự thất bại đó mà phủ nhận sự tồn tại của ý niệm năng. - Kỹ thuật khí công có thể phổ biến không? Theo sự phỏng đoán sơ bộ, hiện nay Trung Quốc có 30 triệu người học khí công, trong đó có mấy triệu người đã được phần nào lợi ích. Sau khi họ đã được lợi ích rồi, thường nhắc đến vấn đề phổ cập hóa khí công học. Hy vọng mọi người đều đắc sự bổ ích của luyện tập khí công, ít nhất có thể mở mang trí huệ và dưỡng sinh giữ gìn sức khỏe. Theo quan điểm của chúng ta, có thể trong 10 năm tới sẽ từng bước phổ cập hoạt động khí công trong phạm vi toàn quốc. Kỳ thật, chỉ cần tăng thêm một tiết khí công học trong các trường tiểu học, trung học và đại học hoặc hòa nhập chung môn thể dục cũng được. Như vậy trải qua một chu kỳ 10 năm, sự phổ cập hóa sẽ được hoàn thành. - 3 giai đoạn phát triển về khí công học: Theo quy luật tiến hóa của loài người, ai cũng mong muốn giải thoát đạt đến tự do tự tại, tự nhiên sẽ đi tìm kiếm đường lối đề cao công năng của mình. Do đó, môn khí công học sẽ hình thành một phong trào sôi nổi. Nhưng làm sao thỏa mãn được nguyện vọng của mình? Thường có thể chia ra làm 3 giai đoạn, ấy là: Học, ngộ và kiểu in ấn (copy). Quá trình học khí công chẳng phải dễ, bắt chước được động tác của thầy; có người đã học 5 năm 3 năm, mà đối khí công vẫn còn cảm thấy “chưa đắc khí, chưa đắc công”. Vì khí công chẳng phải như toán học vật lý học, môn học này thường chỉ có thể ý hội, chẳng thể ngôn truyền. Do đó, phải bước vào giai đoạn thứ hai, nên nhà khí công lúc truyền thọ, chú trọng dẫn dụ học viên dùng phương thức ngộ để tăng cường sự học. Nếu ngộ vẫn chưa đủ lý tưởng thì bước vào giai đoạn thứ 3, sự truyền thọ trong thái kỳ lạ, tức là dùng cách “ban cho” => copy, giống như một bài văn chương, dùng máy photocopy in lại trên tờ giấy trắng chẳng sai một chữ. Người có công năng đặc biệt, đem mật mã công năng trong bộ óc, dùng ý niệm lực di chuyển toàn bộ công năng “in” trong bộ óc của học viên. Như thầy đem công năng sở hữu của mình ban cho học trò, khiến họ có kỹ thuật điều khiển ý niệm như thầy; nếu thật hiện được như thế thì quá bất khả tư nghì. Kỳ thật, sự quán đảnh của Mật tông cũng có nội dung giống như copy, có thể gọi là “truyền thọ công pháp trong một niệm”. - Mật mã tâm linh với cơ nhân: Mật mã sinh mạng ghi trong tâm linh, khác với cơ nhân di truyền; cái trước là mật mã tin tức thuộc hư tánh, cái sau là dấu hiệu cơ nhân khắc trên thể xác là thật tánh. Sửa đổi mật mã trong tâm linh là trực tiếp cải tạo nhân tố tư duy, đề cao thể sinh mạng lên một tầng lớp, còn cơ nhân chỉ sửa đổi thể xác trong sinh mạng. Ấy chỉ là cải tạo cơ thể từ giống này qua giống khác trong cùng một thứ lớp, chứ chẳng thể khiến sinh mạng nhảy lên thêm một lớp (siêu việt thêm một chiều). Loài người do chẳng biết cách cải tạo mật mã tâm linh, nên đối với động vật hai chiều ba chiều, chỉ có thể cải tạo thể xác của họ, mà không thể khiến họ từ sinh mạng cấp thấp nhảy lên hàng ngũ của sinh mạng cao cấp. Do đó, chúng ta chẳng thể hiểu rõ thần tánh của động vật, mặc dù chúng ta đôi khi cũng làm chúa tể của họ, nhưng chưa thể điều khiển tâm linh mật mã của họ. - Mật mã tâm linh: Tin tức tâm linh theo hình thức mật mã phân chia thành nhiều loại, tâm linh của mọi người mỗi