-
Thông báo
-
Nội quy Lý Học Plaza
Nội quy này là bản mở rộng Nội Quy - Quy định của Diễn đàn. Khi tham gia mua bán, các thành viên phải tuân theo những quy định sau: Tiêu đề bài viết: Bao gồm: Chỉ dẫn địa lý, Loại hình Mua/Bán, Thông tin mua bán.
Chỉ dẫn địa lý: Tỉnh/thành nơi mua bán. Hoặc sử dụng định nghĩa có sẵn:TQ: Toàn quốc
HCM: TP Hồ Chí Minh
HN: Hà Nội
[*]Ví dụ: HCM - Bán Vòng tay Hổ Phách Nội dung bài viết: Mô tả chi tiết sản phẩm mua/bán
Bắt buộc phải có thông tin liên lạc, giá Mua/Bán
Bài mới đăng chỉ được phép up sau 03 ngày.
Thời gian up bài cho phép: 01 ngày 01 lần.
Các hành vi vi phạm nội quy này sẽ bị xóa bài hoặc khóa tài khoản mà không cần báo trước.
-
Leaderboard
Popular Content
Showing most liked content on 02/12/2010 in Bài viết
-
Tờ Giấy Bạc 100 Usd
Rin86 and 2 others liked a post in a topic by Thiên Sứ
Tờ giấy bạc 100 USD Người gửi bài TranNhatThanh Nguồn: Tuvilyso.net Ngày 21/4 vừa qua, đồng tiền 100 USD mới đã chính thức ra mắt công chúng tại Mỹ. Cùng nhìn lại lịch sử phát triển qua ảnh của tờ bạc 100 USD từ thời Cách mạng Mỹ đến nay. Với mục đích ngăn chặn nạn làm giả, đồng 100 USD được thiết kế lại với nhiều chi tiết khó bắt chước hơn. Dự trù, đồng tiền này sẽ chính thức được đưa ra lưu hành từ ngày 10/2/2011. Hãy nhìn lại lịch sử phát triển qua ảnh của tờ bạc 100 USD – đồng tiền có mệnh giá lớn nhất của nước Mỹ hiện lưu hành – từ thời Cách mạng Mỹ đến nay. Trong thời kỳ Cách mạng Mỹ (thế kỷ 18), đồng Đô la Continental được phát hành để trang trải chi phí cho chiến tranh. Đồng bạc này được bảo đảm duy nhất bởi niềm tin vào chính quyền thời đó. Đồng Đô la Continental không in các hệ thống chống giả mạo, nhưng một số đồng bạc khác cùng thời do các tiểu bang của Mỹ phát hành có mang những dòng chữ cảnh cáo tội chết cho những kẻ in giả tiền. Trong những năm đầu tiên của Hợp chủng quốc Hoa Kỳ, định chế gần với một ngân hàng trung ương nhất là “Bank of the United States ”. Đầu tiên, ngân hàng này được Chính phủ liên bang trao quyền in tiền trong giai đoạn từ 1771-1811, tiếp đó là giai đoạn 1816-1836. Sau đó, “Bank of the United States ” đã được chính quyền tiểu bang Pennsylvania trao quyền in tiền, phát hành tờ 100 USD như ở hình trên. Trong khoảng thời gian giữa Cách mạng và Nội chiến Mỹ, tiền giấy do các nhà băng phát hành chiếm phần lớn lượng tiền giấy lưu thông ở nước này. Hệ thống tiền tệ này có xu hướng dẫn tới hiện tượng rút vốn ồ ạt tại các ngân hàng, vì các ngân hàng thường không có đủ vàng bạc để bảo đảm cho đồng tiền mà họ phát hành. Nhiều ngân hàng đã đổ vỡ, bao gồm ngân hàng Manual Labor Bank – ngân hàng phát hành tờ 100 Đô la này. Trong thời Nội chiến, cả hai phe miền Bắc và miền Nam đều phát hành tiền giấy để có tiền chi cho cuộc chiến, dù tiền in ra không được bảo đảm bằng vàng hay bạc. Đây là tờ 100 Đô la do phe miền Bắc phát hành năm 1863. Đây là đồng tiền 100 Đô la do phe miền Nam phát hành năm 1862 trong cuộc Nội chiến Mỹ. Sau khi phe miền Nam thất bại trong cuộc chiến này, đồng tiền do họ phát hành trở nên vô giá trị. Sau Nội chiến, một số phe phái chính trị ở Mỹ chuộng vàng, trong khi một số khác lại chuộng bạc. Đồng 100 Đô la này được bảo đảm bằng bạc từ năm 1880. Được thiết lập từ thời Nội chiến, hệ thống Ngân hàng Quốc gia cho phép các ngân hàng được in và phát hành tiền theo thiết kế và định dạng của Chính phủ liên bang. Vào thời đó, đã có hơn 12.000 ngân hàng cùng lúc được phát hành tiền. Tuy nhiên, vào năm 1935, hệ thống này đã bị hủy bỏ. Đây là tờ 100 Đô la phát hành năm 1902 từ ngân hàng Dakota National Bank of Yankton. Hệ thống Dự trữ Liên bang Mỹ đi vào hoạt động vào năm 1913 khi đạo luật Cục Dự trữ Liên bang được thông qua. Vào năm 1914, FED phát hành đồng tiền đầu tiên, bao gồm tờ bạc 100 Đô la này. Vào năm 1929, kích thước của đồng USD giảm từ 190×80 mm xuống 156×66 mm, kích thước của đồng tiền này ngày nay. Dòng chữ “In God We Trust” đượ xử dụng lần đầu tiên trên đồng USD vào năm 1957, với tờ bạc 1 USD được bảo đảm bằng bạc. Tờ 100 USD bắt đầu mang dòng chữ này vào năm 1966. Để tránh sự xuất hiện của những đồng bạc “siêu giả”, tờ 100 USD đã được thiết kế lại vào năm 1996, với ảnh chân dung lớn hơn, cùng với hình in chìm và mực chuyển màu. Thiết kế này được duy trì cho tới lần điều chỉnh mới đây. Tờ 100 USD với thiết kế mới được xem là một “tác phẩm” chất lượng cao. Đồng tiền này sẽ chính thức được đưa vào lưu hành vào ngày 10/2/2011.3 likes -
3 likes
-
Nghĩa Chữ
Thiên_Địa_Nhân and 2 others liked a post in a topic by Lãn Miên
Nghĩa chữ Tiếng Việt KẺ là một con người. Đó là một từ trân trọng, nên tầng lớp được trân trọng nhất trong xã hội , từ xưa đến nay người Việt vẫn gọi là Kẻ Sĩ. Các làng Việt xưa đều có tên bằng chữ Kẻ đầu, như Kẻ La là nơi những người dệt lụa, Kẻ Ngói là làng những người làm ngói, Kẻ Bún là làng những người làm bún, Kẻ Bộng là nơi những người làm nồi đất. Về sau do những đầu óc tư tưởng bị Hán nho hóa nên coi từ Kẻ là quê mùa, nên chỉ dùng từ Kẻ để chỉ những người xấu. Đến thời hợp tác xã nông nghiệp tiến đến cấp cao là hợp tác hóa toàn xã thì nhiều nơi đã đổi cả tên xã cho văn minh như xã Dân Chủ, xã Cộng Hòa, còn làng xóm cấp dưới nó chỉ gọi bằng “ đội” kèm con số, để cho tiện làm báo cáo quản lý hành chính. Nên thời đó thư gởi bưu điện về quê chỉ cần ghi rõ là ở đội mấy, xã, huyện, tỉnh là về chính xác đến nơi. Theo qui luật “phối tố” để tạo những từ có cùng nôi khái niệm thì ở tiếng Việt tồn tại hai cách “phối tố”: 1. Bất biến âm vận cuối, chỉ biến phụ âm đầu. Ví dụ Thở - Nở - Mở - Hở - Vỡ - Bở - Tở … đều là cùng nôi khái niệm về sự nở ra. 2. Bất biến phụ âm đầu, chỉ biến âm vận cuối. Ví dụ Lộ - Lối - Lội - Loạng-Choạng - Lách,- Luồn - Lỏn- Lẻn - Lượn - Liệng - Lùa - Len- Lỏi - Len-Lỏi - Lướt - Lia - Lái - Leo …đều là cùng nôi khái niệm về cách đi và cách điều khiển phương tiện đi. Mỗi từ trong nôi này nếu lại theo cách 1mà làm tiếp thì lại tạo ra một nôi khái niệm mới. Ví dụ Len - Chen ( là Len ở chỗ chật) - Chèn ( là Len vào để chêm cho cao lên) - Chẹn ( là Len vào để làm cho tắc) v.v., Leo -Trèo ( là Leo bằng cả chân và tay) - Chèo ( là điều khiển cho thuyền đi bằng cơ bắp) v.v. Theo qui luật “lướt” để tạo ra từ một âm tiết bằng lướt hai từ đơn âm tiết hay lướt cả một câu dài thì tiếng Việt cũng tạo ra được từ mới, qui luật này vẫn tồn tại trong dân gian từ xưa tới nay. Qui luật “lướt” bằng hai từ đơn âm đã được học giả Hứa Thận thời Đông Hán vận dụng vào cuốn sách công cụ của ông soạn, vừa ghi nghĩa đen của chữ vừa hướng dẫn cách đọc đúng âm điệu của chữ cho hàng vạn chữ nho. Trong cuốn sách ấy các chữ dùng để “lướt” sinh ra từ lướt đúng với nghĩa đen của nó như chữ nho phát âm thì hầu hết là cứ phải dùng âm Việt mà đọc mới thấy trúng y, còn nếu dùng phiên âm latin của Hán ngữ hiện đại mà đọc thì trật. Có lẽ vì cuốn sách đó viết ra vào thời Việt nho chứ không phải vào thời Hán nho về sau(?). Cuốn sách ấy thật là một công trình đáng quí. Dựa vào cách “thuyết văn giải tự” như đúng tên của cuốn sách, kèm với ý của chữ qua ý nghĩa và tên gọi theo âm Việt của những bộ thủ ghép tạo ra nó ta sẽ thấy được hàng ngàn hàng ngàn chữ nho trong từ điển Hán Việt là gốc do từ Lạc Việt chứ không phải là gốc do từ Hán như xưa nay ta vẫn gọi là “từ Hán-Việt”. Thống kê cả cuốn ấy ra thì dài lắm. Nhưng cứ từ từ kiểu kiến tha lâu đầy tổ ta sẽ vỡ lẽ ra nhiều điều cho nghiên cứu cổ sử. Tôi sẽ nêu ví dụ từng chữ như dưới đây: (Chữ viết in to là âm đọc của Việt nho, kèm theo là chữ nho của nó, chữ in nhỏ trong ngoặc đơn là âm đọc của Hán ngữ hiện đại) 1. Chữ GIA 家 (jia) Cái nhà sàn bằng cây có mái tre cong lợp tranh bằng cỏ gianh hay rạ như của đồng bào Tây Nguyên, của đồng bào miền núi ngày nay hay của người Việt xưa hoặc của các dân tộc khác ở vùng Đông Nam Á, tiếng Mã Lai và Indonexia gọi là “Tangga”, tiếng Chăm gọi là “Thanggiơ” đều có nghĩa là nhà “ Sàn” hay “ Sàng” (tiếng Việt ở Nam Bộ), do từ nhà “sàn” ấy mà mới có họ “Sào” trong truyền thuyết Việt-Hoa là ông tổ dạy loài người biết làm nhà, và tiếng Việt còn có từ “Thang” có nghĩa là “cái để leo” , còn tiếng Hoa từ “Thoòng” nghĩa là “cái nhà” mà chữ nho viết là chữ ĐƯỜNG 堂( táng) trong “từ đường” là cái “nhà thờ”. Người Việt còn “vo” từ “Tanga” của tiếng Indonexia để rụng mất “ tan” còn “ga” thành từ “nhà”; vo từ “Thanggiơ” của tiếng Chăm để rụng mất “Thang” còn “giơ” thành từ “gia” mà chữ nho viết GIA 家 (jia) gồm bộ MIÊN 宀 ( mián) nghĩa là Mái nhà, từ Miên do lướt “Mái Hiên = Miên”. Còn trong Hán ngữ hiện đại mái nhà gọi là “gai”. Nếu chữ nho là của người Hán phát minh đầu tiên thì tại sao bộ MIÊN (mián) không gọi là bộ “gai” mà lại gọi là bộ “miên”?. Và bộ Thỉ 豕 xếp ở dưới mái hiên, nghĩa là con lợn nhà nuôi để lấy thịt (do lướt từ “Thịt Lợn Ỷ = Thỉ ” ). Chữ GIA 家 này chính là hình ảnh người ta vẫn thả lợn nuôi ở chung với người dưới gầm nhà sàn , đó là văn hóa của Đông Nam Á nông nghiệp định cư; người Hán ở đồng cỏ đất khô phương Bắc chỉ có chăn cừu ngựa chứ không chăn lợn du mục. Vậy từ gia có phải là “ từ Hán Việt không, như các nhà hàn lâm xưa nay vẫn nói ? Cả từ nhà lẫn từ gia đều từ cái nhà sàn ở miền Trung Việt Nam mà đi lên Bắc , người Hán mượn dùng. Ngôn ngữ và văn hóa từ thời thượng cổ đã từ phương Nam mà đi lên phương Bắc là như vậy. 2. Chữ QUỐC 國 (guó) Chữ QUỐC 國 gồm một hình Vuông , hình vuông này nếu trống trơn thì trong Hán ngữ nó chưa là chữ có ý nghĩa gì cả, nhưng trong Việt ngữ thì nó là một Vuông = một Vùng. Bên trong có bộ QUA 戈( ge) là cái qua đồng tức rìu đồng và bộ NHẬT日 (rì) nghĩa là mặt Trời, được viết cho tiện bút là một ô vuông nhỏ có thêm gạch ngang ở dưới cũng đủ bốn nét gạch như chữ NHẬT 日. Bộ QUA 戈 ( ge) và bộ NHẬT日( rì) ghép liền nhau thành chữ HOẶC 或 ( huò). Nghĩa của chữ QUỐC 國 ấy là “ Vùng của dân thờ mặt trời và có rìu đồng”, vậy dân ấy là dân nào? Chính là dân trống đồng, mặt trống đồng có hình mặt trời là đấng tôn thờ của dân Lạc Việt. Người Hán ở bắc Hoàng Hà làm gì có di chỉ trống đồng với rìu đồng. Chữ NHẬT (tiếng Việt ở Nam Bộ nói là NHỰC) là do lướt “Ngày Việt = Diệt = Dịch = Dực = Nhực = Rực = Rực-Rỡ = Rõ ” dẫn đến âm “rư”(rì) của Hán ngữ hiện đại, âm “rư” này trong Hán ngữ hiện đại không hề là một âm biểu thanh thành nghĩa là “sáng”, nó chỉ dùng để chỉ cái tượng hình NHẬT 日 là mặt trời hay ngày mà thôi, vậy nó chỉ có thể là một cái âm gốc Việt vậy. Còn HOẶC là gì? Nó là từ lướt “Họ Lạc = Hoặc” mà trong nghĩa của HOẶC có hai bộ là mặt trời 日 và rìu đồng 戈, biểu trưng của dân trống đồng, nên nó có nghĩa là “ dân cư đông đúc ( từ “họ” trong tiếng Việt nghĩa là nhiều người ) của Nác tức Lạc” . (Hán thư viết “người Việt sống quần cư ven dòng nước nên lấy Nước làm tên gọi xứ sở mình”). Rõ ràng chữ QUỐC theo biểu ý của các tượng hình là Vuông+ Mặt trời + Rìu đồng chỉ có nghĩa = “Vùng dân Lạc Việt”. Chữ HOẶC bằng hai bộ thủ là mặt trời 日 và rìu đồng 戈 phát âm là “hoặc” ấy sau thành từ văn chương ( ý như từ “ or ” của tiếng Anh) với ý là “hoặc” Việt này hoặc Việt nọ đều là của Lạc Việt cả, chứ nếu không gắn với từ Việt mà chỉ khơi khơi ( như ý “or” của tiếng Anh) thì “hoặc” làm sao lại được biểu ý bằng hai bộ mặt trời 日 và rìu đồng 戈 ? Tại sao Việt nho đọc là QUỐC 國 (guó) ? Quốc là do lướt “ Của Nác = Quấc ( như cụ Hồ viết Nguyễn Ái Quấc), hay “ Của Nước = Quốc”, hay “Cơ Lạc = Coọc” ( như người Quàng Đông phát âm, tiếng Quảng Đông “của” là “cơ” ), nên QUỐC còn có nghĩa là “Vùng dân trống đồng của Nác”. Rõ ràng là chữ QUỐC ấy không phải là ta đi mượn của “từ Hán Việt” nào cả, như các nhà hàn lâm vẫn nói, như biểu ý của nó, nó hoàn toàn là của Lạc Việt. Thời hiện đại mới có từ ghép QUỐC GIA để dịch từ “Govermen” của tiếng Anh, ta dùng từ “quốc gia” ấy coi là “từ Hán Việt” cũng được, nhưng những từ tố “ gia” và “quốc” để tạo nên nó bằng cách ghép từ thì lại là gốc Lạc Việt ! 3. Chữ VIỆT越 (yuè) và chữ LẠC洛 (luò) Chữ VIỆT 越trong từ Bách Việt được Hứa Thận giả thích: VIỆT 越 (yuè) nghĩa là vượt qua (nguyên văn: độ dã), đọc VƯƠNG 王 PHẠT 伐 = VIỆT (wáng fá = wá; wá trật yuè). Đó chỉ là vận dụng qui luật lướt của tiếng Việt để đọc cho đúng âm của chữ nho. Nhưng nếu xem biểu ý của chữ VƯƠNG PHẠT 王 亻 戈 thì thấy ý là: “ vua ( vương 王) là người ( nhân 亻) cầm rìu đồng (qua 戈) đi “phạt ruộng” = phạt rọng ( tiếng Nghệ An) = phạt rộng (tức “mở vuông” là mở mang bờ cõi ” = vượt , như câu nông dân Việt vẫn nói “vượt đất đắp bờ” ). Có lẽ phần “giải tự” chữ Việt này của ông Hứa Thận là chính xác nhất về nguồn gốc từ “Việt” xuất hiện từ khi nào trong lịch sử. Hán thư thì viết rằng từ “Việt” xuất hiện vào thời Xuân Thu (?). Theo “giải tự” ở đây thì VIỆT= VƯƠNG PHẠT tức “ông vua đi chinh phạt” thì phải có sớm hơn rất nhiều, đó là sự kiện nổi tiếng lịch sử cổ đại là vụ vua Chu Văn Vương tức ông Tây Bá Cơ Xương vượt sông đi bắc phạt tiêu diệt vua Trụ nhà Thương, có lẽ từ đó người ta mới gọi quân của “ Vương Phạt” là quân “Việt”, trước đó thì họ chỉ gọi là dân Lạc của Lạc Quốc mà thôi. ( Nhưng Lạc Quốc như Hán thư viết nghĩa là gì sẽ giải thích ở dưới). Còn từ Việt thì nó có còn sớm hơn thời Chu Văn Vương nữa cơ, cụ thể trong từ chim VIỆT được Hứa thận giải thích là con chim thần (tức để thờ như hình chim trên trống đồng của người Lạc Việt) VIỆT 鸑 (yuè), nghĩa là chim thần giống phượng, đọc NGŨ 五 GIÁC 角 = NGẠC (wu jiao = wao; wao trật yuè). Chim NGẠC tức con chim VẠC là loài chim nước, hay chim LẠC ( như vậy chim VIỆT và chim LẠC chỉ là một con, là chim thần-chim thờ trên trống đồng Lạc Việt). Còn có một chữ LẠC nữa bộ CHUY 隹 (zhui). Chuy là lướt từ “Chim Quí = Chuy” nghĩa là chim thần, chim thờ, Chuy và Chim chỉ có trong tiếng Việt chứ không thể có trong tiếng Hán) . Chữ LẠC 雒 này, mà nếu “giải tự” ra theo hai bộ biểu ý và biểu âm của chữ này là bộ CHUY 隹 và bộ CÁC 各, thì có lướt “Chuy Các = Chạc”. Chữ này cũng được dùng trong từ LẠC 雒VIỆT 越, có lẽ nó để chỉ một chi người Việt xưa hơn , của cái thời còn dùng ký tự kết thừng ( “chạc” là từ dùng chung trong tiếng Việt, Mường, Thái nghĩa là “dây thừng”). Mà chữ kết thừng cùng nghề đan lưới theo truyền thần thoại là do chim gợi ý cho người nguyên thủy để biết làm. Có một chữ LẠC 絡( luò) nữa chỉ chi Việt làm nghề dệt, biểu ý ra thì cũng hoàn toàn là phát âm của người Việt và cho thấy nghề dệt xuất xứ từ Lạc Việt tức Bách Việt, Đó là chữ LẠC 絡 có bộ MỊCH 糸 (mì) . Mịch là do lướt “Mạng Chằng Chịt = Mịch”, trong đó Chằng = Chăng = Giăng = Căng = TRƯƠNG 張 ( zhang); Chịt = Chạc = Dệt = Chật = CHỨC 織 (zhì) của chữ nho nghĩa là dệt, là nghề mà người nguyên thủy được gợi ý từ công việc của con nhền-nhện ( gốc là nền-nện, giống như từ “nón” có chóp phải là “ nhọn”, tiếng Nam Đảo thì con “nền nện” là: “nana nana” hay “ lakwa lakwa”, từ thổ dân Đài Loan cho đến thổ dân Polinedi đều nói giống dân Việt). Chữ chim VIỆT còn nhiều chữ khác nhau để phân biệt là chim của các chi người Việt khác nhau, nhưng họ đều có hình chim thờ trên trống đồng của mình cả, đó là các chữ 鵒 鸙 鴧 鷸 鷠 鴥鳿, đều có bộ điểu và đều đọc là VIỆT. Còn chữ ĐIỂU 鳥 thì Hứa Thận “ thuyết văn” nó như thế nào? ĐIỂU 鳥 (niao), nghĩa là loài chim có lông vũ dài, đọc ĐÔ 都 LIỄU 了= ĐIỂU ( du liao = diao; diao trật niao). Còn chữ LẠC trong từ LẠC VIỆT lại là chữ LẠC 洛 có bộ thủy, gồm bộ “ THỦY 氵” nghĩa là nước và bộ “CÁC 各” nghĩa là nhiều lắm, như vậy biểu ý của chữ LẠC 洛 này là : “các nước”, LẠC 洛 VIỆT 越 = các nước Việt. Tại sao chữ Lạc 洛 này lại dùng bộ thủ các 各và bộ thủ nước 氵để biểu ý là “các nước” ?, vì nó do lướt từ hai từ “ LẮM NÁC = LẠC” mà ra, mà chữ “lắm” trong tiếng Việt còn có nghĩa là “trăm” tức là rất nhiều, như câu “trăm nghe không bằng một thấy” ( nó do nguồn gốc từ tiếng Khơ Me “prăm” là “năm”, là con số biểu giá trị nhiều nhất trong hệ đếm ngũ phân của người Khơ Me chỉ có 5 con số, mà tiếng Việt thuộc nhánh ngôn ngữ Môn-Khơ Me). Người Hán vào thời Xuân Thu đã dịch từ “trăm” thành “bách” để gọi Lạc Việt là Bách Việt , theo như Hán thư viết “ tên gọi Bách Việt xuất hiện vào thời xuân thu”, như vậy thì rõ ràng từ Lạc Việt đã có trước từ Bách Việt hàng ba ngàn năm, đến thời Xuân Thu thì từ Bách Việt chỉ là từ dịch ý mà thôi. Đến thời Hai Bà Trưng thì chỉ còn các nước Việt từ Lĩnh Nam trở xuống kiên cường chống Hán và vẫn gọi mình là Lạc Việt. Lạc Việt còn lại ấy, các sử gia Hán về sau, với ý đồ đảo ngược lịch sử, giải thích Lạc Việt ấy là một chi hậu duệ của Bách Việt ở nam Trường Giang (đã bị Hán diệt và Hán hóa) là giải thích đi ngược chiều thời gian lịch sử. Nhưng nhân dân ta đã vạch cái sai của họ bằng câu ngạn ngữ cổ xưa dí dỏm là: “( Nói như vậy chẳng hóa ra là) sinh con rồi mới sinh cha, sinh cháu giữ nhà rồi mới sinh ông (?)”. Lạc Việt 洛 越 = Các Nước Việt = Lắm Nước Việt = Trăm Nước Việt = Bách Việt 百 越, cũng đồng nghĩa là Bách Việt, nhưng nước Lạc Việt đầu tiên ở Việt Nam là tổ của Bách Việt khi đã phát triển lên một địa bàn rộng lớn hơn gồm nhiều nước Việt khắp Trung Hoa cổ đại. Ngày nay ta dùng chữ latin phiên âm gọi là chữ quốc ngữ nên không phát hiện được biểu ý của chữ Lạc Việt 洛 越 = Các Nước Việt. Sau thời Hán những thành phần ưu tú của Lạc Việt 洛 越 tức Bách Việt 百 越 ở Hoa Nam đã về lại đất Tổ ở Việt Nam cùng với dân Việt cũ ở đó tiếp tục ngăn cản sự Hán hóa, còn dân Việt ở lại đất xưa của Bách Việt vùng nam Trường Giang thì bị Hán hóa dần dần ở các mức độ khác nhau mà thôi. Bởi vậy tuy vẫn cùng một gen Indonesien mà trong số họ còn tồn tại tới 7 phương ngữ khó có thể hoặc hoàn toàn không thể giao tiếp được với tiếng quan thoại.3 likes -
