-
Thông báo
-
Nội quy Lý Học Plaza
Nội quy này là bản mở rộng Nội Quy - Quy định của Diễn đàn. Khi tham gia mua bán, các thành viên phải tuân theo những quy định sau: Tiêu đề bài viết: Bao gồm: Chỉ dẫn địa lý, Loại hình Mua/Bán, Thông tin mua bán.
Chỉ dẫn địa lý: Tỉnh/thành nơi mua bán. Hoặc sử dụng định nghĩa có sẵn:TQ: Toàn quốc
HCM: TP Hồ Chí Minh
HN: Hà Nội
[*]Ví dụ: HCM - Bán Vòng tay Hổ Phách Nội dung bài viết: Mô tả chi tiết sản phẩm mua/bán
Bắt buộc phải có thông tin liên lạc, giá Mua/Bán
Bài mới đăng chỉ được phép up sau 03 ngày.
Thời gian up bài cho phép: 01 ngày 01 lần.
Các hành vi vi phạm nội quy này sẽ bị xóa bài hoặc khóa tài khoản mà không cần báo trước.
-
Leaderboard
Popular Content
Showing most liked content on 26/11/2010 in Bài viết
-
Xem Sim Số Tốt
quanghung14 and 3 others liked a post in a topic by Thiên Đồng
Khai Trương Quán Xem Sim Số Tốt Mến chào các Hội viên của diễn đàn Lyhocdongphuong. Thiên Đồng mở "quán" này nhằm thuận cho tiện việc theo dõi bài và chuyên trang. Mục đích: Tư vấn xem sim số điện thoại tốt xấu, miễn phí. Hội viên tư vấn: -Mở ra cho những ai có khả năng tư vấn về sim số cùng tham gia tư vấn. -Nhưng trước tiên hội viên tư vấn sẽ là Cô Wildlavender Hatgaolang Thiên Đồng Thiên Luân tạm thời trả lời tư vấn cho những ai cần. Tuy nhiên vì quỹ thời gian có hạn nên chúng tôi chỉ trả lời khi thực sự rảnh rỗi. Điều kiên tư vấn: - Người muốn tư vấn cho người khác và người muốn được tư vấn (người hỏi) phải có văn phong hòa nhã, lịch sự, tuân thủ nội quy của diễn đàn. - Người hỏi chỉ được hỏi tối đa 2 sim số. - Chỉ trả lời tư vấn trong chuyên trang này. Bố cục nội dung hỏi tư vấn sim số: -Giới tính? - Ngày tháng năm giờ sinh? - Số dt 1: - Số dt 2: - Hỏi về chuyện gì? Chân thành cảm ơn sự quan tâm của các Hội viên. Thiên Đồng4 likes -
Qua bài viết trên đăng tải trên Thanh Niên Online, có thể nói: Kết quả cuối cùng trong việc đi tìm "Hạt của Chúa" đã thất bại. Nếu muốn tiếp tục đi tìm Hạt của Chúa thì phải làm một máy gia tốc lớn hơn và ....tiếp tục thất bại. Việc hai máy gia tốc - một ở Hoa Kỳ, một ở Châu Âu - với nhiệt độ tạo ra khác nhau, chênh nhau vài ngàn tỷ độ, nhưng có cùng một kết quả, đã cho thấy không thể tìm được Hạt của Chúa với tốc độ lớn hơn. Họ quá mất thì giờ. Tôi giữ lời hứa về việc giải thích nguyên nhân thất bại và ngạc nhiên của họ. Và tôi chờ đợi một sự đề nghị giải thích chính thức từ phía họ.4 likes
-
Cậu phải hết sức bình tĩnh, chuyện gì cũng phải hết sức bình tĩnh mới được. 2018 trở đi sẽ hanh thông cả thôi. Đang trong thời kỳ tu tập và trải nghiệm. Vì vậy phải hết sức bình tĩnh, chuyện gì cũng phải hết sức bình tĩnh mới được. Sang năm cần có người đứng ra lo liệu chuyện hôn sự mới thành, bằng không lại chia tay. Vì vậy dù có ra sao cũng phải hết sức bình tĩnh mới được. Số muộn hôn nhân nên nếu không hết sức bình tĩnh thì sẽ là quá muộn. Sau này thể nào cũng làm tới Trưởng phòng hoặc Phó giám đốc, vì vậy phải hết sức bình tĩnh với mọi vấn đề. Con cái sau này ko hợp với mình, vì vậy dạy con là phải hết sức bình tĩnh mới dạy được, nếu mất bình tĩnh là hỏng hết vấn đề, mà để không hỏng hóc trong việc dạy con, dạy cái của để dành ấy là phải hết sức bình tĩnh mới dạy được. Vậy nhé, cứ từ từ và hết sức bình tĩnh để tiến tới 2011 là hôn nhân và 2018 là công danh sự nghiệp nhé.2 likes
-
Tết Ta
hoangnt and one other liked a post in a topic by Lãn Miên
Tết ta Tiếng Việt thuộc hệ ngữ Nam Á, nhánh Môn - Khơ Me. Hàng vạn năm trước, ngôn ngữ Nam Á là một ngôn ngữ thống nhất của chủng Indonesian trên tiểu lục địa Trung - Ấn trong đó có bán đảo Đông Dương. Khảo cổ và nghiên cứu nhân chủng học cho thấy đây là cư dân bản địa của nền văn minh Đông Nam Á cổ, nền văn minh nông nghiệp sớm nhất của nhân loại.Từ đó họ thiên cư “50 con theo mẹ đi lên núi, 50 con theo cha đi xuống biển” khai phá nông nghiệp vùng lục địa Trường Giang, Hoàng Hà (Trung Quốc ngày nay) và vùng đảo Indonexia, Đài Loan, Nhật Bản và các đảo Thái Bình Dương. Ngôn ngữ Nam Á thống nhất ấy lúc đầu là ngôn ngữ đa âm tiết không có thanh điệu. Dần dần chủng tộc Indonesien này phát triển thành nhiều dân tộc, và ngôn ngữ cũng phát triển theo nhiều xu hướng khác nhau, một số đã theo xu hướng đơn âm hóa đương nhiên nảy sinh thanh điệu, như ở tiếng Việt thành ra có 6 thanh điệu, ở tiếng Thái thành ra có 5 thanh điệu, ở tiếng Hoa thành ra có 4 thanh điệu trong tiếng phổ thông Trung Quốc ngày nay còn ở tiếng địa phương như Đài Loan lại có 8 thanh điệu. Căn cứ để xác định ngôn ngữ có cùng gốc là: qui luật kết cấu ngữ pháp, cách phát âm, sự gần gũi của các từ cơ bản. Ví dụ từ cơ bản tiếng Việt so với từ đồng nghĩa của các sắc tộc khác (trong ngoặc đơn) sẽ thấy rõ cùng cội nguồn: Nước = Đắc (Ba Na) = Lạc (Việt cổ vùng Hoa Nam) = Nác (Việt ở Trung Bộ ) = Nậm (Tày) = Nam (Thái Lan); Sông = Krông (BaNa) = Krong (Chăm) = Không (Mường) = Khoỏng (Thái Lan) = Giang (Hoa) = Sônggai (Mã Lai)= Sông ngòi (Việt); Cá = Kaa (XêĐăng )= Pá (Thái) = Ká (Mạ) = Cả (Mường ) = Aka (Mã Lai) = Xacana (Nhật Bản) = Kán (Chăm - đây chính là gốc các từ Cần, Cờn, Quèn, Còng chỉ địa danh như Cần Giờ, Cần Thơ ở Nam Bộ, cửa Cờn ở Nghệ An, lạch Quèn, chợ Còng ở Thanh Hóa, là các cửa sông, bến cá); Con = Kon (Mạ) = Cón (Mường) = Koon (Ba Na) = Kooon (Xê Đăng) = Kodomo (Nhật Bản) = Côn (Khơ Me) = Coong (Việt ở Nam Bộ); Ruồi = Rooi (Ba Na) = Ròi (Việt ở Nghệ An) = Rhai (Mạ) = Ruuêi (Mường) = Ruy (Khơ Me); Ngày = Ngai (Mường) = Thngay (Khơ Me) = Haai (Xê Đăng) = Tngay (Môn ở Mianma); Mặt Trăng = Mạt Tlăng (Ba Na) = Maht Kăn (Mạ) = Blaăng (Chăm) = Bulăng (Mã Lai) = Đoong Chăn (Lào); Trái cây = Trấy (Việt ở Trung Bộ) = Plây (Ba Na, Xê Đăng) = Blái (Mạ); Chim = Chim (Mạ, Xê Đăng) = Sêêm (Ba Na) = Tiêm ( Khơ Mú ở Tây Bắc – từ Tiêm này sau sinh ra từ Tiên trong chữ nho để thần tượng hóa người biết bay lên trời thành Tiên, tục thờ chim Hạc = chim Lạc đưa hồn người lên trời) = Cầm (Việt cổ ở Hoa Nam – người Hán phiên âm là “Sín” nhưng chỉ dùng để chỉ giống chim nuôi trong nông nghiệp dịch từ “chim nhà” gọi ngược là “gia cầm”, đủ thấy nghề này là từ phương Nam truyền lên, chim trời họ gọi là con “nẻo” tức “điểu” chứ không hề có từ “gia điểu”). Học giả Haudricourt nghiên cứu ngôn ngữ Việt (năm 1953,1954) chỉ ra một trong các đặc điểm tạo từ của tiếng Việt là tạo thêm từ bằng phụ tố như kiểu: Giết - chết, cọc - nọc, kẹp - nẹp. Điều này quá rõ, nếu trích dẫn các từ cùng gốc như vậy ra thì nhiều vô cùng. Vì cái logic ấy cho nên con Ròi thì con của nó phải là con Dòi, con Cóc thì con của nó phải là con Nòng-Nọc, con Ong thì con của nó phải là con Nhộng, con Người hay con Ngài thì con của nó phải là Hài do lớn lên từ cái Thai (mà Hán ngữ mượn dùng từ Hài phải nói là “hài tử” hay “hài nhi” hay “hài đồng” thì mới thành nghĩa “con”), Con Người còn có cái để thể hiện linh khí của nó ra ngoài là Con Ngươi của mắt. Trong thiên nhiên thuở hồng hoang thì con Người cũng như các động vật khác chỉ là con Mồi, chỉ khác là biết đứng thẳng, nên chữ nho viết là chữ Mùi hoàn toàn biểu ý bằng chữ nhân 人 ghép với chữ lập 立 nghĩa là đứng, thành chữ Mùi 位 sau đọc là Vị 位 (Hán ngữ phiên âm là “wei”), các Người = các Ngài = các Vị. Nhưng cái “phụ tố” mà học giả Haudricourt nêu mới chỉ là nói phần âm vận ở cuối chữ tạo nên cái âm lõi như “ết”, “ọc”, “ẹp” ở trên v.v. Người Việt còn cách tạo từ cực kỳ quan trọng, có thể tạo ra hàng vạn vạn từ đơn âm tiết có nghĩa, bằng cách Vo các từ đa âm tiết của ngôn ngữ Nam Á trong cái Vỏ đựng, như cái Vò hình cầu là biểu tượng Âm Dương của người Lạc Việt, như cái Vũ của vũ trụ hình cầu chứa đựng tất cả, để từ ấy rụng đầu rụng đuôi đi rồi còn mỗi lõi giữa là một âm tiết có kèm thêm thanh điệu. Ví dụ từ “O-NA-DI” của tiếng Nhật nghĩa là “giống”, khi bị vo tròn nhưng chưa dứt hẳn nó đã bị rụng mất đầu “O” và đuôi “DI” đi, còn lõi giữa là “NA” nhưng chưa sạch hẳn nên nó thành từ dính, tức láy là hai âm tiết dính nhau không thể đảo ngược, là “NA-NÁ” nghĩa là “hơi giống”. Nhưng cũng có lúc do vo mạnh tay hơn nhưng lại vo không đều tức không tròn trịa nên nó bị rụng mất “O” và “NA” ở đầu đi, còn lại mỗi “DI” ở cuối kèm theo vài mảnh vụn bám vào nên nó thành có đuôi và có thanh điệu thành từ “DỐNG” mà đa số phát âm là “GIỐNG” nên chính tả chấp nhận là “GIỐNG”. Như vậy ở tiếng Nhật chỉ có mỗi “O-NA-DI” nhưng ở tiếng Việt có “NA-NÁ” và “GIỐNG” mang hai sắc thái khác nhau của cùng một nghĩa. Ai có lý giải nào khác