mỗi đều sẵn có dấu hiệu mật mã khác nhau. Do đó, sinh mạng có muôn ngàn sai biệt, mỗi mỗi có cá tánh khác biệt. Dù không thể sửa đổi và điều khiển mật mã của người khác, nhưng có thể qua sự tu luyện để sửa đổi mật mã của chính mình. Vì nhiều người chẳng tin điều này, nên triết học Đông phương thường bị xem thành khu vực thần bí. Nhưng đối với việc thần bí cũng cần nên tìm hiểu, như vật lý khoa học phát triển đến ngày nay. Đối với sự vật trong vũ trụ càng ngày càng phát hiện nhiều hiện tượng không thể giải thích, vì không hiểu nên cảm thấy thần bí, từ trên trời dưới đất, cho đến công năng đặc biệt của nhà khí công… Những hiện tượng bất khả tư nghì thúc đẩy chúng ta nên thăm dò để tìm hiểu, nếu không thì nhiều vấn đề mịt mù không thể giải đáp. Như những tai họa thiên nhiên với hoàn cảnh ô nhiểm… khiến sự sinh tồn của loài người xuất hiện nhiều nguy cơ, mà các nhà trí thức, chính trị đang lo âu. Vậy những hiện tượng thần bí khó hiểu cần phải nghiên cứu và giải quyết cấp bách mới được. - Nghiên cứu cần phải kiến lập lý luận: Nghiên cứu chẳng phải điều tra, điều tra chỉ là cung cấp tài liệu; cũng như người Tây phương nghiên cứu dĩa bay, cứ lẩn quẩn trong giai đoạn điều tra lời báo hư thật của người chứng kiến, tốn bao nhiêu kinh nghiệm đã nhiều, trải qua bốn mươi mấy năm cũng chẳng có kết quả. Do đó, chúng tôi đề nghị nếu thật muốn nghiên cứu tìm hiểu, chẳng những tiến hành điều tra, cần phải sáng lập từ đầu, sáng lập quan niệm mới, học thuyết mới, không hoàn toàn ỷ lại tri thức toán lý hiện hữu và quan niệm cũ. Vũ trụ mênh mông, sự nghiên cứu phải bắt từ đâu? Từ nghiên cứu chính mình, vì sinh mạng chính mình là sự thật thần bí số một trong vũ trụ. Câu hỏi “Ta là ai?”, ai có thể giải thích cho rõ ràng? Cái “Ta” này chẳng phải hoàn toàn chỉ là thể xác của ông, còn có phần tâm linh ông còn chưa biết. Vùng sâu tâm linh có bao nhiêu việc thần bí hiện đang xuất hiện các nơi, nhưng sự nhận thức của chúng ta đối với bản chất của những sự vật đó còn quá kém! Cũng như hình ảnh trong gương chỉ là biểu tượng bề ngoài của ông, là bề mặt thể xác; giải phẩu sinh lý của ông chỉ là vật thể chuyên chở sinh mạng của ông, tâm linh của ông mới là chủ nhân chơn thật của sinh mạng ông. Nên trước tiên chúng ta cần phải nghiên cứu chính mình, lúc nào được hoàn toàn thấu rõ bản lai diện mục của ta gọi là ngộ. Một việc thấu thì tất cả đều thấu, sáng tỏ được vật chất tâm linh thì đối với vật chất linh tánh của vũ trụ mỗi mỗi đều thông suốt cả. - Dùng cách nào để nghiên cứu tìm hiểu chính mình? Thông qua kỹ thuật khí công có thể hiểu được chính mình. Vì pháp khí công là pháp tìm cầu bên trong, từ nội bộ thân thể của mình tìm ra nghĩa lý giải thích sự thần bí của sinh mạng. Sinh mạng không giống sinh vật học dùng giải phẩu thể xác để tìm hiểu, vì khi giải phẩu thể xác, tâm linh đã lìa khỏi. Sự giải phẩu chỉ có thể nghiên cứu vật thể vận tải của sinh mạng, mà chưa thể tiếp chủ nhân của sinh mạng. Dùng kỹ thuật khí công để giải phẩu sinh mạng của chính mình mới được nghiên cứu sâu vào, sáng tỏ nơi bí ẩn của sinh mạng và người chủ sinh mạng tâm linh. Việc này chẳng thể nhờ máy móc, phải dùng cảm ứng soi thấu nội bộ của tâm linh, dùng công năng của tâm linh tự nghiệm