Khí Công Dưỡng Sinh Từ Thiện Nhằm giúp cho mọi người lợi lạc về sức khỏe, niềm vui và tâm hồn, Khí công sư Bùi Long Thành sẽ trực tiếp phát công và thị phạm hành công trong 2 tuần, từ ngày 16/8/2010 đến 26/82010, tại Tp HCM. Chương trình: Mục đích: Trị bệnh, gia tăng sức khỏe. Hình thức: học tập trung và miễn phí hoàn toàn. Thời gian: Từ thứ 2 đến thứ sáu của 2 tuần 16/8/2010 và 23/8/2010. Giờ học: từ 20g00 đến 21g30. Địa điểm: Nhà thi đấu Rạch Miễu, số 1 đường Hoa Phường, (Đi từ đường Phan Xích Long vô, hỏi tiếp, từ phía chợ Tân Định đi qua). Quý vị biết thông tin này, cũng nên cho những người bệnh, những người muốn cải tạo sức khỏe cùng biết, đây cũng là một cách làm từ thiện cụ thể, lợi lạc cho đồng bào. Thiên Đồng1 like
-
Kính thưa quí vị quan tâm. Khoa học hiện đại đã phát triển với tốc độ ngày càng nhanh so với những chặng đường thời gian trong lịch sử. Sự phát triển đến chóng mặt này đã khiến cho những kiến thức hiện đại có cảm giác rằng: Vũ trụ sắp sửa hé lộ những bí mật cuối cùng của nó. Những nhà khoa học hàng đầu đã hào hứng đặt giả thiết về một chân lý tuyệt đối - Lý thuyết thống nhất vũ trụ. Một trong những bước tiền vào sự huyền bí của vũ trụ chính là tham vọng đi tìm hạt của Chúa. Nhưng theo như suy luận của cá nhân tôi - với những hiểu biết hạn hẹp mà tôi thu lượm được về Lý học Đông Phương và tính hợp lý của mọi hiện tượng thì tôi cho rằng: Vật chất sẽ không thể chia nhỏ mãi. Những hạt vật chất cơ bản cuối cùng phải được tạo ra từ một điều kiện tồn tại khác phi vật thể - và không gọi là hạt của Chúa. Có thể điều kiện tồn tại khác - mà tôi đề cập ở trên - chính là kháii niệm "Khí" trong Lý học Đông phương. Trên cơ sở suy luận từ những hiểu biết này. Tôi đã dự báo từ trước khi các nhà khoa học thế giới khởi động thí nghiệm này trên máy LHC từ năm 2008 rằng: Cuộc thí nghiệm đi tìm hạt của Chúa sẽ thất bại. Nếu như lời dự báo của tôi đúng thì tôi hy vọng rằng: Những trí thức khoa học hiện đại sẽ quay lại với nền văn hóa Dông phương mà chủ nhân đích thực của nó là nền văn minh Lạc Việt một thời huyền vĩ ở bờ nam sông Dương Tử. Nếu dự báo này sai thì cá nhân tôi sẽ phải rà soát lại toàn bộ suy luận trên cơ sở kiến thức của mình trong quá trình dự báo. Vì tính quan trọng của dự báo này. nên tôi xin được tách ra làm một chủ đề riêng. Rất mong được quí vị quan tâm tham gia đóng góp ý kiến. Xin chân thành cảm ơn. Thiên Sứ NHỮNG BÀI VIẾT LIÊN QUAN Đã chạm được một tay vào "hạt của Chúa"?Nguồn Vietbao.vn Thứ sáu, 12 Tháng ba 2004, 14:02 GMT+7 Mặc dù chưa tập hợp được nhiều bằng chứng thực sự thuyết phục nhưng giới khoa học đang đứng trước cơ hội tìm thấy hạt Higgs - loại hạt được giới vật lý đặc biệt quan tâm đến mức gọi nó là "hạt của Chúa". Hạt Higgs có thể giúp giải thích tại sao các loại hạt khác lại có khối lượng, từ đó hiểu đầy đủ hơn về vật chất. Hạt Higgs là gì? Ngay khi vừa được tạo ra, hạt Higgs đã nhanh chóng phân rã. Trong vài thập kỷ qua, giới vật lý hạt đã xây dựng được một mô hình lý thuyết chuẩn, tạo nên bộ khung về kiến thức các hạt và lực cơ bản trong tự nhiên. Một trong những thành phần cơ bản của mô hình này là trường lượng tử giả thiết phổ biến, chịu trách nhiệm cung cấp khối lượng cho phân tử. Trường này có tên gọi là trường Higgs. Là hệ quả của đối ngẫu sóng - hạt, tất cả các trường lượng tử đều có một hạt cơ bản đi kèm. Hạt đi kèm với trường Higgs được gọi là hạt Higgs, hay Higgs boson. Vì trường Higgs chịu trách nhiệm về khối lượng, việc các hạt cơ bản có khối lượng được nhiều nhà vật lý coi như một dấu hiệu cho thấy sự tồn tại của trường Higgs. Giả sử hạt Higgs tồn tại, chúng ta có thể suy luận được ra khối lượng của nó dựa trên tác động mà nó tạo ra đối với thuộc tính của các hạt và trường khác. Tuy nhiên, việc hạt Higgs có tồn tại hay không vẫn là điều khiến nhiều người tranh cãi. Manh mối tìm ra hạt Higgs Gần đây, TS Peter Renton, nhà vật lý hạt thuộc ĐH Oxford (Anh), vừa cho công bố phương pháp tiếp cận hạt Higgs của mình trên tạp chí khoa học danh tiếng Nature. Ông cho biết đã lần ra được manh mối về hạt Higgs nhờ các nhà nghiên cứu tại một cơ sở nghiền nguyên tử ở Thuỵ Sỹ. Nếu phát hiện của TS Renton là chính xác, khối lượng của loại hạt khó nắm bắt này sẽ được xác định ở vào khoảng 115 gigaelectronvolts. Niềm tin của TS Renton bắt đầu từ một tín hiệu do máy va đập positron electron lớn (LEP) ở Geneva (Thụy Sỹ) tạo ra. Đến giờ phút này, cỗ máy đã bị tháo rời ra để thay thế bằng một cỗ máy khác - máy va đập hadron lớn (LHC). Tuy nhiên, có 9% khả năng là tín hiệu này được tạo ra từ "tiếng động" nền. Trước khi máy gia tốc LEP chính thức ngừng hoạt động, các nhà vật lý học đã dùng nó để gửi electron và positron về các hướng đối nghịch quanh đường ống tròn có chu vi khoảng 27km. Khi các hạt này va đập với nhau, chúng tạo ra một nguồn năng lượng rất lớn. Bản thân các vụ va chạm như thế quá nhỏ để phục vụ cho công tác nghiên cứu, nhưng những hạt mới nặng hơn có thể xuất hiện sau va chạm. Hạt Higgs có độ bất ổn định rất cao, vì vậy chúng nhanh chóng phân rã khi được tạo ra. TS Renton cho biết ông đã có những bằng chứng gián tiếp từ việc quan sát hành vi của các loại hạt khác trong máy va đập, phù hợp với con số 115 gigaelectronvolt - khối lượng của hạt Higgs. Các nhà vật lý đã quan sát 16 hạt hình thành tất cả mọi vật chất theo mô hình chuẩn dành cho hạt và tương tác cơ bản. Tuy nhiên, nếu chỉ nghiên cứu riêng các hạt này thì mô hình chuẩn tỏ ra không đúng lắm. Bởi nếu chỉ có 16 hạt trên tồn tại, chúng sẽ không có khối lượng, ngược với những gì chúng ta biết về tự nhiên. Chắc chắn phải có một loại hạt khác cung cấp khối lượng cho chúng - đấy chính là hạt Higgs, được đặt theo tên của nhà vật lý Peter Higgs thuộc ĐH Edinburgh (Anh) khi ông này lần đầu tiên đề xướng vào năm 1960. Đường ống vòng trong máy gia tốc LEP sử dụng cho các hạt va đập. Theo nhóm nghiên cứu của Peter Higgs, tất cả mọi hạt lấy khối lượng của chúng thông qua tương tác với một trường phổ biến (trường Higgs), do hạt Higgs mang theo. Tầm quan trọng của hạt Higgs trong mô hình chuẩn đã khiến cho một số nhà vật lý học phải gọi nó là "hạt của Chúa". TS Renton hy vọng khi máy va đập hadron lớn lắp đặt xong và đưa vào vận hành từ năm 2007, ông sẽ phát hiện ra hạt Higgs trong thời gian một - hai năm.Khánh Hà (Tổng hợp) Việt Báo (Theo_VietNamNet)1 like
-
Lang thang và chu cha . Trong ngôn ngữ Việt có 2 từ láy rất hay dùng , những từ này mang nặng phong cách dân dã chứng tỏ là nó thuộc về đại chúng , đã ngấm trong máu nên người ‘đời’ dùng nhiều hơn là ...xuất hiện trong văn chương khoa bảng. Là những từ nằm trong lòng phát ra ‘cửa miệng’ chẳng cần suy nghĩ lựa lời chi cả nhưng lại ít ai biết căn nguyên của nó ; quen rồi cứ ‘xài’ không cần biết nó ở đâu ra và tại sao lại dùng như thế ; sách vở chưa hề có lời giải thích ..., Tự điển tiếng Việt cũng vậy không có dòng nào đề cập đến vấn đề này . 2 từ quen mà lạ này là: ‘lang thang ‘ và ‘chu cha’ hay ‘châu cha’ . 1 - Lang thang . Lang thang là đi hết chỗ này đến chỗ khác 1 cách bất định không có chủ đích rõ rệt , lạ là ở chỗ lang và thang trong tiếng Việt không mang ý nào liên quan đến sự đi lại cả . Từ lang nghĩa thông thường là : - Thày thuốc đông y . : thầy lang , ông lang , lang băm , lang vườn ... - 1 loại đồ ăn thức uống : khoai lang . - Người đứng đầu 1cộng đồng nhỏ cỡ làng ; từ này còn thấy trong vài dân tộc ít người như Thái và Mường. Từ thang : - Vật dụng để trèo lên cao ; bắc thang lên hỏi ông Trời ... - Gói thuốc trong đông y : thang thuốc . Vậy mà khi dùng lang đi liền với thang thành ‘lang thang’ lại chỉ sự di chuyển không mục đích rõ rệt ...thế mới lạ . Thực ra đây là từ láy có gốc rễ ở 1 sự kiện trong lịch sử Trung hoa xa xưa : Nhà Thương là triều đại dời đô nhiều nhất trong lịch sử Trung hoa , trong khoảng 300-400 năm đã 5 lần thay đổi kinh đô , ta biết mỗi lần dời đô như thế là cả 1 sự kiện trọng đại , xây dựng được 1kinh thành thì hao tốn không biết bao nhiêu tiền bạc và sức lực , kinh đô nào để cho xứng tầm cũng phải nguy nga tráng lệ chứ đâu có như cái nhà bếp cỏn con của đám dân đen , có khi phải đến vài chục năm mới có thể hoàn tất chứ nào chỉ ngày một ngày hai vậy mà ở chưa nóng ...mông vua quan nhà Thương đã bắt dân chúng xây kinh đô mới ...thực biết bao cơ cực cho kẻ làm dân ....chính vì thế sự việc này mới hằn sâu trong tâm trí mọi người để trở thành 1 điển cố lịch sử không thể quên cứ thế truyền mãi cho đến tận ngày nay để trong ngôn ngữ ‘bình dân’ Việt nam có từ láy... ‘lang Thang’ . Lang là thủ lãnh là vương là vua , Thang chỉ nhà Thương vua sáng lập là Thành Thang , lang Thang nghĩa là vua nhà Thương , chính vì 5 lần dời đô mà trở thành từ láy mang ý nghĩa như ngày nay . Sự giải thích này xem ra có lý ...nhưng kẹt một điều là vua nhà Thương là vua cổ của Trung hoa thì có liên quan gì đến dân chúng Việt mà sự cố ‘lang thang’ được khắc ghi trong tâm trí truyền lưu hơn 3000 năm đến tận ngày nay .??? Mời các bạn đọc Sử thuyết họ Hùng để thấy những điều trái khoáy thực ra không trái khoáy chút nào ,những chuyện tưởng như... kỳ quái mà thực ra lại rất chân xác ... 2 - Chu cha hay Châu cha. Khi gặp điều gì gây ngạc nhiên sửng sốt người ta buột miệng kêu ‘chu cha’ hay ‘châu cha ơi’..., gọi là buột miệng vì lời nói bật ra từ vô thức không nghĩ suy chi cả , người xứ Quảng phát âm thành ‘chu choa’ , người nam trung bộ là ‘chu che’ nhưng tất cả là cùng 1 ý , đặc biệt người Quảng hay kéo thêm cái đuôi thành ra ‘chu choa chèng đéc ơi’. ‘Chèng đéc’ là biến âm từ ‘Trời đất’ mà ra , còn ‘chu cha’ thì rõ ràng gọi người cha hay bố có tên là Chu , vậy hóa ra CHU là tên bố chung của mọi người Việt sao?. Trong sử Việt chẳng đã có vì vua được dân xưng tụng là ‘Bố cái đại vương’ đấy sao , đấng minh quân quên mình vì nước vì dân được dân mến mộ coi như cha mẹ vừa thể hiện sự kính trọng vừa là sự biết ơn xâu sắc trong tâm tình người Việt với đạo lí : uống nước nhớ nguồn ăn qủa nhớ kẻ trồng cây, khi nước ta đã trở thành ‘văn hiến chi bang’ thì đời đời không quên người đã mang đến ánh sáng văn minh ấy , Dịch lý là nền tảng văn minh Á đông , Chu văn vương là người có công đầu trong việc tác tạo Dịch học , trong tứ thánh của Dịch học thì Phục Hy là nhân vật thần thoại , Văn vương là con người thực công lao đứng đầu rồi mới đến Chu công và Khổng tử , không ai có thể tự hào hơn người Việt vì lịch sử còn ghi rõ tổ quốc của họ là đất nước của VĂN LANG tức nước của vua Văn , hàng ngàn năm trước công nguyên khi Hán tộc chưa hề đến đây thì trong kinh Dịch đã nói đến trống đồng và trên trống đồng cũng thể hiện Dịch học ,đây là bằng chứng vật thể đã không thể chối cãi về sự liên hệ giữa nước Văn lang và Chu văn vương nay lại thêm thói quen của người Việt mọi chi tộc luôn mở miệng gọi ‘Chu cha’ hay ‘Châu cha ơi là’ là điểm nhấn văn hoá phi vật thể bổ sung thêm chắc chắn và làm cho sự liên quan này trở nên không thể chối bỏ . Đã đến lúc lịch sử Việt nam ,Trung hoa và Hán tộc phải viết lại . Những thông tin lịch sử tồn tại trong dân gian tuy có vẻ giản đơn mong manh nhưng thực ra lại rất chắc chắn vì không ai có thể cạo sửa ‘bia miệng’ nên một khi đã tìm ra thì những thông tin này hầu như không thể bác bỏ , vua Tàu Càn long có thể cạo sửa toàn bộ sử sách Trung hoa nhưng không thể nào sửa được cụm từ ‘Lục lâm thảo khấu’ trong dân gian , đã là bia miệng thì chỉ có nước giết hết người Bách Việt mới phi tang được cái gốc cướp rừng cướp núi của đám quân Lục lâm , đám quân đã giúp lập nên hãn quốc đầu tiên ở Thiểm tây và ‘Lục lâm thảo khấu’ bỗng lột xác đổi đời... thành Hãn quân của đế quốc Hán kẻ đã đạp Trung hoa dưới móng ngựa có đến 500-600 năm . Các bạn nghĩ thử coi nếu Lục lâm quân là những anh hùng giúp kiến lập 1triều đại huy hoàng của Trung hoa thì trong dân chúng Trung hoa làm sao có cụm từ ‘giặc cỏ Lục lâm’ vừa vạch mặt chỉ tên là giặc lại vừa khinh bỉ là cỏ rác ... Trong ngôn ngữ bình dân Việt nam đã tìm thấy Dấu tích 4 triều đại của cổ sử Trung hoa: Lang Thang là các vua triều thương hay Thang . Lang Văn xếp ngược theo cấu trúc Hán văn là Văn lang vua tổ của triều Chu. Lang sói chỉ vị vua bạo ngược hàng nhất trong lịch sử là Tần thủy hoàng . Lang Bang là Lưu Bang Hiếu cao vua kiến lập Triều Tây Hán ( ???) Và độc đáo hơn hết là những ông Hãn gốc tộc Liêu họ Lưu lập quốc xưng là Hán ở phương trời ‘mờ – tối – đen’ được sử dân gian Việt gọi bằng mỹ danh ... Lưu manh ( manh ═ mù) , Lưu manh nghĩa là gì thì chắc không cần gỉai thích... Chỉ 1 từ kép này thôi đã chỉ rõ : Hán là Hán Hoa là Hoa , mập mờ đánh lận con đen...nhập Hán và Hoa làm một là ‘lưu manh’ .1 like
-
