• Thông báo

    • Bá Kiến®

      Nội quy Lý Học Plaza

      Nội quy này là bản mở rộng Nội Quy - Quy định của Diễn đàn. Khi tham gia mua bán, các thành viên phải tuân theo những quy định sau: Tiêu đề bài viết: Bao gồm: Chỉ dẫn địa lý, Loại hình Mua/Bán, Thông tin mua bán.
      Chỉ dẫn địa lý: Tỉnh/thành nơi mua bán. Hoặc sử dụng định nghĩa có sẵn:TQ: Toàn quốc
      HCM: TP Hồ Chí Minh
      HN: Hà Nội
      [*]Ví dụ: HCM - Bán Vòng tay Hổ Phách ​Nội dung bài viết: Mô tả chi tiết sản phẩm mua/bán
      Bắt buộc phải có thông tin liên lạc, giá Mua/Bán
      Bài mới đăng chỉ được phép up sau 03 ngày.
      Thời gian up bài cho phép: 01 ngày 01 lần.
      Các hành vi vi phạm nội quy này sẽ bị xóa bài hoặc khóa tài khoản mà không cần báo trước.

Leaderboard


Popular Content

Showing most liked content on 24/11/2010 in Bài viết

  1. Đúng vào lúc 9 giờ 20 phút thứ tư ngày 1 tháng 9 năm 2010 (nhằm ngày 23/07/Canh Dần) bước chân đầu tiên của Đại Đức Thích Tâm Mẫn bước vào địa phận Thành phố Quảng Ngãi, đông đảo Phật tử, Đạo hửu Quảng Ngãi đã chào đón ngưỡng mộ Đại Đức. Đại đức Thích Tâm Mẫn, sinh ngày 6/10/1977 tại Quảng Nam tục danh là Lê Minh. Xuất gia tu học tại chùa Hoằng Pháp, Hóc Môn từ năm 2004, bổn sư truyền giới thượng tọa Thích Chân Tính trụ trì Chùa . Nhận thấy con đường tu tập kèm các công phu thiền học của các bậc Thiền sư Trung Quốc, Ấn Độ, Tây Tạng, Việt Nam Thầy Phát Nguyện hành trình về nguồn nhất bộ nhất bái để tìm lại các giá trị văn hóa, lịch sử, Phật Giáo. Cuộc hành hương dài hơn 1.800km từ Chùa Hoàng Pháp (TP.HCM) đến núi Yên Tử (Quảng Ninh). Chuyến đi có thể kéo dài 4 năm, nhưng cũng có thể ngắn hoặc dài hơn vì tùy theo hoàn cảnh thuận duyên hay nghịch duyên (Thời tiết hay sức khỏe) và Thầy cần giữ sức và giữ vững chí nguyện hơn là đưa ra chỉ tiêu nhất định về thời gian. Khởi hành từ chùa Hoằng Pháp vào hôm mùng 2 Tết Kỷ Sửu, đến ngày mùng 1 tháng 09 năm 2010, Thầy đã đến Thành phố Quảng Ngãi, trung bình mỗi ngày, Thầy di chuyển được hơn 2km. Hộ trì thầy trong suốt cuộc hành trình còn có các chú tập sự xuất gia trẻ tuổi, một vị theo sát thầy và một vị dắt xe hành lý (gồm tấm bạt trải nằm, chiếc lều nhỏ, hai bộ đồ nâu, một ít vật dụng cần thiết khác) và một số Đạo hửu Phật tử trên đường Thầy đã đi qua cũng đã tháp tùng cùng đi, lịch trình trong ngày của Thầy chia làm 3 lần đi, lần I khởi hành khoảng 3 giờ đến 6giờ thì nghỉ để dùng buổi điểm tâm sáng, lần II bắt đầu từ 6 giờ đến 9 giờ sáng, lần III buổi chiều Thầy tiếp tục từ khoảng 15 giờ đến 17 giờ thì nghỉ. Chuyến hành hương lễ lạy của thầy tuy mới đến Quảng Ngãi gần nữa cuộc hành trình, song cũng đã gặp không ít khó khăn. Ngoài việc dầm mưa dãi nắng dẫn đến đau bệnh một vài lần , nhưng đến nay, sức khỏe Thầy vẫn tốt và việc một số ít người cảm thấy “chướng tai gai mắt” tìm cách gây hấn, khiêu khích, rất đông Phật tử và người hiếu kỳ đến xem Thầy lễ bái thì số người đi theo quá đông cũng gây không ít trở ngại như huyên náo, ùn tắc giao thông… Trong suốt cuộc hành trình, Thầy và các vị thị giả không nhận bất kỳ vật phẩm nào do người khác hiến cúng. Việc ăn uống của các vị đều do Phật tử chùa Hoằng Pháp lo liệu. Mỗi nhất bộ nhất bái, Thầy niệm được từ 1 - 2 câu Nam mô A Di Đà Phật. Hai chú tập sự đi theo, một chú niệm Lục tự hồng danh còn chú kia niệm danh hiệu Quán Thế Âm Bồ Tát với Lộ trình trên 1800 km. Đó là một hành trình dài đầy gian khổ, khó thực hiện. Có những lúc Thầy Thích Tâm Mẫn phải tạm dừng “ Nhất bộ nhất bái” vài ngày vì hai đầu gối của thầy bị xưng to nên phải nghỉ ngơi tịnh dưỡng, Nguyên nhân là do thầy lễ lạy quá nhiều, đốt năng lượng mỗi ngày trong cái nóng chang chang và gió nắng của Miền Trung khắc nghiệt. Trong màn đêm giới Phật tử mặc áo Tràng tuần tự xếp hàng đi theo thầy, vừa đi vừa niệm Nam Mô A Di Đà Phật. Một số thanh niên Phật tử tay cầm đèn pin ở xa thường xuyên làm tín hiệu giảm tốc độ. Một số phương tiện xe Honda được lắp đặt thêm đèn báo hiệu xanh đỏ, đèn sạc thắp sáng, đèn pha … Trong kinh Phật có ghi Phật pháp bất ly thế gian pháp. Phải đem ánh sáng Phật pháp nhiệm màu ứng dụng vào trong cuộc sống đời thường của đại chúng thì mới thành công được. Người tu phải vào trong thế gian pháp. Quán chiếu âm thanh để từ đó lắng lọc, duyên khởi, tùy duyên chọn lọc mà hóa độ người. Người