• Thông báo

    • Bá Kiến®

      Nội quy Lý Học Plaza

      Nội quy này là bản mở rộng Nội Quy - Quy định của Diễn đàn. Khi tham gia mua bán, các thành viên phải tuân theo những quy định sau: Tiêu đề bài viết: Bao gồm: Chỉ dẫn địa lý, Loại hình Mua/Bán, Thông tin mua bán.
      Chỉ dẫn địa lý: Tỉnh/thành nơi mua bán. Hoặc sử dụng định nghĩa có sẵn:TQ: Toàn quốc
      HCM: TP Hồ Chí Minh
      HN: Hà Nội
      [*]Ví dụ: HCM - Bán Vòng tay Hổ Phách ​Nội dung bài viết: Mô tả chi tiết sản phẩm mua/bán
      Bắt buộc phải có thông tin liên lạc, giá Mua/Bán
      Bài mới đăng chỉ được phép up sau 03 ngày.
      Thời gian up bài cho phép: 01 ngày 01 lần.
      Các hành vi vi phạm nội quy này sẽ bị xóa bài hoặc khóa tài khoản mà không cần báo trước.

Leaderboard


Popular Content

Showing most liked content on 27/11/2010 in all areas

  1. ĐỘN THIÊN CƯƠNG Đây là 1 phép bấm độn của người xưa, rất hay và tiện lợi, dễ sử dụng nữa, ai cũng có thể tự xem quẻ cho mình ngay khi cần. Quẻ Dịch phải tịnh tâm, mới không luận đoán thiên lệch. Cách này thì khác, có công thức sẵn, cứ tháng ngày giờ mà tính ra, có lời bàn sẵn , tuy không đủ hết các chuyện mình cần hỏi nhưng có nó cũng tiện. Cách tính như sau : Xin xem tấm hình bàn tay đó có sẵn các vị trí Tý, Sửu , Dần , Mẹo Tháng Giêng , tháng 9 : Khởi từ Sửu. Tháng 2 , tháng 8 : Khởi từ Tý. Tháng 3 , tháng 7 : Khởi từ Hợi. Tháng 4 , tháng 6 : Khởi từ Tuất. Tháng 5 : Khởi từ Dậu. Tháng 10, tháng 12 : Khởi từ Dần. Tháng 11 : Khởi từ Mẹo. Trên tháng khởi ngày mùng 1 , tính đến ngày ta đang xem thì dừng lại. Trên cung ngày ấy khởi giờ Tý , tính đến giờ ta đang xem là giờ gì thì dừng lại. Từ cung đó lùi lại 1 cung ( thí dụ Mùi lùi lại Ngọ ; Hợi lùi lại Tuất ; Mẹo lùi lại Dần..) , bấm đó là Thiên Cương. Xem đó là cung thuộc Mạnh- Trọng-Quý , so với bảng chú giải việc ta đang xem , xem Thiên Cương gia vào cung Mạnh-Trọng-Quý đó sự việc sẽ là gì , vậy là đã xong. Thiên Cương chính là 1 trong 12 vị Đô Thiên Nguyệt Tướng trong phép chọn ngày. 12 vị đó theo thứ tự là : Thiên Cương , Thái Ất , Thắng Quang , Tiểu Cát , Truyền Tông , Tòng Khôi , Hà Khôi , Đăng Minh , Thần Hậu , Đại Cát , Công Tào , Thái Xung. Người ta dùng năm tháng để tìm ra 4 Nguyệt Tướng rơi vào Sơn nào trong PT cần tu sửa , sẽ được đại cát lợi. Có câu thế này : ""Công Tào , Truyền Tông giàu địch quốc . Thắng Quan , Thần Hậu bền trăm năm ". Cụ Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm cũng dựa vào 12 Nguyệt Tướng này soạn ra quẻ Nhâm Cầm Độn Toán , các bước trên cũng y vậy. Chỉ thêm ở bước cuối : Sau khi có vị trí cho Sao Thiên Cương thì lấn lượt gia các Sao khác vào các cung , tìm xem 3 TƯỚNG :" Đăng Minh , Thần Hậu , Đại Cát " gia vào cung nào trong 4 cung Tý , Ngọ , Mẹo , Dậu mà luận đoán quẻ vậy. Tổng cộng có 12 trường hợp. Còn MẠNH-TRỌNG-QUÝ là tính y theo M-T-Q của các tháng vậy , tức là : _ các cung Dần , Thân ,Tị ,Hợi là MẠNH _ các cung Tý , Ngọ , Mẹo , Dậu là TRỌNG _ các cung Thìn , Tuất , Sửu , Mùi là QUÝ. VÍ DỤ 1 : Xem quẻ Cầu tài , lúc ngày mùng 8 , tháng 5 , giờ Mẹo. * Trước tiên ta tra xem tháng 5 ở cung nào ,thấy ở cung Dậu. * Từ cung Dậu ta tính là mùng 1 , cung Tuất mùng 2 , cung Hợi mùng 3 , cung Tý mùng 4 , cung Sửu mùng 5 , cung Dần mùng 6 , cung Mẹo mùng 7 , cung Thìn mùng 8. Đây là ngày ta đang xem nên dừng lại. * Từ cung Thìn này ta cho nó là giờ Tý , tính tiếp cung Tị giờ Sửu , cung Ngọ giờ Dần , cung Mùi giờ Mẹo. Đây là giờ ta đang xem quẻ nên dừng lại. * Từ cung này lùi lại 1 vị là Thiên Cương , vậy cung Mùi lùi ngược lại là Ngọ , Thiên Cương ở Ngọ. * Ta thấy Thiên Cương gia Ngọ là gia Trọng , xem ở quẻ cầu tài Thiên Cương gia Trọng cầu tài được không , đó là quẻ ta cần tìm vậy. VÍ DỤ 2 : Xem quẻ bệnh nặng nhẹ , tháng 11 , ngày 14 , giờ Tuất. * Trước tiên xem bảng trên thấy tháng 11 ở cung Mẹo. * Tại cung Mẹo khởi mùng 1 , cung Thìn là mùng 2 , cung Tị là mùng 3 , cung Ngọ là mùng 4.....cung Mẹo là ngày 13 , cung Thìn là ngày 14. * Tại cung Thìn ta khởi giờ Tý , cung Tị giờ Sửu , cung Ngọ giờ Dần , cung Mùi giờ Mẹo , cung Thân giờ Thìn...cung Dần giờ Tuất. * Tại cung Dần lùi lại 1 cung là cung Sửu , tức Thiên Cương ở cung Sửu ,là gia Quý. * Xem bài giải ở quẻ bệnh nặng nhẹ , xem Thiên Cương gia Quý là sao , đó là quẻ ta cần tìm vậy. CẦU TÀI : Thiên Cương gia Mạnh cầu nan đắc Gia Mạnh cầu đắc dã tu trì Gia Quý chi thời cầu lập đắc Tài hướng Đông lai cánh vô nghi ==> Mạnh thì khó được , Trọng thì được nhưng chậm , Quý thì có ngay Tài từ hướng Đông đưa đến. XUẤT HÀNH CÁT HUNG : Thiên Cương gia Mạnh đại cát xương Gia Trọng xuất hành vi họa ương Gia Quý chi thời đa bình ổn Quân lưu y thử định hà phương ==>Mạnh là rất tốt;Trọng thì không nên,đi ra e có tai họa đến thân ;Quý bình an HÀNH NHÂN : Thiên Cương gia Mạnh thân bất động Gia Trọng chi thời bán lộ lai Gia Quý chi thời tức cánh chí Quân hành tu ký thử tam thời. ==>Mạnh thì người chưa đi ; Trọng thì người đã đi được nửa đường ; Quý thì người sắp đến nơi , chừng khoảng 3 canh giờ thì đến. GIAO DỊCH : Thiên cương gia Mạnh ứng bất toại Gia Trọng chi thời ứng thành khả mưu Gia Quý chi thời khả toại ý Trở trệ ứng vô mạc tu sầu. ==>Mạnh thì không được ;Trọng thì có thể ứng thành ;Quý thì toại ý , lúc đầu có trắc trở , đình trệ xin chớ lo , mọi việc trước trì trệ sau hanh thông QUAN SỰ : Nhược vấn quan sự cát dữ hung Gia Mạnh vô lý nhi hòa bình Gia Trọng tha thâu thử tiếu bĩ Quý thượng yêm lưu ngã tất doanh. ==> Mạnh e không thể an bình ; Trọng thì đắc lợi ; Quý thời thắng kiện , đắc lý BỆNH KHINH TRỌNG : Thiên Cương gia Mạnh nhân bệnh trọng Gia Trọng bệnh khinh bất dụng sầu Gia Quý chi thời nan đắc hảo Cấp nghi nhương tạ tảo đồ mưu ==> Mạnh thì bệnh nặng ; Trọng thì bệnh nhẹ , không cần sầu lo ; Quý thì không tốt , phải mau cúng vái cầu xin mới mong qua khỏi. MÃI MẠI : Kinh doanh lợi ích hữu kiêm vô Gia Mạnh nan cầu ý bất như Gia Trọng bình bình , Quý mãn ý Quân năng y thử định vô nghi. ==> Mạnh thì không như ý , Trọng thì buôn bán bình thường , Quý thì buôn may bán đắt. SANH SẢN NAM NỮ CÁT HUNG : Thiên Cương gia Mạnh thị nam tử Gia Trọng nữ nhơn định thị nghi Gia Quý chi thời sản phụ tử Cấp nghi tác Phúc đắc an ninh. ==> Mạnh thì là sanh trai , Trọng thì sanh nữ , Quý thì người mẹ nguy hiểm , phải mau làm Phúc mới mong cứu được. ĐÓA TỊ THỊ PHI : Hồi tị chi nhân thị dữ phi Mạnh Đông vi cát , Trọng nghi Tây An chi Đông Bắc gia chi Quý Thử thị thần tiên diệu tích ky ==> Mạnh thì tránh về hướng Đông , Trọng thì tránh về hướng Tây , Quý thì tránh về Đông Bắc. Đây là phép tìm phương tránh những chuyện thị phi ngày xưa vậy. NCD chỉ biên ra đây , còn ngày nay gặp chuyện chúng ta cần đương đầu tìm cách giải quyết , khác với xưa vậy. từ: psy-che.com
    1 like
  2. Trung hoa Ngũ hành ...sử. Trích Sử ký chương Tần thủy hoàng bản kỷ : ....”Thủy Hoàng xét việc năm đức lần lượt thay đổi nhau nên cho nhà Chu được “hỏa đức” nhà Tần thay đức nhà Chu thì phải theo cái đức mà “hỏa” không thắng được. Từ này là “thủy đức” bắt đầu: đổi đầu năm, việc triều cống, chúc mừng đều bắt đầu từ mồng một tháng 10. Áo, quần, cờ tiết, cờ mao đen, lấy số 6 làm đơn vị, các phù và các mũ đều dài sáu tấc, trục xe sáu thước, sáu thước làm một bộ, đi xe sáu ngựa, đổi tên sông Hoàng Hà là đức Thủy vì cho rằng “thủy đức” bắt đầu. Cai trị thì cứng rắn nghiêm nghị, gay gắt, sâu sắc, mọi việc đều dùng pháp luật để quyết định, khắc bạc, không dùng nhân đức, ân nghĩa. Có thế mới hợp với con số năm đức”.... Những dòng trên cho thấy người Tần đã dùng dịch học để thể hiện các đặc tính của triều đại mình , 5 đức họ nói đến chính là Ngũ hành được vận dụng vào nhiều lãnh vực : - hành Thủy , phương nước tức phương đối lập với hành hỏa phương lửa ở Xích đạo . - màu đen đối với màu đỏ . - mùa đông đối mùa Hạ . - số 6 và 7 là 2 số đối trong Hà thư (đồ) theo trục bắc –nam , số 8 - 9 là trục đông –tây. Trong phần trích trên duy có thông tin nhà Chu đức Hỏa là sai với ngũ hành sở dĩ có sự lầm lẫn này vì âm ‘Chu’ cũng nghĩa là màu đỏ như vậy là thuộc hành ‘Hỏa’ , chính xác phải gọi là nhà Châu nghĩa là sáng như trong châu - ngọc vậy , nhà Châu ở phương tây , ông Cơ xương là Tây bá hầu ; tây biến âm của tư - tứ cũng nghĩa là sáng láng , nhiều thông tin lịch sử khác liên quan tới phương tây đều hàm ý sự sáng như Hạo , Chiêu , Bạch, bạc .v.v.. Sở dĩ vậy vì trong ngũ sắc thì phương tây là màu Trắng . Rất có thể là 3 triều đại đầu của vương quốc Trung hoa không hề xưng danh , bản thân triều đại nào cũng chỉ xưng là ‘vua’ mà thôi ; các danh xưng Hạ Thương Chu là do những nhà viết sử đặt ra vì không định danh thì làm sao phân biệt và kết nối thành lịch sử . Vua tổ nhà Hạ gọi là ông vũ hay đại vũ . Vua khai sáng nhà Thương xưng là võ vương . Vua lập nên nhà Chu lại cũng là vũ vương . Vũ - võ chỉ là 1 và ‘vũ’ chính là ký âm từ ‘vua’ của Việt ngữ , việc thêm chữ vương nghĩa là vua vào sau chữ vũ cũng là vua chỉ ra : sử gia đã không xử lý chính xác các thông tin tư liệu , bản thân chẳng hiểu nghĩa từ ‘vũ’ là gì nên đã biến 1 danh từ chung chỉ thủ lãnh thành tên riêng của thủ lãnh ...; phải chăng đây là sự cố như bao sự cố dở khóc dở cười khác xảy ra khi chuyển thông tin từ kiểu chữ ‘đại triện’ sang kiểu chữ ‘tiểu triện’ ở