PHÒNG NGỦ TRONG HÔN NHÂN VÀ HẠNH PHÚC GIA ĐÌNH THEO PHONG THỦY LẠC VIỆT -o0o- Trung tâm nghiên cứu Lý học Đông phương Hạt gạo làng - Nguyễn Đức Thông www.lyhocdongphuong.org.vn Từ xa xưa, phong thủy đã được ứng dụng phổ biến, sâu rộng trong mọi mặt của đời sống xã hội. Do những điều kiện của lịch sử, phong thủy đã bị mai một, thất truyền và bị thần thánh hóa khiến cho nó trở thành một bộ môn huyền bí, có nhiều điều không thể giải thích nổi. Cũng có những người lợi dụng sự thần bí của phong thủy để mê hoặc lòng người nhằm trục lợi cho bản thân khiến cho có thời gian, phong thủy bị coi là mê tín dị đoan. Trong xã hội hiện nay, khi mà cuộc sống con người đã được nâng cao cả về vật chất lẫn tinh thần, con người có mong muốn trở về với cội nguồn, với tâm linh và mong muốn có cuộc sống ngày càng tốt đẹp hơn, phong thủy đã trở thành một đối tượng gây sự chú ý của nhiều người trong xã hội. Trong bài viết này, người viết xin được giải thích một phương pháp ứng dụng trong phong thủy liên quan đến phòng ngủ trong hôn nhân và hạnh phúc gia đình dựa theo nền tảng kiến thức về Phong thủy Lạc Việt của mình góp phần làm cho phong thủy trở thành một bộ môn khoa học mà không còn bị dán nhãn “mê tín dị đoan” nữa. Hiện nay, trên thị trường sách có rất nhiều đầu sách về phong thủy và có nhiều diễn đàn về phong thủy và các môn học huyền bí khác như: tử vi, tử bình, tướng số, thái ất, kỳ môn độn giáp… Đã có rất nhiều câu hỏi được đặt ra cho vấn đề lấy hướng giường theo hướng nào? Theo hướng đầu giường hay theo hướng chân giường của người nằm ngủ nhưng vẫn chưa có lời giải đáp thỏa đáng cho vấn đề này. Các sách thì có cuốn viết nên theo hướng đầu giường, có cuốn viết nên theo hướng chân giường khiến cho người đọc chẳng biết ứng dụng thế nào cho đúng và các thắc mắc cứ ngày càng dài ra. 1. CÁC KHÁI NIỆM CƠ BẢN TRONG PHONG THỦY Để trả lời cho câu hỏi trên, người viết xin được trình bày một số khái niệm cơ bản về phong thủy để những người chưa biết về phong thủy cũng có thể hiểu và ứng dụng được cho mình. - Hiện nay, có rất nhiều người hay nhầm lẫn với khái niệm hướng, hướng tọa và tọa. Người viết xin được giải thích sơ qua về các khái niệm này. Các bạn hãy tưởng tượng một người đang ngồi trên một cái ghế bành thì: + Hướng: là hướng mà mắt của người ngồi trên ghế bành nhìn thẳng về phía trước. Một trong những yếu tố quan trọng của hướng là có khoảng không trống trải phía trước mặt, trong phong thủy thường được gọi là minh đường. Đây cũng là hướng mà con người hít thở không khí vào trong cơ quan hô hấp của mình. + Hướng tọa: là hướng ngược lại với hướng mắt hay còn gọi là hướng lưng. + Tọa: là vị trí đặt cái ghế bành. Tọa cần phải có chỗ dựa vững chắc để kê lưng, kê đầu cũng như khi người ngồi dựa lưng vào ghế thì mới cảm thấy thư thái. Với những khái niệm cơ bản nêu trên, ta có thể suy diễn là đối với bất cứ một vật nào mà đang dựa lưng vào một vật khác và nhìn ra một khoảng không trống thoáng thì hướng của vật đó chính là hướng mà vật đó nhìn ra khoảng trống thoáng và hướng tọa của nó là hướng ngược lại. 2. HƯỚNG GIƯỜNG LÀ HƯỚNG NÀO ĐÂY TA? Phòng ngủ với giường ngủ là nơi ta trải qua hơn một phần ba đời người cho nó, nó chiếm một vị trí quan trọng trong đời sống con người. Nơi đây cũng là nơi diễn ra những yêu thương, âu yếm và có nhiều quyết định quan trọng của con người thường được đưa ra trong phòng ngủ, trên giường ngủ của con người. Trong phong thủy được truyền lại cho đến ngày nay, khi nói về vị trí sắp đặt giường ngủ, bao giờ cũng được khuyên là giường ngủ cần phải được dựa vào một vật gì đó, thường là tường phòng. Như vậy, với một cái giường được kê đầu giường vào tường phòng và phía chân giường có khoảng không trống thoáng thì khi đọc đến đây, các bạn cũng đã biết đâu là hướng và đâu là tọa hướng. Đến đây, nhiều bạn sẽ đặt vấn đề tại sao trong các sách xuất bản trên thị trường lại lấy hướng đầu giường là hướng giường và coi nó là điều quan trọng khi sắp xếp giường ngủ, tức là cần quay về hướng tốt? Rồi có sách lại coi hướng chân giường là hướng giường ngủ vì khi ta nằm phải lấy hướng mà mũi hít thở không khí để làm hướng giường. Có người lại quan niệm, hướng mà mũi hít thở không khí cũng là hướng chân của người nằm, đầy ô uế nên không thể là hướng giường được và cứ thế, cãi nhau loạn xị ngậu cả lên. Vậy ta nên lấy hướng giường theo phương pháp nào? Xin các bạn theo khái niệm sẽ được người viết giải thích, đó là lấy hướng đầu giường làm hướng giường, còn giường ngủ nên được sắp xếp thế nào thì người viết sẽ tiếp tục giải thích ở bên dưới. 3. “ĐƯỢC CÁI NÀY THÌ MẤT CÁI KIA”, SAO KỲ VẬY TA? Đúng là kỳ thật! Đối với con người hay bất kỳ một thực thể sống nào, phần đầu là phần quan trọng nhất bởi nó là linh hồn của một cơ thể sống, điều khiển mọi suy nghĩ, hành động, tâm tư, tình cảm của con người. Ngoài ra, nửa phần trên của cơ thể còn bao gồm cả phổi và trái tim của con người là bộ phận biểu tả cảm xúc của con người và cũng là bộ máy đẩy khí huyết đi nuôi sống cơ thể. Chính vì tầm quan trọng của một nửa phần trên của cơ thể nên nó cần phải được nằm ở vị trí tọa tốt, có hướng tọa tốt. Điều này giải thích tại sao lại chọn hướng đầu giường quay về hướng tốt trong một số sách đã xuất bản. Lại thắc mắc, thế còn hướng chân giường thì sao? Tại sao một số sách lấy chân giường làm hướng? Đó là do thất truyền hay do tam sao thất bản? Nửa phần dưới của cơ thể con người toàn ô uế thì đâu cần quan tâm đâu? Ấy, nhầm đấy các bạn ạ! Nửa bộ phận phía dưới của nó tuy ô uế, nhưng có bộ phận quan trọng điều khiển khí của con người, đó là thận và các bộ phận liên quan đến tình yêu và duy trì nòi giống thì sao nó lại không quan trọng nhỉ? Quan trọng chứ!. Nó cũng cần phải có hướng và tọa tốt chứ. Đó chính là nếu không sắp xếp giường đáp ứng các điều kiện trên thì đúng là “được cái này thì mất cái kia” đấy. 4. VỊ TRÍ SẮP XẾP GIƯỜNG TỐI ƯU THEO PHONG THỦY LẠC VIỆT Trong Phong thủy Lạc Việt, chúng tôi cho rằng, vị trí sắp xếp giường tối ưu chính là phải hội tụ được các yếu tố như: - Giường ngủ được kê tại vị trí vượng khí của căn phòng. Đó chính là vị trí chéo góc so với cửa phòng. - Giường ngủ cần hội tụ đủ các yếu tố: * Có hướng tọa hay sơn hướng tốt. Đây là ưu tiên hàng đầu do tính quan trọng của nửa phần trên trong cơ thể con người như đã nói ở trên. * Tọa ở vị trí tốt, đó chính là cung tốt đối với cung mệnh của gia chủ. * Có hướng tốt, chính là hướng của đầu giường. Ngoài những yếu tố chính nêu trên, giường ngủ còn cần phải đáp ứng các điều kiện sau: - Không kê đầu giường vào vị trí đặt cửa sổ và không bị cửa phòng vệ sinh chiếu vào. Do nửa phần đầu của con người rất quan trọng nên giường ngủ cũng không nên kê đầu vào phòng vệ sinh cho dù hướng tọa của giường tốt. Giường ngủ nằm ở vị trí mộ khí của căn phòng và kê đầu giường vào phòng vệ sinh Giường ngủ kê đầu vào cửa sổ - Không bị xà, dầm, cột cắt ngang giường. Không nên kê giường dưới xà nhà, đà nhà. Phòng ngủ có xà, dầm cắt ngang giường ngủ Giường ngủ nằm dưới xà nhà Nhưng trong xã hội hiện tại và nhất là tại các khu đô thị, thành phố, việc đáp ứng toàn bộ những điều trên là không thể. Do vậy, cần ưu tiên giường nằm ở vị trí vượng khí và có tọa hướng tốt (chính là hướng đầu giường) là đã tạm được. Kế đến là phải nằm trong cung tốt của gia chủ. Khi ta nằm trên giường, đầu ta quay về hướng nào thì đó chính là hướng tọa để xác định hướng giường. Ví dụ, chân đạp Nam, đầu tọa Bắc thì hướng giường hay hướng đầu giường chính là hướng Bắc tức đầu người nằm quay về hướng Bắc. Hướng đầu người nằm hay hướng đầu giường cần được kê dựa tường. Giường ngủ nằm ở vị trí vượng khí và phòng ngủ có lỗ thoái khí - Giường ngủ tránh bị cửa phòng xung thẳng vào giường. Giường ngủ bị cửa phòng đối xung Hướng kê giường tốt nhất chính là hướng theo phúc đức trạch của gia chủ. Người Đông tứ mệnh thì xếp giường theo hướng Bắc – Nam là phúc đức trạch. Người Tây tứ mệnh thì sắp xếp giường theo hướng Tây Bắc – Đông Nam là phúc đức trạch. Đối với phòng ngủ, phải được thông thoáng, ấm cúng và không bị bế khí theo phong thủy, nghĩa là tại vị trí mộ khí của căn phòng cần có cửa nhỏ hoặc cửa phòng vệ sinh. Nếu trường hợp không thể bố trí được cửa nhỏ hoặc phòng vệ sinh ở đó, tại vị trí mộ cần có lỗ nhỏ thông khí theo Phong thủy Lạc Việt để thoái khí nhằm tránh cho phòng ngủ bị bế khí. 5. PHONG THỦY GIƯỜNG NGỦ VỚI VẤN ĐỀ CHỮA BỆNH VÀ HIẾM MUỘN Hiện nay, vấn đề hiếm muộn là một thực trạng đáng lo ngại trong xã hội. Có nhiều người đã mất rất nhiều tiền, nhiều lần đi thụ tinh nhân tạo mà cũng không được. Ngoài ra, trong hôn nhân gia đình, bệnh bất lực ở đàn ông cũng là một thực trạng đáng quan tâm. Vậy Phong thủy nói chung và Phong thủy Lạc Việt nói riêng giải quyết vấn đề này như thế nào? Phong thủy Lạc Việt cho rằng: việc hiếm muộn được gây bởi rất nhiều nguyên nhân mà một trong những nguyên nhân chính, đó là nhà bị vô khí. Để giải quyết vấn đề này, trước hết phải giải quyết được vượng khí cho ngôi nhà, không bị thoái khí, vô khí và bế khí. Tiếp đó, giường ngủ phải đáp ứng được đầy đủ các điều kiện như ở trên, phải được đặt ở cung Thiên Y của cung mệnh gia chủ. Đối với những người bị bệnh tật cũng cần phải đặt giường ở vị trí vượng khí và nằm trong cung Thiên Y. Đối với bệnh bất lực ở đàn ông, giường ngủ phải được sắp xếp ở nơi vượng khí của căn phòng, đáp ứng được các điều kiện nêu trên và tọa tại cung Sinh khí hoặc có hướng giường là hướng Sinh khí. Phòng ngủ là một thành tố trong tập hợp nhiều yếu tố của căn nhà. Bởi vậy phong thủy đối với phòng ngủ chỉ phát huy tác dụng khi tổng thể phong thủy của căn nhà tốt theo quan niệm của Phong Thủy Lạc Việt. Đến đây, chắc các bạn cũng đã có thể tự sắp xếp được giường ngủ của mình một cách hợp lý theo phong thủy. Người viết xin dừng tại đây. Cám ơn sự quan tâm của các bạn./. TP. Hồ Chí Minh ngày 20/10/2010 Ngày Quý Mão, tháng Bính Tuất, năm Canh Dần1 like
-
Trung hoa Ngũ hành ...sử. Trích Sử ký chương Tần thủy hoàng bản kỷ : ....”Thủy Hoàng xét việc năm đức lần lượt thay đổi nhau nên cho nhà Chu được “hỏa đức” nhà Tần thay đức nhà Chu thì phải theo cái đức mà “hỏa” không thắng được. Từ này là “thủy đức” bắt đầu: đổi đầu năm, việc triều cống, chúc mừng đều bắt đầu từ mồng một tháng 10. Áo, quần, cờ tiết, cờ mao đen, lấy số 6 làm đơn vị, các phù và các mũ đều dài sáu tấc, trục xe sáu thước, sáu thước làm một bộ, đi xe sáu ngựa, đổi tên sông Hoàng Hà là đức Thủy vì cho rằng “thủy đức” bắt đầu. Cai trị thì cứng rắn nghiêm nghị, gay gắt, sâu sắc, mọi việc đều dùng pháp luật để quyết định, khắc bạc, không dùng nhân đức, ân nghĩa. Có thế mới hợp với con số năm đức”.... Những dòng trên cho thấy người Tần đã dùng dịch học để thể hiện các đặc tính của triều đại mình , 5 đức họ nói đến chính là Ngũ hành được vận dụng vào nhiều lãnh vực : - hành Thủy , phương nước tức phương đối lập với hành hỏa phương lửa ở Xích đạo . - màu đen đối với màu đỏ . - mùa đông đối mùa Hạ . - số 6 và 7 là 2 số đối trong Hà thư (đồ) theo trục bắc –nam , số 8 - 9 là trục đông –tây. Trong phần trích trên duy có thông tin nhà Chu đức Hỏa là sai với ngũ hành sở dĩ có sự lầm lẫn này vì âm ‘Chu’ cũng nghĩa là màu đỏ như vậy là thuộc hành ‘Hỏa’ , chính xác phải gọi là nhà Châu nghĩa là sáng như trong châu - ngọc vậy , nhà Châu ở phương tây , ông Cơ xương là Tây bá hầu ; tây biến âm của tư - tứ cũng nghĩa là sáng láng , nhiều thông tin lịch sử khác liên quan tới phương tây đều hàm ý sự sáng như Hạo , Chiêu , Bạch, bạc .v.v.. Sở dĩ vậy vì trong ngũ sắc thì phương tây là màu Trắng . Rất có thể là 3 triều đại đầu của vương quốc Trung hoa không hề xưng danh , bản thân triều đại nào cũng chỉ xưng là ‘vua’ mà thôi ; các danh xưng Hạ Thương Chu là do những nhà viết sử đặt ra vì không định danh thì làm sao phân biệt và kết nối thành lịch sử . Vua tổ nhà Hạ gọi là ông vũ hay đại vũ . Vua khai sáng nhà Thương xưng là võ vương . Vua lập nên nhà Chu lại cũng là vũ vương . Vũ - võ chỉ là 1 và ‘vũ’ chính là ký âm từ ‘vua’ của Việt ngữ , việc thêm chữ vương nghĩa là vua vào sau chữ vũ cũng là vua chỉ ra : sử gia đã không xử lý chính xác các thông tin tư liệu , bản thân chẳng hiểu nghĩa từ ‘vũ’ là gì nên đã biến 1 danh từ chung chỉ thủ lãnh thành tên riêng của thủ lãnh ...; phải chăng đây là sự cố như bao sự cố dở khóc dở cười khác xảy ra khi chuyển thông tin từ kiểu chữ ‘đại triện’ sang kiểu chữ ‘tiểu triện’ ở thời Tần ? Trong Lịch sử Trung hoa Không phải chỉ riêng nhà Tần được biểu hiện bằng những tính chất của Ngũ hành mà toàn thể lịch sử cổ đại đều như thế , tên gọi của cả 3 triều đại Hạ Thương Chu đều là những thuộc tính của ngũ hành : Tóm lược những đặc tính của ngũ hành thể hiện trong các lãnh vực : Trước hết xin lưu ý là hành Kim và Thổ đã bị người Tàu hoán đổi vị trí , chi tiết xin đọc Dịch học họ Hùng nhưng để dễ dàng tiếp nhận cho người đọc ở đây vẫn dùng hệ ngũ hành đang biết : - hành Thổ (Dịch học Tàu ) : Trung tâm , không mùa , màu vàng , quân thiên , số Hà thư là 5-10 . - hành Mộc : Phương đông , mùa xuân ,màu xanh , thanh thiên , số Hà thư :3 – 8 . - hành Hỏa : Phương nam ngày nay (xích đạo ) ,mùa hạ , màu đỏ , Viêm thiên ,số Hà thư : 2-7 . - hành Kim ( Dịch học Tàu ): Phương Tây , mùa thu , màu trắng , Hạo thiên , số Hà Thư : 4 – 9 . - hành thủy : Phương bắc ngày nay , mùa đông , màu đen , Huyền thiên , số Hà Thư : 1 – 6 . Nhà Tần thuộc hành thủy đã qúa rõ vì Sử ký đã chép đầy đủ những thuộc tính như màu đen , mùa đông số chủ đạo là số 6 ...ngoài ra dựa vào Ngũ hành do bản thân tên gọi các triều đại còn có thể đễ dàng nhận ra: - Nhà Hạ thuộc hành Hoả : mùa hạ , hướng Xích đạo nhiệt đới , màu đỏ hay Đào Hồng , ,Viêm thiên , số HT: 2 - 7. Thần bản mệnh là Hoả thần Chúc Dung .v.v... - Nhà Thương hành Mộc : màu xanh hay thanh - thương , muà xuân , phương đông , , Thanh thiên , số HT : 3 – 8 . - Nhà Châu (sáng) hành Kim (DH Tàu) : màu trắng - sáng , Hạo thiên ( vùng trời sáng), mùa thu , phương tây ( tư- tứ : sáng ), số HT 4 – 9 . Sử gia thời cổ Trung hoa đã dựa vào Nền tảng ngũ hành , căn cứ vào chính vị trí địa lý miền đất trung tâm của triều đại đó mà tạo ra tên gọi các triều đại ...nên chỉ với thông tin : nhà Tần đức thủy màu đen cũng đã đủ để khẳng định thời tiên Tần lãnh thổ Trung hoa không thể nào nằm ở bắc Hoàng hà được . Các vùng của mặt phẳng phân theo Ngũ hành : Lưu ý : Lãnh thổ Trung hoa nằm trọn ở bắc bán cầu . Vẽ theo quy tắc bản đồ hiện nay Ứng dụng nguyên tắc ‘mặt phẳng ngũ hành ‘ vào thực địa Trung hoa : Nước Cao dịch sang Hán văn là Sùng là tên nước vua Thành Thang tổ nhà Thương phong cho con thứ của mình , chính vì điều này mà người Canh còn có tên là người Keo ... ; chùa Keo ở Hà nội có tên chữ là Sùng Nghiêm .( xin được bàn chi tiết ở 1 bài khác )Ngoài những thông tin mang tính cơ bản trên còn rất nhiều thông tin khác hỗ trợ cho luận thuyết lịch sử ‘ngũ hành ‘ này tiêu biểu như : - thủ đô thứ 3 của nhà Hạ là Dương thành..., Dương thành nay còn sờ sờ ở Quảng châu sao không thấy nhà sử học nào để ý tới ???, đất Cối kê quay ra Nam hải nơi thờ Hạ vũ cũng vẫn còn đứng đó sao không ai đến vùng núi này tìm bản văn mà Tần thủy hoàng đã khắc ?. - Tư liệu lịch sử nói rõ Vùng Giang tây xưa là lãnh thổ của Từ quốc , ‘Từ’ chỉ là tên dịch sang Hán văn chữ ‘Thương’ của Việt ngữ mà thôi nên chính xác nước ở đây là Thương quốc nước ở phía đông ...ấm ớ ‘từ’ biến thành ‘tây’ như trong giang tây thì chỉ có trời mới hiểu ... - Qúy châu âm Hán Việt phát âm đúng ‘tiếng Tàu’ là Cùi Chu hay Kỳ Chu...đó là tên chính xác của đất tổ nhà Chu , dòng Châu giang vẫn lượn lờ bấy lâu không đủ làm bằng chứng cho sự tồn tại của ‘Trung hoa’ thời nhà Chu hay sao ? - Tứ xuyên , Thục xuyên hay Xuyên thục và Tần xuyên chỉ là 1đất , tứ thục tần – tốn chỉ có nghĩa là phía tây , xuyên là sông chỉ phương nam ,đất tây nam này nơi vua Chu phong cho họ Đinh là cố tổ của Tần thủy hoàng ...., liên quan đến vua Chu và nhà Tần nhiều tư liệu nói đến việc vua Chu ban cho tần vương 1 chiếc trống đồng...hỏi vua Chu nếu ở Thiểm tây thì làm gì có trống đồng mà ban với tặng ? Tóm lại còn rất rất nhiều thông tin liên quan đến “Tứ đại ” Trung hoa nếu đem so chiếu với Ngũ hành thì không còn cách nào khác là ....bắt buộc phải xem xét lại toàn bộ lịch sử từ thượng cổ tới ngày nay . Trước đây người viết bài này đã có lúc nghĩ .... phải viết lại 1 lịch sử khác cho Trung hoa nhưng nay ...thấy không cần như thế mà điều cần là phài ‘hiểu’ lại , hiểu cho đúng những gì đã có sẵn trong sách sử là đủ ./.1 like
-