tu phải dấn thân vào thế gian để hoằng pháp độ sanh. Tứ oai nghi của người tu phải công khai minh bạch rõ ràng. Công hạnh tu tập của Thầy cùng với lộ trình đại nguyện, đại chúng đều biết rõ. Thầy thường từ chối giảng pháp để đảm bảo thời gian, sức khỏe. Tránh làm ảnh hưởng đến công phu tu tập và thời gian giữ gìn sức khỏe cần thiết để hành lễ của Thầy là một lý do chính đáng, Thầy quán sát những âm thanh và hình ảnh của đại chúng đang ngày đêm trợ duyên cho thầy hành lễ một cách lặng thầm. Điều gì khiến đại chúng phải thức khuya dậy sớm, quét đường cho thầy đi…? Thầy và thị giả hành lễ trong đêm trên Quốc lộ 1A tại Quảng Ngãi với một ngọn đèn nhỏ không đủ để thắp sáng trong đêm những âm thanh của đại chúng trợ duyên cho thầy nhưng lòng không hoan hỷ, tạp niệm, thầy cần nên có một thời gian nhất định trong một ngày, một tuần, một tháng gặp gỡ trực tiếp với đại chúng, quán sát âm thanh, để chọn lọc, tùy duyên hóa độ chúng sinh. Nhẩm tính, chặng đường từ TP.HCM đến Yên Tử dài khoảng 1.800km. Nếu đến đích, thầy sẽ lạy được khoảng 3 triệu lạy và niệm được khoảng 6 triệu câu hồng danh A Di Đà Phật. Con số này, nếu so với những hành giả nhập thất lễ lạy, có người lạy đến 5.000 lạy mỗi ngày, thì quả không nhiều. Tuy nhiên, có lẽ không nên đem con số ra để tính kể, bởi lẽ hình thức lễ lạy này là một lối tu hết sức gian khổ… mà thầy đã chọn, nhưng với thầy thì: “sự lễ lạy đối với chúng tôi lại là phương tiện của thiền định. Phương pháp này dẫn đến sự tập trung tư tưởng hơn hết, vì nó không đòi hỏi suy nghĩ hay nói năng gì. Những động tác chầm chậm nhẹ nhàng, lặp đi lặp lại mới chính là sự luyện tập trong hiểu biết, với chủ ý làm dừng lại những loạn tưởng trong tâm thức”. Con đường phía trước còn xa vời vợi - Hà Nội 888 km
    4 likes
  2. ntpt mà được viết đầy đủ lấy mấy chữ cũng đủ...đè chết 2 chữ nòng nọc :( DỪNG CHIẾN NHÉ!!! TRẢ LẠI TOPIC CHO NGƯỜI TA :)
    1 like
  3. @MYMY85, Sinh ra trong khó khăn, trưởng thành trong kham khổ. Thông minh ý chí nghị lực, lanh lợi, có tài ăn nói. Nhưng khóc thầm trước gương. Cảm mạo dễ mắc bệnh, hay bốc hỏa. Nên luyện tập thể dục, dùng than bổ thận khí. Nên dưỡng tóc khỏe mạnh, để mái che trán không nên lộ trán như hình. Bạn bè người làm không tốt đa số không trung thực, trộm tình trộm tiền trốn mất. Thiên Đồng
    1 like
  4. Hôm qua là ngày Tam Nương đấy, xui xẻo là đúng rồi! 1 tháng có các ngày sau hay xui xui cần tránh và phải cẩn thận hơn mọi ngày là mồng 3,5,7,13,14,18,22,23,27 ÂL!
    1 like
  5. Hi, quẻ Cảnh chỉ đi lại. Ngồi 1 chỗ khó tìm lắm chị ạ. Nói chung quẻ đó vào tháng này cũng khó vì Cảnh bị thủy triệt mất rồi. :D. Haiz, coi như của đi thay người, mất tiền tránh được cái nạn khác vậy :)
    1 like
  6. Tổng cộng quẻ độn toán chỉ có 48 quẻ thôi, quẻ dịch 64 quẻ dùng để vận dụng giải đáp cho mọi việc trên đời này, nên trùng quẻ là chuyện bình thường, quan trọng là tùy theo việc mà luận, tùy theo quẻ mà xét.
    1 like
  7. Sáng đọc bài báo này thấy rợn rợn, LienChau bắt chước các anh chị thử độn cho việc này để thực tập xem sao. Liệu chiến tranh Triều Tiên và Hà Quốc có mở rộng? Quẻ giờ Tỵ, ngày 19 tháng 10 canh dần: Đỗ - Tiểu Cát. Tiểu Cát mộc sinh Đỗ Hỏa. Quẻ này nói chiến tranh giữa Triều Tiên và Hàn Quốc có xu hướng mở rộng. Tiểu Cát mộc sinh Đỗ Hỏa. Mùa này là mùa thủy sinh Mộc, khắc Hỏa nên trong mùa đông này mọi chuyện diễn biến âm thầm. Đến mùa xuân, hè sang năm thì phát triển, hiện rõ. Xảy ra vào tháng nào? Quẻ Cảnh - Vô Vong: Tháng 2 âm lịch sang năm. Bên nào sẽ nổ súng trước: Quẻ độn: Tử - Đại An: Bắc Triều Tiên. Có xu thế mở rộng ra chiến tranh quốc tế không? Quẻ độn: Kinh - Lưu Niên :D Không mở rộng ra bình diện chiến tranh thế giới. Thiệt hại có nặng nề không? Quẻ độn: Khai Tốc Hỷ Thiệt hại khá nặng nề. Bên Hàn Quốc thiệt hại nặng nền hơn. Việt Nam có tham chiến không? Quẻ độn: Hưu - Xích Khẩu. Chỉ tham gia trên bình diện ngoại giao.
    1 like
  8. Cô nương này tự tin lắm, cho nên gặp các tiền bối cũng thành bạn hết :). Đời cũng vốn cân bằng mà, khi được cái này thì sẽ có cái ... không được. Âu cũng là số phận. Nhìn mặt thì biết cô nương tính khá chảnh, chỉ hay nhìn lên nên tự khép lại cơ hội tìm bạn đời cho mình chứ không phải là không có ai theo. Hihi!!! Sức khỏe cũng không được ổn cho lắm, nên bồi bổ vào nhé!!!