thời Tần ? Trong Lịch sử Trung hoa Không phải chỉ riêng nhà Tần được biểu hiện bằng những tính chất của Ngũ hành mà toàn thể lịch sử cổ đại đều như thế , tên gọi của cả 3 triều đại Hạ Thương Chu đều là những thuộc tính của ngũ hành : Tóm lược những đặc tính của ngũ hành thể hiện trong các lãnh vực : Trước hết xin lưu ý là hành Kim và Thổ đã bị người Tàu hoán đổi vị trí , chi tiết xin đọc Dịch học họ Hùng nhưng để dễ dàng tiếp nhận cho người đọc ở đây vẫn dùng hệ ngũ hành đang biết : - hành Thổ (Dịch học Tàu ) : Trung tâm , không mùa , màu vàng , quân thiên , số Hà thư là 5-10 . - hành Mộc : Phương đông , mùa xuân ,màu xanh , thanh thiên , số Hà thư :3 – 8 . - hành Hỏa : Phương nam ngày nay (xích đạo ) ,mùa hạ , màu đỏ , Viêm thiên ,số Hà thư : 2-7 . - hành Kim ( Dịch học Tàu ): Phương Tây , mùa thu , màu trắng , Hạo thiên , số Hà Thư : 4 – 9 . - hành thủy : Phương bắc ngày nay , mùa đông , màu đen , Huyền thiên , số Hà Thư : 1 – 6 . Nhà Tần thuộc hành thủy đã qúa rõ vì Sử ký đã chép đầy đủ những thuộc tính như màu đen , mùa đông số chủ đạo là số 6 ...ngoài ra dựa vào Ngũ hành do bản thân tên gọi các triều đại còn có thể đễ dàng nhận ra: - Nhà Hạ thuộc hành Hoả : mùa hạ , hướng Xích đạo nhiệt đới , màu đỏ hay Đào Hồng , ,Viêm thiên , số HT: 2 - 7. Thần bản mệnh là Hoả thần Chúc Dung .v.v... - Nhà Thương hành Mộc : màu xanh hay thanh - thương , muà xuân , phương đông , , Thanh thiên , số HT : 3 – 8 . - Nhà Châu (sáng) hành Kim (DH Tàu) : màu trắng - sáng , Hạo thiên ( vùng trời sáng), mùa thu , phương tây ( tư- tứ : sáng ), số HT 4 – 9 . Sử gia thời cổ Trung hoa đã dựa vào Nền tảng ngũ hành , căn cứ vào chính vị trí địa lý miền đất trung tâm của triều đại đó mà tạo ra tên gọi các triều đại ...nên chỉ với thông tin : nhà Tần đức thủy màu đen cũng đã đủ để khẳng định thời tiên Tần lãnh thổ Trung hoa không thể nào nằm ở bắc Hoàng hà được . Các vùng của mặt phẳng phân theo Ngũ hành : Lưu ý : Lãnh thổ Trung hoa nằm trọn ở bắc bán cầu . Vẽ theo quy tắc bản đồ hiện nay Ứng dụng nguyên tắc ‘mặt phẳng ngũ hành ‘ vào thực địa Trung hoa : Nước Cao dịch sang Hán văn là Sùng là tên nước vua Thành Thang tổ nhà Thương phong cho con thứ của mình , chính vì điều này mà người Canh còn có tên là người Keo ... ; chùa Keo ở Hà nội có tên chữ là Sùng Nghiêm .( xin được bàn chi tiết ở 1 bài khác )Ngoài những thông tin mang tính cơ bản trên còn rất nhiều thông tin khác hỗ trợ cho luận thuyết lịch sử ‘ngũ hành ‘ này tiêu biểu như : - thủ đô thứ 3 của nhà Hạ là Dương thành..., Dương thành nay còn sờ sờ ở Quảng châu sao không thấy nhà sử học nào để ý tới ???, đất Cối kê quay ra Nam hải nơi thờ Hạ vũ cũng vẫn còn đứng đó sao không ai đến vùng núi này tìm bản văn mà Tần thủy hoàng đã khắc ?. - Tư liệu lịch sử nói rõ Vùng Giang tây xưa là lãnh thổ của Từ quốc , ‘Từ’ chỉ là tên dịch sang Hán văn chữ ‘Thương’ của Việt ngữ mà thôi nên chính xác nước ở đây là Thương quốc nước ở phía đông ...ấm ớ ‘từ’ biến thành ‘tây’ như trong giang tây thì chỉ có trời mới hiểu ... - Qúy châu âm Hán Việt phát âm đúng ‘tiếng Tàu’ là Cùi Chu hay Kỳ Chu...đó là tên chính xác của đất tổ nhà Chu , dòng Châu giang vẫn lượn lờ bấy lâu không đủ làm bằng chứng cho sự tồn tại của ‘Trung hoa’ thời nhà Chu hay sao ? - Tứ xuyên , Thục xuyên hay Xuyên thục và Tần xuyên chỉ là 1đất , tứ thục tần – tốn chỉ có nghĩa là phía tây , xuyên là sông chỉ phương nam ,đất tây nam này nơi vua Chu phong cho họ Đinh là cố tổ của Tần thủy hoàng ...., liên quan đến vua Chu và nhà Tần nhiều tư liệu nói đến việc vua Chu ban cho tần vương 1 chiếc trống đồng...hỏi vua Chu nếu ở Thiểm tây thì làm gì có trống đồng mà ban với tặng ? Tóm lại còn rất rất nhiều thông tin liên quan đến “Tứ đại ” Trung hoa nếu đem so chiếu với Ngũ hành thì không còn cách nào khác là ....bắt buộc phải xem xét lại toàn bộ lịch sử từ thượng cổ tới ngày nay . Trước đây người viết bài này đã có lúc nghĩ .... phải viết lại 1 lịch sử khác cho Trung hoa nhưng nay ...thấy không cần như thế mà điều cần là phài ‘hiểu’ lại , hiểu cho đúng những gì đã có sẵn trong sách sử là đủ ./.
    1 like
  3. QN có câu chuyện này muốn kể cho MY MY nghe không biết MY MY có muốn nghe không? vì câu chuyện này trong là chuyện trong nhà QN - Khi Chúng tôi mới lớn lên trong cái thời còn bao cấp cái thời đầy rẫy những khó khăn nhà nhà lo ăn từng bữa, nhà tôi cũng thế mẹ và chi gái tôi (chị sinh năm 64) phải nai lưng ra làm mà nhà vẫn không đủ ăn.... nhưng chuyện tôi muốn kể về người bác dâu của tôi. Bác là người giỏi( sau này tôi mới nhận thấy) bác chắt chiu kham khổ, cái thời mà chúng tôi chịu đói bác đã biết kiếm tiền và dành tiền mua vàng, nhưng sự kham khổ và yêu cầu khắt khe của bác bấy giờ làm chúng tôi không thể chịu nổi. Các anh chị nhà bác bấy giờ đều là Thanh niên sức dài vai rộng mà bữa bác chỉ cho ăn rất ít lại còn độn đủ thứ và phải làm quần quật.. sau này anh con út vì thế đang học dở lớp 10 mà gia nhập quân đội giờ anh đã là Đại tá và sắp về hưu.. Thời ấy bác biết kiếm đựoc miếng cơm manh áo là khó khăn nên bác dạy anh em chúng tôi tuyệt đối tiết kiệm, chắt chiu, sáng dậy sớm đêm ngủ muộn ra sức mà làm.. ngay cả đến các chi dâu gặp bác như gặp ác sát tinh. Nên các anh các chị chúng tôi đều cảm thấy bác khó gần và có phần lập dị, Bác trai tôi đi thoát ly nhưng bác ít về hoạc có về chỉ chốc lát còn nếu ở nhà một ngày thì 2 bác có một trận cãi nhau 2 ngày thì 2 trận. Bác trai không chịu được cảnh kham khổ và lắm điều của bác gái, là ông phải thế này ông phải thế kia... hoặc như ông hàng xóm...rằng thức khuya dậy sớm.. dần dần bác gái bị đẩy vào thế cô đơn.. không phải mọi người xa lánh bác mà mọi người không thể ngồi nghe những nguyên tắc áp đặt của bác cho tất cả mọi ngừoi và yêu cầu quá cao của bác...Có lẽ những năm 45 đói quá mà làm cho bác tôi sợ mà phải tích cóp tích lũy,..đến thập kỷ 80 mà bác vẫn còn sợ chăng? Nhưng bác càng khắt khe bao nhiêu thì anh em chúng tôi càng làm ngược lại bấy nhiêu điển hình là thằng cháu tôi nó lấy vợ (sinh năm 78) bác tôi còn đuổi cả vợ nó ra vì cái tội ...gì gì đó . Nhưng nó cứ lấy và vẫn cưới như thường ( chúng tôi còn trêu nó nghe bà là mày ế vợ đó) Sau này những lúc vui vẻ tôi thường hay trêu bác là theo bác thì trong làng mình ai là người bác duyệt , Bác lắc đầu không có một ai...Bây giờ bác không còn nữa thỉnh thoảng aCec chúng tôi vẫn ngồi nói chuyện về bác và kết luận. Ý của bác là rất tốt bác muốn dạy chúng tôi đi đến sự hoàn hảo. Bác muốn chúng tôi mở mặt mở mày với xung quanh. Bác muốn chúng tôi không phải lo ăn từng bữa như những gì bác đã phải nếm trải.Bác muốn chúng tôi đựoc học hành...VV nhưng chỉ vì những yêu cầu của bác cao quá không phải ai cũng theo được .hoặc giả là như bấy giờ chúng tôi cũng cố tình không hiểu vì ACE chúng tôi cũng có những tính toán cho riêng mình .
    1 like
  4. Ah.....Ờ..........khơ.....khờ......có cô bé ngồi chải tóc bên chú mèo mà ngỡ như là Ông.....
    1 like
  5. 1 like
  6. Ngày xưa ông Thi Sách chắc phải vô cùng quật cường, và .... thì Trưng nữ vương của chúng ta mới chịu làm vợ nhỉ...Chồng của bà Nguyễn Thị Định hay bà Trương Mỹ Hoa chắc phải giỏi hơn bà rất nhiều thì mới lấy được bà sao.... Lưỡng hổ đồng cư lâm .. là chuyện sẽ xảy ra với bạn> " Đằng sau người đàn ông thành đạt thấp thoáng bóng người phụ nữ....Đằng sau người phụ nữ thành đạt là cái bóng của người đó...)
    1 like
  7. 1 like
  8. Đừng trói buột mình vào ý nghĩ cô đơn thì sẽ không cô đơn. Đừng nghĩ những người đã bỏ chạy, những người đang lững lơ con cá vàng là cụt đầu hay cao đầu, vì họ thiếu tự tin để được cao đầu hay bị cụt đầu.Hehe :lol:
    1 like
  9. Hay! quynhnguyen binladen chí ný! Không có người đờn ông cao đầu, chỉ sợ có người phụ nĩ cứ mãi ngóc đầu. Không có người đờn ông cụt đầu, chỉ sợ không có người phụ nĩ không biết cúi đầu. Hehe
    1 like
  10. kINH DOANH KIỂU ĐỊA ỐC, HAY CÁC HÀNG GẠCH , GỐM , VẬT LIỆU XÂY DỰNG
    1 like
  11. Trời và đất xưa nay chưa bao giờ hoàn hảo cả, vì vậy dương cực thịnh thì sinh âm mà âm cực thịnh thì sinh dương. Quy luật tất yếu của cuộc sống,MYMY đang tìm cái tuyệt đối trong vô vàn cái tương đối, Mình đang ở hệ quy chiếu này thì hãy chấp nhận hệ quy chiếu này là cái tuyệt đối, và hãy chọn cho mình một cái tương đối nhất, không thể tìm cái tuyệt đối vì nếu tìm được thì mọi người đã tìm trước rồi MYMY ạ. Cai mà gọi là tự tin vào bản thân mình cũng như thế nếu tự tin quá mình thành một người độc đoán, kiêu căng và bảo thủ còn khi mình không tự tin chắc chắn lắm vào mình thì mình cần sự giúp đỡ cần lắng nghe ý kiến người khác ( Đay là sự cầu thị). Vì vậy mới cần lên diễn đàn mà nhờ tư vấn. Đôi khi sự đánh giá cao giá trị bản thân cũng rất tốt tránh cho ta sự tự ti với cuộc sống với cộng đồng nhưng khi đánh giá ta quá cao, thì chỉ còn là cái "tôi" đơn độc mà chưa chắc trong mắt người khác ta đã vượt qua ngọn cỏ, Tôi nói như thế là tôi không đánh giá thấp phụ nữ, thậm chí tôi đánh giá rất cao phụ nữ VN (Trưng Vương, Triệu bà Vương, chưa kể hàng ngàn tấm gương phụ nữ khác...)Ngay như chị Út tịch đánh giặc giỏi.... vẫn có một người chồng và mấy đứa con và chị vẫn chăm lo cho GĐ của mình như những người phụ nữ khác mà đau cần chồng chị phải hơn chị về mọi mặt.!