Tìm thấy thiếu nữ mất tích nhờ VietNamNet Cập nhật lúc 02/12/2010 07:00:00 AM (GMT+7) – Thiếu nữ câm điếc bị mất tích gần hai năm đã được tìm thấy nhờ… hai bài báo đăng trên VietNamNet. Nghi án thiếu nữ bị bắt cóc đi vào ngõ cụt Bán bò đi tìm con gái câm điếc bị bắt cóc Tìm được nhờ… 2 bài báo Thiếu nữ câm điếc Nguyễn Thị Nhung (thị trấn Thanh Hà, huyện Lạc Thủy, tỉnh Hòa Bình) bị mất tích gần hai năm trời đã được tìm thấy vào ngày 01/12/2010 sau khi VietNamNet đăng tải thông tin được đúng 1 tuần. Sự bất ngờ và may mắn này đã đến với gia đình ông Nguyễn Ngọc Quang và bà Nguyễn Thị Hồng. Hạnh phúc bất ngờ khi được gặp lại mẹ của thiếu nữ câm xinh đẹp sau 2 năm lưu lạc. Trước đó, buổi chiều ngày 30/11, anh Lê Ngọc Bản (Phó Chủ tịch UBND thị trấn Thanh Hà) nhận được một số điện thoại lạ. Qua điện thoại, một thanh niên tên Hùng cho biết là cán bộ thuộc Trung tâm Bảo trợ Xã hội 4 (Trung tâm 4) tại Ba Vì (Hà Nội). Năm 2009, Trung tâm 4 đã tiếp nhận một cháu gái bị câm điếc có tên Nguyễn Thị Nhung, sinh năm 1990 và không rõ địa chỉ quê quán vì cháu Nhung không biết. Nhung chỉ biết viết duy nhất họ tên của mình. Ai cũng nghĩ, đây là câu chuyện cổ tích hiếm hoi giữa thế kỷ 21! - Ảnh: Kiên Trung Sau một thời gian sống tại Trung tâm 4, thấy Nhung khỏe mạnh, xinh xắn, có khả năng tiếp thu và nhận thức, trung tâm đã gửi cháu xuống trường Trung cấp Kinh tế Du lịch Hoa Sữa (huyện Thanh Trì – Hà Nội). Khi đọc bài viết trên VietNamNet ngày 25/11/2010, có cả ảnh của cháu Nhung, anh Hùng nhận diện và mới biết địa chỉ, quê quán cũng như hoàn cảnh gia đình nhà Nhung. Ngay sau khi nhận được thông tin từ anh Hùng, anh Bản đã ngay lập tức thông tin cho gia đình Nhung. Sáng ngày 1/12, gia đình em đã tổ chức lên Thanh Trì theo địa chỉ anh Hùng cung cấp để nhận diện con gái mình. Kết thúc có hậu của “cổ tích thế kỷ 21” Sáng 1/12, Trung tá Lê Hồng Văn cùng hai cán bộ, chiến sỹ thuộc Công an huyện Lạc Thủy (Hòa Bình) cũng đã xuống Trường Trung cấp Kinh tế Du lịch Hoa Sữa để xác minh hồ sơ của cháu Nguyễn Thị Nhung. Đầu giờ chiều cùng ngày, bố mẹ Nhung cùng một số cô bác họ hàng đã thuê hẳn một chiếc xe từ Lạc Thủy xuống gặp con. Em Nguyễn Thị Nhung (ngồi phía trong) được trường Hoa Sữa tiếp nhận nuôi dưỡng và cho học nghề may. - Ảnh: Kiên Trung Những người xung quanh đã không cầm được nước mắt khi chứng kiến cuộc hội ngộ của thiếu nữ câm điếc sau gần hai năm lưu lạc gia đình. Bên ngoài, cháu Nhung xinh đẹp hơn cả tưởng tượng. Cô bé câm điếc chăn bò ngày nào sau hơn một năm được ăn học tại trường Trung cấp Kinh tế Du lịch Hoa Sữa đã vụt lớn phổng phao như một đóa hoa rừng. Mẹ của Nhung, bà Nguyễn Thị Hồng không nén được xúc động, ôm con òa khóc. Bao thương nhớ, lo lắng sau gần hai năm kể từ khi con gái bị mất tích, vỡ òa trong những giọt nước mắt mừng tủi. Trong thâm tâm, sau bao ngày bỏ công sức, tiền của đi tìm con mà vẫn vô vọng, đã có lần bà Hồng từng nghĩ đến tình huống xấu, rằng cháu Nhung bị kẻ xấu bắt cóc, hãm hại bán sang Trung Quốc hoặc đưa vào “động”. Bà không ngờ lại được gặp con, càng không thể tưởng tượng con mình đã trở thành một thiếu nữ xinh đẹp nhường ấy. Nhung và bạn tại lớp học may Khu nội trú dành cho các em khuyết tật, các thầy cô giáo, bạn bè của Nhung, khi được hỏi đều có một câu trả lời giống nhau: Nhung xinh nhất trường! Chứng kiến cảnh hội ngộ của hai mẹ con, Nhung không nói được, chỉ ú ớ trong cổ họng, và nước mắt tuôn lã chã, ông Quang, bố Nhung len lén quay mặt đi gạt nước mắt… Hành trình mất tích của cháu Nhung được những cá nhân và tổ chức liên quan kể lại: 16h30 ngày 25/3/2009, công an xã Tứ Hiệp (huyện Thanh Trì) đã bắt gặp một cô gái câm điếc, tuổi chừng 18 – 20 đang đi lang thang và đưa về trụ sở UBND xã. Tại đây, công an xã Tứ Hiệp đã lập biên bản, hồ sơ về trường hợp cháu Nhung. Song, vì không biết được địa chỉ, quê quán của em, công an xã Tứ Hiệp đã đưa Nhung về Trung tâm Bảo trợ Xã hội 1 (Sở LĐTBXH Hà Nội) nuôi dưỡng. Sau 20 ngày, Trung tâm 1 đã chuyển giao em Nhung cho Trung tâm 4 vào ngày 14/4/2009. Tại đây, thấy Nhung khỏe mạnh, xinh xắn, nhận thức tốt, các cán bộ Trung tâm 4 đã chuyển Nhung lên trường Hoa Sữa. Cán bộ, giáo viên trường Hoa Sữa đã cưu mang em và cho Nhung học nghề may. Công an huyện Lạc Thủy làm việc với đại diện trường TCKTDL Hoa Sữa để hoàn thành hồ sơ về thiếu nữ câm bị mất tích. Trước khi bố mẹ Nhung chưa đến, chúng tôi đã cho em xem ảnh chụp bố mẹ, chị gái…, thiếu nữ xinh đẹp òa khóc nức nở. Nhờ người ra dấu nói chuyện với Nhung rằng bố mẹ đang trên đường đến đón, Nhung càng khóc dữ hơn. Tuy không nói được, nhưng niềm hạnh phúc, mừng vui vì tìm được người nhà của em vẫn lấp lánh trong ánh mắt. Trước sự chứng kiến của đông đảo mọi người, gồm đại diện công an huyện Lạc Thủy (Hòa Bình), UBND thị trấn Thanh Hà, lãnh đạo trường Trung cấp Kinh tế Du lịch Hoa Sữa…, bố mẹ Nhung xúc động chỉ biết nói lời cảm ơn các trung tâm nhân đạo đã cưu mang con gái mình trong thời gian qua. Mừng nhất, ấy là từ khi bị lạc nhà, thiếu nữ xinh đẹp này đã được các Trung tâm Bảo trợ xã hội nuôi dưỡng, sau đó được trường Hoa Sữa tiếp nhận cưu mang, được học nghề… Em vẫn còn lành lặn, khỏe mạnh và an toàn. Gia đình thiếu nữ bị mất tích làm việc với giáo viên trường Hoa Sữa. Chị Phạm Thị Sang, giáo viên chủ nhiệm của lớp học nghề may nơi Nhung đang theo học cho biết: đây là trường hợp đầu tiên xảy ra tại trường Hoa Sữa, gia đình tìm lại được con bị lưu lạc sau ngần ấy thời gian, nhất là rơi vào trường hợp oái oăm như Nhung. Nguyện vọng tha thiết của bố mẹ Nhung, ấy là xin phép nhà trường được đón con về nhà khoảng chục ngày, sau đó sẽ tiếp tục đưa Nhung xuống trường học nghề. Các giáo viên trường Hoa Sữa cũng đồng ý tiếp nhận cả cháu Nguyễn Thị Hiền, chị gái Nhung, cũng bị câm điếc xuống trường Hoa Sữa để dạy nghề. “Đưa cả hai cháu xuống để có chị có em, nhưng quan trọng nhất là cho các cháu một cái nghề mưu sinh, tự nuôi được bản thân sau này khi bố mẹ không còn…” – chị Sang tâm sự. Tìm được con gái câm điếc bị mất tích sau gần hai năm trời không chỉ là niềm hạnh phúc của gia đình ông Quang, mà cơ quan công an huyện Lạc Thủy cũng… thở phào vì “cởi bỏ” được gánh nặng. “Gần hai năm trời anh em vất vả xuôi ngược Bắc – Nam lần tìm manh mối cháu Nhung mà vẫn biệt tăm. Đó là chưa kể, người mẹ đau khổ vì mất con, sau khi nghi ngờ bao người dụ dỗ con mình rồi bắt cóc, đã quay sang nghi ngờ cả… công an huyện Lạc Thủy bao che cho các đối tượng mà bà nghi ngờ là bắt cóc con mình. Chính bà Hồng cũng đã viết đơn tố cáo Công an huyện Lạc Thủy… thiếu trách nhiệm và bao che kẻ phạm tội!!!” – trung tá Lê Hồng Văn kể chuyện. Những “lùm xùm” không đáng có cũng sẽ được sớm giải quyết, bà Hồng cho biết sẽ lên Công an huyện để xin lỗi vì đã viết đơn tố cáo khi sự việc chưa rõ ràng. Điều quan trọng nhất, “nghi án thiếu nữ câm mất tích” đã có lời giải, và là câu chuyện bất ngờ, hy hữu như chuyện cổ tích của thế kỷ 21. Kiên Trung1 like
-
Chào liêm pha Nếu tôi chấm luận văn của bạn thì luận văn của bạn đạt 1 điểm (1 điểm cho khuyến mại vì có suy nghĩ liên hệ dẫu lệch lạc) trong thang điểm mà điểm 20 là cao nhất.Suy nghĩ của bạn sai toét giữa lý luận và thực tiễn:Một dân tộc có nền văn hóa cao thì dân tộc đó không thể biến mất trên bản đồ nhân chủng học thế giới khi bao dân tộc khác vẫn tồn tại.Nền văn hóa của Người maya đã không dữ được cho người maya khỏi suy vong vậy mà bạn vẫn tin đó là một nền văn hóa có thể để lại những dự báo đúng cho toàn nhân loại. Một nền văn hóa lớn là một nền văn hóa trường tồn cùng thời gian không thể bị đồng hóa dù chịu bao dập vùi vẫn giữ nguyên bản sắc. Trong các nền văn hóa đó thì có nền Văn Hóa Việt Nam.Bạn hãy tìm ngay trong nền văn hóa Việt Nam có cái lời tiên tri về ngày tận thế của nhân loại không?chắc chắn không có.Như vậy với văn hóa Việt Nam là toàn bộ nhân loại cùng tồn tại để cùng nhau xây dựng cuộc sống hòa bình thịnh vượng trong tình thương yêu con người, cho tới khi mặt trời sắp hết nhiên liệu thì toàn bộ dân cư lên phi thuyền du hành tới một hàng tinh khác đã được các nhà khoa học chuẩn bị để đẩm bảo con người sống được. Thân mến1 like
-
Híc, Đại Thục chỉ hộ xem chỗ nào có khí giúp Thiên Luân cái nhỉ? Thân mến1 like
-
Đại ý: Thiên tai tăng nặng =======================================. Châu Âu "bấn loạn" vì tuyết 02/12/2010 10:42 (TNO) Những cơn mưa tuyết dai dẳng trút xuống đã gây tê liệt hệ thống giao thông khắp châu Âu, khiến nhiều sân bay đóng cửa trong khi đường bộ thì bị tắc nghẽn nghiêm trọng vào hôm 1.12. Tại Ba Lan, 8 người vô gia cư đã chết vì lạnh khi nhiệt độ xuống dưới -20 độ C. Ở thành phố Bialystok, miền đông Ba Lan, nhiệt độ có lúc xuống tới -26 độ C. Cảnh sát ở Ba Lan đã kêu gọi người dân liên lạc với họ nếu phát hiện bất cứ người vô gia cư nào nằm co ro trên đường phố, theo hãng tin BBC. Dọn tuyết trên đường phố ở Warsaw (Ba Lan) - Ảnh: Reuters Trong khi đó, nhiều sân bay tại Anh, Pháp và Thụy Sĩ đã phải ngưng hoạt động. Hàng chục chuyến bay tại Đức và Tây Ban Nha cũng bị ảnh hưởng. Ở Anh, theo AFP, hàng ngàn trường học đóng cửa và cảnh sát ở vùng Surrey, miền nam nước này đã mô tả điều kiện thời tiết như hiện nay là tồi tệ nhất mà họ từng chứng kiến. Hành khách đi tàu nhanh Eurostar đã phải chịu cảnh chờ đợi trong suốt hơn một giờ đồng hồ khi nhiều chuyến tàu nối London với Paris (Pháp) và Brussels (Bỉ) bị trì hoãn. Một số sân bay đông đúc nhất ở xứ sở sương mù là Gatwick và Edinburgh đã đóng cửa. Tuyết rơi dày đặc tại Vienna (Áo) - Ảnh: Reuters Sân bay Geneva tại Thụy Sĩ và sân bay Lyon-Bron ở miền nam nước Pháp cũng đã ngưng hoạt động khi nhân viên ở đây vất vả tìm cách dọn sạch đường băng phủ đầy tuyết. Tình hình ở Frankfurt (Đức), Munich (Đức), Vienna (Áo) và Prague (CH Czech) cũng không khá hơn khi nhiều chuyến bay cũng bị trì hoãn. Riêng tại sân bay Munich, 250 chuyến bay bị hủy; tại Frankfurt là 153 chuyến bay. Tại Pháp, 12 khu vực tại miền bắc và miền trung lạnh giá đã cấm dùng xe tải do đường bộ bị tắc nghẽn nghiêm trọng. Tuyết rơi dày đặc khắp nước Đức đã làm tê liệt nhiều con đường quan trọng, nhiều chuyến bay đã bị hủy và trường học thì đóng cửa. Vất vả dọn sạch tuyết trên xe ở Anh - Ảnh: Reuters Theo tờ báo Bild (Đức), đây là tháng 12 lạnh nhất trong nhiều thập niên qua với không ít khu vực thông báo nhiệt độ đã xuống dưới -18 độ C. Nhu cầu dùng điện và gas sưởi ấm trong mấy ngày này ở nhiều nơi tại châu Âu đã tăng đáng kể. Tại Moscow (Nga), theo BBC, nhiệt độ xuống dưới -23,6 độ C, mức thấp nhất kỷ lục kể từ tháng 12.1931. Huỳnh Thiềm ========================================= Thiên Sứ tôi cảnh báo rằng: Sang năm, thiên tai còn tồi tệ hơn về nhiều mặt. Bởi vậy các quốc gia nên có những biện pháp đề phòng ngay từ bây giờ.1 like
-
Chất chống sex tiêu diệt những gã rệp đực dâm đãng Cập nhật lúc 02/12/2010 01:00:00 PM (GMT+7) Nhộng những con rệp giường mà ta thường gặp tiết ra một chất chống kích dục (anti-aphrodisiac) có thể dập tắt “ham muốn” để tránh phải giao phối vời những gã rệp đang đi tìm đối tác để thoả mãn. Thứ hoá chất này có thể dùng làm để chống lại sự giao phối trong quần thể rệp giường và “diệt chủng” quần thể rệp. Nhà nghiên cứu Vincent Harraca, trường ĐH Lund ở Thuỵ Điển khẳng định: "Những kết quả này có thể áp dụng để làm giảm số lượng quần thể rệp giường bằng cách “phá” các cuộc giao phối giữa chúng. Nhờ đó, chúng không thể sản sinh ra các thế hệ tiếp nối để đi đến diệt vong”. Ông cho biết: “Những con rệp giường đực là loài có thói quen giao phối bừa bãi và nhiều lần. Chúng tìm cách để giao phối với bất cứ con rệp nào chúng gặp, bất kể đối tác mà chúng tiếp cận là rệp đực, rệp cái hay rệp con, thậm chí là một ấu trùng chưa biến thái ở giai đoạn nhộng (nymph)". Những con rệp giường hút máu nguy hiểm. Ảnh: Internet. "Khi giao phối, rệp đực đục một lỗ vào bụng đối tác của mình và phóng tinh. Tuy nhiên những con nhộng này lập tức chống trả bằng cách tiết ra một loại pheromon để rệp đực biết là mình đã “bé cái nhầm”, hãy đi chỗ khác tìm một đối tượng khác mà “hành sự”. Để thử xem nhộng đã tiết ra chất chống kích dục gì và cơ chế ra sao, Harraca và đồng nghiệp đã thử nghiệm dùng thuốc bôi móng tay (có khả năng tạo màng) bọc lấy tuyến chứa chất pheromon của nhộng lại để chúng không phóng thả được chất này nữa. Lúc đó, chúng buộc phải nhận một số lượng tinh trùng của rệp đực y hệt những con rệp cái phải hứng chịu. Các nhà nghiên cứu đã dùng pheromon này phun vào quần thể rệp để giảm “ý chí chiến đấu” của rệp đực, kết quả là số lần giao phối của chúng giảm rất nhiều. Chất pheromon thu được đang được mang phân tích hoá học và tìm cách tổng hợp. Nhóm các nhà khoa học Thụy Điển rất hy vọng họ sẽ phát minh ra một phương pháp rất thú vị để “diệt chủng” loài rệp giường, một loại ký sinh trùng hút máu, gây ngứa ngáy khó chịu và truyền những bệnh dịch nguy hiểm mà không cần dùng đến các loại thuốc diệt côn trùng mà hiện nay người ta đang sử dụng. Kết quả nghiên cứu được đăng trên Tạp chí Sinh học BMC. T.H. (Theo Livescience) ======================================== Kính nghiệm của tôi thấy rằng: Dầu hỏa là chất chống rệp tốt nhất. Sau khi sử dụng dầu hỏa, không một con rệp nào tồn tại và sau đó chúng cũng không quay lại cư trú ở những vật đã từng bị thấm dầu hỏa. Kiến, mối cũng vậy.....1 like
-
2 tháng cuối năm thấy khôg được tốt lắm, xem chừng có thể bị lừa gạt. Năm sau chỉ khá hơn năm nay chút xí.1 like
-
Phương án nào thì bếp cũng vô khí cả thôi! Nhà này chỉ ở tạm, nên bán để mua căn khác vuông vức hơn!!!1 like
-
Đến được biển vũng tàu, có biển có Nắng, có làng chài có xóm cá mà chẳng có Làng Xưa?1 like
-
2 phương án bố trí lại mb. bạn thử tham khảo nhé.1 like
-
Sg Ngập Nắng
+Achau+ liked a post in a topic by wildlavender
Tuyệt tướng triện căn Tự thơ bất cách Giác tánh bản lai hiện chiếu Từ Bi hỷ xã vô lượng tâm1 like -
Đại Phúc giỏi quá! Cố lên nhé! :(1 like
-
Nên sinh Tân Mão để hóa giải xung mạng cha và mẹ!1 like
-
Phục Vị Thuộc Hành Nào ?
Guest liked a post in a topic by Laido
Chào Bác, Câu hỏi của Bác rất hay. Học như thế này mới là phương pháp học hay và mới hiểu được vào bản chất vấn đề. Còn học kiểu sách nói gì biết thế, không đào sâu suy nghĩ thì có khi mãi cũng chỉ trở thành "Cụ Vẹt" mà thôi. Trong sách của ông Trần Văn Tam có nhắc tới hành của Phục vị là "Thủy thì phải", nhưng Ông không biết được là tại sao, chỉ trích từ các sách. Nhưng Ông có chua lại đại khái rằng: Không thấy sách nào nói rõ, chỉ có sách này nói là Mộc, sách kia là THủy, nhưng theo truyền thống vẫn dùng là "THỦY". Tôi đánh giá rất cao Ông Tam, vì ông ấy không rõ tại sao nhưng đã nói là theo Truyền thống vẫn dùng. Cái này sẽ không làm cho người sau rối trí, mà chưa hiểu thì vẫn cứ... THỦY mà dùng vì đó là theo phép THƯỜNG đã được kiểm chứng qua thời gian. Còn một số ông cứ trích ra, rồi cũng chẳng biết là trích thế cú đúng không, bản thân cũng chẳng hiểu nữa cứ nói ... loạn cào cào, râu ông nọ cắm cằm bà kia, làm cho người mới học đi vào mê lộ mà không có đường ra. Quả là tai hại. Câu hỏi của Bác tưởng chừng là nhỏ nhặt, nhưng mà để trả lời đầy đủ câu hỏi này và thấu triệt được thì đòi hỏi phải có kiến thức tổng hợp, ... mới được. Nếu hiểu được nó sẽ xuyên suốt được rất nhiều vấn đề của Địa lý, Bát trạch. Bác chịu khó NGHĨ nhé. Tôi có thể trả lời ngắn gọn cho BÁc là: Về Bát Trạch thì PHỤC VỊ thuộc THỦY. CHúc bác thành công và tinh tấn. Thân mến Laido1 like -
Còn 2 tháng nữa thì chuẩn bị ăn Tết đi là vừa, năm sau hoàn cảnh chắc giống năm nay, cũng gặp nhiều chuyện trục trặc, nhưng không đến nỗi hao tốn tiền của như năm nay [năm nay có bị ai xí gạt về tiền của?]. Vì anh đang trong đại hạn 10 năm không tốt, gia đạo có chút bối rối, làm ăn không được thuận lợi, nếu bung làm ăn lớn thì có thể phá sản. Qua 35 tuổi hãy bung ra làm. Anh tham khảo thêm ý kiến mọi người. PS: Xưng hô sao cũng được, không mind lắm về chuyện đó.1 like
-
Chú chỉ viết về vấn đề : Luận tuổi Lạc Việt thôi - trong đó có cấu kết là: "Yêu nhau cứ lấy". Còn v/d tam hợp hóa tam tai để hôm nào chú bảo anh em lớp Phong Thủy Lạc Viết viết về chuyên đề này.Hình như Ling Trang có nói qua về vấn đề này .1 like
-
Vì sao bản mệnh của anh là sao mà trong Tử Vi người ta gọi là đế vương tinh [vua], anh có tướng mạo phù hợp với sao đó, nên ntpt mới nói như vậy. Về tướng pháp thì ntpt không rành.1 like
-
Tôi còn trẻ anh ạ :(1 like
-
1 like
-
Theo tôi là cung tài có thiên tướng đắc địa, mệnh tài điền không có hao sát tinh được cách phủ tướng triều viên.1 like
-
Nghĩa Chữ
Rin86 liked a post in a topic by Thiên Sứ
Cảm ơn anh Lãn Miên. Trong một bài nào đó, tôi có viết đại ý: "Nhưng ai coi tôi là thày thì phải coi Lạc Việt chính là Bách Việt, không được coi Lạc Việt là một bộ phận của Bách Việt. Tôi sẽ chứng minh sau". Nay có anh minh chứng vấn đề này qua ngôn ngữ. Tất nhiên đây là một yếu tố cần, chứ chưa phải yếu tổ đủ. Nhưng nó sẽ là sự mở đầu cho việc minh chứng điều này. Ngày mai xin phép anh đưa bài này lên trang chủ diễn đàn.1 like -
Quán vắng!