về nguồn gốc hai từ này, tôi xin được tham khảo. Việc “vo” này xảy ra hàng sáu bảy ngàn năm trước rồi chứ không phải trong thời cận đại đâu. Lại còn nhờ qui tắc chia đôi Âm Dương một tiếng đơn âm thành từ láy dính hai âm tiết mà trong cách tạo từ của tiếng Việt còn có vai trò của một “phụ tố “ nữa là: cùng phụ âm đầu. Ví dụ từ “Lộ” nghĩa là con đường đi, do có qui tắc phụ tố là cùng phụ âm đầu mà nó đã cho ra biết bao từ trong tiếng Việt cùng gốc phụ âm “lờ” đầu với nó để chỉ các loại đường đi và các cách đi khác nhau: LỐI là đường đi nhỏ trong xóm làng; LỘI là đi bằng chân, lội bộ = đi bộ; LOẠNG-CHOẠNG là đi như muốn ngã; LÁCH, LUỒN, LẺN, LẤN là những cách đi có tính toán; LÙA là xua bầy gia súc gia cầm đi; LEN- LỎI là vừa đi vừa tìm đường; LEN trâu là vừa lùa trâu đi vừa tìm đường trong nước lụt (phim “Mùa len trâu”); LỎI là tìm đường ngoi lên cho hơn người, “sao mày lỏi thế hả đồ khôn lỏi!”; LƯỚT là đi nhanh bằng thuyền; LƯỢT (rượt) là chạy nhanh để đuổi ; LÓN-LÉN (rón-rén) là đi nhẹ tránh phát hiện; LÁI là điều khiển cho phương tiện đi; LEO là đi lên độ cao ( Người Hán dùng từ “lộ” của chữ nho 路 chỉ con đường, nhưng trong tiếng Hán không thấy từ nào khác cùng phụ âm đầu là “lờ” với nó mà có cùng khái niệm đường đi hoặc cách đi cả, có lẽ vì dân trên đồng cỏ mênh mông bằng phẳng chẳng cần phải có đường,chỉ có dân rừng nhiệt đới mới phải len lỏi tìm lộ để đi thành đường mòn. Vậy chữ nho LỘ 路 này nguyên gốc là từ đâu? chữ này có phần biểu ý là bộ túc 足 tức chân đi, và phần biểu âm là chữ các 各, đáng lý phải đọc là Lạc, hiểu ý là “cách đi của Lạc dân”, có phải do người Việt là dân sông nước nên phương tiện đi lại chủ yếu là bằng thuyền trên Nác hay Lạc?). Còn một qui tắc tạo từ nữa trong tiếng Việt là qui tắc “lướt”, từ ghép hay cả câu dài đều có thể lướt thành một âm tiết, như: “hai mươi” = “hăm”; “ba mươi” = “băm”; “TRái cÂY” dân miền Trung lướt thành “TRẤY”, “Hỏi gì đẤY?” lướt thành “HẤY?”; đi “té re” là nói chung đi lỏng, nhưng trẻ sơ sinh “đi Té re làm ƯỚT cả tã do nó không thể tự kềm chế được” người ta lướt thành “đi TƯỚT”, chỉ dùng cho trẻ sơ sinh mà thôi; “THỢ tay nghề cao có thể dũa Lưỡi cưa cho sắc và đúng góc độ như mỚI” gọi lướt là “THỢ LỠI”; “HỖN hợp LẮM thứ BA lăng nhĂNG” lướt thành từ “HẰM BÀ LẰNG”; “tự ĐI du lịch PHóng khoáng VƯỢT qua mọi trở ngại thiên nhiên và chối bỏ sự gò bó của tua truyền thống” gọi lướt thành từ “ĐI PHƯỢT” (từ mới của dân teen trên mạng đã được phương tiện thông tin đại chúng sử dụng) v.v.Qui luật lướt này cũng là đã có từ nhiều ngàn năm trước rồi. Cụ thể là học giả Hứa Thận thời Đông Hán đã sử dụng qui tắc này để “thiết” tự làm nên cuốn sách công cụ dạy cách đọc chữ nho cho đúng âm, mỗi chữ nho được “thiết” bằng hai chữ nho khác (tức đọc lướt hai chữ nho khác) cho ra âm đúng của chữ cần đọc, đó là cuốn “Thuyết văn giải tự” (nhưng mà khi đọc thì phải đọc đúng như âm Việt của người Việt đọc chữ nho thì mới thấy đúng, chứ nếu đọc theo phiên âm latin như tiếng phổ thông Trung Quốc tức “Hán ngữ hiện đại” thì lại trật, thời Đông Hán ông Hứa Thận viết cuốn này để giải nghĩa hàng vạn chữ kèm cách đọc, chưa có biết đến chữ phiên âm latin). Vài ví dụ như sau: (phiên âm latin của Hán ngữ viết trong ngoặc đơn, dấu “ = ” là để thay cho chữ “lướt thành” TÚC 足 (zú) nghĩa là cái chân , đọcTỨC 即 NGỌC 即 = TÚC ( jí yù = jù ; jù trật zú) HÀNH 行 (xíng) nghĩa là làm, đọc HỘ 戶 CANH 庚 = HÀNH (hù geng = heng, trật xíng) CẬN 近 ( jìn) nghĩa là gần, đọc CỪ 渠 LÂN 遴 = CẬN ( qú lín = qín; qín trật jìn) ĐẬU 逗 (dòu) nghĩa là dừng, đọc ĐIỀN 田 HẦU 侯 = ĐẬU (tián hòu = tòu, tòu trật dòu) VẬN 運 (yùn) nghĩa là chở, đọc VƯƠNG 王 VẤN 問 = VẬN (wáng wèn = wén, trật yùn) NGỘ 遇 ( yù) nghĩa là gặp, đọc NGƯU 牛 CỤ 具 = NGỤ ( níu jù = nù; nù trật yù) TẠO 造 (zào) nghĩa là chế, đọc THẤT 七 ĐÁO 到 = TẠO ( qi dào = qiào; qiào trật zào) QUÁ 過 (guò) nghĩa là qua, đọc CỔ 古 HÒA 禾 = QUA ( gu hé = gé; gé trật guò) TIỀN 前 (qián) nghĩa là trước, đọc TẠC 昨 TIÊN 先 = TIỀN (zuó xian = zan; zán trật qián) CÁC 各 (gè) nghĩa là nhiều, đọc CỔ 古 LẠC 洛 = CÁC ( gu luò = guò; guò trật gè) KHIẾU 叫 (jiào) ,nghĩa là kêu, đọc CỔ 古 ĐIỀU 伄 = KHIẾU ( gu diào = giào, trật jiào) DUY 唯 ( wei) nghĩa là dạ vâng, đọc DĨ 以 THỦY 水 = DUY ( yi shui = yui; yui trật wei) TRIẾT 哲 ( zhé) nghĩa là biết, đọc TRẮC 陟 LIỆT 列 = TRIẾT( zhì liè = zhiè; zhiè trật zhé) NGƯU 牛( níu) nghĩa là trâu, đọc NGỮ 語 CẦU 求 = NGƯU ( yu qíu = yiu; yiu trật níu) NGỮ CẦU = NGẦU (tiếng Quảng Đông) = TRÂU (tiếng Việt) = TRU (tiếng Việt ở Nghệ An) = TLU( tiếng Mường) TIẾN 薦 (jiàn) nghĩa là cử, đọc TẠI 在 ĐIỆN 甸 = TIẾN (zài diàn = ziàn; ziàn trật jiàn) LẠC 落( luò) nghĩa là rớt, đọc LÔ 盧 CÁC 各 = LẠC ( lú gè = lè; lè trật luò) DÂN 珉( mín) nghĩa là cái đẹp của đá, đọc VŨ 武 CÂN 巾 = VÂN ( wu jin = win, trật mín) HÀ瑕 ( xía) nghĩa là đá giống ngọc, đọc HỒ 胡 QUẢI 拐 = CUỘI ( hú guai = huai trật xía) GIAM 瑊 ( jian) nghĩa là đá đẹp như ngọc, đọc CỔ 古 HÀM 函 = CƯỜM ( gu hán = gán; trật jian) - Trang sức như vòng đeo tay hay khuyên đeo tai bằng cuội hay cườm có ở di chỉ khảo cổ văn hóa Sa Huỳnh miền Trung Việt Nam. THỤY 瑞 ( rùi) là ngọc làm tin, đọc THỊ 是 NGỤY 偽 = THỤY ( shì wei = shei; trật rùi) VƯƠNG 王 ( wáng) nghĩa là vua , đọc VŨ 雨 PHƯƠNG 方 = VƯƠNG ( yu fang=yang; trật wáng) VINH 榮 ( róng) nghĩa là vẻ vang, đọc VI 為 MỊNH 命 = VINH ( wéi ming = wing; wing trật róng) PHÚC 福 ( fù) nghĩa là được phù hộ, đọc PHƯƠNG 方 LỤC 六 = PHÚC ( fang lìu = fìu; trật fù) THẦN 神 ( shén) nghĩa là thần, đọc THỰC 食 LÂN 遴 = THẦN (shí lín = shín ; trật shén) BÍ 秘 (mì) nghĩa là thần bí, đọc BINH 兵 MI 媚 = BÍ ( bing méi = béi; béi trật mì). VIỆT 越 (yuè) nghĩa là vượt qua (nguyên văn: độ dã), đọc VƯƠNG 王 PHẠT 伐 = VIỆT(wáng fá = wá; wá trật yuè). Có lẽ phần “giải tự” chữ Việt này của ông Hứa Thận là chính xác nhất về nguồn gốc từ “Việt” xuất hiện từ khi nào trong lịch sử. Hán thư thì viết rằng từ “Việt” xuất hiện vào thời Xuân Thu. Theo “giải tự” ở đây thì VIỆT= VƯƠNG PHẠT tức “ông vua đi chinh phạt” thì phải có sớm hơn rất nhiều, đó là sự kiện nổi tiếng lịch sử cổ đại là vụ vua Chu Văn Vương tức ông Tây Bá Cơ Xương vượt sông đi bắc phạt tiêu diệt vua Trụ nhà Thương, có lẽ từ đó người ta mới gọi quân của “ Vương Phạt” là quân “Việt”, trước đó thì họ chỉ gọi là dân Lạc của Lạc Quốc mà thôi. Qua đó bạn đọc tự thấy là chữ nho và cách đọc nó đúng như Trung Hoa đọc thời thượng cổ là đã truyền từ Nam lên Bắc hay nó đã đi từ Bắc xuống Nam? Người quan tộc đọc không nổi chữ nho nên thầy Hứa Thận mới phải soạn ra sách “Thuyết văn giải tự” là cuốn sách công cụ để dạy cho họ cách đọc chữ nho cho đúng âm điệu của nó. Qui tắc lướt để tạo từ như nêu ở trên, và thời cổ đại đã được Hứa Thận vận dụng để dạy cách đọc chữ nho , cho ta thấy là chữ QUỐC là hậu duệ trực hệ của chữ NƯỚC. Hán thư viết thời Tam Hoàng Ngũ Đế thì dân sống theo “thủy” (ý nói dòng chảy, con nước) nên lấy tên “thủy” đó làm tên xứ sở và làm họ. Vậy mà cho đến tận bây giờ cũng chỉ còn có mỗi dân tộc Việt là duy nhất trên thế giới này gọi xứ sở mình là “nước”, vậy họ có phải chính là hậu duệ đích tôn của Tam Hoàng Ngũ Đế ấy hay không?. Con nước nơi quần cư, thời cổ đại dân Việt gọi là Nác hay Lạc mà Hán phải gọi là Lạc Thủy. Nhiều Nác nhỏ hợp lại thì thành một nền hành chính lớn cấp trên là “Nác Của Nác”. Chữ “Của Nác” ấy đọc lướt theo qui tắc tạo từ của tiếng Việt thì thành Quốc. Của Nác = Quốc( cụ Hồ còn ký là Nguyễn Ái Quấc), nên “Nác Của Nác” thành “Nác Quốc” mà chữ nho viết là Lạc Quốc. Chữ “Của” thì trong tiếng Quảng Đông là “Cơ”, Của Nác họ đọc là Cơ Lạc nên lướt thành Coọc. Chữ nho Quốc 國 là một vuông nghĩa là “ Vùng”, bên trong có chữ "Hoặc 或 ” là âm lướt của hai chữ “Họ Lạc” (" Hoặc" = "Họ Lạc" ), ghép bằng chữ Qua 戈 là cái qua đồng của người Lạc Việt. Hán thư viết, dân thời Tam Hoàng Ngũ Đế sống theo “thủy” lấy “thủy” làm họ, vậy “Họ Lạc” tức dân Lạc lấy Lạc làm họ đó thôi. Chữ Chu 周được ông Hứa Thận thời Đông Hán “giải tự” nghĩa là Mật tức đông đúc, nên Chu Văn Vương 周 文 王 nghĩa là Vua Vùng Đông Đúc, vì chữ Văn 文 tiếng Quảng Đông đọc là Mảnh cũng có nghĩa là Vuông tức Vùng, là một diện tích, như từ Mảnh Ruộng trong tiếng Việt, mà về hìnhchữ Văn 文 thì nó có vạch chéo là cái đường chéo tượng trưng cho hình vuông, cũng có nghĩa là Giao, chữ Giao 交 cũng có hình chéo, tức vùng Giữa, là nơi giao lưu của mọi miền, Chỗ Giữa đọc ngược lại theo cú pháp Hán là Giao Chỉ. Chu Văn Vương tức vua vùng đông đúc mà thôi, chứ không phải