    1 like
  12. Quả thật là khi xem lá số 3 chị em mới thấy rõ hơn. cả 3 anh chị em khó mà giúp nhau được vậy nên QN nói bạn không nhờ được ACE là đúng. Chị gái là người có số đào hoa, tính tình năng nổ ( NAm tính) làm ra tiền nhưng cuộc sống không mấy hạnh phúc, chồng là trưởng hoặc đoạt trưởng, Chị có tài tổ chức nhất là công việc gia đình hay đứng ra gánh vác, chị có thể làm kinh doanh hoặc buôn bán thì được. Em- Số thằng này lận đận trong tuổi 30 về trước làm bao nhiêu tiêu bấy nhiêu thậm chí còn âm, đoạt chức trưởng của anh, công việc họ hàng nó chu đáo hơn cậu nhiều, nó lo cho bố mẹ hơn cậu lo cho bố mẹ, số khắc vợ không bền vững. sống hơi co mình thậm chí là ít bạn bè người thân, tính tình hay thay đổi , chân tay xương khớp có thể hay bị đau, tính tình nóng nảy ngang tàng tiền của nếu không có người giữ cho rồi cũng tiêu tán. Bố mẹ bạn sẽ yêu thàng này hơn và chăm chút cho nó hơn
    1 like
  13. :lol: :D :P :( Cuối cùng là bạn muốn xem bao nhiêu số? Ở trên anh Thiên Đồng đã trả lời rồi!
    1 like
  14. 1 like
  15. 1 like
  16. Sinh rạng sáng hay buổi trưa? với lá số trên thì không thể nghèo được!!! Nếu sinh rạng sáng thì lúc lấy lá số phải là 0:15
    1 like
  17. @Phù cơ Tạo (Hay!) Giớ Tính : NAM 21h 31/12/1983 DL tức 28/11/1983 Quý hợi SDT 1 : 091808.3663, "Thuận dã", tùy cơ mà ứng biến. Phù hợp cho kinh doanh, rất mạo hiểm, đầu cơ. Dùng chừng một năm hay 8 tháng thấy khó khăn thì bỏ. Lợi lúc đầu cũng có. SDT 2 : 0773.50.0099, bỏ không dùng, chỉ nói chuyện tào lao rách việc. Hỏi : cho cháu xin hỏi cháu muốn dùng 02 số DT trên dể có thể kinh doanh hay k ? cháu chuẩn bị đầu năm sau kình doanh về thiết bị viển thông máy tính . Được. nam sau tốt. Phát dương quang đại. Cháu xin cảm ơn Hong có chi. Thiên Đồng @ NHT, Ngày sinh 24/11/77 Giới tính Nam Nghề liên quan Tài chính đầu tư Số 0904945464, Chịu thiệt một chút mà có lợi, hanh thông. Đầu tư tiền tệ lớn, thu lợi vừa vừa. Tùy tâm nếu thấy đủ thì đủ. Tình cảm cũng thú vị, thi vị. Nhưng tình hay lợi thì cũng phải dừng đúng lúc, nếu không thì có "hối hận". Thiên Đồng
    1 like
  18. Giờ Ngọ, 22/10: Mong mọi ng xem giúp em thêm 1 quẻ về học hành sắp tới được ko ạ? Tử - Tiểu Cát: Tử Kim khắc Tiểu Cát Mộc. Hoàn cảnh không thuận lợi. Thiệt hại nhỏ. Chủ tình cảm suy. cần phải chú ý cái j ạ? Cần chú ý học hành chăm chỉ, học tập miệt mài, giữ vững ý chí, rèn luyện cho mình khả năng thật tốt, tinh thần thật vững, sau đó đợi thời vận tốt đẹp tới thì phất lên :lol: Vài hàng chia sẻ :D
    1 like
  19. Ngành cơ khí, nếu ở trong quân đội thì càng tốt, cơ khí sửa chữa chế tạo máy... hoặc thiết kế nói chung là mang tính chất sáng tạo, và có sự cần cù
    1 like
  20. @ Canhcut, - Giới tính : Nữ - Sinh 6h sáng ngày 24/11/1990 ( dương lịch) - Em muốn nhờ các anh chị tư vấn về chuyện học hành, công việc, tình duyên và sức khoẻ ạ? có cần cẩn thận điều gì không? E xin chân thành cảm ơn ạ - SĐT 1: 0934.613.858, học rất khá nhưng tất bật, dễ đau bao tử hay rối loạn tiêu hóa, tình cảm luôn thi vị và mới mẻ, Coi chừng mắt yếu loạn thị. - SĐT 2: 0973.387.942, số này thì tám chuyện hao tiền, dễ xì troét, học hành lơ đãng, công việc tệ lậu, sức khỏe sụt sùi biếng ăn. Cẩn thận bị lừa tình. @ Nòng Nọc, - Số dt 2: 09 09 02 07 04 Vô phúc tìm ra... 07...04...Vô bại...Vô tử...Khakha. Tức là vô cửa bại vô cửa tử. Phải chầu chực quỳ lụy, ôm cục tức vào mình, mất bò mất chuồng, vừa khóc vừa cám ơn. Hic. Nhà của đĩa bay, sấm động, có nhạc Rap Rock Hiphop liên tục mà ca sĩ chính là "em nhà". Thình thương mến thương...còn bộ xương. Hehe. Bằng hữu như cái ban, bạn bè toàn đạo chích. - Số dt 3: 09 08 11 09 72 cũng như số trên hà. Nhưng trước khi vô cửa tử thì được vài em chân dài đứng trước cửa, ban cho nụ hôn ân huệ thắm thiết. Trước khi có Rap rock Hiphop thì nghe cải lương mùi mẫn rồi "tân cổ giao thoa". Hehe. Ly kỳ hấp dẫn hơn nhìu... @ ChienLau, Nam (11h45 ngày 4/5/1986 Dương Lịch) Số phone: 0986 085 349, Công việc thấy đổi khác, có tiểu lợi, có thăng quan, nhưng càng về lâu khoản từ 6 tháng đến 1 năm sẽ thấy khó khăn. Cưa mấy em suông sẻ, về sau tự dưng thấy chán. Số này dùng cần phải như mì, nhẫn nhịn, ý tứ thì dài lâu. Thiên Đồng
    1 like
  21. Ngâm cứu ở đây nha bạn : http://www.lyhocdongphuong.org.vn/diendan/...t=0&start=0
    1 like
  22. Theo lá số của MyMy thì số MY lấy chồng xa chồng là người rất xứng đôi, vừa lứa nhưng có điều là có xung khắc, lưỡng hổ cư lâm mà thôi , không sao 2012 không cưới thì 2014 cưới thôi
    1 like
  23. 1 like
  24. sang năm có khả năng thay đổi về công việc hoặc chx ở tuy nhiên hao tiền của và đôi khi chịu tiếng miệng lưỡi thế gian, Xe cộ cẩn thận kẻo bị mất cắp , đi lại chú trọng chân tay kẻo ngã ngụi mà khổ đến người thân, tránh những chỗ rượu chè cờ bạc, tránh nơi tụ tập đánh nhau.
    1 like
  25. Ậy ậy ... bác quynhnguyen binladen nói zậy không đúng òi. Mấy thằng Tây nó cũng không hơn đờn ông Việt Việt Nam ta đâu. Chẳng qua thằng tây nó dài hơn một khúc và to hơn một tí về...hình thể mà thôi. Hehe :lol: MyMy nầy cải số thì nên đi...tập thể dục. Đẹp mà không khỏe thì cũng khó có chồng hà. Thiên Đồng
    1 like
  26. Mắt thu ba đường tình sóng gió. Răng trâu cày hiền tính dễ thương. Lại thêm tình cảm vấn vương Trung niên cẩn thận tai ương rập rình
    1 like
  27. Tết ta Tiếng Việt thuộc hệ ngữ Nam Á, nhánh Môn - Khơ Me. Hàng vạn năm trước, ngôn ngữ Nam Á là một ngôn ngữ thống nhất của chủng Indonesian trên tiểu lục địa Trung - Ấn trong đó có bán đảo Đông Dương. Khảo cổ và nghiên cứu nhân chủng học cho thấy đây là cư dân bản địa của nền văn minh Đông Nam Á cổ, nền văn minh nông nghiệp sớm nhất của nhân loại.Từ đó họ thiên cư “50 con theo mẹ đi lên núi, 50 con theo cha đi xuống biển” khai phá nông nghiệp vùng lục địa Trường Giang, Hoàng Hà (Trung Quốc ngày nay) và vùng đảo Indonexia, Đài Loan, Nhật Bản và các đảo Thái Bình Dương. Ngôn ngữ Nam Á thống nhất ấy lúc đầu là ngôn ngữ đa âm tiết không có thanh điệu. Dần dần chủng tộc Indonesien này phát triển thành nhiều dân tộc, và ngôn ngữ cũng phát triển theo nhiều xu hướng khác nhau, một số đã theo xu hướng đơn âm hóa đương nhiên nảy sinh thanh điệu, như ở tiếng Việt thành ra có 6 thanh điệu, ở tiếng Thái thành ra có 5 thanh điệu, ở tiếng Hoa thành ra có 4 thanh điệu trong tiếng phổ thông Trung Quốc ngày nay còn ở tiếng địa phương như Đài Loan lại có 8 thanh điệu. Căn cứ để xác định ngôn ngữ có cùng gốc là: qui luật kết cấu ngữ pháp, cách phát âm, sự gần gũi của các từ cơ bản. Ví dụ từ cơ bản tiếng Việt so với từ đồng nghĩa của các sắc tộc khác (trong ngoặc đơn) sẽ thấy rõ cùng cội nguồn: Nước = Đắc (Ba Na) = Lạc (Việt cổ vùng Hoa Nam) = Nác (Việt ở Trung Bộ ) = Nậm (Tày) = Nam (Thái Lan); Sông = Krông (BaNa) = Krong (Chăm) = Không (Mường) = Khoỏng (Thái Lan) = Giang (Hoa) = Sônggai (Mã Lai)= Sông ngòi (Việt); Cá = Kaa (XêĐăng )= Pá (Thái) = Ká (Mạ) = Cả (Mường ) = Aka (Mã Lai) = Xacana (Nhật Bản) = Kán (Chăm - đây chính là gốc các từ Cần, Cờn, Quèn, Còng chỉ địa danh như Cần Giờ, Cần Thơ ở Nam Bộ, cửa Cờn ở Nghệ An, lạch Quèn, chợ Còng ở Thanh Hóa, là các cửa sông, bến cá); Con = Kon (Mạ) = Cón (Mường) = Koon (Ba Na) = Kooon (Xê Đăng) = Kodomo (Nhật Bản) = Côn (Khơ Me) = Coong (Việt ở Nam Bộ); Ruồi = Rooi (Ba Na) = Ròi (Việt ở Nghệ An) = Rhai (Mạ) = Ruuêi (Mường) = Ruy (Khơ Me); Ngày = Ngai (Mường) = Thngay (Khơ Me) = Haai (Xê Đăng) = Tngay (Môn ở Mianma); Mặt Trăng = Mạt Tlăng (Ba Na) = Maht Kăn (Mạ) = Blaăng (Chăm) = Bulăng (Mã Lai) = Đoong Chăn (Lào); Trái cây = Trấy (Việt ở Trung Bộ) = Plây (Ba Na, Xê Đăng) = Blái (Mạ); Chim = Chim (Mạ, Xê Đăng) = Sêêm (Ba Na) = Tiêm ( Khơ Mú ở Tây Bắc – từ Tiêm này sau sinh ra từ Tiên trong chữ nho để thần tượng hóa người biết bay lên trời thành Tiên, tục thờ chim Hạc = chim Lạc đưa hồn người lên trời) = Cầm (Việt cổ ở Hoa Nam – người Hán phiên âm là “Sín” nhưng chỉ dùng để chỉ giống chim nuôi trong nông nghiệp dịch từ “chim nhà” gọi ngược là “gia cầm”, đủ thấy nghề này là từ phương Nam truyền lên, chim trời họ gọi là con “nẻo” tức “điểu” chứ không hề có từ “gia điểu”). Học giả Haudricourt nghiên cứu ngôn ngữ Việt (năm 1953,1954) chỉ ra một trong các đặc điểm tạo từ của tiếng Việt là tạo thêm từ bằng phụ tố như kiểu: Giết - chết, cọc - nọc, kẹp - nẹp. Điều này quá rõ, nếu trích dẫn các từ cùng gốc như vậy ra thì nhiều vô cùng. Vì cái logic ấy cho nên con Ròi thì con của nó phải là con Dòi, con Cóc thì con của nó phải là con Nòng-Nọc, con Ong thì con của nó phải là con Nhộng, con Người hay con Ngài thì con của nó phải là Hài do lớn lên từ cái Thai (mà Hán ngữ mượn dùng từ Hài phải nói là “hài tử” hay “hài nhi” hay “hài đồng” thì mới thành nghĩa “con”), Con Người còn có cái để thể hiện linh khí của nó ra ngoài là Con Ngươi của mắt. Trong thiên nhiên thuở hồng hoang thì con Người cũng như các động vật khác chỉ là con Mồi, chỉ khác là biết đứng thẳng, nên chữ nho viết là chữ Mùi hoàn toàn biểu ý bằng chữ nhân 人 ghép với chữ lập 立 nghĩa là đứng, thành chữ Mùi 位 sau đọc là Vị 位 (Hán ngữ phiên âm là “wei”), các Người = các Ngài = các Vị. Nhưng cái “phụ tố” mà học giả Haudricourt nêu mới chỉ là nói phần âm vận ở cuối chữ tạo nên cái âm lõi như “ết”, “ọc”, “ẹp” ở trên v.v. Người Việt còn cách tạo từ cực kỳ quan trọng, có thể tạo ra hàng vạn vạn từ đơn âm tiết có nghĩa, bằng cách Vo các từ đa âm tiết của ngôn ngữ Nam Á trong cái Vỏ đựng, như cái Vò hình cầu là biểu tượng Âm Dương của người Lạc Việt, như cái Vũ của vũ trụ hình cầu chứa đựng tất cả, để từ ấy rụng đầu rụng đuôi đi rồi còn mỗi lõi giữa là một âm tiết có kèm thêm thanh điệu. Ví dụ từ “O-NA-DI” của tiếng Nhật nghĩa là “giống”, khi bị vo tròn nhưng chưa dứt hẳn nó đã bị rụng mất đầu “O” và đuôi “DI” đi, còn lõi giữa là “NA” nhưng chưa sạch hẳn nên nó thành từ dính, tức láy là hai âm tiết dính nhau không thể đảo ngược, là “NA-NÁ” nghĩa là “hơi giống”. Nhưng cũng có lúc do vo mạnh tay hơn nhưng lại vo không đều tức không tròn trịa nên nó bị rụng mất “O” và “NA” ở đầu đi, còn lại mỗi “DI” ở cuối kèm theo vài mảnh vụn bám vào nên nó thành có đuôi và có thanh điệu thành từ “DỐNG” mà đa số phát âm là “GIỐNG” nên chính tả chấp nhận là “GIỐNG”. Như vậy ở tiếng Nhật chỉ có mỗi “O-NA-DI” nhưng ở tiếng Việt có “NA-NÁ” và “GIỐNG” mang hai sắc thái khác nhau của cùng một nghĩa. Ai có lý giải nào khác về nguồn gốc hai từ này, tôi xin được tham khảo. Việc “vo” này xảy ra hàng sáu bảy ngàn năm trước rồi chứ không phải trong thời cận đại đâu. Lại còn nhờ qui tắc chia đôi Âm Dương một tiếng đơn âm thành từ láy dính hai âm tiết mà trong cách tạo từ của tiếng Việt còn có vai trò của một “phụ tố “ nữa là: cùng phụ âm đầu. Ví dụ từ “Lộ” nghĩa là con đường đi, do có qui tắc phụ tố là cùng phụ âm đầu mà nó đã cho ra biết bao từ trong tiếng Việt cùng gốc phụ âm “lờ” đầu với nó để chỉ các loại đường đi và các cách đi khác nhau: LỐI là đường đi nhỏ trong xóm làng; LỘI là đi bằng chân, lội bộ = đi bộ; LOẠNG-CHOẠNG là đi như muốn ngã; LÁCH, LUỒN, LẺN, LẤN là những cách đi có tính toán; LÙA là xua bầy gia súc gia cầm đi; LEN- LỎI là vừa đi vừa tìm đường; LEN trâu là vừa lùa trâu đi vừa tìm đường trong nước lụt (phim “Mùa len trâu”); LỎI là tìm đường ngoi lên cho hơn người, “sao mày lỏi thế hả đồ khôn lỏi!”; LƯỚT là đi nhanh bằng thuyền; LƯỢT (rượt) là chạy nhanh để đuổi ; LÓN-LÉN (rón-rén) là đi nhẹ tránh phát hiện; LÁI là điều khiển cho phương tiện đi; LEO là đi lên độ cao ( Người Hán dùng từ “lộ” của chữ nho 路 chỉ con đường, nhưng trong tiếng Hán không thấy từ nào khác cùng phụ âm đầu là “lờ” với nó mà có cùng khái niệm đường đi hoặc cách đi cả, có lẽ vì dân trên đồng cỏ mênh mông bằng phẳng chẳng cần phải có đường,chỉ có dân rừng nhiệt đới mới phải len lỏi tìm lộ để đi thành đường mòn. Vậy chữ nho LỘ 路 này nguyên gốc là từ đâu? chữ này có phần biểu ý là bộ túc 足 tức chân đi, và phần biểu âm là chữ các 各, đáng lý phải đọc là Lạc, hiểu ý là “cách đi của Lạc dân”, có phải do người Việt là dân sông nước nên phương tiện đi lại chủ yếu là bằng thuyền trên Nác hay Lạc?). Còn một qui tắc tạo từ nữa trong tiếng Việt là qui tắc “lướt”, từ ghép hay cả câu dài đều có thể lướt thành một âm tiết, như: “hai mươi” = “hăm”; “ba mươi” = “băm”; “TRái cÂY” dân miền Trung lướt thành “TRẤY”, “Hỏi gì đẤY?” lướt thành “HẤY?”; đi “té re” là nói chung đi lỏng, nhưng trẻ sơ sinh “đi Té re làm ƯỚT cả tã do nó không thể tự kềm chế được” người ta lướt thành “đi TƯỚT”, chỉ dùng cho trẻ sơ sinh mà thôi; “THỢ tay nghề cao có thể dũa Lưỡi cưa cho sắc và đúng góc độ như mỚI” gọi lướt là “THỢ LỠI”; “HỖN hợp LẮM thứ BA lăng nhĂNG” lướt thành từ “HẰM BÀ LẰNG”; “tự ĐI du lịch PHóng khoáng VƯỢT qua mọi trở ngại thiên nhiên và chối bỏ sự gò bó của tua truyền thống” gọi lướt thành từ “ĐI PHƯỢT” (từ mới của dân teen trên mạng đã được phương tiện thông tin đại chúng sử dụng) v.v.Qui luật lướt này cũng là đã có từ nhiều ngàn năm trước rồi. Cụ thể là học giả Hứa Thận thời Đông Hán đã sử dụng qui tắc này để “thiết” tự làm nên cuốn sách công cụ dạy cách đọc chữ nho cho đúng âm, mỗi chữ nho được “thiết” bằng hai chữ nho khác (tức đọc lướt hai chữ nho khác) cho ra âm đúng của chữ cần đọc, đó là cuốn “Thuyết văn giải tự” (nhưng mà khi đọc thì phải đọc đúng như âm Việt của người Việt đọc chữ nho thì mới thấy đúng, chứ nếu đọc theo phiên âm latin như tiếng phổ thông Trung Quốc tức “Hán ngữ hiện đại” thì lại trật, thời Đông Hán ông Hứa Thận viết cuốn này để giải nghĩa hàng vạn chữ kèm cách đọc, chưa có biết đến chữ phiên âm latin). Vài ví dụ như sau: (phiên âm latin của Hán ngữ viết trong ngoặc đơn, dấu “ = ” là để thay cho chữ “lướt thành” TÚC 足 (zú) nghĩa là cái chân , đọcTỨC 即 NGỌC 即 = TÚC ( jí yù = jù ; jù trật zú) HÀNH 行 (xíng) nghĩa là làm, đọc HỘ 戶 CANH 庚 = HÀNH (hù geng = heng, trật xíng) CẬN 近 ( jìn) nghĩa là gần, đọc CỪ 渠 LÂN 遴 = CẬN ( qú lín = qín; qín trật jìn) ĐẬU 逗 (dòu) nghĩa là dừng, đọc ĐIỀN 田 HẦU 侯 = ĐẬU (tián hòu = tòu, tòu trật dòu) VẬN 運 (yùn) nghĩa là chở, đọc VƯƠNG 王 VẤN 問 = VẬN (wáng wèn = wén, trật yùn) NGỘ 遇 ( yù) nghĩa là gặp, đọc NGƯU 牛 CỤ 具 = NGỤ ( níu jù = nù; nù trật yù) TẠO 造 (zào) nghĩa là chế, đọc THẤT 七 ĐÁO 到 = TẠO ( qi dào = qiào; qiào trật zào) QUÁ 過 (guò) nghĩa là qua, đọc CỔ 古 HÒA 禾 = QUA ( gu hé = gé; gé trật guò) TIỀN 前 (qián) nghĩa là trước, đọc TẠC 昨 TIÊN 先 = TIỀN (zuó xian = zan; zán trật qián) CÁC 各 (gè) nghĩa là nhiều, đọc CỔ 古 LẠC 洛 = CÁC ( gu luò = guò; guò trật gè) KHIẾU 叫 (jiào) ,nghĩa là kêu, đọc CỔ 古 ĐIỀU 伄 = KHIẾU ( gu diào = giào, trật jiào) DUY 唯 ( wei) nghĩa là dạ vâng, đọc DĨ 以 THỦY 水 = DUY ( yi shui = yui; yui trật wei) TRIẾT 哲 ( zhé) nghĩa là biết, đọc TRẮC 陟 LIỆT 列 = TRIẾT( zhì liè = zhiè; zhiè trật zhé) NGƯU 牛( níu) nghĩa là trâu, đọc NGỮ 語 CẦU 求 = NGƯU ( yu qíu = yiu; yiu trật níu) NGỮ CẦU = NGẦU (tiếng Quảng Đông) = TRÂU (tiếng Việt) = TRU (tiếng Việt ở Nghệ An) = TLU( tiếng Mường) TIẾN 薦 (jiàn) nghĩa là cử, đọc TẠI 在 ĐIỆN 甸 = TIẾN (zài diàn = ziàn; ziàn trật jiàn) LẠC 落( luò) nghĩa là rớt, đọc LÔ 盧 CÁC 各 = LẠC ( lú gè = lè; lè trật luò) DÂN 珉( mín) nghĩa là cái đẹp của đá, đọc VŨ 武 CÂN 巾 = VÂN ( wu jin = win, trật mín) HÀ瑕 ( xía) nghĩa là đá giống ngọc, đọc HỒ 胡 QUẢI 拐 = CUỘI ( hú guai = huai trật xía) GIAM 瑊 ( jian) nghĩa là đá đẹp như ngọc, đọc CỔ 古 HÀM 函 = CƯỜM ( gu hán = gán; trật jian) - Trang sức như vòng đeo tay hay khuyên đeo tai bằng cuội hay cườm có ở di chỉ khảo cổ văn hóa Sa Huỳnh miền Trung Việt Nam. THỤY 瑞 ( rùi) là ngọc làm tin, đọc THỊ 是 NGỤY 偽 = THỤY ( shì wei = shei; trật rùi) VƯƠNG 王 ( wáng) nghĩa là vua , đọc VŨ 雨 PHƯƠNG 方 = VƯƠNG ( yu fang=yang; trật wáng) VINH 榮 ( róng) nghĩa là vẻ vang, đọc VI 為 MỊNH 命 = VINH ( wéi ming = wing; wing trật róng) PHÚC 福 ( fù) nghĩa là được phù hộ, đọc PHƯƠNG 方 LỤC 六 = PHÚC ( fang lìu = fìu; trật fù) THẦN 神 ( shén) nghĩa là thần, đọc THỰC 食 LÂN 遴 = THẦN (shí lín = shín ; trật shén) BÍ 秘 (mì) nghĩa là thần bí, đọc BINH 兵 MI 媚 = BÍ ( bing méi = béi; béi trật mì). VIỆT 越 (yuè) nghĩa là vượt qua (nguyên văn: độ dã), đọc VƯƠNG 王 PHẠT 伐 = VIỆT(wáng fá = wá; wá trật yuè). Có lẽ phần “giải tự” chữ Việt này của ông Hứa Thận là chính xác nhất về nguồn gốc từ “Việt” xuất hiện từ khi nào trong lịch sử. Hán thư thì viết rằng từ “Việt” xuất hiện vào thời Xuân Thu. Theo “giải tự” ở đây thì VIỆT= VƯƠNG PHẠT tức “ông vua đi chinh phạt” thì phải có sớm hơn rất nhiều, đó là sự kiện nổi tiếng lịch sử cổ đại là vụ vua Chu Văn Vương tức ông Tây Bá Cơ Xương vượt sông đi bắc phạt tiêu diệt vua Trụ nhà Thương, có lẽ từ đó người ta mới gọi quân của “ Vương Phạt” là quân “Việt”, trước đó thì họ chỉ gọi là dân Lạc của Lạc Quốc mà thôi. Qua đó bạn đọc tự thấy là chữ nho và cách đọc nó đúng như Trung Hoa đọc thời thượng cổ là đã truyền từ Nam lên Bắc hay nó đã đi từ Bắc xuống Nam? Người quan tộc đọc không nổi chữ nho nên thầy Hứa Thận mới phải soạn ra sách “Thuyết văn giải tự” là cuốn sách công cụ để dạy cho họ cách đọc chữ nho cho đúng âm điệu của nó. Qui tắc lướt để tạo từ như nêu ở trên, và thời cổ đại đã được Hứa Thận vận dụng để dạy cách đọc chữ nho , cho ta thấy là chữ QUỐC là hậu duệ trực hệ của chữ NƯỚC. Hán thư viết thời Tam Hoàng Ngũ Đế thì dân sống theo “thủy” (ý nói dòng chảy, con nước) nên lấy