+Achau+ liked a post in a topic by Thiên Sứ
Thư Hàn Quốc: "Bóng ma" chiến tranh ở Seoul Thứ Tư, 01/12/2010, 10:15 (GMT+7) TTO - Ngày tôi đến, Seoul không là thành phố như trong phim Hàn Quốc. Người Hàn cũng không đẹp như trên phim nhưng họ làm việc rất siêng năng cũng như ăn uống tiết kiệm. Bằng chứng là khi thấy tôi vào ngày nghỉ ra chợ mua thịt gà mang về kho sả ớt ăn cơm, ông chủ hơn 70 tuổi, lúc nào cũng đậu tương - kim chi, lắc đầu: “Mày ăn sang quá”. Những ngày mới qua, tôi ít thấy lính Mỹ cũng như lính Hàn mặc quân phục đi trên đường. Khi hỏi, ông chủ nói: “Người Hàn không thích chiến tranh đâu, mặc đồ lính thì ở trong trại, ra ngoài phải bình thường. Thành phố mà đồ lính tràn ngập, khó thở lắm”. Sau này khi nghe tiếng Hàn khá hơn, ông chủ khi vui đã kể cho tôi nghe về chuyện chiến tranh thời xưa: “Khi đó khổ lắm, đói lắm. Không có gì để ăn. Mùa đông lạnh con gì cũng chết, chỉ có chó là sống. Khi đó đói quá bắt chó làm thịt ăn, không ngờ ấm và ngon. Người Hàn biết ăn thịt chó từ hồi chiến tranh”. Binh lính Mỹ trên đường phố Seoul - Ảnh: Duy Trân Tôi cũng hay lên mạng coi tin tức, cũng nghe về chuyện họp mặt người thân Nam - Bắc Triều, các "sao" Hàn đi nghĩa vụ. Nói về chuyện này ông chủ già có vẻ không quan tâm: “Bà con xa của tao cũng có người làm đơn mong đoàn tụ nhưng lâu quá, chắc chết hết rồi”. Người Hàn sống cùng quá khứ chiến tranh, tôi cũng nhập gia tùy tục. Hằng ngày phải nghe những tin tức trên truyền hình về chuyện nay căng, mai thẳng giữa hai bên biên giới Hàn Quốc - CHDCND Triều Tiên. Nhưng những người Hàn tôi gặp, ai cũng hối hả làm việc, và họ cũng rất tin tưởng khi nói với tôi: "Không có chiến tranh đâu”. Tôi có cảm nhận đe dọa chiến tranh khi tivi phát tin về chiếc tàu chiến Hàn bị nghi là ngư lôi CHDCND Triều Tiên đánh chìm. Khi đó, những người Hàn tôi gặp đều căng thẳng, giá ngoại tệ ở thị trường chợ đen tăng vọt. Ông chủ già của tôi nói trống không: "Tao không thích đánh nhau. Tao chỉ muốn yên ổn làm ăn. Ai cũng muốn kinh tế ổn định. Tao ghét đói”. Cậu chuyện về chiếc tàu chìm và những thủy thủ xấu số lắng dần. Nhưng tôi hơi sợ cái kiểu người Hàn uống rượu, uống cho quên mệt, uống cho cảm thấy công việc bớt vất vả. Cũng may là ông chủ của tôi không uống, ông nói phải tỉnh táo để làm việc. Lại căng thẳng Câu chuyện nã pháo nổ ra làm chết lính thủy và dân thường Nam Hàn xảy ra vào lúc tôi đang tăng ca. Tiếng máy chạy rầm rập ồn ào át đi tất cả. Tôi phải cẩn thận lắm, trước tôi đã có một đồng nghiệp người Việt - dù đã đeo kính bảo hộ, vẫn bị một mảnh nhựa quay tít bắn xuyên qua kính, suýt làm mù mắt. Trước nữa thì có người mệt quá cho tay vào máy, mấy ngón bị dập, thế là lãnh tiền bồi thường và về nước. Buổi tối tôi xem tin tức mới biết, bây giờ không khí cận chiến tranh đã căng thẳng lắm rồi. Báo chí, truyền hình và những người Hàn đều trấn an nhau: "Không có chiến tranh đâu”. Nhưng sao trong mắt họ tôi cảm thấy chỉ là sự lo ngại về một tương lai có mùi đạn bom quá khứ. Đang vào mùa đông, mọi thứ rau củ đã thu hoạch trước khi các khối khí lạnh chực chờ. Những ngày qua công việc gần như giảm hẳn, tôi ngoài việc làm cầm chừng thì được phân công đi làm vệ sinh, dọn dẹp. Ông chủ báo lương tháng này sẽ chậm, rồi ông than vãn: "Không ai lo đặt hàng nữa cả”. Tối khuya, đói cồn cào tôi mò xuống bếp ăn. Tất cả vắng ngắt và lạnh tanh. Một thằng bạn, do quá đói, đã quyết định đi ra ngoài kiếm cái gì ăn. Nhưng nó quay lại nhanh chóng nói: "Ngoài đường lạnh lắm, tao ráng đi nhưng mà nghe ầm ầm, sợ quá”. Hôm trước một thằng đi đâu về, quả quyết là nó thấy xe tăng...". Nhờ đồng lòng kêu ầm ĩ, ông chủ già (và "keo" nữa) đã đồng ý chi cho chúng tôi nửa tháng lương. Giá ngoại tệ chợ đen nghe nói là một ngày đã lên ba giá. Nhiều người Hàn đã trữ nước, thuốc men và thực phẩm. Tôi có hỏi ông chủ: "Nếu chiến tranh nổ ra, tôi núp ở đâu?”. Ông cũng ngơ ngẩn, hình như khu nhà ông không có tầng hầm. Ga xe điện thì cũng xa quá, còn chỗ phân xưởng này chẳng có hầm trú. Tôi cũng nghe nói về Busan, nơi người Việt ở nhiều lắm. Nhưng mà nếu tôi biết đi thì cả khối người cũng đi. Thôi, cứ ở lại Seoul, chuyện tới đâu thì tới. LÝ MẠNH DŨNG ==================================== Thấy họ cũng khổ! Nhưng biết làm sao bây giờ?1 like -
TÀI LIỆU THAM KHẢO ==================================== Theo nội dung chỉ dẫn bên dưới thì đây là một phương thuốc phòng ngừa tai biến mạch máu não cho người bị bệnh huyết áp quá cao. Vậy xin dè dặt chuyển tiếp để quý vị tham khảo và thử ứng dụng xem kết quả ra sao. Vị nào thấy hiệu nghiệm thực sự thì xin có lời xác nhận để phổ biến rộng rãi giúp ích mọi người. THUỐC CHỐNG TAI BIẾN Thuốc gồm có: 1- Hạnh nhân . . . . . . . . . . . . . . . . .10g 2- Chỉ tử . . . . . . . . . . . . . . . . . . .. .10g 3- Ðào Nhân . . . . . . . . . . . . . . .. . .10g 4- Nếp . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .10 hột 5- Tiêu . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 10 hột 6- Lòng trắng trứng gà . . . . . . . . . 1 quả 3 vị đầu mua tại tiệm thuốc Bắc. Cách làm : Tất cả đâm nhuyễn trọn đều, để tối trước khi đi ngủ trộn thêm lòng trắng trứng gà rồi đắp vào lòng bàn chân (lấy vải bó lại cho khỏi rớt). Nam đắp lòng bàn chân trái Nữ đắp lòng bàn chân phải Ðắp ngủ qua đêm, nếu ra màu xanh cửu long (xanh biển) là hết bị tai biến từ nay về sau.Chỉ đắp một lần trong đời - Người cao máu mới dùng được Lưu ý -Nếu bị tai biến giật méo miệng, lưỡico rút không nói được thì lấy kim châm hai dái tai (dưới lỗ tai) nặn máu ra liền, miệng sẽ trở lại bình thường. -Nếu bị tai biến xụi chân tay, thì lấy kim châm mười đầu ngón tay nặn máu ra liền, chân tay sẽ trở lại bình thường. Xin phổ biến.1 like
-
nuhoanggaicaptk21 chưa hoàn toàn nhất trí với cách giải thích này...e chưa hết...như thế đơn giản quá ! Xin các cao nhân lớn tuối có nhiều trải nghiệm chia sẻ thêm .... lần đi rước chân linh em trai về nuhoangaicaptk21 đã chứng kiến đăt bát hương ôm trong lòng bằng 2 tay hương cháy từ 2 đầu hương tới giữa nén cháy hết đổ gập vào lòng mà quần ko bị cháy....về nhà mơ thấy ôm em....khó lắm giải thích tùy hoàn cảnh hương cháy đoán thôi ....! mạn phép đươc chia sẻ...vì kiến thức 30% 70% kinh nghiệm....." Trẻ xông pha....Già gìau kinh nghiệm " các cụ dạy rùi !....Xin được kính mời !1 like
-
hôm An vị có cả tăng ni phật tử tụng kinh nữa , hôm thứ hai có thắp nến khắp sàn + xếp hình la hán không có gì để chộp , hôm thứ ba giật đc cái ĐT , chộp mấy tấm gửi tặng các bác . vài tấm lỗi , em up sau vậy ! Chúc các bác đầu tuần vui vẻ .1 like
-
Tấm đầu tiên các bác có thể thấy sáp nến đã thắp từ tối hôm trước . Thân .1 like
-
Tượng Quán Thế Âm Thiên Thủ Thiên Nhãn được xây dựng gồm 5 tầng Bảo Tháp cao 36m, đường kính 18m. Tượng có 15 khuôn mặt và 1 tượng Phật Tổ Như Lai ngồi trên đỉnh cao, thể hiện nét trang nghiêm, từ bi. Báo đài có đăng tin nhiều , nhưng là các hình chụp ban ngày , mấy tấm này em chụp lúc lên đèn !1 like
-
HIỂU ĐỜI Tháng ngày hối hả, đời người ngắn ngủi, thoáng chốc đã già. Chẳng dám nói hiểu hết mọi lẽ nhân sinh nhưng chỉ có hiểu đời thì mới sống thanh thản, sống thoải mái. Qua một ngày mất một ngày. Qua một ngày vui một ngày. Vui một ngày lãi một ngày. Hạnh phúc do mình tạo ra. Vui sướng là mục tiêu cuối cùng của đời người, niềm vui ẩn chứa trong những sự việc vụn vặt nhất trong đời sống, mình phải tự tìm lấy. Hạnh phúc là cảm giác, cảm nhận, điều quan trọng là ở tâm trạng. Tiền không phải là tất cả nhưng không phải không là gì. Đừng quá coi trọng đồng tiền, càng không nên quá so đo, nếu hiểu ra thì sẽ thấy nó là thứ ngoại thân, khi ra đời chẳng mang đến, khi chết chẳng mang đi. Nếu có người cần giúp, rộng lòng mở hầu bao, đó là một niềm vui lớn. Nếu dùng tiền mua được sức khỏe và niềm vui thì tại sao không bỏ ra mà mua? Nếu dùng tiền mà mua được sự an nhàn tự tại thì đáng lắm chứ! Người khôn biết kiếm tiền biết tiêu tiền. Làm chủ đồng tiền, đừng làm tôi tớ cho nó. “Quãng đời còn lại càng ngắn thì càng phải làm cho nó phong phú”. Người già phải thay đổi quan niệm cũ kỹ đi, hãy chia tay với “ông sư khổ hạnh”, hãy làm “con chim bay lượn”. Cần ăn thì ăn, cần mặc thì mặc, cần chơi thì chơi, luôn luôn nâng cao chất lượng cuộc sống, hưởng thụ những thành quả công nghệ cao, đó mới là ý nghĩa sống của tuổi già. Tiền bạc là của con, địa vị là tạm thời, vẻ vang là quá khứ, sức khỏe là của mình. Cha mẹ yêu con là vô hạn; con yêu cha mẹ là có hạn. Con ốm cha mẹ buồn lo; cha mẹ ốm con nhòm một chút hỏi vài câu là thấy đủ rồi. Con tiêu tiền cha mẹ thoải mái; cha mẹ tiêu tiền con chẳng dễ. Nhà cha mẹ là nhà con; nhà con không phải là nhà cha mẹ. Khác nhau là thế, người hiểu đời coi việc lo liệu cho con là nghĩa vụ, là niềm vui, không mong báo đáp. Chờ báo đáp là tự làm khổ mình. Ốm đau trông cậy ai? Trông cậy con ư? Nếu ốm dai dẳng chẳng có đứa con có hiếu nào ở bên giường đâu (cửu bệnh sàng tiền vô hiếu tử). Trông vào bạn đời ư? Người ta lo cho bản thân còn chưa xong, có muốn đỡ đần cũng không làm nổi. Trông cậy vào đồng tiền ư? Chỉ còn cách ấy. Cái được, người ta chẳng hay để ý; cái không được thì nghĩ nó to lắm, nó đẹp lắm. Thực ra sự sung sướng và hạnh phúc trong cuộc đời tùy thuộc vào sự thưởng thức nó ra sao. Người hiểu đời rất quý trọng và biết thưởng thức những gì mình đã có, và không ngừng phát hiện thêm ý nghĩa của nó, làm cho cuộc sống vui hơn, giàu ý nghĩa hơn. Cần có tấm lòng rộng mở, yêu cuộc sống và thưởng thức cuộc sống, trông lên chẳng bằng ai, trông xuống chẳng ai bằng mình (tỷ thượng bất túc tỷ hạ hữu dư), biết đủ thì lúc nào cũng vui (tri túc thường lạc). Tập cho mình nhiều đam mê, vui với chúng không biết mệt, tự tìm niềm vui. Tốt bụng với mọi người, vui vì làm việc thiện, lấy việc giúp người làm niềm vui. Con người ta vốn chẳng phân biệt giàu nghèo sang hèn, tận tâm vì công việc là coi như có cống hiến, có thể yên lòng, không hổ thẹn với lương tâm là được. Huống hồ nghĩ ra, ai cũng thế cả, cuối cùng là trở về với tự nhiên. Thực ra ghế cao chẳng bằng tuổi thọ cao, tuổi thọ cao chẳng bằng niềm vui thanh cao. Quá nửa đời người dành khá nhiều cho sự nghiệp, cho gia đình, cho con cái, bây giờ thời gian còn lại chẳng bao nhiêu nên dành cho mình, quan tâm bản thân, sống thế nào cho vui thì sống, việc nào muốn thì làm, ai nói sao mặc kệ vì mình đâu phải sống vì ý thích hay không thích của người khác, nên sống thật với mình. Sống ở trên đời không thể nào vạn sự như ý, có khiếm khuyết là lẽ thường tình ở đời, nếu cứ chăm chăm cầu toàn thì sẽ bị cái cầu toàn làm cho khổ sở. Chẳng thà thản nhiên đối mặt với hiện thực, thế nào cũng xong. Tuổi già tâm không già, thế là già mà không già; Tuổi không già tâm già, thế là không già mà già. Nhưng xử lý một vấn đề thì nên nghe già. Sống phải năng hoạt động nhưng đừng quá mức. Ăn uống quá thanh đạm thì không đủ chất bổ; quá nhiều thịt cá thì không hấp thụ được. Quá nhàn rỗi thì buồn tẻ; quá ồn áo thì khó chịu…. Mọi thứ đều nên “vừa phải”. Người ngu gây bệnh (hút thuốc, say rượu, tham ăn tham uống…). Người dốt chờ bệnh (ốm đau mới đi khám chữa bệnh). Người khôn phòng bệnh, chăm sóc bản thân, chăm sóc cuộc sống. Khát mới uống, đói mới ăn, mệt mới nghỉ, thèm ngủ mới ngủ, ốm mới khám chữa bệnh… Tất cả đều là muộn. Chất lượng cuộc sống của người già cao hay thấp chủ yếu tùy thuộc vào cách tư duy, tư duy hướng lợi là bất cứ việc gì đều xét theo yếu tố có lợi, dùng tư duy hướng lợi để thiết kế cuộc sống tuổi già sẽ làm cho tuổi già đầy sức sống và sự tự tin, cuộc sống có hương vị; tư duy hướng hại là tư duy tiêu cực, sống qua ngày với tâm lý bi quan, sống như vậy sẽ chóng già chóng chết. Chơi là một trong những nhu cầu cơ bản của tuổi già, hãy dùng trái tim con trẻ để tìm cho mình một trò chơi ưa thích nhất, trong khi chơi hãy thể nghiệm niềm vui chiến thắng, thua không cay, chơi là đùa. Về tâm và sinh lý, người già cũng cần kích thích và hưng phấn để tạo ra một tuần hoàn lành mạnh. “Hoàn toàn khỏe mạnh”, đó là nói thân thể khỏe mạnh, tâm lý khỏe mạnh và đạo đức khỏe mạnh. Tâm lý khỏe mạnh là biết chịu đựng, biết tự chủ, biết giao thiệp; đạo đức khỏe mạnh là có tình thương yêu, sẵn lòng giúp người, có lòng khoan dung, người chăm làm điều thiện sẽ sống lâu. Con người là con người xã hội, không thể sống biệt lập, bưng tai bịt mắt, nên chủ động tham gia hoạt động công ích, hoàn thiện bản thân trong hoạt động xã hội, thể hiện giá trị của mình, đó là cuộc sống lành mạnh. Cuộc sống tuổi già nên đa tầng đa nguyên, nhiều màu sắc, có một hai bạn tốt thì chưa đủ, nên có cả một nhóm bạn già, tình bạn làm đẹp thêm cuộc sống tuổi già, làm cho cuộc sống của bạn nhiều hương vị, nhiều màu sắc. Con người ta chịu đựng, hóa giải và xua tan nỗi đau đều chỉ có thể dựa vào chính mình. Thời gian là vị thầy thuốc giỏi nhất. Quan trọng là khi đau buồn bạn chọn cách sống thế nào. Tại sao khi về già người ta hay hoài cựu (hay nhớ chuyện xa xưa)? Đến những năm cuối đời, người ta đã đi đến cuối con đường sự nghiệp, vinh quang xưa kia đã trở thành mây khói xa vời, đã đứng ở sân cuối, tâm linh cần trong lành, tinh thần cần thăng hoa, người ta muốn tim lại những tình cảm chân thành. Về lại chốn xưa, gặp lại người thân, cùng nhắc lại những ước mơ thuở nhỏ, cùng bạn học nhớ lại bao chuyện vui thời trai trẻ, có như vậy mới tìm lại được cảm giác của một thời đầy sức sống. Quý trọng và được đắm mình trong những tình cảm chân thành là một niềm vui lớn của tuổi già. Nếu bạn đã cố hết sức mà vẫn không thay đổi tình trạng không hài lòng thì mặc kệ nó! Đó cũng là một sự giải thoát. Chẳng việc gì cố mà được, quả ngắt vội không bao giờ ngọt. Sinh lão bệnh tử là quy luật ở đời, không chống lại được. Khi thần chết gọi thì thanh thản mà đi. Cốt sao sống ngay thẳng không hổ thẹn với lương tâm và cuối cùng đặt cho mình một dấu châm hết thật tròn. Chu Dung Cơ (cựu thủ tưởng Trung Quốc)1 like
-
Tết Ta
hoangnt liked a post in a topic by Lãn Miên
