-
Thông báo
-
Nội quy Lý Học Plaza
Nội quy này là bản mở rộng Nội Quy - Quy định của Diễn đàn. Khi tham gia mua bán, các thành viên phải tuân theo những quy định sau: Tiêu đề bài viết: Bao gồm: Chỉ dẫn địa lý, Loại hình Mua/Bán, Thông tin mua bán.
Chỉ dẫn địa lý: Tỉnh/thành nơi mua bán. Hoặc sử dụng định nghĩa có sẵn:TQ: Toàn quốc
HCM: TP Hồ Chí Minh
HN: Hà Nội
[*]Ví dụ: HCM - Bán Vòng tay Hổ Phách Nội dung bài viết: Mô tả chi tiết sản phẩm mua/bán
Bắt buộc phải có thông tin liên lạc, giá Mua/Bán
Bài mới đăng chỉ được phép up sau 03 ngày.
Thời gian up bài cho phép: 01 ngày 01 lần.
Các hành vi vi phạm nội quy này sẽ bị xóa bài hoặc khóa tài khoản mà không cần báo trước.
-
Leaderboard
Popular Content
Showing most liked content on 22/11/2010 in all areas
-
2 likes
-
Bí mật “huyệt trai tân” giải oan tội hiếp dâm Cập nhật lúc 14:59, Thứ Tư, 19/05/2010 (GMT+7) , “Ngày 22/04/2002, ba thanh niên ở xã Yên Nghĩa, Hà Đông (Hà Nội) là Nguyễn Đình Lợi, Nguyễn Đình Kiên, Nguyễn Đình Tình, phải nhận án tổng cộng 41 năm tù vì tội hiếp dâm, cướp tài sản. Dù các bị cáo đều một mực không nhận tội trước toà. Thậm chí trong phiên phúc thẩm, khi biết bị bác kháng cáo kêu oan, cả ba bị cáo nhất loạt xin…lĩnh án tử hình. Và sau gần 10 năm lĩnh án, ba thanh niên này đã được minh oanbởi một phụ nữ kỳ lạ . Đó là lương y chuyên sâu Phạm Thị Hồng, công tác tại bệnh viện đa khoa Hà Đông (Hà Nội). Chị là người phụ nữ có thận phận đặc biệt, và sự quyết liệt hiếm có khi sẵn sàng tự thiêu để chứng minh nhận định của mình là đúng. Mọi chuyện chỉ bắt đầu khi chị phát hiện ba chàng trai này chưa bao giờ có quan hệ với phụ nữ, nhờ một huyệt đạo bí mật, nói theo dân dã thì họ vẫn còn là trai tân… Từ một huyệt đạo mang tên “Dương Minh” Chị Hồng tự giới thiệu mình là người say mê những pho sách cổ, đặc biệt là các sách về Đông y. Chị thường say sưa nghiên cứu những huyệt đạo, những quy luật âm – dương của cơ thể con người, những kiểu giáo trình này người ta không đưa vào chương trình giảng dạy các trường khoa Đông y. “Chỉ vì tò mò nên tôi đọc tất cả những cuốn sách cổ về y thuật nếu bắt gặp thú vị vô cùng” - chị Hồng nói. Chị kể: vào năm 2006, trại giam Thanh Xuân có đưa đến một phạm nhân nam, còn rất trẻ tuổi tên là Nguyễn Đình Lợi. Bệnh nhân này được nhập viện trong thể trạng suy yếu, gần như liệt nửa người. Sau khi bắt mạch, chị quyết định châm cứu để phục hồi chức năng cho Lợi. Khổ nỗi cậu ta là phạm nhân nên luôn bị xích ở cổ chân mà nơi ấy là một huyệt quan trọng để châm cứu. Thấy vậy chị đề nghị cán bộ của trại giam tháo xích để tiến hành châm cứu. Vị cán bộ trại giam sợ sai nguyên tắc nên từ chối, chị đã phải thuyết phục rằng, phạm nhân này không thể chạy trốn vì anh ta đang bị liệt nửa người…Thuyết phục mãi cán bộ trại giam mới tháo xích và giúp chị bê bệnh nhân lên giường để châm cứu. Huyệt đạo mang tên "Dương Minh" để kiểm tra trinh tiết đàn ông nằm ở vị trí dưới dái tai Cảm kích trước hành động của vị bác sĩ, phạm nhân Lợi bật khóc tức tưởi. Lợi mếu máo rằng, đã lâu lắm rồi chưa được ai quan tâm và chăm sóc tốt như thế…Chị Hồng cười rồi bảo: thanh niên gì mà khóc nhè thế, biết hối hận thì chăm chỉ cải tạo rồi ra thôi…Lần này Lợi lại càng khóc to hơn kêu rằng mình bị oan, nhất định muốn chết!. Thấy lạ, chị Hồng quay sang hỏi cán bộ trại giam thì biết được cậu ta mắc tội tày đình: hiếp dâm, cướp của, lĩnh 16 năm tù. Cái tội hiếp dâm ai cũng ghét, tôi cũng thế nên thấy ghê tởm” - chị Hồng nói. Thế nhưng khi nhìn vào khuôn mặt tái dại, đôi mắt trong sáng của phạm nhân này, bỗng nhiên chị cảm thấy điều gì đó bất thường. Chị bèn hỏi đùa: “cậu quan hệ với phụ nữ bao nhiêu lần rồi?”/. Phạm nhân Lợi giãy nảy rằng, chưa ! Chưa bao giờ quan hệ với phụ nữ. Chị Hồng bật cười rồi doạ: “này, chị là lương y, chị biết nhìn trinh tiết đàn ông đàn bà đấy, đừng nói bừa!”. Nghe vậy, phạm nhân Lợi vẫn kiên quyết khẳng định, mình là trai tân, chưa hề biết thế nào là phụ nữ! Nếu có chết cũng không dám nói bừa! Quá tò mò, chị quyết định bấm huyệt “Dương Minh”, cái huyệt này nằm ở vị trí dưới dái tai. Theo giải thích của chị, những người đàn ông chưa bao giờ quan hệ tình dục với phụ nữ thì cái huyệt ấy vẫn chưa đứt. Huyệt này chỉ đứt khi có khí âm hút vào. Ngược lại với phụ nữ huyệt này gọi là “Khuyết Ấm”, nằm ở vùng ức và nếu chưa có quan hệ với đàn ông thì nó cũng sẽ không đứt. Ngày xưa, khi tuyển cung phi cho vua chúa, những lương y thường xem huyệt này để kiểm tra trinh tiết… Chị mô tả rằng, huyệt này nó như sợi chỉ màu hồng rất đẹp, nếu đúng ngày nó nổi lên, khi ấy cơ thể con người có một luồng khí rất mạnh, tươi mới tinh khôi… đàn ông sẽ trở nên mạnh mẽ, phụ nữ sẽ trở nên đẹp lạ lùng ! Những lương y có nghề sẽ biết cách xem cái huyệt này. Và chị hoàn toàn bất ngờ khi thấy huyệt “Dương Minh” của phạm nhân Lợi còn nguyên vẹn. “Nói thật, lúc ấy tôi vừa mừng vừa lo, mừng vì cậu ta nói thật nhưng lo nhất là sẽ chẳng ai tin chuyện này…” - chị Hồng bùi ngùi nhớ lại. Chị bảo, cái huyệt đạo này người theo học y thuật phương Đông đều biết, nhưng nhiều người không để ý vì nó chẳng mấy tác dụng trong việc chữa bệnh, ngoài chức năng chứng minh sự trinh tiết. Hơn nữa nó lại thuộc y học phương Đông, nếu đem ra làm chứng cứ thì rất khó thuyết phục nguời khác. Nhưng cứ nhìn đôi mắt oan ức của Lợi, trong chị lại dâng lên một quyết tâm lạ lùng: phải minh oan bằng được! Sẽ tự thiêu để chứng minh sự thật Chị đã đi gặp GS. Nguyễn Tài Thu - một trong số ít người quan tâm đến cái huyệt đó. GS. Nguyễn Tài Thu sau khi nghe chị thuật lại sự việc cũng lắc đầu bảo, khó lắm con ạ (GS luôn gọi chị là con ) chuyện này không đùa được, liên quan đến luật pháp, mà cái huyệt này chỉ những người rành y thuật phương Đông mới hiểu, khó làm chứng cứ minh oan lắm…Nói vậy nhưng GS cũng rất thương cho phạm nhân Lợi, chính ông đã móc ví lấy tất cả số tiền trong đó là 800 ngàn đồng gửi chị mua thuốc để tiêm cho Lợi, rồi động viên chị hãy bình tĩnh, làm từng bước cho chắc chắn. Sau nhiều ngày suy nghĩ, chị quyết định tìm đến nhà phạm nhân tìm tài liệu về vụ án, lên Viện kiểm sát xin đọc hồ sơ…chị hết sức bất ngờ vì đó là một vụ án còn nhiều mâu thuẫn, có nhiều tình tiết cần được làm sáng tỏ, nó cũng củng cố thêm cho niềm tin của chị. “Tôi đã quyết định đứng tên viết đơn kêu oan, nhưng lẳng lặng làm, ai hỏi thì nói là tìm hiểu cho biết…” - Chị Hồng nói. Chị đã đi tất cả 36 cơ quan, những nơi liên quan đến vụ việc này, viết vài trăm lá đơn, trình bày tất cả những hiểu biết của mình về y học để chứng minh rằng Lợi vô tội. Tất cả những lá đơn gửi đi đều bặt vô âm tín, nếu có trả lời thì cũng khẳng định rằng bản án đã được tuyên đúng người đúng tội, có cả bản tự thú của phạm nhân, cơ quan pháp luật không sai. Mệt mỏi, chán chường, thỉnh thoảng lại bị ai đó gọi điện hăm doạ, rồi cứ xểnh ra là mất xe máy (chị đã mất tới 4 cái xe máy trong quá trình đi kêu oan giúp). Nhiều người thân bạn bè cũng khuyên can rằng , việc khó lắm lại là người dưng, chẳng quen biết gì, lao đầu vào như thế không may chuốc hoạ vào thân thì khổ “tôi không chịu, tôi vẫn quyết tâm vì tôi có lý do…” - chị Hồng vừa nói vừa lục ra 1 lá thư đã cũ, được ép nhựa cẩn thận. Đó là bức thư của ba chị - một chiến sỹ cách mạng hy sinh rất anh dũng, bạn hoạt động cùng thời với cố Thủ tướng Võ Văn Kiệt, chính ba Sáu Dân đã giao lại bức thư cho chị hồi còn bé. Trong đó có đoạn “… Con không được phản bội lại chính lương tâm mình với bất kỳ lý do nào. Cuộc sống của con phải lấy nhân nghĩa làm lẽ sống…”. Chị Hồng rơm rớm nước mắt kể: Đời chị chưa bao giờ biết mặt ba. Lá thư này là ba viết cho chị trước lúc địch mang ông ấy ra trường bắn, không lâu sau má chị cũng bị chúng giết chết. Chị được gửi lại cho một gia đình nông dân ở huyện Hoài Đức (Hà Tây cũ). Cha mẹ nuôi của chị cũng tốt vô cùng, họ không bao giờ tiết lộ chị là con nuôi, chỉ sau khi chị lớn, ba Sáu Dân và một số bạn hữu của ba má đẻ chị tìm tới, giao lại lá thư, chị mới biết mình là con nuôi, người gốc Bến Tre, ba má tập kết ra Bắc thì sinh chị, nhưng vì nhiệm vụ cách mạng, họ phải gửi chị lại để tiếp tục vào Nam chiến đấu… “Từ đó tôi lấy đuợc cái đức của ba má mà sống. Tôi không thể chịu đựng được khi thấy sự oan ức mà không hành động!” - chị Hồng khẳng định. Thế rồi đến năm 2008, một lần nữa Lợi đựơc đưa ra bệnh viện điều trị, lần này chị có cơ hội tiếp xúc lâu hơn với bệnh nhân. Chắp nối tất cả các dữ kiện, cùng những chứng cứ thu nhập được, chị quyết định, tìm gặp các vị lãnh đạo cao cấp để minh oan. Thế nhưng mọi chuyện vẫn như vậy, họ vẫn giữ quan điểm ban đầu rằng họ không sai. Quá bức xúc, chị tuyên bố rằng sẽ tự thiêu để chứng minh nhận định của mình. Chị tin rằng, sau cái chết của mình sẽ có người lật lại toàn bộ hồ sơ sự việc. Chị đã tính đến việc gửi lại hai đứa con của mình cho người thân nếu chị tự thiêu. Với sự lỳ lợm đến khó tin cuối cùng câu chuyện cũng đến được Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết, ông đề nghị VKSND tối cao xem xét lại bản báo cáo. Cuối năm 2009, các cơ quan tố tụng có công văn gửi các cấp lãnh đạo thừa nhận: “ quá trình điều tra và xét xử đã có những thiếu xót…cơ quan điều tra đã thiếu khách quan, không đầy đủ và triệt để, những chứng cứ gỡ tội chưa được xác minh làm rõ…”. Và kết quả là họ trả tự do cho ba thanh niên đó. Chúng tôi - những người làm báo đến nghe chị kể chuyện đã hỏi: “Chị định tự thiêu là để làm thật hay doạ nếu họ không nghe?”. Chị Hồng khẳng định: “ tôi không doạ, tôi chưa bao giờ đùa trong chuyện này. Ngày mới gặp Lợi, tôi hứa sẽ đi đến cùng để minh oan, và tôi đã làm như thế. Tôi là lương y, cứu người là nhiệm vụ, và chết vì người khác cũng không phải là cái gì đó ghê gớm!”. Nhìn người phụ nữ 53 tuổi này mà chúng tôi thấy ấm lòng, cuộc sống sẽ đẹp hơn nếu có nhiều và rất nhiều người như chị ! Kiến thức, lòng quyết tâm của chị đã giúp ba chàng thanh niên đòi lại công lý, đòi lại nhân phẩm, và cũng cảnh báo với những người đang cầm cân nảy mực, có trách nhiệm phải thật cẩn trọng với pháp luật vì chỉ một sai xót nhỏ cũng có thể huỷ diệt cuộc đời một con người. Theo Đang yêu1 like
-
http://vietnamnet.vn/ HacKeD By TeaM MosTa AlgeriaN HackEr I want Say FucK Secur!Ty �.ا ا�.�. ا�.ا ا�.�.�. �.ح�.د رس�.�. ا�.�.�. ع�.�.�. ا�.ص�.اة �. ا�.س�.ا�. To be not to be Tnks Alahe Contact3 M3 In : booba27izi@starkods.com ==================================== Vào 3g 20 phút sáng nay, tôi vào trang Vietnamnet.vn thì thấy hiện tượng này. Không hiểu là cái gì. Sau vào lại thấy hai chữ Hacked mới nghi ngờ và thông báo cho các bạn. Ngõ hầu giúp Vietnamnet khắc phục nhanh chóng.1 like
-
Xin chào mọi người trong diễn đàn Lyhocdongphuong, Hôm nọ, tôi có tải chương trình trình “Bát Trạch Huyền Không – Kép Nhựt” do bác Thiên Sứ chia sẻ trên diễn đàn (http://khoi.50g.com/dichly/download/Bat%20...0Kep%20Nhut.zip), trong đó bác Thiên Sứ có đề cập sơ qua về cách chuyển trình “Bát Trạch Huyền Không – Kép Nhựt” sang trình “Bát Trạch Huyền Không Lạc Việt” bằng cách thay đổi cung Đông Nam sang Tây Nam, Nam sang Tây và ngược lại. Tuy nhiên, vì kiến thức của tôi về bát trạch huyền không nói riêng cũng như về lý học nói chung vẫn còn ít ỏi nên tôi không biết phải chuyển đổi như thế nào là đúng. Về cách chuyển đổi, sau đây tôi có một vài khuất mắc, rất mong được sự quan tâm và chia sẻ của các bạn trên diễn đàn. Để dễ dẫn dắt và minh họa, tôi xin lấy một ví dụ về trường hợp ngôi nhà của ông cậu tôi. Nhà ông cậu tôi ở TPHCM, theo như đo đạc thì hướng nhà Tây nam, cửa chính cũng hướng Tây nam (2090). Khi nhập các dữ liệu này vào trình Huyền không – Kép Nhựt thì kết quả phía dưới cho ra là “Cô quả” – có nghĩa là “trong nhà có quả phụ, điền sản, súc vật bị tổn hại, điền sản, súc vật đều bị tổn hại, còn người thì đi xa tứ xứ”, (xem hình minh họa ở phía dưới, chú ý những khung chữ nhật viền đỏ đậm). Về kết quả này thì tôi thấy rất đúng: ông cậu tôi ở nhà đó, mấy năm đầu thì còn ở nhà mở phòng răng làm ăn, nhưng sau đó thì đi làm ăn đủ nơi, xuống tận miền tây và có thể nói là ở dưới đó luôn, thỉnh thoảng ghé về nhà thăm con rồi lại đi, kiểu như chán không muốn ở cái nhà đó nữa, ở đâu đó thì thấy vui hơn, thích hơn - ứng với câu “người trong nhà thì đi xa tứ xứ”, còn bà mợ ở nhà thì có thể coi như “quả phụ”, vì từ khi đi xa làm ăn, ông cậu cũng chẳng quan tâm đụng chạm gì tới bả nữa. Thời gian gần đây, tôi có quan tâm đến môn lý học, phong thủy và cũng có đọc một số bài viết của bác Thiên Sứ, đặc biệt về dịch học Lạc Việt, trong đó có nói đến sự sai lệch về vị trí tương quan của cung Tốn – Khôn (dẫn đến sự sai lệch về tính chất gắn với hướng Đông Nam – Tây Nam) của Hậu thiên bát quái Tàu so với Hậu thiên bát quái Lạc Việt. Tôi lại nghĩ đến trường hợp của ông cậu tôi, không biết nếu theo Huyền không Lạc Việt thì với hướng nhà, hướng cửa như trên thì kết quả sẽ như thế nào. Vì vậy, tôi bắt đầu mổ xẻ chương trình Huyền không – Kép Nhựt viết bằng Microsoft Excel để xem xét cái qui trình cho ra cái kết quả “Cô quả” đó, nhằm hiểu nó, thay đổi nó thành Huyền không Lạc Việt cho đúng, và cái qui trình đó như sau: Đầu tiên user sẽ nhập các dữ liệu đầu vào, trường hợp này ta xét 2 dữ liệu của cái qui trình đang xét là hướng nhà và hướng của cửa chính ở trang “Cửu tinh cung” (tham khảo 2 khung chữ nhật nhỏ viền đỏ đạm trong hình đã post ở phía trên). Sau khi user đã nhập dữ liệu vào, chương trình sẽ bắt đầu truy xét 2 dữ liệu hướng nhà và hướng cửa nhà ở cột “Độ” trong một bảng đã được nhập sẵn những dữ liệu cố định về “độ, hướng, ngọc bội kinh …” - gọi là bảng 1 (tham khảo hình dưới – bảng có viền đỏ đậm) ở trang “Hướng Tấn Điền” , và lấy ra 2 kết quả ở cột “Hướng” và cột “ngoc boi kinh” trong bảng 1. Trường hợp nhà của cậu tôi, hướng nhà và hướng cửa chính đều là 2090, chương trình sẽ lấy “Độ” là “202.5” để đối chiếu ngang qua cột “Hướng” và cột “ngoc boi kinh” và lấy ra 2 con số “2” (cột “Hướng”) và “21” (cột “ngoc boi kinh”) ứng với 2 dữ liệu hướng nhà và hướng cửa chính (xem hình, chú ý 3 khung chữ nhật viền vàng) Bảng 1 Sau khi lấy số “Hướng” và số “ngoc boi kinh” từ hướng nhà và hướng cửa chính, chương trình sẽ dùng 2 con số này để tiếp tục tra cứu ở một bảng dữ liệu khác cũng ở trong trang “Hướng Tấn Điền” – gọi là bảng 2 (xem hình dưới) và cho ra kết quả. Cách tra cứu nhưu sau, xét xem số “hướng” nằm ở hàng nào của bảng 2, và chiếu ngang qua, lấy kết quả ở cột thứ “ngoc boi kinh”. Ví dụ, sau khi đã lấy số “Hướng” là 2 và số “ngoc boi kinh” là 21 như trên, chương trình sẽ dò xem số 2 nằm ở hàng nào của bảng 2, trường hợp này sẽ ứng với hướng Tây nam trong bảng 2, sau đó chiếu ngang qua, dừng lại ở cột thứ “ngoc boi kinh” là cột thứ 21 (cột thứ nhất bắt đầu bằng cột đầu tiên của bảng 2) trong bảng 2 và cho ra kết quả “Cô quả” (xem hình, chú ý các vòng tròn viền vàng) Bảng 2 Như vậy, qua qui trình đã trình bày như trên, để lấy ra kết quả “Cô quả” cho trường hợp ông cậu tôi, chương trình đã sử dụng các dữ liệu là: + Dữ liệu nhập, gồm hướng nhà và hướng cửa chính + Dữ liệu cố định, gồm bảng 1 và bảng 2 Vậy để chuyển từ “Bát Trạch Huyền Không – Kép Nhựt” sang “Bát Trạch Huyền Không Lạc Việt” (đổi chỗ qua lại vị trí Tốn – Khôn, Tây nam – Đông nam) thì tôi có hai hướng: + Thay dữ liệu nhập – ví dụ, thay vì nhập 2090 là hướng Tây nam, thì nhập vào 1090 là hướng Đông nam, hoặc + Thay đổi dữ liệu cố định, gồm bảng 1 và bảng 2. Trường hợp thay dữ liệu nhập thì đơn giản, tôi đã thử và cho ra kết quả là “Xương-dâm”. Kết quả này có nghĩa là trong nhà sự dâm dục không biết dừng: nữ thì hay hư thai, trai gái đắm say tửu sắc, không biết liêm sỉ, vợ tự chuyên quyền làm loạn, súc vật tổn hại, tôi thấy không đúng lắm (có vẻ đúng với câu “vợ tự chuyên quyền làm loạn”, vì ông cậu đi thì mọi việc làm ăn ở nhà đều do bà mợ quản lí, và câu “đắm say tửu sắc”, ông cậu đúng là uống bia nhiều thật, một phần là do ổng thích, nhưng phần nhiều là do đi quan hệ làm ăn), và thực tế thì cũng không thấy rõ bằng kết quả “Cô quả”. Tuy nhiên tôi không biết cách thay đổi như vậy thì có đúng không. Còn thay đổi dữ liệu cố định cho bảng 1 và bảng 2 thì cụ thể phải thay đổi như thế nào. Liệu có phải những gì của hướng Tây nam (Bại tuyệt, Vượng tài, Phước đức …) thi thay sang cho Đông nam (Pháp Trường, Điên Cuồng, Khẩu Diệt …) không, điều này tôi còn khuất mắc. Trên đây tôi đã có trình bày một số khuất mắc của tôi về cách chuyển trình “Bát Trạch Huyền Không – Kép Nhựt” sang “Bát Trạch Huyền Không Lạc Việt”, mong các thành viên trên diễn đàn quan tâm và chia sẻ ý kiến. Tôi hi vọng nhờ có sự chia sẻ của các bạn, tôi có thể đóng góp được một chương trình Bát trạch huyền không Lạc Việt hoàn chỉnh dựa trên cái nền có sẵn của Kép Nhựt cho cộng đồng.1 like