    1 like
  9. @ ktsb, ngày quý tị 19 tháng đinh hợi năm canh ngọ, giờ thìn. Quẻ: Thăng - Thái, Sơ lục động. Sơ lục: Doãn thăng, đại cát. Nên đi. Hơn nữa lại có quý nhân giúp đỡ mà ngại chi? Địa phong thăng ứng với người nuôi chí, tài đức thì không gì mà ngại. Nhanh thì tháng 2 năm sau đi, chậm thì đầu tháng 4 Al. Chúc thành công. Thiên Đồng
    1 like
  10. Nếu LienChau độn theo ngày tháng thì năm nay năm Dương, không có quẻ Sinh Vô Vong, trừ trường hợp độn theo cảm ứng thì không phân biệt năm âm năm dương. Riêng quẻ Sinh Vô Vong thì việc cũng không thành, coi như không tìm ra giấy tờ, Sinh Mộc (giấy tờ = mộc), Vô vong Thổ (vô vọng). Ngoại khắc nội, cho dù điều kiện tìm kiếm có thuận lợi thì kết quả vẫn khó khăn!
    1 like
  11. So với Nhật Bản thì Thái Lan có cơ hội hơn rất nhiều: - Chiến tranh không từng xảy ra ở Thái Lan, đất nước luôn trong tư thế ổn định. - Cùng theo nền quân chủ lập hiến. - Cùng theo một nền kinh tế thị trường như nhau - Có thời gian sống trong hòa bình nhiều hơn hẳn Nhật Bản Nhưng lại không thể vượt được Nhật Bản mà vẫn chỉ như thế từ xưa tới nay. Nói vượt Nhật Bản cho nó ghê, chứ đến Singapore cũng chưa vượt được nổi cơ mà. Đó chính là do hình thế phong thủy của Thái Lan không thuận lợi, hay nói cách khác là quá yên bình nên luôn được hưởng yên vui thái bình và cứ khi nào no cơm ấm cật thì Thái Lan lại xảy ra nội chiến :) :D :) Thân mến
    1 like
  12. Những phát minh rất nhỏ, nhưng ý nghĩa vô cùng lớn (Dân trí) - Thế giới đầy những sáng kiến tân tiến, nhưng nhiều khi chính những sáng tạo rất nhỏ lại là những giải đáp cho các vấn đề hóc búa của đời thường, đơn giản ở nơi này, nhưng chết chóc ở nơi khác. Cùng điểm lại một vài trong số đó. Ống làm sạch nước có thể giúp cho 900 triệu người không có nước sạch để uống trên thế giới an tâm hơn. Kenya là nước đầu tiên áp dụng cho kỹ thuật của cái ống dài có 0,3m, nhưng có khả năng lọc mọi nước bẩn để uống an toàn. Khi động đất xảy ra ở Haiti, vấn đề nước sạch để uống cho hơn 1 triệu nạn nhân sống sót hết sức gay gắt. Lập tức nhiều ngàn ống lọc LifeStraw đã được phân phối cho họ, với mỗi đầu lọc lọc được khoảng 700 lít nước bẩn. Một thế hệ LifeStraw mới, ngắn hơn, sau đó lọc được tới 1000 lít nước bẩn. Còn Respira, là loại thiết bị giúp nhiều trẻ em bị suyễn có thể thoát khỏi tử thần, vì các em không biết cách thở cho ăn khớp với loại thuốc phun aerosol thông thường. Respira là thiết bị đơn giản bằng giấy cứng gấp lại, buộc quanh miệng để đưa thuốc vào cơ thể bệnh nhân khi hít. So với giá một miếng đệm thông thường lên đến 20 USD, môt Respira chỉ có 1 USD, vừa túi tiền của hàng triệu gia đình có con bị bệnh ở các nước thứ ba. Cũng vì tấm lòng cho người nghèo, bình nước lăn bằng nhựa cứng Q Drum có thể chứa 30lít nước, được buộc vào dây dài chắc chắn để các phụ nữ hoặc trẻ em châu Phi kéo đi, không còn nhọc nhằn oằn lưng hay đau cổ mang những thùng chậu hàng ngày đi bộ lấy nước xa nhiều cây số. Còn cái Embrace là tên gọi một túi nhỏ để cứu sống khoảng 19 triệu em bé sinh non tại các quốc gia đang phát triển hàng năm. Nhiều em chết do không thể tự điều hòa thân nhiệt thích hợp. Một lớp lót bên trong sẽ mang lại hơi ấm cho bé trong nhiều giờ. Người phụ nữ ở Ethiopia phải xay ớt đỏ bằng tay từ nhiều thế kỷ qua, một việc làm mất nhiều thời gian và đau tay vì ớt làm phỏng da. Thiết bị có tên Pepper Eater bằng sắt có thể giúp nghiền ớt nhanh gấp 4 lần cái cối cổ truyền, mảnh ớt đều đặn đẹp mắt và giúp tránh da tay không bị bỏng vì dính ớt. Một người có lòng tên là Mohammed Bah Abba đã nghĩ ra cách làm “tủ lạnh cho dân quê” trữ thực phẩm trong nhiêu ngày mà không cần điện. Đó là hai lớp bình chứa, giữa có lớp cát thấm nước. Khi nhà nông thu hoạch cà chua, chúng có thể tươi tốt nhiều tuần trong các hủ lạnh này, thay vì có vài ngày như trước. Abba cho hay khi tìm tòi trong các tài liệu cổ, anh đã khám phá kỹ thuật cổ xưa này của bao thế hệ trước. Cuối cùng là một sáng chế dành cho nhiều triệu trẻ em nghèo nhưng hiếu học. Đó là cái laptop giá thật rẻ. Đặc điểm của nó là hai “cái tai thỏ” không cần dây điện và có cả e-book. Đã có 400.000 máy được chính phủ Brazil tung ra và thêm gần 100.000 cái khác được đặt chế tạo. Năm 2012, sẽ có loại còn tối tân hơn sản phẩm của Apple vậy. Việt Hà Theo National Geographic
