-
Thông báo
-
Nội quy Lý Học Plaza
Nội quy này là bản mở rộng Nội Quy - Quy định của Diễn đàn. Khi tham gia mua bán, các thành viên phải tuân theo những quy định sau: Tiêu đề bài viết: Bao gồm: Chỉ dẫn địa lý, Loại hình Mua/Bán, Thông tin mua bán.
Chỉ dẫn địa lý: Tỉnh/thành nơi mua bán. Hoặc sử dụng định nghĩa có sẵn:TQ: Toàn quốc
HCM: TP Hồ Chí Minh
HN: Hà Nội
[*]Ví dụ: HCM - Bán Vòng tay Hổ Phách Nội dung bài viết: Mô tả chi tiết sản phẩm mua/bán
Bắt buộc phải có thông tin liên lạc, giá Mua/Bán
Bài mới đăng chỉ được phép up sau 03 ngày.
Thời gian up bài cho phép: 01 ngày 01 lần.
Các hành vi vi phạm nội quy này sẽ bị xóa bài hoặc khóa tài khoản mà không cần báo trước.
-
Leaderboard
Popular Content
Showing most liked content on 11/11/2010 in all areas
-
Những phát minh rất nhỏ, nhưng ý nghĩa vô cùng lớn (Dân trí) - Thế giới đầy những sáng kiến tân tiến, nhưng nhiều khi chính những sáng tạo rất nhỏ lại là những giải đáp cho các vấn đề hóc búa của đời thường, đơn giản ở nơi này, nhưng chết chóc ở nơi khác. Cùng điểm lại một vài trong số đó. Ống làm sạch nước có thể giúp cho 900 triệu người không có nước sạch để uống trên thế giới an tâm hơn. Kenya là nước đầu tiên áp dụng cho kỹ thuật của cái ống dài có 0,3m, nhưng có khả năng lọc mọi nước bẩn để uống an toàn. Khi động đất xảy ra ở Haiti, vấn đề nước sạch để uống cho hơn 1 triệu nạn nhân sống sót hết sức gay gắt. Lập tức nhiều ngàn ống lọc LifeStraw đã được phân phối cho họ, với mỗi đầu lọc lọc được khoảng 700 lít nước bẩn. Một thế hệ LifeStraw mới, ngắn hơn, sau đó lọc được tới 1000 lít nước bẩn. Còn Respira, là loại thiết bị giúp nhiều trẻ em bị suyễn có thể thoát khỏi tử thần, vì các em không biết cách thở cho ăn khớp với loại thuốc phun aerosol thông thường. Respira là thiết bị đơn giản bằng giấy cứng gấp lại, buộc quanh miệng để đưa thuốc vào cơ thể bệnh nhân khi hít. So với giá một miếng đệm thông thường lên đến 20 USD, môt Respira chỉ có 1 USD, vừa túi tiền của hàng triệu gia đình có con bị bệnh ở các nước thứ ba. Cũng vì tấm lòng cho người nghèo, bình nước lăn bằng nhựa cứng Q Drum có thể chứa 30lít nước, được buộc vào dây dài chắc chắn để các phụ nữ hoặc trẻ em châu Phi kéo đi, không còn nhọc nhằn oằn lưng hay đau cổ mang những thùng chậu hàng ngày đi bộ lấy nước xa nhiều cây số. Còn cái Embrace là tên gọi một túi nhỏ để cứu sống khoảng 19 triệu em bé sinh non tại các quốc gia đang phát triển hàng năm. Nhiều em chết do không thể tự điều hòa thân nhiệt thích hợp. Một lớp lót bên trong sẽ mang lại hơi ấm cho bé trong nhiều giờ. Người phụ nữ ở Ethiopia phải xay ớt đỏ bằng tay từ nhiều thế kỷ qua, một việc làm mất nhiều thời gian và đau tay vì ớt làm phỏng da. Thiết bị có tên Pepper Eater bằng sắt có thể giúp nghiền ớt nhanh gấp 4 lần cái cối cổ truyền, mảnh ớt đều đặn đẹp mắt và giúp tránh da tay không bị bỏng vì dính ớt. Một người có lòng tên là Mohammed Bah Abba đã nghĩ ra cách làm “tủ lạnh cho dân quê” trữ thực phẩm trong nhiêu ngày mà không cần điện. Đó là hai lớp bình chứa, giữa có lớp cát thấm nước. Khi nhà nông thu hoạch cà chua, chúng có thể tươi tốt nhiều tuần trong các hủ lạnh này, thay vì có vài ngày như trước. Abba cho hay khi tìm tòi trong các tài liệu cổ, anh đã khám phá kỹ thuật cổ xưa này của bao thế hệ trước. Cuối cùng là một sáng chế dành cho nhiều triệu trẻ em nghèo nhưng hiếu học. Đó là cái laptop giá thật rẻ. Đặc điểm của nó là hai “cái tai thỏ” không cần dây điện và có cả e-book. Đã có 400.000 máy được chính phủ Brazil tung ra và thêm gần 100.000 cái khác được đặt chế tạo. Năm 2012, sẽ có loại còn tối tân hơn sản phẩm của Apple vậy. Việt Hà Theo National Geographic3 likes
-
Video buoi le cau sieu:3 likes
-
Hòn Ðá Ném Ði:
meiji and 2 others liked a post in a topic by Thiên Sứ
Sự thật về người kỳ lạ ở Viện lão khoa Trung ương Tác giả: A Sáng Tuanvietnam.vn Bài đã được xuất bản.: 11 giờ trước Tôi muốn kể lại một cách trung thực câu chuyện này và bất lực khi muốn lý giải bản chất của nó. Cái gì đang diễn ra trong đời sống chúng ta? Cái gì đã làm cho chữ Hiếu và tiền bạc lại trở nên đối nghịch đến độ không thể cắt nghĩa? Nhiều lúc tôi lại rùng mình nghĩ rằng, một ngày nào đó chính cái thân xác của tôi già nua, bệnh tật, rồi nằm liệt một chỗ. Thế rồi một bàn tay ai đó bắt đầu chăm sóc cái thân xác bệnh tật của tôi, và rồi đến một ngày tôi biết sự thật... Câu chuyện bắt đầu từ phòng điều trị số 303, tầng 3, Bệnh viện Lão khoa Trung ương. Sở dĩ tôi có mặt ở đây vì đến trông nom ông anh cả. Sức khỏe bác cả nhà tôi chưa đến nỗi phải cần người chăm sóc từng ly từng tí khi nằm điều trị. Ông anh cả tôi chỉ bị viêm dây thần kinh mắt nên cần nằm truyền kháng sinh liều cao. Những lúc nằm truyền như vậy, tôi muốn ngồi cùng bác ấy trò chuyện cho đỡ buồn. Và trong vòng hơn 7 ngày ngồi trò chuyện với bác ấy tôi đã chứng kiến câu chuyện này. Trong phòng điều trị còn hai bệnh nhân, đều mắc căn bệnh tai biến mạch máu não, nằm liệt hoàn toàn. Cụ thứ nhất có tới 6 người con cả trai cả gái. Họ đến mỗi ngày 3 người, ngồi kín cả hành lang, trò chuyện rôm rả về bệnh tật của cụ, thỉnh thoảng họ cũng tranh cãi nhau về cách chăm sóc một người liệt. Tôi đã có một bài học - bài học tuyệt vời về lòng hiếu thảo của con người. Ảnh: tintuc.xalo.vn Tôi quan sát và thật sự cảm động, thầm nghĩ rằng, người cha này có phúc lớn, lúc ốm đau con cháu kéo đến cả đàn, tranh nhau chăm sóc. Có lẽ đời người như thế là viên mãn. Khi bệnh tật đang dần cướp đi tất cả thì cái "năng lượng" của con cháu trở nên tuyệt vời hơn bao giờ hết. Cụ nằm thở thoi thóp, hình như không còn biết gì nhưng tôi thấy rõ sự yên bình trong cách "ngủ" của cụ. Chỉ cần tay cụ động một chút thì ngay lập tức một người con reo lên: "Tay bố động rồi này, gọi bác sỹ ngay!", thế rồi họ chạy rầm rầm, í ới gọi bác sỹ... Khuôn mặt của mấy đứa con cụ thật rạng ngời, chứa chan hi vọng về sự hồi phục của cha mình. Đôi lúc một trong số họ quay sang cười nói với tôi: Cụ nhà tôi lúc còn khỏe là tham việc lắm, chẳng bao giờ cụ chịu ngồi yên, 84 tuổi mà vẫn cứ đòi ra đồng, nếu không bị tai biến thì giờ này cụ đang ngoài ao cá... Họ nói hồn