-
Xét lại vụ án Hoàng đế ... Sử sách Trung hoa ngày nay đều cho rằng : có năm vị vua thái cổ được dân chúng nhắc đến nhiều nhứt, được tôn là Thánh Vương, vì đã có nhiều công lớn trong việc phát minh những điều hữu ích quan trọng để giáo hóa dân chúng. Năm vị Thánh Vương được gọi chung là Ngũ Đế: - Phục Hy - Thần Nông - Hoàng Đế- Đường Nghiêu - Ngu Thuấn. Thần nông còn được biết dưới tên là Viêm đế làm vua năm 2737 trước Tây lịch kỷ nguyên. Hoàng đế nghĩa là Đế màu vàng , màu vàng là sắc ở trung tâm trong ngũ sắc lên ngôi năm 2697 trước Tây lịch kỷ nguyên . Dã sử Trung hoa viết Hoàng đế và Viêm đế có quan hệ thân tộc , vùng đất cạnh lãnh thổ 2 vị có Xuy vưu thủ lãnh của bộ tộc Cửu lê rất hung dữ , xuy vưu toan lấn đất của bộ tộc Viêm đế , Viêm đế cầu cứu Hoàng đế , Hoàng đế đã huy động nhiều bộ lạc theo mình mở trận huyết chiến diệt Xuy vưu , một thời gian sau Hoàng đế chiếm luôn đất đai của Viêm đế thống nhất các bộ tộc lập nên đất nước và dân tộc Trung hoa , diễn biến lịch sử này lướt qua thì có vẻ hợp lý vì Thần nông trị vì chỉ 40 năm thì bị Hoàng đế thay thế ... Chính vì những thông tin lịch sử này mà nhiều tư liệu thư tịch thành văn cũ (ngọc phả, thần tích...) lưu truyền ở Việt nam cho Hoàng đế là tên : trò phản thày tôi thí chúa đã chiếm đất diệt tộc người Việt khi làm ...đảo chánh kết thúc triều Đại Thần nông Viêm đế , sở dĩ vậy là vì truyền thuyết lịch sử Việt nhận Thần nông là cao tổ của dòng tộc mình , đế MINH ông tổ dòng giống Việt được ghi là cháu 3 đời của Viêm đế . Có thực như thế không ? Truyền thuyết trong dân gian cần phải được soi rọi cặn kẽ , xem sét 1 cách tỉnh táo vì có thể ở thời điểm mà câu chuyện được thêu dệt không có những thông tin chính xác thậm chí sai lạc rồi với nhận định chủ quan ...(đó là chưa kể đến dã tâm của kẻ thù) người ta đã dựng nên những chuyện tưởng là đúng nhưng thực ra hoàn toàn sai … rồi cứ như thế với sự cả tin truyền lan mãi trong không gian và thời gian gây ra hậu qủa tai hai lớn lao không lường nổi , những tình tiết liên quan giữa Viêm đế thần Nông với Hoàng đế và đế Minh là 1 thí dụ điển hình cho sự cả tin nguy hại này : Xin hỏi 1 điều : Cứ theo dã sử và những điều đang lưu truyền thì : Người Trung hoa nhận mình là ‘Viêm – Hoàng tử tôn’ tức là con cháu của Viêm đế và Hoàng đế trong khi đó đế Minh tổ của người Việt lại là cháu những 3 đời của Viêm đế ...nên nếu qủa đúng như thế thì hoá ra .... về vai vế tộc Việt là thuộc hàng chút chít của người Hoa à ? Điều kỳ quái này người Việt có thể chấp nhận được hay không ? Soi rọi cặn kẽ 1 chút , cẩn thận tỉnh táo 1 chút : Nhìn vào đồ hình Cửu thiên : Ta nhận ra : chính Cửu thiên của Dịch học là cái nền tạo ra Ngũ đế Trung hoa : Phục hy tương ứng với Thanh thiên . Viêm đế tương ứng với Viêm thiên . Thiếu Hạo tương ứng với Hạo thiên. Xuyên húc tương ứng với Huyền thiên . Hoàng đế tương ứng với Quân thiên . Phục hy người Việt gọi là đế Thần , thần là biến âm của Thìn là con rồng chỉ phương đông , màu xanh , muà Xuân . Sự liên quan :Viêm đế –Viêm thiên , Thiếu hạo –Hạo thiên đã qúa rõ . Xuyên là sông tượng của phương nam theo dịch học , ‘húc’ là biến âm của ‘hắc’ đồng nghĩa với huyền trong Huyền thiên nghĩa là màu đen hay u tối . Hoàng là sắc vàng chỉ trung tâm ngũ sắc tương hợp hoàn toàn với Quân thiên là vùng trời ở giữa . Sở từ viết về ngũ đế cũng đưa ra điều tương tự coi 5 đế là những vua cai quản 4 phương và trung tâm nhưng phương hướng đảo ngược tất cả : Thiếu Hạo (đông) Xuyên Húc (bắc) Hoàng Đế (trung) Phục Hi (tây) Thần Nông (nam) Sách Lã thị xuân thu do Lã bất vi soạn đưa ra 1 bảng chỉ dẫn rõ ràng về sự tương ứng giữa các sự vật xét theo dịch lý , thông tin trong sách có độ tin cậy rất cao vì Lã bất Vi đã cho treo ở chợ và hứa thưởng ...vàng cho bất kỳ ai chỉ ra được 1 chữ sai . Phục Hy , muà xuân-phương đông-màu xanh-số 8 Hà thư –Mộc thần . Thần Nông ; mùa hạ-phương nóng xích đạo –màu đỏ – số 2 hà thư-Hỏa thần Thiếu hạo ;mùa thu – phương tây –màu trắng – số 4 Hà thư- Kim thần . Xuyên húc ; mùa đông – phương đông – màu đen – số 6 Hà thư-thủy thần . Lã thị xuân thu không nói tới Hoàng đế , nhưng căn cứ vào những Dịch tượng thì Hoàng đế có thể biểu thị : Hoàng đế (hoàng –màu vàng) ; mùa : không mùa , phương : trung tâm – màu vàng – số 5 Hà thư – thổ thần . Đối chiếu với cửu thiên thì sự chỉ định của sách Lã thị xuân thu là hoàn toàn tương hợp và kỳ lạ hơn nữa những điều này còn hoàn toàn khớp đúng với truyền thuyết lịch sử Việt . Thanh thiên ; Phục hy - thái Cao – đế Thần . Viêm thiên ; Viêm đế - Thần Nông- Viêm đế còn gọi là đế Khôi .( ? ). Hạo thiên ;Thiếu hạo – thái Khang . Huyền thiên ; Xuyên húc –thái Tiết – Tiên đế . Quân thiên ; Hoàng đế – thái Công – đế Minh . Tại sao tương ứng với 5 thiên thì 4 đế có danh hiệu là Thái nghĩa là thủy tổ ...riêng Viêm đế thì vẫn chỉ là Đế ?, đây là sự khập khiễng và sai lầm rất rõ ; dựa trên Cửu thiên thì vị đế tương ứng với Viêm thiên phải là ‘Thái Viêm - thần Nông’ chứ dứt khoát trong Tam hoàng - Ngũ đế không có ‘Viêm đế’ như những sách Tàu và Ta đã chép . Lầm lẫn Thái Viêm - thần Nông tỉ tổ của người Việt với Viêm đế là anh em cùng cha khác mẹ với Hoàng đế (cả 2 là con của Hùng quốc quân - Thiếu Điển) là 1 sai lầm lớn lao tệ hại vô cùng khiến cổ sử Việt quay 180 ₫ trở thành đầu mối cho những sai lầm chồng chất về sau . Không cần uyên bác thông thái gì cũng có thể thấy : -Xét về Lịch đại : Kết cấu 5 đế trong lịch sử Trung hoa mang tính lịch đại chứ không phài đồng đại , đế muà xuân , đế mùa Hạ , đế muà thu .v.v. rõ ràng chỉ các triều đại tuần tự kế tiếp nhau trong thời gian nên truyền thuyết mới viết Thần nông là con của Phục hy tức có ý nói thời Thần Nông thị kế tiếp Phục hy thị . Căn cứ vào biểu ngũ đế theo lã thị Xuân thu đã được dịch học kiểm chứng trên thì Hoàng đế không thể nào là kỷ kế tiếp Thần Nông được , kỷ của đế mùa Hạ qua rồi buộc phải đến Thu đế , rồi Đông đế kế tiếp chứ không có chỗ cho Hoàng đế chen vào vì vậy không thể có chuyện triều Hoàng đế thay thế Thần nông như sách Tàu viết ...làm nền cho ai đó thêu dệt nên chuyện Hoàng đế phản chủ thí chúa ... -Xét các bước Tiến hoá : Thời Hoàng đế thủy tổ Hoa tộc tồn tại cách nay khoảng 5000 năm là điều không phải bàn nữa , đây là niên đại mọi người mặc nhiên công nhận ; như thế Viêm đế cũng tồn tại trong quãng thời gian này nhưng xét Trong dòng thời gian của lịch sử thì Thần Nông không chỉ có nghĩa là 1 vị vua mà còn có nghĩa là 1 thời đại, thời đại con người bước từ nền văn minh hái lượm sang thời văn minh trồng trọt, khai thác kinh tế sản xuất, có gieo – có gặt , câu ‘Thần nông giáo dân nghệ ngũ cốc’ đã chỉ rõ điều này mà Theo các nghiên cứu khoa học thì thời gieo trồng ở Đông Nam Á bắt đầu vào hơn 10.000 trước Công nguyên. Tiêu biểu cho thời này, khảo cổ học gọi chung là thời văn hóa Hòa Bình tên địa điểm tìm ra di chỉ khảo cổ ; xét ra khoảng lệch 5000 năm giữa 2 thời Viêm đế- Hoàng đế và Thần nông thực trưng ra ở đây là bằng chứng rõ ràng khẳng định : nhân vật Viêm đế đã bị Hoàng đế diệt trong sử Trung hoa không phải là Thần nông cao tổ của người Việt , danh hiệu của Thần nông phải là ‘Thái Viêm’ nghĩa là Thủy tổ tộc người sống ở vùng nhiệt đới –xích đạo , vua Thần nông cũng là nhà phát minh vĩ đại bậc nhất khi đem lại của ăn cho loài người . Sử thuyết họ HÙNG đã chỉ ra : Theo truyền thuyết thời cổ đại nước của người Việt có tới 3 vị đế mang danh hiệu có chữ Viêm (viêm chỉ sức nóng , ngọn lửa) : 1-Thủy tổ Thái Viêm –thần Nông - Hùng Hiển vương . 2-Viêm đế là thủ lãnh của tộc người đã hoà nhập với bộ tộc của Hoàng đế kiến lập Hữu Hùng quốc tức Trung hoa thời xưa . 3-Viêm lang – Hùng Hy vương tức đế Nghi con cả của đế Minh anh cùng cha khác mẹ với Lộc tục trong huyền sử Việt cũng chính là đế Nghiêu của cổ sử Trung hoa. Xét như vậy không thể có vụ án Hiên viên Hoàng đế diệt quốc chiếm dân của vua Thần Nông như đã chép trong 1 số thần tích thần phả Việt , truyền nhân dòng Việt phải tỉnh táo cẩn trọng phân biệt thực hư khi nhìn nhận qúa khứ dân tộc mình . Hữu HÙNG quốc hay nước của người họ HÙNG ghi chép rõ ràng trong cổ sử Trung hoa là 1 bằng chứng sáng gía giúp ‘hiện thực hóa’ truyền thuyết 18 đời Hùng vương của cổ sử Việt , sự kết hợp hoàn chỉnh Hùng vương là vua của Hùng quốc loại trừ hẳn hàng chữ mập mờ vớ vẩn mà nhiều người đã viện dẫn để xác định thời điểm lập quốc của người Việt ‘ ....vào đời Trang vương nhà Chu ...có người dùng ảo thuật khuất phục các bộ lạc chung quanh tự xưng là Hùng vương ....’, Sử thuyết họ HÙNG đã trưng bằng chứng chỉ ra Hùng vương là tổ của cả dòng Bách Việt chứ không phải là tổ riêng của người Lạc Việt và Bách Việt chính là Trung hoa xưa , hàng ngàn năm rồi kể từ khi Mã Viện thu Trống đồng đúc ngựa là mọi chuyện đã lộn ngược ...kẻ cướp biến thành chủ nhân , bao nhiêu điều trái khoáy đã phơi bày mà cả thiên hạ không nhận ra ...kẻ chuyên đi ngựa lại phát minh ra thuyền bè ....chắc dùng để chạy ...trên đồng cỏ hay sa mạc ...Kẻ chưa hề biết đến bờ ruộng nước mà lại tạo ra được chữ ‘Điền’ thì đúng là ‘siêu tưởng’ ...cỡi voi trên bờ Hoàng hà thì đúng là ‘siêu thực’ chỉ có trong chuyện thần tiên ....không ở bên bờ biển Đông thì làm sao có thể tạo ra được quẻ chấn sấm sét và quẻ Tốn gió bão trong kinh Dịch ? làm gì có Rồng lượn trên ngọn cỏ ? hình tượng rồng không thể nào thoát ra khỏi sấm chớp gío bão nơi biển đông được vậy mà... ...đặc biệt hơn nữa đến cả chuyện ông Bàn cổ thủy tổ người Trung hoa cũng phải đi mượn của người phương nam ( chuyện Bàn Hồ của người Dao ) cốt chuyện hoàn toàn là ý rút ra từ vũ trụ luận của Dịch học ...chỉ riêng điều này thôi cũng đã đủ để xem sét lại những thông tin về quê hương của kinh dịch và địa bàn gốc tổ Trung hoa xưa . Trong cái lớn là cả chiều dài lịch sử Việt người viết bài này mong 1 điều nhỏ : xin mọi người bình tâm suy gẫm xét lại vụ án Hoàng đế –Thần Nông tránh sự cả tin vô cùng nguy hại như hiện nay .1 like
-
Nên làm vào đầu năm sau ! khởi nghiệp vào tháng 2 AL ! khoảng vài tháng sau đó mọi chuyện rồi sẽ tốt dần . yên tâm ! sẽ thành công... thân chào1 like
-
lấy quẻ Kinh Vô Vong mà luận ! thì có thể giải thích ngắn gọn là TY ko có kết quả . 1 TY như gió thoảng qua1 like
-
Sao vậy? Xậy dựng cũng kiếm được khá nhiều xiền mà. Công danh có chút trắc trở nhưng về sau sẽ có thành tựu. Nếu không thích xây dựng thì có thể tìm hiều thêm về máy móc điện tử, hoặc luật1 like
-
Nghe nói : đuôi mắt quặp xuống là vợ chồng lục đục :D Thân.1 like
-
Vietnamnet bị sập: Cảnh báo cho website Việt 22/11/2010 14:36:33 Đây là lần thứ 2 trong vòng một tháng, Vietnamnet bị hacker "sờ gáy" và cũng là lời cảnh báo cho các website Việt Nam trước nguy cơ bị sập bất cứ lúc nào. TIN LIÊN QUAN Tin tặc tấn công báo điện tử Vietnamnet Nhìn từ vụ Vietnamnet Rạng sáng 22/11/2010, báo điện tử Vietnamnet đã bị hacker tấn công, khiến độc giả không thể truy cập vào trang báo này từ địa chỉ www.vietnamnet.vn. Vào 12h ngày 22/11/2010, việc truy cập vào báo điện tử Vietnamnet vẫn rất khó khăn và chậm chạp, thậm chí có lúc không được. Ảnh chụp màn hình báo điện tử VietNamNet lúc 3h sáng ngày 22/11/2010 Lúc 8h sáng, ban biên tập Vietnamnet đã ra thông báo sự cố kỹ thuật. Theo đó, trong thời gian tạm ngưng, không truy cập được, mọi tin bài thời sự vẫn được Vietnamnet cập nhật tại các chuyên trang Diễn đàn Kinh tế Việt Nam (http://vef.vn) và Tuần Việt Nam (http://tuanvietnam.net). Vietnamnet là báo điện tử trực thuộc Bộ Thông tin và Truyền thông, có giấy phép từ năm 2003, được biết đến như một trong những tờ báo điện tử hàng đầu Việt Nam. Một nguồn tin từ Vietnamnet cho hay, đây là lần thứ 2 website này bị tấn công. Lần thứ nhất cách đây khoảng 3 tuần và rơi vào thứ Bảy, chủ Nhật. Các cán bộ kỹ thuật của tờ báo đã phải mất khoảng 1 ngày để khắc phục sự cố. Cảnh báo cho các website Việt Ông Nguyễn Minh Đức, Giám đốc Bộ phận an ninh mạng của Bkav cho biết, nguyên nhân đánh sập Vietnamnet có thể hacker vì muốn “ghi điểm”, cạnh tranh không lành mạnh, trả đũa hoặc dùng báo này làm bàn đạp để phát tán virus... Về vấn đề an ninh cho website, ông Đức nhận định, nhiều website trong nước chưa có các giải pháp tổng thể từ kỹ thuật đến quy trình quản trị web. Điều này dẫn đến việc nhiều website Việt Nam bị hacker đột nhập, tấn công khá đơn giản. Đồng tình, ông Vũ Quốc Thành, Tổng Thư ký Hiệp hội An toàn thông tin Việt Nam cho biết, theo kinh nghiệm của ông, khoảng trên 50% website ở Việt Nam có thể bị hacker “sờ gáy” dễ dàng bởi đa phần các website khi xây dựng đều thiếu các giải pháp phòng chống hacker. Về nhân lực cũng như các giải pháp kỹ thuật trong nước để xây dựng web an toàn, ông Thành cho hay chúng ta hoàn toàn đáp ứng được ở trình độ thế giới. Tuy nhiên, tùy từng quy mô, mức độ cần thiết của website mà chủ sở hữu quyết định đầu tư. Chi phí để đầu tư vào một website an toàn là khá đắt, có thể từ 100 triệu đến nhiều tỷ đồng. Ông Đức thì cho rằng, cho dù có quan tâm đến an ninh mạng, thì các trang web vẫn có thể bị tấn công. Do đó, để hạn chế rủi ro này, ngay từ khi xây dựng trang web, cần phải rà soát mã nguồn, cấu trúc để tìm lỗ hổng của website, từ đó đưa ra biện pháp khắc phục. Thậm chí, cần thuê chuyên gia an ninh mạng bên ngoài để rà soát lại. Khi đã có một website được lập trình an toàn, cần phải đặt nó ở máy chủ “sạch” để hạn chế rủi ro. Ngoài việc có hệ thống công nghệ chuẩn mực, quy trình vận hành cũng là yếu tố quan trọng, bảo đảm sự an toàn của website. Ông Đức đưa ra ví dụ, khi người sử dụng (có thể là phóng viên, biên tập viên) dùng mật khẩu không đủ mạnh khiến hacker phát hiện, từ đó phát triển làm tê liệt hệ thống… “Khi chúng ta nhận thức cao nhất, thì bản thân web vẫn có thể có lỗ hổng. Do đó, để có một website an toàn, cần một giải pháp đồng bộ, tổng thể từ công nghệ đến con người,” ông Đức nói. (Theo TTXVN)1 like
-
Xác nhận có 1,100,000 đ của Monsoon đăng ký 1 La Kinh1 like
-
Ok, nếu muốn nghe thì sẽ nói... Cung Mệnh hội đủ bộ Phục-Kỵ-Hình-Việt-Hỏa-Phi Liêm, sách nói là cách bị mai phục và chết vì súng đạn >> Nghĩ nên tránh xa những gì liên quan đến súng đạn để có nguy cơ vì những chuyện ấy. Thứ 2 Mệnh Cự - Kỵ - Phục lúc nào cũng bị thị phi điều tiếng, Thân lại dễ vương vấn đến nữ sắc , không lúc nào vương vấn 1 cô mà phải từ 2 cô trở lên. Làm công an nếu vướng những cái này rất dễ bị kỷ luật?! Tiền bạc thì thất thường lúc nào cũng phải chi tiền cho mấy em. Cung Quan Lộc cho thấy làm những công việc liên quan đến xây dựng Chuyện tình cảm từ lúc biết yêu tới giờ lúc nào cũng ON / OFF, mới hợp đó rồi lại tan, năm sau cũng theo dấu của những năm trước, cuộc tình cứ nay giận mai hờn Sau này sẽ có 2 vợ, kẻ nâng khăn, người sửa túi. 1 ông có tới 2 bà nên chuyện cả nể vợ tất nhiên là không tránh khỏi.1 like
-
1 like
-
Sau chuyến viếng thăm của gia đình HC đã có hình ảnh. Để so sánh Sư Thầy từ những ngày đầu tiên Đoàn từ thiện đến thăm khi chưa can thiệp Phong thủy. Và sau khi Sp cùng ACE đến áp dụng Phong Thủy, thời gian chưa đầy 3 tháng, tình trạng sức khỏe của sư Thầy như hình ảnh dưới đây.1 like
-
1 like
-
Uh. Đúng rồi! Bác ủng hộ Rin86.1 like
-
Phục mà thiếu Thai ,thì không thể nói như trên ,nhưng có thể nói là có con dị bào !1 like
-
Nghĩ không nên theo ngành công an, chắc có lẽ hợp với xây dựng hơn. Chuyện tình cảm năm nay có chút trục trặc, nhưng năm sau sẽ vui vẻ lại thôi. Tham khảo thêm ý kiến mọi người nhé.1 like
-
Winldlavender nhận những món quà này là xứng đáng. W đừng từ chối.1 like
-
Giải Lá Số Tử Vi!
Lee Trần liked a post in a topic by ntpt
Vì năm đó có nhuận, và lịch Việt với lịch Tàu khác nhau. Thế tướng mạo của bạn thế nào? Cao hay thấp? Là con trưởng hay không là con trưởng?1 like -
1 like
-
Trong những món quà của Đại Lễ kỷ niệm 1000 năm Thăng Long Hanoi tặng Trung tâm nghiên cứu Lý học Đông phương, còn bộ VCD và CD gồm những bản nhạc nổi tiếng liên quan đến Hanoi. Đây là một bộ đĩa trong 1000 bộ đĩa đặc biệt mà Đại Lễ dành cho chúng tôi. Riêng bộ đĩa nhạc này sẽ dành tặng chị Wildlavender - người có công tổ chức tâm nguyện cùng anh chị em cầu mong cho một thời tiết tốt đẹp suốt những ngày quan trọng của Đại lễ. Những anh chị em tham gia sẽ được tặng phiên bản của bộ đĩa nhạc này, do quỹ của Trung Tâm chịu trách nhiệm chi.1 like
-
Không phải. Đó là kinh độ và vĩ độ của địa điểm nằm giữa bản đồ ( chổ có dấu + ) . Nếu khu vực đó chi tiết đủ thấy được cái chung cư thì hướng Bắc là hướng thẳng đứng ( hướng 12giờ), từ đó suy ra được hướng của chung cư.1 like
-
Hồ sơ Tuyệt Chiêu thứ 5 bên tuvilyso.net, mục Tử Bình, chủ đề "Cách gì đây?" của PChi: Tứ trụ bạn nữ của PChi : Mậu Thân - Ất Sửu - ngày Giáp Thìn - Kỷ Tị PhieuDieu đã viết: "Chào Pchi Giáp ất mộc có đặc điểm rất khác với các hành khác là mộc có phân ra sanh mộc & tử mộc. Sanh mộc là cây còn sống, đang sanh trưởng thì rất là sợ kim vì kim sẽ chặt phá mộc, làm hư hoại mộc (giống như mình dùng cưa rìu chặt phá cây đang sống vậy). Còn tử mộc là cây đã bị chặt rồi, chỉ còn là gỗ, mà gỗ thì cần dụng kim để đẻo gọt mà thành hình như chế tạo thành bàn, ghế, tủ gỗ ... nên tử mộc rất thích dụng kim, lại rất sợ hỏa thủy vì hỏa sẽ thiêu đốt sạch tử mộc, còn thủy sẽ làm mục nát mộc. Lá số này Giáp mộc ở đây là sanh mộc, nên rất kỵ kim. Xét toàn bát tự, thì thân kim là đại kỵ thần, sửu cũng là kỵ thần vì là kim khố. Thân gặp sửu kim khố thì thân sẽ nhập khố ngay. Tiếp đó sửu gặp thìn là thủy khố thì sửu sẽ nhập thìn khố liền. Do thân + sửu đều nhập thìn khố nên mộc được bảo hộ. Nay đến vận tân dậu kim cực vượng, dậu hợp thìn bế thủy khố + khắc hoại mộc tàng trong thìn, mà mộc trong thìn là căn của giáp nên rất nguy. Dậu cũng hợp với tị sửu mà thành kim cục, nguy càng thêm nguy. Tị hỏa là địa chi thuộc dạng khó chơi thứ nhì trong 12 chi (thằng thứ nhất là tuất). Tị hỏa nếu gặp hỏa vượng thì nó theo hỏa, nếu gặp kim vượng thì nó theo kim, nó giống như con tắc kè bông vậy. Mộc hỏa đều bị hư hoại hết nên vận tân dậu phải cẩn thận lắm thay! Vận canh thân, phải đặc biệt lưu tâm canh vận. Còn thân vận thì nhẹ thôi. Các vận sau và những điều khác thì như anh đã viết trong PM cho em. Đương số không thích dụng mộc ... thì cũng đành chịu. Nhưng qua đoạn gian truân này thì sẽ ok. Mong rằng mọi việc yên bình. Thân PhieuDieu" VULONG đã viết: "Nữ mệnh: Mậu Thân - Ất Sửu - ngày Giáp Thìn - Kỷ Tị Điểm vượng của ngũ hành trong vùng tâm: Thổ.....Kim.....Thủy....Mộc.....Hỏa 6,26...1,35......#9....13,1......1,8 Các dại vận và thời gian của chúng: ..Giáp tý/ quý hợi/ nhâm tuất/ tân dậu/ canh thân/ kỷ mùi/ mậu ngọ ……..8.........18.............28...........38..........48........58......68 11/1976...11/86.......11/96.......11/06.......11/26.....11/36.....11/46 Tứ trụ này Thân vượng mà Kiêu Ấn ít nên dụng thần đầu tiên phải là Quan Sát/ Tân tàng trong Sửu trụ tháng; hỷ thần là Hỏa và Thổ còn kỵ thần phải là Thủy và Mộc. Còn nếu tứ trụ này là cách Hóa Thổ (tức Giáp nhật can hợp với Kỷ trụ giờ hóa Thổ) thì dụng thần phải là Thổ, hỷ thần phải là Hỏa và Kim thì dĩ nhiên kỵ thần phải là thủy và Mộc. Do vậy tứ trụ này là cách Hóa Thổ hay không thì kỵ thần luôn luôn là Thủy và Mộc. Riêng đại vận Tân Dậu có Dậu đại vận hợp với Tị và Sửu trong tứ trụ hóa Kim nên tất cả các năm của đại vận này phải tính lại điểm vượng trong vùng tâm để xác địch dụng thần có bị thay đổi hay không. Điều này khá khó với nhiều người nhưng vài hôm nữa có cuốn sách của tôi thì ai ai cũng làm được. Năm nay Canh Dần thì là Cách Hóa Thổ đúng 100% rồi bởi vì Canh lưu niên hợp với Ất trụ tháng hóa Kim nên trong tứ trụ không còn hành Quan Sát (Mộc) của Thổ." PChi đã viết: “Chào anh PhieuDieu, ....người này nói ghét màu xanh, đi xe ô tô, nhìn thấy màu xanh là thấy chóng mặt (để PChi hỏi lại là ghét xanh lá cây hay xanh da trời), không thích ăn rau xanh,.... ....nên PChi bỏ ý định lấy Dụng thần Mộc. Nay anh nói như thế thì PChi không nghi ngờ gì nữa, nhưng nếu anh có thời gian xin anh giải thích tại sao lại bị như vậy? Vì theo PChi biết người ta mất cân bằng ngũ hành nào sẽ tìm cách bổ sung ngũ hành đó. Anh cho PChi hỏi thêm: 1. Có phải Hỏa và Thủy là hỷ thần của tứ trụ này? Phòng trường hợp không có Mộc (màu xanh, hướng Đông, chất chua) PChi sẽ khuyên người đó chọn Hỏa hoặc Thủy để thay thế (màu đen, đỏ; hướng Nam, Bắc, chất đắng...). 2. Đại vận Canh Thân, Ất - Canh hợp hóa Kim, 2 Thân hình 1 Tị. Vậy có nguy hiểm không anh? Cảm ơn anh PhieuDieu rất nhiều!“ Vậy mà Phiêu Diêu đã viết: "Chào Pchi Nếu đương số không thích dụng mộc thì đành dụng thủy thôi. Kim là đại kỵ thần, nên dụng phép tham sinh kỵ khắc mà hóa nó, cũng tốt! Hỏa điều hậu cũng cần, nhưng không phải quá quan trọng. Chỉ do vị trí của chi Tị trong bát tự này nên mới ảnh hưởng đến sức khỏe như anh đã viết cho em. Thân PhieuDieu" Từ đây tôi mới đưa ra Tuyệt Chiêu thứ 5 như sau: “5 - Cách Hóa Thổ thì dụng thần phải là Mộc hay Thủy - Của Phiêu Diêu.“ .1 like
-
Thế này cho dễ hiểu, Nấu Một món ăn cần phải có gia vị , Thần sát chính là gia vị để nấu món ăn đó1 like
-
Các thần sát theo tôi hiểu là các vị thần (cả tốt và xấu) có trong tứ trụ của mỗi người (dĩ nhiên số lượng nhiều ít có khác nhau). Theo phương pháp của tôi các thần sát này không có ảnh hưởng nhiều đến các tai họa (cả về khả năng giải cứu hay gây ra tai họa). Điểm hạn mà chúng gây ra nhỏ hơn nhiều so với các Can Chi (như hình, xung, khắc, hợp, hại...), cũngh có nghĩa với Tài Quan Ấn vì Tài Quan Ấn cũng là Can Chi..1 like
-
Sử ký : Hán và Hoa. Trung hoa nổi tiếng với Vạn lý trường thành , tuy gọi chung 1tên nhưng thực ra nó được xây dựng ở nhiều thời khác nhau chủ yếu là thời Tần và thời Minh , dưới đây là : Vạn lý trường thành thời Tần Sử ký viết khi Tần thủy hoàng lên ngôi thì : ...Đất đai chạy dài phía đông đến biển và đất Triều Tiên, phía tây đến Lâm Thao, Khương Trung, phía nam đến miền cửa nhà quay mặt quay mặt về hướng bắc (15), phía bắc lấy Hoàng Hà làm biên giới và men theo Âm Sơn đến tận Liêu đông . Thông tin trong Sử ký xác định biên giới phía Nam và Bắc đế quốc Tần là qúa rõ ràng, miền ‘bắc hộ’ ở đâu ta đã biết còn nghĩa của câu “phía bắc lấy Hoàng Hà làm biên giới” cũng rõ nghĩa không thể bẻ cong bẻ quẹo được . Cũng Sử ký viết : “Năm thứ 33, Thủy Hoàng đưa những người thường trốn tránh, những người ở rể và những người đi buôn đánh lấy đất Lục Lương ( Lục dương – Lạc dương ?), lập thành Quế Lâm, Tượng Quận, Nam Hải cho những người bị đi đày đến đấy canh giữ. Ở phía tây bắc, đánh đuổi Hung Nô từ Du Trung dọc theo sông Hoàng Hà đi về đông đến Âm Sơn tất cả 31 huyện, xây thành trên sông Hoàng Hà để làm giới hạn,. Lại sai Mông Điềm vượt sông Hoàng Hà lấy đất Cao Khuyết, đào Sơn, Bắc Giả, xây đình và thành lũy ở đấy để đuổi người Nhung và đưa những người bị đày đến đấy để ở và lần đầu những nơi này trở thành huyện. Cấm không được thờ (20). Sao sáng (21) xuất hiện ở phương tây.” Nhìn vào hình trên căn cứ vào vị trí của Hoàng hà và trường thành thì vùng đất Mông Điềm vượt Hà chiếm được và lập các huyện mới chỉ có thể là Hà bắc –Sơn tây ngày nay, đây là vùng đất cổ Sử Trung quốc gọi là Hà nam nghĩa là phía nam Hoàng hà , cũng gọi là Hà sáo , sáo là biến âm của xíu nghĩa là nước cũng chỉ phương nam theo Dịch học ; điều này thực là ngược ngạo không hiểu nổi vì ai cũng biết ...vùng Sơn tây –Hà bắc rõ ràng là ở bờ bắc Hoàng hà ? , đây không phải là 1 sự lầm lẫn vì lịch sử Trung hoa về sau còn nhiều lần nói đến việc Hung nô xâm lấn đến vùng đất Hà nam ( không phải tỉnh Hà nam ngày nay ) này ...không lẽ phương bắc –nam nay đã lộn ngược ? giới sử học Trung quốc còn có ý kiến kỳ cục hơn khi cho Hà sáo là vùng bắc thiểm tây là đất Mông cổ ngày nay ...thưa các vị ; các ông đã quên mất vạn lý trường thành là biên giới giữa đất của Trung hoa và Hung nô ....không lẽ nhà Tần khi xây trường thành đã đem vùng Hà Sáo bỏ ra ngoài ...biếu không cho Hung nô ? ở bắc tỉnh Thiểm tây thì Hoàng hà chạy sát chân Trường thành nên không thể có đất Hà sáo nằm phía nam trường thành bắc Hoàng hà được . Nhìn kỹ hình trên còn có nhiều thông tin khác ...khó chấp nhận như : phía đông của vùng đất giữa Hoàng hà và Trường thành gọi là Liêu đông ...mà quy luật chung hễ có Liêu đông ắt phải có Liêu trung và Liêu tây...tóm lại cả vùng này là đất Liêu hay đất của người Liêu - nước Liêu...?, phải chăng là nơi mà Sử thuyết họ Hùng gọi đích danh là nước Quan - Liêu tức Nam Liêu ; cũng là nơi mà Quan vũ ( Hán sử gọi là Hán quang vũ đế ) lập Đông hãn quốc ..., vì muốn .. lập lờ đánh lận con đen các sử gia Hán tộc đã tạo ra cả một mặt trận ‘chữ nghĩa’; quan là dịch từ nhìn –nom của tiếng Việt cũng chính là chỉ phương nam , vũ là ký âm từ ‘vua’ , quan vũ nghĩa là vua đất phía nam Trung hoa ; khi biến quan thành quang rõ ràng họ đã cố ý thủ tiêu nguồn gốc của vua nước Đông Hán ...lập lờ biến thành vua nhà Đông hán nước Trung hoa ; cũng chính từ ‘ quan-nom’ này đã tạo ra ‘quan phương - sóc phương’ nghĩa là phương nam và phương bắc , sóc nguyên thủy là biến âm của từ xích –màu đỏ , sất –số 7 chỉ hướng xích đạo theo Dịch lý...về sau lộn ngược lộn suôi thế nào...cả quan và sóc đều là phương bắc ngày nay ... thế mới kỳ . Với Từ ‘Liêu’ còn nhiều thông tin lịch sử khác ...; Liêu nguyên thủy là từ LU tiếng Việt nghĩa là ‘mờ’ phản nghĩa với ‘tỏ’ , mờ –tối - đen – lạnh ...là những dịch tượng chỉ phương nam hay phương của nước - hành thủy mang ý nghĩa khoa học chứ không coi khinh ai cả . -Lu→Liêu→người Liêu - nước Liêu. Liêu→họ Lưu của hoàng tộc Hán quốc như Lưu Huyền , Lưu Tú... Liêu –Khiết đan - Hán chỉ là những tên gọi khác của 1tộc người ; Liêu cũng là Khiết đan thì ai có đọc sử Trung quốc đều biết ...thời Trung đại họ lập nên 1 quốc gia mà ba hồi gọi là khiết đan , bốn hồi gọi là Liêu ...năm hồi lại gọi là Khiết đan ... Sự liên quan Khiết đan – Hán nhận ra được nhờ sự phiên thiết Hán văn . Thành cát tư Hãn phương tây ký âm La tinh là Genges Khan , khan và Hãn nghĩa là vua trong ngôn ngữ Mongoloid . -khiết đan thiết là khan. -khả hãn thiết là khan . Hán văn đơn âm hóa thành Hãn ,. Hãn nghĩa là vua ; nước của hãn là Hãn quốc , quân của hãn là Hãn quân - hãn →hán ; khi khả hãn Lưu Tú chiếm cả thiên hạ thì bỗng chốc ...Trung hoa biến thành Hán quốc .... Tóm lại trừ mỏm đất nhỏ cực bắc tỉnh Hà nam ngày nay biên giới Trung hoa thời tiên Tần không vượt qúa về phía bắc Hoàng hà , miền này là đất của giống Khiết đan – Liêu – Hán sau này là nơi Lưu Tú dựng Đông hãn quốc và cũng chính là đất gốc của nước Liêu hay Đại Liêu làm chủ cả vùng đất mênh mông bắc Hoàng hà thời trung đại , các tộc mông cổ – Mãn kim đều là chư hầu của họ . Hoa và Hán là 2 giống người khác hẳn nhau , về mặt nhân chủng :1là người tiểu chủng Mongoloid ; 1thuộc tiểu chủng nam Mongoloid , văn hóa văn minh cũng khác hẳn nhau , địa vực sinh trú thời cổ xưa khi hình thành dòng tộc cách nhau đến gần vạn dặm ...vậy mà dưới sự phù phép của các tay phù thủy chăn ngựa bỗng chốc Hoa và Hán biến thành một ...thật là ...thần kỳ . Xin hỏi các vị có ai được sinh ra 2 lần không mà các vị nói Trung hoa có tới 2 cái nôi..., 1là Hoàng hà 2 là Trường giang ? đấy chỉ là sự che đạy vụng về để chữa cháy khi khoa học ngày càng tiến bộ đã phơi bày sự thật về các tộc người trên đất Trung quốc ngày nay . Ta trở lại với Sử ký : “...Tháng mười năm thứ 37 (211 trước công nguyên) ngày quý sửu, Thủy Hoàng đi chơi, Tả thừa tướng Lý Tư đi theo, Hữu thừa tướng Khứ Tật ở nhà. Hồ Hợi, con nhỏ của Thủy Hoàng, được nhà vua yêu mến xin đi theo, vua bằng lòng. Tháng 11, đi đến Vân Mộng, tế vua Thuấn ở núi Cửu Nghi, đi thuyền qua sông Trường Giang xem Tích Kha vược qua bãi ngoài biển, qua Đan Dương ñến Tiền đường, đi đến Chiết Giang gặp lúc sóng to nên đi về phía tây một trăm hai mươi dặm, qua sông ở nơi dòng sông hẹp, lên Cối Kê tế vua Vũ, nhìn ra biển Nam Hải khắc công đức nhà Tần ...” Tư liệu lịch sử khác chép : Đế Thuấn : 2233-2184 trước CN Theo truyền thuyết, “....vua Thuấn đi tuần thú đất Thương Ngô ở miền sông Tương không may bị bệnh chết. Hai người vợ là Nga Hoàng và Nữ Anh (con vua Nghiêu) đi tìm vua đến bên sông Tương, ngồi bên bờ sông khóc lóc thảm thiết rồi trầm mình tự tử...”. Đầm Vân mộng – sông Tương nằm trên đất Hồ nam ngày nay là địa bàn sinh trú của Bách Việt từ hồi nảo hồi nào, đây là đất của người Nam Môngoloid mà vào thời đó thì người Hán chưa hề đặt chân tới nên đế Thuấn không thể nào là người Hán được , sử Tàu cũng công nhận đế Thuấn là người Đông Di...hệ qủa của điều này là đế Nghi bố vợ của đế Thuấn cũng không thể nào là người Hán được vì Hoàng hà và Trường giang còn hoàn toàn cách biệt . Đế Thuấn truyền ngôi cho Hạ vũ tổ của nhà Hạ , sử Hán viết Hạ vũ hội chư hầu ở Cối kê và sau này ông cũng được con cháu dành riêng mảnh đất ấy để thờ phụng , Cối kê thuộc Triết giang ngày nay cũng là đất của Bách Việt chủng Nam mongoloid , Âu Đại Nhậm trong Bách Việt tiên hiền chí cũng viết vua đại Vũ là người Việt...như vậy ‘chủng tính’ của vua VŨ đã qúa rõ khỏi phải bàn nữa , căn cứ vào đoạn văn : “lên Cối Kê tế vua Vũ, nhìn ra biển Nam Hải khắc công đức nhà Tần” thì Cối kê nơi thờ vua Vũ không phải là Cối kê ở Triết giang ngày nay vì nơi này quay ra biển đông Trung hoa không có chỗ nào của đất ấy nhìn ra Nam hải cả ... Từ Thần thoại thủy tổ Bàn cổ là của dân MAN phương nam đến vua Nghiêu vua Thuấn và cả Đại vũ đều đã xác định là người nam Mongoloid tức Bách Việt về sau như thế đã đủ thông tin để khẳng định Trung hoa không phải là của người Hán mà là của người Bách Việt hơn nữa còn có các thông tin bổ chứng khác : - Cả 30 vua nhà Thương và Thương Ân đều được gọi tên theo ‘thập can’ mà cả 10 phần tử của thập can đều là từ Việt hay Nôm ( Dịch học họ Hùng ) cho nên các vua nhà Thương chắc là người Bách Việt ; không thể nói khác được . - Chính Hán sử cũng nhìn nhận nhà Chu là Tây Di tức không phải là Hán . Kết luận : lịch sử và nền văn minh Trung hoa là của tộc người nào đã qúa rõ : từ Thủy tổ Bàn cổ đến Đường-Ngu lưỡng thánh và cả tam đại Hạ -Thương – Chu đều là người nam Mongoloid tổ của dòng Bách Việt thì Hán tộc -Hoàng hà đâu có dính giáng gì với Trung hoa hay chính xác phải gọi là ‘Thiên hạ’, người viết bài này không dám gọi ngược chính Hán mới là Man-Di vì nền văn minh Hoàng hà là nền văn minh hình thành rất sớm và không kém phần rực rỡ , đó mới là văn minh Hán tộc hoàn toàn không liên quan đến Lịch sử và văn minh Trung hoa . Đã đến lúc Người Hán nên nghiêm túc viết lại lịch sử của dân tộc mình đừng mãi ... “mập mờ đánh lận con đen” tháp nối vào lịch sử Trung hoa làm chi cho mang tiếng mang tăm ....với đời và tệ hại hơn nữa là khiến con cháu dòng Hán không biết đích xác về tổ tông của mình ; hàng ngày hàng năm cúng ai vái ai cầu khẩn cùng ai ? *Ghi chú : Hình sử dụng trong bài lấy từ internet. Tứ Di. Đồ Hình ngũ sắc và tứ phương . Người Hán nhận mình là Trung hoa nghĩa là họ tự cho mình là dân tộc trung tâm và văn minh nhất thiên hạ còn lại các dân tộc khác ở bốn phương thường gọi là tứ di , Di nguyên thủy là biến âm từ chữ nhì hay nhị có nghĩa nôm na là dân hạng hai so với dân trung quốc là dân hạng nhất . Tứ Di là : - nam Man . - bắc Địch . - đông Di . - tây Nhung. Ngoài tứ di Cũng có tên gọi khác chỉ chư hầu 4 phía như tác gỉa Lê Giảng trong sách ‘các triều đại Trung hoa’ xuất bản tại VN năm 2002 viết : nhà Thương –Ân có 4 thuộc quốc : - phía nam là nước Quang .