    1 like
  13. 5. Sử Ký- Thiên Quan Thư: Sử ký là bộ sách kinh điển của phương Đông. Đó là tư liệu rất quý về Thiên văn cổ đông phương bởi vì chương Thiên Quan thư đã ghi chép tỉ mỉ và cẩn thận những quan trắc thiên tượng và những nghiên cứu về Thiên Văn từ đời thái cổ đến những năm trị vì của Hán Vũ đế (141-87). Xin được giới thiệu bản dịch Tiếng Việt của chương Thiên Quan thư để mọi người tham khảo. I. TRUNG CUNG (các vì sao quanh Bắc Cực) Ở Trung Cung,[2] sao Thiên Cực[3] sáng nhất. Đó là sở cư của Thái Nhất.[4] Bên cạnh là 3 ngôi sao, gọi là Tam Công[5] hay Tử Thuộc. Phía sau, xếp theo hình cong, có 4 sao: sao phía sau cùng sáng nhất là Chính Phi, còn 3 sao kia cũng thuộc về hậu cung.[6] Chung quanh có 12 sao hợp thành một đội cận vệ, gọi là Phiên Thần. Tất cả (4 chòm sao nói trên: Thiên Cực, Tử Thuộc, Tứ Phụ, Phiên Thần) là Tử Cung.[7] Phía trước[8] xếp thẳng hàng với miệng Bắc Đẩu (le Boisseau) là 3 ngôi sao hợp thành một hình nhọn, đầu hướng về phía Bắc, lúc ẩn, lúc hiện, gọi là Âm Đức[9] hay Thiên Nhất.[10] Phía tả Tử Cung có 3 sao gọi là Thiên Thương (cây giáo trời). Phía hữu có 3 sao gọi là Thiên Bảng (gậy trời dùng để đánh).[11] Phía sau có 6 sao, băng qua sông Ngân Hà đến tận chòm sao Doanh Thất,[12] nên gọi là Các Đạo (đường treo).[13] Bắc Đẩu gồm 7 sao, đã được Thư Kinh đề cập đến khi nói rằng (vua Thuấn) quan sát tuyền ki và ống ngọc hành để điều chỉnh thất chính.[14] Sao Tiêu gần với sao Giác.[15] Sao Hành dẫn tới chòm sao Nam Đẩu.[16] Sao Khôi dựa vào chòm sao Sâm.[17] (Xem lời giải về đoạn này của Joseph Needham dưới đây.)[18] Nếu xem sao vào chập tối, sẽ thấy sao Tiêu Tử khoảng núi Hoa đến Tây Nam. Nếu xem sao vào nửa đêm, sẽ dùng sao Hành làm chuẩn. Sao Hành ở giữa khoảng miền Trung Châu, giữa sông Hoàng Hà và sông Tế. Buổi sáng nhìn sao Khôi. Sao Khôi ở giữa miền biển, núi Đại, và phía Đông Bắc.[19] Chòm sao Bắc Đẩu là xe trời. Nó vận chuyển ở trung ương, chỉ huy bốn phương, phân Âm Dương, định bốn mùa, điều hòa ngũ hành, chi phối mọi sự, chuyển hó`a thời tiết, định độ số trời. Ở đầu sao Khôi có 6 sao xếp theo hình vuông, gọi là Văn Xương. Sao thứ nhất là Thượng Tướng, sao thứ hai là Thứ Tướng, sao thứ ba là Quí Tướng, sao thứ tư là Tư Mệnh (định vận mệnh), sao thứ năm là Tư Trung (coi về nội vụ), và sao thứ sáu là Tư Lộc (coi về tưởng thưởng). Ở khoảng giữa nhửng sao Khôi Đẩu[20] là nhà lao giam những bậc quí nhân. Ở phía dưới sao Khôi có 6 sao xếp thành từng đôi một, gọi là Tam Năng (Tam Thai). Nếu sao Tam Thai mà sáng đều, quân thần sẽ hòa hợp; nếu không sáng đều, quân thần sẽ gàng quải, xung đột. Nếu sao Phụ mà sáng, thì các quan đại thần sẽ mạnh; nếu sao Phụ mà nhỏ thì đại thần nhát sợ và yếu. Ở đầu sao Tiêu có hai sao: Một sao phía trong là Mâu, hay Chiêu Diêu; một sao phía ngoài là Thuẫn, hay Thiên Phong. Ngoài ra, còn có 15 sao hợp thành một vòng tròn, cũng thuộc sao Tiêu, gọi là tiện nhân chi lao (lao tù của người hèn). Nếu sao ở giữa chòm mà sáng, thì tù nhân sẽ nhiều; nếu mờ thì tù nhân sẽ ít. Nếu sao Thiên Nhất, Thiên Bảng, Mâu, Thuẫn mà lấp lánh nhiều và tỏa ra nhiều tia sáng, thì sẽ có giặc giã lớn. II. ĐÔNG CUNG (Bàn về 7 chòm sao: Giác, Cang, Đê, Phòng, Tâm, Vĩ, Cơ) Đông Cung Thanh Long có các chòm sao Phòng, Tâm. (1) Tâm là Minh Đường. Sao lớn nhất là Thiên Vương (Antarès). Sao phía trước và sao phía sau nó là các sao con gái. Ba sao này không nên thẳng hàng nhau. Nếu thẳng hàng nhau, thì sao Thiên Vương sẽ sai lầm trong mưu tính. (2) Sao Phòng là Phủ Khố, cũng gọi là Thiên Tứ (sao Tứ mã nhà trời). Sao về phía Bắc nhất là con ngựa phía bên phải nhất của cỗ xe. Cạnh nó có hai ngôi sao gọi là Kiềm. Phía Bắc