nhiên, say sưa như muốn quên đi hiện tại - quên đi rằng cha mình đang bị liệt. Có lẽ họ muốn quay về quá khứ, về cái ngày mà cha họ còn khỏe, đơn giản vì họ yêu cha mình thật sự. Đó là chuyện của cụ thứ nhất, ngay bên cạnh cũng một cụ nằm liệt như thế nhưng xem chừng nặng hơn bởi cụ hầu như không cử động chút nào, chỉ khò khè thở. Chỉ nhìn qua cũng biết được cụ thuộc tầng lớp giàu có vì xung quanh giường của cụ toàn những thứ đắt tiền: đệm đặc chủng cho người bị liệt (loại này bệnh viện không có), máy thở đặc chủng (nghe nói họ thuê riêng) và vô vàn thứ đặc biệt khác. Nhưng đặc biệt hơn chính là người chăm sóc cụ - chỉ duy nhất một thiếu phụ chừng 40 tuổi. Trái ngược với sự đông đúc, ầm ĩ của người nhà bệnh nhân bên cạnh, người thiếu phụ này chăm sóc bệnh nhân một cách kỳ lạ. Sự kỳ lạ ở chỗ chị ấy hết sức thành thạo mọi việc: lau rửa, cho ăn, kiểm tra, bôi thuốc... nhưng kỳ lạ hơn chính là cách trò chuyện cực kỳ thân mật của chị. "Con cho ông ăn nhé! Trời ơi, chân ông lại loét rồi này, từ từ nhé con cho ông nằm nghiêng nhé! Ông thấy thoải mái hơn không!?" - cứ thế vừa làm chị ấy vừa nói thật âu yếm. Tình yêu thương lẫn nhau là món quà lớn nhất của cuộc sống. Ảnh: tin247.com Tôi xúc động với bệnh nhân kia bao nhiêu thì thán phục đến rớt nước mắt với chị ấy bấy nhiêu. Tôi tự nhủ rằng, cụ này còn phúc hơn cụ kia trăm lần. Có được một cô con gái thế này trên đời thật hiếm. Đám con cháu của cụ bên kia chỉ chiếm số đông, nhưng đa phần vụng về không thành thạo việc chăm sóc người nằm liệt, đặc biệt là công đoạn thay "bỉm", hoặc ống nước tiểu được gắn liền với bộ phận sinh dục của cụ. Họ loay hoay, tranh cãi, đôi lúc làm rối tung mọi việc. Những lúc như thế người thiếu phụ ở giường bên kia liền hướng dẫn, hoặc tự tay giúp họ. Chị vừa làm vừa giải thích: Muốn thay phải nâng người cụ lên thế này, lúc lau phải dùng khăn thế này, dùng loại dung dịch này, cái ống nước tiểu phải lắp thế này... Bàn tay khỏe mạnh và rất khéo léo của chị thật thành thạo công việc. Đám con cháu chiếm số đông ấy cứ ngượng nghịu đứng ngẩn tò te. Tôi cũng ngẩn tò te nhìn chị làm cái công việc hết sức khó khăn ấy. Tôi lại thầm nghĩ rằng, có lẽ cha chị ấy đã nằm liệt lâu nên mới có nhiều kinh nghiệm chăm sóc như vậy. Nhưng đó mới chỉ là kinh nghiệm, cái làm tôi xúc động chính là cách chị trò chuyện với người bệnh. Có một cái gì đó thật sự yêu thương - tình yêu thương kiên trì vô cùng của chị. Tôi cũng tò mò hỏi chị về cụ: "Ông nằm liệt bao lâu rồi chị?". "3 năm rồi, đây là lần đột quỵ thứ hai..." - chị trả lời thản nhiên. Tôi rất thắc mắc rằng vì sao đã 5 ngày liền tôi không thấy bất cứ ai ngoài chị đến chăm nom cụ, nhưng tôi lại nghĩ chuyện này không nên hỏi. Nhưng tò mò quá không đừng được, tôi thốt lên: "Có mỗi mình chị chăm sóc cụ thôi à?". "Ừ, họ bận cả..." - chị trả lời nhát gừng ý như không muốn nói chuyện này, tôi đành im lặng và tiếp tục quan sát người phụ nữ đáng ngưỡng mộ này. Ngày hôm sau, vẫn một mình thiếu phụ ấy bên cụ. Lần này chị đang loay hoay chuyển tư thế nằm cho cụ. Dù khá khoẻ mạnh, nhưng việc vần một bệnh nhân nằm liệt hoàn toàn và khá béo như thế cũng khiến chị toát mồ hôi. Tôi nhanh nhảu đến giúp chị thì ôi thôi! Cái lưng của cụ đã bị loét ra nhiều chỗ, đặc biệt là hai cái mắt cá chân thì gần như thối rữa dù người bệnh nằm trên cái đệm đặc biệt có tác dụng chống loét. Khi đã vần được cụ nằm nghiêng, chị bắt đầu dùng thuốc khử trùng cẩn thận lau những chỗ loét ấy. Thú thực tôi phải cố gắng lắm mới đủ sức đứng nhìn chị lau rửa. Chị vừa làm vừa nói âu yếm: Khổ thân chưa, chắc đau lắm ông nhỉ!? Con đã bảo rồi, lúc nào đau thì mở mắt để con biết... Khổ thân ông của con quá...! Cứ thế chị nỉ non, như nói cho người bệnh, như nói cho chính mình nghe. Người bệnh thì hoàn toàn như không biết gì, ngoài việc ngậm cái ống bơm thức ăn ở miệng, đôi mắt vẫn nhắm nghiền, những vết loét kia hình như không phải trên da thịt mình... Tôi bắt đầu chuyển từ sự xúc động sang thắc mắc. Đã 6 ngày nay chỉ một mình chị ấy chăm sóc cha mình, mà đã 3 năm nay như vậy thì thật đáng khâm phục. Có lẽ anh chị em nhà chị ấy bận hoặc giao phó công việc không muốn làm này cho mình chị. Tôi đã từng chứng kiến nhiều gia đình đông anh chị em có cha mẹ bị ốm. Họ đùn đẩy nhau, trách móc nhau, tố cáo nhau... tất cả chỉ muốn tránh cái việc chăm sóc bậc sinh thành ra mình. Có người còn trốn biệt như việc đó không liên quan đến mình. Và đôi khi chính tôi cũng cảm thấy mình chưa làm tròn trách nhiệm với cha mẹ. Tôi thật sự khâm phục người thiếu phụ này. Bỗng chốc căn phòng điều trị vốn nhiều sự não nề trở nên ấm cúng lạ thường. Ông cả nhà tôi cứ ngồi trầm ngâm nhìn người thiếu phụ. Đôi mắt giàu kinh nghiệm của ông hình như cũng đang có cùng suy nghĩ như tôi. Nhiều lúc bẵng đi vài tháng tôi thật sự quên rằng mình đang có một người mẹ già ở quê, tất nhiên chính tôi lại tự biện hộ ngay rằng, mẹ mình còn khoẻ, mình bận rộn thỉnh thoảng quên cũng chẳng hề hấn gì, công việc mà... Thỉnh thoảng mẹ tôi chủ động gọi điện hỏi thăm tôi mới giật mình thấy xấu hổ. Có lẽ lâu quá tôi không gọi về nên mẹ lo lắng, câu đầu tiên bao giờ mẹ tôi cũng hỏi: Con bận lắm à? Mỗi lần như vậy tôi lại thấy mình thật tồi tệ, chưa làm tròn chữ Hiếu với bậc sinh thành. Và bây giờ tôi chứng kiến những con người này: một đàn con đông đúc, tranh nhau chăm sóc cha; một người thiếu phụ kỳ lạ, lúc nào cũng âu yếm chăm sóc người bệnh, tôi chưa hề thấy một dấu hiệu nào về sự chán nản, thất vọng, hay cáu gắt trên khuôn mặt chị ấy suốt 6 ngày liền. Bằng ấy đủ để chứng minh rằng, sự cẩn trọng, tỉ mỉ, âu yếm của chị là thật. Tôi suy nghĩ miên man về điều này. Tự nhiên thấy mình thật sự bé mọn vì luôn hoài nghi những điều xung quanh. Báo chí đã viết nhiều về những sự bất hiếu, vô đạo đức, đối xử lạnh lùng... với người thân khi họ mắc bệnh, hoặc quá già. Vì thế tôi luôn mang trong đầu óc phán xét, hoài nghi mỗi khi tiếp cận những hoàn cảnh tương tự vậy. Nhưng lần này tôi đã có một bài học - bài học tuyệt vời về lòng hiếu thảo của con người. Tôi vẫn miên man suy nghĩ và ngắm nhìn người thiếu phụ đầy ngưỡng mộ này thì đột nhiên từ cửa phòng bệnh xuất hiện một người phụ nữ. Chị ta ăn mặc sang trọng, trang sức đeo khắp người, chỉ nhìn qua cũng biết là người giàu có. Chị ta đi thẳng đến giường bệnh, một tay bịt mũi hất hàm hỏi người thiếu phụ: "Cụ thế nào? Có khá hơn không?". Người thiếu phụ nhoẻn cười: "Vẫn thế, được cái không bị trớ lúc ăn...". Chị ta cũng không thèm ngồi xuống chỉ đứng từ xa nhìn người thiếu phụ đang lau rửa chỗ loét, tay vẫn bưng lấy mũi, khuôn mặt sang trọng hằn rõ sự khó chịu. Cũng chỉ vài phút sau chị rảo bước ra ngoài, rồi đi thẳng. Lúc này người thiếu phụ mới nói: "Con gái cụ đấy, thỉnh thoảng mới đảo qua, họ bận lắm...". Tôi trố mắt hỏi dồn: "Thế còn chị?". Người thiếu phụ mắt vẫn không rời những chỗ loét, bàn tay mạnh khoẻ và khéo léo của chị vẫn lau rửa và thủng thẳng trả lời: "Không, tôi là người làm thuê thôi. Tôi làm nghề này lâu rồi, nhưng chắc sang năm nghỉ, họ nói mãi tôi mới ở lại đấy...". Tôi thấy mình như bị một cái tát vào mặt! Hoá ra là vậy, tôi đã nhầm và tôi không có được bất cứ bài học gì. Tôi nhầm! Lạy Phật tôi nhầm lẫn!3 likes -
Lang Thang Và Chu Cha
Thiên Phú and one other liked a post in a topic by văn nhân
Lang thang và chu cha . Trong ngôn ngữ Việt có 2 từ láy rất hay dùng , những từ này mang nặng phong cách dân dã chứng tỏ là nó thuộc về đại chúng , đã ngấm trong máu nên người ‘đời’ dùng nhiều hơn là ...xuất hiện trong văn chương khoa bảng. Là những từ nằm trong lòng phát ra ‘cửa miệng’ chẳng cần suy nghĩ lựa lời chi cả nhưng lại ít ai biết căn nguyên của nó ; quen rồi cứ ‘xài’ không cần biết nó ở đâu ra và tại sao lại dùng như thế ; sách vở chưa hề có lời giải thích ..., Tự điển tiếng Việt cũng vậy không có dòng nào đề cập đến vấn đề này . 2 từ quen mà lạ này là: ‘lang thang ‘ và ‘chu cha’ hay ‘châu cha’ . 1 - Lang thang . Lang thang là đi hết chỗ này đến chỗ khác 1 cách bất định không có chủ đích rõ rệt , lạ là ở chỗ lang và thang trong tiếng Việt không mang ý nào liên quan đến sự đi lại cả . Từ lang nghĩa thông thường là : - Thày thuốc đông y . : thầy lang , ông lang , lang băm , lang vườn ... - 1 loại đồ ăn thức uống : khoai lang . - Người đứng đầu 1cộng đồng nhỏ cỡ làng ; từ này còn thấy trong vài dân tộc ít người như Thái và Mường. Từ thang : - Vật dụng để trèo lên cao ; bắc thang lên hỏi ông Trời ... - Gói thuốc trong đông y : thang thuốc . Vậy mà khi dùng lang đi liền với thang thành ‘lang thang’ lại chỉ sự di chuyển không mục đích rõ rệt ...thế mới lạ . Thực ra đây là từ láy có gốc rễ ở 1 sự kiện trong lịch sử Trung hoa xa xưa : Nhà Thương là triều đại dời đô nhiều nhất trong lịch sử Trung hoa , trong khoảng 300-400 năm đã 5 lần thay đổi kinh đô , ta biết mỗi lần dời đô như thế là cả 1 sự kiện trọng đại , xây dựng được 1kinh thành thì hao tốn không biết bao nhiêu tiền bạc và sức lực , kinh đô nào để cho xứng tầm cũng phải nguy nga tráng lệ chứ đâu có như cái nhà bếp cỏn con của đám dân đen , có khi phải đến vài chục năm mới có thể hoàn tất chứ nào chỉ ngày một ngày hai vậy mà ở chưa nóng ...mông vua quan nhà Thương đã bắt dân chúng xây kinh đô mới ...thực biết bao cơ cực cho kẻ làm dân ....chính vì thế sự việc này mới hằn sâu trong tâm trí mọi người để trở thành 1 điển cố lịch sử không thể quên cứ thế truyền mãi cho đến tận ngày nay để trong ngôn ngữ ‘bình dân’ Việt nam có từ láy... ‘lang Thang’ . Lang là thủ lãnh là vương là vua , Thang chỉ nhà Thương vua sáng lập là Thành Thang , lang Thang nghĩa là vua nhà Thương , chính vì 5 lần dời đô mà trở thành từ láy mang ý nghĩa như ngày nay . Sự giải thích này xem ra có lý ...nhưng kẹt một điều là vua nhà Thương là vua cổ của Trung hoa thì có liên quan gì đến dân chúng Việt mà sự cố ‘lang thang’ được khắc ghi trong tâm trí truyền lưu hơn 3000 năm đến tận ngày nay .??? Mời các bạn đọc Sử thuyết họ Hùng để thấy những điều trái khoáy thực ra không trái khoáy chút nào ,những chuyện tưởng như... kỳ quái mà thực ra lại rất chân xác ... 2 - Chu cha hay Châu cha. Khi gặp điều gì gây ngạc nhiên sửng sốt người ta buột miệng kêu ‘chu cha’ hay ‘châu cha ơi’..., gọi là buột miệng vì lời nói bật ra từ vô thức không nghĩ suy chi cả , người xứ Quảng phát âm thành ‘chu choa’ , người nam trung bộ là ‘chu che’ nhưng tất cả là cùng 1 ý , đặc biệt người Quảng hay kéo thêm cái đuôi thành ra ‘chu choa chèng đéc ơi’. ‘Chèng đéc’ là biến âm từ ‘Trời đất’ mà ra , còn ‘chu cha’ thì rõ ràng gọi người cha hay bố có tên là Chu , vậy hóa ra CHU là tên bố chung của mọi người Việt sao?. Trong sử Việt chẳng đã có vì vua được dân xưng tụng là ‘Bố cái đại vương’ đấy sao , đấng minh quân quên mình vì nước vì dân được dân mến mộ coi như cha mẹ vừa thể hiện sự kính trọng vừa là sự biết ơn xâu sắc trong tâm tình người Việt với đạo lí : uống nước nhớ nguồn ăn qủa nhớ kẻ trồng cây, khi nước ta đã trở thành ‘văn hiến chi bang’ thì đời đời không quên người đã mang đến ánh sáng văn minh ấy , Dịch lý là nền tảng văn minh Á đông , Chu văn vương là người có công đầu trong việc tác tạo Dịch học , trong tứ thánh của Dịch học thì Phục Hy là nhân vật thần thoại , Văn vương là con người thực công lao đứng đầu rồi mới đến Chu công và Khổng tử , không ai có thể tự hào hơn người Việt vì lịch sử còn ghi rõ tổ quốc của họ là đất nước của VĂN LANG tức nước của vua Văn , hàng ngàn năm trước công nguyên khi Hán tộc chưa hề đến đây thì trong kinh Dịch đã nói đến trống đồng và trên trống đồng cũng thể hiện Dịch học ,đây là bằng chứng vật thể đã không thể chối cãi về sự liên hệ giữa nước Văn lang và Chu văn vương nay lại thêm thói quen của người Việt mọi chi tộc luôn mở miệng gọi ‘Chu cha’ hay ‘Châu cha ơi là’ là điểm nhấn văn hoá phi vật thể bổ sung thêm chắc chắn và làm cho sự liên quan này trở nên không thể chối bỏ . Đã đến lúc lịch sử Việt nam ,Trung hoa và Hán tộc phải viết lại . Những thông tin lịch sử tồn tại trong dân gian tuy có vẻ giản đơn mong manh nhưng thực ra lại rất chắc chắn vì không ai có thể cạo sửa ‘bia miệng’ nên một khi đã tìm ra thì những thông tin này hầu như không thể bác bỏ , vua Tàu Càn long có thể cạo sửa toàn bộ sử sách Trung hoa nhưng không thể nào sửa được cụm từ ‘Lục lâm thảo khấu’ trong dân gian , đã là bia miệng thì chỉ có nước giết hết người Bách Việt mới phi tang được cái gốc cướp rừng cướp núi của đám quân Lục lâm , đám quân đã giúp lập nên hãn quốc đầu tiên ở Thiểm tây và ‘Lục lâm thảo khấu’ bỗng lột xác đổi đời... thành Hãn quân của đế quốc Hán kẻ đã đạp Trung hoa dưới móng ngựa có đến 500-600 năm . Các bạn nghĩ thử coi nếu Lục lâm quân là những anh hùng giúp kiến lập 1triều đại huy hoàng của Trung hoa thì trong dân chúng Trung hoa làm sao có cụm từ ‘giặc cỏ Lục lâm’ vừa vạch mặt chỉ tên là giặc lại vừa khinh bỉ là cỏ rác ... Trong ngôn ngữ bình dân Việt nam đã tìm thấy Dấu tích 4 triều đại của cổ sử Trung hoa: Lang Thang là các vua triều thương hay Thang . Lang Văn xếp ngược theo cấu trúc Hán văn là Văn lang vua tổ của triều Chu. Lang sói chỉ vị vua bạo ngược hàng nhất trong lịch sử là Tần thủy hoàng . Lang Bang là Lưu Bang Hiếu cao vua kiến lập Triều Tây Hán ( ???) Và độc đáo hơn hết là những ông Hãn gốc tộc Liêu họ Lưu lập quốc xưng là Hán ở phương trời ‘mờ – tối – đen’ được sử dân gian Việt gọi bằng mỹ danh ... Lưu manh ( manh ═ mù) , Lưu manh nghĩa là gì thì chắc không cần gỉai thích... Chỉ 1 từ kép này thôi đã chỉ rõ : Hán là Hán Hoa là Hoa , mập mờ đánh lận con đen...nhập Hán và Hoa làm một là ‘lưu manh’ .2 likes -
Hòn Ðá Ném Ði:
meiji and one other liked a post in a topic by Thiên Sứ
HÒN ĐÁ NÉM ĐI. Có một người hành khất nọ đến trước cửa nhà của một người giàu có để xin bố thí. Một đồng xu nhỏ hay một miếng bánh vụn, đó là tất cả những gì người ăn xin chờ đợi nơi người giàu có. Nhưng, mặc cho người khốn khổ van xin, người giàu có vẫn ngoảnh mặt làm ngơ. Ðến một lúc không còn chịu nổi những lời van xin của người hành khất, thay vì bố thí, người giàu đã lấy đá ném vào con người khốn khổ. Người hành khất lặng lẽ nhặt lấy hòn đá cho vào bị rồi thì thầm trong miệng: "Ta mang hòn đá này cho đến ngày nhà người sa cơ thất thế. Ta sẽ dùng nó để ném trả lại ngươi". Ði đâu, người hành khất cũng mang theo hòn đá ấy. Tâm hồn ông lúc nào cũng cưu mang sự báo thù. Năm tháng qua đi. Lời chúc dữ của người hành khất đã thành sự thật. Vì biển lận, người giàu có bị tước đoạt tất cả tài sản và bị tống giam vào ngục. Ngày hôm đó, người hành khất chứng kiến cảnh người ta áp giải người giàu vào tù ngục. Nỗi căm hờn sôi sục trong lòng ông. Ông đi theo đoàn người áp tải. Tay ông không rời bỏ hòn đá mà người giàu đã ném vào người ông cách đây mười mấy năm. Ông muốn ném hòn đá đó vào người tù để rửa sach mối nhục hằng đeo đẳng bên ông. Nhưng cuối cùng, nhìn thấy gương mặt tiều tụy đáng thương của kẻ đang bị cùm tay, người hành khất thả nhẹ hòn đá xuống đất rồi tự nhủ: "Tại sao ta lại phải mang nặng hòn đá này từ bao nhiêu năm qua? Con người này, giờ đây, cũng chỉ là một con người khốn khổ như ta". Tha thứ là điều khó khăn nhất nhưng cũng là điều cao cả nhất. Leon Tolstoi2 likes -
2 likes
-
Nguyên lý như vậy đó, nhưng nhẫn vàng xịn thì mới quay, nhưng con lắc thì cảm ứng nhạy hơn nhiều!2 likes
-
Giếng Không Dùng Nữa
HungNguyen and one other liked a post in a topic by vusonganh
Thật ra tra trên Google thì cũng có những bài mà Sư Phụ Thiên Sứ đã nói về lấp giếng. Bạn có thể tham khảo thêm: ( Những diễn đàn này trước đây Sư Phụ đã sinh hoạt và có nói về vấn đề lấp giếng. ) Link 1 Link 2 Link 32 likes -
chắc kiếp trước cô bạc tình nên kiếp này trả giá. cố sống tốt kiếp này, kiếp sau sướng bù vậy.2 likes
-
Sao xã hội vẫn tồn tại lắm kẻ ác vậy Lá số của bạn rất tốt, con cái không nhiều (mà cũng chỉ 2 chứ quá là Phường họ phạt mất chục cân thóc í chứ), con cái học hành tài giỏi. Ở với chồng đến lúc chán thì thôi :lol: , già bít như nào là già? Mình mới hơn hai cái 20 mà thiên hạ đã nói " lão ý già" :D , mỗi bác Haithienha kêu mình trẻ :D Đúng là 36 trở đi sẽ khá giả, nhưng phải nỗ lực từ hôm nay để chuẩn bị đón nhận cơ hội, kô ngồi chờ được đâu1 like
-
CHÀO CHÁU, THẦY BÓI NHIỀU HẠNG THẦY BÓI, XEM PHẢI CÓ BẢN LỈNH ,NÊN TIN ÔNG NÀO VÀ KG NÊN TIN "THẰNG" NÀO. CHÁU NÊN HIỂU RẰNG MỔI NGƯỜI ĐỀU CÓ SỐ MỆNH CẢ,"CÁI VỤ LẤY NHAU RỒI CHẾT" NGHE "VỤ ÁN" NẦY HỒI CHÚ CÒN NHỎ VÀ TRƯỚC ĐÓ NỬA CÓ LẼ HÀNG TRĂM NĂM LÀ ĐÀNG KHÁC. ĐÓ LÀ "BỊP BỌM" TÁC ĐỘNG TÂM LÝ GÂY HOANG MAN CHO NGƯỜI NHẸ DẠ MÀ THÔI,TÔI ĐOAN CHẮC ĐÓ LÀ THẦY BÓI RẼ TIỀN. CHÁU KG YÊU TỚI ĐỘ "VƯỢTQUA GIỚI HẠN TẦM THƯỜNG" THÌ LÀM SAO CÓ HẠNH PHÚC!?. . .QUA LÁ SỐ 2 CHÁU CHÚ THẤY CHÁU GIỎI SIÊNG NĂNG,ĐẢM ĐANG,CẦM QUYỀN CHỒNG ,SỐ CÓ PHẦN CỰC XÁC, 36 TUỔI CHÁU SẼ KHÁ LẮM ĐÓ, CẬU TA HIỀN LÀNH ,CẢ 2 KG CÓ SỐ TỰ ĐỨNG RA LÀM ĂN LỚN,NÊN THEO NGHỀ NGHIỆP CHUYÊN MÔN SẼ SỐNG SUNG TÚC HƠN NGƯỜI. VỀ CUNG TỬ TỨC, CHÁU CÓ CON QUÍ ,NHỜ CON. VỀ TƯỚNG MẶT CHÁU TẢ,CHÚ THẤY RÕ CHÁU GIỎI, TÍNH "ÔM ĐỒM" CÔNG VIỆC CÓ TÍNH "SÁT PHẠT" CHÁU CÓ BIẾT: "HỮU TƯỚNG VÔ TÂM TƯỚNG CÙNG TÂM DIỆT, HỬU TÂM VÔ TƯỚNG ,TƯỚNG TỰ TÂM SINH" CHÚC CHÁU ĐỪNG NHÁC GAN COI THẦY BÓI RẼ TIỀN MANG ÁM ẢNH VÀO THÂN ĐÁNG RA KG CÓ.CHÁU CÓ TÍNH QUÁ CHẶC CHẼ CẦU TOÀN,DỄ TRỞ THÀNH ÍCH KỸ KG CẦN THIẾT ,ĐÂY LÀ NGUYÊN NHÂN CỦA MỌI NGUYÊN NHÂN KHIẾN CHÁU DỂ LÂM VÀO THẾ BỊ CÔ LÂP . VỀ KHÁT VỌNG CÓ CHỒNG,VỢ AI CŨNG MUỐN CẢ ĐỜI CHỨ KG PHẢI 1 MÌNH CHÁU,CÁI ĐÓ ĐỂ ÔNG TRỜI TÍNH+ VỚI SỰ VỊ THA,HY SINH CHO GIA ĐÌNH CŨNG HÓA GIẢI KHÓ KHĂN TRONG HẠNH PHÚC LỨA ĐÔI,CÒN HIỆN TẠI DÁM HẠNH PHÚC VỚI CÁI TA CÓ THỂ. . .?!NÊN THỰC TẾ THÌ TỐT HƠN CẢ,DIỄN DONG CÓ ÍCH GÌ. CHÚC CHÁU LẤY ĐƯỢC NGƯỜI MÌNH YÊU. Cháu và anh ấy đang tìm hiểu, nhưng cháu đi xem bói thì họ nói cháu trán dô, mắt sâu, gò cao, má hóp, anh ấy lại bính dần, lông mày ko cao nên cháu sát anh và con, sợ lấy nhau thì anh ko qua được 33t, con cái cũng khó khăn, mà dễ sinh hư. Cháu thì luôn muốn cs gia đình êm ấm và bền lâu, con cái ngoan ngoãn là đc. Mấy hôm nay ko yên tâm được, cháu lại sinh lạnh nhạt với anh ấy. Có lá số anh ấy và cháu, mong các bác, các cô, các chú và các bạn giúp mình xem: - hai đứa có thể ở bên nhau đến già ko ạ - Con cái sau này có hiếm muộn hay hư hỏng khó nuôi không ạ - Với cháu đang đợi việc ở bên Điện lực, không biết khi nào thành công ạ. lá của cháu http://www.lyhocdongphuong.org.vn/apps/LaS...creen&size= http://www.lyhocdongphuong.org.vn/apps/LaS...reen&size=21 like