( chính xác phải là nước Quan ) - phía bắc là nước Thao. - phía đông là nước Từ. - Phía tây là nước Chu. Lần lượt ta điểm mặt tứ Di ở 4 phương xem họ là ai . 1 - Nam Man : Theo Ngũ sắc của nền văn minh Dịch lý thì : phương Bắc hiện nay màu đen , tiếng Việt có từ mun đồng nghĩa với đen , bản thân từ mun là 1 sắc màu không nhằm khinh khi miệt thị ai nhưng Hán tộc đã dùng nó chửi người khác là ...kém văn minh khi biến mun→man . Nhiều tộc người phía bắc Trung quốc hiện nay được các đấng con trời gán cho chữ Man : Man →mông hay Mông cổ . Man→Mãn hay Mãn thanh . Man→Mỉn chỉ nhà Minh (minh nghĩa là tối) . Ngoài hệ màu những Dịch tượng khác chỉ phương nam cũng được vận dụng : Lu là mờ ngược với tỏ biến thành Liêu chỉ người Liêu . Lu biến thể thành họ Lưu của vua chúa Hán tộc . Kăm nghĩa là lạnh –rét (rét kăm kăm ) biến âm thành Kim chỉ người Kim nước Kim . So chiếu với màu của tứ phương theo Dịch học thì có ‘nam Man’ hay ‘nam mun’ nghĩa là phương nam màu đen điều này ngược hẳn với phương hướng hiện nay , theo phương hướng hiện nay phải gọi là bắc man ... Nước Quang là thuộc quốc phương nam phải sửa thành nước Quan thì mới thấy được tên các phụ quốc nhà Thương cũng chính là tên gọi 4 phương , quan là chuyển ngữ từ ‘nhìn-nom’ trong tiếng Việt cũng là chỉ phương nam . - nom→nôm→nam .( chữ Nôm ; còn biến thành Nồm như gió Nồm tức gió nam) 2 - Bắc Địch . Lục tìm trong sử Tàu thì chỉ có duy nhất rợ Xích Địch ngoài ra không thấy rợ Địch nào khác . Xích là màu đỏ khớp đúng với màu đỏ của ngũ sắc Dịch học chỉ hướng xích đạo ; có điều lạ vì nó ...ngược với thực tại , hướng xích đạo ngày nay là hướng nam nhưng sách tàu lại viết là ...bắc Địch . Xích Địch ═ bắc Địch > hướng màu đỏ là hướng bắc hoàn toàn đúng với Dịch học nhưng lại ngược với phương hướng hiện nay...hướng Xích đạo là hướng nam . Thuộc quốc phía bắc nhà Thương là nước Thao , Thao là biến âm của thiêu - đốt , hướng Xích đạo là hướng nóng thuộc hành Hỏa - qủe Ly - màu đỏ nên quốc gia ở đấy gọi là nước Thiêu – đốt , truyền thuyết lịch sử Việt gọi là Hồng bang ,Xích địch có thể là tên người nhà Thương gọi dân nhà Hạ là triều đại mà họ đã đánh đổ trước đây, đất trung tâm nhà Hạ cũng chính là nơi lập quốc của Triệu Đà hay Triệu Tha , Đà và Tha là Viết sai chính xác là Đào và Thao hay Thiêu , Triệu là biến âm của Chậu ngôn ngữ Thái –Lào , Chủ - Chúa trong tiếng Việt nam . Xét ý nghĩa chứa trong tên 2 rợ ‘nam man –bắc địch hay Xích địch ’ so chiếu với phương hướng hiện nay có thể khẳng định : hướng nam - bắc xưa đã bị lộn ngược . 3 - Tây Nhung. Nhà Chu đánh đổ nhà Thương nhưng không tận diệt , con vua Trụ được phong tước hầu và cho cai quản vùng kinh đô cũ nhưng phải chịu sự giám sát của 3 tông thất nhà Chu gọi là Tam giám ...thật bất ngờ Tam giám nhà Chu lại âm mưu cùng quý tộc cũ nhà Thương và đám rợ là Hoài Di –Từ Nhung nổi loạn chống lại nhà Chu..., sử viết Chu công phải đông chinh 3 năm mới dẹp yên . Thuộc quốc phía đông của nhà Thương cũng có tên là nước Từ . Theo Dịch học thì phương đông quẻ Khảm là phương của tình cảm , sự thương yêu giữa người và người đối phản với phương tây là phương của quẻ Ly chỉ lý lẽ , thương yêu trong tiếng Việt dịch sang Hán ngữ là từ ái . Phương đông trong Hán sử trở thành phương ...Từ ; nước ở phương ấy gọi là Từ quốc , rợ ở phương đông gọi là Từ nhung , việc đông chinh của Chu công đánh rợ Hoài di Từ nhung đã chỉ ra điều đó cụ thể hơn nữa còn cho thấy rợ Từ nhung là ở vùng sông Hoài nằm ở phía đông lãnh thổ Trung hoa . Người Tàu đã ...chữ tác biến ra chữ tộ...; từ→tây , rợ Từ nhung ở phương đông hóa thành tây nhung ...thì chỉ có trời mới hiểu .... Thời Tần gọi người bắc Hoàng hà là người Nhung ,Sử thuyết họ Hùng gọi họ là Quan –Liêu hay Nam Liêu , chính họ sau này thành dân của hoàng đế Quan vũ nước Đông hãn hay đông Hán ,ngoài Nam Liêu còn 2 chi khác là đông Liêu ở Sơn đông chính là rợ Từ nhung trong tứ di và tây Liêu bị Hung nô đuổi chạy tuốt về hồ Thanh hải ở phía tây trung quốc . Khi nói thuộc quốc phía đông là nước Từ cũng y như nói...thuộc quốc phía đông của nhà Thương là nước ‘phía đông’...đúng là chữ với nghĩa ...thực qúa sáng mà trở nên tối ... 4 - Đông di. Khi đã xác định Từ Nhung chính là đông Nhung thì đông Di buộc phải đổi là tây Di . Có sự Trùng khớp khá lý thú khi biết thuộc quốc phía tây của nhà Thương là nước Chu hay Châu , chính thuộc quốc Chu sau này đã diệt nhà Thương kiến lập triều đại Chu của Trung hoa , lý thú là ở chỗ người Hán gọi họ là rợ Tây Di , đúng y với tên gọi cộng đồng người mà thời trung - cận đại cũng vẫn gọi là Tây Di - Tây nam Di hay tên khác là Di –Lão ở Qúi châu và Vân nam . Thuộc quốc phía tây của nhà Thương là nước Chu , rợ phía tây trung quốc là Tây Di ; liên kết 2 thông tin ta được điều rất quan trọng : Thành phần chính của Dân nước Chu thời còn là thuộc quốc của nhà Thương là người Di hay Di lão cũng gọi là người La , sách Tàu gọi là Liêu tử ngày nay là người Kadai . Rợ tây bắc Trung quốc là Hung nô và Đột quyết . Phía tây là Chi và Khương . Tây nam là người Di hay Di lão , ngật Lão cũng là Khuất Lão-khuất Liêu. Xét qua những thông tin trên thì Địa bàn gốc của nhà Chu không thể nào là Thiểm tây được và nhà Chu cũng không thể nào có gốc Hung nô như 1số nhà nghiên cứu Trung quốc đã nêu ra . Theo những nghiên cứu gần đây thì người Di là tộc người cố cựu của vùng Quí châu Vân nam , họ đã có mặt ở đấy ít ra cũng hơn ngàn năm trước công nguyên . Văn vương là TÂY bá , nước phía tây là nước CHU , rợ phía tây là tây DI...liên kết chuỗi thông tin này rồi Căn cứ vào địa bàn sinh trú của người Di đối chiếu với những thông tin trong cổ sử Trung hoa và Việt nam có thể kết luận : Đất gốc của nhà Chu là Quí châu Trung quốc sau họ cường thịnh lên mở rộng lãnh thổ phía tây sang Vân nam ( cổ sử gọi là nước ‘Mật Tu’ là biến âm của ‘mặt TÂY’ trong tiếng Việt ) và phía nam đến miền bắc - bắc Trung Việt ngày nay ( Sử Trung hoa chép là nước Sùng ) ; miền đất rộng lớn này chính là lãnh thổ nước Văn Lang : bắc giáp Động đình hồ ,nam giáp nước Hồ tôn , tây đến Ba thục và đông giáp Nam hải trong truyền thuyết lịch sử Việt , vùng này sau trở thành đất Trung hoa ( nghĩa là trung tâm văn minh) của thiên hạ khi Chu Vũ vương lên ngôi Thiên tử kiến lập triều đại Chu ngàn năm , có thể nói không ngoa .... văn hoá văn minh Trung hoa rạng ngời như ngày nay chính là công của nhà Chu ( tứ thư - ngũ kinh linh hồn của văn minh Trung hoa ra đời ở thời này ). Thông tin trong bài này là sự kiện chứng cho những điều đã viết trong Sử thuyết ho Hùng : - Kiến lập triều Chu là Thục Phán sử Tàu gọi là Cơ Phát . - vua Tổ của nhà Chu là ông Cơ Xương tức Văn vương tiếng Việt là Văn lang( Lang ═ vương ═ thủ lãnh-vua) nên nước của Văn vương còn được gọi là nước VĂN LANG kinh đô ở Phong châu hay đất Phong , đất Phong thời nhà Thương Ân thuộc nước SÙNG ( sùng ═ cao) do các Sùng hầu cai quản trước sau có 5 đời chúa truyền thuyết dân gian Việt gọi là Ngũ vị tôn ông : Sùng Nghiêm - Sùng Tôn – Sùng Hoà –Sùng Quyền –Sùng Cầm hay Lãm , vị Sùng hầu sau cùng theo sử Việt là Sùng Lãm nhưng theo sử Trung hoa là Sùng hầu Hổ . - Trống đồng là Vật thể văn hóa tiêu biểu cho văn minh nhà Chu , nơi phát hiện trống xưa nhất và nhiều nhất cùng với những thông tin về Dịch lý chứa trong hoa văn trên mặt Trống đồng đã chỉ ra điều ấy ( Văn vương là 1 trong tứ thánh đã làm nên Dịch học ) Kết : Khi nói nhà CHU rạng rỡ cũng chính là nói : VĂN LANG huy hoàng ; vầng hào quang ấy dù có lúc tạm khuất nhưng chắc chắn không bao giờ tắt .1 like
-
SDT bạn đã dùng lâu chưa? nếu đã sử dụng được > 6 tháng thì có thể kiểm nghiệm được rồi. Từ khi bạn dùng số này thường nhận đc sự trợ giúp của mẹ bạn nếu là người trong gia đình khá hợp với mẹ và em trai út( nếu có) hoặc người phụ nữ > 38 tuổi.Tuy nhiên dù bạn có cố gắng đến mấy cũng ko sao tiến nhanh hơn đc mà chỉ ở mức từ từ.Bởi vì chính SDT này đã chỉ ra bạn đang trong thời kì khó khăn, nên hành động phải hết sức thận trọng. Trong quan hệ giao tiếp làm ăn nếu dùng sdt này để ngoại giao thì hết sức thận trọng với những người nữ ( TRung NỮ = thứ Nữ). Hướng Nam, Miền Nam ko thật tốt cho bạn.SDT này có 1 hậu vận cũng bình thường chứ ko phải tốt lắm.Mình khuyên bạn chỉ dùng số này đến hết năm 2012 thôi.Năm 2013,2014 sẽ gặp đại hạn nếu còn sử dụng thì hết sức thận trọng.Nếu bạn mới dùng số này thì cứ dùng tiếp để kiểm nghiệm những điều trên.Chúc May Mắn :D1 like
-
Thưa Sư phụ và các bạn, thanhphuc thấy trên Cụ Khiết còn có một biểu tượng nữa: đó là ngoài biểu tượng vòng tròn Âm - Dương (thể hiện trung tâm vũ trụ - tất nhiên là bỏ 2 châm đi cho thuần Việt) còn có biểu tượng của ngọn lửa trên đầu, 2 lông mày và bên thân Cụ Khiết. Đó là tượng của lửa - hỏa - cung Ly - phương Nam; và theo thanhphuc (trên cơ sở ý tưởng bài viết trên): Đầu Cụ Khiết luôn hướng về phương Nam (chính Nam), từ đó gọi là KIM CHỈ NAM, và tất nhiên lưng sẽ là hướng Bắc (có chòm sao Đại Hùng tinh). Như vậy, điều này thêm bằng chứng để có thể đưa ra khẳng định la bàn là di sản của dân tộc Lạc Việt. Thêm ý kiến, mong Sư phụ và các anh chị em góp ý.1 like
-
Sử thuyết họ HÙNG-những điều mới biết . Để dẫn chứng cho những dòng sử sắp viết Xin trích 1 phần bài viết về phiên thiết chữ Hán của tác gỉa Nhạn nam Phi .. Sách “Thuyết-Văn” còn gọi là “Thuyết văn giải tự”do Hứa Thận thời Đông Hán biên soạn, bao gồm 2 phần là Thuyết văn và Trọng Văn. - ........ - Sách Thuyết văn dùng 2 phương pháp “Phản” và “Thiết” để tra chữ, rồi giải thích nghĩa, tạo ra tiền lệ và trở thành quyển từ điển đầu tiên. Các từ điển sau nầy là phỏng theo phương cách của Thuyết văn. - -“Phản” là cách nói phản-nghịch (nói lái): dùng từ phản (nói lái) để đọc ra phát âm của chữ cần tra cứu. Ví dụ: - Phát âm chữ “Thiên 天” là theo cách nói lái của “Tha-Tiền 他前”, là “Thiên Tà”, thì sẽ biết “Thiên” là phát âm của chữ “Thiên 天”: 天 = 他前. - -“Thiết” là nhất thiết, là tất cả: chữ đầu lại dùng luôn âm vần của chữ thứ 2 để phiên âm ra giọng đọc của chữ cần tra cứu. Ví dụ: - Phát âm chữ “Thiên 天” là dùng chữ “Tha-Tiền 他前”. Với cách đánh vần chữ “Tha 他” dùng luôn âm “iên” của chữ “tiền前” thì sẽ được Tha-iên-Thiên: 天=他前. - Hai phương pháp “phản” và “thiết” có cách dùng trái ngược nhau, nhưng nhập chung lại thì cách nào cũng được, và gọi chung là “phương pháp phản-thiết” để phiên âm. Có hiện tượng “không bình thường” là khi dùng tiếng Hoa ngày nay để đọc “Hán ngữ” cổ thì khó khăn, không thích hợp, còn dùng tiếng Việt ( phát âm hán việt ? ) để đọc lại dễ dàng. Từ đó rút ra kết luận: đọc Thuyết văn theo tiếng Việt thì đúng, mà đọc theo tiếng Hoa thì nhiều khi sai vì không hoặc khó phiên âm đúng. Thí dụ : chữ “Hạ夏”. –Hồ nhã thiết . -Phiên âm theo cách phản: Hồ nhã = Hà nhỗ, âm : “Hạ” -Phiên âm theo cách thiết: Hồ-nhã=Hồ-a-ha , âm : “Hạ”. Một đoạn ngắn nêu trên khi tra chữ Hạ 夏 cho thấy thời cổ đại cho đến thời nhà Hán thì chữ 夏xia của tiếng Hoa bây giờ, ngày xưa đọc là “Hạ夏”. Như vậy, rõ ràng là dùng tiếng “Hoa” khi tra Thuyết văn là trật, là không thích hợp. “Hồ nhã” không bao giờ phiên âm ra thành “Xia”. Đặc biệt: “Hồ nhã-胡雅” đọc theo Mân Việt “雅Nhã” là “Nghé”, “nghe” hay “nghè” thì “phản thiết pháp” cuả Hạ夏 trở thành âm Hè夏 theo tiếng Triều Châu và Việt Nam. ................. Hết phần trích . Chữ NHO mà người Hán phải phiên thiết mới đọc được thực là lạ ...ngộ nghĩnh hơn là phải phát âm theo giọng đọc của Bách Việt mới chính xác . Điều này tưởng nhỏ nhưng thực sự không nhỏ chút nào ...vì chính nó giúp xác định Trung hoa xưa là người Bách Việt ở Hoa nam , văn minh Trung hoa là văn minh Việt người Hán Hoàng hà chỉ ‘ăn theo’mà thôi ,nhưng về sau họ chiếm đoạt luôn biến người Việt thành kẻ ăn nhờ ở đậu như thiên hạ đang tưởng . Người Hán không chỉ phiên thiết để đọc chữ Nho mà họ đã ứng dụng tạo từ để dịch những từ nước ngoài mà bản thân Hán văn không có chữ đây là điều mới . Vận dụng phép phiên thiết bỗng hiểu ra nhiều điều bất ngờ và thú vị : Nước India ngày nay được cổ thư Trung hoa gọi là nước ‘Đại Thực’ chính xác phải đọc là đại THỤC biến âm của từ Thụt tiếng Việt , bên đông là Dâng nghĩa là mặt trời lên Hoa ngữ là dương , bên tây mặt trời thụt xuống biến âm hoa ngữ là thiệp. Từ Thục phiên thiết Hán văn là : -Thiên Trúc thiết là Thúc đọc thành Thục . -Thận độc thiết là Thộc cũng đọc thành Thục . Tên nước Thiên trúc - Thận độc ...cả về nghĩa và thanh đều không liên quan gì đến india .... Thì ra người Trung hoa gọi nước India là nước lớn phía tây ....chỉ đơn giản thế thôi . Sau 1 chút dành cho ngôn ngữ học mời bạn đọc cùng xem Bản đồ Đại Việt nam trước thời Pháp thuộc . Bản đồ trên chỉ ra : Toàn bộ Miền Trung và hạ Lào nằm trên cao nguyên AN NAM , tất cả nằm trong lãnh thổ Đại Việt nam , tên quản hạt hành chánh các vùng là Trấn Ninh , Trấn Tĩnh ,Trấn Định ; trong các từ này :Trấn là đơn vị hành chánh , Ninh- Tĩnh - Định lấy nghĩa từ Dịch học là không thay đổi quẻ Ly chỉ phương tây ngược với Đông là động ., Trấn Ninh trấn Tĩnh trấn Định đều có nghĩa là trấn hay vùng lãnh thổ phía tây . Cực nam của cao nguyên An nam là tỉnh Champassak của Lào ngày nay , bằng vào tên gọi có thể đoán định trước đây nơi này là vùng đất của người Cham , thuộc lãnh thổ nước Champa . Tóm lại khi chia lại lãnh thổ 3 nước Đông dương Thực dân pháp đã cắt 1 phần lãnh thổ rất lớn phía tây Việt nam chuyển sang lãnh thổ Lào , với người Pháp đây là chuyện ‘lấy của làng làm ơn cho ông Xã...’ vô thưởng vô phạt đâu cũng là thuộc địa của Pháp ...nhưng việc này lại là tội ác vô cùng lớn đối với người Việt vì khi xoá bỏ chế độ thực dân trên bán đảo Đông dương các nước trên thế giới đã lấy bản đồ phân chia địa giới dùng cho mục đích quản lý hành chánh nội bộ Của nhà cầm quyền mà thực dân Pháp tự ý tự quyền phân chia không hề dựa trên nền tảng lịch sử để áp đặt cương giới lãnh thổ thực sự được quốc tế công nhận cho 3 nước Việt - Miên -Lào độc lập . Đây là 1 bất công lớn lao người Việt phải gánh chịu khi bước vào thế giới văn minh hiện đại , lãnh thổ mất trắng tính ra ít nhất cũng trên 100.000 km2 , cũng may vì sự vận động khách quan của lịch sử tất yếu sẽ dẫn đến 1 cộng đồng Đông nam Á , khi ấy lãnh thổ của các nước thành viên không còn là ‘của riêng ai’ , ai cũng là người Đông nam Á đất nào cũng là đất Đông nam Á cả nên người Việt kiên trì theo lời chỉ bảo của Dịch học ... “ bỏ cái nhỏ để được cái lớn ” , hành sử như thế không tạo can qua mà anh hồn tiền nhân những người đã lấy thịt xương chất thành cao nguyên An nam để lại cho con cháu cũng không phải tủi hổ . Giờ thì chẳng cần cổ thư Trung hoa , chỉ cần nhìn vào bản đồ cũng biết được quốc gia của người Việt trước đây là nước Lạc hay quốc gia Lạc . Nhiều nhà khoa học đã kiến giải : Lạc biến âm ngày nay là nước , lạc →nác →nước . , nước là yếu tố vật chất nền tảng tạo thành mọi sinh vật , nhưng với dịch học thì không dừng lại ở đấy mà nước chính là dịch tượng chỉ phương NAM , từ quốc hiệu “Lạc-Nước” 1 danh từ riêng về sau trong Việt ngữ Nước biến thành danh từ chung đồng nghĩa với từ bang , quốc trong Hoa ngữ . Nước Lạc đồng nghĩa với NAM BANG đã được nói đến trong những câu đối ở đền HÙNG là nhà nước của người Lạc Việt 1 chi của Bách Việt ; dòng tộc làm chủ miền đất phía nam sông Dương tử và Đông nam á từ thời thái cổ . - Bản đồ Đại nam trên chỉ ra : địa danh Lạc biên và Cam môn cạnh nhau đã xác định ranh giới nam Lạc và bắc Cam là Hoành sơn hay đèo Ngang , Cam môn nghĩa là cửa vào nước Cam xác định lãnh thổ nước Cam phía bắc bắt đầu từ chỗ này kéo dài về phía nam tới Cam ranh , Cam ranh chỉ nghĩa là ranh giới nước Cam ta có thể khẳng định nghĩa ấy vì cạnh Cam ranh là Phan rang , chữ rang là chữ viết sai đúng ra phải viết là Phan ranh cũng như chữ Cam ranh trước đây có tư liệu viết là Cam rang . Dựa trên thông tin chứa trong bản đồ tiền Pháp thuộc trên ta xác định : nước Việt nam ngày nay hình thành trên cái nền của 3 nước Lạc –Cam - Phan cũ và mất đi phần lãnh thổ rộng lớn ở phía tây bắc Việt . Một số điều mới biết : 1 / nước Lạc . - Nước Lạc ngoài phần lãnh thổ phía tây mới mất thời hậu thực dân trước đó cả 1 vùng rộng lớn ở phía bắc đã bị giặc Tàu cưỡng chiếm khi vua quan nhà Mạc ‘mãi quốc cầu vinh’, lãnh thổ phía bắc Đại Việt trước đây lên tới tận miền nam Quảng Tây và tây Quảng Đông ....xa hơn nữa thời Đại Việt - Đại Hưng ( người Tàu cố tình gây nhiễu đã biến đại Hưng ra Đại Hán )cả Quảng đông và Quảng tây đều là đất Việt với tên gọi Việt đông và Việt tây. Cổ sử nước Việt có 1 điều hoàn toàn mới và rất lớn : Tùy thư -Liệt truyện -Lâm Ấp Tổ tiên của Lâm Ấp, nhân có loạn người đàn bà Trưng Trắc ở Giao Chỉ cuối thời Hán, con của Công tào trong huyện là Khu Liên giết Huyện lệnh, tự hiệu làm Vương. Không có con, cháu ngoại của mình là Phạm Hùng nối tiếp lập, chết, con là Dật lập. Người Nhật Nam là Phạm Văn nhân loạn làm phó của Dật, rồi dạy xây cung điện, làm khí giới. Dật rất tín nhiệm, sai Văn cầm binh, rất được lòng dân chúng. Văn nhân đó tra hỏi con em của Dật, người thì chạy người thì trốn. Đến lúc Dật chết, nước không có người nối nghiệp, Văn tự lập làm Vương . Đọc đoạn sử trên ta không thể hiểu khác là khởi nghĩa Hai bà Trưng xảy ra vào cuối thời Đông Hán , đồng thời hay ngay trước thời điểm Khu liên giết huyện lệnh Tượng lâm và xưng vương . Khu Liên trong sử sách là tên gọi của quốc vương đầu tiên của Lâm Ấp, ngoài ra còn có các tên gọi khác như: Khu Quỳ, Khu Đạt hay Khu Vương. Người ta cho rằng ông lập ra vương quốc Lâm Ấp (sau này là Chăm Pa) năm 192 ...như thế Mã viện không thể hành quân dẹp “loạn người đàn bà Trưng Trắc ở Giao Chỉ” chiếm đất việt trong thời gian năm 39-42 như Việt sử và Hán sử đã chép . Thông giám tập lãm của triều đình nhà Thanh dọn lại các sách của Tư Mã Thiên, Ban Cố , Tư Mã Quang và Chu hy, làm năm 1768, cũng chép một đoạn trong đời Tần Thủy Hoàng rằng: “Năm Đinh Hợi (214 tr. T.C.)… nhà Tần lấy đất Nam Việt đặt Quế Lâm, Nam Hải, Tượng Quận…”. Dưới chữ Nam Việt chua “tức Bách Việt, cũng gọi là Dương Việt”; Nhiều ‘thư’ khác của trung hoa cũng cho Nam việt là Bách Việt ....phải chăng 9 quận Hiếu vũ đế chia đất Nam Việt như sử hiện nay chính là 9 phần đất của cả khối Bách Việt , nếu cho đấy là 9 quận của Nam việt thì sẽ lộ ra sự vô lý ở chỗ ...đảo Hải nam bao lớn , thời đó có được bao nhiêu dân mà chứa cả 2 quận Chu nhai và Đạm nhĩ của Trung hoa ? , cách đây chục năm , Hải nam vẫn chỉ là 1 huyện đảo của tỉnh Quảng đông mà thôi . Người Tàu với mưu đồ thoán đoạt lịch sử và văn minh Bách Việt đã tạo ra 1 mớ bòng bong các thông tin lịch sử thật giả lẫn lộn quấn chặt chồng chéo lên nhau cơ hồ không thể gỡ ra được . Dựa trên những thông tin mang trong chính tên các quận ta có thể xác lập Bản đồ 9 quận Trung hoa trên đất Hoa nam thời Hiếu vũ đế (Tây Hán ). - Giao chỉ là đất Lạc Việt xưa nay . - Lâm Ấp cũng là Uất lâm nay còn dấu là thành phố Uất lâm tỉnh Quảng tây . . - Cửu Chân thực ra là Cửu châu chỉ đất phía tây đồng nghĩa với Qúy châu . - Nhật nam là Nhất nam , nhất số 1 là dịch tượng chỉ nước cũng là chỉ phương nam không phải Nhật nam nghĩa là phía nam xích đạo . - Thương ngô là đất chính của nhà Thương cũng là nước Ngô thời Chiến quốc . - Hợp phố chỉ là biến đổi của Hợp phì thủ phủ của tỉnh An huy . - Hải nam hay Nam hải xưa nay vẫn là đất Quảng đông . - Chu nhai là Phúc Kiến ngày nay , vì sách xưa chép Chu nhai là đảo lớn sau này Đường triều đặt bộ tư lệnh hạm đội biển nam của Trung quốc . (sử Trung hoa cho Chu nhai là Đảo Hải nam ?). - Đạm nhĩ là tên Quận sau cùng nên đặt vào đất chưa có tên . Chính cổ thư Trung hoa đã xác nhận sự ấn định trên khi chép : Phù nam cách Lâm ấp 3000 lý , cách Nhật nam 7000 lý tức khảng gần 1500 km và 3500 km . Người Hán đã cố ý ép 9 quận của cả vùng đất Bách Việt rộng lớn dồn vào thành 9 quận đất Nam Việt của Triệu Đà ; Cửu châu biến thành Cửu chân , Uất lâm hay Lâm uất thành Lâm ấp , Nhất nam thành Nhật nam , Hợp phì thành Hợp phố .v.v .Cố ý gây nhiễu loạn lịch sử để không người nào còn có thể nhận ra cuộc khởi nghĩa Hai bà Trưng chính là khởi nghĩa Hoàng cân đã diễn ra trên toàn cõi Hoa nam , điều này cũng nghĩa là không có thời bắc thuộc lần thứ nhất như sách sử đang lưu hành , chính cuộc hành binh do Mã Viện chỉ huy mới đặt nước Việt vào vòng nô lệ . Việc thay đổi 9 châu làm nhiễu loạn lịch sử không phải là lần đầu , trước đó những người muốn ‘bẻ cong bẻ quẹo’ lịch sử đã thủ tiêu đi quận Tam xuyên của nhà Tần , thủ pháp rất đơn giản ...thay tất cả tên Tam xuyên trong sách sử địa Trung hoa sau đời Tần bằng tên Tượng quận mặc cho Ung thành thủ phủ quận Tam xuyên vẫn còn đứng đấy (nay là thành phố Nam ninh.), Tượng quận thực ở vùng Vân nam bị ‘hô biến’ thành huyện Tượng lâm nghĩa là 1 huyện ở tây Quế lâm ... Tất cả mọi sự chồng chéo đổi thay ....là do hàng chữ không thể tẩy xoá : Tần lấy đất 2 nhà Chu lập quận Tam xuyên...trong Sử ký Tư mã Thiên mà thôi . 2 / nước Cam . Nước Cam viết theo Phạn ngữ là Campanagara là nhà nước của người Hời cổ sử Việt gọi là Hồ tôn , Hồ và Tôn là những Dịch tượng chỉ hướng Xích đạo ; Hồ là quẻ Đoài , Tôn là can Tân của Thập can , qua Cam môn 1 quãng suôi về nam là tới thành phố Đồng Hới ...rõ ràng đây là tên tiếng Việt nhưng bản thân người Việt cũng không hiểu địa danh ấy mang ý nghĩa gì ....thưa ...nếu phát âm theo đúng giọng Bình trị thiên là Động Hời thì ra nghĩa chính xác ngay, động là đơn vị hành chánh việt nam thời xưa , Hời ở đây là người Hời sách vở Trung hoa phiên âm thành Hu hay Ho . Vua Hồ tôn hay Hồ Tân gọi là Lang Tân hay Tân lang (lang là vương) , nếu viết bằng Hán văn thì Tân lang đồng âm với tân lang nghĩa là cây cau...;vì vậy nước Cam còn được biết đến dưới tên dân gian là Chàm cau ....sách vở Tàu ghi là Tân lang tộc . - Ghi nhận : Người Việt xưa đã gọi và ghi chép 1 cách chính xác tên nước CAM trên bản đồ không dùng tên theo Hoa ngữ là Chiêm thành hay Chiêm bà. Phiên thiết Hán văn cho ta : Chiêm bà thiết là CHÀ , Chà Biến âm thành Trà còn lưu dấu trong các địa danh như Trà bồng đặc biệt là kinh đô Trà kiệu của Chiêm thành , nhiều người vẫn lầm lẫn khi cho cụm từ : ‘Chà già ấn độ’ là chỉ người nước India thực ra cụm từ này chính xác là ‘Java-Indo’ tức chỉ đảo Java nước Indonesia ngày nay , rất có thể CHÀ là tên người Việt gọi chung những người thuộc loại hình nhân chủng Nam đảo hay indonesien . Từ Chà ngoài ‘Trà’ còn có các biến âm khác như : Đà trong địa danh Đà nẵng , (chữ Đà này hán văn phiên thiết là Đồ bà ). Rất có thể Chà còn biến âm thành Sa trong địa danh Sa Huỳnh và tên 2 quần đảo Trường Sa- Hoàng sa , Huỳnh là từ thay thế cho Hoàng do kỵ húy chúa Nguyễn Hoàng , Sa hoàng là chúa hay vương của người Chà nghĩa rất rõ . Tân Đường thư viết : người Lâm ấp ưa đạo ‘phù đồ’...suy mãi mới ra : -Phù đồ thiết là Phồ Hán Việt đọc là Phật . Phật gíao đã du nhập vào Trung hoa từ đầu công nguyên , chắc trong Hoa ngữ từ Phật phải có lâu lắm rồi vậy mà sao mãi tới đời Đường còn gọi là đạo Phù đồ ... Thực Trung hoa luôn kỳ bí , khi tìm ra sự độc đáo này người viết vẫn đang tự hỏi ...tại sao ? Liên quan tới lâm ấp -Chiêm thành còn nhiều điều chưa hiểu nổi như chép trong: Chư phiên chí -Bắc Tống - Nước Chiêm Thành - Triệu Nhữ Thích chép : Chiêm Thành , phía đông đi biển đến Quảng Châu, phía tây tiếp Vân Nam , phía nam đến Chân Lạp, phía bắc đến Giao Chỉ, thông Ung Châu . Từ Tuyền Châu đến nước này theo chiều gió đi thuyền hơn hai mươi trình. Đất này đông tây 700 dặm, nam bắc 3,000 dặm. Kinh đô nước này gọi là Tân Châu, tức là tên huyện trấn.. Cứ theo sách này thì Chiêm thành có lẽ gồm cả đất Xiêm la ...? hay 2 tên là 1... Xiêm nào cũng là Xiêm ...? - Về quốc hiệu Lâm ấp trong sách vở trung hoa xin đưa ra 2 giả thuyết : - Thứ 1- Lâm ấp là chữ viết sai của LAM ÁP. Lĩnh nam trích quái phần chuyện Nam Chiếu cho biết : vùng đất từ cửa Thần phù tới Hoành sơn tức đồng bằng Thanh Nghệ Tĩnh có tên là Lâm An , Lâm là chữ ký âm sai của Lam viết tắt của Thanh lam tên gọi đất Thanh hóa trước đây , An là gọi tắt của Nghệ an , Lam áp nghĩa là phần đất sát với đất Lam tên gọi tắt của vùng Thanh nghệ tĩnh , đối chiếu với bản đồ trên ta nhận ra Lam áp chính là lãnh thổ nước Cam của người Hời . - Thứ 2 - Lâm ấp thực ra là Ấp lâm . Ấp lâm thiết là ÂM đọc thành Ân –Yên chính là nước Yên thời chiến quốc . Biến cố lịch sử ở Lâm uất hay Uất lâm đem trộn lẫn với những sự kiện xảy ra ở Lâm ấp tức nước Yên thành mớ bòng bong ....nên cột đồng Mã Viện có ‘thư’ viết là ở nam Quảng Tây ‘thư’ khác lại cho là ở biên giới Giao chỉ và Cham pa ...2 nơi cách nhau bằng cả chiều dài Lạc Việt ... Xin chép lại 1 phần trong bài viết về Hùng triều thứ 15 –Hùng Định Chân lang . Sử ký của Tư Mã Thiên, truyện Tần Thủy Hoàng có đoạn nói rằng: “Thủy Hoàng… chiếm lấy đất Lục Lương, đặt làm Quế Lâm, Tượng Quận, Nam Hải”. Dưới chữ Tượng Quận có chua sáu chữ nhỏ là: “Vi Chiêu viết, kim Nhật Nam”, nghĩa là Vi Chiêu cắt nghĩa Tượng Quận đời Tần tức là Nhật Nam đời Vi Chiêu. (Sử ký; Tần Thủy Hoàng bản kỷ, q.6, tờ 3a). Như thế Tượng quận tức đất Nhật nam là miền trung Việt ngày nay cũng chính là lãnh thổ nước Cam . Nhưng : Thông giám tập lãm của triều đình nhà Thanh dọn lại các sách của Tư Mã Thiên, Ban Cố , Tư Mã Quang và Chu hy, làm năm 1768, cũng chép một đoạn trong đời Tần Thủy Hoàng rằng: “Năm Đinh Hợi (214 tr. T.C.)… nhà Tần lấy đất Nam Việt đặt Quế Lâm, Nam Hải, Tượng Quận…”. Dưới chữ Nam Việt chua “tức Bách Việt, cũng gọi là Dương Việt”; dưới chữ Tượng Quận chua “đất ấy rộng xa, nay phủ Liêm, phủ Lôi, tỉnh Quảng Đông, phủ Khánh Viễn, phủ Thái Bình, tỉnh Quảng Tây và cả nước An Nam” (Ngự phê thông giám tập lãm, q.11, tờ 6b) Học giả Cát Kiếm Hùng có ý kiến tương tự về vị trí Tượng quận là ở phía tây Quảng Tây. Vậy là Tượng quận không dính gì đến Nhật nam mà ở xa về phía bắc tuốt Quảng đông Quảng tây . Kỳ quái nhất là : Cựu Đường Thư, một đàng tin Tượng Quận là Nhật Nam đời Hán, mà di tích hãy còn gần Nhật Nam tức lãnh thổ nước Cam , còn một đàng lại cho cho An Nam đô hộ phủ đời Đường thuộc về Tượng Quận như thế lại là đất Lạc Việt ...? - Thực càng đọc ...càng rối cứ như là các triều đại Trung quốc là các nước khác nhau không liên thông tiếp nối chi cả mỗi nước có sách sử riêng mà đôi khi thông tin mang trong các ‘thư’ chửi bố nhau và hoàn toàn phi lý như việc nhà Tần đánh Nam Việt năm -214 lúc đấy lấy Nam Việt ở đâu ra mà đánh ....vì mãi tới năm -207 Triệt đà mới xưng vương và đặt tên nước là Nam Việt ... ; cả 1 Tượng quận của Tần to lớn đến thế mà mãi tới tận hôm nay các sử gia Trung quốc vẫn đang đi tìm ....chưa rõ ‘nó’ nằm ở đâu thì thật là bất thường , địa lý Trung quốc mà còn thế huống hồ gì các nước ngoại biên thí dụ như Chiêm thành – Nhật nam dẫn ở trên . Sử Việt có sách cho Lâm ấp là vùng Bình Trị Thiên như thế nước Lâm ấp cắt đôi đế quốc Tàu chia tách hẳn 2 quận Cửu chân và Nhật nam .... liệu người Tàu có để cho sự việc xảy ra hay không ? hơn nữa làm sao mà miền cực nam quận Nhật nam lại ở đấy ? phải là cực bắc chứ ? Có sách lại cho Lâm ấp –Tượng lâm là vùng Bình định Phú yên của Việt nam hiện nay , điều này không có sách vở nào ghi cả ... 3 /- nước Phan . Phía nam nước Cam là nước Phan ...quốc danh chưa từng ghi nhận trong lịch sử nhưng lại được xác nhận rõ ràng trên bản đồ Việt nam bằng địa danh Phan rang tức Phan ranh tức ranh giới nước Phan .. Dùng phép Phiên thiết của người Hán thì nhận ra : Phù nam thiết đọc thành Pham . Pham biến thành Phan và Phạm ... Phan là tên nước , Phạm là họ của vua nước Phan . Có người kiến giải : Pham là phiên âm một từ gốc Khmer và Nam Đảo là PHUN, PHỎM, chỉ người đứng đầu- thủ lĩnh- vua , điều này tương tự như từ Hãn biến thành Hán ; Hãn quốc biến thành nước Hán người Hán vậy , từ Phạm nghĩa là vua rất hữu lý khi rất nhiều vua Lâm ấp-Chiêm thành và Phù nam mang danh hiệu có chữ đầu là Phạm ...; như vậy : Phạm phật nghĩa là vua tên Phật , phạm Hùng là vua tên Hùng ...v.v.. Về Sự liên hệ giữa Phù nam và Chân lạp thì nhiều sách hiện nay cho đó là 2 nước nhưng nếu phân tích dựa trên truyền thuyết bà chúa Phù nam là Liễu diệp sau khi chiến bại phải lấy Hỗn Điền và nhường ngôi cho chồng làm vua từ đó tên nước Phù nam đổi thành Chân lạp . Theo Sử Phù nam thế kỷ thứ IV có vì vua gọi là Thiên trúc Chiên đàn . Nếu dùng phép phiên thiết Hán văn thì : Chiên đàn thiết là chàn có thể đọc là chân Liễu diệp thiết là liệp - lạp . qua phiên thiết Hán văn thì cặp đôi : Chiên đàn – Liễu diệp trở thành tên nước Chân lạp . Xét như vậy thì Chân Lạp chỉ là tên khác của Phù nam trong thời kỳ ‘bị’ 1 ông vua người India cai trị mà thôi chứ không phải là 2 nước khác nhau . Ngoài 3 nước đã bàn trên , xếp vào phía nam Giao chỉ cổ thư Trung hoa còn 1 nước nữa xưa nay chưa nghe nói đến . Theo Ngô thư thì vào tháng chạp năm Xích Ô thứ sáu (243), Vua Phù Nam là Phạm Chiên sai sứ dâng nhạc công và phương vật. Sau đó, khi đánh chiếm Giao Châu và Cửu Chân, Vua Ngô đã sai người đến các nước phương Nam, Vua các nước Phù Nam , Lâm Ấp và Minh Đường đều sai sứ dâng cống. Minh đường là nước nào ? Minh đường thiết là...Mường . Tên gọi nước Mường chỉ rõ là 1 nước của giống Việt ...vậy mà xưa nay người Việt không hề biết . Phải chăng đó là nước của Đoài lang vương mà Lĩnh nam trích quái phần chuyện Nam Chiếu viết sai thành Đào lang vương ? , phương Đoài là phương tây nước Đoài lang nghĩa là quốc gia của vua phía Tây ( lấy đất Đất giao hay đất ‘giữa’làm chuẩn ), Hoặc Cổ sử Trung hoa có nói đến 1 nước ở phía tây tên là Đốn Tốn lãnh thổ trải dài từ biên giới Thiên trúc tới Giao chỉ ? - Còn Theo sử thuyết họ Hùng thì phía tây Giao chỉ đất của thiên tử là nước Lỗ phong Chu công ? Rất có thể chỉ là những tên khác nhau của 1 nước đã được ghi chép bởi những dòng sử khác biệt . - Để có thể làm sáng tỏ những gì đã xảy ra trong quá khứ tức Lịch sử ở vùng đất đông nam Á cầm chắc còn phải tốn rất nhiều công sức và thời gian . Việc có thể làm ngay để tỏ lòng tôn kính tiền nhân là trong các văn bản sử địa người Việt từ nay chỉ dùng tên Việt ngữ đúng như cha ông ta đã làm không dùng những tên phiên thiết Hán văn nữa .1 like
-