chứng, mới là chân thật tỉ mỉ cụ thể. Nhưng chỉ còn một điều không tiện, nghĩa là không thể đem ra cho mọi người công khai thưởng thức. Vì ngũ giác quan của con người đối với việc này chẳng có khả năng để cảm nhận, ấy là quy luật vũ trụ. Kỹ thuật, khí công cũng có khuyết điểm, công năng của khí công dù phát triển đến cao tột, chỉ có thể phát hiện một bộ phận rất nhỏ của tâm linh. Sự phát hiện toàn diện của tâm linh gọi là kiến tánh, chỉ có pháp thiền trực tiếp do Phật Thích Ca truyền dạy mới có thể đạt đến. Thiền này hiện nay gọi là Tổ Sư Thiền, sự thực hành của pháp thiền này rất giản dị nhưng rất khó tin. Theo tư tưởng của người hiện đại, đối với khí công dễ tin dễ cảm nhận hơn; còn đối với Tổ Sư Thiền rất khó lãnh hội, để sanh khởi lòng tin chân thật. Sự tin tưởng giữa khí công và Tổ Sư Thiền tỷ lệ có thể bằng triệu đối với một. Do đó, chúng tôi chỉ nhấn mạnh về môn khí công học, mục đích là dễ phổ biến hơn. KẾT LUẬN Theo truyền thống học thức Tây phương chú trọng về đơn vị “điểm”, còn theo truyền thống học thức Đông phương chú trọng về toàn diện. Người Tây phương đem toàn diện phân khoa thành nhiều đơn vị để học, mỗi người theo sở trường của mình, chọn một môn để nghiên cứu sâu vào một điểm, gọi là trí thức chuyên môn. Ví như đối với nghiên cứu đề tài sinh mạng (thể xác), đã đi sâu vào đến nhân tố di truyền DNA, cho đến cao độ của lượng tử học, phân tử học. Nhưng họ thiếu sót cái nhìn toàn diện, dù tiến sâu vào chỗ tột đỉnh cũng không rõ được tổng khái niệm của thể toàn diện. Cũng như nhà sinh vật học hiện nay vẫn chưa biết được tâm linh học là thế nào, chỉ biết về thể xác của sinh mạng, không rõ được mật mã tâm linh của sinh mạng. Theo truyền thống học thức Đông phương luôn luôn dùng toàn diện quán. Trường tư thục Trung Quốc đời xưa chẳng phân khoa, chẳng phân chia chuyên nghiệp. Tài tử thời xưa phải gom đủ thứ tài năng: Cầm, kỳ, thi, họa, văn chương; phải học hết các sách Tứ Thư, Ngũ Kinh, Kinh Dịch, Y Dược, Thiên Văn, Địa Lý và tơ tầm… trên thể toàn diện nắm hết đủ thứ tri thức của mọi ngành, nhưng hễ bề mặt rộng thì bề sâu không đủ, ấy cũng là khuyết điểm. Do đó, chúng tôi đề nghị kết hợp sở trường của Đông Tây phương, đem vật lý hiển tánh và ẩn tánh của toàn diện vũ trụ đi song song, như sinh mạng, tinh thần, vật chất, y dược, khí công, dĩa bay. Lớn từ thái dương hệ, ngân hà hệ của thiên thể, nhỏ từ điện tử, quang tử, vi phân tử, cho đến làn sóng tin tức “khái niệm thời gian chẳng chiếm không gian”, tất cả đối lập đều thống nhất tiến hành nghiên cứu cộng tánh và cá tánh về hoằng quán toàn diện của khoa học vũ trụ. Việc nghiên cứu này cần phải tiến hành theo sự hướng dẫn của triết lý vũ trụ, chia lối cùng bước để tránh khỏi sự ràng buộc của tư tưởng có giới hạn giữa hai phái duy tâm và duy vật. Quá trình nghiên cứu của sự tổng kết hợp này, trước tiên là mở rộng đường lối thông linh ước mong siêu việt tâm lý học và khoa học hiện đại. Xúc tiến một cuộc về kỹ thuật khoa học đổi mới, để sáng tạo môn khoa học thích ứng với không gian bốn chiều. Tức là kỹ thuật khoa học vũ trụ vô cực, kết quả thế nào? Hãy để cho thời gian nghiệm chứng tánh ngộ của chúng ta. Nói tóm lại, chúng ta kiến lập lý luận khoa học mới này, mục đích mong được giải tỏa phần nào nguy cơ về sự sinh tồn trong thế giới ba chiều như thiên tai, bão lụt, ô nhiễm, chiến tranh, đói khác, bệnh hoạn… HL (Tinhtuy.com)1 like -