ông ấy họ Chu, mà ông ấy lại là họ Cơ 姬, gốc từ vùng sông Cả, tên ông ấy là Cơ Xương姬 昌, được phong đất vùng Tây Bá tức vùng núi đá phía tây ( theo như tiếng Choang “bá” nghĩa là “núi đá” mà ngày nay khai quật được di chỉ trống đồng ở núi Ba Thị tức “núi đá gốc” theo tiếng Choang, nay gọi là Đại Minh sơn ở Quảng Tây, là đất tổ của người Choang, hậu duệ của người Tày cổ tức dân Lạc Việt). Tây Bá tức vùng Qúi Châu và Quảng Tây ngày nay, sau khi được phong đất Tây Bá thì ông Cơ Xương được gọi là Tây Bá Cơ Xương. Chữ 國 ấy người Việt Nam đọc là Quốc, người Quảng Đông đọc là Coọc. Quốc Vương là Vua của Nước, vì “Quốc” = “Của Nước” mà trong chữ Quốc ấy còn rõ cả Họ Lạc và cái qua đồng của dân Lạc Việt thì rõ ràng không phải là ta đi mượn của “từ Hán Việt” nào cả, như các nhà hàn lâm vẫn nói. Cái từ “Nác của Nác” hay Nác Nác = Lạc Quốc còn hiện diện ở miền Trung Việt Nam trong từ Đắc Lắc, nơi các sắc tộc vẫn còn có cây Nêu trong ngày hội như ở người Kinh có cây Nêu trong ngày Tết, Đắc nghĩa là nước, Lắc cũng nghĩa là Nước, cái “hồ Lắc” là miệng núi lửa xưa ở đó có nghĩa là “hồ Nước”, Đắc Lắc cũng có nghĩa là một Nác Nác = một Lạc Quốc vậy. Ở đó cư dân vẫn còn ở nhà sàn tre mái cong như nhà sàn tre mái cong của người Việt xưa hay ở các vùng khác của Đông Nam Á, mà kiểu nhà ấy tiếng Mã Lai và Indonexia gọi là “Tangga”, tiếng Chăm gọi là “Thanggiơ” đều có nghĩa là “bước lên Thang mới vào được Nhà”, mà từ “Thang” thì có nghĩa là “cái để leo” của tiếng Việt, còn từ “Thoòng” của tiếng Hoa nghĩa là “cái nhà” mà chữ nho viết là chữ Đường 堂 trong “từ đường” là cái “nhà thờ”. Ngôn ngữ và văn hóa từ thời thượng cổ đã từ phương Nam mà đi lên phương Bắc là như vậy. Cái mái cong bằng tre của nhà rông ấy hiện diện ở khắp Hoa Nam là mái ngói cong, còn lên phía Bắc là mái bầu chóp tròn như cái nậm rượu hồ lô, dư ấn của cái lều vải úp của dân du mục đồng cỏ. Từ qui tắc lướt để tạo từ của tiếng Việt, ta còn thấy nguồn gốc rặc Việt của từ TẾT. Các nhà hàn lâm ở Hà Nội thì giải thích rằng “Tết ta là ăn tết theo tết Tàu, theo lịch Tàu; người Tàu gọi cái lễ đón năm mới ấy là Xuân Tiết, ta mới gọi tắt một tiếng là Tiết rồi đọc chệch đi thành Tết ” (?). Nhưng chính các nhà hàn lâm ấy khi gọi tắt thì vẫn theo qui luật là gọi bằng tiếng đầu bỏ tiếng đuôi, ví dụ đi vô xứ Nghệ An thì nói tắt là đi vô xứ Nghệ chứ không nói là đi vô xứ An, đi vô xứ Quảng Ngãi thì nói tắt là đi vô xứ Quảng chứ không nói là đi vô xứ Ngãi. Ấy vậy mà Xuân Tiết lại không gọi tắt là Xuân mà lại gọi tắt là Tiết kể cũng tài (?). Làm tội các cháu khi du học bên Tây, nghỉ ngày Tết âm lịch, các bạn Tây hỏi ồ sao chúng mày cũng đón Chinese New Year à ? thì không biết trả lời như thế nào. Tục Tết là từ ta đi lên hay từ Tàu đi xuống?. Nguyên thủy nó là từ Té , là té nước trong lễ hội cầu mưa của cư dân nông nghiệp Nam Á, nghi lễ cầu trời gọi là Tế, chữ nho viết là Tế 祭. Lễ lớn nhất trong năm là lễ cúng lúc đón giao thừa kết thúc năm cũ sang năm mới gọi là Tế Hết Năm (Tàu gọi là Quá Niên , cũng còn gọi là Tất Niên là hoàn tất một năm cũ). Do qui luật lướt nên “Tế Hết Năm” đã lướt thành “Tết Năm” (Tế Hết = Tết), cái từ Tết Năm ấy gọi tắt thì theo qui luật lấy tiếng đầu là Tết chứ không lấy tiếng cuối là Năm. Đó là sự hình thành chính xác nhất từ Tết trong ngôn ngữ Việt bắt nguồn từ phong tục cổ xưa nhất của người Việt từ thời Thần Nông cách nay hàng vạn năm. (Tết bắt nguồn từ lễ hội Té nước, nước té rồi thì nó ngã rạp xuống đất, nên người phương nam còn gọi ngã là Té nhưng nó bao hàm cả rớt xuống nước, bởi dân sông nước thì ngã chỉ có nghĩa là rớt xuống nước tức Té, về sau từ Té dùng chung cho cả trên cạn nên ngã xe máy cũng gọi là Té xe máy). Chuẩn bị cho Tết nhất định phải có cây Nêu, là cây tre dựng đứng mà từ thời cổ đại tổ tiên ta đã dùng đo bóng nắng mặt trời để tính ra lịch nông nghiệp gọi là âm lịch, nên cây Nêu phải dựng ngoài sân tức ngoài trời để thờ Trời, tức cây trụ của từ Trụ nghĩa là thời gian trong từ ghép Vũ Trụ, mà Vũ có nghĩa là không gian lại là do từ Vỏ, là cái vỏ mênh mông chứa đựng và vo tròn tất cả . Nội dung Tết Việt là phải đủ như câu: “Thịt mỡ, dưa hành, câu đối đỏ; Cây nêu, tràng pháo, bánh chưng xanh”, trong đó thấy đủ cả Âm Dương Ngũ Hành, nông nghiệp, công nghiệp và văn học. Tục cây Nêu ngày nay vẫn tồn tại trong các lễ hội và trong Tết. Ở thành phố nhà không có sân để dựng cây Nêu thì người ta đành dựng bên lễ cúng là cây mía còn nguyên cả ngọn tượng trưng cho cây Nêu, vì nó cũng nhiều đốt như cây tre vậy. Trên cây Nêu treo các thứ tượng trưng cho mong ước tốt đẹp, nên từ Nêu là ý đẹp, nêu gương tốt. Nhưng trong đời sống cũng có khi bắt buộc phải nêu gương xấu để răn đe. Cái cây Bắt (phải) Nêu ấy lướt thành cây Bêu, như cây treo con bù nhìn xấu xí để đe chim khỏi phá hạt mới gieo ở ngoài đồng, gọi là cây Bêu. Cũng có khi chẳng phải ý đẹp hay ý xấu mà vẫn buộc phải Bắt Nêu thì người ta đã lướt thành cây Bẹo, đó là cây tre dựng treo các loại trái cây và hàng hóa mẫu để “quảng cáo tiếp thị” gọi là cây Bẹo trên mỗi thuyền bán hàng của chợ nổi vùng sông nước miền tây Nam Bộ. Cây Nêu đã từ Tết đi vào cuộc sống bình thường của người dân. Tìm khắp đất Hoa Bắc chẳng có tục cây nêu từ thượng cổ đến nay mà học giả nước ta lại dám bảo là Tết ta là do từ bên Tàu kể cũng lạ.2 likes -
2 likes
-
Trung hoa Ngũ hành ...sử. Trích Sử ký chương Tần thủy hoàng bản kỷ : ....”Thủy Hoàng xét việc năm đức lần lượt thay đổi nhau nên cho nhà Chu được “hỏa đức” nhà Tần thay đức nhà Chu thì phải theo cái đức mà “hỏa” không thắng được. Từ này là “thủy đức” bắt đầu: đổi đầu năm, việc triều cống, chúc mừng đều bắt đầu từ mồng một tháng 10. Áo, quần, cờ tiết, cờ mao đen, lấy số 6 làm đơn vị, các phù và các mũ đều dài sáu tấc, trục xe sáu thước, sáu thước làm một bộ, đi xe sáu ngựa, đổi tên sông Hoàng Hà là đức Thủy vì cho rằng “thủy đức” bắt đầu. Cai trị thì cứng rắn nghiêm nghị, gay gắt, sâu sắc, mọi việc đều dùng pháp luật để quyết định, khắc bạc, không dùng nhân đức, ân nghĩa. Có thế mới hợp với con số năm đức”.... Những dòng trên cho thấy người Tần đã dùng dịch học để thể hiện các đặc tính của triều đại mình , 5 đức họ nói đến chính là Ngũ hành được vận dụng vào nhiều lãnh vực : - hành Thủy , phương nước tức phương đối lập với hành hỏa phương lửa ở Xích đạo . - màu đen đối với màu đỏ . - mùa đông đối mùa Hạ . - số 6 và 7 là 2 số đối trong Hà thư (đồ) theo trục bắc –nam , số 8 - 9 là trục đông –tây. Trong phần trích trên duy có thông tin nhà Chu đức Hỏa là sai với ngũ hành sở dĩ có sự lầm lẫn này vì âm ‘Chu’ cũng nghĩa là màu đỏ như vậy là thuộc hành ‘Hỏa’ , chính xác phải gọi là nhà Châu nghĩa là sáng như trong châu - ngọc vậy , nhà Châu ở phương tây , ông Cơ xương là Tây bá hầu ; tây biến âm của tư - tứ cũng nghĩa là sáng láng , nhiều thông tin lịch sử khác liên quan tới phương tây đều hàm ý sự sáng như Hạo , Chiêu , Bạch, bạc .v.v.. Sở dĩ vậy vì trong ngũ sắc thì phương tây là màu Trắng . Rất có thể là 3 triều đại đầu của vương quốc Trung hoa không hề xưng danh , bản thân triều đại nào cũng chỉ xưng là ‘vua’ mà thôi ; các danh xưng Hạ Thương Chu là do những nhà viết sử đặt ra vì không định danh thì làm sao phân biệt và kết nối thành lịch sử . Vua tổ nhà Hạ gọi là ông vũ hay đại vũ . Vua khai sáng nhà Thương xưng là võ vương . Vua lập nên nhà Chu lại cũng là vũ vương . Vũ - võ chỉ là 1 và ‘vũ’ chính là ký âm từ ‘vua’ của Việt ngữ , việc thêm chữ vương nghĩa là vua vào sau chữ vũ cũng là vua chỉ ra : sử gia đã không xử lý chính xác các thông tin tư liệu , bản thân chẳng hiểu nghĩa từ ‘vũ’ là gì nên đã biến 1 danh từ chung chỉ thủ lãnh thành tên riêng của thủ lãnh ...; phải chăng đây là sự cố như bao sự cố dở khóc dở cười khác xảy ra khi chuyển thông tin từ kiểu chữ ‘đại triện’ sang kiểu chữ ‘tiểu triện’ ở thời Tần ? Trong Lịch sử Trung hoa Không phải chỉ riêng nhà Tần được biểu hiện bằng những tính chất của Ngũ hành mà toàn thể lịch sử cổ đại đều như thế , tên gọi của cả 3 triều đại Hạ Thương Chu đều là những thuộc tính của ngũ hành : Tóm lược những đặc tính của ngũ hành thể hiện trong các lãnh vực : Trước hết xin lưu ý là hành Kim và Thổ đã bị người Tàu hoán đổi vị trí , chi tiết xin đọc Dịch học họ Hùng nhưng để dễ dàng tiếp nhận cho người đọc ở đây vẫn dùng hệ ngũ hành đang biết : - hành Thổ (Dịch học Tàu ) : Trung tâm , không mùa , màu vàng , quân thiên , số Hà thư là 5-10 . - hành Mộc : Phương đông , mùa xuân ,màu