có một sao gọi là Hạt. Ở phía Đông Bắc có 12 sao, xếp thành hình cong gọi là Kì (cờ). Bốn vì sao giữa chòm sao Kì gọi là Thiên Thị. Sáu ngôi sao ở giữa gọi là Thị Lâu. Nếu ở trong Thiên Thị mà có nhiều sao, thì dân chúng buôn bán phát tài. Nếu ít sao thì sẽ bị hư hao. Phía Nam chòm sao Phòng là Kị Quan. (3) Phía tả sao Giác là sao Lý (Thiên Điền), phía hữu là sao Tướng (Thiên Môn). Sao Đại Giác (Arcturus du Bouvier) là Thiên Vương đế đình. Mỗi phía cạnh sao Đại Giác đều có 3 sao như hình chân vạc, gọi là Nhiếp Đề. Nhiếp Đề chỉ thẳng vào miền sao Tiêu của Bắc Đẩu chi, vì thế gọi là Nhiếp Đề cách. (4) Sao Cang là Sơ Miếu, chủ tật bệnh. Phía Nam và phía Bắc sao Cang có hai sao sáng gọi là Nam Môn. (5) Sao Đê là Thiên Căn, chủ ôn dịch. (6) Nhóm sao Vĩ gồm 9 sao. Nếu những sao này mà hoặc mờ hoặc sáng thất thường thì vua tôi sẽ lục đục bất hòa. (7) Chòm sao Cơ còn gọi là Ngạo Khách, chủ khẩu thiệt. Nếu Hỏa Tinh phạm vào địa phận sao Giác, sẽ có chinh chiến. Nếu thấy sao Hỏa phạm vào không phận sao Phòng, Tâm, thì vua chúa cũng rất lo ngại. III. NAM CUNG (Bàn về Thái Vi viên và 7 sao Tỉnh, Quỉ, Liễu, Tinh, Trương, Dực, Chẩn; và Hiên Viên kỳ) [Thái Vi viên][21] Nam Cung Chu Điểu gồm có hai chòm sao tiêu biểu là Quyền và Hành. Hành tức là sân đình Thái Vi của Tam Quang. 12 sao xếp thành hàng vây quanh gọi là Phiên Thần. Phía Tây gọi là Tướng (võ), phía Đông gọi là Tướng (văn). Phía Nam có 4 sao gọi là Chấp Pháp. Ở giữa là Đoan Môn, hai bên là Dịch Môn. Trong cửa có 6 sao, gọi là Chư Hầu. Trong nữa, có Ngũ Đế Tọa. Phía sau có một chòm sao dày, gồm 15 sao, gọi là Lang Vị. Cạnh đó có một sao lớn gọi là Tướng Vị (Lang Tướng). Nếu mặt trăng và Ngũ Tinh vào vùng Thái Vi thuận chiều (tức là từ phía Tây lại), và ra thuận chiều, ta sẽ để ý chỗ chúng ra nơi đâu, nhà vua sẽ chém giết ở đó. Nếu chúng mà vào ngược chiều (tức là từ phía Đông lại) và phạm vào Đế Tọa, thì biết rằng bầy tôi sẽ mưu loạn. Nếu Kim Tinh và Hỏa Tinh phạm vào Thái Vi thì lại càng tệ hơn nữa. Phía Tây hàng sao Phiên Thần có 6 sao gọi là Thiếu Vi, chia thành Sĩ và Đại Phu. [Hiên Viên Kỳ] Chòm sao Hiên Viên. Hiên Viên tức là mình con rồng vàng. Trước nó có một ngôi sao lớn gọi là Nữ Chủ (Régulus). Nếu mặt trăng và Ngũ Tinh phạm vào chòm sao Quyền (Hiên Viên), thì hay và dở cũng y như là đối với chòm sao Hành. [7 sao: Tỉnh, Quỉ, Liễu, Tinh, Trương, Dực, Chẩn] (1) Chòm sao Đông Tỉnh chủ về nước. Phía Tây nó có một ngôi sao gọi là Việt. Phía Bắc sao Việt là sao Bắc Hà. Phía Nam sao Việt là sao Nam Hà. (2) Chòm sao Dư Quỉ chủ sự cúng tế tổ tiên. Ở giữa chòm sao này thấy có vệt trắng, đó là Chất. Nếu sao Hỏa Tinh mà ở nơi các sao Nam Hà và Bắc Hà, thì sẽ xảy ra binh đao, mất mùa. Như vậy nếu có đức, thì thấy [sao Hỏa] ở chòm sao Hành, muốn coi điềm thì xem [sao Hỏa] ở chòm sao Hoàng. Sao Hỏa mà ở nơi sao Việt thì sẽ thất trận; sao Hỏa ở nơi chòm sao Quỉ sẽ có sự tàn sát. Nếu sao Hỏa ở chòm sao Tỉnh, sẽ có tai họa. (3) Sao Liễu là mỏ chim (Chu Tước) chủ về cây cỏ. (4) Chòm sao Thất Tinh hay Cảnh là cổ chim (Chu Tước) chủ về những chuyện cấp thời. (5) Trương hay Tố, là cái diều [chim], chủ bếp nước và yến tiệc. (6) Dực là lông cánh, chủ về viễn khách. (7) Chẩn là cỗ xe, chủ gió. Cạnh nó có một sao gọi là Trường Sa. Trường Sa thường không sáng. Nếu sáng thì cũng sáng tỏ như 4 vì sao khác trong chòm sao Chẩn. Phía Nam sao Tỉnh có nhiều sao, gọi là Thiên Khố Lâu. Khố Lâu có 5 xe. Nếu chúng chiếu sáng, tăng thêm số sao, thì sẽ không có đủ chỗ để chứa xe và ngựa. IV. TÂY CUNG (Bàn về chòm sao Hàm Trì và 7 sao: Khuê, Lâu, Vị, Mão, Tất, Chủy, Sâm) [Chòm sao Hàm Trì: le Cocher] Tây Cung là Hàm Trì. Người ta còn gọi nó là Thiên Ngũ Hoàng hay Ngũ Đế Xa Xá (nhà chứa 5 xe của vua). Nếu sao Hỏa vào đó, sẽ xảy ra hạn hán. Nếu sao Kim Tinh vào đó, sẽ xảy ra lụt lội. Ở giữa có sao Tam Trụ. Nếu Tam Trụ không đủ 3 sao, sẽ xảy ra chiến tranh. [7 sao: Khuê, Lâu, Vị, Mão, Tất, Chủy, Sâm] (1) Sao Khuê cũng gọi là Phong Thỉ, chủ ngòi