Và sáng hôm sau theo lời thuật lại, người nhà tôi cắt cuống châm nước cả bình hoa lại tươi mới như chưa từng héo rủ... nếu như chính các bạn ở trong hoàn cảnh của tôi cũng sẽ hiểu hiện tượng trên là lẽ tự nhiên giao cảm của hương linh người đã khuất.1 like
-
Tầng tầng lớp lớp Âm nhạc Thiên đường (Nhạc Minh) Tôi bắt đầu tập Pháp Luân Đại Pháp vào năm 1995. Từ khi bài viết của Sư Phụ “Khai khải thế gian môn” được phát hành vào ngày Một Tháng Bảy, 2006, tôi bắt đầu nghe thấy một thứ âm nhạc tuyệt vời mỗi ngày. Lúc đầu, tôi không nhận thức được thiên nhĩ của mình đã khai mở, vì tôi luôn để mở cửa sổ nên tôi đã nghĩ rằng hàng xóm của mình chơi thứ nhạc tuyệt mỹ đó. Sau này, khi tôi hỏi gia đình về điều đó, tất cả mọi người đều nói họ chẳng nghe thấy một thứ âm nhạc nào cả. Khi đó, tôi mới nhận ra đây là âm nhạc đến từ các tầng thiên thượng. Thậm chí khi tôi đang làm các việc lặt vặt, đi trên phố, ngồi trong xe hơi, hay nấu ăn, âm thanh ồn ào chẳng thể át được tiếng nhạc. Khi âm nhạc trở nên to hơn, tôi có thể nghe được rất rõ. Tôi có thể nghe thấy được bất kì lúc nào trừ khi tôi đi ngủ. Âm nhạc thiên đường được tấu lên qua những nhạc cụ truyền thống Trung Quốc. Giống như nhạc của “Phổ độ”, “Cứu thế”, các bản nhạc đều có những giai điệu rất đẹp đẽ và êm dịu. Có giai điệu chính, giai điệu phụ, hoặc rất nhiều các giai điệu đệm. Có một số bản nhạc rất phức tạp, sâu xa, thể hiện nội dung rất uyên thâm và phong phú. Tôi không thể nhớ rõ ràng giai điệu sau khi nghe nhạc. Tôi có thể nhớ được một số giai điệu đơn giản sau khi nghe đi nghe lại một thời gian dài. Tuy vậy, tôi không thể thực sự làm được khi cố gắng ngân nga giai điệu. Con người chỉ có thể cảm thận được âm nhạc của thiên đàng chứ không thể hiện được nó. Âm nhạc mà tôi nghe thấy rất hài hoà. Không có mở đầu hay kết thúc, và bản nhạc luôn chơi tuần hoàn. Có các âm điệu khác nhau và có những nội hàm khác nhau ở các tầng khác nhau. Một số bẳt nguồn từ thế giới vi quan của thiên thể khổng lồ và trải rộng qua vũ trụ rộng lớn. Một số tràn đầy sức mạnh và hùng vĩ, với sức mạnh đất long núi lở và hiệu ứng của những cơn sóng cồn. Một số âm nhạc lại êm dịu, tinh tế và mỏng manh. Một số tuyệt vời, thanh nhã, từ bi và mỹ diệu. Một số phấn chấn, uyển chuyển, mê say, ngợi ca. Một số sâu lắng, trầm, ngay thẳng và trang nghiêm. Một số lại mang tiếng hót chim thiên đường, tiếng chuông reo, âm thanh của trống, của đàn sáo, nhị, guhzheng, guqi (nhạc cụ dây truyền thống), v.v. Tôi chưa bao giờ học lí thuyết âm nhạc, và tôi cũng chẳng biết chơi nhạc hay đọc các nốt nhạc, do vậy tôi cũng không thể diễn tả được toàn bộ những điều này. Lắng nghe âm nhạc thiên đường làm tôi cảm nhận như trăm nghìn bông hoa đang nở trên Thiên thượng trong những sắc màu rực rỡ và sáng chói. Ở đó có những toà nhà, sân trời, tháp cao, trùng trùng lớp lớp núi xanh, và những dòng nước sạch lành, trong vắt. Có những tiên nữ múa lượn trong không gian, với những chiếc áo rực rỡ sác cầu vồng, và những chiếc váy đính lông với dải băng lụa vắt ngang vai. Âm nhạc đã đưa đến một cảnh giới