tên “thủy” đó làm tên xứ sở và làm họ. Vậy mà cho đến tận bây giờ cũng chỉ còn có mỗi dân tộc Việt là duy nhất trên thế giới này gọi xứ sở mình là “nước”, vậy họ có phải chính là hậu duệ đích tôn của Tam Hoàng Ngũ Đế ấy hay không?. Con nước nơi quần cư, thời cổ đại dân Việt gọi là Nác hay Lạc mà Hán phải gọi là Lạc Thủy. Nhiều Nác nhỏ hợp lại thì thành một nền hành chính lớn cấp trên là “Nác Của Nác”. Chữ “Của Nác” ấy đọc lướt theo qui tắc tạo từ của tiếng Việt thì thành Quốc. Của Nác = Quốc( cụ Hồ còn ký là Nguyễn Ái Quấc), nên “Nác Của Nác” thành “Nác Quốc” mà chữ nho viết là Lạc Quốc. Chữ “Của” thì trong tiếng Quảng Đông là “Cơ”, Của Nác họ đọc là Cơ Lạc nên lướt thành Coọc. Chữ nho Quốc 國 là một vuông nghĩa là “ Vùng”, bên trong có chữ "Hoặc 或 ” là âm lướt của hai chữ “Họ Lạc” (" Hoặc" = "Họ Lạc" ), ghép bằng chữ Qua 戈 là cái qua đồng của người Lạc Việt. Hán thư viết, dân thời Tam Hoàng Ngũ Đế sống theo “thủy” lấy “thủy” làm họ, vậy “Họ Lạc” tức dân Lạc lấy Lạc làm họ đó thôi. Chữ Chu 周được ông Hứa Thận thời Đông Hán “giải tự” nghĩa là Mật tức đông đúc, nên Chu Văn Vương 周 文 王 nghĩa là Vua Vùng Đông Đúc, vì chữ Văn 文 tiếng Quảng Đông đọc là Mảnh cũng có nghĩa là Vuông tức Vùng, là một diện tích, như từ Mảnh Ruộng trong tiếng Việt, mà về hìnhchữ Văn 文 thì nó có vạch chéo là cái đường chéo tượng trưng cho hình vuông, cũng có nghĩa là Giao, chữ Giao 交 cũng có hình chéo, tức vùng Giữa, là nơi giao lưu của mọi miền, Chỗ Giữa đọc ngược lại theo cú pháp Hán là Giao Chỉ. Chu Văn Vương tức vua vùng đông đúc mà thôi, chứ không phải ông ấy họ Chu, mà ông ấy lại là họ Cơ 姬, gốc từ vùng sông Cả, tên ông ấy là Cơ Xương姬 昌, được phong đất vùng Tây Bá tức vùng núi đá phía tây ( theo như tiếng Choang “bá” nghĩa là “núi đá” mà ngày nay khai quật được di chỉ trống đồng ở núi Ba Thị tức “núi đá gốc” theo tiếng Choang, nay gọi là Đại Minh sơn ở Quảng Tây, là đất tổ của người Choang, hậu duệ của người Tày cổ tức dân Lạc Việt). Tây Bá tức vùng Qúi Châu và Quảng Tây ngày nay, sau khi được phong đất Tây Bá thì ông Cơ Xương được gọi là Tây Bá Cơ Xương. Chữ 國 ấy người Việt Nam đọc là Quốc, người Quảng Đông đọc là Coọc. Quốc Vương là Vua của Nước, vì “Quốc” = “Của Nước” mà trong chữ Quốc ấy còn rõ cả Họ Lạc và cái qua đồng của dân Lạc Việt thì rõ ràng không phải là ta đi mượn của “từ Hán Việt” nào cả, như các nhà hàn lâm vẫn nói. Cái từ “Nác của Nác” hay Nác Nác = Lạc Quốc còn hiện diện ở miền Trung Việt Nam trong từ Đắc Lắc, nơi các sắc tộc vẫn còn có cây Nêu trong ngày hội như ở người Kinh có cây Nêu trong ngày Tết, Đắc nghĩa là nước, Lắc cũng nghĩa là Nước, cái “hồ Lắc” là miệng núi lửa xưa ở đó có nghĩa là “hồ Nước”, Đắc Lắc cũng có nghĩa là một Nác Nác = một Lạc Quốc vậy. Ở đó cư dân vẫn còn ở nhà sàn tre mái cong như nhà sàn tre mái cong của người Việt xưa hay ở các vùng khác của Đông Nam Á, mà kiểu nhà ấy tiếng Mã Lai và Indonexia gọi là “Tangga”, tiếng Chăm gọi là “Thanggiơ” đều có nghĩa là “bước lên Thang mới vào được Nhà”, mà từ “Thang” thì có nghĩa là “cái để leo” của tiếng Việt, còn từ “Thoòng” của tiếng Hoa nghĩa là “cái nhà” mà chữ nho viết là chữ Đường 堂 trong “từ đường” là cái “nhà thờ”. Ngôn ngữ và văn hóa từ thời thượng cổ đã từ phương Nam mà đi lên phương Bắc là như vậy. Cái mái cong bằng tre của nhà rông ấy hiện diện ở khắp Hoa Nam là mái ngói cong, còn lên phía Bắc là mái bầu chóp tròn như cái nậm rượu hồ lô, dư ấn của cái lều vải úp của dân du mục đồng cỏ. Từ qui tắc lướt để tạo từ của tiếng Việt, ta còn thấy nguồn gốc rặc Việt của từ TẾT. Các nhà hàn lâm ở Hà Nội thì giải thích rằng “Tết ta là ăn tết theo tết Tàu, theo lịch Tàu; người Tàu gọi cái lễ đón năm mới ấy là Xuân Tiết, ta mới gọi tắt một tiếng là Tiết rồi đọc chệch đi thành Tết ” (?). Nhưng chính các nhà hàn lâm ấy khi gọi tắt thì vẫn theo qui luật là gọi bằng tiếng đầu bỏ tiếng đuôi, ví dụ đi vô xứ Nghệ An thì nói tắt là đi vô xứ Nghệ chứ không nói là đi vô xứ An, đi vô xứ Quảng Ngãi thì nói tắt là đi vô xứ Quảng chứ không nói là đi vô xứ Ngãi. Ấy vậy mà Xuân Tiết lại không gọi tắt là Xuân mà lại gọi tắt là Tiết kể cũng tài (?). Làm tội các cháu khi du học bên Tây, nghỉ ngày Tết âm lịch, các bạn Tây hỏi ồ sao chúng mày cũng đón Chinese New Year à ? thì không biết trả lời như thế nào. Tục Tết là từ ta đi lên hay từ Tàu đi xuống?. Nguyên thủy nó là từ Té , là té nước trong lễ hội cầu mưa của cư dân nông nghiệp Nam Á, nghi lễ cầu trời gọi là Tế, chữ nho viết là Tế 祭. Lễ lớn nhất trong năm là lễ cúng lúc đón giao thừa kết thúc năm cũ sang năm mới gọi là Tế Hết Năm (Tàu gọi là Quá Niên , cũng còn gọi là Tất Niên là hoàn tất một năm cũ). Do qui luật lướt nên “Tế Hết Năm” đã lướt thành “Tết Năm” (Tế Hết = Tết), cái từ Tết Năm ấy gọi tắt thì theo qui luật lấy tiếng đầu là Tết chứ không lấy tiếng cuối là Năm. Đó là sự hình thành chính xác nhất từ Tết trong ngôn ngữ Việt bắt nguồn từ phong tục cổ xưa nhất của người Việt từ thời Thần Nông cách nay hàng vạn năm. (Tết bắt nguồn từ lễ hội Té nước, nước té rồi thì nó ngã rạp xuống đất, nên người phương nam còn gọi ngã là Té nhưng nó bao hàm cả rớt xuống nước, bởi dân sông nước thì ngã chỉ có nghĩa là rớt xuống nước tức Té, về sau từ Té dùng chung cho cả trên cạn nên ngã xe máy cũng gọi là Té xe máy). Chuẩn bị cho Tết nhất định phải có cây Nêu, là cây tre dựng đứng mà từ thời cổ đại tổ tiên ta đã dùng đo bóng nắng mặt trời để tính ra lịch nông nghiệp gọi là âm lịch, nên cây Nêu phải dựng ngoài sân tức ngoài trời để thờ Trời, tức cây trụ của từ Trụ nghĩa là thời gian trong từ ghép Vũ Trụ, mà Vũ có nghĩa là không gian lại là do từ Vỏ, là cái vỏ mênh mông chứa đựng và vo tròn tất cả . Nội dung Tết Việt là phải đủ như câu: “Thịt mỡ, dưa hành, câu đối đỏ; Cây nêu, tràng pháo, bánh chưng xanh”, trong đó thấy đủ cả Âm Dương Ngũ Hành, nông nghiệp, công nghiệp và văn học. Tục cây Nêu ngày nay vẫn tồn tại trong các lễ hội và trong Tết. Ở thành phố nhà không có sân để dựng cây Nêu thì người ta đành dựng bên lễ cúng là cây mía còn nguyên cả ngọn tượng trưng cho cây Nêu, vì nó cũng nhiều đốt như cây tre vậy. Trên cây Nêu treo các thứ tượng trưng cho mong ước tốt đẹp, nên từ Nêu là ý đẹp, nêu gương tốt. Nhưng trong đời sống cũng có khi bắt buộc phải nêu gương xấu để răn đe. Cái cây Bắt (phải) Nêu ấy lướt thành cây Bêu, như cây treo con bù nhìn xấu xí để đe chim khỏi phá hạt mới gieo ở ngoài đồng, gọi là cây Bêu. Cũng có khi chẳng phải ý đẹp hay ý xấu mà vẫn buộc phải Bắt Nêu thì người ta đã lướt thành cây Bẹo, đó là cây tre dựng treo các loại trái cây và hàng hóa mẫu để “quảng cáo tiếp thị” gọi là cây Bẹo trên mỗi thuyền bán hàng của chợ nổi vùng sông nước miền tây Nam Bộ. Cây Nêu đã từ Tết đi vào cuộc sống bình thường của người dân. Tìm khắp đất Hoa Bắc chẳng có tục cây nêu từ thượng cổ đến nay mà học giả nước ta lại dám bảo là Tết ta là do từ bên Tàu kể cũng lạ.
    1 like
  28. Qua bài viết trên đăng tải trên Thanh Niên Online, có thể nói: Kết quả cuối cùng trong việc đi tìm "Hạt của Chúa" đã thất bại. Nếu muốn tiếp tục đi tìm Hạt của Chúa thì phải làm một máy gia tốc lớn hơn và ....tiếp tục thất bại. Việc hai máy gia tốc - một ở Hoa Kỳ, một ở Châu Âu - với nhiệt độ tạo ra khác nhau, chênh nhau vài ngàn tỷ độ, nhưng có cùng một kết quả, đã cho thấy không thể tìm được Hạt của Chúa với tốc độ lớn hơn. Họ quá mất thì giờ. Tôi giữ lời hứa về việc giải thích nguyên nhân thất bại và ngạc nhiên của họ. Và tôi chờ đợi một sự đề nghị giải thích chính thức từ phía họ.
    1 like
  29. Thưa chị, Số này có cách xuất ngoại được, năm nay dự định đi nhưng bất thành, sang năm thì khả năng đi cao hơn, nhưng dễ gặp họa mất/hao tiền. Số này gặp cách thăng trầm lắm. Đường chồng con thì không xấu. Năm 26 và 29 tuổi ta dễ lập gia đình nhất. Công việc thì nên làm về lĩnh vực đầu tư tài chính hoặc ngân hàng thì tốt. Hoặc liên quan tới quản lý công sản. Huyencodieuly
    1 like
  30. Thưa chị, Năm Canh Dần của chị toàn những việc xảy ra ngoài dự liệu thôi, nên tốt nhất là việc đến đâu làm đến đó chứ lực chưa mạnh mà toan tính lớn là không xong đâu. Đến giờ tôi mới trả lời chị thì e rằng có khi nhà chị đã có tin vui rồi, năm sau được cách nhất hô bá ứng :D. Việc con cái là đại sự, nếu phải hi sinh việc khác chắc cũng xứng đáng. Chúc chị thành công. Huyencodieuly
    1 like
  31. Sau chuyến viếng thăm của gia đình HC đã có hình ảnh. Để so sánh Sư Thầy từ những ngày đầu tiên Đoàn từ thiện đến thăm khi chưa can thiệp Phong thủy. Và sau khi Sp cùng ACE đến áp dụng Phong Thủy, thời gian chưa đầy 3 tháng, tình trạng sức khỏe của sư Thầy như hình ảnh dưới đây.