Tìm được mộ anh trai nhờ một bài thơ phổ nhạc Nhà thơ Nghiêm Thị Hằng sinh ra tại quê nội: xã Cổ Nhuế, huyện Từ Liêm, Hà Nội. Nhưng đến khi Hằng 5 tuổi thì gia đình chị gặp một biến cố: Người cha mất, người mẹ đi bước nữa. Hai người anh trai ở lại Hà Nội với mẹ, Hằng được người cậu ruột đón lên quê ngoại nuôi. Đó là một ngôi làng ven sông Hồng thuộc huyện Vĩnh Tường, Vĩnh Phúc. Người anh trai cả của Hằng là Nghiêm Xuân Phú. Mặc dù anh em rất yêu quý nhau nhưng do phương tiện giao thông hồi ấy khó khăn, suốt tuổi thơ, Hằng cũng chỉ được gặp anh vài ba lần. Lần cuối cùng anh đã là bộ đội hành quân qua Vĩnh Tường ghé vào nhà cậu chia tay em để vào Nam chiến đấu. Năm ấy Hằng 11 tuổi. Anh tặng Hằng một cái bút và cái khăn len quàng cổ. Hằng tiễn anh ra bến sông. Buổi chiều ấy hoa cải nở vàng như mơ hai bên bãi sông Hồng. Dù còn thơ bé nhưng không hiểu sao Hằng linh cảm đây là cuộc gặp nhau cuối cùng giữa hai anh em. Lúc chia tay, Hằng cứ ôm lấy anh mà khóc. Quả nhiên sau này, trong thời gian làm công việc sắp chữ tại xưởng in báo Trường Sơn, Hằng đã biết tin Nghiêm Xuân Phú, anh trai của chị hy sinh từ năm 1967. Nhà thơ Nghiêm Thị Hằng bên mộ anh trai - liệt sĩ Nghiêm Xuân Phú. Tới nay, Nghiêm Thị Hằng đã có khá nhiều bài thơ được các nhạc sĩ phổ nhạc, trong đó có những nhạc sĩ tên tuổi như Trần Hoàn, Phan Huỳnh Điểu, Thuận Yến, Phạm Tuyên, Huy Thục, Thanh Phúc, Cầm Phong, Thế Song, Đoàn Bổng... nhưng bài được nhiều người hát nhất lại là "Mùa hoa cải", do nhạc sĩ Lê Vinh phổ. Mặc dù Lê Vinh không phổ nguyên như lời thơ, nhưng hồn cốt thì vẫn trung thành với thi phẩm. Hằng cho rằng, sở dĩ bài hát này phỏng thơ của chị thành công là bởi có căn cớ của nó, không thể không kể đến yếu tố tâm linh. Ấy là một lần chị nhớ tới người anh trai Nghiêm Xuân Phú và cuộc chia tay lần cuối ven bãi sông Hồng vàng rực màu hoa cải. Hằng hình dung ra bao nhiêu cặp trai gái, vợ chồng cũng từng chia tay nhau bên bãi sông vàng rực màu hoa cải như thế, rồi người đàn ông ra đi không về nữa, y như anh trai của chị vậy. Thế là cảm xúc dâng lên mãnh liệt trào ra ngọn bút, thành bài thơ. Được sự trợ lực tài hoa của nhạc sĩ Lê Vinh, bài hát trở thành một nhạc phẩm được nhiều người yêu thích, nhất là vào cái tháng bảy tri âm thương binh liệt sĩ, người ta không thể không hát: "Có một mùa hoa cải Nở vàng bên bến sông Em đang thì con gái Đợi anh chưa lấy chồng Có một mùa hoa cải Nắng vàng trong mê mải Cầm tay em bối rối Anh nói lời yêu thương Anh nói rồi anh đi Chiến tranh không ước hẹn Sợ làm con bướm trắng Thẫn thờ chiều bên sông...". Thế rồi vào cái đêm mùng 6 tết năm Bính Tý (1996), trong giấc ngủ Hằng đang mơ thấy mình hát say mê những lời như thế thì thấy Nghiêm Xuân Phú hiện về trò chuyện với chị. Anh mặc quân phục rất mới. Anh nói chuyện với cô em gái mấy câu rồi quay đi. Những câu nói như một tín hiệu báo rằng, Hằng có thể tìm thấy nơi anh nằm, nếu chị muốn. Nhân ngày giỗ anh vào mùng 8 tết , Hằng đem chuyện này kể với gia đình. Căn cứ vào lời anh Phú nói với Hằng trong giấc mơ: "Em hãy tra sổ danh bạ khắc biết số điện thoại của anh", Hằng cho rằng anh có ý nói giấy tờ gốc của anh có tên đơn vị hoặc giấy báo tử có những con số cần suy ra được, như số hiệu quân nhân, đơn vị, khu vực hòm thư... Cuối cùng Hằng nói về ý định đi tìm mộ anh. Mọi người đồng tình, nhưng chỉ e khó khăn về kinh phí. Hằng nói dù chị không khá giả gì, nhưng chị sẽ tự lo được. Hôm sau Hằng cầm giấy báo tử Nghiêm Xuân Phú đến Bộ Quốc phòng nhờ bạn tra sổ giúp. Nhưng phải đợi đến tháng 5 năm 1996, gia đình mới nhận được thông tin: Nghiêm Xuân Phú hy sinh ở Gò Hà, huyện Hòa Vang, Quảng Nam - Đà Nẵng. Gần cuối tháng 9, bạn Hằng ở Bộ Quốc phòng cho chị biết có anh Viêm và anh Hoàng ở Quân khu V ra Hà Nội họp, sẽ gửi chị đi theo hai anh vào Đà Nẵng. Trước khi lên đường, Hằng còn viết bài thơ "Tìm viếng mộ anh" thay cho lời khấn: “Trong ngàn nấm mộ vô danh Em đi tìm viếng mộ anh, em tìm Khấn trời lạy đất linh thiêng Chỉ cho em một chốn riêng anh nằm Đừng như cá lặn biệt tăm Như chim lẻ bóng xa xăm cuối trời Mẹ cha mất đã lâu rồi Trước khi nhắm mắt lòng người còn đau Dặn anh em phải tìm nhau Nắm xương ruột thịt ở đâu cũng tìm...” (về sau bài thơ này được một số nhạc sĩ phổ thành ca khúc). Ngày 26 tháng 9 năm1996, Hằng từ Hà Nội đi tàu vào Đà Nẵng. Những ngày này Đà Nẵng đang chịu ảnh hưởng của cơn bão số 6. Bước chân xuống tàu, vẫn quần áo dính nước ẩm ướt, Hằng đi về nhà khách quân khu V. Nghỉ ngơi chốc lát, Hằng lấy bộ váy đầm (thời ấy phụ nữ mặc váy dài liền mảnh) ra thay vì nghĩ rằng làm việc ở thành phố mặc như vậy cũng được. Đầu giờ chiều ngày 27/ 9, anh Viêm - cán bộ cơ yếu quân khu V (người đi cùng Hằng từ Hà Nội vào Đà Nẵng) quân phục chỉnh tề đưa xe máy đón Hằng đến Bộ Chỉ huy quân sự tỉnh đăng ký làm việc với phòng chính sách. Tại đây, hai anh trực ban đeo hàm thiếu tá tận tình giúp đỡ nhưng cuối cùng họ bảo không thấy tên anh Nghiêm Xuân Phú trong danh sách nghĩa trang liệt sĩ do Bộ chỉ huy quản lý. Họ là cán bộ trẻ nên cũng không biết Gò Hà, địa danh ghi trong giấy báo tử, ở đâu. Anh Viêm đưa Hằng sang quân khu V, xin đăng ký làm việc thì cảnh vệ không cho vào với lý do Hằng mặc váy. Nếu quay về nhà khách để thay quần áo thì sẽ hết giờ làm việc, Hằng nói với anh Viêm: - Anh đưa em xuống Phòng Thương binh xã hội huyện Hòa Vang hỏi những người tầm tuổi với anh trai em, cùng chiến đấu thời gian đó với anh em, may ra... Tới huyện Hòa Vang, hỏi thăm vòng vèo mãi cuối cùng cũng tìm được Phòng Thương binh xã hội. Đã gần cuối giờ chiều, nhưng may mắn gặp được anh Búc phó phòng. Anh Búc nói ngay rằng trận đánh nổi tiếng ở Đà Nẵng là trận Gò Cà, nhưng khi đánh xong quân ta rút về Gò Hà thuộc xã Hòa Khương để lo mai táng liệt sĩ, cứu chữa thương binh và củng cố lực lượng. Thế là nhờ có anh Búc, Hằng đã xác định được Gò Hà thuộc xã Hòa Khương, cái nút đầu tiên của cuộc tìm kiếm nơi yên nghỉ của anh trai. Anh Búc còn bảo Hằng: - Anh của em thật thiêng, nếu em không đến phòng vào chiều nay thì mai tôi đi họp ba ngày, không có ai đưa sổ liệt sĩ để mà tra tìm. Cũng giống lúc tra tìm ở tỉnh đội, mở qua trang 1, trang 2, rồi trang 3 cuốn sổ mộ chí liệt sĩ xã Hòa Khương, Hằng cũng chỉ thấy một liệt sĩ cũng tên là Phú quê xã Đông Ngạc, gần với xã Cổ Nhuế, quê nội Hằng. Hằng lấy giấy bút ghi trường hợp này để về báo cho gia đình anh. Trong khi Hằng đang ghi tên người liệt sĩ quê ở Đông Ngạc thì anh Viêm reo lên: - Anh của em đây rồi. Hằng buông bút, nhoài người sang phía anh Viêm, hai tay ôm vội lấy cuốn sổ. Đúng rồi, anh Nghiêm Xuân Phú của Hằng đây rồi. Hằng òa lên khóc nức nở. Suốt đêm ấy Hằng không sao ngủ được, cứ phấp phỏng mong sao trời chóng sáng. Sáng hôm sau trời đã ngớt mưa, anh Viêm và anh Hoàng đến đón Hằng xuống xã Hòa Khương. Hằng ghé qua chợ mua mấy thứ cần thiết, từ túi ni lông đựng hài cốt đến vải trắng, vải đỏ, dầu gió, dầu thơm, xôi gà, hoa quả, đổi tiền chẵn ra tiền lẻ để thả dọc đường khi qua cầu phà… Sau khi kiểm tra danh sách mộ liệt sĩ tại UBND xã, cán bộ cho biết ở nghĩa trang Hòa Khương hiện có 800 mộ liệt sĩ. Vào qua cổng nghĩa trang, các anh cán bộ xã đi sau, Hằng đi trước. Đang đi tự dưng Hằng ngã khuỵu xuống. Như một linh báo, Hằng ngẩng lên thì nhìn thấy tấm bia đúc bằng xi măng trên một ngôi mộ có khắc tên anh trai mình, kèm theo là dòng trích ngang quê quán, ngày nhập ngũ, ngày hy sinh. Lặng đi một lát, Hằng đứng dậy bật lửa thắp hương lên mộ anh trai và các ngôi mộ xung quanh. Lúc bấy giờ trời lặng gió, không khí vẫn còn ẩm ướt vì mưa lớn, vậy mà cả bó hương trên mộ anh trai Hằng bùng bùng bốc cháy. Làm các thủ tục xong, buổi chiều bắt đầu bốc mộ. Sau khi đào sâu khoảng hơn một mét, dưới tầng cát trắng thấy có đám đất mùn nâu, người đào mộ cho rằng có thể anh trai Hằng chết trẻ nên xương cốt đã mủn hết rồi. Hằng khóc và nói với vong linh anh: - Là nhà báo, từng viết nhiều bài về tìm hài cốt liệt sĩ, em biết răng không tan, xương sọ, xương ống không tan, vậy chẳng lẽ anh báo mộng em tìm được mộ anh mà lại không có cốt? Hằng đề nghị người bốc mộ đào sâu mấy lớp xẻng nữa thì thấy toàn bộ hài cốt của anh trai xuất hiện. Hóa ra khi quy tập mộ hồi đó không có tiểu, chỉ lấy vải mộc bọc xương. Cũng may ở vùng này cát trắng nên xương khô và rất sạch. Công việc bốc mộ vừa xong thì cơm mưa lại kéo đến. Mưa sụt sùi như khóc. Mọi người lên lễ đài nghĩa trang làm lễ. Hài cốt liệt sĩ Nghiêm Xuân Phú được bọc ni lông, xếp gọn trong một túi du lịch. Mưa tạnh. Hằng đeo túi hài cốt của anh, cảm ơn cán bộ, nhân dân xã Hòa Khương, cúi đầu chắp tay tạ mảnh đất đã cưu mang anh trai mình... Sáng 30/9, tàu về đến Hà Nội. Hằng thuê một chuyến xe đưa hài cốt anh về quê. Nghiêm Xuân Phú là liệt sĩ đầu tiên của xã Cổ Nhuế cũng như huyện Từ Liêm được trở về quê hương sau gần 30 năm yên nghỉ nơi nghĩa trang chiến trường. Anh đã trở về sau giấc mơ thần bí, trong đó có lời bài hát "Mùa hoa cải" của cô em gái - nhà thơ Nghiêm Thị Hằng. Mộ anh được đặt trong nghĩa trang, gần mộ người cha. Được ở bên con trai, hẳn vong hồn cụ ông đã thanh thản nơi chín suối Theo Lê Hoài Nam (VNCA)1 like
-
Theo Phật Giáo, thế giới và tất cả chúng sinh là có liên hệ với nhau và chịu sự ước chế của Pháp vũ trụ về nghiệp báo. Dù cho một cá nhân sống thế nào với cuộc sống của họ ở hiện tại, bất kỳ những việc bất hảo hoặc đức từ quá khứ của một người sẽ tới với họ ở hiện tại. Lịch sử đã lưu lại nhiều truyền thuyết như thế ... đây là một trong số những câu chuyện ... Xưa kia ở vùng Ấn Độ cổ, có một chàng trai trẻ là con duy nhất trong một gia đình. Cậu là một người con hiếu thảo làm việc chăm chỉ và quan tâm tới mọi công việc trong gia đình. Do bố mẹ đã già, công việc của cậu ngày càng nặng. Gia đình cậu thúc giục cậu phải tìm một người vợ để giúp đỡ cậu trong công việc, nhưng cậu đã từ chối và kiên quyết làm việc một mình. Sau nhiều nỗ lực bền bỉ của bà mẹ, cậu cuối cùng đã lập gia đình. Thoạt đầu người vợ giúp trông nom bố mẹ già, nhưng không lâu sau cô ngày càng trở nên hằn thù với họ. Cô than phiền với chồng, nhưng người chồng không để tâm tới chuyện này. Một ngày, khi người chồng ra khỏi nhà, cô vợ tung rác khắp nhà và đổ lỗi cho bố mẹ chồng, những người lúc đó đã mù loà. Sau những than phiền và áp lực dai dẳng, người chồng đã động lòng và đồng ý giải quyết với bố mẹ mình. Anh bảo với bố mẹ rằng những người họ hàng của họ ở một vùng khác muốn họ tới thăm, rồi giúp họ lên một chiếc xe đẩy và bắt đầu đẩy thẳng vào trong rừng. Tại rừng sâu, anh thả bố mẹ xuống và bỏ đi khi nói với bố mẹ rằng anh đang trông chừng bọn cướp thường lai vãng ở khu vực đó. Chàng trai trẻ sau đó giả tiếng động và tiếng gào thét của bọn trộm cướp, làm như đang tấn công xe. Bố mẹ của anh, với tất cả tình yêu dành cho con trai mình, bảo với anh hãy tự cứu chính mình, vì họ đã già và mù loà. Họ cầu khẩn ‘bọn cướp’ hãy để con bà yên. Trong lúc họ khóc, chàng trai trẻ đã đánh và giết cha mẹ mình. Chàng trai sau đó đã bỏ lại thi thể của họ trong rừng sâu trước khi quay trở về nhà. Hàng ngàn năm sau đó, khoảng 500 năm trước Công Nguyên, Phật Thích Ca đã giảng và truyền Pháp của Ngài khắp Ấn Độ suốt nhiều năm. Phật Thích Ca có nhiều đệ tử. Trong số 10 đại đệ tử nam có một người là Mục Kiền Liên. Mục Kiền Liên đã đắc quả vị Alahán qua tu luyện và là tôn giả đệ nhất thần thông. Cho dù các đệ tử khác có thể có một hoặc hai khả năng, Mục Kiền Liên đã đạt được cả sáu thần thông. Thần thông mạnh nhất là khả năng có thể biến đổi chính bản thể thành bất kỳ cái gì ngài muốn. Một ngày Phật Thích Ca dẫn 500 đệ tử tới thăm Thế giới Tavatimsa. Trên đường tới đó, họ đã quấy rầy Naga vĩ đại, Nandopananda là một con rắn hổ mang chúa khổng lồ. Nandopananda đã thề phá hoại sự trở lại của Phật Thích Ca, và tự quấn mình xung quanh núi Tu Di. Trên đường họ trở về, một trong các đệ tử, người đã thường xuyên đi lại vùng này, thắc mắc thật là kỳ lạ vì anh ta không thể nhìn thấy núi Tu Di. Phật Thích Ca bảo anh rằng Naga đã cuộn xung quanh núi. Khi nghe thấy vậy nhiều đệ tử đã sẵn sàng thu phục ác thú khổng lồ. Nhưng Phật Thích Ca, nhận ra năng lực của con rắn, đã từ chối yêu cầu của họ và thay vào đó cho phép Mục Kiền Liên đối đầu với con ác thú. Mục Kiền Liên biến thân thành một con rắn khổng lồ để đánh nhau với con quái vật. Nando-pananda phóng ra một luồng hơi độc để đuổi ông đi, Mục Kiền Liên đáp trả với một luồng hơi của chính mình. Hai con rắn trao đổi những luồng hơi. Naga sau đó thở ra lửa vào Mục Kiền Liên, Mục Kiền Liên đã đáp trả bằng một hơi lửa lớn hơn làm bị thương con rắn hổ mang. Chính Mục Kiền Liên lại không bị tổn hại gì. Vị Alahán sau đó biến mình thành nhỏ bé và bay từ tai này của Naga sang tai kia, rồi sau đó từ lỗ mũi này sang lỗ mũi kia. Ông sau đó đã bò xuống cổ họng của Nando-pananda và đi lên xuống bên trong con rắn khổng lồ. Từ đầu tới đuôi, từ đuôi tới đầu. Con rắn đã nổi khùng lên vì bị quấy phá trong ruột và đã chuẩn bị ép Mục Kiền Liên đến chết một khi ông xuất hiện. Nhưng Mục Kiền Liên đã thoát ra mà nó không biết. Con rắn sau đó phun một luồng hơi độc vào vị Alahán, nhưng ngài chẳng hề nao núng. Phật Thích Ca sau đó đã ban cho Mục Kiền Liên thêm năng lực để đánh bại con quái vật. Ông đã biến hoá thành Garuda, một con đại bàng thần khổng lồ, là đối thủ đáng gờm của Naga. Naga đã cố chuồn đi nhưng đại bàng khổng lồ đã tóm hắn và mang hắn lại chỗ Phật Thích Ca. Nando-pananda đã cầu xin sự nhân từ và thỉnh cầu trở thành một đệ tử. Phật Thích Ca bảo hắn rằng những môn đồ của Phật là thiện, và đã chấp nhận lời thỉnh cầu của hắn. Trải qua nhiều năm, bởi vì những gì Phật Thích Ca truyền là chính pháp, nó nhanh chóng phổ biến rộng rãi. Nhiều giáo phái và tôn giáo đã trở nên đồi bại và suy đồi đã để mất những tín đồ sang đạo của Phật Thích Ca. “Mệnh lệnh của Jains” (Ni Kiền Giáo) là một nhóm người đã đi theo con đường cùng của người sáng lập. Mục Kiền Liên với thiên mục của mình đã thấy những môn đệ của Phật có một sự tái sinh một cách thần thánh, trong khi những môn đệ của những môn phái đã suy tàn thì rơi vào khốn khổ, những dạng tồn tại thấp hơn loài người. Khả năng của ông là nhìn thấy ảnh hưởng của nghiệp lực và các cảnh giới khác, cùng với khả năng thuyết giáo tuyệt vời đã giúp nhiều đệ tử đi theo con đường của Phật. Tại Ma Kiệt Đà, một nhóm những người theo Ni Kiền Giáo đã rất tức giận với sự thiếu tôn trọng, họ dự định tống khứ Mục Kiền Liên. Trong khi thất bại với việc minh chứng cho những thiếu sót của họ, họ tập trung tất cả lời trách mắng, sự đố kỵ và nỗi tức giận lên Mục Kiền Liên. Phân vân với việc thực hiện mục đích của chính họ, nỗi sợ hãi bị phơi bày, họ đã thuê những sát thủ để giết vị La Hán. Lúc đó Mục Kiền Liên sống cô độc và hành thiền tại một túp lều ở Kalasila gần thành Vương Xá cổ xưa. Mục Kiền Liên lúc đó đã cảm nhận rằng ông đang rất gần với điểm kết thúc sự tu luyện của mình, và cảm thấy cơ thể của ông chỉ còn một cái gì đó cuối cùng dính mắc ông với thế giới này. Ngay khi những sát thủ đến lều của ông để tìm ông; Mục Kiền Liên vận đến những thần thông vĩ đại của mình làm chính bản thân ông biến mất. Những tên cướp đã tìm khắp mọi nơi và thậm chí bỏ đi. Mục Kiền Liên không hề lo lắng cho bản thân, nhưng ông hiểu rằng nếu những tên cướp mà giết ông, một vị La Hán, thì chúng sẽ phải chịu một sự thống khổ khủng khiếp dưới Địa Ngục. Ông đã cầu mong cứu rỗi chúng khỏi một số phận đáng sợ như vậy. Tuy nhiên nhưng tên cướp bị thúc đẩy bởi sự tham lam về tiền tiếp tục quay lại túp lều, tìm kiếm Mục Kiền Liên. Trong sáu ngày liên tiếp chúng tìm kiếm và mỗi lần Mục Kiền Liên đều biến mất. Vào ngày thứ bảy, những tên sát thủ lại trở lại tìm kiếm, Mục Kiền Liên lại chuẩn bị biến mất, nhưng chợt phát hiện ra ông đã mất các thần thông của mình… Những tên sát thủ đã tìm thấy ông, quẳng ông xuống đất, và sau đó đánh đập Mục Kiền Liên. Chúng bẻ gãy tay và chân rồi bỏ ông nằm lại trong vũng máu. Những tên cướp bị sốc bởi chính điều chúng đã làm, nhưng mê muội với phần thưởng, đã bỏ đi ngay lập tức. Sức mạnh về thể chất và tinh thần của Mục Kiền Liên là rất mạnh mẽ, nên ông không hề chết. Ông vận dụng năng lượng cuối cùng và mang chính bản thân mình tới chỗ của Phật Thích Ca. Ông đảnh lễ Phật lần cuối và xin phép được chết. Ngay khi được chấp nhận, Mục Kiền Liên trút hơi thở cuối cùng và nhập Niết Bàn. Các môn đồ và các đệ tự bị sốc và tức giận với cái chết của người thầy thân yêu. Nhà vua đã ra lệnh một cuộc điều tra vị giết hại và đã bắt được bọn sát thủ. Chúng đã khai rằng chúng đã được thuê bởi nhóm người theo Ni Kiền Giáo tại Ma Kiệt Đà. Nhà vua đã tra tấn những tín đồ Ni Kiền Giáo và giết họ theo những đạo luật vào thời điểm đó cho tội sát nhân. Các đệ tử đã hỏi Phật Thích Ca tại sao Mục Kiền Liên lại có một kết cụ thảm khốc như thế. Phật Thích Ca đã giải thích … trong quá khứ, Mục Kiền Liên đã mắc một tội ác nghiêm trọng. Ông đã giết chính cha mẹ của mình. Mục Kiền Liên là thanh niên trẻ tuổi ở đoạn đầu của câu chuyện này người đã hết sức nhẫn tâm đánh đập và giết chết cha mẹ không có khả năng tự vệ và mù loà. Việc giết hại cha mẹ của một người được coi là một trong năm trọng tội trong Phật giáo. Phật Thích Ca đã giải thích rằng Mục Kiền Liên đã chịu đựng ở Địa Ngục trong nhiều ngàn năm và thậm chí là thân La Hán, ông vẫn không có sự lựa chọn nào ngoài việc phải chết với cái chết khắc nghiệt mà cha mẹ ông đã phải chịu đựng nhiều năm trước đó. Bất kể rất nhiều việc tốt ông đã thực hiện, rất nhiều người ông đã cứu độ, và sự vĩ đại của những thần thông của ông, Mục Kiền Liên không thể thoát khỏi món nợ nghiệp báo. Phật Thích Ca bảo các đệ tử của mình là không nên thất vọng hay buồn bã bởi kết cục của ông, vì ông đã được giải phóng khỏi thân thể của mình và gánh nặng cuối cùng, và cuối cùng đã đắc Niết Bàn.1 like