tư duy vô cùng đẹp đẽ, và xoá đi trong tôi những tư tưởng nghiệp lực. lắng nghe thứ âm nhạc thiên đường này đã khiến tôi có thể ngày càng tinh tấn đi tiếp trên con đường thành thần của minh, làm tốt ba điều mà các đệ tử Pháp Luân Đại Pháp cần làm, và cố gắng hết sức mình cứu độ chúng sinh nhiều hơn nữa. Lần đầu tiên khi nghe thấy được một trường đoạn chính của âm nhạc thiên đường, tôi nghe trong vòng một tháng. Nó rất phong phú, được thể hiện bởi rất nhiều nhạc cụ, các giai điệu đệm biến đổi liên tục. Tôi mất một tháng để có thể ghi nhớ giai điệu chính. Tôi có thể nghe nhạc trên tàu đến Trường Xuân thăm họ hàng, trên ôtô bus, và ở nhà những người bà con. Đặc biệt, đêm đầu tiên ở nhà họ hàng, âm thanh cộng hưởng vang xa và mạnh mẽ, như là được phát ra từ một máy phóng thanh lớn, và nhạc được tấu lên như vậy cả đêm. Tôi tin rằng đó chính là vì Trường Xuân là quê hương Sư Phụ, do đó đây là một nơi thiêng liêng. Tôi chưa bao giờ học múa. Từ khi nghe bản đầu tiên âm nhạc thiên đường tháng Bảy năm 2006, tôi luôn cảm thấy thôi thúc muốn nhảy múa. Ở nhà, tôi cố để cánh tay mình nhẹ nhàng theo tiếng nhạc, và tôi bắt đầu xoay vòng và múa theo những chuyển động uyển chuyển, nhẹ nhàng. Điều đó khiến tôi ngạc nhiên “Tôi có thể múa vũ điệu thiên đường!” Các động thái vũ đạo khác nhau cứ diễn ra một cách tự nhiên theo các giai điệu âm nhạc khác nhau. Hai bàn tay tôi trong tư thế lòng bàn tay hoa sen. Chồng tôi nhìn vợ và cảm thán, “Pháp Luân Đại Pháp thật màu nhiệm. Em là người phụ nữ tuổi bốn mươi chưa bao giờ học múa, mà bây giờ em có thể múa quá đẹp!” Vũ điệu cũng là một loại ngôn ngữ và là một biểu hiện tuyệt vời sự trang trọng và thiêng liêng của Đại Pháp. Trong năm qua, nhiều khi có một vài bản nhạc chơi đều đặn trong một tháng. Dường như đó là một trường đoạn chính, phù hợp cho một số tầng nhất định, Tôi có thể nghe thấy một số đoạn được chơi trong khoảng nửa tháng. Năm nay thậm chí đã nhanh hơn, với một số đoạn, hay một số tầng, kéo dài trong một tuần, có một số diễn ra trong vòng khoảng ba ngày, hai ngày, hoặc một ngày. Đôi khi có nhiều giai điệu khác nhau vào buổi sáng và buổi chiều, và tương hợp, tôi đột phá tầng một cách nhanh chóng. Thời gian cũng tiến với tốc độ khác nhau trong các bản nhạc khác nhau trong cùng một ngày. Khi thời gian trôi nhanh, nhịp độ nhạc cũng nhanh hơn, dường như là nhạc được chơi ở tốc độ nhanh. Khi thời gian trôi chậm chạp, âm nhạc dễ chịu, mê say. Tôi thực sự mong muốn chia sẻ vẻ đẹp các âm thanh thiên đường này đến mỗi người. Mỗi một đệ tử Pháp Luân Đại Pháp đều có kinh nghiệm cá nhân và có thể cảm nhân sự diệu kì của Đại Pháp. Những gì tôi vừa viết chỉ là chút ít một số điều đã vượt ra khỏi ngôn ngữ của con người và nó có ý nghĩa chứng thực Pháp, nhắc nhở bản thân tôi tinh tấn tiến lên phía trước, cứu độ chúng sinh nhiều hơn, và viên mãn hoàn thành thệ nguyện mà mình đã hứa.1 like
-
biết chi cho mệt dị chời?! Hic.1 like
-