xanh , thanh thiên , số Hà thư :3 – 8 . - hành Hỏa : Phương nam ngày nay (xích đạo ) ,mùa hạ , màu đỏ , Viêm thiên ,số Hà thư : 2-7 . - hành Kim ( Dịch học Tàu ): Phương Tây , mùa thu , màu trắng , Hạo thiên , số Hà Thư : 4 – 9 . - hành thủy : Phương bắc ngày nay , mùa đông , màu đen , Huyền thiên , số Hà Thư : 1 – 6 . Nhà Tần thuộc hành thủy đã qúa rõ vì Sử ký đã chép đầy đủ những thuộc tính như màu đen , mùa đông số chủ đạo là số 6 ...ngoài ra dựa vào Ngũ hành do bản thân tên gọi các triều đại còn có thể đễ dàng nhận ra: - Nhà Hạ thuộc hành Hoả : mùa hạ , hướng Xích đạo nhiệt đới , màu đỏ hay Đào Hồng , ,Viêm thiên , số HT: 2 - 7. Thần bản mệnh là Hoả thần Chúc Dung .v.v... - Nhà Thương hành Mộc : màu xanh hay thanh - thương , muà xuân , phương đông , , Thanh thiên , số HT : 3 – 8 . - Nhà Châu (sáng) hành Kim (DH Tàu) : màu trắng - sáng , Hạo thiên ( vùng trời sáng), mùa thu , phương tây ( tư- tứ : sáng ), số HT 4 – 9 . Sử gia thời cổ Trung hoa đã dựa vào Nền tảng ngũ hành , căn cứ vào chính vị trí địa lý miền đất trung tâm của triều đại đó mà tạo ra tên gọi các triều đại ...nên chỉ với thông tin : nhà Tần đức thủy màu đen cũng đã đủ để khẳng định thời tiên Tần lãnh thổ Trung hoa không thể nào nằm ở bắc Hoàng hà được . Các vùng của mặt phẳng phân theo Ngũ hành : Lưu ý : Lãnh thổ Trung hoa nằm trọn ở bắc bán cầu . Vẽ theo quy tắc bản đồ hiện nay Ứng dụng nguyên tắc ‘mặt phẳng ngũ hành ‘ vào thực địa Trung hoa : Nước Cao dịch sang Hán văn là Sùng là tên nước vua Thành Thang tổ nhà Thương phong cho con thứ của mình , chính vì điều này mà người Canh còn có tên là người Keo ... ; chùa Keo ở Hà nội có tên chữ là Sùng Nghiêm .( xin được bàn chi tiết ở 1 bài khác )Ngoài những thông tin mang tính cơ bản trên còn rất nhiều thông tin khác hỗ trợ cho luận thuyết lịch sử ‘ngũ hành ‘ này tiêu biểu như : - thủ đô thứ 3 của nhà Hạ là Dương thành..., Dương thành nay còn sờ sờ ở Quảng châu sao không thấy nhà sử học nào để ý tới ???, đất Cối kê quay ra Nam hải nơi thờ Hạ vũ cũng vẫn còn đứng đó sao không ai đến vùng núi này tìm bản văn mà Tần thủy hoàng đã khắc ?. - Tư liệu lịch sử nói rõ Vùng Giang tây xưa là lãnh thổ của Từ quốc , ‘Từ’ chỉ là tên dịch sang Hán văn chữ ‘Thương’ của Việt ngữ mà thôi nên chính xác nước ở đây là Thương quốc nước ở phía đông ...ấm ớ ‘từ’ biến thành ‘tây’ như trong giang tây thì chỉ có trời mới hiểu ... - Qúy châu âm Hán Việt phát âm đúng ‘tiếng Tàu’ là Cùi Chu hay Kỳ Chu...đó là tên chính xác của đất tổ nhà Chu , dòng Châu giang vẫn lượn lờ bấy lâu không đủ làm bằng chứng cho sự tồn tại của ‘Trung hoa’ thời nhà Chu hay sao ? - Tứ xuyên , Thục xuyên hay Xuyên thục và Tần xuyên chỉ là 1đất , tứ thục tần – tốn chỉ có nghĩa là phía tây , xuyên là sông chỉ phương nam ,đất tây nam này nơi vua Chu phong cho họ Đinh là cố tổ của Tần thủy hoàng ...., liên quan đến vua Chu và nhà Tần nhiều tư liệu nói đến việc vua Chu ban cho tần vương 1 chiếc trống đồng...hỏi vua Chu nếu ở Thiểm tây thì làm gì có trống đồng mà ban với tặng ? Tóm lại còn rất rất nhiều thông tin liên quan đến “Tứ đại ” Trung hoa nếu đem so chiếu với Ngũ hành thì không còn cách nào khác là ....bắt buộc phải xem xét lại toàn bộ lịch sử từ thượng cổ tới ngày nay . Trước đây người viết bài này đã có lúc nghĩ .... phải viết lại 1 lịch sử khác cho Trung hoa nhưng nay ...thấy không cần như thế mà điều cần là phài ‘hiểu’ lại , hiểu cho đúng những gì đã có sẵn trong sách sử là đủ ./.1 like
-
KINH TẾ SUY THOÁI - nghĩ về Quẻ DI Thiên Thanh vn.360plus.yahoo.com/lyso01 Khi kinh tế phát triển thì có hiện tượng suy thoái về đạo đức. Khi kinh tế suy thoái, đôi khi lại là điềm lành cho sự phục hưng của nền đạo đức chân chính.Trong một thế giới mà nền kinh tế không dựa trên cơ sở của những giá trị nhân bản, con người lúc nào cũng cuồng nhiệt đi tìm hạnh phúc theo một thứ chủ nghĩa vật chất, đến nỗi người ta chẳng còn thì giờ để nghĩ xem cách làm ăn của mình có phản ánh được các giá trị đạo đức mà mình trân trọng, để rồi một lúc nào đó con người chợt nhận ra tâm thức của mình đã trở nên hoang dã, khô cằn.. Phải chăng sự mất cân bằng bên trong con người dẫn đến sự mất cân bằng của thế giới, và ngược lại ? Trong một thời điểm mà thế giới đang oằn mình vì thiên tai, chiến tranh, suy thoái kinh tế và nhiều nơi sống trong cảnh đói khổ triền miên, có lẽ mọi người nên dành ít thời gian suy ngẫm về chính mình qua ý nghĩa rất to lớn của quẻ Di. DI là quẻ thứ 27 trong 64 quẻ của Kinh Dịch, do quẻ dưới là Chấn và quẻ trên là Cấn hợp thành, tượng trưng cho sự nuôi dưỡng (vật chất và tinh thần). Quẻ Di tuy có nghĩa là nuôi dưỡng, nhưng câu mở đầu của Quái từ đã răn giới ngay là phải biết giữ gìn sự đúng đắn ngay chính. Ý nghĩa “nuôi dưỡng ngay chính” trình bày trong quẻ được thể hiện ở hai điểm : Một là đạo “nuôi mình” thì gốc ở đạo đức, không được bỏ đạo đức mà theo đuổi dục vọng. Hai là “nuôi người” là phải công bằng, giúp mọi người tu dưỡng đạo đức. Về ý nghĩa của 6 hào thì 3 hào dưới đều là “nuôi mình” không đúng đạo là xấu, 3 hào trên là nỗ lực “nuôi người”nên đều được “cát”. Trong Chu dịch chiết trung, viết: “Ba hào Sơ cửu, Lục nhị, Lục tam đều là nuôi lấy thân mình, tư lợi nhỏ nhen. Ba hào Lục tứ, Lục ngũ, Thượng cửu đều là lấy đạo đức để nuôi dưỡng người, công tâm to lớn. Công tâm to lớn thì tốt, đó là đi đúng đạo Di. Tư lợi nhỏ nhen thì xấu, đó là đi sai đạo Di”. Qua đó có thể thấy, nghĩa lớn của 6 hào đều tập trung ca ngợi thịnh đức của đạo Di là “dưỡng nhân”, “dưỡng hiền” và “dưỡng thiên hạ”. Quái từ viết: “ Di, trinh cát. Quan di, tự cầu khẩu thực”, nghĩa là: quẻ Di tượng trưng cho sự di dưỡng, giữ gìn được sự ngay chính thì thu được tốt lành. Quan sát hiện tượng nuôi dưỡng của ngoại vật thì nên sáng tỏ một điều là, khi cầu thức ăn để bỏ vào miệng thì phải theo đúng chính đạo. Câu “Quan di, tự cầu khẩu thực” là cứ nhìn đạo nuôi dưỡng và việc tìm cầu thức ăn của con người thì mọi điều thiện ác, tốt xấu đều thấy rõ cả. Thoán truyện viết: “...Thiên địa dưỡng vạn vật, Thánh nhân dưỡng hiền dỉ cập vạn dân, Di chi thời đại hỉ tai !” , nghĩa là : Trời đất nuôi dưỡng muôn vật, Thánh nhân nuôi dưỡng người hiền và muôn dân. Công lao hiệu quả của Thời vận quẻ Di thật là to lớn biết bao ! Đại tượng truyện viết: “Sơn hạ hữu lôi, Di. Quân tử dỉ thận ngôn ngữ, tiết ẩm thực”, nghĩa là : Dưới núi có tiếng sấm vang động (Quẻ Di tạo thành từ quẻ Chấn ở dưới (động) và quẻ Cấn ở trên (tĩnh) là hình tượng của miệng nhai thức ăn để nuôi dưỡng cơ thể ). Bậc quân tử nhìn tượng đó thì phải cẩn thận lời nói để dưỡng đức, tiết chế ăn uống để dưỡng thân. Sau đây là ý nghĩa các hào : 1. 初九: 舍爾靈龜, 觀我朵頤, 凶. Sơ cửu:Xã nhỉ linh qui, quan ngã đóa di, hung. Dịch: hào 1, dương: dứt bỏ con rùa thiêng (tượng trưng phần tinh thần quí báu) của mày mà cứ nhìn ta ăn uống đến nỗi xệ cả mép xuống, xấu. Giảng: nội quái là Chấn, có nghĩa là động, cho nên cả ba hào đều diễn cái ý mình đi cầu cạnh người . Hào dương thực (hào1) mà lại cầu lợi dưỡng với hào âm hư (hào 4) ở trên, dưỡng thân như vậy là trái đạo, thèm thuồng cầu ăn ở người khác để nuôi xác thịt, mà quên phần tinh thần của mình (quí như con rùa thiêng ) như vậy rất xấu. Sự tham dục này thể hiện tính xấu xa của những người chỉ ham ăn, tham lam đến mất cả liêm sỉ. Chu dịch Trình thị truyện viết: “ Lòng dục một khi đã máy động thì tuy là bậc hiền tài sáng suốt, cuối cùng cũng sẽ thất thố. Vì vậy cái tài ấy cũng không đáng quý”. 2. 六二: 顛頤, 拂經, 于丘 頤, 征凶. Lục nhị: điên di, phất kinh, vu khâu di, chinh hung . Dịch: Hào 2, âm: Đã điên đảo hướng xuống dưới để cầu được nuôi dưỡng, lại làm việc trái với đạo lý là hướng đến bậc tôn giả ở trên gò cao mà cầu xin. Cứ đảo lộn như thế là xấu. Giảng: Hào này âm nhu, không tự sức nuôi mình được, nên phải cầu ăn với hai hào dương 1 và 6, như vậy là người trên xin ăn người dưới, đảo lộn, trái lẽ thường rồi; còn như cầu ăn ở hào trên cùng (ví như cái gò cao), thì hào này không ứng hợp với 2, 2 sẽ bị từ chối, bị khinh nên mang nhục. Nên để ý: theo lẽ thường hào 2 quẻ Di vốn là hào trung chính, nhưng vì không ứng với hào Ngũ, nên trở thành điên đảo dẫn đến xấu. Đây là quẻ nuôi dưỡng, mà hào này lại không đủ sức tự dưỡng được. 3. 六三: 拂頤, 貞凶.十年勿用无攸利. Lục tam: Phật di, trinh hung. Thập niên vật dụng vô du lợi. Dịch: Hào 3 âm: Cách nuôi trái hẳn với chính đạo, xấu. Giữ gìn sự ngay chính để đề phòng hung hiểm. Mười năm (có nghĩa là tới cùng) cũng không được thi thố tài dụng. Nếu thi thố thì sẽ không được lợi ích gì. Giảng: Hào này âm nhu, bất trung, bất chính, lại hay động (vì ở trên cùng nội quái Chấn) không chịu ngồi yên, thấy đâu có ăn là đâm đầu vào. Chu dịch chú viết: “ Cư xử bất chính để cầu lợi dưỡng ở bề trên là xiểm nịnh vậy, là hoàn toàn trái với chính đạo”. Lời hào vẫn có ý tự mình răn giới. Chu dịch Trình thị truyện viết: “ Sở dĩ răn giới rằng cuối cùng sẽ không dùng được, vì đường lối mà mình đi theo là rất trái với đạo lý vậy”. 4. 六四: 顛頤, 吉.虎視眈眈, 其欲逐逐, 无咎. Lục tứ: điên di, cát. Hổ thị đam đam, kì dục trục trục, vô cữu. Dịch: Hào 4, âm: Đảo lộn cách nuôi mà tốt. Quay xuống dưới mà cầu được nuôi dưỡng (rồi dùng đó để nuôi dưỡng người) thì tốt đẹp. Như con hổ nhìn một cách chăm chăm, lòng ham muốn không dứt, không có lỗi. Giảng: Hào này ở vào thời ‘Di”, được âm nhu đắc chính, ở vào địa vị cao, được hào 5 chí tôn tương đắc với mình (cùng là âm cả) lại thêm có hào 1 dương ứng với mình, như vậy là người trên biết trọng đạo nghĩa, biết hạ mình cầu người dưới (hào1) nuôi mình. Tuy là điên đảo, trái lẽ thường nhưng do hào này có đạo đức ở việc “nuôi dưỡng sự ngay chính”, cầu mong đúng đạo để mình giúp đỡ dân chúng, cho nên vẫn là tốt. Nhưng phải chân thành, tha thiết, chuyên nhất, không gián đoạn (như mắt hổ nhìn chăm chăm, ham muốn không dứt), cứ liên tục cầu hào 1 giúp hoài thì mới có kết quả, không có lỗi. Cầu nuôi ở hào này khác với cầu nuôi ở hào 2 ở chỗ hào này là cầu nuôi về tinh thần, chứ không phải về thể xác. Chu dịch Trình thị truyện viết: “ Quay xuống cầu được lợi dưỡng mà lại được tốt. Đó là vì được hào dương cương ứng hợp giúp đỡ cho. Còn như mình ở trên mà thi hành ân đức, ánh sáng trùm khắp thiên hạ, thì ai còn tốt hơn thế nữa”. 5. 六五: 拂經, 居貞, 吉.不可涉大川. Lục ngũ: Phật kinh, cư trinh, cát. Bất khả thiệp đại xuyên. Dịch: Hào 5, âm: Trái lẽ thường, bền chí giữ đạo chính thì tốt. Không thể vượt sông lớn được. Giảng: Hào này như một vị nguyên thủ, có trách nhiệm nuôi người, nhưng vì âm nhu, kém tài, nên phải nhờ người hiền (tức hào trên cùng) nuôi mình (giúp đỡ mình); như thế là trái với đạo lý “nuôi người hiền và nuôi muôn dân”, nhưng cứ bền chí, giữ gìn sự ngay chính thì sẽ được tốt đẹp; vì nhờ người khác giúp đỡ để mình làm trọn nhiệm vụ nuôi dân. Tuy nhiên, ở vào thời này tài sức yếu kém (âm nhu), không thể tự mình làm việc lớn , tuy được dựa vào bậc cương hiền (hào trên cùng) nhưng cũng chỉ có thể xử lý những lúc bình thường, chứ không thể xử lý được trong những lúc có biến cố nguy hiểm. Vì thế Hào từ khuyên: không thể qua sông lớn được. Cầu nuôi ở hào này cũng là cầu nuôi về tinh thần. Chu dịch Trình thị truyện viết: “ Kiên trì đi theo bậc hiền giả là hào Thượng cửu để nuôi dưỡng thiên hạ vậy”. 6. 上九: 由頤, 厲吉, 利涉大川. Thượng cửu: do di, lệ cát. Lợi thiệp đại xuyên. Dịch: Hào trên cùng, dương. Thiên hạ nhờ mình mà được nuôi, trách nhiệm mình lớn như vậy, mình phải thường lo lắng, cẩn trọng thì được tốt. Qua sông lớn được. Giảng: Hào này dương cương mà ở trên cùng, như bậc làm thầy cho vị nguyên thủ, vị nguyên thủ nhờ mình mà nuôi được thiên hạ, thì cũng như chính mình nuôi thiên hạ. Trách nhiệm lớn như vậy nên mình phải thường lo lắng, sợ hãi, rất thận trọng thì mới được tốt lành, mà thiên hạ được phúc lớn . Hào này dương cương có tài, không như hào 5, cho nên làm được việc lớn gian hiểm. Chu dịch Trình thị truyện viết: “ Nếu hào Thượng cửu gánh vác nhiệm vụ lớn lao mà biết đau đáu thận trọng, thiên hạ nhờ đó mà đội ơn trạch, thì đó là điều đại phúc khánh vậy”. Mong mỗi người trong chúng ta tự nhìn lại mình đang đứng ở vị trí nào trong 6 hào của quẻ Di, từ đó có sự tu dưỡng cho đúng với chính đạo, nếu được đứng vào 3 hào trên thì đã là phúc lắm , còn nếu được ở hào trên cùng thì phúc đức cao đẹp không gì bằng . Mong lắm thay !1 like
-
hờ hờ, xin lỗi các bậc tiền bối nếu có mạo muội quá, nhưng các bác NHẢM quá rồi, đang vấn đề tướng số đột nhiên lôi vào một đống bài theo kiểu xa xa gần gần thanh thanh tục tục Hồ Xuân Huơng style. :lol: Tôi vẫn nhớ một câu nói mang máng theo kiểu " tâm tốt thì tướng xấu sinh tốt, tướng tốt nhưng tâm xấu thì tâm diệt tướng"... cuộc sống chả ai được toàn vẹn, có thể cái này cái kia chưa hoàn hảo thì biết mà khắc chế thôi, chứ nói theo kiểu các bác làm tôi nghĩ "đang động viên những tính chưa ok của chị chủ thớt nổi dậy" Gà nào cũng có hay của riêng nó, và chẳng phải ai cũng tự dưng lấy được loại Gà mình muốn.........LÀ PHỤ NỮ VỐN PHẢI QUẬT CƯỜNG, GẶP PHỤ NỮ QUẬT CƯỜNG ĐANH THÉP THÌ CHỈ CÓ NGƯỜI ĐÀN ÔNG XỨNG ĐÁNG MỚI LÀM CÔ TA TỰ ĐỘNG QUY HÀNG..lúc đó Sư Tử cũng hóa thành Mèo Con..đợi gì loại Gà nào mới được với không? Một con gà không đẹp hơn chỉ vì nó biết cách hạ thấp loại gà khác xuống, hãy chỉ là chính nó thì nó mới là number 1. Xin lỗi tôi nóng nảy vì số tôi lấy được một con gà trắng mặc dù tôi chỉ mơ ước được lấy gà vàng, và tôi suốt ngày phải chịu ánh mắt kì thị của những kẻ rỗi hơi có phần nào suy nghĩ như hai bài viết nhảm nhí ở trên. Và tôi chúa ghét thói hạ thấp phụ nữ chỉ vì những người đàn ông không đủ tự tin về giá trị bản thân mình. :D :P :(1 like
-
Số ly hương không phải là xuất ngoại, (Ly- dời đi, hương là làng xã) bạn phải xa quê cha đất tổ , bạn không có số nhờ vả anh em họ hàng , tổ tiên thì phải dời đi nơi khác mà lập nghiệp thì mới mong thành công còn ở nhà chỉ tổ thêm phiền phức vợ bạn sau này mồm năm miệng 10 bạn khắc vợ e rằng trong nhà thiếu hòa khí. số bạn ngoài 40 tuổi thì vượt qua các cửa ải khó khăn. Bây giờ thì không nên dãy dụa nhiều mà mệt người. Bác học trò nói đúng đấy cậu càng nóng vội thì càng hỏng việc, không phải là đùa vui tếu táo đâu. chuyện tình của cậu cũng vậy khả năng cậu ăn phải canh bầu mà nên vợ chồng nên chuyện khắc khẩu sẽ đúng, Bác học trò nói cậu bình tĩnh là vì lý do này ...1 like
-
Món này tự xem được mà :lol: Hoặc có biểu hiện giống bạn Đặng này : http://www.lyhocdongphuong.org.vn/diendan/...0&start=180 @Xuân Đặng: nghiêm túc nhắc nhở bạn cần đọc kỹ trước khi viết bài, tuyệt đối không được lặp lại lần nữa trong chủ đề của Haiphuong1 like
-
Sang năm thì chuyện tình cảm khắc có nhưng cưới thì ..hơi khó mắc cái quả cô thần quả tú .... chiếu thì khả năng bỏ chạy tuột bỉm là nhiều, - Công danh tài lộc chưa đến hồi phát dã hãy hết sức bình tĩnh nhé! và càng phải thật bình tĩnh khi lấy vợ, thế nhé!1 like
-
Khà khà....bàn về gà QN góp vui đôi chút nhỉ. -Cái giống đà điểu đen trũi twf châu phi thì chắc chị em không thích rồi. Nó vừa đen vừa khét...gớm chết bắt tay chúng nó một cái mà về rửa tay 3 ngày không hết khét. Nhưng cái món gà tây thì chậc...chậc... nó tuy to thật nhưng thịt thì chán chết, ăn vừa bở vừa không có vị ngọt. Trách nào mấy ông nhà mình cứ tìm cái giống gà ri, gà thả đồi.....chẹp... thịt vừa thơm vừa dai lại ngọt nước. - Giống gà trắng này nó không biết bới giãi, ngày xưa nhà tôi có nuôi mấy con thế mà nó ăn nhiều nên nó chóng lớn. chỉ tội cho mấy cô gà ri thấy nó to xác đi qua thì cứ nằm bẹp xuống mời mọc ...cái này đựoc gọi là sính ngoại đấy các bác ạ. mà khổ ...sau này đẻ ra một ổ trứng... ra cái loại mà các cụ gọi cho hay là Tam Hoàng, giống tam hoàng thì da lông như gà ri mà thịt thì như cái anh gà trắng chán chết.... tôi thì tôi gọi giống này là tam mao... ba chòm , chòm 1 là ô mao, chòm 2 xích mao( râu ngô mao) chòm 3 là bạch mao. gọi là tam mao thì đúng hơn chứ tam hoàng gì cái giống nửa ta nửa tây. Chỉ khổ cho cái lũ gà ri choai choai thấy giống tam mao thì cứ nhảy cẫng lên thế là cũng bầy đặt nhuộm xanh đỏ cho giống tam mao, mà quên mất là gà ri đang có giá trên thị trường, gà ri thì gọi là gà ri còn loại giả gà ri thì là cái giống gì hả chú nòng nọc. hiện nay trên thi trường có giống gà ri được nuôi bằng cám công nghiệp, cái cám này ăn vào chóng lớn nhưng thịt không ngon, nên khách dễ bị lừa vì vẻ hào nhoáng và giống đồng loại nhưng sau mấy lần thì thực khách không dùng loại gà này. Túc quá mấy con gà loại này mới phát biểu là người việt nam không sành ăn mà chỉ có tây mới sành ăn... thôi thì sang tây cho tây nó thưởng thức thịt mình xem nó khen chê thế nào ....thành ra cái thửa ruộng ba bờ ở dốc Mông nó cứ toang hoác cả lên. loại ruộng này bây giờ cày bằng máy chứ cầy bằng trâu như các cụ thì khác nào đuôi chuột và lọ mỡ. Nói thế thôi nòng nọc đi nhiều chớ có rước cái loại râu ngô về nhé, lại sản sinh ra một lũ tam mao, hay cẩu tạp chủng nào đấy thì lạc việt mình mất hết cội nguồn. May mà nước Việt có Trưng Vương và Triệu bà Vương làm gương cho các chị em chứ không thì cứ theo Kỹ nghệ lấy tây thì chết cha..............1 like