    1 like
  32. Bố của Rin86 có người bạn hay mặc áo đen, vì lúc ấy bố của Rin86 chỉ mới biết đến tử vi kiểu Trung Quốc nên thấy lạ bèn hỏi "ông mệnh hoả sao hay mặc áo đen?", người ấy trả lời theo tử vi Ấn Độ thì thuỷ hoả sẽ đổi chỗ cho nhau và ở Ấn Độ cũng có khoa phong thuỷ gọi là Vaastu Shastra, Rin86 thấy rất lạ nên tìm bài viết này và post lên đây để mọi người cùng bàn luận. ========================================= Thuật phong thuỷ Ấn Độ Thuật phong thuỷ Ấn Độ (Vaastu Shastra) rất coi trọng yếu tố địa lý với những nét đặc trưng của nó, bởi vì Ấn Độ là một đất nước vô cùng rộng lớn với nhiều miền khí hậu và nhiều múi giờ khác nhau. Giờ mặt trời lặn ở khu vực phía Đông và khu vực phía Tây của Ấn Độ (vùng Rajasthan) chênh nhau 2 tiếng. Theo thuật Phong thuỷ Ấn Độ thì tại những vùng thuộc chân núi Himalaya, người ta sẽ xây bếp theo hướng Tây Nam và tại bang Uttar Pradesh, bếp sẽ được xây theo hướng Đông Nam. Tại bang Kerala, bếp nên xây theo hướng Đông Bắc. Ở những khu vực khác nhau, sẽ có những hướng khác nhau tuỳ theo điều kiện khí hậu và địa lý. Theo kinh Vệ Đà thì mỗi hình thái vật chất của vũ trụ đều là năng lượng. Trái đất là một tập hợp các sự sống gồm những hạt vật chất rất nhỏ. Nếu chúng ta sống hoà hợp với tự nhiên, cả tâm hồn lẫn cơ thể của chúng ta sẽ được bảo vệ, không gian kiến trúc có quan hệ chặt chẽ với tâm linh của mỗi con người. Trái đất là một phần của vũ trụ. Toàn bộ vũ trụ bị kiểm soát bởi một nguồn năng lượng và nguồn năng lượng này hiện hữu trong tất cả tiểu vật chất của vũ trụ. Nguồn năng lượng này sẽ sản sinh ra những ion âm và có tác động tích cực đến tất cả sự sống. Những ion âm này sẽ làm tăng khả năng miễn dịch, nâng cao sức khoẻ và mang lại hạnh phúc cho những người sống tại không gian kiến trúc đó. Do vậy, đây chính là nguồn năng lượng quan trọng của con người. Cơ thể con người liên quan mật thiết với các kênh của vũ trụ cũng như các kênh của trái đất. Điện năng của cơ thể con người cao hơn điện năng của trái đất một chút, do vậy nếu như điện năng của trái đất tăng lên sẽ có ảnh hưởng không tốt đến cơ thể con người. Khi chúng ta có năng lượng dương, chúng ta sẽ có sự cân bằng về mặt tinh thần và sẽ có sức khoẻ tốt. Tất cả mọi thay đổi, cho dù là thay đổi về vật chất hay tinh thần đều có liên quan đến sự thay đổi về không gian kiến trúc. Năm nguyên tố cơ bản là: bầu trời, không khí, nước, lửa và đất. Mỗi một nguyên tố này có tác động trực tiếp đến sức mạnh tự nhiên. Sức mạnh tự nhiên và năm nguyên tố cơ bản liên kết với nhau như sau: bầu trời - năng lượng vũ trụ, không khí - hướng gió và độ mạnh của gió, nước - lực hấp dẫn của trái đất, lửa - ánh nắng mặt trời và sức nóng, trái đất - năng lượng địa lý. Những sức mạnh này quyết định hành động của con người và những hiện tượng như nhìn, chạm, sờ mó, nghe, hít thở, thu nhận ôxy, không khí và năng lượng để vận hành quá trình tư duy. Thuật phong thuỷ Vaastu nghiên cứu tất cả những nguyên tố cơ bản này. Từ trước đến nay, con người cho rằng có tám hướng. Nhưng Vaastu cho rằng có tất cả 10 hướng, trong đó bao gồm cả 4 hướng trên la bàn (Bắc, Nam, Đông, Tây) và 4 hướng bổ trợ (Đông Bắc, Tây Bắc, Đông Nam và Tây Nam). Bầu trời (Aakash) là hướng thứ 9 và Pataal (trái đất) là hướng thứ 10. Năng lượng vũ trụ được biểu thị bằng hướng của bầu trời, hướng thứ 9. Trên thực tế, khi những tia nắng mặt trời và những tia năng lượng chỉ có trong vòng 12 tiếng trong một ngày nắng thì những tia năng lượng vũ trụ lại có suốt cả ngày lẫn đêm. Hơn nữa, những tia năng lượng có thể xuyên qua bề mặt trái đất. Do vậy, khi xây nhà hướng của bầu trời là vô cùng quan trọng. Màu sắc cũng vô cùng quan trọng trong việc thiết kế một ngôi nhà. Nó có tác động đến bộ não và cơ thể con người. Màu đen, đỏ kết hợp với màu xanh da trời mang lại sự cân bằng. Màu tím biểu tượng cho phẩm hạnh, màu xanh lá cây là màu của tự nhiên, màu vàng là của ánh sáng mặt trời. Màu hồng là màu của hưng phấn. Theo thuật phong thuỷ Ấn Độ thì màu sắc có thể kích thích khẩu vị của con người và làm giảm huyết áp cao. Màu đỏ nên được dùng nhiều vì nó là màu của lửa và rất thích hợp với những người biếng ăn, màu đỏ sẽ làm cho họ có cảm giác muốn ăn uống nhiều hơn. Ngược lại màu xanh da trời lại giúp chúng ta giảm bớt thói quen ăn uống quá độ. Đối với những người bị huyết áp cao, màu thích hợp nhất là màu trắng và những gam màu nhẹ. Màu xanh lá cây là màu của sự phục hồi, vì thế nên dùng trong các phòng phẫu thuật. Nếu bạn muốn ăn ngon miệng hơn, bạn nên sơn tường nhà màu vàng hoặc nâu nhạt. (Sưu tầm) http://www.zerofirst.com.vn/zf/module/prin...ws&langid=1
    1 like
  33. Ở đây: http://www.lyhocdongphuong.org.vn/diendan/...?showtopic=6873
    1 like
  34. Phong Thủy Lạc Việt và Nhà Thờ Thiên Đồng. Ghi lại sau một Phong thủy giúp cho nhà thờ T vào những ngày cuối năm Kỷ Sữu 23 tháng chạp năm Kỷ Sữu Câu chuyện có nguyên do từ bốn tháng trước, đồng môn Phongphongthay than với tôi rằng con của anh đi học ở nhà trẻ nhưng sức khỏe của bé cũng như những trẻ khác đều không được tốt và anh cảm giác có sự khác lạ gì đó ở tại Trường mẩu giáo X về mặt phong thủy. Vốn cũng thường gặp gỡ cô hiệu trưởng trường nên anh cũng đề cập về chuyện phong thủy. Cô M, hiệu trưởng trường, tỏ vẻ quan tâm và cho biết mặc dù cô là người đạo Công Giáo nhưng vẫn tin phong thủy là vấn đề khoa học. Được sự gợi mở, anh Phongphongthay, sắp xếp một cuộc hẹn cho tôi và anh gặp cô M để bày tỏ ý định muốn giúp nhà trường về mặt phong thủy nhằm cải thiện sức khỏe các bé. Cô M liền bày tỏ sự nhiệt tình muốn cải tạo theo phong thủy. Và tôi đã đưa ra các phương án cải tạo, cô M triệt để làm theo ngoài mong đợi của tôi. Kết quả như ý, chỉ sau hơn 3, tuần các trẻ đều ổn định được sức khỏe rỏ rệt, mạnh khỏe và năng động, hơn nữa công việc của nhà trường cũng trở nên ổn định hơn trước. Từ hiệu quả này, cô M đã một lần nữa nhờ Thiên Đồng đến giúp Cha xứ nhà thờ T cải thiện về mặt phong thủy, sau khi đã thuyết phục Cha với bằng cớ hiệu quả phong thủy tại trường của mình. Tôi gặp Cha trong sự hoan hỷ, đón tiếp giản dị của người tu, kẻ tục. Qua câu chuyện tôi hiểu mục đích của việc cải tạo theo phong thủy nhằm một là cải thiện sức khỏe cho Cha Sứ, hai là sự bình an và ba là giải quyết về một vấn đề hơi nhạy cảm về tâm linh, đó là di chuyển nhà thờ hài cốt đến nơi mới sao cho thích hợp và an lạc. Theo lời cha thuật, các đời cha sứ đến đảm nhiệm ngôi nhà thờ này đều không được an lạc, luôn có chuyện bất thường xảy ra và các cha đều bị bệnh hoạn đau yếu, cũng như hiện nay Cha đang bị bệnh về tim mạch và huyết áp. Sau lời thuật như lời trần tình, tôi xem sơ đồ mảnh đất do Cha đưa, ngạc nhiên thay, rỏ ràng mảnh đất mang hình con dao phay và theo đúng quan niệm “Hình Lý Khí” thì chính hình thể đất là nguyên nhân cho cớ sự. Tuy mảnh đất đều có sổ đỏ sổ hồng, nhưng sự bất an luôn thường trực. Vậy là kế hoạch cải tạo theo phong thủy được vạch ra và “tổng đạo diễn” cũng như ngươi trực tiếp đưa tay chỉ việc, hướng dẫn thực hiện là cô M, được Thiên Đồng chỉ định và Cha xứ tinh tưởng giao “trong trách” cho, góp phúc thiện cho nhà thờ. Bởi, một mặt cô M đã có kinh nghiệm trong việc chỉnh sửa tại trường của cô, mặt khác cũng thể hiện phong thủy không phải là bùa chú, cúng kiến, hay lễ nghi tôn giáo phải do các thầy “thổi phù phù”, mà ngược lại, vấn đề ở đây đơn thuần chỉ là kiến trúc mà thôi. Tuy vậy, về phương diện “cộng đồng xã hội”, việc chỉnh sửa vài chổ trong nhà thờ cũng cần phải mang “lý do hợp lý” và có nhiều sự hạn chế, vì vậy việc thực hiện cũng rất nhẹ nhàng và có những vấn đề như chuyển hướng bếp, cải tạọ phòng ốc phải được sự đồng ý của “ý kiến chung” và phải có “lý do hợp lý” nên vài ý định không thực hiện được, cho nên chỉ giới giới hạn trong việc có thể và rất “kín kẻ”. Mặt khác, một lý do khách cũng gây khó khăn cho việc cải tạo sửa chữa nhà thờ là tài chánh. Khi đi quan sát một vòng nhà thờ, Thiên Đồng hỏi Cha: - Có phải sự đóng góp về tài chánh của giáo dân ở đây rất nghèo và giáo dân đến với nhà thờ cũng ít, mặc dầu nhà thờ tọa lạc nơi thành phố dân cư đông đúc, dân cư xung quanh cũng khá giả? Cha xác định: “Đúng vậy!”