Bí ẩn thuật hồi xuân Tây Tạng 09:44 Thứ hai, 15/02/2010 Một bí quyết được lưu truyền rộng rãi suốt 70 năm qua, được hàng triệu người thuộc nhiều thế hệ trên khắp thế giới áp dụng và tin rằng, nó giúp họ tìm lại sức sống tràn trề, cơ thể dẻo dai và tinh thần tráng kiện. Đó là 5 thức tập luyện của các Lạt ma Tây Tạng, hay còn được biết đến dưới tên gọi "Suối nguồn tươi trẻ". Bí quyết 2.500 năm Suối nguồn tươi trẻ được biết đến lần đầu tiên vào năm 1939, trong cuốn sách "Con mắt khải huyền" của Peter Kelder. Cuốn sách mở đầu bằng cuộc gặp gỡ tình cờ giữa tác giả và đại tá Bradford, một cựu quân nhân người Anh gần 70 tuổi, lưng còng, tóc bạc, đi lại phải chống gậy. Một góc Tây Tạng. Vị sĩ quan này kể cho Peter Kelder về ý định đến Ấn Độ tìm một tu viện bí ẩn, nằm ở một nơi xa xôi hẻo lánh nào đó trong dãy Hymalaya. Theo những câu chuyện truyền tụng của dân du mục, 2.500 năm trước, các Lạt ma ở đây đã tìm ra Suối nguồn tươi trẻ, một bí quyết hồi xuân kỳ diệu. Cuộc gặp thứ hai diễn ra sau đó 4 năm, khi đại tá Bradford trở về sau chuyến phiêu lưu. Không còn dấu vết gì của ông lão già nua, mệt mỏi khi trước. Thay vào đó là một người đàn ông trung niên nhanh nhẹn, thần sắc hồng hào, lưng thẳng, mái tóc dày chỉ điểm vài sợi bạc. Suối nguồn tươi trẻ không phải là đồn đại mà hoàn toàn có thật. Và ngạc nhiên thay, bí quyết màu nhiệm này lại vô cùng đơn giản, chỉ là một bài tập gồm 5 động tác, hay gọi theo cách của các Lạt ma Tây Tạng là 5 thức. Trong những ấn phẩm được xuất bản sau này dựa trên cuốn sách của Peter Kelder, người ta cho rằng, 7 trung tâm năng lượng mà các Lạt ma nhắc đến chính là 7 luân xa theo quan niệm của y lý học cổ truyền phương Đông. Liên hệ với y học hiện đại phương Tây, các luân xa được một số nhà nghiên cứu coi là đối chứng siêu hình của các tuyến nội tiết, với vị trí và vai trò tương đương. Cũng theo quan điểm phương Tây, hoạt động của các tuyến nội tiết đóng vai trò vô cùng quan trọng, thậm chí là chi phối quá trình lão hóa. Từ sau tuổi 30, hệ nội tiết bắt đầu suy yếu, lượng hormon giảm dần, tác động trực tiếp lên tinh thần và thể chất, gây ra 12 nhóm triệu chứng rối loạn và các bệnh của người già như da nhăn, tóc bạc, mất ngủ, loãng xương... Nhiều nghiên cứu gần đây cho thấy, khôi phục sự cân bằng nội tiết có thể làm chậm quá trình lão hóa, trả lại cho cơ thể nhiều trạng thái của tuổi thanh xuân. Như vậy, tư tưởng chủ đạo của 5 thức tập Suối nguồn tươi trẻ xuất phát từ phương Đông cũng phù hợp với tinh thần của các nghiên cứu khoa học phương Tây. 70 trẻ lại thành 40? Trong cuốn "Con mắt khải huyền", 5 thức tập của các Lạt ma đã giúp đại tá Bradford trẻ lại đến mức những người mới biết ông sau chuyến viễn du đến Tây Tạng đều nghĩ rằng vị sỹ quan này chỉ khoảng 40, trong khi tuổi thực của ông lúc đó đã là 73. Qua lời kể của đại tá Bradford, người ta còn biết rằng, khi ở tu viện, ông đã gặp một người phương Tây cũng học Suối nguồn tươi trẻ. Người này đã ngoài 50, nhưng ngoại hình chỉ khoảng 35 và phong thái thì trẻ trung như một thanh niên mới 25 tuổi. Hiệu quả hồi xuân của Suối nguồn tươi trẻ còn được khẳng định qua nhiều phản hồi từ người tập. Có người cho biết, họ trông trẻ ra đến cả chục tuổi chỉ sau hơn 1 năm tập ,Suối nguồn tươi trẻ. Người khác tiết lộ, nhờ 5 thức tập mà mái tóc của họ mọc dày đen trở lại khi đã ở lứa tuổi ngoài 70. Trên các diễn đàn sức khỏe, không khó để tìm thấy những lời ca ngợi tác dụng kỳ diệu của Suối nguồn tươi trẻ như sáng mắt, đẹp da, cải thiện trí nhớ, bệnh tật thuyên giảm. Nhưng