-
có nên làm nhà hàng không ? NTH ra quẻ Sinh Tiểu cát : hiện tại xung quanh NTH cho thấy ! bạn có thể làm . và thời gian tốt cho công việc có thể là vào khoảng tháng 3-4 AL năm sau sẽ thấy tốt . thân chào !1 like
-
Bàn về các loại "gà" - bác sĩ Trần Đại Sỹ... BÀN VỀ BA LOẠI GÀ: ĐEN, TRẮNG, VÀNG Thưa Quý-vị Bàn chung, trong các thân chủ của chúng ta, họ có ba loại gà: Đen, trắng, vàng. Vậy Quý-vị hãy cùng tôi luận về ba loại gà này. Về phương diện giống nòi thì loại nào, màu da nào hay bị cúi đầu e thẹn? Gà nào to, gà nào nhỏ, gà nào cứng, gà nào mềm, gà nào dẻo dai ? Đã có vị hỏi : Trên thế giới có ba giống người da đen, da trắng và da vàng. Thế gà loại nào chọi giỏi hơn ? Xin thưa Bàn chung mỗi loại đều có ưu điểm riêng. Đầu tiên là gà đen, Đầu gà đen thường lớn, nhưng hơi ngắn và mềm xèo. Lớn thì khi ra, lúc vào khít khịt khìn khít. Ta hãy ví với lò rèn. Cái ống lớn làm cái bễ lò rèn căng ra. Những bà, cô thuộc loại mông nở lớn, hoặc sinh nở nhiều, hoặc đã lâm chiến dạn dày như nàng Kiều sau mười lăm năm sướng, cái ngàn vàng toang toàng tựa lỗ trê, thì nhất định loại gà đen mới thấy đã. Bằng nhỏ như gà trắng, gà vàng thì giống đuôi chuột ngoáy hũ tương, như gió thoảng ngoài thì có cũng như không. Thế nhưng giống gà đen có nhiều khuyết điểm. Một là trông thiếu thẩm mỹ, muốn thưởng thức chỉ có cách tắt đèn thì nhà ngói cũng như nhà tranh. Nhưng gà đen thường hôi, hôi như dê, như cừu, khét khét khó chịu vô cùng ấy là không kể bị đàm tiếu. Nước trong xanh lơ lửng con cá vàng. Cây ngô, cành bích, con phượng hoàng nó đậu trên cao. Anh tiếc cho em phận gái má đào, Tham đồng bạc trắng mới gán mình vào với chú Tây đen. Sợi tơ hồng ai khéo xe duyên, Treo tranh tố nữ đứng bên anh tượng đồng ! Chị em ơi ba bảy đường chồng... (Tản Đà). Lại nữa, lỡ ra quên thuốc ngừa thai, hoặc giả ăn vội ăn vàng, ít lâu sao sinh ra một cục cà-phê sữa thì nói sao với ông chồng nói sao với thiên hạ ? Thông thường các bà thuộc loại toang toàng này thường đi tìm các đồng nghiệp Sản-khoa (Gynecology) hay Niệu-khoa (Urology) hoặc chúng ta (Sexology) để may cái ngàn vàng này lại. Bấy giờ mùa Xuân của các bà phục hồi như thời đôi mươi, ướt át, phơi phới. Thứ đến gà trắng Chủ nhân gà trắng thường to lớn đồ sộ, nhưng ở đời, cứ mười sự thì chín không như ý muốn. Các cụ xưa đã có kinh nghiệm trồng khoai. Hễ dây tốt thì củ nhỏ, dây nhỏ thì củ lớn. Mấy ông trắng trông to con, nhưng củ thì cứ rút vô hang, đầu thò ra ngắn ngủi như đầu rùa, cụt ngủn. Đã vậy các ông trắng bụng to, đùi lại lớn, thành ra phạm vi lâm chiến không được làm bao, chỉ múm vô nàm thôi. Mà hỡi ôi, giống gà trắng thịt bở lắm. Ai không tin cứ vào các siêu thị, thấy trăm bà Á-châu đi chợ, thì đủ trăm bà mua gà vàng, chẳng bao giờ mua gà trắng cả. Một đặc điểm nữa khiến quý bà, cô không mấy thích thú là gà trắng khi lâm chiến không dai sức. Chỉ đâu hai ba hiệp là xổ mũi liền, rồi gục đầu xuống. Chủ nhân đành chịu đầu hàng, trong khi nàng vẫn chưa chịu: Chàng bảo chịu, thiếp rằng chửa chịu. Thua thì thua, quyết níu lấy con. (Hồ Xuân Hương). Giống gà trắng biết vậy, nên chủ nhân thường dùng đầu lưỡi thay thế cho gà, miệng lưỡi múa may, ăn phó-mát Ca-măm-be, khiến cho địch thủ đứ đừ ra rồi mới cho gà lâm chiến, nên đôi khi cũng khiến các bà hài lòng. Bây giờ tới giống gà vàng Về phương diện thẩm mỹ thì gà vàng với gà trắng ngang nhau. Gà vàng thì nhỏ hơn gà trắng; nhưng, xấu dây mà củ lại tốt. Xét về chiều dài lâm chiến thì gà vàng hơn hẳn gà trắng, gà đen. Xét về bề thế thì kém gà trắng, gà đen đôi chút. Nếu ta xẻo đầu gà đen, trắng, vàng đem cân thì trọng lượng cả ba bằng nhau, vì đầu gà trắng, đen bều nhều trọng lượng không làm bao. Còn đầu gà vàng, tuy nhỏ hơn, nhưng chắc nịch. Gà vàng thường dai sức giống như anh thợ cưa, cưa hoài không mệt. Bởi vậy các cụ tổ làm luật Á-châu như Tử Sản, Triệu Dương Hoán, Đặng Tích, Lý Khôi, Tiêu Hà của Trung-quốc và Phùng Vĩnh Hoa, Lý Long Bồ, Lê Văn Hưu, Nguyễn Văn Thành của Đại Việt bao giờ cũng cho phép các ông lấy nhiều vợ. Tuy luật cho phép, nhưng giới bình dân chỉ một vợ thôi. Ấy là nói chuyện xưa chứ; chuyện đời nay thì từ năm 1990 về trước, các ông Á-châu ở Hoa-kỳ gần như chỉ có một nửa hoặc một phần ba bà vợ thôi. Gần đây có phong trào về nước cưới vợ. Các bà, các cô mất giá quá, các ông thừa thắng xông lên, lấy lại được đôi chút khí sắc. Ghi chú: Các ông da vàng đây để chỉ Việt, Miên, Lào, Thái, Hàn, Ấn, Nhật, Phi... chứ không kể Trung-quốc. Vì Trung-quốc hiện lâm cảnh gái thiếu, trai thừa. Các bà ở ngoại quốc thường về nước tìm chồng! Ngày xưa thường thì chỉ người giàu, hoặc giới quan lại mới cần nhiều vợ, để cho chủ nhân con gà lúc nào cũng thanh thản, chứ cứ để các ngài thèm thuồng, rồi khí tồn hại não thì sao làm việc được ? Chủ ý nhà làm luật là như thế, nhưng các ông lợi dụng quá đáng. Vua thì nào hoàng hậu, quý phi, tu nghi, tu dung, uyển nghi, uyển dung, tài nhân, cung nữ. Ít thì vài ba trăm, nhiều thì hai, ba nghìn. Những vua như Tần Thủy-Hoàng, Hán Vũ-Đế thì lúc ít nhất cũng ba nghìn, còn khi nhiều thì đâu bẩy tám nghìn gì đó. Hóa cho nên các ông vua vùng Á-châu Thái-bình dương, ông nào sống quá năm mươi tuổi đã là thọ lắm. Các quan thì cũng năm thê bảy thiếp, mươi nàng hầu là thường. Vua quan nhiều vợ quá thì lâm chiến sao cho đủ ? Chỉ mấy năm là sức cùng lực kiệt. Các ngài thấy nguy, vội tìm thầy thuốc. Đó là lý do Á-châu giỏi nhất thế giới về khoa sex, tức bồi bổ cái đó cho các ông. Trở lại với gà vàng. Một đặc điểm không thể chối cãi là gà vàng cổ cứng lại dài, bởi vậy hang trê thăm thẳm, nó cũng xung vào đến tận cùng, khiến đối thủ cứ dãy lên đành đạch. Tóm lại, dẻo dai, dài cổ, cứng như gỗ, lại chọi hoài không mệt, là đặc tính của gà vàng. Nhưng chủ gà vàng thường bị ảnh hưởng triết lý Đông phương cổ chồng chúa vợ tôi, nên độc tài hơn Mao Trạch Đông, phát-xít quá Hitler, luôn ra lệnh cho vợ còn hơn Mao, hơn Hitler. Ấy là không kể gặp bà vợ đành hanh đỏ mỏ, già mồm già họng, thường được các đức ông chồng âu yếm bằng cú đấm, cú đá, đôi khi bằng củi tạ. Gần đây bên Hoa kỳ, các bà đi ăn vụng, ăn cháo, ăn chè, còn được các ông cho chó lửa khạc đạn vào người, đưa bà tiêu dao miền Cực lạc (hay về nước Chúa). Khi bàn về vợ chồng các bạn Pháp, Đức, Mỹ, Úc thường hỏi tôi : – Đàn ông Việt các anh có cái gì đặc biệt, mà hễ con gái da trắng thử một lần là đeo cứng, không buông ra ? Tôi cười : – Thử đoán xem ? – Đoán thế chó nào được. Đàn ông Việt các anh đếch đẹp hơn chúng tôi. Trông bên ngoài kém bề thế rõ ràng. Tiền bạc chỉ xem xem thôi, đôi lúc thua. Khi nói năng thường tiết kiệm lời nịnh đầm. Cứ mười người các anh khi lấy vợ da trắng là y như cả mười ra lệnh cho vợ. Còn trăm cô lấy chồng da trắng, thì trăm cô coi chồng như con chó tu-tu, thế mà bọn chồng chúng tôi không hề phản đối. Anh có thể cho tôi biết tại sao không ? – Tại truyền thống của chúng tôi là truyền thống thăng bằng âm dương, hợp với trời đất nên có sức mạnh vạn năng. – Xin rửa tai nghe về cái mà anh gọi là thăng bằng đó. – Quốc tổ nước Việt là Lạc Long Quân, ngài thuộc loài rồng. Quốc mẫu là Âu Cơ, ngài thuộc loài chim. Người Việt chọn vật tổ có tính chất lưỡng nguyên, phân âm dương. Chính cái lẽ phân âm dương đó làm cho chúng tôi có nhiều nữ anh hùng. Đứng đầu trong nữ anh hùng thế giới là vua Trưng. Khi được mời làm câu đối cho hội tôn kính Trưng Vương ở Hoa Kỳ vào năm 1987, tôi đã viết: Quốc sắc thiên hương, nhân loại hữu, Anh linh thần võ, thế gian vô. Nghĩa là: trong giới nữ lưu, những người đẹp như vua Trưng thì nhân loại cũng có đấy. Xa thì chẳng nói làm gì, gần đây như Romy Schneider, Brigitte Bardot, Marilyn Monroe, Lâm Đại, Lạc Đế, Trần Ngọc Liên, Phùng Bảo Bảo, đâu thiếu? Nhưng dùng thần võ lập nên đế nghiệp, khi thác lại hiển linh, thì trên thế gian này không có hai. Sau này chúng tôi còn bà Triệu, còn công chúa Bảo Hòa, Bình Dương, Thủy Tiên, còn nữ tướng Bùi Thị Xuân. Thấy thính giả có vẻ tin tôi tiếp : – Người Trung-hoa họ lấy vật tổ là con rồng. Người Anh lấy vật tổ là là con sư tử. người Mỹ lấy vật tổ là con chim ưng. Người Pháp lấy vật tổ là con gà trống. Tất cả chỉ có một, mà nào có biết đó là rồng, sư, ưng thuộc loại đực hay loại cái ? Tôi đã có dịp bàn luận với mấy ông giáo sư sử học tại đại học Côn-minh, và hỏi rằng : Rồng của các lị là rồng đực hay rồng