lạch. (2) Sao Lâu chủ về quần chúng tập hợp. (3) Sao Vị là kho trời. Phía Nam sao Vị có một chòm sao gọi là Quái Tích (đống cỏ khô). (4) Sao Mão cũng gọi là sao Mao Đầu, là sao của rợ Hồ, chủ về tang tóc. (5) Sao Tất cũng gọi là sao Hãn Xa (xe săn), chủ về giặc giã nơi biên thùy, hoặc săn bắn. Gần một vì sao lớn của chòm sao này, có sao Phụ Nhĩ. Nếu sao Phụ Nhĩ mà sáng, thì sẽ có những bầy tôi xàm loạn bên cạnh vua. Giữa sao Mão và Tất có sao Thiên Nhai (đường trời). Phía Bắc nó là các nước thuộc Âm, phía Nam nó là các nước thuộc Dương. (6) Sâm là Bạch Hổ. ba sao thẳng hàng gọi là Hành Thạch. Dưới có 3 sao hình nhọn, gọi là Phạt, chủ về trảm quyết. Bốn sao phía ngoài là hai vai, hai đùi trái phải. Ba sao xếp thành hình nhọn gọi là Trủy Huề. Trủy Huề là đầu hổ, chủ về quân lữ và bảo vệ đất đai. Ở dưới chúng có 4 sao gọi là Thiên Sí. Dưới sao Thiên Sí có sao Thiên Thỉ. Nếu có màu vàng thì tốt; nếu có màu trắng thì hung. (7) Ở phía Tây chòm sao Chủy có các sao hợp thành các đường khúc khuỷu, từng chòm sao một. Một chòm gọi là Thiên Kỳ, một chòm gọi là Thiên Uyển, một chòm gọi là Cửu Du. Ở phía Đông các sao ấy có một sao sáng lớn gọi là sao Lang. Nếu sao Lang chiếu sáng hay thay mầu, sẽ có nhiều đạo tặc. Ở dưới sao Lang có 4 sao gọi là Hồ, chiếu thẳng vào sao Lang.[22] Đối ứng với sao Lang có một sao lớn gọi là Nam Cực Lão Nhân.[23] Khi sao này sáng tỏ, sẽ bình trị. Nếu không thấy nó, sẽ có binh biến. Thường người ta hay ra Nam giao (cánh đồng phía Nam) để xem sao này vào ngày Thu Phân. Nếu sao Phụ Nhĩ mà tiến gần với sao Tất, sẽ có binh biến. V. BẮC CUNG (Nói về các sao: Đẩu Ngưu, Nữ, Hư, Nguy, Thất, Bích) Bắc cung gọi là Huyền Vũ, đặc biệt tượng trưng bởi hai sao Hư và Nguy. (1) Nguy chủ về mái nhà. (2) Hư chủ về than khóc. Ở phía Nam có một chòm sao gọi là Vũ Lâm Thiên Quân. Phía tây chòm sao đó có chòm sao Lũy, nhiều khi còn gọi là Việt. Cạnh đó có một sao lớn gọi là Bắc Lạc (Fomalhaut du Poisson Austral). Nếu Bắc Lạc mà mờ, thì sẽ hao binh. Nếu sao Bắc Lạc mà không tỏa sáng đủ, hay nếu ngũ tinh mà phạm vào chòm sao Bắc Lạc hoặc Vũ Lâm Thiên Quân, thì sẽ có chuyện hưng binh. Thủy, Hỏa, Kim Tinh mà phạm vào thì lại càng tệ. Hỏa Tinh phạm, sẽ hao binh. Thủy Tinh phạm, quân sĩ sẽ phải lo lường. Thổ và Mộc Tinh đóng vào, quân sĩ sẽ gặp may. Ở phía Đông chòm sao Nguy có 6 sao gọi là Tư Không (đúng ra phải gọi là Tư Mệnh). (3) Chòm sao Doanh Thất là Thanh Miếu, là Ly Cung, hay Các Đạo. Ở giữa giải Ngân Hà có 4 sao gọi là Thiên Tứ. Ở cạnh nó có một sao gọi là Vương Lương.[24] Khi Vương Lương mà đánh ngựa, thì binh mã sẽ chật đồng. Gần đó có 8 sao gọi là Thiên Hoàng. Cạnh Thiên Hoàng có Giang Tinh. Nếu sao đó mà giao động, thì người ta phải lội sông. Chử Cửu là 4 sao phía Nam sao Nguy. Khi sao Bào Qua bị hànmh tinh xanh hay đen đóng vào, thì cá và muối sẽ đắt. (4) Chòm sao Nam Đẩu là miếu mạo. Phía Bắc nó có chòm sao Kiến Tinh, và Kiến Tinh có hình lá cờ. (5) Sao Khiên Ngưu chủ về vật hi sinh. Phía Bắc nó có chòm sao Hà Cổ. Sao lớn là Thượng Tướng, hai sao tả hữu là Tả Tướng và Hữu Tướng. (6) Ở phía Bắc Vụ Nữ có sao Chức Nữ. Chức Nữ là cháu gái trời.[25] VI. NHẬT NGUYỆT VÀ NGŨ TINH (Mặt trời, mặt trăng và 5 hành tinh: Kim. Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ) * Mộc Tinh (Tuế Tinh: Jupiter) Người ta quan sát sự vận hành của mặt trời, mặt trăng để định xem Tuế Tinh đi thuận hay nghịch ra sao. Tuế Tinh (Mộc Tinh) ứng với phương Đông, mùa Xuân, và các ngày Giáp Tí. Nếu làm điều trái lẽ, Tuế Tinh sẽ gia phạt. Khi Tuế Tinhđi nhanh hay chậm, nó sẽ định vận mệnh quốc gia tương ứng với cung nó đang ở. Nước nào mà nó đang chiếu vào, thì không thể bại trận, trái lại có thể đi chinh thảo. Tuế Tinh đi nhanh quá thì gọi là Doanh; đi chậm quá thì gọi là Súc. Nếu đi nhanh quá (doanh) thì quốc gia tương ứng sẽ có chiến tranh và suy yếu; nếu nó đi chậm quá (súc) thì quốc gia tương ứng sẽ bị lao lung, tu7ớng soái sẽ bị chết. Nếu Tuế Tinh mọc đúng chỗ, lại hội cùng ngũ tinh, thì quốc gia tương ứng sẽ có thể dựa theo lẽ phải mà được Thiên hạ. * Chu kỳ 12 năm của Tuế Tinh [Năm thứ I]: Năm Nhiếp Đề Cách Tuế Âm (Thái Tuế) chuyển về phía trái và ở cung Dần. Tuế Tinh chuyển phía phải và đóng ở cung Sửu. Tháng Giêng vào buổi sáng, Tuế Tinh sẽ mọc ở phía Đông, nơi các chòm sao Đẩu và Khiên Ngưu, có tên là Giám Đức. Sắc xanh và sáng. Nếu nó mọc sai chỗ và nếu nó mọc nơi chòm sao Liễu thì đầu năm đó sẽ mưa nhiều, cuối năm đó sẽ nắng nhiều. Tuế Tinh mọc, tiến về phía Đông 12o. Sau 100 ngày dừng lại, rồi thoái. Thoái 8o. Sau 100 ngày lại tiến về phía Đông. Trong một năm nó đi được 30o 7/16 và như vậy mỗi ngày di chuyển trung bình là 1/12o. Trong vòng 12 năm nó đi được một vòng trời. Bao giờ nó cũng mọc ở phía Đông lúc bình minh, và lặn về phía Tây lúc chập tối. [Năm thứ 2]: Năm Đơn Ất Tuế Âm ở Mão, Tuế Tinh ở Tí. Tháng Hai mọc phía Đông, buổi sáng, nơi chòm sao Vụ Nữ, Hư, Nguy. Có tên là Giáng Nhập. Nếu mọc không đúng chỗ, mà lại mọc nơi chòm sao Trương thì gọi là Giáng Nhập. năm đó nước lớn. [Năm thứ 3]: Năm Chấp Từ Tuế Âm ở Thìn. Tuế Tinh ở Hợi. Tháng Ba mọc buổi sáng nơi chòm sao Doanh Thất, Đông Bích, gọi là Thanh Chương. Ánh sáng rất xanh, rất sáng. Nếu nó mọc sai chỗ và mọc ở chòm sao Chẩn thì gọi là Thanh Chương. Năm đó đầu năm hạn hán, cuối năm nước to. [Năm thứ 4]: Năm Hoang Lạc Tuế Âm ở Tị, Tuế Tinh ở Hợi. Tháng Tư, sáng sớm mọc nơi chòm sao Khuê, Lâu, Vị, Mão, gọi là Biền Chủng. Có màu đỏ. Nếu nó mọc sai chỗ, không đúng cách, thì sẽ mọc nơi chòm sao Cang. [Năm thứ 5]: Năm Đôn Tàng Tuế Âm ở Ngọ, Tuế Tinh ở Dậu. Tháng Năm, mọc nơi chòm sao Vị, Mão, Tất, vào lúc buổi sáng, gọi là Khai Minh. Nó sáng rực. Không nên chinh chiến, vì chỉ lợi cho vương công mà không lợi cho tướng soái. Nếu mọc sai chỗ, không đúng cách, nó sẽ mọc nơi chòm sao Phòng. Năm đó thì đầu năm nắng nhiều, cuối năm nước lớn. [Năm thứ 6]: Năm Hiệp Hiếp Tuế Âm ở Mùi, Tuế Tinh ở Thân. Tháng Sáu, mọc ở chòm sao Chủy, Huề, Sâm; gọi là Trường Liệt. Sáng láng. Nếu mọc sai chỗ thì sẽ mọc nơi chòm sao Cơ. [Năm thứ 7]: Năm Huân Than Tuế Âm tại Thân, Tuế Tinh tại Mùi. Tháng Bảy, sáng sớm mọc nơi chòm sao Đông Tỉnh, Dư Quỉ; gọi là Thiên Âm. Nếu mọc sai chỗ, sẽ mọc nơi chòm sao Thiên Ngưu. [Năm thứ 8]: Năm Tác Ngạc Tuế Âm tại Mão, Tuế Tinh tại Ngọ. Tháng Tám, mọc nơi các chòm sao Liễu, Thất, Tinh, Trương; gọi là Vi Trường Vương. Nếu sáng lóe thành tia thì quốc gia tương ứng sẽ thịnh và sẽ được mùa lúa. Nếu nó mọc sai chỗ và mọc ở chòm sao Nguy thì gọi là Đại Chương, nắng nhiều nhưng thịnh vượng. Đàn bà chết nhiều, dân chết nhiều. [Năm thứ 9]: Năm Yêm Mậu Tuế Âm tại Tuất, Tuế Tinh tại Tỵ. Tháng Chín, Tuế Tinhmọc nơi chòm sao Dực, Chẩn; gọi là Thiên Huy, sáng và trắng. Nếu mọc sai chỗ sẽ mọc nơi chòm sao Đông Bích. Năm đó mưa nhiều, con gái chết nhiều. [Năm thứ 10]: Năm Uyên Hiến Tuế Âm tại Hợi, Tuế Tinh tại Thìn. Tháng Mười, Tuế Tinh mọc nơi chòm sao Giác, Cang; gọi là Đại Chương. Nếu sao sáng xanh và lấp lánh nhiều và nếu hiện ra vào lúc rạng đông thì gọi là Chính Bình. Nên xuất binh chinh phạt. Quốc gia tương ứng sẽ có và lấy được Thiên hạ. Nếu mọc sai chỗ, sẽ mọc nơi chòm sao Lâu. <Trong nguyên bản thiếu năm thứ 11> [Năm thứ 12]: Năm Xích Phấn Nhược Tuế Âm ở Sửu, Tuế Tinh ở Dần. Tháng 12, ban sáng mọc ở chòm sao Vĩ, Cơ; gọi là Thiên Hạo, sắc sẫm và sáng. Nếu mọc sai chỗ, sẽ mọc nơi chòm sao Sâm. * Những điềm do Tuế Tinh Nếu Tuế Tinh mọc sai chỗ, hay mọc đúng chỗ nhưng lại giao động lúc phải lúc trái, hay khi chưa đáng ra đi mà ra đi, lại hội với các sao khác, thì quốc gia tương ứng sẽ gặp điều hung. Nếu Tuế Tinh mọc trên không phận nước nào lâu, nước ấy có đức. Nếu nó chiếu thành tia hay giao động, lúc to lúc nhỏ, nếu màu sắc thay đổi luôn, thì vị vua của nước tương ứng đang gặp điều buồn. Nếu nó mọc sai chỗ, thì kết quả như sau: - Nếu nó tiến về phía Đông Bắc, thì 3 tháng sau sẽ sinh ra sao chổi Thiên Bảng, dài 4 thước và đầu nhọn. - Nếu nó thoái về phía Tây Bắc, thì 3 