-
b. THỜI PHỤC HƯNG 1 . Triều :Đinh Hoàn hay Đinh Hoàng Hoa sử gọi là : BắcChu vua Vũ văn Giác Niên đại : 557 – 581 Vũ Văn Thái nắm toàn quyền đất Tây Ngụy là sự khởi đầu để con là Vũ Văn Giác tuyên bố sự phục hưng của dân Trung Hoa, với quốc hiệu Chu. Sử Trung Hoa gọi là Bắc Chu, Chu biến âm từ từ Chiêu như trước đã nói. Phân tích ý nghĩa danh hiệu 2 ông có thể khẳng định: Vũ Văn Thái là vua tổ, Thái là tổ. Vũ Văn Giác chỉ vua khai quốc ; vua Văn thứ nhất, Giác là biến âm của Giáp, Can thứ nhất trong Thập Can . Sử Việt Nam đặt tên triều phục hưng này là Đinh Hoàng chính xác là Đinh Hoàn nghĩa là vua họ Đinh, quốc danh thời phục hưng huy hoàng này được Đinh Hoàng đặt tên là Đại Cồ Việt, ‘Cồ’ là âm Nôm cũng có nghĩa là to lớn . Chỉ nghe tên Vũ văn Thái- Vũ văn Giác ta đã cảm thấy ngay thanh điệu Việt chẳng cần phải phân tích từ ngữ chi cả. Theo Việt nam sử lược của Trần trọng Kim thì thời vua Đinh nước ta có 10 đạo quân , nếu căn cứ vào ‘phép’ tổ chức quân đội nhà Đinh thì 1 đạo có 10 quân , 1 quân có 10 lữ , 1 lữ có 10 tốt , 1 tốt có 10 ngũ và 1 ngũ có 10 người ...cứ vậy nhân lên thì nhà Đinh có đạo quân khổng lồ là 1 triệu người ,thử hỏi nếu nhà Đinh là nước mà lãnh thổ chỉ là đồng bằng Thanh Nghệ Tĩnh và bắc bộ thì lấy đâu ra người mà xung quân lắm thế ? lấy lương thực đâu mà nuôi ? Theo sử Trung Hoa thì nước Bắc Chu truyền được 5 đời vua, đánh diệt Bắc Tề hậu thân của Đông Ngụy, thống nhất miền Hoa Bắc. Năm đời đế của Đại Cồ Việt hay 5 Đinh Hoàng: Hiếu Mẫn Đế: Vũ Văn Giác – Vua Văn Giác Minh Đế: Vũ Dụ – Vua Dụ Vũ Đế: Vũ Dung – Vua Dung Tuyên Đế: Vũ Huân – Vua Huân Tĩnh Đế: Vũ Xiễn – Vua Xiễn Vua cuối cùng là Chu Tĩnh Đế, đối chiếu với sử Việt là Vệ Vương lên ngôi lúc 6 tuổi, quyền hành nằm trong tay Dương Kiên, cha của Thái hậu Dương Vân Nga. Ở đoạn này các sử gia Việt Nam đã sai lầm lớn : lấy sự kiện vua khai quốc nhà Tống là Triệu Khuông Dẫn thay thế nhà Hậu Chu chép thành chuyện Lê Hoàn thay ngôi Đinh Hoàn (sử Trung Hoa gọi là nhà Bắc Chu …) 2 sự kiện diễn ra y hệt nhau khiến ta khẳng định đã sự chép lẫn. Tên triều đại CHU và vua VĂN cho thấy rõ ràng có sự liên hệ với nhà CHU và Văn vương hay VĂN LANG . 2. Triều Lê Hoàng hay Lê đại Hành Hoa sử là : Nhà Tùy vua Dương Kiên Niên đại : 581 – 618 Dương Kiên phế ngôi của cháu ngoại và giáng xuống tước Vương, sử Việt Nam gọi Vệ Vương – Đinh Phế đế. Dương Kiên lên ngôi lập ra triều đại Tùy chữ Tùy này là đồng âm của chữ Sở , đất Hồ bắc xưa là nước Sở , người ở đấy gọi là TỦY-VIỆT hay VIỆT TỦY gọi là ‘nhà TÙY’ chỉ là sự bóp méo của sử Trung quốc ; chính xác phải gọi là triều VIỆT TỦY một triều đại của người họ HÙNG . Vì có sự đoạt ngôi không theo khuôn phép truyền thống nên niên hiệu nhà Tùy không hề có chữ ‘Vũ’ nghĩa là vua, nói khác đi là lịch sử không công nhận là 1 triều đại chính thống như các triều đại Trung Hoa khác. sử Việt Nam gọi triều đại này là triều Lê Hoàn tức Lê Hoàng nghĩa là vua họ Lê. Lãnh thổ của vua Lê (Lê Hoàng) lúc lên ngôi đã là cả miền Hoa Bắc, vì đấy là đất cũ của người Man họ Thác bạt nên Lê Hoàng-Dương Kiên rất khôn khéo trong chính sách đối nội, vẫn tôn trọng quý tộc Tiên Ty cho họ hưởng các đặc quyền đặc lợi của tầng lớp trên nên không có cớ để họ nổi loạn. Lê Hoàng hay Vua Lê còn có tên là Lê Đại Hành. Hoa sử gọi Dương Kiên - Tùy Văn Đế đã tiến quân diệt Trần quốc của Trần hậu chủ thống nhất toàn cõi Trung Hoa năm 589, sử Trung Hoa chép: vì dân miền Hoa Nam vẫn coi Dương Kiên là người Nam, ý nói là người Trung Hoa chính gốc nên mau chóng khuất phục mở ra cảnh nước non thống nhất thái bình và thịnh trị. Lê Hoàn – Dương Kiên có tác phong của 1 người lính, rất kiên quyết, cứng rắn, rất kham khổ trong cuộc sống. Ông nhanh chóng tiêu diệt tất cả các thế lực cát cứ manh mún, diệt trừ tham quan ô lại, chia lại ruộng đất cho nông dân, nói chung các mặt kinh tế, giao thông, văn hóa đều có bươc phát triển. Ông cũng rất cẩn trọng cho việc kế tục ngôi vua, giáo dục người kế vị hết sức nghiêm khắc, nhưng trời không chiều lòng người, Dương Kiên đã tin lầm kẻ gian manh và mắc lõi lớn khi truyền ngôi cho Dương Quảng, sử Việt Nam gọi là Lê Long Đĩnh. Lê Long Đĩnh lên ngôi vua, sử Trung Hoa gọi là Tùy Dạng Đế, một kẻ say mê với những gì to lớn, ông ta cho xây Đông Đô cực kỳ tráng lệ, huy động sức lực cả nước để thỏa sự đam mê của mình bất chấp sự tàn tạ của dân chúng, công bình mà xét thì một trong những công trình được làm dưới đời ông đến nay dân chúng vẫn còn được hưởng lợi, đó là các vận hà mà Tùy Dạng Đế cho đào để nối liền các con sông lớn như Hoàng Hà, Hoài Thủy, Trường Giang, V.v… sử VN chép thành : Lê Hoàn cho đào kênh 'sắt' và kênh 'xước' ở bắc trung việt. Sự chịu đựng của con người có giới hạn, đến một mức nào đó người dân không còn cách nào khác là vùng lên để tự cứu lấy mình. Dạng Đế chạy về thành Kiến Nghiệp, ở đó ông ta bị chính binh lính mình giết chết. Sử Việt Nam mô tả rất rõ sự tàn ác của Lê Ngọa Triều … như róc mía trên đầu nhà sư, đốt chết tù nhân, thả người trôi sông … nói tóm lại tàn ác không thua Kiệt, Trụ thời xưa. 3. Triều Lý 1 - Lý công Uẩn . Hoa sử gọi là : Nhà Đường vua Lý Uyên Niên đại : [618-684][705-907] Lý Uyên là quý tộc triều Tùy, tước Đường Quốc Công, năm 617 Tùy Dạng Đế phái ông trấn thủ Thái Nguyên chống chọi với rợ Đột Quyết, là rợ ở Tây Bắc ngày nay Trung Hoa. Lý Uyên có 4 con trai trong đó Lý Thế Dân là hùng lược hơn cả. Sử Việt Nam gọi Lý Uyên là Lý Công Uẩn; nhưng sử Việt Nam lại chép 2 đời Lý thành một, khiến người sau không nhận ra, ở đây ta tạm gọi là Lý Công Uẩn 1 tức nhà Đường của sử Trung Hoa. Lý Công Uẩn 2 là triều do anh em Lưu Cung, Lưu Ẩn lập ra ở Giao Châu xưa, xưng là Đại Việt. Tùy Dạng Đế khi đã đi đến mức cùng cực của xa hoa đồi bại thì Lý Thế Dân nhìn rõ cục diện với cha khởi binh xây dựng đế nghiệp. Đầu tiên Lý Uyên mang quà cáp biếu xén Khả Hãn Đột Quyết, yên được mặt Bắc (HN) cha con nhà Lý đem “Đường quân” tấn công Trường An, quân nhà Tùy là lũ quân tướng hũ bại làm sao có thể chống chọi được, Lý Uyên vào Trường An tuyên bố 12 Điều Ước Pháp khiến an lòng dân, ông khôn khéo chưa lên ngôi vội mà đưa cháu nội Tùy Dạng Đế – Lê Long Đĩnh tên là Dương Hựu lên làm vua bù nhìn. Năm 618 Tùy Dạng Đế bị giết ở Giang Đô, Lý Uyên mới chính thức phế Dương Hựu để lên ngôi hoàng đế lấy quốc hiệu là Đường, Lý Uyên trở thành Đường Cao Tổ. Đất Đường, sử Việt Nam gọi là Việt Thường nằm ven sông đằng hay Thương Giang thời cổ xưa, sông Đường hay Thương Giang, Thường Giang là Dương Tử Giang ngày nay. Sử Trung Hoa gọi triều đại theo tên đất gốc, nên có tên nhà Đường; sử Việt Nam gọi theo họ của vua nên triều đại này là triều Lý, đặc biệt trong thiên khảo luận này thì đây là triều Lý thứ 1 vì còn triều Lý 2 . Cuộc khởi nghĩa của cha con Lý Uyên được nhân dân ủng hộ mạnh mẽ nên nhà Tùy sớm tiêu vong. Năm 627 Lý Thế Dân kế nghiệp cha lấy đế hiệu là Đường Thái Tông. Sử Việt Nam gọi Lý Thế Dân là Thái tử Phật Mã, đế hiệu cũng là Lý Thái Tông. Cả 2 dòng sử đều ghi chép về biến cố khi Thái Tông lên ngôi, tuy có tình tiết hơi khác nhưng chắc chắn là 2 sử liệu của cùng 1 sự việc. Để được kế nghiệp ngôi báu thì Lý Thế Dân – Thái tử Phật Mã đều trải qua cuộc tàn sát anh em của mình, sử Trung Hoa chép vị trung thần giúp Thế Dân chiến thắng là Uất Trì Kính Đức; còn sử Việt Nam gọi là Lê Phụng Hiểu. Lê Phụng Hiểu sau được Thái Tông ban thưởng bằng cách trèo lên núi ném con dao, con dao đi đến đâu thì chỗ ấy là đất riêng ban cho ông, sự việc này được truyền thuyết Việt Nam gọi là “Thác Đao Điền”. 2 dòng sử Việt – Hoa còn chép trùng nhau về một số sự kiện nữa: Sử Trung Hoa có chuyện Đường tam Tạng tây du thỉnh kinh Phật , sau này hư cấu thành chuyện Tây Du Ký nổi danh. Còn sử Việt Nam chép: … vua sai Nguyễn Đạo Thành sang Trung Hoa (?) xin kinh Tam Tạng đưa về nước. Đặc biệt việc tôn sùng Nho học, việc học hành thi cử của triều Lý – Đường được 2 dòng sử viết giống hệt nhau. Về võ công thì Đường Thái Tông sai Lý Tịnh một danh tướng toàn đức toàn tài tấn công lên hướng Bắc đánh tan quân Khiết Đan chiếm cả vùng Trung Á rộng lớn ở Tây Bắc Trung Hoa, uy danh Trung Hoa là việc ngoại giao với Trung Á thuận lợi từ đấy. Còn sử Việt Nam cũng ghi: … danh tướng Lý Thường Kiệt xuất quân Bắc phạt chỉ chiếm Châu Ung, Châu Khâm, và Châu Liêm của Tống quốc rồi rút về. Thực ra cuộc tiến công của Lý Thường Kiệt là xãy ra ở triều Lý 2. Còn nhiều sự kiện khácdo sử Việt Nam lồng 2 triều Lý làm một nên lẫn lộn rất nhiều. Triều Đường có Võ Hậu nắm triều chính xưng là Tắc Thiên Hoàng Đế, cải quốc hiệu là Chu làm gián đoạn Đường triều từ năm 685 tới 704. Còn sử Việt Nam chỉ chép có một thái phi tài đức vẹn toàn nhưng chỉ nhiếp chính sau bức rèm đó là Ỷ Lan Thái Phi. Năm 705 đại tướng Trương Giản Chi ép Võ Tắc Thiên thoái vị, tái lập lại Đường quốc. Triều Đường hay triều Lý 1 là một trong những triều đại dài nhất, nổi tiếng nhất đã tạo nên khuôn đúc Trung Hoa, đến tận thời cận kim người Hoa đã di cư ra nước ngoài sinh sống vẫn nhận mình là “Thoòng dành” tức Đường nhân đủ biết dấu ấn của triều Đường sâu tới đâu trong lịch sử Trung Hoa. Trên đất ngày nay là Việt nam nhà Đường cho lập đến 2 đô hộ phủ : An nam đô hộ phủ để trông coi các châu KIMI ở miền lĩnh nam xưa. Phong châu đô hộ phủ có sách chép là đô đốc phủ trông coi các châu KIMI thuộc miền tây bắc Việt nam tức đất Phong hay Phong châu xưa . Châu KIMI là gì ?. đó là vùng đất của các sắc dân thiểu số : KI là chép sai chữ CƠ , Việt ngữ là CẢ là dòng họ của Hùng Vũ thời lập quốc, sử Trung hoa chép Hiên viên là tổ họ CƠ ; ngày nay gọi chung là người Kađai. MI là họ của người thuộc Long tộc xưa , tức hậu duệ của Động đình quân , con cháu Long nữ, Đồ Sơn thị ngày nay gọi là người Tai. Các châu KIMI được hưởng quyền tự trị rộng rãi . Nhà Đường ý thức rất rõ về dòng giống đã tôn Lão tử-Lý Nhĩ là tổ của dòng tộc , vì Cơ và Mi là 2 dòng chính truyền của gốc tổ Trung hoa nên nhà Đường đã đặt 2 đô hộ phủ ở đất Việt làm công việc bảo hộ cho 2 sắc dân Kađai và Tai này. Đô hộ phủ chỉ nghĩa là cơ quan lo việc bảo trợ cho... không phải nghĩa chữ đô hộ là đè đầu cưỡi cổ như chúng ta quen dùng ngày nay. Nếu nhà Đường là 1 triều đại của đế quốc Hãn cai trị An nam thì ông Khương công phụ cao lắm là... được làm nông dân cày ruộng mà ăn ; làm gì có chuyện làm tới tể tướng và được vua Tàu rất qúi trọng ...như sử sách đã ghi . Xin hỏi các sử gia : ở Thiểm tây-Sơn tây có châu KIMI không ? Nếu không thì xin trả lại sự trung thực cho lịch sử Vì thiên khảo luận này không phải là sử ký , chỉ nghiên cứu lịch sử để tìm cái mới ,điều đúng , ở đây chỉ nhấn mạnh những sự kiện đặc biệt nhằm chứng minh cho sử thuyết nguồn gốc và những nét cơ bản của qúa trình dựng nước và giữ nước . Văn nhân, thi sĩ, võ tướng đời Đường nhiều vô kể, thực là một triều đại huy hoàng của dân họ Hùng, Người Việt ngày nay là truyền nhân chính thống và duy nhất của nền văn hóa – văn minh đời Đường vì toàn cõi Trung Hoa trừ Việt Nam đều chìm sâu dưới móng ngựa quân xâm lược phương Bắc từ cuối đời Tống đến tận đầu thế kỷ 20, dù muốn hay không chắc chắn đã diễn ra qúa trình lai tạp . Hiện các nhà ngôn ngữ học Việt Nam đã bắt đầu xác định : âm Hán Việt chính là âm ngữ đời Đường , khi nghe tên nhà Đường hay nước Đường người Việt thấy rất xa lạ nhưng biết đâu rằng đó chỉ là ký âm bằng Hán văn của từ VIỆT-THƯỜNG , tên gọi một thời của nước họ HÙNG .1 like
-
Các bạn nên vào trang web hỗ trợ Upload ảnh, tạo tài khoản miễn phí và bắt đầu thao tác. Ở đây tôi lấy trang Photobucket.com làm thí dụ vì tôi hay dùng trang này. Các bước như sau: 1. Thiết lập tài khoản. Giống các trang web khác về khai báo ... 2. chuẩn bị Upload: Kích vào nút Choose File trên màn hình, tìm đường dẫn tới nơi chứa hình ( Lưu ý là nên up hình có dung lượng nhỏ 1 chút đỡ mất thời gian vô ích cỡ khoảng 800 * 600 là vừa dùng rồi) 3. Kích vào Save and continue để tiếp tục... 4. Tìm đến dòng có chứ mở đầu là ....xxxx... để copy( web này nó tự copy hộ mình nên cứ Click vào là nhận lệnh mặc định luôn) http://i182.photobucket.com/albums/x53/xeda111/Buoc2.jpg 5. Trong Box soạn thảo văn bản trên web: Lyhocdongphuong.org.vn. Nhấn nút Paste để dán dòng lệnh đó vào. 6. Án nút gửi bình thường là bạn đã hoàn thành nhiẹm vụ[/b]1 like
-