-
1 like
-
Phải gọi là bác hoặc chú chứ1 like
-
1 like
-
Tôi nghĩ một số bạn trẻ đã thiếu thông tin, thiếu tự tin (hay tự ti ?) và không dám tin là người Việt có những khả năng như vậy Tôi copy 1 bài viết nhỏ để mọi người cùng tham khảo Đại bàng và Gà Ngày xưa, có một ngọn núi lớn, bên sườn núi có một tổ chim đại bàng. Trong tổ có bốn quả trứng lớn. Một trận động đất xảy ra làm rung chuyển ngọn núi, một quả trứng đại bàng lăn xuống và rơi vào một trại gà dưới chân núi. Một con gà mái tình nguyện ấp quả trứng lớn ấy. Một ngày kia, trứng nở ra một chú đại bàng con xinh đẹp, nhưng buồn thay chú chim nhỏ được nuôi lớn như một con gà. Chẳng bao lâu sau, đại bàng cũng tin nó chỉ là một con gà không hơn không kém. Đại bàng yêu gia đình và ngôi nhà đang sống, nhưng tâm hồn nó vẫn khao khát một điều gì đó cao xa hơn. Cho đến một ngày, trong khi đang chơi đùa trong sân, đại bàng nhìn lên trời và thấy những chú chim đại bàng đang sải cánh bay cao giữa bầu trời. "Ồ - đại bàng kêu lên - Ước gì tôi có thể bay như những con chim đó". Bầy gà cười ầm lên: "Anh không thể bay với những con chim đó được. Anh là một con gà và gà không biết bay cao". Đại bàng tiếp tục ngước nhìn gia đình thật sự của nó, mơ ước có thể bay cao cùng họ. Mỗi lần đại bàng nói ra mơ ước của mình, bầy gà lại bảo nó điều không thể xảy ra. Đó là điều đại bàng cuối cùng đã tin là thật. Rồi đại bàng không mơ ước nữa và tiếp tục sống như một con gà. Cuối cùng, sau một thời gian dài sống làm gà, đại bàng chết. Trong cuộc sống cũng vậy: Nếu bạn tin rằng bạn là một người tầm thường, bạn sẽ sống một cuộc sống tầm thường vô vị, đúng như những gì mình đã tin. Vậy thì, nếu bạn đã từng mơ ước trở thành đại bàng, bạn hãy đeo đuổi ước mơ đó... và đừng sống như một con gà!1 like
-
Thưa VIETHA Từ ngày có gia đình và trở thành 1 người mẹ, Crescent phải tập lắng nghe và thấu hiểu, dù đó chỉ là 1 đứa trẻ. Điều đó giúp Crescent chỉ có Được, chứ không Mất. Vì vậy, chẳng có lý do gì để không lắng nghe VTB. Crescent chỉ muốn mọi người lắng nghe và thử suy nghĩ vì sao VTB có cách lập luận đó, chứ ngay cả bản thân VTB cũng không phủ nhận tội ác đó mà. Còn xa hơn, rộng lượng mà tha thứ lại là 1 vấn đề khác, ko phải ai cũng NGỘ được chữ vô thường mà làm được. Crescent đưa ra nhận xét là thể hiện sự tôn trọng ý kiến của 1 người khác (VTB). Còn bác VIETHA nhận xét Crescent không biết để làm gì nữa. Hiiii Crescent đi đây ạ.1 like
-
Sinh Nhâm Thìn thì lợi cho mẹ trong công việc, bất lợi cho cha về mặt công danh tài lộc!1 like
-
Thật may mắn và bạn phải lấy làm hạnh phúc khi ban sở hữu khuôn mặt khả ái, xinh đẹp và cuốn hút người khác phái. Bạn là người cũng rất biết cách chiều lòng người Bạn khá là thông minh, có nhiều ưu điểm tốt và có thể nói bạn la ƯỚC MƠ của nhiều người. Tuy nhiên: Mệnh có Hồng Loan đi cùng Thiên Riêu, Thiên y,Thiên không, Đà La, Tuyệt thì bạn không thể tránh khỏi những u buồn trong tính duyên cũng như sự vương vấn trong nghề nghiệp của bạn. Cái u buồn đến với bạn chính là do bản chất vốn có của bạn mang tới. có cấu " chữ tài đi với chữ tai một vần " hay là" Hồng nhan bạc phận "hay nặng hơn nữa là" Hồng nhan bạc mệnh ". Câu nói trên tuy không phải là luôn đúng nhưng nó có sự ứng nghiệm với từng trường hợp. Tôi đã xem qua lá số của bạn và nhận thấy có những vấn đề đáng lưu tâm tới bên cạnh những cái tốt thì cái xấu luôn đi cùng. Kết hợp với các cung khác như Quan Lộc có Liêm Trinh, Đào hoa, Phu có Thiên khôi, Địa kiếp, Phá quân thì dù các sao này có ở vị trí đẹp nhưng bản chất vẫn là ác tinh, Hung tinh thì vẫn có ảnh hưởng đáng kể. Nhưng người bạn yêu, bạn mến thì có rất nhiều và tất cả họ đều là những người có thể nói là có đầu óc, bản lĩnh. Tuy nhiên chính vì điều này, kết hơp với các cung liên đới, chi phối Bản Mệnh và Thân của bạn thì bạn thì có thể nói rằng : Bạn là người tài giỏi, có nhan sắc, nếu bạn theo ngành y thì tốt, và bạn là người có lối sống thoáng, tình duyên đến rồi lại đi. Bạn lên muộn lập gia đình thì sẽ tốt hơn. Đó là sự nhận định qua lá số của bạn cung cấp. Kinh nghiệm và kiến thức của minh còn non trẻ,nếu có gì mà sai thì mong đương số và các khách tham quan góp ý kiến để mình có thể tham khảo, trang bị thêm, sửa chữa những khuyết điểm của mình.1 like
-
Có lẽ VTB đã trải qua cảm xúc này nên hiểu rõ như vậy. Sao chúng ta không khách quan đón nhận 1 góc độ khác qua sự phân tích diễn biến tâm lý mà VTB đã đặt ra phía trên? khá logic. Chỉ vậy thôi. VTB chỉ đề cập cho chúng ta thấy 1 góc độ khác - thậm chí là đối lập-để nhìn sự việc 1 cách toàn vẹn tất cả mọi mặt. Cảm ơn bạn Crescent đánh giá cao thái độ ôn hoà và bình tĩnh của bạn trước những lời bình quá khích. Có lẽ bạn đã phải trả giá đắt cho sự nóng giận của mình trong quá khứ mới có được ngày hôm nay?1 like
-
Yêu nhiều người và nhiều người yêu? đay là số của bạn . nhưng nếu biết cách sau này lấy được thằng chồng tốt1 like
-
5. Sử Ký- Thiên Quan Thư: Sử ký là bộ sách kinh điển của phương Đông. Đó là tư liệu rất quý về Thiên văn cổ đông phương bởi vì chương Thiên Quan thư đã ghi chép tỉ mỉ và cẩn thận những quan trắc thiên tượng và những nghiên cứu về Thiên Văn từ đời thái cổ đến những năm trị vì của Hán Vũ đế (141-87). Xin được giới thiệu bản dịch Tiếng Việt của chương Thiên Quan thư để mọi người tham khảo. I. TRUNG CUNG (các vì sao quanh Bắc Cực) Ở Trung Cung,[2] sao Thiên Cực[3] sáng nhất. Đó là sở cư của Thái Nhất.[4] Bên cạnh là 3 ngôi sao, gọi là Tam Công[5] hay Tử Thuộc. Phía sau, xếp theo hình cong, có 4 sao: sao phía sau cùng sáng nhất là Chính Phi, còn 3 sao kia cũng thuộc về hậu cung.[6] Chung quanh có 12 sao hợp thành một đội cận vệ, gọi là Phiên Thần. Tất cả (4 chòm sao nói trên: Thiên Cực, Tử Thuộc, Tứ Phụ, Phiên Thần) là Tử Cung.[7] Phía trước[8] xếp thẳng hàng với miệng Bắc Đẩu (le Boisseau) là 3 ngôi sao hợp thành một hình nhọn, đầu hướng về phía Bắc, lúc ẩn, lúc hiện, gọi là Âm Đức[9] hay Thiên Nhất.[10] Phía tả Tử Cung có 3 sao gọi là Thiên Thương (cây giáo trời). Phía hữu có 3 sao gọi là Thiên Bảng (gậy trời dùng để đánh).[11] Phía sau có 6 sao, băng qua sông Ngân Hà đến tận chòm sao Doanh Thất,[12] nên gọi là Các Đạo (đường treo).