tháng sau sẽ sinh ra sao chổi Thiên Sam, dài 4 trượng và có đuôi nhọn. - Nếu nó thoái về phía Tây Nam, thì 3 tháng sau sẽ sinh ra sao chổi Thiên Thương, dài vài trượng và có hai đầu nhọn. Người ta sẽ quan sát cẩn thận xem các hiện tượng ấy xảy ra trên không phận nước nào, vì những nước đó sẽ không được dụng binh. Nếu nó hiện ra mà khi nổi khi chìm, thì quốc gia tương ứng đang xây đắp nhiều. Nếu nó hiện ra chìm rồi lại nổi, thì quốc gia tương ứng sẽ mất. Nếu nó có sắc đỏ và sáng, thì quốc gia tương ứng sẽ thịnh. Ai mà tiến ngược chiều ánh sáng nó, sẽ thất trận. Nếu Tuế Tinh đỏ, vàng, nếu chìm, thì vùng đất tương ứng sẽ phì nhiêu. Nếu xanh, hay trắng, hay đỏ sẫm, thì vùng đất tương ứng sẽ có ưu khổ. Nếu Tuế Tinh khuất sau mặt trăng thì vùng đất tương ứng sẽ có vị thừa tướng bị thải hồi. Nếu nó giao tranh với sao Thái Bạch (Kim Tinh) thì quân đội vùng quốc gia tương ứng sẽ bị tan tác. Tuế Tinh còn có tên là: Nhiếp Đề, Trùng Hoa, Ứng Tinh, Kỹ Tinh. Chòm sao Doanh Thất là Thanh Miếu. Tuế Tinh là Miếu. CHÚ THÍCH [1] Bản tuyển dịch Sử Ký Tư Mã Thiên của Giản Chi và Nguyễn Hiến Lê (nxb Lá Bối, trước 1975; nxb Văn Học tái bản 1994) và bản tuyển dịch của Nhữ Thành (nxb Văn Học, 1988) đều bỏ qua chương Thiên Quan này. (Phụ chú năm 2007) [2] Xin xem bản đồ sao Trung Cung. [3] Thiên Cực: Bắc Thần. [4] Thái Nhất: Thượng Đế. [5] Tam Công tương ứng với 3 vị quan lớn trong triều vua dưới trần gian: Tư Đồ, Tư Không, Thái Úy. Tứ Bộ Bị Yếu cho rằng: Tam Công ở gần chuôi sao Bắc Đẩu. Vì thế trong bản đồ sao, tôi vẽ Tam Công ở gần sao Bắc Đẩu. [6] Còn gọi là Tứ Phụ. [7] Tử Vi cung, Tử Vi viên. [8] Phía trước tức là Nam Tử cung. [9] Gọi là Âm Đức vì chủ về ban ân. [10] Thiên Nhất tướng ứng với sao a du Dragon. [11] Gồm một số sao trong chòm Le Dragon và trong chòm Hercule. [12] Doanh Thất: a b Du Pégase. [13] Các Đạo: thuộc chòm sao Cassiopée. [14] Trong chương 3 (Dụng cụ và phương pháp dùng trong thiên văn học cổ Trung Hoa) tôi đã giải thích Thất Chính trong câu: «Tuyền ki dĩ tề thất chính» của Thư Kinh là Bảy sao Bắc Đẩu. Nơi đây ta cũng thấy Tư Mã Thiên cũng đồng quan điểm. Như vậy Thất chính trong thiên văn có hai nghĩa: (1) Bảy ngôi sao của Bắc Đẩu (như đã nói trên), (2) Mặt trời, mặt trăng, và 5 hành tinh (Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ) trong nhiều trường hợp khác. [15] Giác: Épi de la Vierge. [16] Các sao trong chòm Sagittaire. [17] Một số sao thuộc chòm Orion. [18] Joseph Needham, Science and Civilisation in China, vol 3, p.233, giải đoạn này như sau: «Nếu ta kẻ một đường thẳng từ sao Thiên Cực (Bắc Thần) đến sao Khai Quang, lại kẻ một đường thẳng từ sao Thiên Đế tinh (b Ursae Minoris) đến sao Tiêu, hai đường thẳng ấy sẽ gặp nhau tại sao Giác. Nếu kẻ một đường thẳng từ sao Hành song song với hai sao Ki Tinh và Quyền Tinh, sẽ gặp nhau chòm sao Nam Đẩu. Nếu kẻ hai đường thẳng, một nối liền Quyền Tinh, Khu Tinh; một nối liền Ki Tinh, Tuyền Tinh, thì hai đường thẳng ấy sẽ dẫn đến chòm sao Sâm.» [19] Edouard Chavannes trong quyển Mémoires concernant l’Asie Orientale, Tome I, nơi chú thích 1 (tr. 53) có bình luận rất dài về cách dùng sao Tiêu, Hành, Khôi của người xưa. Đại khái thì người Trung Hoa cho rằng mỗi một tháng chuôi sao Bắc Đẩu (sao Tiêu) lại chỉ vào một điểm nào đó nơi chân trời, và điểm ấy sẽ nằm một trong 12 cung: Tí, Sửu, Dần, Mão, v.v. Ví dụ tháng giêng chuôi sao Bắc Đẩu lúc chập tối chỉ cung Dần. Các sách Bốc Dịch gọi thế là Nguyệt Kiến. Và như vậy, nếu 6 giờ chiều sao Tiêu chiếu thẳng vào cung Dần, thì đến 12 giờ đêm, sao Hành sẽ chiếu thẳng vào cung Dần, 6 giờ sáng hôm sau, sao Khôi sẽ chiếu thẳng vào cung Dần. [20] Sao Khôi chỗ này gồm cả 4 sao: Khu, Tuyền, Ki, Quyền. [21] Thái Vi viên gồm nhiều sao thuộc các chòm sao Chiens de chasse, Lion, và Vierge. [22] Sao Hồ ứng với sao Wezen du Grand Chien. [23] Nam Cực Lão Nhân tức là sao Canopus. [24] Vương Lương thuộc chòm sao Cassiopée. [25] Ta không thấy Tư Mã Thiên đề cập sao Bích.
    1 like