18 HÙNG triều –Lịch sử. *lịch sử* 9. Hùng triều thứ 9 - Hùng Hoa Vua khai sáng : – Hải Lang Danh hiệu khác trong Việt sử : Linh Lang Dang hiệu khác trong Hoa sử : Khải , Hạ vương Quốc hiệu : Hồng bang 2, nước Thao hay Đào. Niên đại : cách nay 4.000 năm Khi Kinh Dương Vương – Hạ Vũ mất thì con ông là Khải dựa vào những người ủng hộ mình làm cuộc lật đổ để lên ngôi chúa, ông Bá Ích phải bỏ nước đi ẩn ở Kỳ Sơn. Thực ra ông Khải mới chính là người lập ra triều Hạ và ông tôn vua cha coi như người khai sáng triều đại mới, chữ ‘Khải’ là biến âm của từ ‘khởi’ trong tiếng Việt. Khi lịch sử đặt tên cho ông ta là ‘Khởi’ là ý nói ông là người khởi đầu lập ra nhà Hạ; lịch sử không nói nhưng chắc chắn đã có một cuộc tranh giành ngôi vương giữa 3 cộng đồng trong Họ Hùng. Ông Khải là con của Hạ Vũ và Đồ Sơn Thị, (nghĩa là người đàn bà ở Đồ sơn), nay thuộc Hải Phòng sát với Quảng Ninh, nhờ liên kết được 2 cộng đồng bên bố và bên mẹ nên ông Khải đã thắng và Ông Ích phải đi ẩn nhưng thực ra là lưu vong ở Kỳ Sơn. Truyền thuyết Việt nói: “Kinh Dương Vương (Tuấn lang ) kết duyên cùng Long Nữ con gái Động Đình Quân, vua vùng Động Đình Hồ … như ở phần trước ta đã khẳng định, Đồ Sơn Thị và Long Nữ là tên của 1 người viết theo 2 dòng sử khác nhau, ông Khải chính là Lạc Long Quân của truyền thuyết Việt; Lạc là dòng Bố, Long là dòng mẹ, quân là thủ lãnh. Nhiều thần tích, thần phả còn ghi lại: Linh Lang hóa (chết) ở Hồ Tây, Hà Nội thì hồn theo dòng nước ngầm xuôi về Động Đình Hồ … điều này giúp ta thêm khẳng định, Động Đình Hồ trong truyền thuyết lịch sử Việt Nam là biển Đông chứ không phải Động Đình Hồ của Trung Quốc hiện nay, Linh là biến âm của Lung (Hoa) hay Long (Hán Việt ) nghĩa là con rồng chỉ phương đông trong dịch học, quẻ Chấn, số 3, con rồng ,màu xanh là những dịch tượng chỉ phương đ̣ông . Truyền tích đạo giáo cho biết quê mẹ của Linh Lang là xứ Bồng Lai , cụm từ “Bồng Lai Tiên cảnh” gợi cho ta thắng cảnh Hạ Long ở Vịnh Bắc bộ càng giúp khẳng định đấy chính là Động đình hồ, nền văn hóa Hạ long mà khảo cổ học đã xác định được càng giúp ta cả quyết hơn . Linh lang là vì vua được thờ kính nhiều nhất tại Việt nam khắp nơi đều có đền thờ nhưng tới nay vẫn chưa xác định được ngài là ai trong lịch sử ?.Từ Hạ người Hoa phát âm là Xạ hay Xịa đồng âm với xà là con rắn bản gốc cuả thần thú Rồng, tam xà cũng là chỉ nhà Hạ ở phương đông. Con rồng là thần thú người ta đã tạo ra để làm biểu tượng cho mối lương duyên Lạc và Long tức sự phối hợp của 2 cộng đồng người sống ở lãnh thổ phía nam (xưa) và phía đông, phương Nam loài thú tượng trưng là con sấu , phương đông là con rắn hay xà...’vẽ rắn thêm chân’ ra con rồng , cụ thể rồng là thần thú có đầu,chân và đuôi của cá sấu nhưng mình lại là mình rắn..., chính xác tên là con ‘rung’ tức động sau biến âm ra rồng Hoa ngữ ký âm thành ‘Lung’ Hán Việt đọc là ‘long’ sau này long đã đoạt ngôi của Xà trong cương vị là biểu tượng cho phương đông trong văn hóa Việt –Hoa. Bản thân rồng không thể hiện hữu bên ngoài môi trường vùng vẫy của rồng , nói khác đi là không thể có rồng nếu không có biển Đông hay Chấn trạch, Lôi trạch ; dù có đào được cả trăm chứ đừng nói 1 cái bình có hình rồng ở chốn sa mạc nóng bỏng hay vùng băng gía tuyết dầy thì đấy cũng chỉ là cục đất xét vì rồng là Thần- thìn , mỗi lần Rồng hiện là 1 lần kinh thiên động địa , gío bão sấm sét làm rung động trời đất thì mới xứng với Thìn- thần ; hỏi Thiểm Tây- sơn tây và cả những vùng cận kề có mưa bão sấm sét hay không ? Cổ sử Trung Hoa viết: sau khi lên ngôi ông Khải đã tiến đánh Hữu Hộ Thị vì bất phục lấy đấ́t An ấp của họ làm kinh đô đày dân Hữu hộ thị đi khắp nơi gọi là tứ Di ;nguyên nhân sự bất phục ở trên ta đã biết, Hữu là họ Hộ thực ra là Hổ biến âm của từ Hỏa nghĩa là lửa, vậy Hữu Hộ Thị chỉ nghĩa là tộc họ Hỏa, hay Lửa chính là người La còn gọi là Di-lão . Đế Minh đã chia nước làm 2 miền: Bắc – Nam hay Lửa – Nước, và truyền ngôi cho Đế Nghi là con trưởng, phong Lộc Tục làm vương phương Nam hay phương Nước. Họ Lửa chính là dân của Đế Nghi ở đất Giao-bắc, là Vùng Thanh – Nghệ – Tĩnh hiện nay, Cao Giao nghĩa là thủ lãnh dân Giao (bắc), ông Cao Giao mất người kế nghiệp ông là Bá Ích, Ích là biến âm của ất hay úp là Can số 2 trong Thập Can, chỉ phương bức (nóng), cùng vị trí với Quẻ Lửa trong Hậu Thiên Bát Quái, và Hành Hỏa trong Ngũ Hành ; La-Lê- Liêu và Lão đều nằm trong cụm từ có gốc là âm Lửa. Cổ sử Trung Hoa chép kinh đô thứ 2 của nhà Hạ là An ấp, an là biến âm của ôn nghĩa là ấm cho biết đó là vùng nhiệt đới, rất có thể kinh đô An ấp triều Hạ là động Hoa lư ở Ninh bình Việt nam , Hoa là tên triều đại Hùng Hoa, lư là biến âm của Ly-Lửa chỉ mặt trời cũng còn dùng chỉ ông vua trong văn hoá Việt-Hoa. Vì đô ấp ở đất Đào nên tên nước trở lại là Hồng bang, để dễ phân biệt ta gọi là Hồng bang 2.,cổ sử Trung Hoa gọi là nước Thao biến âm của Thiêu nghĩa là đốt –cháy. Ông Ích lưu vong đến Kỳ Sơn. Cổ sử Trung Hoa cũng chép: Ông Cổ Công Đản Phụ dẫn dân “ấp” mình sau 5 lần tạm dừng bước, mới định cư hẳn ở Kỳ Sơn, ông Cổ Công Đản Phụ là tổ nhà Chu; liên kết 2 biến cố ta có thể kết luận: ông Cổ Công Đản Phụ chính là Bá Ích, vì 1 vùng Kỳ Sơn không thể có 2 chúa trong lịch sử, thêm bằng chứng nữa là qúy tộc ở vùng Kỳ Sơn mang họ Cơ như Cơ Xương, Cơ Phát, mà họ Cơ phát xuất từ sông Cơ, sông Cả đất Giao-bắc của người Lửa nơi khởi nguồn của dân tộc Hùng , một học giả Trung hoa đã viết rõ hơn trong phần thuyết minh Chu dịch : dân ‘Mân ấp’ đã lũ lượt kéo nhau theo chúa của mình đến Kỳ sơn...sự ràng buộc (giữa chúa và dân) chắc như cột bằng da bò vàng...., Mân ấp khiến ta liên tưởng tới đế Minh tên gọi khác của vua Hùng....cùng với dòng đế Khai Minh của nước Thục sau này ; Mân ấ́p là cách viết gỉan lược cuả ‘đô ấp Mân’ đồng nghĩa với kinh đô Mân hay Mân đô –Minh đô , Kinh Thư nói đến 4 địa danh đánh đấu lãnh thổ quốc gia thời vua Đại vũ là : Dương cốc, Muội cốc , Minh đô và U đô...; có sự tương thông ngữ nghĩa giữa Mân ấp và Minh đô hay không ?; thực ra cả 4 địa danh này đều có gốc là Việt ngữ được chuyển sang Hoa văn hết sức kỳ lạ độc đáo..., 1 phần ký âm còn phần kia dịch nghĩa : -Cốc là biến âm từ Gốc –góc của Việt ngữ tương tự : Kà→gà Cái→gái. Dương cốc hay dương góc nghĩa là ‘góc mặt trời mọc’ Muội cốc là ‘góc mặt trời khuất’ tức lặn . Từ góc này đồng cách với ‘góc trời’ cuả Việt ngữ ngày nay mà chúng ta thường dùng. - Đô là biến âm của ‘đầu’. Minh đô là đầu sáng, u đô là đầu tối. Đầu sáng chỉ hướng xích đạo , đầu tối chỉ hướng địa cực. Rất có thể Dương cốc chính là Dương thành tên xưa của Qủang châu, Muội cốc là Kiểu kinh hay Cửu kinh thời Tây Chu , Minh đô là cố đô Hoa lư ở Ninh bình Việt namvà U đô là kinh đô nước Thục ở Quý châu , chữ U này chính là chữ Âu trong Âu cơ chỉ có nghĩa là phương nam đồng nghĩa với huyền phương mà thôi ; xét như vậy ta thấy Kinh thư không thể có trước đời nhà Chu. Triều Hùng Hoa Vương – Hải Lang, sử Trung Hoa gọi là nhà Hạ hay triều đại Hạ, ta thấy trong vương hiệu: Hùng Hoa – Hải lang đã thấp thoáng bóng ‘Hoa –Hạ’ rồi .. Đất Lạc Long của Lạc Long Quân gồm đất Lạc là Bắc Việt Nam cộng đất Lâm tức Quảng tây ngày nay, đất Long là Nam Quảng tây và Quảng Đông; sử Trung Hoa ký âm sai thành đất ‘Lục Lương’. Những dòng sử trên cho ta xác định: danh xưng Trung Quốc -Hoa Hạ xuất phát từ triều Hùng Hoa này ; Hải Lang và Hạ Vương là 2 cách gọi khác nhau của cùng 1 vua; Hùng Hoa Vương được người Việt gọi là Linh Lang, Linh là biến âm của Lung như ta đã biết; đất của Hải Lang ký âm sai thành đất Hải Nam nay còn chứng tích là Vịnh Hạ Long hay Hạ Lang và đảo Hải Nam Hải Nam là đất của Hải lang – Hạ Vương. Vân Nam là đất của Văn Lang – Văn Vương. Chu nam và Thiệu nam 2 vùng đất nổi tiếng trong Kinh Thi cũng ở dạng ‘cố tình sai’ này ; chính xác là ‘Chu lang’ và ‘ Thiệu lang’ tên thực ấp của 2 đại công thần nhà Chu là Chu công Đán và Thiệu công Thích , Chu lang và Thiệu lang được người Tàu đổi thành Chu công và Thiệu công vì Hoa ngữ không có chữ ‘lang’ còn thực ấp thì đổi ‘lang’ thành ‘nam’, tương tự khi vua Mông cổ gọi dân bắc Trường giang là người Hãn tức dân gọi vua là Hãn, nam Trường giang là người LANG vì gọi vua là Lang ai đó đã cố tình chuyển Hãn ra Hán, Lang ra nam nhằm thủ tiêu những dấu tích lịch sử bất lợi cho ý đồ của họ. Ở phần trước ta đã minh định về 2 thời kỳ: lập quốc và vương quốc của lịch sử họ Hùng .Bước sang giai đoạn đã trở thành vương quốc Cổ sử Trung Hoa viết : xưa Trung Hoa chỉ có 2 Châu: Châu Đào và Châu Đường, gọi tắt là đất Đào - Đường hay Đào – Dương (2), dùng các dịch tượng của Dịch Lý ta xác định: đất Đào , màu đỏ là lãnh thổ nhà Hạ, Đường hay dương là lãnh thổ nhà Thương. Đất khởi phát của nhà Hạ là lưu vực sông Hồng, hay Nhĩ hà, Hồng cũng là màu đỏ người Thái gọi là ‘Nậm tao’ Tao biến âm ra Đào và Thao. Chữ Hồng trong Hồng bang là màu đỏ ↔ Đào. Hồng còn nghĩa là bó đuốc → đốt → thiêu → Thao, Thao là biến âm của thiêu nghĩa là đốt (cháy). Ngày nay ở Việt Nam còn dấu vết: Có 1 khúc sông Hồng vẫn được gọi là sông Thao. Dấu tích của thời nhà Hạ hay Hùng Hoa còn lưu lại ở 3 nền văn hoá cùng thời mà khảo cổ học đã khám phá gọi là nền văn hóa Phùng Nguyên, hay di chỉ khảo cổ Phùng Nguyên thuộc lưu vực sông Hồng, sơ bộ khảo cổ học Việt Nam nhận định đấy là lưu tồn vật chất của người Tày cổ mà phạm vi phân bố tới tận lưu vực sông Tứ hay Châu Giang; trùng khớp với địa bàn dòng Bách Lộc hay Lạc Tộc như đã biết, nền văn hóa Hạ long và quan trọng hơn cả là nền văn hóa Hoa lộc ở vùng Ninh bình Hoà bình và lưu vực sông Mã ., các hiện vật thu được ở 3 nơi có sự đồng nhất nhưng cũng có những sự khác biệt , điểm khác chỉ ra là có 3 cộng đồng người khác nhau , điểm đồng nhất cho thấy đã có sự hợp nhất để trở thành một dân tộc. Thao và Đào đều là đồng nghĩa của chữ Hồng chính vì vậy mà sau này ta mới có tên vua Nam Việt là Triệu Đà hay Triệu Tha , Lịch sử thời này được minh xác trong bài thơ sử của Phạm sư Mạnh thế kỷ thứ 14 : Nghỉ thuyền hà thạch tố thanh ba Lũng lại tranh nghênh sứ Bái qua LÔ THỦY phân ly THAO tục LẠC VĂN LANG nhật nguyệt THỤC sơn hà. câu : Lô thủy phân ly Thao tục Lạc nghĩa là : Nước và Lửa , bắc và nam tức người Kanh và người La trước là anh em một nhà nay tách biệt ;Lạc liên kết với Long thành Lạc- Long hay Hoa mở ra chiến cuộc Hoa-Di mà tàn cuộc chiến nước Thao ra đời thay cho nước Lạc hay Lạc quốc. Hồng Bàng Thị nghĩa là ‘thời Hồng bang’,. Việt Thường Thị là ‘thời nhà Thương’, hay Việt Thường, cũng là Đường quốc. Đô ấp thứ 2 của nhà Hạ là An ấp, bị Hậu Nghệ cướp ngôi khi phục quốc dời đô về vùng Nam Hải hay Hải Nam tức Quảng Đông ngày nay, cổ sử ghi là Đô Ấp thứ 3 nhà Hạ là Dương Thành, chính là Quảng Châu ngày nay. Thời Hải Lang Hạ Vương, vương triều đầu tiên trong Tam Đại của Trung Hoa là thời đã hoàn tất việc đúc kết dân tộc và kết tinh văn hóa. Bốn dòng : Hồ Động Đình, sông Cả, sông Cương và sông Hắc ; dần theo thời gian cộng sinh và cộng huyết đã dần đúc nên hình nên dáng của dân tộc Việt ngày nay, đó cũng là sự kết tinh văn hóa của 4 phương nên trong người Việt hiện nay là tổng hoà các yếu tố văn hóa các dòng ngôn ngữ : Môn-Khmer, Tày-Thái, Nam đ̣ảo và sau cùng là sản phẩm của lịch sử... người Việt đã buộc phải thêm vào kho ngôn ngữ của mình dòng ngôn ngữ Hán -Tạng. Ngày nay Đông nam Á đã là một Hiệp hội ,tiến tới chắc hẳn có một hiến ước và rồi tất phải có một ngôn ngữ Đông nam á ; ứng cử viên sáng giá nhất cho chiếc ghế này là Việt ngữ vì về ‘hình’ thì Việt ngữ đã cách tân dùng mẫu tự Latinh là loại mẫu tự dễ dàng tiếp cận với nền khoa học kỹ thuật tiên tiến của thế giới còn về ‘thanh’ thì bản thân tiếng Việt do lịch sử hình thành đã là ‘tiếng’ Đông nam á từ mấy ngàn năm nay rồi. Con cháu Viêm Đế + con cháu Thiếu Hạo con cháu Hiền Vương – Hiên Viên, Trên lãnh thổ tây bắc Việt Nam, người La lại hòa huyết với người Miêu, con cháu của tổ phụ Xuyên Húc (sông Hắc) hay Vũ Tiên thành ra người Kanh -Lạc; Bước sau cùng của quá trình đúc kết là thời Kinh Dương Vương kết duyên cùng Long Nữ hay ông Vũ lấy vợ là Đồ Sơn Thị sinh ra Lạc Long Quân mở ra thời kỳ lịch sử Việt Nam gọi là triều Hùng Hoa – Hải lang. Hùng Hoa cho ta dân tộc Hoa. Hải Lang – Hạ Vương cho ta vương triều Hạ. Đất Đào hay Đào Ấp cho ta tổ quốc “Thao” hay Hồng Bang (Hồng Bàng Thị). Tiền nhân người Việt đã hao hơi tổn sức không biết bao nhiêu để sáng tác và lưu truyền hàng ngàn năm truyện sự tích trầu cau, cốt lõi chỉ nhằm giúp con cháu xác định được dòng giống của mình. Trong sự tích trầu cau ta thấy sự hiện diện của 2 ông, 1 bà; 1 ông biến thành cây cau, chính xác là cao, trên cao là thiên, 1 ông biến thành hòn đá là địa, có thiên có địa rồi còn ngôi “nhân” dành cho người nữ, đó chính là hình dạng quẻ Ly theo Dịch Lý họ Hùng (ngược với Dịch Lý của Trung Hoa), 2 ông là 2 vạch liền, 1 bà ở giữa là vạch đứt: đấy chính là ý nghĩa của nước “Xích Qủy” trong truyền thuyết rồng tiên, Xích quẻ tức màu đỏ, quẻ Ly mà ai đó đã cố công biến ‘quẻ” thành “qủy” để che mắt thiên hạ. Khi nhai trầu thì biến ra thứ nước “màu đỏ’ trong tiếng Việt ‘nước’ là 1 thứ vật chất nhưng cũng có nghĩa là quốc gia, nước đỏ chính là “Đào quốc” hay “Hồng Bang”. Ngành khảo cổ học Việt Nam đã có đầy đủ các dữ kiện để xác định trên lãnh thổ Bắc Việt hiện nay thời trước Công Nguyên đã có mặt ít nhất 3 thành phần văn hóa chính thể hiện trên những lưu tồn vật chất mà khảo cổ học đã khai quật được; núi rừng Tây và Bắc mang đậm yếu tố “Tày cổ” đồng dạng với văn minh Tây Giang cùng thời kỳ; chếch về hướng Đông là các yếu tố văn hóa Hạ Long, đồng dạng với các yếu tố văn hóa dọc bờ biển nam Trung Hoa; và sau cùng là các yếu tố văn hóa của người “Thanh – Nghệ” tiến ra khai phá Đồng bằng sông Hồng .. Thời Lạc Long Quân – Hùng Hoa : 2 thành tố Lạc và Long đã tạo ra thành tố Hoa. Thời Hùng Việt → người Việt, dân tộc Việt. Thời Hùng Hoa → người Hoa, dân tộc Hoa. Người Việt Nam cũng rất tự hào về thời quá khứ Hồng Bàng Thị hay Hồng Bang của dân tộc mình. Hồng Bang, đất Đào, quốc gia Thao đều phát xuất từ mã tin Dịch Lý: Quẻ Ly tức ngọn lửa biểu trưng cho ánh sáng và sức mạnh hay nguồn năng lượng của mặt trời chiếu dọi xuống trái đất tạo nên mầm sống. Tương truyền là ông Khải cho đúc 9 cái vạc đồng làm quốc bảo, như thế vào đầu đời Hạ, Trung Hoa đã bước vào thời đồ đồng. Nhà Hạ có 2 thời kỳ: thời lập triều và thời tái lập. Sau ông Khải truyền đến Thái Khang thì bị Hậu Nghệ cướp ngôi; cháu chắt Khải đế phải chạy đến vùng định cư của con cháu ông Thuấn nhờ sự giúp đỡ và ủng hộ của họ Thiếu Khang đã đánh bại Hàn Tróc dành lại ngôi vua, lịch sử gọi là Thiếu Khang Trung Hưng. Cổ sử Trung Hoa chép nhà Hạ có 3 đô ấp: - Thứ nhất là Khang Địch nghĩa là đô ấp ở phía tây đất nước. - Thứ hai là An Ấp đã xác định ở trên. -Đô ấp Thứ ba là Dương Thành, Dương Thành nghĩa là thành phố phía đông, còn gọi là Long Thành chính là thành phố Quảng Châu ngày nay, Dương Thành đã có lịch sử trên 4.000 năm và dứt khoát không phải là thành phố của dê (dương là dê), như ai đó muốn bôi bác nó để chối bỏ lịch sử. Chúng ta xếp vương triều Hạ khởi đầu thời Lịch sử vì đã có đủ thông tin về 17 đời vua và 3 kinh đô. Vương triều Hạ kể cả Hạ Vũ là 17 đời, lãnh đạo đất nước Đào hay Thao trên 400 năm, vua sau cùng là hôn quân bạo chúa tên Kiệt bị Thành Thang đánh bại và nhà Thương thay nhà Hạ. Các vua nhà Hạ, Hồng bang là: 1. Vũ, 2. Khải, 3. Thái Khang, 4. Trọng Khang, 5. Tượng, 6. Thiếu Khang, 7. Trữ, 8. Hòe, 9. Mang, 10. Tiết, 11. Bất Hàng, 12. Quynh, 13. Cẩn, 14. Khổng Giáp, 15. Cảo, 16. Phát, 17. Kiệt. Từ thời Thiếu Khang Trung Hưng, trung tâm Thao Quốc chuyển về Quảng Đông không nằm trên đất Việt nữa, tới thời Kiệt dân chúng thường nguyền rủa: “Mặt trời ơi, hãy tắt đi chúng tao vui lòng chết cùng mày.” Việc này chỉ ra: dân chúng nhà Hạ gọi chúa là mặt trời hay Ly – Lửa (Quẻ Ly cũng chỉ mặt trời, hay nguồn năng lượng), sau Ly biến thành họ Lý, họ Lê ; Con cháu nhà Hạ đã có công khai phá vùng Phúc Kiến-Triết giang lập nên nước “Việt” thời Chiến Quốc vùng này cũng gọi là Mân Ấp – vùng đất dành riêng để thờ cúng các vua nhà Hạ. Trong triều đại Hùng Hoa-Hải lang ; Hậu Nghệ là thủ lãnh tộc Di vì Thái Khang là vua ngu tối không lo chính sự chỉ ham săn bắn, có lần đi săn ở Nam Lạc Thủy cả 100 ngày không về, Hậu Nghệ đem quân chặn ở Bắc (Dịch Lý) Lạc Thủy, thế là Thái Khang đành sống lưu vong. hậu Nghệ tôn em Thái Khang là Trọng Khang lên ngôi nhưng thực quyền đều nằm trong tay Hậu Nghệ, sau khi Trọng Khang chết thì Hậu Nghệ chính thức lên ngôi vua. Lạc Thủy nay chỉ còn là con sông nhỏ chảy qua rừng quốc gia Cúc Phương, thuộc Ninh Bình – Việt nam ngày nay. Sử Trung Hoa viết, thời đó trên trời có tới 10 mặt trời, nóng quá mặt đất khô khan không còn giọt nước, dân chúng kêu than vang trời, Hậu Nghệ dùng cung bắn 9 phát rụng liền 9 mặt trời chỉ để lại 1 mặt trời như ngày nay; truyền thuyết là vậy, sự thực ra sao? Đây chỉ là hiện tượng thời tiết tự nhiên ,qua cơn hồng thủy đến thời hạn hán , khi hạn hán mặt ao đầm khô nước nứt nẻ thì thủy quái thuồng luồng làm sao sống, nhưng truyền thuyết chép là Hậu Nghệ dùng tài bắn cung bách phát bách trúng diệt hết thủy quái cứu dân; điều này chứng tỏ tâm tình của nhân dân rất kính trọng Hậu Nghệ chứ không chê bai khinh thường như 1 kẻ cướp ngôi … vô đạo. Hậu Nghệ là cấu trúc tiếng Việt; còn cấu trúc Hán văn là Nghệ Hậu. Hậu Nghệ là thủ lãnh tộc Di, tộc Di hay Di Lão chính là người La bị Đế Khải đánh đuổi phải di cư lên phía Bắc đến núi Kỳ Sơn; tộc Di Lão còn được gọi là Di Việt sau Hậu Nghệ bị Hàn Tróc giết và cướp ngôi, Thiếu Khang con cháu nhà Hạ được sự ủng hộ của bộ tộc Hữu Ngu dòng Đế Thuấn đã đánh bại hàn Tróc khôi phục vương triều Hạ . Chúng ta thấy truyền thuyết lịch sử đã không công bằng với Hậu Nghệ tuy nói rõ vì vua ngu tối ham hưởng lạc mới đưa đến việc soán ngôi , khi ở ngôi Hậu nghệ đã làm bao điều ićh quốc lợi dân nhưng vẫn không ̣đ̣ược coi là 1 triều đại chính thống .1 like