Tết ta Tiếng Việt thuộc hệ ngữ Nam Á, nhánh Môn - Khơ Me. Hàng vạn năm trước, ngôn ngữ Nam Á là một ngôn ngữ thống nhất của chủng Indonesian trên tiểu lục địa Trung - Ấn trong đó có bán đảo Đông Dương. Khảo cổ và nghiên cứu nhân chủng học cho thấy đây là cư dân bản địa của nền văn minh Đông Nam Á cổ, nền văn minh nông nghiệp sớm nhất của nhân loại.Từ đó họ thiên cư “50 con theo mẹ đi lên núi, 50 con theo cha đi xuống biển” khai phá nông nghiệp vùng lục địa Trường Giang, Hoàng Hà (Trung Quốc ngày nay) và vùng đảo Indonexia, Đài Loan, Nhật Bản và các đảo Thái Bình Dương. Ngôn ngữ Nam Á thống nhất ấy lúc đầu là ngôn ngữ đa âm tiết không có thanh điệu. Dần dần chủng tộc Indonesien này phát triển thành nhiều dân tộc, và ngôn ngữ cũng phát triển theo nhiều xu hướng khác nhau, một số đã theo xu hướng đơn âm hóa đương nhiên nảy sinh thanh điệu, như ở tiếng Việt thành ra có 6 thanh điệu, ở tiếng Thái thành ra có 5 thanh điệu, ở tiếng Hoa thành ra có 4 thanh điệu trong tiếng phổ thông Trung Quốc ngày nay còn ở tiếng địa phương như Đài Loan lại có 8 thanh điệu. Căn cứ để xác định ngôn ngữ có cùng gốc là: qui luật kết cấu ngữ pháp, cách phát âm, sự gần gũi của các từ cơ bản. Ví dụ từ cơ bản tiếng Việt so với từ đồng nghĩa của các sắc tộc khác (trong ngoặc đơn) sẽ thấy rõ cùng cội nguồn: Nước = Đắc (Ba Na) = Lạc (Việt cổ vùng Hoa Nam) = Nác (Việt ở Trung Bộ ) = Nậm (Tày) = Nam (Thái Lan); Sông = Krông (BaNa) = Krong (Chăm) = Không (Mường) = Khoỏng (Thái Lan) = Giang (Hoa) = Sônggai (Mã Lai)= Sông ngòi (Việt); Cá = Kaa (XêĐăng )= Pá (Thái) = Ká (Mạ) = Cả (Mường ) = Aka (Mã Lai) = Xacana (Nhật Bản) = Kán (Chăm - đây chính là gốc các từ Cần, Cờn, Quèn, Còng chỉ địa danh như Cần Giờ, Cần Thơ ở Nam Bộ, cửa Cờn ở Nghệ An, lạch Quèn, chợ Còng ở Thanh Hóa, là các cửa sông, bến cá); Con = Kon (Mạ) = Cón (Mường) = Koon (Ba Na) = Kooon (Xê Đăng) = Kodomo (Nhật Bản) = Côn (Khơ Me) = Coong (Việt ở Nam Bộ); Ruồi = Rooi (Ba Na) = Ròi (Việt ở Nghệ An) = Rhai (Mạ) = Ruuêi (Mường) = Ruy (Khơ Me); Ngày = Ngai (Mường) = Thngay (Khơ Me) = Haai (Xê Đăng) = Tngay (Môn ở Mianma); Mặt Trăng = Mạt Tlăng (Ba Na) = Maht Kăn (Mạ) = Blaăng (Chăm) = Bulăng (Mã Lai) = Đoong Chăn (Lào); Trái cây = Trấy (Việt ở Trung Bộ) = Plây (Ba Na, Xê Đăng) = Blái (Mạ); Chim = Chim (Mạ, Xê Đăng) = Sêêm (Ba Na) = Tiêm ( Khơ Mú ở Tây Bắc – từ Tiêm này sau sinh ra từ Tiên trong chữ nho để thần tượng hóa người biết bay lên trời thành Tiên, tục thờ chim Hạc = chim Lạc đưa hồn người lên trời) = Cầm (Việt cổ ở Hoa Nam – người Hán phiên âm là “Sín” nhưng chỉ dùng để chỉ giống chim nuôi trong nông nghiệp dịch từ “chim nhà” gọi ngược là “gia cầm”, đủ thấy nghề này là từ phương Nam truyền lên, chim trời họ gọi là con “nẻo” tức “điểu” chứ không hề có từ “gia điểu”). Học giả Haudricourt nghiên cứu ngôn ngữ Việt (năm 1953,1954) chỉ ra một trong các đặc điểm tạo từ của tiếng Việt là tạo thêm từ bằng phụ tố như kiểu: Giết - chết, cọc - nọc, kẹp - nẹp. Điều này quá rõ, nếu trích dẫn các từ cùng gốc như vậy ra thì nhiều vô cùng. Vì cái logic ấy cho nên con Ròi thì con của nó phải là con Dòi, con Cóc thì con của nó phải là con Nòng-Nọc, con Ong thì con của nó phải là con Nhộng, con Người hay con Ngài thì con của nó phải là Hài do lớn lên từ cái Thai (mà Hán ngữ mượn dùng từ Hài phải nói là “hài tử” hay “hài nhi” hay “hài đồng” thì mới thành nghĩa “con”), Con Người còn có cái để thể hiện linh khí của nó ra ngoài là Con Ngươi của mắt. Trong thiên nhiên thuở hồng hoang thì con Người cũng như các động vật khác chỉ là con Mồi, chỉ khác là biết đứng thẳng, nên chữ nho viết là chữ Mùi hoàn toàn biểu ý bằng chữ nhân 人 ghép với chữ lập 立 nghĩa là đứng, thành chữ Mùi 位 sau đọc là Vị 位 (Hán ngữ phiên âm là “wei”), các Người = các Ngài = các Vị. Nhưng cái “phụ tố” mà học giả Haudricourt nêu mới chỉ là nói phần âm vận ở cuối chữ tạo nên cái âm lõi như “ết”, “ọc”, “ẹp” ở trên v.v. Người Việt còn cách tạo từ cực kỳ quan trọng, có thể tạo ra hàng vạn vạn từ đơn âm tiết có nghĩa, bằng cách Vo các từ đa âm tiết của ngôn ngữ Nam Á trong cái Vỏ đựng, như cái Vò hình cầu là biểu tượng Âm Dương của người Lạc Việt, như cái Vũ của vũ trụ hình cầu chứa đựng tất cả, để từ ấy rụng đầu rụng đuôi đi rồi còn mỗi lõi giữa là một âm tiết có kèm thêm thanh điệu. Ví dụ từ “O-NA-DI” của tiếng Nhật nghĩa là “giống”, khi bị vo tròn nhưng chưa dứt hẳn nó đã bị rụng mất đầu “O” và đuôi “DI” đi, còn lõi giữa là “NA” nhưng chưa sạch hẳn nên nó thành từ dính, tức láy là hai âm tiết dính nhau không thể đảo ngược, là “NA-NÁ” nghĩa là “hơi giống”. Nhưng cũng có lúc do vo mạnh tay hơn nhưng lại vo không đều tức không tròn trịa nên nó bị rụng mất “O” và “NA” ở đầu đi, còn lại mỗi “DI” ở cuối kèm theo vài mảnh vụn bám vào nên nó thành có đuôi và có thanh điệu thành từ “DỐNG” mà đa số phát âm là “GIỐNG” nên chính tả chấp nhận là “GIỐNG”. Như vậy ở tiếng Nhật chỉ có mỗi “O-NA-DI” nhưng ở tiếng Việt có “NA-NÁ” và “GIỐNG” mang hai sắc thái khác nhau của cùng một nghĩa. Ai có lý giải nào khác về nguồn gốc hai từ này, tôi xin được tham khảo. Việc “vo” này xảy ra hàng sáu bảy ngàn năm trước rồi chứ không phải trong thời cận đại đâu. Lại còn nhờ qui tắc chia đôi Âm Dương một tiếng đơn âm thành từ láy dính hai âm tiết mà trong cách tạo từ của tiếng Việt còn có vai trò của một “phụ tố “ nữa là: cùng phụ âm đầu. Ví dụ từ “Lộ” nghĩa là con đường đi, do có qui tắc phụ tố là cùng phụ âm đầu mà nó đã cho ra biết bao từ trong tiếng Việt cùng gốc phụ âm “lờ” đầu với nó để chỉ các loại đường đi và các cách đi khác nhau: LỐI là đường đi nhỏ trong xóm làng; LỘI là đi bằng chân, lội bộ = đi bộ; LOẠNG-CHOẠNG là đi như muốn ngã; LÁCH, LUỒN, LẺN, LẤN là những cách đi có tính toán; LÙA là xua bầy gia súc gia cầm đi; LEN- LỎI là vừa đi vừa tìm đường; LEN trâu là vừa lùa trâu đi vừa tìm đường trong nước lụt (phim “Mùa len trâu”); LỎI là tìm đường ngoi lên cho hơn người, “sao mày lỏi thế hả đồ khôn lỏi!”; LƯỚT là đi nhanh bằng thuyền; LƯỢT (rượt) là chạy nhanh để đuổi ; LÓN-LÉN (rón-rén) là đi nhẹ tránh phát hiện; LÁI là điều khiển cho phương tiện đi; LEO là đi lên độ cao ( Người Hán dùng từ “lộ” của chữ nho 路 chỉ con đường, nhưng trong tiếng Hán không thấy từ nào khác cùng phụ âm đầu là “lờ” với nó mà có cùng khái niệm đường đi hoặc cách đi cả, có lẽ vì dân trên đồng cỏ mênh mông bằng phẳng chẳng cần phải có đường,chỉ có dân rừng nhiệt đới mới phải len lỏi tìm lộ để đi thành đường mòn. Vậy chữ nho LỘ 路 này nguyên gốc là từ đâu? chữ này có phần biểu ý là bộ túc 足 tức chân đi, và phần biểu âm là chữ các 各, đáng lý phải đọc là Lạc, hiểu ý là “cách đi của Lạc dân”, có phải do người Việt là dân sông nước nên phương tiện đi lại chủ yếu là bằng thuyền trên Nác hay Lạc?). Còn một qui tắc tạo từ nữa trong tiếng Việt là qui tắc “lướt”, từ ghép hay cả câu dài đều có thể lướt thành một âm tiết, như: “hai mươi” = “hăm”; “ba mươi” = “băm”; “TRái cÂY” dân miền Trung lướt thành “TRẤY”, “Hỏi gì đẤY?” lướt thành “HẤY?”; đi “té re” là nói chung đi lỏng, nhưng trẻ sơ sinh “đi Té re làm ƯỚT cả tã do nó không thể tự kềm chế được” người ta lướt thành “đi TƯỚT”, chỉ dùng cho trẻ sơ sinh mà thôi; “THỢ tay nghề cao có thể dũa Lưỡi cưa cho sắc và đúng góc độ như mỚI” gọi lướt là “THỢ LỠI”; “HỖN hợp LẮM thứ BA lăng nhĂNG” lướt thành từ “HẰM BÀ LẰNG”; “tự ĐI du lịch PHóng khoáng VƯỢT qua mọi trở ngại thiên nhiên và chối bỏ sự gò bó của tua truyền thống” gọi lướt thành từ “ĐI PHƯỢT” (từ mới của dân teen trên mạng đã được phương tiện thông tin đại chúng sử dụng) v.v.Qui luật lướt này cũng là đã có từ nhiều ngàn năm trước rồi. Cụ thể là học giả Hứa Thận thời Đông Hán đã sử dụng qui tắc này để “thiết” tự làm nên cuốn sách công cụ dạy cách đọc chữ nho cho đúng âm, mỗi chữ nho được “thiết” bằng hai chữ nho khác (tức đọc lướt hai chữ nho khác) cho ra âm đúng của chữ cần đọc, đó là cuốn “Thuyết văn giải tự” (nhưng mà khi đọc thì phải đọc đúng như âm Việt của người Việt đọc chữ nho thì mới thấy đúng, chứ nếu đọc theo phiên âm latin như tiếng phổ thông Trung Quốc tức “Hán ngữ hiện đại” thì lại trật, thời Đông Hán ông Hứa Thận viết cuốn này để giải nghĩa hàng vạn chữ kèm cách đọc, chưa có biết đến chữ phiên âm latin). Vài ví dụ như sau: (phiên âm latin của Hán ngữ viết trong ngoặc đơn, dấu “ = ” là để thay cho chữ “lướt thành” TÚC 足 (zú) nghĩa là cái chân , đọcTỨC 即 NGỌC 即 = TÚC ( jí yù = jù ; jù trật zú) HÀNH 行 (xíng) nghĩa là làm, đọc HỘ 戶 CANH 庚 = HÀNH (hù geng = heng, trật xíng) CẬN 近 ( jìn) nghĩa là gần, đọc CỪ 渠 LÂN 遴 = CẬN ( qú lín = qín; qín trật jìn) ĐẬU 逗 (dòu) nghĩa là dừng, đọc ĐIỀN 田 HẦU 侯 = ĐẬU (tián hòu = tòu, tòu trật dòu) VẬN 運 (yùn) nghĩa là chở, đọc VƯƠNG 王 VẤN 問 = VẬN (wáng wèn = wén, trật yùn) NGỘ 遇 ( yù) nghĩa là gặp, đọc NGƯU 牛 CỤ 具 = NGỤ ( níu jù = nù; nù trật yù) TẠO 造 (zào) nghĩa là chế, đọc THẤT 七 ĐÁO 到 = TẠO ( qi dào = qiào; qiào trật zào) QUÁ 過 (guò) nghĩa là qua, đọc CỔ 古 HÒA 禾 = QUA ( gu hé = gé; gé trật guò) TIỀN 前 (qián) nghĩa là trước, đọc TẠC 昨 TIÊN 先 = TIỀN (zuó xian = zan; zán trật qián) CÁC 各 (gè) nghĩa là nhiều, đọc CỔ 古 LẠC 洛 = CÁC ( gu luò = guò; guò trật gè) KHIẾU 叫 (jiào) ,nghĩa là kêu, đọc CỔ 古 ĐIỀU 伄 = KHIẾU ( gu diào = giào, trật jiào) DUY 唯 ( wei) nghĩa là dạ vâng, đọc DĨ 以 THỦY 水 = DUY ( yi shui = yui; yui trật wei) TRIẾT 哲 ( zhé) nghĩa là biết, đọc TRẮC 陟 LIỆT 列 = TRIẾT( zhì liè = zhiè; zhiè trật zhé) NGƯU 牛( níu) nghĩa là trâu, đọc NGỮ 語 CẦU 求 = NGƯU ( yu qíu = yiu; yiu trật níu) NGỮ CẦU = NGẦU (tiếng Quảng Đông) = TRÂU (tiếng Việt) = TRU (tiếng Việt ở Nghệ An) = TLU( tiếng Mường) TIẾN 薦 (jiàn) nghĩa là cử, đọc TẠI 在 ĐIỆN 甸 = TIẾN (zài diàn = ziàn; ziàn trật jiàn) LẠC 落( luò) nghĩa là rớt, đọc LÔ 盧 CÁC 各 = LẠC ( lú gè = lè; lè trật luò) DÂN 珉( mín) nghĩa là cái đẹp của đá, đọc VŨ 武 CÂN 巾 = VÂN ( wu jin = win, trật mín) HÀ瑕 ( xía) nghĩa là đá giống ngọc, đọc HỒ 胡 QUẢI 拐 = CUỘI ( hú guai = huai trật xía) GIAM 瑊 ( jian) nghĩa là đá đẹp như ngọc, đọc CỔ 古 HÀM 函 = CƯỜM ( gu hán = gán; trật jian) - Trang sức như vòng đeo tay hay khuyên đeo tai bằng cuội hay cườm có ở di chỉ khảo cổ văn hóa Sa Huỳnh miền Trung Việt Nam. THỤY 瑞 ( rùi) là ngọc làm tin, đọc THỊ 是 NGỤY 偽 = THỤY ( shì wei = shei; trật rùi) VƯƠNG 王 ( wáng) nghĩa là vua , đọc VŨ 雨 PHƯƠNG 方 = VƯƠNG ( yu fang=yang; trật wáng) VINH 榮 ( róng) nghĩa là vẻ vang, đọc VI 為 MỊNH 命 = VINH ( wéi ming = wing; wing trật róng) PHÚC 福 ( fù) nghĩa là được phù hộ, đọc PHƯƠNG 方 LỤC 六 = PHÚC ( fang lìu = fìu; trật fù) THẦN 神 ( shén) nghĩa là thần, đọc THỰC 食 LÂN 遴 = THẦN (shí lín = shín ; trật shén) BÍ 秘 (mì) nghĩa là thần bí, đọc BINH 兵 MI 媚 = BÍ ( bing méi = béi; béi trật mì). VIỆT 越 (yuè) nghĩa là vượt qua (nguyên văn: độ dã), đọc VƯƠNG 王 PHẠT 伐 = VIỆT(wáng fá = wá; wá trật yuè). Có lẽ phần “giải tự” chữ Việt này của ông Hứa Thận là chính xác nhất về nguồn gốc từ “Việt” xuất hiện từ khi nào trong lịch sử. Hán thư thì viết rằng từ “Việt” xuất hiện vào thời Xuân Thu. Theo “giải tự” ở đây thì VIỆT= VƯƠNG PHẠT tức “ông vua đi chinh phạt” thì phải có sớm hơn rất nhiều, đó là sự kiện nổi tiếng lịch sử cổ đại là vụ vua Chu Văn Vương tức ông Tây Bá Cơ Xương vượt sông đi bắc phạt tiêu diệt vua Trụ nhà Thương, có lẽ từ đó người ta mới gọi quân của “ Vương Phạt” là quân “Việt”, trước đó thì họ chỉ gọi là dân Lạc của Lạc Quốc mà thôi. Qua đó bạn đọc tự thấy là chữ nho và cách đọc nó đúng như Trung Hoa đọc thời thượng cổ là đã truyền từ Nam lên Bắc hay nó đã đi từ Bắc xuống Nam? Người quan tộc đọc không nổi chữ nho nên thầy Hứa Thận mới phải soạn ra sách “Thuyết văn giải tự” là cuốn sách công cụ để dạy cho họ cách đọc chữ nho cho đúng âm điệu của nó. Qui tắc lướt để tạo từ như nêu ở trên, và thời cổ đại đã được Hứa Thận vận dụng để dạy cách đọc chữ nho , cho ta thấy là chữ QUỐC là hậu duệ trực hệ của chữ NƯỚC. Hán thư viết thời Tam Hoàng Ngũ Đế thì dân sống theo “thủy” (ý nói dòng chảy, con nước) nên lấy tên “thủy” đó làm tên xứ sở và làm họ. Vậy mà cho đến tận bây giờ cũng chỉ còn có mỗi dân tộc Việt là duy nhất trên thế giới này gọi xứ sở mình là “nước”, vậy họ có phải chính là hậu duệ đích tôn của Tam Hoàng Ngũ Đế ấy hay không?. Con nước nơi quần cư, thời cổ đại dân Việt gọi là Nác hay Lạc mà Hán phải gọi là Lạc Thủy. Nhiều Nác nhỏ hợp lại thì thành một nền hành chính lớn cấp trên là “Nác Của Nác”. Chữ “Của Nác” ấy đọc lướt theo qui tắc tạo từ của tiếng Việt thì thành Quốc. Của Nác = Quốc( cụ Hồ còn ký là Nguyễn Ái Quấc), nên “Nác Của Nác” thành “Nác Quốc” mà chữ nho viết là Lạc Quốc. Chữ “Của” thì trong tiếng Quảng Đông là “Cơ”, Của Nác họ đọc là Cơ Lạc nên lướt thành Coọc. Chữ nho Quốc 國 là một vuông nghĩa là “ Vùng”, bên trong có chữ "Hoặc 或 ” là âm lướt của hai chữ “Họ Lạc” (" Hoặc" = "Họ Lạc" ), ghép bằng chữ Qua 戈 là cái qua đồng của người Lạc Việt. Hán thư viết, dân thời Tam Hoàng Ngũ Đế sống theo “thủy” lấy “thủy” làm họ, vậy “Họ Lạc” tức dân Lạc lấy Lạc làm họ đó thôi. Chữ Chu 周được ông Hứa Thận thời Đông Hán “giải tự” nghĩa là Mật tức đông đúc, nên Chu Văn Vương 周 文 王 nghĩa là Vua Vùng Đông Đúc, vì chữ Văn 文 tiếng Quảng Đông đọc là Mảnh cũng có nghĩa là Vuông tức Vùng, là một diện tích, như từ Mảnh Ruộng trong tiếng Việt, mà về hìnhchữ Văn 文 thì nó có vạch chéo là cái đường chéo tượng trưng cho hình vuông, cũng có nghĩa là Giao, chữ Giao 交 cũng có hình chéo, tức vùng Giữa, là nơi giao lưu của mọi miền, Chỗ Giữa đọc ngược lại theo cú pháp Hán là Giao Chỉ. Chu Văn Vương tức vua vùng đông đúc mà thôi, chứ không phải ông ấy họ Chu, mà ông ấy lại là họ Cơ 姬, gốc từ vùng sông Cả, tên ông ấy là Cơ Xương姬 昌, được phong đất vùng Tây Bá tức vùng núi đá phía tây ( theo như tiếng Choang “bá” nghĩa là “núi đá” mà ngày nay khai quật được di chỉ trống đồng ở núi Ba Thị tức “núi đá gốc” theo tiếng Choang, nay gọi là Đại Minh sơn ở Quảng Tây, là đất tổ của người Choang, hậu duệ của người Tày cổ tức dân Lạc Việt). Tây Bá tức vùng Qúi Châu và Quảng Tây ngày nay, sau khi được phong đất Tây Bá thì ông Cơ Xương được gọi là Tây Bá Cơ Xương. Chữ 國 ấy người Việt Nam đọc là Quốc, người Quảng Đông đọc là Coọc. Quốc Vương là Vua của Nước, vì “Quốc” = “Của Nước” mà trong chữ Quốc ấy còn rõ cả Họ Lạc và cái qua đồng của dân Lạc Việt thì rõ ràng không phải là ta đi mượn của “từ Hán Việt” nào cả, như các nhà hàn lâm vẫn nói. Cái từ “Nác của Nác” hay Nác Nác = Lạc Quốc còn hiện diện ở miền Trung Việt Nam trong từ Đắc Lắc, nơi các sắc tộc vẫn còn có cây Nêu trong ngày hội như ở người Kinh có cây Nêu trong ngày Tết, Đắc nghĩa là nước, Lắc cũng nghĩa là Nước, cái “hồ Lắc” là miệng núi lửa xưa ở đó có nghĩa là “hồ Nước”, Đắc Lắc cũng có nghĩa là một Nác Nác = một Lạc Quốc vậy. Ở đó cư dân vẫn còn ở nhà sàn tre mái cong như nhà sàn tre mái cong của người Việt xưa hay ở các vùng khác của Đông Nam Á, mà kiểu nhà ấy tiếng Mã Lai và Indonexia gọi là “Tangga”, tiếng Chăm gọi là “Thanggiơ” đều có nghĩa là “bước lên Thang mới vào được Nhà”, mà từ “Thang” thì có nghĩa là “cái để leo” của tiếng Việt, còn từ “Thoòng” của tiếng Hoa nghĩa là “cái nhà” mà chữ nho viết là chữ Đường 堂 trong “từ đường” là cái “nhà thờ”. Ngôn ngữ và văn hóa từ thời thượng cổ đã từ phương Nam mà đi lên phương Bắc là như vậy. Cái mái cong bằng tre của nhà rông ấy hiện diện ở khắp Hoa Nam là mái ngói cong, còn lên phía Bắc là mái bầu chóp tròn như cái nậm rượu hồ lô, dư ấn của cái lều vải úp của dân du mục đồng cỏ. Từ qui tắc lướt để tạo từ của tiếng Việt, ta còn thấy nguồn gốc rặc Việt của từ TẾT. Các nhà hàn lâm ở Hà Nội thì giải thích rằng “Tết ta là ăn tết theo tết Tàu, theo lịch Tàu; người Tàu gọi cái lễ đón năm mới ấy là Xuân Tiết, ta mới gọi tắt một tiếng là Tiết rồi đọc chệch đi thành Tết ” (?). Nhưng chính các nhà hàn lâm ấy khi gọi tắt thì vẫn theo qui luật là gọi bằng tiếng đầu bỏ tiếng đuôi, ví dụ đi vô xứ Nghệ An thì nói tắt là đi vô xứ Nghệ chứ không nói là đi vô xứ An, đi vô xứ Quảng Ngãi thì nói tắt là đi vô xứ Quảng chứ không nói là đi vô xứ Ngãi. Ấy vậy mà Xuân Tiết lại không gọi tắt là Xuân mà lại gọi tắt là Tiết kể cũng tài (?). Làm tội các cháu khi du học bên Tây, nghỉ ngày Tết âm lịch, các bạn Tây hỏi ồ sao chúng mày cũng đón Chinese New Year à ? thì không biết trả lời như thế nào. Tục Tết là từ ta đi lên hay từ Tàu đi xuống?. Nguyên thủy nó là từ Té , là té nước trong lễ hội cầu mưa của cư dân nông nghiệp Nam Á, nghi lễ cầu trời gọi là Tế, chữ nho viết là Tế 祭. Lễ lớn nhất trong năm là lễ cúng lúc đón giao thừa kết thúc năm cũ sang năm mới gọi là Tế Hết Năm (Tàu gọi là Quá Niên , cũng còn gọi là Tất Niên là hoàn tất một năm cũ). Do qui luật lướt nên “Tế Hết Năm” đã lướt thành “Tết Năm” (Tế Hết = Tết), cái từ Tết Năm ấy gọi tắt thì theo qui luật lấy tiếng đầu là Tết chứ không lấy tiếng cuối là Năm. Đó là sự hình thành chính xác nhất từ Tết trong ngôn ngữ Việt bắt nguồn từ phong tục cổ xưa nhất của người Việt từ thời Thần Nông cách nay hàng vạn năm. (Tết bắt nguồn từ lễ hội Té nước, nước té rồi thì nó ngã rạp xuống đất, nên người phương nam còn gọi ngã là Té nhưng nó bao hàm cả rớt xuống nước, bởi dân sông nước thì ngã chỉ có nghĩa là rớt xuống nước tức Té, về sau từ Té dùng chung cho cả trên cạn nên ngã xe máy cũng gọi là Té xe máy). Chuẩn bị cho Tết nhất định phải có cây Nêu, là cây tre dựng đứng mà từ thời cổ đại tổ tiên ta đã dùng đo bóng nắng mặt trời để tính ra lịch nông nghiệp gọi là âm lịch, nên cây Nêu phải dựng ngoài sân tức ngoài trời để thờ Trời, tức cây trụ của từ Trụ nghĩa là thời gian trong từ ghép Vũ Trụ, mà Vũ có nghĩa là không gian lại là do từ Vỏ, là cái vỏ mênh mông chứa đựng và vo tròn tất cả . Nội dung Tết Việt là phải đủ như câu: “Thịt mỡ, dưa hành, câu đối đỏ; Cây nêu, tràng pháo, bánh chưng xanh”, trong đó thấy đủ cả Âm Dương Ngũ Hành, nông nghiệp, công nghiệp và văn học. Tục cây Nêu ngày nay vẫn tồn tại trong các lễ hội và trong Tết. Ở thành phố nhà không có sân để dựng cây Nêu thì người ta đành dựng bên lễ cúng là cây mía còn nguyên cả ngọn tượng trưng cho cây Nêu, vì nó cũng nhiều đốt như cây tre vậy. Trên cây Nêu treo các thứ tượng trưng cho mong ước tốt đẹp, nên từ Nêu là ý đẹp, nêu gương tốt. Nhưng trong đời sống cũng có khi bắt buộc phải nêu gương xấu để răn đe. Cái cây Bắt (phải) Nêu ấy lướt thành cây Bêu, như cây treo con bù nhìn xấu xí để đe chim khỏi phá hạt mới gieo ở ngoài đồng, gọi là cây Bêu. Cũng có khi chẳng phải ý đẹp hay ý xấu mà vẫn buộc phải Bắt Nêu thì người ta đã lướt thành cây Bẹo, đó là cây tre dựng treo các loại trái cây và hàng hóa mẫu để “quảng cáo tiếp thị” gọi là cây Bẹo trên mỗi thuyền bán hàng của chợ nổi vùng sông nước miền tây Nam Bộ. Cây Nêu đã từ Tết đi vào cuộc sống bình thường của người dân. Tìm khắp đất Hoa Bắc chẳng có tục cây nêu từ thượng cổ đến nay mà học giả nước ta lại dám bảo là Tết ta là do từ bên Tàu kể cũng lạ.1 like -
Quán vắng!