cái ?. Các ông ngẩn người ra, không trả lời được. Còn chim ưng của Hoa Kỳ, gà của Pháp, sư tử của Anh, thì rõ ràng là sư đực, ưng đực, gà trống. Tóm lại vật tổ của hầu hết các nước trên thế giới nếu không phải là đực thì cũng không phân rõ đực cái. Nghĩa là họ chỉ có một nguyên lý, chỉ có nguồn gốc cha, thiếu nguyên lý mẹ, vì vậy họ không thăng bằng âm dương. Kinh Cựu-ước nói rằng: Thượng đế tạo ra ông A-đam. Ông sống trong vườn Địa đàng đầy cây trái, hoa thơm cỏ lạ. Thượng đế tưởng rằng ông hạnh phúc lắm. Nhưng vì chỉ có nguyên lý dương, thiếu âm nên ông buồn. Thượng đế thương tình mới ban thêm cho một bà Ê-va ra đời để có âm, có dương, hầu có thăng bằng. Đại Việt tôi là con trời, nên mới có đủ nguyên lý âm dương. Rồng cha, Âu mẹ. Chúng tôi có hai vật tổ. – Doóc ! Thế Úc cũng lấy vật tổ là con đà điểu và con kanguru, chẳng là hai đó ư ? – Tôi đã đến Úc nhiều lần, nhân khi trà dư tửu hậu có hỏi mấy ông giáo sư triết học bản xứ rằng: Thế con đà điểu với con kanguru con nào là con đực, con nào là con cái ? Các ông đều nghệt mặt ra, không trả lời được. Cũng có ông bảo: Cả hai con đều đực. Tôi trêu : Như vậy, suy từ vật tổ, các anh thiếu lẽ thăng bằng âm dương, thành ra khi lâm trận, các anh không dẻo dai, cùng thiếu bền bỉ. Vì chúng tôi có thăng bằng âm dương nên có thể chiến ngày, chiến đêm, không bao giờ cúi đầu e thẹn cả. Tục ngữ nước Việt-nam tôi nói : Đêm bảy, ngày ba vào ra không kể. Các ông bèn móc : – Vì người Việt các anh lâm chiến hoài không mệt, nên dân số các anh tăng mau quá, đến độ nước anh là một trong những nước nghèo nhất thế giới. Tôi bèn tịt ngòi hết giở giọng triết lý cùn ra được.1 like
-
Khà ...kha...khá... vỡ bụng với HT thôi phải. đúng đó hết sức bình tĩnh.... muốn lấy vợ hả có cách đấy như người đi ăn xin cứ xộc vào nhà ,.... không cho cậu cứ ở lỳ ra là lấy được vợ thôi .......khà còn công danh tài lộc hả chưa đến lúc phát thôi ... lúc phát tướng cậu không hãm được đâu nhưng giàu có thì không nhiều1 like
-
Bạn Nòng Nọc phạm quy. Chỉ được hỏi tối đa 2 số thôi. Và...chờ trả lời, khi rảnh rỗi. :lol: Thiên Đồng1 like
-
Xem Sim Số Tốt
ngongoe liked a post in a topic by Thiên Luân
0982.052.388 : Sử dụng số này thì trong nhà chị em gái bất hòa, hay cãi nhau với người thân, mặc dù vậy ra ngoài có nhiều bạn, giao tiếp rộng. Trong công việc dễ xích mích với đồng nghiệp nên cẩn thận tiểu nhân quấy phá. Khi giao tiếp với người ngoài nên chí thành, khiêm tốn. Có khả năng hoàn thành tốt nhiều nhiệm vụ nhưng thường chậm, trì trệ, nước tới chân mới nhảy. 0948.758.818 : Sử dụng số này là người tốt tính, là trung gian hòa giải của nhiều người. Số hay giao lưu ăn nhậu, tụ tập, thích đi xa du lịch. Trong gia đình hay trong công việc đều là người vô tư, thích giao du. Thẳng tính nên dễ bị mích lòng, phải cẩn thận khi đi vào các mối quan hệ. Thân mến!1 like -
1 like
-
Hiệu quá sau khi sửa chữa theo Phong thủy Lạc việt vượt ngoài sự tưởng tượng của Thiên Đồng, cứ nghĩ rằng sau khi sửa thì hiệu quả tốt, Sư cũng ngồi dậy được là mừng. Không ngờ bậy giờ còn đứng được mà tinh thần sáng hơn, so với ngày trước thì Sư nằm miên man liệt chiếu. Chắc cũng nhờ vào công đức của Sư và của chùa. Chư tổ phò hộ. A di đà Phật! Thiên Đồng1 like
-
1 like
-
Ánh mắt này chỉ cuốn hút những người gặp lần đầu và chỉ cuốn hút những người ưa nịnh.... còn với ánh mát này MyMy sẵn sàng giết chết kẻ thù mà không cần rơi lệ, ánh mắt này cho biết MyMy có năng lực của một nhà lãnh đạo sát thủ......... + gò má này MYMY sẵn sàng cho những kẻ vô tài vào tử địa.... không hợp tính cách của phụ nữ thông thường nghĩa là dùng hòa bình thay cho chiến tranh..........1 like
-
1 like
-
1 like
-
Minh lấy cho bạn "có nên làm nhà hàng không?" được quẻ Kinh - Lưu niên, theo mình thì bạn quyết định làm nhà hàng sẽ phải mạnh dạn, chịu mạo hiểm (ý là có thể phải chịu lỗ vốn) một thời gian dài đấy (có thể khoảng 1 năm). Sau đó bạn sẽ thành công (có lãi nhiều) đến bất ngờ nữa. Ui chà, nhớ lúc đó đãi anh em bữa nhậu nha. Chúc thành công! TB: quẻ của mình chỉ mang tính tham khảo thôi nhé vì mình vẫn đang trong giai đoạn "luyện công".1 like
-
hi hi, anh Henry cứ làm tẹt đi. Đằng nào cũng làm cả 2 cái mà, vừa làm việc ở cty, vừa làm việc ở quán. Nên tùy theo thời vận mà tấn tới thôi anh ạ :D. Tay trái và tay phải đều to khỏe như nhau :) Hic, chữ Kinh-Lưu Niên này đúng là nói một số về cv của anh nhưng do LienChau luận sai. Luận tập trung ở chữ Kinh mới đúng.1 like
-
1 like
-
Theo tôi thì lá số nầy có sự sai lệch về lịch tàu và ta ,nhưng nếu lấy lá số theo Qt thì hợp với lịch ta thì âm lịch chỉ đi chậm hơn dương 1 tháng /mặc dầu lá số của cô nầy đưa lên và lá số của Qt lấy tháng 12 âl thì gần giống nhau ;nhưng thêo cách luận số song sinh đảo ngược như đã nói với Qt vừa qua thì tháng 12 âl có phần đúng hơn vì lá số nầy của chị ,ẩn số là người em /còn lá số lấy theo tháng 11 âl thì lại đão ngược .1 like
-
Chị có thể tham khảo thêm đường link này, em không hiểu lắm về cách làm lịch, nhưng thấy trường hợp này hơi khó nên cũng tò mò. Đọc tài liệu này theo em hiểu thì trang web này muốn nói ngày mùng 1 tết năm Ất Sửu ở Việt Nam theo Tây lịch là ngày 21/1/1985 - em lấy nôm na trừ đi 9 ngày thì ra ngày 12/1/1985 (ngày dương của lá số)=> cũng trừ lịch âm đi 9 ngày thì nó rơi vào 22 tháng chạp (lịch Việt Nam theo trang web này nói) Còn trung quốc ngày tết năm Ất Sửu của nó là vào ngày 20/2/1985 tức là hơn Việt Nam khoảng 1 tháng dương, hay nói cách khác nó chậm hơn mình 1 tháng âm lịch (vì tết nó đến sau). Như vậy Theo trang tư liệu này thì diễn đàn mình phần mềm có vấn đề chứ không phải lịch của mình sai, lịch mình đúng hoàn toàn vì lá số 22 tháng chạp mới là theo lịch Việt Nam, còn 22/11 âm lịch là lịch trung quốc. (cung theo tư liệu này thì trung quốc nó nhuận vào năm Giáp Tý, Việt Nam nhuận vào năm Ất Sửu. Lẽ dĩ nhiên thời điểm cuối năm Giáp Tý nó phải sau mình 1 tháng). Không biết em hiểu như vậy có đúng không Đường Link: http://thoigian.com.vn/?mPage=P80D02 thêm nữa: http://lamwebmienphi.com/index.php?cmd=news&detail=28 Chị có thể kéo xuống cuối trang đọc phần Thí dụ 21 like
-
Chính tôi đi tìm bài viết cũng không được. Trong thời gian tới. Chúng tôi đã có kế hoạch nâng cấp diễn đàn. Tôi hy vọng một trong những yêu cầu nâng cấp sẽ là chức năng tìm bài viết.1 like
-
1 like
-
Theo em thì sinh tháng 11 thì người này không có phải mặt vuông mà mặt dài, răng xấu, mắt có quầng, người phải mảnh mai yểu điệu chân tay dài chứ không vai thô vuông như ngày 22/12. Vả lại tính cách 2 ngày khác xa nhau mà chị, tại vì có trục trặc 1 chút về lịch pháp, rất có thể là em sai, nên em cũng đợi bác lên để chỉnh sửa lại cho hoàn thiện hơn. Em thì có suy nghĩ hơi riêng 1 chút về nguyên tắc chị nói, em nghĩ là lá số song sinh thì đa phần là giống nhau về ngoại hình nên em không chú tâm lắm về sự khác biệt đó.1 like
-
Vũ trụ khởi nguồn từ chất lỏng 23/11/2010 16:20 (TNO) Ngay sau vụ nổ Big Bang, vũ trụ chỉ là một dạng chất lỏng cực nóng, với nhiệt độ cao hơn 10.000 tỉ độ C. Đó là kết luận ban đầu của các chuyên gia đang làm việc tại máy phóng hạt lớn nhất thế giới - Máy gia tốc hạt lớn LHC của Tổ chức nghiên cứu hạt nhân châu Âu (CERN). Các hạt ion chì va chạm bên trong LHC (ảnh minh họa) - Ảnh: CERN Họ đã lần đầu tiên tạo ra được vụ nổ Big Bang mini trong phòng thí nghiệm, cho ra đời một dạng vật chất nhớp nháp, bầy nhầy, được biết đến dưới cái tên plasma quark-gluon, hay còn gọi là "súp vi lượng". Tình trạng này là môi trường cực kỳ hoàn hảo cho các phân tử và nguyên tử đầu tiên hình thành, sau đó dẫn đến sự ra đời của các ngôi sao và thiên hà xung quanh chúng ta ngày nay. Phát hiện trên đã khiến các nhà vật lý học vô cùng ngạc nhiên vì nó đối chọi hoàn toàn với lý thuyết đã được chấp nhận lâu nay. Trước đến giờ, giới khoa học đồng ý với lập luận rằng ngay sau sự hình thành của vũ trụ, vụ nổ Big Bang phun ra một luồng khí cực nóng, và chúng kết hợp lại với nhau để tạo ra vật chất. “Trong những thời khắc đầu tiên, vũ trụ giống như là một khối chất lỏng hết sức đặc”, Daily Mail dẫn lời giải thích của tiến sĩ David Evans, một nhà vật lý học phân tử của Đại học Birmingham, trưởng nhóm nghiên cứu của Anh tham gia vào công cuộc tìm kiếm nguồn gốc đầu tiên của vạn vật tại CERN. "Những kết quả trên cho chúng ta thấy về sự tiến hóa của một vũ trụ sơ khai… và đây là điều thật sự khiến người ta ngây ngất”, Evans xúc động chia sẻ. Khám phá mới về vũ trụ là một trong những thông tin đầu tiên được đội ngũ chuyên gia quốc tế gồm hơn 1.000 người công bố sau khi thí nghiệm tạo nên Big Bang được thực hiện thành công cách đây 2 tuần. Các nhà khoa học đã sử dụng máy gia tốc hạt để bắn phá các nguyên tử chì bị tước mất electron vào với nhau bên trong bộ phân tích gọi là ALICE. Kết quả của sự va đập cưỡng bức này là những quả cầu lửa có nhiệt độ hơn 10.000 tỉ độ C xuất hiện bên trong đường hầm có chu vi 27 km. Ở nhiệt độ như vậy, các nguyên tử và phân tử đã chảy tan thành những phần tử là quark và gluon. Các nhà vật lý học luôn cho rằng tại nhiệt độ cực cao sau thời điểm Big Bang, các lực tương tác thường kết nối những quark và gluon vào với nhau trở nên yếu đi, tạo nên một hỗn hợp ở trạng thái tương tự như khí nóng. Nghiên cứu cách đây 5 năm tại máy gia tốc hạt ở Upton, New York (Mỹ), đã tạo ra nhiệt độ khoảng 4.000 tỉ độ C và lúc đó sản sinh một thể plasma quark-gluon giống như chất lỏng, nhưng nhiều chuyên gia cho rằng khi nhiệt độ tăng cao hơn thì chất lỏng này sẽ hóa thành khí. Tuy nhiên, nghiên cứu mới nhất tại CERN cho thấy điều dự đoán không hề xảy ra, khiến giới khoa học bắt tay vào tìm hiểu tại sao thể plasma quark-gluon lại không thể hiện như mong đợi. Giáo sư Brian Cox, nhà vật lý hạt tại Đại học Manchester, cho rằng những phát hiện mới đã một lần nữa khiến giới khoa học thắc mắc vũ trụ sơ sinh đã có hình dạng như thế nào. "Mọi người đang bàn tán về sức mạnh của sự tương tác giữa các hạt quark và cách những hạt này thể hiện với nhau. Chúng phải tương tác mạnh hơn người ta tưởng và hiện diện trong thể lỏng”, theo giáo sư Cox. Hạo Nhiên =======================================Anh chị em Phong Thủy Lạc Việt II và Phong Thủy Lạc Việt nâng cao thân mến. Trong bài giảng của tôi thì sau Lưỡng Nghi chính là "Khí". Nếu người ta thích gọi nó là chất lỏng thì cũng được. Nhưng đó không phải là "Hạt của Chúa"! Nếu các nhà khoa học đang nghiên cứu ở máy gia tốc xác định được chính Hạt của Chúa tạo ra chất lỏng này thì tôi sai. Anh chị em cũng cần nhớ rằng: Trong quá trình tiến hóa của vũ trụ, khí luôn hình thành và đều được phân loại. Lý luận của Big bang thật giống như chuyện thần thoại: Nói như vậy thì điểm kỳ dị bởi vật chất cô đặc với mật độ vô hạn chuyển sang thể lỏng và nở ra. Đoạn trích dẫn dưới đây cho thấy dấu hiệu đầu tiên về khả năng thất bại của thí nghiệm: 1 - Giả thuyết của các nhà khoa học: 2 - Kết quả thực nghiêm: Nhưng dù sao đi chăng nữa, việc bỏ hàng trăm tỷ Dol để làm máy gia tốc hạt cũng không hề phí phạm. Vì nó khiến cho các nhà khoa học phải xem xét lại thuyết Big bang và thời gian để quay trở lại nhìn nhận Lý học Đông phương sẽ nhanh hơn là những cuộc tranh luận vô bổ. Trong trường hợp này thì tôi sẽ giữ lời hứa: Chỉ ra sai lầm của họ và họ sẽ phải công nhận Việt sử 5000 năm văn hiến như một điều kiện tiên quyết.1 like
-
@ Quoc Tuan Em xem lại nếu lấy lá số theo ngày 22/11 giờ Ngọ và theo nguyên tắc xem song sinh mà Bác Haithienha đã chỉ, thì những lời mô tả của em rất phù hợp. Nhưng nếu lấy theo ngày 22/12 giờ Ngọ và theo nguyên tắc xem song sinh em có thể xem được lá số song sinh này? Tùy hỉ, chỉ là ý kiến của riêng chị thôi.1 like
-
Người 1: Tánh tình nóng nảy bộc trực có gì thường hay nói ngay không mấy khi để bụng, nhưng khá hào sảng xong là quên ngay, giọng nói to vang. Người này là người hay gặp tai nạn chân tay bị gãy hay có tật, ngoài ra còn bị bệnh về khí huyết, hay đau nhức xương cơ. Đương số hay được người khác giúp đỡ về tiền bạc công việc hay có lộc tự nhiên đến gọi là của trời cho, nhưng trong công việc thì không có mấy thực quyền, thường chịu cảnh trên đe dưới búa ko được trọng dụng, có phải làm về công việc liên quan đến tiền bạc sổ sách, kế toán hay cashier... Người 2: Tánh cũng nóng nảy, nhưng lại thâm trầm thường hay để bụng giọng nói cũng to vang, hơi kỹ tính. Tiền bạc không kiếm được dễ dàng cũng không có nhiều người giúp đỡ như người chị, kiếm tiền khá vất vả, lại hay bị ăn chặn trộm cắp móc túi. Thường hay có bệnh về máu huyết bệnh phụ nữ, công việc có phải làm công chức, liên quan tới y, giáo, hay kỹ thuật...Từ năm 24t đương số gặp rất nhiều chuyện phiền muộn, đau đầu căng thẳng thần kinh. Hai năm nay có vẻ tốt hơn Chị em sống rất hòa thuận, yêu thương và đùm bọc nhau nhỉ. Có phải người 1 là chị người 2 là em? :D Mình góp ý để học tập lá số bạn vì còn chưa hiểu rõ về sinh đôi lắm, mong bác haithienha chỉ dạy thêm cho chúng cháu...1 like
-
Lá số này thì dạng người hơi cao gầy, vai vuông lộ, mắt lộ, mặt vuông, trông nhìn có vẻ già dặn hơn so với cái tuổi, tánh hơi nghiêm khó gần. Một trong 2 người tánh tình rất trực tính nóng nảy. Lúc nhỏ hay khi mới sinh ra đã bị tật bẩm sinh hoặc rất thường hay gặp tai nạn, chân tay phải có lần bị gãy...1 like
-
có 1 trong 2 có người nào có dạng như sau ; hơi cao gầy mặt dài cằm nhọn ,má hóp nước da xấu hơi tối , có bệnh hay bị như cao áp đau dạ dầy , tánh tình thâm trầm nhưng nóng nảy , thích ăn ngon mặt đẹp đi chơi xa tiêu xài rộng rãi có bệnh mua sắm , hay mưu cầu tính chuyện viễn vông ngoài tầm tay ;cha mẹ có người từng bị bệnh như lao hay về phổi ,có anh chị em dị bào ?1 like
-
1 like
-
Giờ mùi ngày 20/10 Canh Dần. Công việc hiện tại của cháu có 'phù hợp' với cháu không ('phù hợp' tức là nếu kiên trì, sau này sẽ thành công- tiền tài, chức vụ => cái này tham quá cool.gif ...) - Thực sự cháu rất thích công việc hiện tại nhưng hiện tại hơi phân vân. Quẻ Kinh - Lưu Niên. Công việc hiện tại của bạn là gì thế? Hình như cũng có liên quan đến ăn uống, giải khát thì phải? 3. Cháu có dự định hợp tác làm ăn với 1 người bạn (học cùng lớp đại học và rất thân) về lĩnh vực ăn uống. Các chú các cô có tư vấn gì không ah: hợp tác tốt hay không (thành công hay thất bại), nếu làm thì khi nào là phù hợp (tụi cháu dự định khoảng giữa năm sau)... Quẻ Khai - Tốc Hỷ: Từ từ việc thành. Bắt tầu từ giữa sang năm (Hè sang năm) cũng được đấy. Quẻ của LienChau chỉ mang tính chất tham khảo thôi nha. Vì LienChau cũng mới học LVĐT. (Hôm nay LienChau vừa chạy việc về ko đc tập trung nên xem quẻ cứ thấy lo lo sợ trật) :D1 like
-
Chị em sinh đôi nhưng trong lá số cho thấy bên ngoài hình dạng hơi khác nhiều ? cho biết người đang hỏi thuộc hình dạng và cá tính như thế nào ,người nào thuộc em người nào là chị /1- dáng người hơi cao mặt hơi tròn hay trái xoan, ốm mắt cận ,răng xấu hay đau thường hay bị ho khan ,nước da xanh xám ,mắt sâu chung quanh mắt có quầng thâm , tánh tình điềm đạm ,hay suy nghĩ xa sôi ,ánh mắt buồn,nhân hậu độ lượng thật thà ,lời nói hùng hồn hay có tài biện luận ,ra ngoài thường được nhiều người quí mến ,trên vai phía sau lưng có nốt ruồi đen to hay có cái bớt gì ở đó , hay bị đau vai gần phía cổ , đang làm việc về văn phong hay công chức .có liên quan quan về tư pháp hay chính trị . 2- dáng người hơi cao to xương mập , mặt hơi tròn hay vuông ,mắt lộ nước da hơi ngâm ,trên mặt có tì vết hay trên tay chân trái có bị té gẩy hay bị vật gì đè lên làm gẩy có sẹo, tánh tình háo thắng nóng nảy ngang tàng ít chụi phục ai ,tiếng nói to, hay đại ngôn ,tiền bạc hơi keo kiệt bủn xỉn ,đang làm việc gì có liên quan đến kỷ thuật1 like
-
Hi! So với sự mênh mông của vũ trụ thì "con mắt" và "bàn tay" của Thượng Đế này hơi bị nhỏ. Có lẽ đây là sự nhầm lẫn của Nasa. :D1 like
-
Sau chuyến viếng thăm của gia đình HC đã có hình ảnh. Để so sánh Sư Thầy từ những ngày đầu tiên Đoàn từ thiện đến thăm khi chưa can thiệp Phong thủy. Và sau khi Sp cùng ACE đến áp dụng Phong Thủy, thời gian chưa đầy 3 tháng, tình trạng sức khỏe của sư Thầy như hình ảnh dưới đây.1 like
-
Xét về tuổi của cả nhà đều trong vòng tương sinh thiên can lẫn mạng, địa chi cũng ko phải xung khắc, có lẽ các biến cố gia đình nằm ngoài phạm vi Luận Tuổi. Theo TL thì bạn nên xem tử vi để biết vận hạn của gia đình, hoặc xem lại Phong Thủy nhà ở, sửa đổi PT có thể hỗ trợ thêm cho cuộc sống tốt hơn. Thân mến!1 like
-
Cưới năm nay, 2011 hoặc 2012, qua năm Quý Tỵ 2013 là Tam Tai của tuổi Hợi, kỵ cưới gả! Ý của TL là 2 vợ chồng cưới nhau hì sẽ hơi lận đận, sinh con sẽ ổn hơn, sinh đứa Giáp Ngọ là sẽ ổn định hơn, và chốt đứa cuối năm Mật Tuất là đẹp nhất! LVĐT có thể ra trang chủ down lý thuyết về luyện dần!!!1 like
-
Nhâm Thìn sinh mùa Xuân và Hè thì hợp cách. Chúc may mắn, Thiên Luân!1 like
-
Gia đình bạn có thể sinh Nhâm Thìn 2012!1 like
-
Hợp là hợp, sao lại còn tan, lại nghe giang hồ í a í ới rồi :P1 like