cũng có những ý kiến cho rằng, hiệu quả của 5 thức tập đã được đề cao quá mức. Carolinda Witt, một chuyên gia nổi tiếng về Suối nguồn tươi trẻ tại Australia cho biết, trong hàng trăm học viên mà bà đã trực tiếp giảng dạy, chỉ duy nhất một người "nghĩ rằng" tóc mình đen trở lại sau khi tập 5 thức này. Không ai nhờ Suối nguồn tươi trẻ mà trẻ lại 20 - 30 tuổi. Các nếp nhăn cũng không vì thế mà biến mất. Theo kinh nghiệm cá nhân của Carolinda Witt, những lợi ích thực tế của Suối nguồn tươi trẻ bao gồm: sinh lực dồi dào; tinh thần minh mẫn, an nhiên, thư thái; cơ bắp săn chắc; ngủ tốt; thở sâu; sức khỏe toàn diện nâng cao, ít ốm vặt; vóc dáng trẻ trung, linh hoạt; giảm cân; cải thiện sinh hoạt vợ chồng. Tuy không đến mức thần diệu, song những kết quả này cũng là rất ấn tượng đối với một bài tập mà bất cứ ai cũng có thể thực hiện chỉ trong 10 phút mỗi ngày. Bí ẩn và kỳ lạ Khi "Con mắt khải huyền" được xuất bản, Peter Kelder là một tác giả hoàn toàn vô danh cả trong giới nghiên cứu lẫn giới văn chương. Và cho đến nay, người ta vẫn hầu như không biết gì về ông. Bức màn bí ẩn cũng bao phủ thân phận của đại tá Bradford, người được coi là có công đưa Suối nguồn tươi trẻ đến với thế giới hiện đại. Mặc dù Peter Kelder luôn khẳng định nhân vật này có thật, song nhiều người đã từng đọc tác phẩm của ông cho rằng, vị sĩ quan có thể chỉ là hư cấu, được tạo ra để tăng tính khách quan, cũng như sự ly kỳ, hấp dẫn của câu chuyện. Nguồn gốc của 5 thức tập cũng là điều gây tranh cãi. Suối nguồn tươi trẻ chưa từng được các Lạt ma Tây Tạng công nhận là bí quyết mà các vị tổ sư của họ sáng tạo ra. Người ta cũng chưa tìm thấy tu viện đã truyền dạy Suối nguồn tươi trẻ cho đại tá Bradford. Thông tin trong cuốn sách của Peter Kelder quá sơ sài. Hơn nữa, qua thăng trầm lịch sử, nhiều tu viện Phật giáo Tây Tạng đã trở thành hoang phế, nên việc tìm kiếm nơi phát tích của bí quyết hồi xuân này càng khó khăn, thậm chí là không thể. Lưu ý trước khi bắt đầu luyện tập 5 thức tập Suối nguồn tươi trẻ Có một số điểm khác biệt nhỏ giữa 5 thức tập Suối nguồn tươi trẻ được giới thiệu trong sách của các nhà xuất bản khác nhau. Các hướng dẫn dưới đây được trích nguyên văn từ cuốn "Con mắt khải huyền" xuất bản lần đầu tiên vào năm 1939. 1. Thức thứ nhất Đứng thẳng, 2 tay dang ngang bằng vai. Sau đó xoay tròn theo chiều từ trái sang phải cho đến khi cảm thấy hơi chóng mặt. Lưu ý: Khi mới tập, hầu hết mọi người chỉ xoay được nhiều nhất khoảng 6 lần là cảm thấy chóng mặt. Khi đó, nên ngừng tập, nằm hoặc ngồi nghỉ để cơn chóng mặt qua đi. Không nên cố gắng quá sức, vì ngay cả những người thể lực tốt và người thường xuyên tập yoga cũng có thể phải mất đến 6 tháng mới xoay được đủ 21 lần. Một số mẹo giảm chóng mặt, buồn nôn:- Trước khi tập, không nên ăn no hoặc dùng đồ uống có cồn. Nên uống một chút nước nóng có thả một lát gừng tươi hoặc một chén trà bạc hà. - Sau khi tập, nếu thấy chóng mặt nhiều có thể dùng ngón cái bấm huyệt Nội quan trong khoảng 1-2 phút. Huyệt này nằm ở trên nếp gấp khớp cổ tay 2 đốt ngón tay, trong khe giữa gân của 2 cơ nổi rõ khi gấp bàn tay vào cẳng tay và nghiêng bàn tay vào trong. 