[13] Bắc Đẩu gồm 7 sao, đã được Thư Kinh đề cập đến khi nói rằng (vua Thuấn) quan sát tuyền ki và ống ngọc hành để điều chỉnh thất chính.[14] Sao Tiêu gần với sao Giác.[15] Sao Hành dẫn tới chòm sao Nam Đẩu.[16] Sao Khôi dựa vào chòm sao Sâm.[17] (Xem lời giải về đoạn này của Joseph Needham dưới đây.)[18] Nếu xem sao vào chập tối, sẽ thấy sao Tiêu Tử khoảng núi Hoa đến Tây Nam. Nếu xem sao vào nửa đêm, sẽ dùng sao Hành làm chuẩn. Sao Hành ở giữa khoảng miền Trung Châu, giữa sông Hoàng Hà và sông Tế. Buổi sáng nhìn sao Khôi. Sao Khôi ở giữa miền biển, núi Đại, và phía Đông Bắc.[19] Chòm sao Bắc Đẩu là xe trời. Nó vận chuyển ở trung ương, chỉ huy bốn phương, phân Âm Dương, định bốn mùa, điều hòa ngũ hành, chi phối mọi sự, chuyển hó`a thời tiết, định độ số trời. Ở đầu sao Khôi có 6 sao xếp theo hình vuông, gọi là Văn Xương. Sao thứ nhất là Thượng Tướng, sao thứ hai là Thứ Tướng, sao thứ ba là Quí Tướng, sao thứ tư là Tư Mệnh (định vận mệnh), sao thứ năm là Tư Trung (coi về nội vụ), và sao thứ sáu là Tư Lộc (coi về tưởng thưởng). Ở khoảng giữa nhửng sao Khôi Đẩu[20] là nhà lao giam những bậc quí nhân. Ở phía dưới sao Khôi có 6 sao xếp thành từng đôi một, gọi là Tam Năng (Tam Thai). Nếu sao Tam Thai mà sáng đều, quân thần sẽ hòa hợp; nếu không sáng đều, quân thần sẽ gàng quải, xung đột. Nếu sao Phụ mà sáng, thì các quan đại thần sẽ mạnh; nếu sao Phụ mà nhỏ thì đại thần nhát sợ và yếu. Ở đầu sao Tiêu có hai sao: Một sao phía trong là Mâu, hay Chiêu Diêu; một sao phía ngoài là Thuẫn, hay Thiên Phong. Ngoài ra, còn có 15 sao hợp thành một vòng tròn, cũng thuộc sao Tiêu, gọi là tiện nhân chi lao (lao tù của người hèn). Nếu sao ở giữa chòm mà sáng, thì tù nhân sẽ nhiều; nếu mờ thì tù nhân sẽ ít. Nếu sao Thiên Nhất, Thiên Bảng, Mâu, Thuẫn mà lấp lánh nhiều và tỏa ra nhiều tia sáng, thì sẽ có giặc giã lớn. II. ĐÔNG CUNG (Bàn về 7 chòm sao: Giác, Cang, Đê, Phòng, Tâm, Vĩ, Cơ) Đông Cung Thanh Long có các chòm sao Phòng, Tâm. (1) Tâm là Minh Đường. Sao lớn nhất là Thiên Vương (Antarès). Sao phía trước và sao phía sau nó là các sao con gái. Ba sao này không nên thẳng hàng nhau. Nếu thẳng hàng nhau, thì sao Thiên Vương sẽ sai lầm trong mưu tính. (2) Sao Phòng là Phủ Khố, cũng gọi là Thiên Tứ (sao Tứ mã nhà trời). Sao về phía Bắc nhất là con ngựa phía bên phải nhất của cỗ xe. Cạnh nó có hai ngôi sao gọi là Kiềm. Phía Bắc có một sao gọi là Hạt. Ở phía Đông Bắc có 12 sao, xếp thành hình cong gọi là Kì (cờ). Bốn vì sao giữa chòm sao Kì gọi là Thiên Thị. Sáu ngôi sao ở giữa gọi là Thị Lâu. Nếu ở trong Thiên Thị mà có nhiều sao, thì dân chúng buôn bán phát tài. Nếu ít sao thì sẽ bị hư hao. Phía Nam chòm sao Phòng là Kị Quan. (3) Phía tả sao Giác là sao Lý (Thiên Điền), phía hữu là sao Tướng (Thiên Môn). Sao Đại Giác (Arcturus du Bouvier) là Thiên Vương đế đình. Mỗi phía cạnh sao Đại Giác đều có 3 sao như hình chân vạc, gọi là Nhiếp Đề. Nhiếp Đề chỉ thẳng vào miền sao Tiêu của Bắc Đẩu chi, vì thế gọi là Nhiếp Đề cách. (4) Sao Cang là Sơ Miếu, chủ tật bệnh. Phía Nam và phía Bắc sao Cang có hai sao sáng gọi là Nam Môn. (5) Sao Đê là Thiên Căn, chủ ôn dịch. (6) Nhóm sao Vĩ gồm 9 sao. Nếu những sao này mà hoặc mờ hoặc sáng thất thường thì vua tôi sẽ lục đục bất hòa. (7) Chòm sao Cơ còn gọi là Ngạo Khách, chủ khẩu thiệt. Nếu Hỏa Tinh phạm vào địa phận sao Giác, sẽ có chinh chiến. Nếu thấy sao Hỏa phạm vào không phận sao Phòng, Tâm, thì vua chúa cũng rất lo ngại. III. NAM CUNG (Bàn về Thái Vi viên và 7 sao Tỉnh, Quỉ, Liễu, Tinh, Trương, Dực, Chẩn; và Hiên Viên kỳ) [Thái Vi viên][21] Nam Cung Chu Điểu gồm có hai chòm sao tiêu biểu là Quyền và Hành. Hành tức là sân đình Thái Vi của Tam Quang. 12 sao xếp thành hàng vây quanh gọi là Phiên Thần. Phía Tây gọi là Tướng (võ), phía Đông gọi là Tướng (văn). Phía Nam có 4 sao gọi là Chấp Pháp. Ở giữa là Đoan Môn, hai bên là Dịch Môn. Trong cửa có 6 sao, gọi là Chư Hầu. Trong nữa, có Ngũ Đế Tọa. Phía sau có một chòm sao dày, gồm 15 sao, gọi là Lang Vị. Cạnh đó có một sao lớn gọi là Tướng Vị (Lang Tướng). Nếu mặt trăng và Ngũ Tinh vào vùng Thái Vi thuận chiều (tức là từ phía Tây lại), và ra thuận chiều, ta sẽ để ý chỗ chúng ra nơi đâu, nhà vua sẽ chém giết ở đó. Nếu chúng mà vào ngược chiều (tức là từ phía Đông lại) và phạm vào Đế Tọa, thì biết rằng bầy tôi sẽ mưu loạn. Nếu Kim Tinh và Hỏa Tinh phạm vào Thái Vi thì lại càng tệ hơn nữa. Phía Tây hàng sao Phiên Thần có 6 sao gọi là Thiếu Vi, chia thành Sĩ và Đại Phu. [Hiên Viên Kỳ] Chòm sao Hiên Viên. Hiên Viên tức là mình con rồng vàng. Trước nó có một ngôi sao lớn gọi là Nữ Chủ (Régulus). Nếu mặt trăng và Ngũ Tinh phạm vào chòm sao Quyền (Hiên Viên), thì hay và dở cũng y như là đối với chòm sao Hành. [7 sao: Tỉnh, Quỉ, Liễu, Tinh, Trương, Dực, Chẩn] (1) Chòm sao Đông Tỉnh chủ về nước. Phía Tây nó có một ngôi sao gọi là Việt. Phía Bắc sao Việt là sao Bắc Hà. Phía Nam sao Việt là sao Nam Hà. (2) Chòm sao Dư Quỉ chủ sự cúng tế tổ tiên. Ở giữa chòm sao này thấy có vệt trắng, đó là Chất. Nếu sao Hỏa Tinh mà ở nơi các sao Nam Hà và Bắc Hà, thì sẽ xảy ra binh đao, mất mùa. Như vậy nếu có đức, thì thấy [sao Hỏa] ở chòm sao Hành, muốn coi điềm thì xem [sao Hỏa] ở chòm sao Hoàng. Sao Hỏa mà ở nơi sao Việt thì sẽ thất trận; sao Hỏa ở nơi chòm sao Quỉ sẽ có sự tàn sát. Nếu sao Hỏa ở chòm sao Tỉnh, sẽ có tai họa. (3) Sao Liễu là mỏ chim (Chu Tước) chủ về cây cỏ. (4) Chòm sao Thất Tinh hay Cảnh là cổ chim (Chu Tước) chủ về những chuyện cấp thời. (5) Trương hay Tố, là cái diều [chim], chủ bếp nước và yến tiệc. (6) Dực là lông cánh, chủ về viễn khách. (7) Chẩn là cỗ xe, chủ gió. Cạnh nó có một sao gọi là Trường Sa. Trường Sa thường không sáng. Nếu sáng thì cũng sáng tỏ như 4 vì sao khác trong chòm sao Chẩn. Phía Nam sao Tỉnh có nhiều sao, gọi là Thiên Khố Lâu. Khố Lâu có 5 xe. Nếu chúng chiếu sáng, tăng thêm số sao, thì sẽ không có đủ chỗ để chứa xe và ngựa. IV. TÂY CUNG (Bàn về chòm sao Hàm Trì và 7 sao: Khuê, Lâu, Vị, Mão, Tất, Chủy, Sâm) [Chòm sao Hàm Trì: le Cocher] Tây Cung là Hàm Trì. Người ta còn gọi nó là Thiên Ngũ Hoàng hay Ngũ Đế Xa Xá (nhà chứa 5 xe của vua). Nếu sao Hỏa vào đó, sẽ xảy ra hạn hán. Nếu sao Kim Tinh vào đó, sẽ xảy ra lụt lội. Ở giữa có sao Tam Trụ. Nếu Tam Trụ không đủ 3 sao, sẽ xảy ra chiến tranh. [7 sao: Khuê, Lâu, Vị, Mão, Tất, Chủy, Sâm] (1) Sao Khuê cũng gọi là Phong Thỉ, chủ ngòi lạch. (2) Sao Lâu chủ về quần chúng tập hợp. (3) Sao Vị là kho trời. Phía Nam sao Vị có một chòm sao gọi là Quái Tích (đống cỏ khô). (4) Sao Mão cũng gọi là sao Mao Đầu, là sao của rợ Hồ, chủ về tang tóc. (5) Sao Tất cũng gọi là sao Hãn Xa (xe săn), chủ về giặc giã nơi biên thùy, hoặc săn bắn. Gần một vì sao lớn của chòm sao này, có sao Phụ Nhĩ. Nếu sao Phụ Nhĩ mà sáng, thì sẽ có những bầy tôi xàm loạn bên cạnh vua. Giữa sao Mão và Tất có sao Thiên Nhai (đường trời). Phía Bắc nó là các nước thuộc Âm, phía Nam nó là các nước thuộc Dương. (6) Sâm là Bạch Hổ. ba sao thẳng hàng gọi là Hành Thạch. Dưới có 3 sao hình nhọn, gọi là Phạt, chủ về trảm quyết. Bốn sao phía ngoài là hai vai, hai đùi trái phải. Ba sao xếp thành hình nhọn gọi là Trủy Huề. Trủy Huề là đầu hổ, chủ về quân lữ và bảo vệ đất đai. Ở dưới chúng có 4 sao gọi là Thiên Sí. Dưới sao Thiên Sí có sao Thiên Thỉ. Nếu có màu vàng thì tốt; nếu có màu trắng thì hung. (7) Ở phía Tây chòm sao Chủy có các sao hợp thành các đường khúc khuỷu, từng chòm sao một. Một chòm gọi là Thiên Kỳ, một chòm gọi là Thiên Uyển, một chòm gọi là Cửu Du. Ở phía Đông các sao ấy có một sao sáng lớn gọi là sao Lang. Nếu sao Lang chiếu sáng hay thay mầu, sẽ có nhiều đạo tặc. Ở dưới sao Lang có 4 sao gọi là Hồ, chiếu thẳng vào sao Lang.[22] Đối ứng với sao Lang có một sao lớn gọi là Nam Cực Lão Nhân.[23] Khi sao này sáng tỏ, sẽ bình trị. Nếu không thấy nó, sẽ có binh biến. Thường người ta hay ra Nam giao (cánh đồng phía Nam) để xem sao này vào ngày Thu Phân. Nếu sao Phụ Nhĩ mà tiến gần với sao Tất, sẽ có binh biến. V. BẮC CUNG (Nói về các sao: Đẩu Ngưu, Nữ, Hư, Nguy, Thất, Bích) Bắc cung gọi là Huyền Vũ, đặc biệt tượng trưng bởi hai sao Hư và Nguy. (1) Nguy chủ về mái nhà. (2) Hư chủ về than khóc. Ở phía Nam có một chòm sao gọi là Vũ Lâm Thiên Quân. Phía tây chòm sao đó có chòm sao Lũy, nhiều khi còn gọi là Việt. Cạnh đó có một sao lớn gọi là Bắc Lạc (Fomalhaut du Poisson Austral). Nếu Bắc Lạc mà mờ, thì sẽ hao binh. Nếu sao Bắc Lạc mà không tỏa sáng đủ, hay nếu ngũ tinh mà phạm vào chòm sao Bắc Lạc hoặc Vũ Lâm Thiên Quân, thì sẽ có chuyện hưng binh. Thủy, Hỏa, Kim Tinh mà phạm vào thì lại càng tệ. Hỏa Tinh phạm, sẽ hao binh. Thủy Tinh phạm, quân sĩ sẽ phải lo lường. Thổ và Mộc Tinh đóng vào, quân sĩ sẽ gặp may. Ở phía Đông chòm sao Nguy có 6 sao gọi là Tư Không (đúng ra phải gọi là Tư Mệnh). (3) Chòm sao Doanh Thất là Thanh Miếu, là Ly Cung, hay Các Đạo. Ở giữa giải Ngân Hà có 4 sao gọi là Thiên Tứ. Ở cạnh nó có một sao gọi là Vương Lương.[24] Khi Vương Lương mà đánh ngựa, thì binh mã sẽ chật đồng. Gần đó có 8 sao gọi là Thiên Hoàng. Cạnh Thiên Hoàng có Giang Tinh. Nếu sao đó mà giao động, thì người ta phải lội sông. Chử Cửu là 4 sao phía Nam sao Nguy. Khi sao Bào Qua bị hànmh tinh xanh hay đen đóng vào, thì cá và muối sẽ đắt. (4) Chòm sao Nam Đẩu là miếu mạo. Phía Bắc nó có chòm sao Kiến Tinh, và Kiến Tinh có hình lá cờ. (5) Sao Khiên Ngưu chủ về vật hi sinh. Phía Bắc nó có chòm sao Hà Cổ. Sao lớn là Thượng Tướng, hai sao tả hữu là Tả Tướng và Hữu Tướng. (6) Ở phía Bắc Vụ Nữ có sao Chức Nữ. Chức Nữ là cháu gái trời.[25] VI. NHẬT NGUYỆT VÀ NGŨ TINH (Mặt trời, mặt trăng và 5 hành tinh: Kim. Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ) * Mộc Tinh (Tuế Tinh: Jupiter) Người ta quan sát sự vận hành của mặt trời, mặt trăng để định xem Tuế Tinh đi thuận hay nghịch ra sao. Tuế Tinh (Mộc Tinh) ứng với phương Đông, mùa Xuân, và các ngày Giáp Tí. Nếu làm điều trái lẽ, Tuế Tinh sẽ gia phạt. Khi Tuế Tinhđi nhanh hay chậm, nó sẽ định vận mệnh quốc gia tương ứng với cung nó đang ở. Nước nào mà nó đang chiếu vào, thì không thể bại trận, trái lại có thể đi chinh thảo. Tuế Tinh đi nhanh quá thì gọi là Doanh; đi chậm quá thì gọi là Súc. Nếu đi nhanh quá (doanh) thì quốc gia tương ứng sẽ có chiến tranh và suy yếu; nếu nó đi chậm quá (súc) thì quốc gia tương ứng sẽ bị lao lung, tu7ớng soái sẽ bị chết. Nếu Tuế Tinh mọc đúng chỗ, lại hội cùng ngũ tinh, thì quốc gia tương ứng sẽ có thể dựa theo lẽ phải mà được Thiên hạ. * Chu kỳ 12 năm của Tuế Tinh [Năm thứ I]: Năm Nhiếp Đề Cách Tuế Âm (Thái Tuế) chuyển về phía trái và ở cung Dần. Tuế Tinh chuyển phía phải và đóng ở cung Sửu. Tháng Giêng vào buổi sáng, Tuế Tinh sẽ mọc ở phía Đông, nơi các chòm sao Đẩu và Khiên Ngưu, có tên là Giám Đức. Sắc xanh và sáng. Nếu nó mọc sai chỗ và nếu nó mọc nơi chòm sao Liễu thì đầu năm đó sẽ mưa nhiều, cuối năm đó sẽ nắng nhiều. Tuế Tinh mọc, tiến về phía Đông 12o. Sau 100 ngày dừng lại, rồi thoái. Thoái 8o. Sau 100 ngày lại tiến về phía Đông. Trong một năm nó đi được 30o 7/16 và như vậy mỗi ngày di chuyển trung bình là 1/12o. Trong vòng 12 năm nó đi được một vòng trời. Bao giờ nó cũng mọc ở phía Đông lúc bình minh, và lặn về phía Tây lúc chập tối. [Năm thứ 2]: Năm Đơn Ất Tuế Âm ở Mão, Tuế Tinh ở Tí. Tháng Hai mọc phía Đông, buổi sáng, nơi chòm sao Vụ Nữ, Hư, Nguy. Có tên là Giáng Nhập. Nếu mọc không đúng chỗ, mà lại mọc nơi chòm sao Trương thì gọi là Giáng Nhập. năm đó nước lớn. [Năm thứ 3]: Năm Chấp Từ Tuế Âm ở Thìn. Tuế Tinh ở Hợi. Tháng Ba mọc buổi sáng nơi chòm sao Doanh Thất, Đông Bích, gọi là Thanh Chương. Ánh sáng rất xanh, rất sáng. Nếu nó mọc sai chỗ và mọc ở chòm sao Chẩn thì gọi là Thanh Chương. Năm đó đầu năm hạn hán, cuối năm nước to. [Năm thứ 4]: Năm Hoang Lạc Tuế Âm ở Tị, Tuế Tinh ở Hợi. Tháng Tư, sáng sớm mọc nơi chòm sao Khuê, Lâu, Vị, Mão, gọi là Biền Chủng. Có màu đỏ. Nếu nó mọc sai chỗ, không đúng cách, thì sẽ mọc nơi chòm sao Cang. [Năm thứ 5]: Năm Đôn Tàng Tuế Âm ở Ngọ, Tuế Tinh ở Dậu. Tháng Năm, mọc nơi chòm sao Vị, Mão, Tất, vào lúc buổi sáng, gọi là Khai Minh. Nó sáng rực. Không nên chinh chiến, vì chỉ lợi cho vương công mà không lợi cho tướng soái. Nếu mọc sai chỗ, không đúng cách, nó sẽ mọc nơi chòm sao Phòng. Năm đó thì đầu năm