+Achau+ liked a post in a topic by Thiên Sứ
Bí ẩn các kim tự tháp Giza, Ai Cập (Phần 1) 10:35 PM | 18/08/2010 Các kim tự tháp là kiến trúc cổ đại lớn nhất và bí ẩn nhất thế giới. Tuy nhiên có rất nhiều bằng chứng cho thấy 3 kim tự tháp ở Giza cổ xưa hơn thế rất nhiều, và người Ai Cập không phải là người đã xây dựng chúng. Bí ẩn các kim tự tháp Giza, Ai Cập (Phần 3) Văn minh tiền sử: Thủ thuật nha khoa 9.000 năm trước Văn minh tiền sử: Các đồ tạo tác “không hợp lệ” Các kim tự tháp Giza nổi bật dưới bầu trời xanh Cairo, Ai Cập. Kim tự tháp Lớn, nằm phía bên phải của bức ảnh, kim tự tháp Khafre (Chephren) ở giữa, và Menkaura (Mycerinus) bên trái Tổng quan về 3 kim tự tháp ở Giza Các kim tự tháp là kiến trúc cổ đại lớn nhất và bí ẩn nhất thế giới. Theo giả thuyết khảo cổ học đang thịnh hành hiện nay 3 kim tự tháp trên cao nguyên Giza là những lăng mộ của ba vị vua của triều đại thứ tư (2575-2465 trước công nguyên), tức là chúng đã được xây chỉ trong khoảng 4.500 trước. Tuy nhiên có rất nhiều bằng chứng cho thấy 3 kim tự tháp ở Giza cổ xưa hơn thế rất nhiều, và người Ai Cập không phải là người đã xây dựng chúng. Kim tự tháp Lớn ban đầu cao khoảng 146,7 m và mỗi cạnh chân đế dài khoảng 230 m. Diện tích gần 53.000 mét vuông, đủ lớn để chứa các Thánh đường châu Âu như Florence, Milan, St Peters, Westminster Abbey và St Paul’s. Được xây dựng từ khoảng 2.500.000 khối đá vôi có khối lượng trung bình 2,6 tấn, tổng khối lượng của nó là hơn 6.300.000 tấn (nhiều hơn tổng khối lượng vật liệu để xây dựng tất cả các nhà thờ và thánh đường ở Anh kể từ thời của Đức Jesus). Kim tự tháp Lớn ban đầu gồm các tảng đá được bọc trong đá vôi trắng mịn có độ bóng cao, và theo truyền thuyết các mặt của kim tự tháp được phủ bên ngoài bởi một lớp đá đen hoàn hảo, có lẽ là mã não. Lớp vỏ đá vôi trắng của nó đã bị gỡ bỏ bởi một quốc vương Ả Rập vào năm 1356 để xây dựng các nhà thờ Hồi giáo và pháo đài gần Cairo. Herodotus, nhà địa lý Hy Lạp vĩ đại, đã viếng thăm kim tự tháp này vào thế kỷ thứ 5 trước Công nguyên. Strabo, một sử gia Hy Lạp/La Mã, đã đến vào thế kỷ thứ nhất sau công nguyên. Abdullah Al Mamun, con trai của Caliph thành Baghdad, đã phá được lối vào đầu tiên trong lịch sử vào năm 820, và Napoleon đã bị mê hoặc khi ông nhìn thấy kiến trúc tuyệt vời này vào năm 1798. Theo kiến thức hiện tại của chúng ta, Kim tự tháp Lớn chủ yếu là một khối đặc, những không gian bên trong duy nhất được biết đến của nó là Lối đi xuống (lối vào nguyên thủy), Lối đi lên, Gian phòng lớn, một hang hốc bí ẩn, một phòng ngầm bí ẩn không kém, và 2 phòng chính. 2 phòng này, được gọi là “Phòng vua” và “Phòng hoàng hậu”, là những cái tên do các vị khách Ả Rập đầu tiên vào trong kim tự tháp này đặt cho. Người Ả Rập có phong tục chôn người đàn ông trong ngôi mộ với nắp bằng phẳng và phụ nữ trong ngôi mộ với nắp dốc về phía 2 bên, vì vậy, trong Kim tự tháp Lớn, buồng granite nắp phẳng trở thành “Phòng vua”, trong khi buồng đá vôi nắp dốc phía dưới đã trở thành “Phòng hoàng hậu”. Sơ đồ bên trong kim tự tháp Lớn: a. Lối vào b. Hành lang dốc xuống c. Phòng ngầm d. Hành lang e. Hành lang đi lên f. “Phòng hoàng hậu” g. Đường “thông khí” h. Gian phòng lớn i. Phòng đệm j. “Phòng vua” k. Các phòng bổ sung Ngay cả những nhà khảo cổ ủng hộ giả thuyết kim tự tháp là lăng mộ cũng không tin một nữ hoàng hay bất cứ ai đã từng được an táng ở căn phòng đá vôi. “Phòng vua” có chiều dài 10,46 mét theo hướng đông tây còn chiều rộng 5,23 mét theo hướng bắc nam, và cao 5,81 mét (một loạt các kích thước trên thể hiện chính xác một tỷ lệ toán học đặc biệt, gọi là Tỉ lệ vàng hay là Phi). Nó được xây dựng bằng các khối đá granite đặc khổng lồ màu đỏ (trọng lượng khoảng 50 tấn) đã được vận chuyển bằng một phương tiện vẫn chưa được khám phá, từ mỏ đá cách Aswan 600 dặm về phía nam. Trong căn phòng này, ở góc phía Tây, có một chiếc hộp không nắp lớn (2,3 m x 1 m, thành hòm dày trung bình 16 cm) làm bằng đá granite đen, ước tính nặng hơn 3 tấn. Những “bằng chứng” không thuyết phục Khi quốc vương Ả rập Abdullah Al Mamoun phá được một lối vào căn phòng này vào năm 820 – thì đó là lối vào đầu tiên của căn phòng. Ở đây ông đã tìm thấy chiếc hòm này, hoàn toàn trống rỗng. Các nhà Ai Cập học cho rằng đây là nơi an nghỉ cuối cùng của Khufu, nhưng không hề có bằng chứng nhỏ nào cho thấy một thi hài đã từng ở trong chiếc hòm hay trong căn phòng đó. Cũng không có bất kỳ vật liệu ướp xác nào, bất kỳ mảnh vỡ hay vật phẩm nào, hoặc bất kỳ manh mối nào được tìm thấy trong toàn bộ kim tự tháp mà chứng tỏ Khufu (hoặc bất cứ ai khác) đã từng được an táng ở đó cả. Hơn nữa, hành lang dẫn từ Gian phòng lớn tới “Phòng vua” là quá hẹp, không thể đưa quan tài đá vào được, cho nên chiếc hòm phải được đặt trong căn phòng khi kim tự tháp đang được xây dựng. Điều này hoàn toàn trái với phong tục chôn cất bình thường của người Ai Cập 3000 năm trước. Giả thuyết rằng các kim tự tháp trên cao nguyên Giza đã được xây dựng và sử dụng bởi các vị vua của Triều đại thứ tư làm lăng mộ tỏ ra không thuyết phục. Không có vị vua thuộc Triều đại thứ tư nào đã khắc ghi dù chỉ cái tên của họ lên các kim tự tháp được cho là xây dựng vào thời của họ. Nhưng từ triều đại thứ năm trở đi, các kim tự tháp khác đã có tới hàng trăm bản khắc ghi chép chính thức nói về vị vua đã xây dựng nó. Điều đó khiến chúng ta không thể không đặt dấu hỏi, rằng liệu những vị vua thuộc triều đại thứ tư có thực sự đã xây dựng những kim tự tháp đó hay không. Sự phức tạp Toán học, các yêu cầu kỹ thuật, và kích thước chính xác tuyệt đối của các kim tự tháp trên cao nguyên Giza cho thấy một bước nhảy vọt to lớn đến mức phi lý khi so sánh với các công trình được xây dựng trong triều đại thứ ba. Các nhà Ai Cập học đương đại không thể giải thích được bước nhảy vọt này, và cũng không thể giải thích được sự suy kém rõ ràng trong toán học, kỹ thuật và kích thước của các công trình được xây dựng trong triều đại thứ năm. Sách giáo khoa nói về “biến động tôn giáo” và “nội chiến”, nhưng thực tế không hề có bằng chứng nào cho thấy những chuyện như thế đã từng xảy ra. Năm 1983 và 1984, tiến sỹ Robert J. Wenke thuộc Trường Đại học Washington, và là chủ tịch của Trung tâm Nghiên cứu Hoa Kỳ tại Ai Cập, đã thu thập các mẫu vữa từ nhiều địa điểm xây dựng cổ đại, bao gồm cả kim tự tháp Lớn. Mẫu vữa có chứa các mẩu than củi, chất thải côn trùng, phấn hoa và các chất liệu hữu cơ khác mà có thể phân tích niên đại bằng cacbon phóng xạ. Sử dụng hai phòng phân tích carbon phóng xạ khác nhau, Viện Nghiên cứu Con người (Institute for the Study of Man) tại Đại học Southern Medthodist, và Viện Vật lý năng lượng môi trường (Institute of Medium Energy Physics) ở Zurich – các mẫu thử đã cho thấy một số điều hấp dẫn. Đối với các mẫu thử của Kim tự tháp Lớn, các phân tích thực hiện tại hai phòng thí nghiệm ban đầu đã cho kết quả rất khác nhau, chênh lệch đến vài nghìn năm. Khi được áp dụng một số “điều chỉnh” trong dữ liệu, kết quả thu được là: Kim tự tháp Lớn có niên đại trong khoảng 3.100 năm TCN đến 2.850 năm TCN – vẫn sớm hơn 400 năm so với mốc thời gian được chấp nhận rộng rãi từ trước tới nay. Thậm chí bất thường hơn, niên đại của vữa ở gần đỉnh của các Kim tự tháp cổ xưa hơn 1.000 năm so với vữa gần nền móng. Chẳng lẽ các kim tự tháp đã được xây dựng từ trên xuống? Chắc chắn là không, mà vấn đề có lẽ chính là quá trình xác định niên đại có chỗ không thỏa đáng. Điều khiến cho sự xác định niên đại này khó có thể chấp nhận hơn nữa, là tất cả các mẫu giám định niên đại đều được lấy từ bề mặt đá lộ thiên. Chúng ta biết rằng, các kim tự tháp Giza đã được sửa chữa nhiều lần, bên trong và bên ngoài. Vì vậy xác định niên đại cácbon phóng xạ chỉ có thể cho chúng ta thời điểm việc sửa chữa đã xảy ra, chứ không phải là thời điểm xây dựng của kim tự tháp. Nếu tin vào các kết quả giám định niên đại trên là chính xác, thì thậm chí thời điểm sửa chữa kim tự tháp cũng xưa hơn nhiều so với thời điểm xây dựng được chấp nhận hiện nay. Giả thuyết Khufu xây dựng nên Kim tự tháp Lớn chỉ dựa vào 3 “bằng chứng” sau đây: · Các truyền thuyết được Herodotus nhắc đến và báo cáo khi viếng thăm các kim tự tháp này vào năm 443 TCN. Herodotus, một khách du hành người Hy Lạp kể lại Pharaông Cheops (tên tiếng Hy Lạp của Khufu) đã xây dựng các kim tự tháp với 100.000 nhân lực trong 20 năm như thế nào. Tuy nhiên đối với hầu hết các học giả, câu chuyện này là rất có vấn đề. Herodotus đã được thụ giáo tại các trường học Huyền bí Ai Cập, đã thề giữ bí mật về bản chất thật sự của các Kim tự tháp. · Phức hợp tang lễ gần kim tự tháp Lớn với các bản khắc chữ trích dẫn Cheops/Khufu là vị pharaông đang trị vì Ai Cập. · Trong kim tự tháp, trên một phiến đá granit ở trên trần của Phòng chính, có một số dấu sơn nhỏ viết nguệch ngoạc hơi giống với ký hiệu tượng hình của tên vua Khufu. Pharaông Khufu bản thân không để lại bất kỳ dấu hiệu nào chứng tỏ ông đã xây dựng kim tự tháp Lớn, mà chỉ từng tuyên bố đã sửa chữa xong kiến trúc này. Về bia đá “tồn kho” gần đó (có niên đại khoảng 1500 trước Công nguyên, nhưng có bằng chứng cho thấy nó được sao chép lại từ một tấm bia cũ hơn, vào thời của triều đại thứ tư), Khufu kể về những khám phá của mình khi dọn sạch cát khỏi kim tự tháp Lớn, về cống hiến của ông khi xây dựng đàn tế nữ thần Isis, và về việc ông xây dựng 3 kim tự tháp nhỏ cho bản thân, cho vợ, và con gái bên cạnh kim tự tháp Lớn. Về những vết sơn được tìm thấy trong kim tự tháp, hầu hết các chuyên gia hiện nay tin rằng chúng được làm giả bởi “người phát hiện” ra chúng là Richard Howard-Vyse, chứ không phải của những người đã xây dựng ban đầu. Howard-Vyse đã chịu áp lực khi đối thủ của ông ta, Caviglia, nhà thám hiểm người Ý, đã tìm thấy các câu chữ khắc trong một số ngôi mộ xung quanh kim tự tháp Lớn. Các nhà nghiên cứu hiện đại cho rằng, để cạnh tranh với đối thủ, Howard-Vyse đã tìm cách làm lu mờ đối thủ và tranh thủ nguồn tài trợ dành cho các dự án của mình, bằng một “khám phá” tương tự, nhưng “ngoạn mục” hơn nhiều, bằng cách giả mạo chữ khắc bên trong kim tự tháp Lớn. Nói tóm lại, thực tế không có bằng chứng nào kết nối các kim tự tháp trên cao nguyên Giza với triều đại thứ tư của người Ai Cập cả. Chúng ta hãy cùng xem xét kỹ trường hợp của Howard-Vyse, để hiểu vì sao người ta tin rằng ông ta đã giả mạo. 1. Vào thời điểm đại tá Howard-Vyse đang cố tìm kiếm các phòng ở bên trên Phòng vua, thì giấy phép khai quật mà các nhà chức trách Ai Cập trao cho ông sắp hết hạn, cũng như hỗ trợ tài chính của ông ta sắp cạn. Ông ta cần phải làm ra một phát hiện lớn càng sớm càng tốt để tiếp tục công việc của mình. Ông ta hy vọng rằng khu vực phía trên Phòng Davidson (phòng trống đầu tiên được phát hiện bởi Nathaniel Davison vào năm 1765), sẽ có một phòng lớn ẩn hoặc hầm mộ nào đó, và đã hết sức thất vọng khi chỉ phát hiện có một phòng trống khác, quá xa vời so với một “khám phá đầy kịch tính” mà ông ta cần. Chỉ hai tháng trước, đối thủ của ông ta, nhà thám hiểm người Ý là Đại úy Caviglia, đã khuấy động giới khảo cổ khi tìm thấy các dòng chữ tại mỏ đá, trong một số ngôi mộ xung quanh kim tự tháp Lớn. Những dòng chữ mỏ đá mang hình thức chữ tượng hình, được phết trên các khối xây dựng bằng sơn màu đỏ, và đã được sử dụng bởi các nhà xây dựng của Triều đại Cổ để cho biết các khối đá đó nằm ở đâu. Dấu sơn viết chữ “Khufu” do Howard-Vyse “tìm thấy”. U – F – U – KH chữ tượng hình Ai Cập đọc từ phải sang trái Một số nhà nghiên cứu hiện đại ngờ rằng, trong một cuộc cạnh tranh tài khảo cổ, Howard-Vyse đã tìm cách làm lu mờ đối thủ Caviglia và giành nguồn tài trợ, nhờ một khám phá “ngoạn mục tương tự nhưng lớn hơn,” bằng cách bắt chước những chữ khắc mỏ đá ngay bên trong Kim tự tháp Lớn. Giả mạo những chữ khắc như vậy khá dễ dàng, vì người Ả Rập vẫn còn sử dụng loại sơn son đỏ tương tự, gọi là moghrah, không thể phân biệt được niên đại. Như Perring, một người sống cùng thời Howard-Vyse, đã lưu ý rằng: “Trạng thái bảo toàn của các dấu sơn kiểu như dấu tại các mỏ đá, là rất khó phân biệt dấu vết của ngày hôm qua với một dấu vết có từ 300 năm trước.” 2. Vào ngày đầu tiên khi Howard-Vyse vào Phòng trống đầu tiên mà ông phát hiện, ông đã không có báo cáo nào về việc tìm thấy bất kỳ dòng chữ nào bên trong cả. Ông đã chỉ viết rằng nó đã từng được đóng kín, và quan sát thấy “trần nhà đã được đánh bóng đẹp mắt và có các mối nối hoàn hảo”. Như vậy sự kiểm tra của ông ta đã rất kỹ lưỡng, nhưng lại không nhìn thấy những chữ viết bằng sơn đỏ tươi sáng trên các bức tường, mà ngày nay bất cứ ai đi bên trong, cũng nhìn thấy một cách dễ dàng? Mãi đến buổi tối ngày kế tiếp, khi đám đông khách viếng thăm đầu tiên đến chỗ đó, thì các chữ tượng hình màu đỏ nguệch ngoạc mới “bất ngờ được phát hiện”. Howard-Vyse đã đặt tên cho phòng đó là “Phòng Wellington”, và ngay lập tức phát hiện hôm qua trở thành một thành công “ngoạn mục”. Phát hiện này đã dọn đường cho Howard-Vyse khám phá thêm 3 phòng trống nữa. Để chắc chắn giành được giấy phép và sự ủng hộ tài chính, các phòng này cũng đều chứa các chữ nguệch ngoạc màu đỏ như vậy, củng cố thêm cho danh tiếng của Đại tá. 3. Một câu hỏi chưa bao giờ được trả lời, là tại sao các chữ này chỉ xuất hiện trong những phòng trống mà Howard-Vyse mở ra, chứ không hề được tìm thấy trong Phòng Davison, được phát hiện trước đó vào năm 1765 bởi người khác? 4. Và tại sao, có những dòng chữ khắc như vậy ở các bức tường phía bắc, phía nam và phía tây trong các phòng này, nhưng không hề được tìm thấy trên các bức tường mà Howard-Vyse đã phá sập để lọt vào bên trong? Hoặc là các nhà xây dựng cổ đại đã vì lý do nào đó không viết nguệch ngoạc lên các bức tường mà sau này Đại tá phá xuống, hoặc chữ viết đã được làm ra sau khi đại tá vào được bên trong, và ngưòi giả mạo chỉ có thể sử dụng các bức tường vẫn còn nguyên vẹn. Tại một trong các phòng, có ai đó đã cố gắng vẽ một cái gì đó trên một phần bị phá vỡ của bức tường, nhưng nó rất thô kệch và không tương xứng với các chữ viết khác. Cố gắng đó thất bại, do vậy, không có cố gắng nào được thực hiện ở nơi khác nữa. 5. Một tác phẩm còn vụng về hơn, khi ai đó cố gắng làm cho nó xuất hiện như thể một số chữ khắc đã bị che phủ một phần bởi các khối đá nền, để làm bằng chứng rằng dấu sơn này đã được trát lên trước khi các khối đá nền được đặt vào. Nhưng các phân tích cẩn thận được thực hiện gần một thế kỷ sau cái ngày mà Howard-Vyse đột nhập vào căn phòng ấy, đã chứng minh rằng có nhiều vết sơn nhỏ trên các khối đá nền ở gần nhiều dấu chữ khắc, cho thấy nơi mà cây cọ vẽ đã vô tình quẹt qua khi ai đó đang tạo ra tác phẩm của mình. 6. Nhiều vấn đề nghiêm trọng cũng được phát hiện khi các chuyên gia ngôn ngữ cổ đại kiểm tra các dòng chữ đó sau này. Samuel Birch, một chuyên gia chữ tượng hình của Bảo tàng Anh, là một trong những người đầu tiên phân tích các hình vẽ, và đã lưu ý một số đặc điểm kỳ quặc. Sau đó các nhà Ai Cập học như Carl Richard Lepsius và Sir Flinders Petrie đã rất bối rối về các chữ khắc được tìm thấy trong các phòng trống của Howard-Vyse, vì chúng hoàn toàn không giống với bất cứ cái gì trong lịch sử 4000 năm của văn bản chữ tượng hình. Có sự nhầm lẫn đặc biệt liên quan đến nhiều biến thể của một tên gọi xuất hiện trong số những chữ khắc này, đó là “Khnum-Khuf”, “Souphis”, “Saufou”, vv… Trong khi các chuyên gia cố gắng liên kết những cái tên này với Pharaông Khufu, nhiều nhà nghiên cứu thời kỳ đầu đã không thể chắc chắn liệu đó có phải là tên hay không. Một nhà nghiên cứu lỗi lạc, Gaston Maspero, đã viết: “Sự tồn tại của nhiều vòng tròn khắc tên và tước hiệu khác nhau của Khufu trên cùng một tượng đài đã gây nhiều bối rối cho các nhà Ai Cập học.” Trong số đó có những cái tên không xuất hiện ở bất cứ đâu trong các tài liệu Ai Cập cổ đại nào cả. (Còn nữa) Kỳ sau: Với công nghệ ngày nay, chúng ta cũng không xây nổi kim tự tháp Lớn Minh Trí (tổng hợp)1 like -
Quán vắng!
+Achau+ liked a post in a topic by Thiên Sứ
Theo tôi thì nó rất logic với sự hiểu biết của họ. Nhưng nên coi đây là sự ngạo mạn vô ý thức. Đối với họ, kiến thức khoa học mà họ tiếp thu được gần như quyền năng của Thượng Đế và nó có quyền giải thích được tất cả mọi thứ trên thế gian. Nó giống như một đứa trẻ khóc và đòi bất cứ cái gì nó thích. Đứa trẻ đó tin rằng nó đòi thế là đúng. Bởi vậy, trước sự huyền vĩ của Kim Tự Tháp họ đã giải thích một cách đơn giản: "Do ngẫu nhiên, chứ làm gì thời đại đồ đồng mà văn minh như bây giờ được". Cũng như ở bãi đá cổ Sapa. Hình những cái máy bay được giải thích là: "Thằng nào mới vẽ vào đấy! Chứ làm gì mấy trăm năm trước người ta biết đến máy bay?".Đấy là sự ngạo mạn vô ý thức. Nhưng họ lại rất tin họ khiêm tốn trong cách ứng xử và họ cũng thành thực tin rằng kiến thức của họ còn nhiều điều phải học hỏi. Nhưng có điều họ cũng cho rằng những cái họ biết là chân lý và nó không thể sai.1 like -
Quán vắng!