2. Thức thứ hai Nằm ngửa, thẳng người trên sàn, 2 tay đặt xuôi theo thân mình, lòng bàn úp, ngón tay chụm lại, đầu các ngón tay của 2 bàn tay hơi hướng vào nhau. Nâng đầu lên, đồng thời nhấc 2 chân lên cho đến khi tạo thành đường thẳng đứng. Nếu có thể, hãy vươn 2 chân về phía đầu, nhưng vẫn phải giữ 2 đầu gối thẳng. Sau đó từ từ thả đầu và 2 chân xuống sàn, nghỉ một chút cho các cơ bắp được thư giãn rồi lặp lại thức này. Lưu ý: Trong một số sách về Suối nguồn tươi trẻ được biên tập lại và tái bản sau này, người tập được khuyên nên hít vào thật sâu khi nhấc đầu và 2 chân lên, sau đó thở ra toàn bộ khi hạ đầu và chân xuống. 3. Thức thứ ba Quỳ trên sàn, thân mình thẳng, hai tay buông xuôi, bàn tay đặt vào sau đùi. Ngả đầu và cổ về phía trước càng xa càng tốt, đồng thời đầu cúi xuống sao cho cằm tựa trên ngực. Tiếp đó, ngửa ra phía sau càng xa càng tốt, đầu ngả xuống thật thấp. Trở về tư thế ban đầu và tiếp tục lặp lại thức này. Lưu ý: Trong một số tài liệu, người tập được khuyên nên hít vào thật sâu khi ngửa ra sau và thở ra khi trở về tư thế thẳng người. Những người bị bệnh về xương khớp không nên cố gắng quá mức khi thực hiện động tác ngửa về sau. Nếu thấy chóng mặt do thiếu oxy não khi động mạch đốt sống bị chèn ép thì không nên ngả đầu quá thấp về phía sau. 4. Thức thứ tư Ngồi trên sàn, 2 chân duỗi thẳng về phía trước, bàn chân cách nhau khoảng 20cm; 2 tay xuôi theo thân mình, lòng bàn tay úp trên sàn, cạnh mông; đầu hơi cúi sao cho cằm ngã trên ngực. Tiếp đó, ngã đầu ra sau càng xa càng tốt, rồi nâng thân mình lên trong khi đầu gối gập lại sao cho 2 cẳng chân từ đầu gối trở xuống thẳng đứng, 2 cánh tay cũng thẳng đứng, còn phần thân từ vai đến đầu gối nằm ngang, song song với sàn nhà. Trở về tư thế ngồi và thư giãn một chút trước khi lặp lại các động tác của thức này. Lưu ý: Trong một số tài liệu, người tập được khuyên nên hít sâu khi nâng người lên và thở ra khi hạ người xuống. 5. Thức thứ năm Chống 2 tay xuống sàn, bàn tay cách nhau khoảng 60cm, khom người, duỗi 2 chân về phía sau, bàn chân cũng cách nhau 60cm. Đẩy thân mình, đặc biệt là phần hông lên cao nhất có thể, tạo thành hình chữ V úp ngược, trọng lượng cơ thể dồn lên bàn tay và các ngón chân. Đầu hơi cúi để cằm tựa lên ngực. Sau đó, cong cột sống, hạ thấp thân mình sao cho cơ thể võng xuống. Đồng thời ngóc đầu lên, để nó ngả ra sau càng xa càng tốt. Tiếp tục đẩy hông lên cao để lặp lại thức này. Lưu ý: Trong một số tài liệu, thức này được hướng dẫn theo trình tự ngược lại. Đầu tiên, chống tay, cong cột sống để cơ thể võng xuống. Sau đó mới nâng hông lên cao để tạo thành chữ V ngược.Để đạt hiệu quả, nên tập đều đặn, mỗi ngày 21 lần cho một thức. Khi mới bắt đầu, trong tuần lễ thứ nhất, chỉ nên tập mỗi thức 3 lần trong một ngày. Sau đó, cứ mỗi tuần tiếp theo tăng thêm 2 lần tập cho một thức. Cứ như vậy cho đến tuần thứ 10, bạn sẽ tập đủ 21 lần mỗi thức trong một ngày. Nếu có sức khỏe tốt, bạn sẽ chỉ mất 10 phút mỗi ngày cho cả 5 thức. Khi thư giãn giữa các thức, nên đứng thẳng, tay chống vào hông và thở sâu 1, 2 nhịp. Sau khi tập, nên lau người bằng khăn ẩm, sau đó lau lại bằng khăn khô. Cũng có thể tắm bằng nước mát hoặc nước ấm. Tuyệt đối không được tắm bằng nước lạnh hoặc lau bằng khăn lạnh, vì như vậy bài tập sẽ mất tác dụng. Theo Beenet1 like