. Phân tích địa thế Nhà Thờ Nhà thờ được hướng Phúc Đức trạch theo trục Càn Khôn, Tây tứ trạch, theo Phong thủy Lạc Việt. Cha xứ mạng Khôn cũng chuẩn trạch Phúc Đức. Tuy nhiên Càn cung bị khuyết hãm, do trên thực tế từ cổng vào đến cửa nhà thờ đã trở thanh lối đi chung của khu phố, do vậy Càn cung bị khuyết, chứng tỏ sự ủng hộ hay trợ giúp của giáo dân hay những mạnh thường quân cũng như sự nâng đỡ của các Cha bề trên đối với nhà thờ rất kém. Hình thể của mảnh đất một cách vô tình đã tạo thành hình con dao phay, do vậy theo quan niệm “Hình nào khí đó” thì tính sát của con dao phay này đã và đang phát tác rất mạnh, vì vậy mà các đời Cha xứ đảm nhiệm ở đây đều vướng phải những chuyện không hay về tinh thần cũng như sức khỏe. Thêm nữa con dao phay này lại thêm một cán ở hông, tức hẽm hông, theo như Cha xứ cho biết thì đây cũng là một lối đi chính của giáo dân khi viếng lễ nhà thờ, tạo cho thế đất thêm phần xấu. Do vậy nhiều chuyện rối rấm là hợp lẽ. Ngoài ra, đất có hẽm hông đâm vào là chủ về việc dễ dính dán chuyện thị phi, quan sự hay kẻ tiểu nhân ám hại, có thể chính lẽ đó mà tuy nhà thờ có sổ hồng sổ đỏ nhưng vẫn vướng chuyện không yên. Khởi thủy khu đất có hình như trên ,nhưng dân cư phát triển đất đai thu hẹp lại, nhà thờ đành chừa một khoản sân làm lối đi chung cho khu phố để vào con hẻm bên hông tay Long của nhà thờ và vòng ra sau hậu sơn. Chính bởi cách này mà khu vực nhà thờ bị thoái khí qua con hẻm bên tay Long. Và cũng lại thêm con hẽm hong chọc nách nhà thờ cũng là một yếu làm thoái khí một lần nữa, từ lý do này mà Thiên Đồng xác định số lượng giáo dân ở đây không đông đúc và về mặt tài chánh cũng như quyên góp của giáo dân đều “bèo”, như đã khẳng định, bởi dương khí vận chuyển vào nhà thờ đều thoái đi hết qua các lối này. Toàn thể khu đất được thế nghiêng Càn Khôn nên được cách Phúc Đức theo Bát Trạch Lạc Việt, do vậy toàn khu đất xét trên mặt trệt, mặt sàn sẽ là thừa khí Phúc Đức Vũ Khúc Dương Kim tinh, theo quy luật Lạc Việt Bát Biến Phiên Tinh, khi lấy sơn phối hướng, bởi do tính chất công sở công cộng của công trình. Theo lẽ đó, tầng lầu một của công trình thừa khí Lục Sát Văn Khúc Thủy Tinh và tầng lầu 2 của nhà thờ là Sinh Khí Tham Lang Dương Mộc Tinh quản lý, vì vậy công trình nhìn chung được cách “Thượng hạ cát tinh, Phúc Đức bát trạch”, tuy nhiên về mặt Phiên Tinh tầng sàn từ ngoài vào tới hậu sơn thì không được tốt, bởi khu vực nhà nguyện và nhà việc là khối công trình liền kề thừa hưởng Hung tinh Ngũ Quỷ Liêm Trinh Dương Hỏa tinh tọa thủ, chủ hại chuyện phiền toái bất ổn và tai ương. Cải tạo nhà thờ theo Phong Thủy Lạc Việt. Do nhà thờ có hạn chế về mặt điều kiện khách quan nên các phương án cải tạo đưa ra cũng rất hạn chế. Về mặt xã hội thì việc sửa chửa phải sắp xếp bằng việc “ngụy trang kiểu…nhà thờ” sao cho bàng quan chỉ nhận biết đó là việc sửa chửa vụn vặt bình thường về mặt kiến trúc hay ý thích thẩm mỹ và về mặt tài chánh thì hạn chế mức thấp nhất trong kinh phí eo hẹp của một nhà thờ khó khăn. Do vậy các phương án đập phá, xây dựng hay thiết kế thêm đều không khả thi mà chỉ thực hiện 3 mục đích chính là sức khỏe Cha xứ được khá hơn, nhà thờ không bị xáo trộn nữa và chọn vị trí thích hợp để an vị nơi lưu hài cốt của giáo dân cho an ổn về mặt tâm linh. Đầu tiên, ưu tiên cho việc ổn định sức khỏe Cha xứ, Thiên Đồng cho điều chỉnh lại dòng khí vào nơi Cha ở và làm việc bằng các biện pháp chận các ngạch nơi thích hợp. Việc này khá đơn giản và không ai nhận ra rằng nhà thờ làm…phong thủy. Tiếp đến Thiên Đồng đưa ra một giải pháp bịt và bán đi phần đất hẽm hông nhà thờ. Nhưng chủ ý này không được vì theo Cha, đó là lối vào thường xuyên của giáo dân khi đi lễ nhà thờ và việc bán bỏ đi một phần đất công thì vượt quá khả năng trách nhiệm trong công việc nên ý định này là không khả thi. Do vậy Thiên Đồng đành sự dụng biện pháp khác nhằm tránh thoái khí. Để an ổn về chuyện nhà thờ, Thiên Đồng cho dùng cách án sát, gọi là “Tam sơn án sát đao”. Cuối cùng là chọn vị trí thích hợp để là nơi lưu hủ cốt của giáo dân. Việc này là phần quan tâm và lo lắng nhất của Cha vì liên quan đến mặt tâm linh mà Cha lại không muốn có chuyện chẳng lành. Đầu tiên tôi nghĩ đến việc di dới đến vị trí khu nhà việc, nhưng khi hỏi lại với Sư Phụ Thiên Sứ thì Sư Phụ bảo nơi ấy không được. Bởi vậy Thiên Đồng chọn phương án khác là chọn đưa lên tầng lầu cho vẹn cả đôi bề là không cần phải cơi nới hay xây mới gì thêm chỉ cần chuyển đến đó là gọn ghẽ. Vậy là các phương án đều đơn giản, kinh tế và ổn thỏa, riêng phần bếp cũng quan trọng, Thiên Đồng có gợi ý nhưng ý định không thực hiện được vì lại vướng đến chuyện phải hội ý trong nội bộ nhà thờ, vậy là thôi. Qua việc được may mắn tư vấn giải pháp phong thủy cho nhà thờ, có thể nói đây là việc ít có, Thiên Đồng nhận thấy rằng Phong thủy là một yếu tố độc lập đứng ngoài các niềm tin và tôn giáo, bởi yếu tố phong thủy là sự phản ánh thực tại khách quan tương tác trong vũ trụ với tính quy luật của nó, nằm ngoài ý thức chủ quan của con người và ngoài cả ý thức của thượng Đế, nếu có. Điều này đủ để nhận biết tính khoa học của phong thủy trong hiệu quả tương tác thường hằng của nó, dù muốn hay không. Và tiêu chí để xác định vấn đề là khoa học thì lý thuyết xác định cho vấn đề đó phải có tính khách quan, tính quy luật, có thể giải thích mọi hiện tượng liên quan và có khả năng tiên tri thì Phong Thủy Lạc Việt thỏa mãn hoàn toàn tiêu chí này. Thiên Đồng
    1 like
  35. Đây là bài viết của Moclan mà ThanhTrang sưu tầm được từ trang web Nhantrachoc để cùng các bạn tìm hiểu môn học tử bình này ---- Hôm nay moclan giới thiệu các bạn 1 cách để hiểu được tứ trụ của mình giản đơn vô cùng, coi như là bước đầu cho việc tìm hiểu môn Tử bình tuyệt diệu. Đối với các bạn chưa biết gì về Dịch học, tử vi... moclan xin nhắc lại vài điểm mấu chốt của ngũ hành và âm dương, vì nó là phần cốt lũy của mọi sự việc để giải thích tất cả vũ trụ! Âm và Dương là 2 cực khác nhau, như Sáng và Tối... 10 thiên can, 12 địa chi chia ra thành nửa phần đối đãi nhau. Can và Chi được giải thích là những giai đoạn sinh trưởng có trật tự cố định trong trời đất, từ lúc nẩy mầm, vươn lên, trưởng thành, thuần thục, kết hoa trái, thành quả, sinh hạt, suy tàn và chết. - Can dương: Giáp, Bính, Mậu, Canh, Nhâm (+) - Can âm: Ất, Đinh, Kỷ, Tân, Quí (-) - Chi dương: Dần, Ngọ, Thìn, Tuất, Thân, Tí (+) - Chi âm: Mão, Tỵ, Sửu, Mùi, Dậu, Hợi (-) Ngũ hành là 5 khí tương tác lẫn nhau làm cho sự vật ra đời: Thổ, Kim, Mộc, Thủy, Hỏa. Ngũ hành cũng chia 2 loại Dương và Âm. - Giáp= Can Dương Mộc - Ất = Can Âm Mộc - Bính = Can Dương Hỏa - Đinh = Can Âm Hỏa - Mậu = Can Dương Thổ - Kỷ = Can Âm Thổ - Canh = Can Dương Kim - Tân = Can Âm Kim - Nhâm = Can Dương Thủy - Quý = Can Âm Thủy - Thìn, Tuất = Chi Dương Thổ - Sửu, Mùi = Chi Âm Thổ - Thân = Chi Dương Kim - Dậu = Chi Âm Kim - Tí = Chi Dương Thủy - Hợi = Chi Âm Thủy - Dần = Chi Dương Mộc - Mão = Chi Âm Mộc - Ngọ = Chi Dương Hỏa - Tỵ = Chi Âm Hỏa Tính chất của các Can và Chi cùng khí chất kể trên có quan hệ với nhau theo nguyên lý của Dịch, chúng ta chỉ cần nắm vững các nguyên tắc này: 1. Đồng hành, đồng cực thì đẩy nhau (kỵ nhau nhưng không hại nhau): - Thìn Tuất (cùng là +Thổ); Sửu Mùi (cùng là -Thổ) 2. Đồng hành mà khác cực thì hút nhau (tương trợ cho mạnh lên): - Giáp Ất (+ - Mộc) - Bính Đinh (+ - Hỏa) - Mậu Kỷ (+ - Thổ) - Canh Tân (+ - Kim) - Nhâm Quý (+ - Thủy) - và các Chi: Tý Hợi, Tỵ Ngọ, Dần Mão, Thân Dậu 3. Khác hành mà nghịch nhau (hành này hủy diệt hành kia): - Thủy khắc Hỏa - Hỏa # Kim - Kim # Mộc - Mộc # Thổ - Thổ # Thủy 4. Khác hành mà tương sinh (hành này sinh lợi cho hành kia): - Thủy sinh cho Mộc - Mộc > Hỏa - Hỏa > Thổ - Thổ > Kim - Kim > Thủy 5. Khác hành mà đồng cực thì càng sinh hoặc khắc mạnh hơn! Nếu là tương sinh thì hành đi sinh lợi sẽ bị hao tổn khí lực, hành được sinh sẽ vững mạnh. Nếu là tương khắc thì hành đi khắc cũng hao mòn rất nhiều và hành bị khắc đã yếu lại còn yếu hơn, mau chóng lụi tàn! 6. Khác hành mà khác cực: Tốt hay Xấu thì tùy theo tính âm dương của 2 đối tượng. - Nếu chủ thể là dương mà bị thể là âm thì sự sinh hay khắc bình thường, thuận lý âm dương. - Nếu chủ thể là âm, bị thể là dương thì sinh/khắc yếu đuối. Đôi khi chủ thể âm trường hợp này còn đau đầu xứt trán là khác nếu không có cứu giúp! Các thí dụ thì phải tìm trong các bảng Can/Chi hợp/xung/hình/hại sẽ viết sau. Chủ yếu là mình biết đó là những trường hợp cần chú ý nhất khi chọn dụng thần sau này. Trong tử bình có nhiều từ ngữ riêng, thí dụ như "chế"; "hóa"..., nhưng đơn giản để hiểu là như Hỏa mà yếu thì không chế được Kim mạnh (lửa của cây đèn cầy làm sao đúc được một thanh kiếm?); Mộc âm thì sinh thế nào cho Hỏa dương (gỗ ướt nhẹm làm sao đốt thành lửa?)... 6 trường hợp trên sẽ gặp phải trong những cách xung, hợp, khắc, hại của Can và Chi như sau: * CAN hợp nhau: - Giáp +mộc hợp Kỷ -thổ (hóa Thổ) - Ất -mộc hợp Canh -kim (hóa Kim) - Bính +hỏa hợp Tân -kim (hóa Thủy) - Đinh -hỏa hợp Nhâm +thủy (hóa Mộc) - Mậu +thổ hợp Quý -thủy (hóa Hỏa) Những cặp trên gặp nhau có HỢP nhưng không phải lúc nào cũng HÓA được (tức là 2 hành hợp lại chỉ còn 1 hành và rất mạnh). Cũng vậy, khi Chi gặp nhau mà tương hợp cũng sẽ có khi hóa được nếu gặp điều kiện đúng: * CHI hợp nhau - Các bạn để ý có 2 trường hợp khác biệt cần chú ý vì hay nhầm lẫn: 1)- Lục hợp âm dương (1 âm và 1 dương khác hành, hợp nhau gặp đúng điều kiện sẽ hóa chung lại thành 1 hành): - Tí +thủy hợp Sửu -thổ (hóa Thổ) - Hợi -thủy hợp Dần +mộc (hóa Mộc) - Mão -mộc hợp Tuất +thổ (hóa Hỏa) - Thìn +thổ hợp Dậu -kim (hóa Kim) - Tỵ -hỏa hợp Thân +kim (hóa Thủy) - Riêng Ngọ +hỏa là Thái Dương và Mùi -thổ là Thái Âm có hợp mà không bao giờ hóa. 2)- Nhị hợp âm dương (1 âm và 1 dương cùng hành): - Tý Hợi (+ - thủy) - Dần Mão (+ - mộc) - Tỵ Ngọ (+ - hỏa) - Thân Dậu (+ - kim) - Cặp Thìn Tuất và cặp Sửu Mùi (+ - thổ) * CAN xung khắc (theo cơ chế đồng cực mà khác hành): - Giáp Mậu (+mộc +thổ) - Ất Kỷ (-mộc -thổ) - Bính Canh (+hỏa +kim) - Đinh Tân (-hỏa -kim) - Mậu Nhâm (+thổ +thủy) - Kỷ Quý (-thổ -thủy) - Canh Giáp (+kim +mộc) - Tân Ất (-kim -mộc) - Nhâm Bính (+thủy +hỏa) - Quý Đinh (-thủy -hỏa) Khi Can xung khắc nhau mà ở giữa có Can hóa giải theo lý "tham sinh kỵ khắc" thì không còn xảy ra xung khắc nữa. Thí dụ: Giáp can năm khắc Mậu can ngày, nhưng có can tháng là Bính hỏa thì Giáp sinh cho Bính, không khắc Mậu nữa. Để ý là Bính dương hỏa mới tốt, chứ Đinh âm hỏa lại không cứu giải được trường hợp này. * CHI xung nhau là các chi trên biểu đồ đối nghịch nhau và có hành tương phản tạo thành "lục xung" rất mạnh: 1)- Tứ Xung (đồng cực khác hành) - Tý Ngọ (cùng là dương, thủy khắc hỏa) - Tỵ Hợi (cùng là âm, thủy khắc hỏa) - Mão Dậu (cùng là âm, kim khắc mộc) - Dần Thân (cùng là dương, kim khắc mộc) 2)- Nhị xung (đồng cực đồng hành; chỉ có Thổ; nhưng xung mà không có khắc): - Thìn Tuất - Sửu Mùi Ngoài ra còn có loại HẠI nhau, như ỷ mạnh hiếp yếu vậy, cho dù là tương sinh như Ngọ hỏa sinh cho Sửu thổ; Ngọ là dương, Sửu là âm, nhưng Ngọ và Sửu đứng đối nhau trên đồ hình tính theo cực âm-dương nên hại nhau chứ không sinh cho nữa. Điều này không theo cơ chế Khác Hành Sinh Khắc (điểm 4 bài đầu tiên), các bạn nên chú ý, loại tương hại này chỉ để tham khảo thêm mà thôi: - Tí Mùi - Sửu Ngọ - Dần Tỵ - Mão Thìn - Thân Hợi - Dậu Tuất Còn tiếp