Phan Dự liked a post in a topic by Thiên Sứ
Các kim tự tháp khắp thế giới tiền sử (Phần 2a) 1:01 AM | 24/10/2010 Các kim tự tháp Bosnia Hội nghị ICBP đề nghị các trường đại học tại Bosnia và Herzegovina thiết lập nghiên cứu ở cấp độ đại học về ngành khảo cổ học như là một cách hỗ trợ cho dự án nghiên cứu “Thung lũng các Kim tự tháp Bosnia” này. Bí ẩn các kim tự tháp Giza, Ai Cập (Phần 5) Các kim tự tháp khắp thế giới tiền sử (Phần 1) Nền văn minh nhân loại: Bóng đèn điện Ai Cập cổ đại “Ngọn đồi” kim tự tháp Mặt trời ở Bosnia Những bậc đá, bậc thang đá, phiến đá lát ngoài và tường đá đủ kích thước từ nhỏ đến khổng lồ, và các đường hầm đã được khai quật một phần. Vì thiếu kinh phí, công việc khám phá tổ hợp công trình này khá chậm chạp. Cho đến nay các nhà khảo cổ, các nhà khoa học, chuyên gia và những tình nguyện viên mới chỉ khai quật được chưa đến 1% các địa điểm này. ICBP – Hội thảo khoa học quốc tế về “Thung lũng các Kim tự tháp Bosnia” Vào ngày 30/8/2008, cuộc Hội thảo khoa học quốc tế về “Thung lũng các Kim tự tháp Bosnia” đầu tiên – gọi tắt là ICBP – đã diễn ra tại hội trường của khách sạn Grand, Sarajevo, Bosnia-Herzegovina. Các nhà khoa học và chuyên gia đến từ Ai Cập, Saudi Arabia, Trung Quốc, Nga, Ba Lan, Anh, Hungary, Áo, Croatia, Monte Negro và Bosnia Herzegovina đã tham dự. Nhiều nhà khảo cổ học, nhà địa chất, vật lý, nhà Ai Cập học, địa vật lý, hóa học, kiến trúc sư danh tiếng, và những người khác đã trình bày hàng chục giấy tờ và báo cáo. Ban đề cử bao gồm: Tiến sỹ Nabil Swelim, Tiến sỹ Merima Bojic, Tiến sỹ Ali Barakat, Tiến sỹ Mohamed El-Anbaawy và Tiến sỹ Ivan Simatovic tại Bosnia trong một chuyến khảo sát - Tiến sỹ Nabil Swelim, nhà Ai Cập học và khảo cổ học, chủ tịch ICBP - Tiến sỹ Oleg Khavroshkin, nhà địa vật lý, chủ tịch ban khoa học cho Hội nghị ICBP - Tiến sỹ Alaa Shaheen, nhà khảo cổ học, trưởng khoa Khảo cổ học thuộc Đại học Cairo - Tiến sỹ Hassan El-Saady, Sử gia, Phó trưởng khoa Nghệ thuật thuộc Đại học Alexandria - Tiến sỹ Anna Pazdur, nhà vật lý, Trung tâm GADAM, Ban đồng vị phóng xạ, Viện Vật lý và Xác định niên đại C14, Đại học kỹ thuật Silesian, Gliwice, Ba Lan - Tiến sỹ Mona Haggag, nhà khảo cổ học, thư ký của Hiệp hội Khảo cổ học tại Alexandria, Ai Cập - Tiến sỹ Ivan Šimatoviæ, chủ tịch ban tổ chức Hội nghị ICBP, Croatia - Tiến sỹ Mostafa El-Abbadi, nhà khảo cổ và sử học, Đại học Alexandria, người sáng lập của Bibliotheca Alexandrina - Chris Norman, thợ bào từ Edinburg, Vương quốc Anh - Tiến sỹ Semir Sam Osmanagić, người sáng lập “Công viên khảo cổ học: Kim tự tháp Mặt Trời Bosnia”, phó chủ tịch của ICBP - Tiến sỹ Mohamed Ibrahim Aly, nhà Ai Cập học kiêm khảo cổ học, Đại học Ein Shams, Cairo Bản phác thảo chi tiết đề xuất ngày 28/8/2008 đã được thông qua bởi tất cả những người tham gia vào ngày 29/8/2008 như sau: Kết luận / Kiến nghị Chúng tôi, những người tham gia Hội thảo khoa học quốc tế đầu tiên về “Thung lũng của các Kim tự tháp Bosnia” (ICBP 2008) kết luận: 1. Công việc tại địa điểm khảo cổ học “Thung lũng của các Kim tự tháp Bosnia” ở Visoko, Bosnia và Herzegovina, là một nghiên cứu khảo cổ – địa lý và chữ khắc quan trọng, đòi hỏi thêm nhiều nghiên cứu khoa học đa ngành để trả lời về nguồn gốc của những ngọn đồi hình kim tự tháp và các mạng lưới đường hầm dưới lòng đất Bosnia cũng như các địa điểm khảo cổ khác trong vùng lân cận; 2. Hội nghị ICBP khuyến nghị rằng Hội thảo khoa học quốc tế lần thứ hai về thung lũng Kim tự tháp Bosnia sẽ được tổ chức tại Sarajevo trong năm 2010, tập hợp các chuyên gia trong lĩnh vực nghiên cứu kim tự tháp từ khắp nơi trên thế giới; 3. Hội nghị ICBP giới thiệu sáng kiến thành lập Trung tâm nghiên cứu kim tự tháp với trụ sở chính tại Sarajevo; 4. Hội nghị ICBP đề nghị các trường đại học tại Bosnia và Herzegovina thiết lập nghiên cứu ở cấp độ đại học về ngành khảo cổ học như là một cách hỗ trợ cho dự án nghiên cứu “Thung lũng các Kim tự tháp Bosnia” này. 29/8/2008 Sarajevo, Bosnia-Herzegovina Văn bản Chương trình hội nghị (tiếng Anh) tải tại đây Một vài ý kiến của các chuyên gia Giáo sư Mohamed Ibrahim Aly, Tiến sỹ Ai Cập học đồng thời là nhà khảo cổ học, là một trong những chuyên gia hàng đầu thế giới đến từ Cairo, Ai Cập. Sau khi kiểm tra các địa điểm trong Thung lũng Kim tự tháp Bosnia, ông đã nói: “Thung lũng Kim tự tháp Bosnia là địa điểm khảo cổ quan trọng, không nên chú ý đến những người chỉ trích và những người chống đối”. “Kim tự tháp này rất lạ thường, hoàn toàn không phải do thiên nhiên tạo ra. Đừng dựa vào những ý kiến của những người chống đối! Thiên nhiên không xây dựng nên những thứ như vậy”. Nhà địa chất học, tiến sỹ Aly Barakat đến từ Cairo, Ai Cập, đã có hơn 25 năm kinh nghiệm trong lĩnh vực khảo cổ học và địa chất học của Ai Cập cổ đại, cũng đã từng nghiên cứu các kim tự tháp Ai Cập. Trong bài trình bày gửi đến các quan chức Bosnia tại Visoko, ông đã nói: “Thung lũng Kim tự tháp Bosnia có những phức hợp của các đường hầm dưới lòng đất, đó là tác phẩm của bàn tay con người”. Tiến sỹ Lamia El Hadidi, nhà khảo cổ học và nhà Ai Cập học, có 20 năm kinh nghiệm, đến từ Cairo, Ai Cập, cũng xác nhận rằng kim tự tháp Mặt Trăng là kiến trúc xây dựng do sức người tạo ra.“Đây là một địa điểm khảo cổ học, được xây dựng bởi bàn tay con người. Thiên nhiên có thể tạo ra một kiến trúc, nhưng không phải là cái này với 4 cạnh xếp đúng theo các hướng la bàn”. Tiến sỹ Robert Schoch, nhà địa chất học, Đại học Boston. “Những kiến trúc này là kiến tạo địa chất. Không đủ chứng cứ địa chất để chứng minh sự tồn tại của các kiến trúc nhân tạo”. (Schoch đưa ra nhận xét này khi việc khai quật mới chỉ sơ khai. Hiện nay có thể ông cũng nghĩ khác) Giáo sư tiến sỹ Hidajet Repovac, giáo sư môn Lịch sử Các nền văn minh Cổ đại, thuộc đại học Sarajevo, Bosnia. “Đây là một khám phá vĩ đại, rõ ràng là sản phẩm của bàn tay con người. Đây là lời chứng nhận rằng một nền văn minh vĩ đại đã từng tồn tại ở đây, nền văn minh mà chúng ta chưa hề biết đến”. Tiến sỹ Semir Sam Osmanagić (sinh ngày 1/6/1960 tại Zenica, Bosnia và Herzegovina, SFR Yugoslavia). Ông là Thạc sĩ Khoa học chính trị, Thạc sĩ Kinh tế quốc tế, Thạc sỹ Xã hội học, và là Tiến sỹ Sử học, chuyên nghiên cứu Lịch sử Các nền văn minh. Ông cũng là tác giả của nhiều cuốn sách được xuất bản tại Hoa Kỳ, Thổ Nhĩ Kỳ, Estonia, Croatia,Bosnia và Herzegovina. Tất cả các chuyến đi và việc nghiên cứu của ông đều dựa trên nguồn tài chính của công ty của riêng ông, có trụ sở tại Houston (Hoa Kỳ). Vào năm 2006, Tiến sỹ Semir Osmanagich đã sáng lập “Công viên khảo cổ học: Kim tự tháp Mặt trời của Bosnia”. Tháng 11/2009 trong khuôn khổ một chuyến viếng thăm Malaysia, Tiến sỹ Osmanagich đã có một bài phát biểu, trong đó có đoạn: “…Chúng tôi đã bỏ ra 200.000 giờ đào bới khảo cổ học, thử nghiệm các mẫu trong phòng thí nghiệm, kiểm định niên đại cacbon phóng xạ, có Hội thảo khoa học quốc tế đầu tiên về Thung lũng các Kim tự tháp của Bosnia và xuất bản biên bản Hội nghị với 50 bài báo khoa học về hiện tượng kim tự tháp Bosnia này. Những hoạt động này đang đưa chúng ta đến với 5 kết luận sau đây: 1. Kim tự tháp đầu tiên của châu Âu và thế giới đã được phát hiện, tại đất nước Bosnia nhỏ bé 2. Những kim tự tháp này là lớn nhất trên hành tinh 3. Các kim tự tháp Bosnia có lẽ là lâu đời nhất trên thế giới 4. Các khối bê tông xi măng cổ xưa nhất đã được tìm thấy trong các bức tường kim tự tháp 5. Có tồn tại các mạng lưới đường hầm rộng khắp dưới các kim tự tháp này Các kết luận này đã đòi hỏi chúng ta phải viết lại toàn bộ lịch sử châu Âu và thế giới cổ đại…” Tiến sỹ Osmanagich cũng bày tỏ muốn mời các sinh viên Malaysia và những người nhiệt huyết cùng tham gia Trại hè quốc tế cho các tình nguyện viên vào mùa hè năm 2010 tại Visoko, Bosnia. Trại hè quốc tế này đã và sẽ được tổ chức hàng năm. (Còn tiếp) Bộ ảnh, các hiện vật tìm được và các kết quả giám định C14 của các kim tự tháp Bosnia Minh Trí (tổng hợp) ===================================== Nhời bàn của Thiên Sứ Thì ra cũng không ít kẻ chống đối, tôi nghĩ chắc lại là với các lập luận quen thuộc - "Chưa đủ cơ sở khoa học"; "Cần thêm bằng chứng khoa học để xác định"; hoặc tệ hơn - "Chưa được khoa học chứng minh"; "Chưa được các nhà khoa học công nhận"...vv... Thực ra đối với cá nhân tôi, từ lâu không cần đến các bằng chứng này, tôi vẫn đủ căn cứ để xác định một nền văn minh toàn cầu từng tồn tại trên trái Đất, trên cơ sở những giá trị văn hóa phi vật thể của nền Lý học Đông phương. Và tôi cũng xác định rằng thuyết Âm Dương Ngũ hành - lý thuyết thống nhất vũ trụ - đã ra đời từ nền văn minh này. Nhưng lịch sử tiếp nối của nó bắt buộc và cần phải xác định một cách chắc chắn rằng - Nó phải từ Việt sử trải gần 5000 năm văn hiến. Còn không thì quên nhanh! Để được công nhận một nền văn minh toàn cầu đã từng tồn tại trên trái Đất với những bằng chứng vật thể rất trực quan, chắc cũng còn lâu lắm. Huống chi đòi hỏi sự công nhận một giá trị phi vật thể của nền văn minh ấy - cần một khả năng tư duy trừu tượng rất xuất sắc - thì chắc còn lâu hơn nhiều.1 like -
1 like
-
Xin nói thêm về từ ‘lang bang’. Người ta thường nói ‘lang bang’ hay kéo dài thêm thành ‘lang ba , lang bang’ có nghĩa là đi đó đi đây khắp nơi khắp chốn , sở dĩ như vậy là cụm từ này có gốc từ ‘bôn ba’ mà ra , bôn ba cũng là đi khắp đó đây nhưng khác ‘lang thang’ ở chỗ đi có mục đích rõ rệt , bôn ba còn hàm ý gian nan vất vả , khi nói nhà cách mạng bôn ba nơi hải ngoại thì ngoài ý vượt ngàn dặm đường còn ẩn chứa ý ca tụng sự hy sinh chịu đựng vượt qua gian khổ hiểm nguy để cứu dân cứu nước . Ông Lưu Bang từ khi khởi nghĩa ở núi Muang Đang và được dân chúng cử làm thủ lãnh nơi huyện Bái là bắt đầu cuộc ‘bôn ba’ ..., dân đất Phong quê nhà lại không theo ông để đến nỗi phải bỏ xứ mà đi ...đầu quân làm tướng dưới trướng Sở Hoài vương ở vùng Trường giang , bao năm đánh đông dẹp bắc với chiến công lẫy lừng là cầm quân chiếm kinh đô Hàm dương của Tần nhưng khi nhà Tần đổ do sự hiềm khích thù hằn Hạng vũ đã đày ông đến miền hãm địa là tây bắc Trung hoa ( miền đất có kinh đô của 2 nhà Chu ???), sau đó nổ ra cuộc Hán Sở tranh hùng ...lại chinh chiến từ bắc xuống nam , khi lên ngôi Hoàng đế Trung hoa rồi cũng không yên ...đánh Hung nô bị vây hãm suýt bỏ mạng ở vùng núi non Sơn tây, trong nước cũng không yên lành gì lại phải tiếp tục ‘bôn ba’ hành quân đánh Trần Hy phản loạn ....nói chung cho đến khi nhắm mắt suôi tay cuộc đời của Lưu Bang là cà 1chuỗi ngày ‘bôn ba’ vất vả . Chính từ cuộc đời của Lưu Bang mà có từ kép ‘bôn ba’. Lưu bang còn có tên là Qúy , thực ra đây không phải là tên riêng mà theo phong tục Trung hoa con trai cả gọi là thái , thứ hai gọi là trọng và thứ ba gọi là qúy , tên gọi qúy cũng giống như cách gọi ‘ thằng ba anh ba’ ở Việt nam vậy thôi . Lang là từ Việt cổ đồng nghĩa với vương với vua ngày nay , lang Ba - lang Bang nghĩa gốc chỉ là ... ông vua tên là Ba ,ông vua tên là Bang nhưng chính Cuộc đời chinh chiến khắp nơi của ‘ông Ba –Lưu bang’ đã tạo ra từ kép ‘bôn - ba’ làm nền cho cụm từ ‘lang Ba - lang Bang’ trong tiếng Việt nghĩa là đi khắp đó đây . Lưu Bang hay ông Qúy (thứ ba) sau khi lên ngôi hoàng đế Trung hoa gọi là Hiếu cao ; ‘cạo sử gia’ người Hán biến Hiếu cao thành Hán cao tổ...nghĩa là ông tổ đã tạo dựng nên Hãn quốc ; lạ là ở chỗ cả tên và tên ‘thường gọi’ trong nhà là Bang và Ba lại ‘nằm vùng’ trong dân gian Việt không biết từ thuở nào với cụm từ ‘lang Ba- lang Bang’ ? Một sự trùng hợp không hiểu nổi ... nếu lấy từ kép ‘bôn ba’ làm nền thì diễn giải ra phải là ‘lang Ba - lang Bôn’ mới đúng sao lại là ‘lang Ba - lang Bang’??? Chính việc đổi ‘Bôn’ thành ‘Bang’ này là sự kiện chứng thêm phần chắc chắn cho Sử thuyết họ Hùng khi cho Lưu Bang trong sử Trung hoa chính là Lý Bôn trong sử Việt , 2 dòng sử cùng viết về 1thời kỳ lịch sử huy hoàng của người Bách Việt , vua quan người Hán đã dùng thủ thuật ‘đổi nghĩa tráo chữ’ biến triều Hùng trịnh vương Hưng đức lang thành ‘nhà’ tây Hán ; Hưng đế thành Hán đế để tháp nối lịch sử Tây hãn quốc vào lịch sử họ HÙNG tiền nhân của người bách Việt ...tất cả những việc này là thủ đoạn lừa bịp vô cùng thâm hiểm để triệt tiêu hoàn toàn sức phản kháng của người Trung hoa-Bách Việt trước sự chiếm đóng và cai trị của giặc Hán phương bắc . Triều ‘Tây hán’ của Lưu Bang và triều ‘đại Đường’ là 2 triều đại huy hoàng bậc nhất trong lịch sử trung hoa , điều lý thú là 2 triều đại cách nhau ngàn năm định đô cùng trên một vùng đất ; sử Trung hoa viết rõ ràng : nhà Đường xây kinh đô trên nền thành cổ có tên là thành ĐẠI HƯNG ; tại sao không gọi là thành đại Hán ???...đế đô của Hưng đức lang hay Hưng đế gọi là thành đại Hưng đấy là quy luật ngôn ngữ ....; tên thành đại Hưng này đã chỉ ra điều hết sức quan trọng của lịch sử Trung hoa : Trung hoa không hề có triều đại nào gọi là Hán cả ; chỉ có thời kỳ Trung hoa bị nước Hãn hay Hán quốc của Hán tộc xâm chiếm và cai trị mà thôi . Chính sách diệt quốc diệt tộc bằng thủ đoạn ‘diệt văn hoá’ từ thời Quan vũ –Mã viện đã được bố con ông cháu Khang hy – Càn long tái dụng hết sức thành công đến độ ....ngày nay bản thân người Trung hoa đã bị tẩy não nên ‘vui vẻ’ nhận mình thuộc Hán tộc ....thực đau xót biết bao cho Hoàng đế , Nghiêu –Thuấn – Vũ .... hồn các vị chắc hơn thiêu hơn đốt khi nhìn lũ hậu nhân mãi vẫn không mở được mắt ra ; mãi còn gọi giặc là cha không biết đến bao giờ ...???1 like
-
CẢNH CHÙA TƯỢNG PHẬT TRÊN NÚI NGA MI Nga Mi sơn là một trong Tứ đại Phật giáo danh sơn. Vị Bồ Tát bảo trợ của Nga Mi sơn là Samantabhadra, trong tiếng Việt còn được gọi là Phổ Hiền bồ tát. Còn tiếp1 like
-
Tôi bình thường ít khi vào diễn đàn, nhưng thấy trường hợp này bức xúc quá nên nhảy vào. Tôi không biết chuyện của 2 bạn đã giải quyết được chưa nhưng thấy oan uổng cho 2 bạn quá, nhất là người bạn gái. Bạn gái tôi cũng sinh tháng 6/1985, tôi tháng 12/1985, ông và bố tôi cũng nghiên cứu tử vi, sách hán cổ cả đời mà không hề phản đối gì, chưa thấy tài liệu nào nói nữ sinh tháng 6 âm thì sát chồng cả. Chúng tôi còn được khuyến khích lấy nhau vì theo căn duyên tiền định thì 2 tuổi này lấy nhau rất giàu, mỗi tội hay cãi nhau thôi :). Còn vấn đề cung phi thì bạn đừng lo, nếu xem theo cung này thì chả đôi nào lấy được nhau cả. Vì có đôi cung này tốt nhưng tuổi và mệnh lại kỵ nhau, mà mệnh mới là cái gốc rễ. Theo thống kê mà tôi được biết thì xem theo cung này sai bét. Bạn không tin thì có thể đến những trung tâm uy tín nhờ được tư vấn giải thích, chứ sao lại tin mấy ông thầy bói rởm. Nói chung yêu nhau cứ lấy, có khắc gì thì cũng có cách hóa giải, huống hồ trường hợp của 2 bạn lấy nhau rất hợp, vậy không hiểu bạn hoang mang cái gì. Chúc bạn suy nghĩ sáng suốt và tìm cách khuyên giải bố mẹ bạn, tôi tin bố mẹ nào cũng thương con cái, mong con cái hạnh phúc. Bạn cứ thử đưa những điều này cho bố mẹ đọc, có thể khi bạn nói thì bố mẹ không nghe, nhưng lại rất dễ dao động khi thấy sách báo hay người khác nói. Bạn cứ in mấy trang trên này cho bố mẹ đọc xem thế nào, hy vọng mẹ bạn sẽ sớm nhận ra mình là nạn nhân của mấy ông thầy rởm. Thân.1 like
-
Nếu vậy thì sinh Quý Tỵ 2013!1 like
-
Cũng cần phải nói rõ thêm là:Quan niệm Phong thủy gồm nhiều yếu tố tương tác là của Phong Thủy Lạc Việt. Phong thủy còn lại từ cổ thư chữ Hán không nói điều này, mà nó gồm nhiều trường phái mâu thuẫn nhau. Phong thủy Lạc Việc là khái niệm xác định cội nguồn lịch sử, nguyên lý căn để và sự hiệu chỉnh một số tính ứng dụng cụ thể của môn này trong văn hóa Phương Đông. Chứ nó không thay đổi về phương pháp luận và nhiều nguyên tắc ứng dụng trong phong thủy còn lại. Nó có tác dụng tổng hợp tất cả cái gọi là "Trường phái" lưu truyền trong cổ thư chữ Hán và tạo thành một hệ thống hoàn chỉnh.1 like
-
Chào Anh Phong thủy bao gồm nhiều yếu tố tương tác và phong thủy tốt hay xấu không thể thay đổi số mệnh. Phong thủy chỉ có thể thay đổi định lượng chứ không thể thay đổi định tính của số mệnh. Hướng tốt xấu chỉ là 1 yếu tố và có thể trấn yểm. thân chào hth1 like
-
NGHIỆP CHƯỚNG
Văn Lang liked a post in a topic by Thiên Sứ
Ngày 02.01.2010 Giờ 14:00 Ngôi nhà của những người điên SGTT - Nhìn tôi, ông Trần Châu bỗng nói: “Chú bị sỏi thận và viêm họng hạt”. Tôi giật mình, cả hai chứng bệnh mà tôi phải đi xét nghiệm mới tìm ra, giờ ông Trần Châu chỉ nhìn mặt mà đoán trúng phóc! Ông Trần Châu trong giờ sinh hoạt với bệnh nhân Lời cha dặn Ông Châu nói, ông xem mạch chỉ là xem cho có, cái chính là ông đoán bệnh qua sắc mặt, ánh mắt và giọng nói của bệnh nhân. Đó là bí quyết cha ông truyền lại. Trước khi gặp ông, tôi không nghĩ rằng ông là một thầy thuốc. Chúng tôi tìm đến ông là để quay một tập phim tài liệu về cơ sở bảo trợ xã hội Trần Châu ở thôn La Vang, Ninh Sơn, Ninh Thuận, gần chân đèo Sông Pha, nơi nương tựa của hơn bảy mươi người bệnh tâm thần. Ông Châu nói, chính nghề thầy thuốc là cái duyên đưa đẩy ông gầy dựng nên cơ sở Trần Châu. Năm 1972, trong cái khốc liệt của “mùa hè đỏ lửa”, hàng trăm người ở thánh địa La Vang, Hải Đăng tìm vào vùng rừng núi Ninh Sơn khẩn hoang lập ấp, đặt tên thôn La Vang. Ông Trần Châu lúc bấy giờ là một chàng trai trẻ. Sau năm 1975, ông làm giáo viên chuyên trách xoá nạn mù chữ cho cộng đồng. Thế rồi cha ông – lương y Trần Chẩn – trước khi qua đời đã truyền nghề lại cho ông cùng lời căn dặn: “Làm thầy thuốc là để chữa bệnh cứu người, nếu con kiếm tiền bằng sinh mạng của bệnh nhân thì con sẽ tàn mạt đến đời con đời cháu”. Trần Châu lấy lời dặn của người cha làm lời thề cho cuộc hành hiệp của đời mình. Như được trời ban, vùng rừng núi Ninh Sơn có nhiều loài thảo dược chữa được các bệnh viêm xoang, bướu cổ, bại liệt, phù thận, viêm gan... ông ra công khai thác để làm thuốc chữa bệnh cứu người. Tiếng lành đồn xa, có khi hàng chục bệnh nhân từ Sài Gòn thuê xe đò tìm đến ông chữa bệnh. Dĩ nhiên là ông không lấy tiền. Nhưng nhiều người khỏi bệnh đã quay lại tạ ơn, ông từ chối thì họ bỏ lại phong bì rồi ra về. Ông không dám xài vì sợ phạm lời thề. Đến năm 1995, số tiền ơn nghĩa ấy ông đếm được 30 triệu đồng, ông mang lên uỷ ban xã Quảng Sơn, trình bày ngọn ngành và nhờ uỷ ban nhận số tiền này để giúp đỡ người nghèo. Uỷ ban xã từ chối. Ông mang về xây dựng một căn nhà làm nơi nương tựa cho những người ăn xin cơ nhỡ. Nhưng vùng núi rừng heo hút này không phải là chốn qua đường của những kiếp hành khất lang thang. Ngôi nhà ông Trần Châu dựng lên hầu như bỏ trống. Một hôm, có việc đi Phan Rang, ông gặp một người bệnh tâm thần ngồi trên góc phố, ông chở về bỏ vô ngôi nhà, cho ăn, cho mặc. “Thanh thản vô cùng” Từ ngôi nhà đầu tiên ấy, từ người điên đầu tiên ấy, đến nay cơ sở bảo trợ xã hội Trần Châu trở thành một trại tâm thần với hơn 70 người bệnh tâm thần. Hỏi ông lấy gì để nuôi họ, để cơi nới, xây dựng thêm nhà cửa, thiết bị, cơ sở vật chất cho việc ăn ở, sinh hoạt của một trại tâm thần, Trần Châu nói, đã là số kiếp thì phải chấp nhận gắn hết cuộc đời mình với nó, tánh ông xưa nay chưa biết từ chối bất kỳ một số phận nào bày ra trước mắt. Ông có vườn xoài hơn một mẫu, ông đào ao nuôi cá, xây chuồng heo để cung cấp thức ăn cho bệnh nhân. Hàng ngày, ông chạy xe đi mua gạo về bán lẻ cho bà con trong vùng. Ông còn làm nước rửa chén chở đi bán lẻ đầu làng cuối xóm, làng xóm biết ông, thương ông, mua giúp ông, cả chợ Quảng Sơn sẵn sàng cho ông nợ tiền gạo, tiền củi, tiền mắm muối khi cần. Rồi bệnh nhân gần xa cũng từ đó mà có cơ hội đền ơn đáp nghĩa, trả tiền chữa bệnh bằng cách đóng góp vào công việc của ông, các mạnh thường quân, các đoàn công tác xã hội, chính quyền địa phương chung tay với ông vì một lý lẽ đơn giản: giảm bớt người điên lang thang ngoài xã hội. Hỏi những bệnh nhân ấy đến đây bằng cách nào, ông nói có khi họ tự tìm đến, nhưng phần lớn là có người đưa đến. Họ, những người không tuổi, không tên, không biết đâu là mẹ cha, cửa nhà, quê quán. Trần Châu nói, nhiều khi ông nhìn họ và tự hỏi, tại sao họ không đến nơi khác mà lại đến với mình, vậy là do cái duyên, mà đã là duyên thì không lý do gì quay lưng với họ. Rồi ông kể, có một đứa bé khoảng mười bốn mười lăm tuổi, vừa điên, vừa điếc lại vừa câm, mỗi lần ông đi đâu về là nó mừng rỡ, ra hiệu cho mọi người và chạy đến ôm ông. Sau đó không lâu, ông phát hiện nó bị ung thư gan, ông đưa đi điều trị nhưng đã muộn. Lúc hấp hối, nó thều thào cố gọi một tiếng “Châu” rồi tắt thở. Ông đã suy sụp hết mấy tuần như mất một người thân. Khi họ đến đây, mỗi người mang một trạng thái điên loạn khác nhau, thậm chí có người phải xiềng xích và cách ly trong phòng riêng vì bấn loạn. Nhưng chẳng bao lâu thì họ hoà nhập vào một tập thể yên lành. Mỗi người dường như có một đồng hồ sinh học. Sau giờ ăn sáng, họ tự động kéo ra sân ngồi phơi nắng. Sau giờ cơm trưa, tự động về phòng nghỉ. Ba giờ chiều, lại kéo ra sinh hoạt văn nghệ; năm giờ, kéo ra sân lễ để cầu kinh. Họ chắp tay, nghiêm trang khấn nguyện, có người đọc thành lời, có người chỉ biết ê a, có người mấp máy vành môi. Nhưng trong từng ánh mắt, tất cả đều lộ vẻ trang nghiêm và hướng thiện như chưa từng điên loạn bao giờ. Trong giờ văn nghệ cũng thế, có người hát hay và hát say sưa, đầy cảm xúc, có người hát liên hoàn từ bài này sang bài khác, có người cầm micro ú ớ chẳng nên lời nhưng ánh mắt thì say sưa như diễn tả một điều gì đó. Hàng chục người ngồi dưới cũng im lặng nhìn lên như đang lắng nghe. Ông Trần Châu đứng nép một góc nhà nhìn họ, ông cười, cái cười rất lạ lùng như ông đang thưởng thức, như thấu hiểu được tiếng lòng của họ. Rồi ông quay sang nói với tôi: “Sống với những con người như thế, mình cảm thấy thanh thản vô cùng”. bài và ảnh: Võ Đắc Danh Nhời bàn của Sư Thiến: Đây mới đúng là Thánh nhân.1 like