    1 like
  36. Ðề: Tứ trụ thật dễ hiểu Các bạn có để ý rằng khi nói đến Địa Chi thì không đề cập đến quan hệ tương sinh (thí dụ như không nói Tí sinh Mão, hay Thìn sinh Dậu..) mà chỉ luận đến quan hệ KHẮC, XUNG, HÌNH, HẠI của các chi lẫn nhau mà thôi. Nhưng các Chi có hợp lại thành HỘI hay thành CỤC, cũng là nằm trong ý nghĩa của sự tương trợ, tương sinh cho nhau và chỉ có ảnh hưởng mạnh khi chúng tụ họp lại. Khi xét trong Tử bình, đầu tiên là xét Tam hội, sau đó là Tam hợp Cục, vì lý do khí của tam hội mạnh hơn khi chúng dồn về 1 phương hướng, khí của chúng "thuần" nên rất mạnh, còn Tam Cục thì do vòng trường sinh tạo thành, lẫn nhiều tạp khí. Cát hay Hung của Hội hay Cục là tùy theo tứ trụ. Có khi cần phải cần giải tán Hội, Cục để cứu lấy thân. * Tam Hội 1) Phương Đông Mộc = Dần Mão Thìn 2) Phương Nam Hỏa = Tị Ngọ Mùi 3) Phương Tây Kim = Thân Dậu Tuất 4) Phương Bắc Thủy = Hợi Tý Sửu Thìn, Tuất, Sửu, Mùi là thổ trung ương, theo tiết trời là những tiết cuối của 4 mùa. * Tam Cục 1) Thủy Cục = Thân Tí Thìn 2) Mộc Cục = Hợi Mão Mùi 3) Hỏa Cục = Dần Ngọ Tuất 4) Kim Cục = Tị Dậu Sửu Theo bảng Sinh Vượng Tử Tuyệt của ngũ hành, thí dụ như hành Thủy trường sinh ở Thân (kim sinh thủy), vượng ở Tí (thủy đồng hành) và mộ ở Thìn (thổ cuối mùa Xuân), cho nên Thân-Tí-Thìn hợp lại thành Cục Thủy. Các Thiên Can có quan hệ với nhau thì đầy đủ, có Sinh, có Khắc, có Hợp và Hóa. Chính vì thế mà dưới các Chi lại phải tìm Can tàng trong nó, tức là bản khí trời sinh ra của nó. Có Chi thuần khí, có Chi bị tạp khí. Nhưng chung quy là Tử bình xét qua Địa nguyên (CHI) tìm lại bản chất khí ban đầu của Thiên nguyên (CAN), và như thế cũng là tìm được Nhân nguyên (NGƯỜI). Đó là thuyết Tam Tài. Thiên Can là trời cho, Địa nguyên là do sinh khí của đất, của cha mẹ tổ tiên, còn Can tàng ẩn trong địa chi đó chính là con người của ta nằm trong môi trường đang có. Vì thế nên luôn luôn có sản sinh ra cái mới mặc dù có sự lập lại của tứ trụ. Đây là mấu chốt để hiểu tứ trụ là quan niệm của Tam Nguyên Vận Khí là như vậy. Tử bình lấy ngày làm chủ và tiết tháng làm lệnh. Hai trụ này là không gian chính của thời điểm một người sinh ra đời. Trụ năm đã được tính theo vòng 60 niên mệnh, còn trụ giờ có tầm ảnh hưởng nhất định theo ngày. Con người quá bé nhỏ trước một nguyên vận 180 năm, đối với 60 năm trung bình một đời người còn khả dĩ xem xét được, nên 12 tiết lệnh của tháng trong năm có tầm quan trọng lớn nhất của tứ trụ. Còn trụ giờ bổ sung vào làm cho sự tính toán có thể "nhìn thấy" được. Nếu bạn nào đã có kinh nghiệm, thường thì khi có đủ 3 trụ là có thể suy ra được trụ giờ cho một cá thể thông qua vài phương pháp khác như nhân tướng học và xã hội học. Quá trình từ sinh cho đến tử của vạn vật có thể chia ra làm 5 giai đoạn lớn hợp với sự sinh khắc của 5 Hành: -Vượng: giai đoạn đang trên đà phát triển mạnh -Tướng: giai đoạn đã phát triển, nhưng đứng yên -Hưu: giai đoạn nghỉ ngơi, không còn sức phát triển nữa -Tù: giai đoạn suy giảm, sa sút -Tử: giai đoạn bị khắc chế hoàn toàn, sự vật chết Trung bình cho 1 năm nếu tính gọn là 360 ngày thì mỗi một giai đoạn trên chiếm 72 ngày. Một năm chia ra làm 4 mùa Xuân Hạ Thu Đông có 24 tiết khí thì mỗi tiết trung bình chiếm 15 ngày. Nhưng theo các địa chi hành quyền trong 12 tháng có tàng chứa bản khí, trung khí và khí thừa khác nhau thì số ngày này được tính tùy theo tháng với 12 khí chính như sau (can cuối cùng là bản khí): Tháng Giêng - Dần - Lập Xuân - Mậu và Kỷ chung 7 ngày, Bính 7 ngày, Giáp 16 ngày Tháng Hai - Mão - Kinh trập: - Giáp 10 ngày, Ất 20 ngày Tháng Ba - Thìn - Thanh Minh: - Ất 9 ngày, Quý 3 ngày, Mậu 18 ngày (thổ cuối mùa) Tháng Tư - Tỵ - Lập Hạ: - Mậu 5 ngày, Canh 9 ngày, Bính 16 ngày Tháng 5 - Ngọ - Mang Chủng: - Bính 10 ngày, Kỷ 9 ngày, Đinh 11 ngày Tháng 6 - Mùi - Tiểu Thử: - Đinh 9 ngày, Ất 3 ngày, Kỷ 18 ngày (thổ cuối mùa) Tháng 7 - Thân - Lập Thu: - Mậu và Kỷ chung 10 ngày, Nhâm 3 ngày, Canh 17 ngày Tháng 8 - Dậu - Bạch Lộ: - Canh 10 ngày, Tân 20 ngày Tháng 9 - Tuất - Hàn Lộ: - Tân 9 ngày, Đinh 3 ngày, Mậu 18 (thổ cuối mùa) Tháng 10 - Hợi - Lập Đông: - Mậu 7 ngày, Giáp 5 ngày, Nhâm 18 ngày Tháng 11 - Tý - Đại Tuyết: - Nhâm 10 ngày, Quý 20 ngày Tháng 12 - Sửu - Tiểu Hàn: - Quý 9 ngày, Tân 3 ngày, Kỷ 18 (thổ cuối mùa) Các bạn nhận thấy rằng Thìn Tuất Sửu Mùi có vị trí chuyển giao mùa rất rõ và chúng hành quyền vào những ngày cuối mùa rất mạnh. Khi đã sang mùa, hành Thổ đó còn lại vài ngày gọi là "dư khí". Bản khí là hành cùng với địa chi, sang tháng sau, hành đó đọng lại vài ngày nhưng chỉ là dư khí. Thí dụ như cuối Lập Xuân, dương mộc (Giáp) mạnh, sang tháng Hai, 10 ngày đầu vẫn còn khí thừa của Giáp, nhưng không mạnh bằng. Những tháng giữa mùa như tháng Mão (2), tháng Ngọ (5), tháng Dậu (8) và tháng Tý (11) thường được cho là thuần khí nhất vì là cao điểm của mùa nên có thể chỉ tính bản khí mà thôi. Thí dụ như tháng Mão thuần Ất mộc, âm tính mạnh. Khi xét đoán lệnh tháng, cần nhớ những điều này để chọn dụng hỉ thần, vì nếu bản khí không mạnh thì không nên chọn, dụng thần sẽ không có lực. Tháng sinh trong năm là một trong những quy ước của Tử bình để tính ra được thân vượng hay nhược. Nó là bước đầu tiên quan trọng khi bạn nhìn vào một tứ trụ. Tiết Khí trong tháng đó chứa những nhân nguyên (can tàng độn) chính mà chúng ta gọi là "Lệnh". Từ Lệnh này mà suy ra được sự vượng, suy của 3 trụ kia, cho nên tháng sinh có yêu cầu cao khi xem xét. Xin nhắc lại vài từ cho quen cách dùng trong Tử bình: - Vượng: thịnh vượng, hưng vượng, sáng sủa, tốt đẹp - Nhược: suy, yếu, tàn - Tiết Khí: một năm có 24 Tiết Khí, trong đó chia ra 12 Tiết và 12 Khí được tính theo dương lịch (kinh độ mặt trời). Thường thì người ta hay nói chung là tiết khí, nhưng đúng ra thì gọi Tiết Lập Xuân, Khí Vũ Thủy. - Nhân nguyên: như đã có trình bày, mỗi một Chi đều có đủ 5 hành, nhưng chỉ có các Can tàng có ngũ hành hữu dụng trong Chi đó mới được nêu ra. Có khi bạn chỉ thấy Can bản khí mà thôi, thí dụ như tiết Kinh Trập, can tàng chính là Ất, nhưng thật ra còn có Giáp hành quyền 10 ngày đầu, sau đó mới tới Ất. Lý do là Giáp từ Khí của Tiết Lập Xuân còn lại. - Lệnh: tức là hành chính của khoảng thời gian đó, nói rõ hơn là Can nào đại diện chính để biết nhật chủ (Can ngày) có tính cách vượng hay suy. Có 5 Can dương: Giáp, Bính, Mậu, Canh, Nhâm 5 Can âm: Ất, Đinh, Kỷ, Tân, Quý Vòng trường sinh của vạn vật không thay đổi theo chu kỳ đi tới: 1. Trường sinh: mọc nầm, nảy sinh 2. Mộc dục: vừa được sinh ra, lố dạng 3. Quan đái: dần dần mạnh lên 4. Lâm quan: trưởng thành 5. Đế vượng: thành thục, mạnh mẽ cực độ 6. Suy: bắt đầu giảm chất lượng 7. Bệnh: khốn đốn, cơ cực 8. Tử: bị diệt, suy tàn 9. Mộ: trở về nơi tàng trữ 10. Tuyệt: tất cả các khí bị mất hết 11. Thai: khí lại bắt đầu giao nhau, kết thành thai 12. Dưỡng: đang phát mầm mống Can dương thì đi thuận, can âm tính ngược trong vòng Trường sinh. Nói thế không phải là can âm bị tính từ Dưỡng trở về Trường Sinh, mà tính từ Ngọ là thời điểm dương đã lên cao, bắt đầu trở về quy trình âm. Một ngày bắt đầu từ giờ Tí cho đến giờ Ngọ giữa trưa là đã thấy bắt đầu âm sinh trưởng, chiều tối đến giờ Hợi là chấm dứt một vòng. Vì thế các can âm trường sinh (bắt đầu lố dạng) tại nơi mà các can dương ở giai đoạn Tử. Còn tiếp
    1 like
  37. Các bạn nên vào trang web hỗ trợ Upload ảnh, tạo tài khoản miễn phí và bắt đầu thao tác. Ở đây tôi lấy trang Photobucket.com làm thí dụ vì tôi hay dùng trang này. Các bước như sau: 1. Thiết lập tài khoản. Giống các trang web khác về khai báo ... 2. chuẩn bị Upload: Kích vào nút Choose File trên màn hình, tìm đường dẫn tới nơi chứa hình ( Lưu ý là nên up hình có dung lượng nhỏ 1 chút đỡ mất thời gian vô ích cỡ khoảng 800 * 600 là vừa dùng rồi) 3. Kích vào Save and continue để tiếp tục... 4. Tìm đến dòng có chứ mở đầu là ....xxxx... để copy( web này nó tự copy hộ mình nên cứ Click vào là nhận lệnh mặc định luôn) http://i182.photobucket.com/albums/x53/xeda111/Buoc2.jpg 5. Trong Box soạn thảo văn bản trên web: Lyhocdongphuong.org.vn. Nhấn nút Paste để dán dòng lệnh đó vào. 6. Án nút gửi bình thường là bạn đã hoàn thành nhiẹm vụ[/b]
    1 like