nắng nhiều, cuối năm nước lớn. [Năm thứ 6]: Năm Hiệp Hiếp Tuế Âm ở Mùi, Tuế Tinh ở Thân. Tháng Sáu, mọc ở chòm sao Chủy, Huề, Sâm; gọi là Trường Liệt. Sáng láng. Nếu mọc sai chỗ thì sẽ mọc nơi chòm sao Cơ. [Năm thứ 7]: Năm Huân Than Tuế Âm tại Thân, Tuế Tinh tại Mùi. Tháng Bảy, sáng sớm mọc nơi chòm sao Đông Tỉnh, Dư Quỉ; gọi là Thiên Âm. Nếu mọc sai chỗ, sẽ mọc nơi chòm sao Thiên Ngưu. [Năm thứ 8]: Năm Tác Ngạc Tuế Âm tại Mão, Tuế Tinh tại Ngọ. Tháng Tám, mọc nơi các chòm sao Liễu, Thất, Tinh, Trương; gọi là Vi Trường Vương. Nếu sáng lóe thành tia thì quốc gia tương ứng sẽ thịnh và sẽ được mùa lúa. Nếu nó mọc sai chỗ và mọc ở chòm sao Nguy thì gọi là Đại Chương, nắng nhiều nhưng thịnh vượng. Đàn bà chết nhiều, dân chết nhiều. [Năm thứ 9]: Năm Yêm Mậu Tuế Âm tại Tuất, Tuế Tinh tại Tỵ. Tháng Chín, Tuế Tinhmọc nơi chòm sao Dực, Chẩn; gọi là Thiên Huy, sáng và trắng. Nếu mọc sai chỗ sẽ mọc nơi chòm sao Đông Bích. Năm đó mưa nhiều, con gái chết nhiều. [Năm thứ 10]: Năm Uyên Hiến Tuế Âm tại Hợi, Tuế Tinh tại Thìn. Tháng Mười, Tuế Tinh mọc nơi chòm sao Giác, Cang; gọi là Đại Chương. Nếu sao sáng xanh và lấp lánh nhiều và nếu hiện ra vào lúc rạng đông thì gọi là Chính Bình. Nên xuất binh chinh phạt. Quốc gia tương ứng sẽ có và lấy được Thiên hạ. Nếu mọc sai chỗ, sẽ mọc nơi chòm sao Lâu. <Trong nguyên bản thiếu năm thứ 11> [Năm thứ 12]: Năm Xích Phấn Nhược Tuế Âm ở Sửu, Tuế Tinh ở Dần. Tháng 12, ban sáng mọc ở chòm sao Vĩ, Cơ; gọi là Thiên Hạo, sắc sẫm và sáng. Nếu mọc sai chỗ, sẽ mọc nơi chòm sao Sâm. * Những điềm do Tuế Tinh Nếu Tuế Tinh mọc sai chỗ, hay mọc đúng chỗ nhưng lại giao động lúc phải lúc trái, hay khi chưa đáng ra đi mà ra đi, lại hội với các sao khác, thì quốc gia tương ứng sẽ gặp điều hung. Nếu Tuế Tinh mọc trên không phận nước nào lâu, nước ấy có đức. Nếu nó chiếu thành tia hay giao động, lúc to lúc nhỏ, nếu màu sắc thay đổi luôn, thì vị vua của nước tương ứng đang gặp điều buồn. Nếu nó mọc sai chỗ, thì kết quả như sau: - Nếu nó tiến về phía Đông Bắc, thì 3 tháng sau sẽ sinh ra sao chổi Thiên Bảng, dài 4 thước và đầu nhọn. - Nếu nó thoái về phía Tây Bắc, thì 3 tháng sau sẽ sinh ra sao chổi Thiên Sam, dài 4 trượng và có đuôi nhọn. - Nếu nó thoái về phía Tây Nam, thì 3 tháng sau sẽ sinh ra sao chổi Thiên Thương, dài vài trượng và có hai đầu nhọn. Người ta sẽ quan sát cẩn thận xem các hiện tượng ấy xảy ra trên không phận nước nào, vì những nước đó sẽ không được dụng binh. Nếu nó hiện ra mà khi nổi khi chìm, thì quốc gia tương ứng đang xây đắp nhiều. Nếu nó hiện ra chìm rồi lại nổi, thì quốc gia tương ứng sẽ mất. Nếu nó có sắc đỏ và sáng, thì quốc gia tương ứng sẽ thịnh. Ai mà tiến ngược chiều ánh sáng nó, sẽ thất trận. Nếu Tuế Tinh đỏ, vàng, nếu chìm, thì vùng đất tương ứng sẽ phì nhiêu. Nếu xanh, hay trắng, hay đỏ sẫm, thì vùng đất tương ứng sẽ có ưu khổ. Nếu Tuế Tinh khuất sau mặt trăng thì vùng đất tương ứng sẽ có vị thừa tướng bị thải hồi. Nếu nó giao tranh với sao Thái Bạch (Kim Tinh) thì quân đội vùng quốc gia tương ứng sẽ bị tan tác. Tuế Tinh còn có tên là: Nhiếp Đề, Trùng Hoa, Ứng Tinh, Kỹ Tinh. Chòm sao Doanh Thất là Thanh Miếu. Tuế Tinh là Miếu. CHÚ THÍCH [1] Bản tuyển dịch Sử Ký Tư Mã Thiên của Giản Chi và Nguyễn Hiến Lê (nxb Lá Bối, trước 1975; nxb Văn Học tái bản 1994) và bản tuyển dịch của Nhữ Thành (nxb Văn Học, 1988) đều bỏ qua chương Thiên Quan này. (Phụ chú năm 2007) [2] Xin xem bản đồ sao Trung Cung. [3] Thiên Cực: Bắc Thần. [4] Thái Nhất: Thượng Đế. [5] Tam Công tương ứng với 3 vị quan lớn trong triều vua dưới trần gian: Tư Đồ, Tư Không, Thái Úy. Tứ Bộ Bị Yếu cho rằng: Tam Công ở gần chuôi sao Bắc Đẩu. Vì thế trong bản đồ sao, tôi vẽ Tam Công ở gần sao Bắc Đẩu. [6] Còn gọi là Tứ Phụ. [7] Tử Vi cung, Tử Vi viên. [8] Phía trước tức là Nam Tử cung. [9] Gọi là Âm Đức vì chủ về ban ân. [10] Thiên Nhất tướng ứng với sao a du Dragon. [11] Gồm một số sao trong chòm Le Dragon và trong chòm Hercule. [12] Doanh Thất: a b Du Pégase. [13] Các Đạo: thuộc chòm sao Cassiopée. [14] Trong chương 3 (Dụng cụ và phương pháp dùng trong thiên văn học cổ Trung Hoa) tôi đã giải thích Thất Chính trong câu: «Tuyền ki dĩ tề thất chính» của Thư Kinh là Bảy sao Bắc Đẩu. Nơi đây ta cũng thấy Tư Mã Thiên cũng đồng quan điểm. Như vậy Thất chính trong thiên văn có hai nghĩa: (1) Bảy ngôi sao của Bắc Đẩu (như đã nói trên), (2) Mặt trời, mặt trăng, và 5 hành tinh (Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ) trong nhiều trường hợp khác. [15] Giác: Épi de la Vierge. [16] Các sao trong chòm Sagittaire. [17] Một số sao thuộc chòm Orion. [18] Joseph Needham, Science and Civilisation in China, vol 3, p.233, giải đoạn này như sau: «Nếu ta kẻ một đường thẳng từ sao Thiên Cực (Bắc Thần) đến sao Khai Quang, lại kẻ một đường thẳng từ sao Thiên Đế tinh (b Ursae Minoris) đến sao Tiêu, hai đường thẳng ấy sẽ gặp nhau tại sao Giác. Nếu kẻ một đường thẳng từ sao Hành song song với hai sao Ki Tinh và Quyền Tinh, sẽ gặp nhau chòm sao Nam Đẩu. Nếu kẻ hai đường thẳng, một nối liền Quyền Tinh, Khu Tinh; một nối liền Ki Tinh, Tuyền Tinh, thì hai đường thẳng ấy sẽ dẫn đến chòm sao Sâm.» [19] Edouard Chavannes trong quyển Mémoires concernant l’Asie Orientale, Tome I, nơi chú thích 1 (tr. 53) có bình luận rất dài về cách dùng sao Tiêu, Hành, Khôi của người xưa. Đại khái thì người Trung Hoa cho rằng mỗi một tháng chuôi sao Bắc Đẩu (sao Tiêu) lại chỉ vào một điểm nào đó nơi chân trời, và điểm ấy sẽ nằm một trong 12 cung: Tí, Sửu, Dần, Mão, v.v. Ví dụ tháng giêng chuôi sao Bắc Đẩu lúc chập tối chỉ cung Dần. Các sách Bốc Dịch gọi thế là Nguyệt Kiến. Và như vậy, nếu 6 giờ chiều sao Tiêu chiếu thẳng vào cung Dần, thì đến 12 giờ đêm, sao Hành sẽ chiếu thẳng vào cung Dần, 6 giờ sáng hôm sau, sao Khôi sẽ chiếu thẳng vào cung Dần. [20] Sao Khôi chỗ này gồm cả 4 sao: Khu, Tuyền, Ki, Quyền. [21] Thái Vi viên gồm nhiều sao thuộc các chòm sao Chiens de chasse, Lion, và Vierge. [22] Sao Hồ ứng với sao Wezen du Grand Chien. [23] Nam Cực Lão Nhân tức là sao Canopus. [24] Vương Lương thuộc chòm sao Cassiopée. [25] Ta không thấy Tư Mã Thiên đề cập sao Bích.1 like
-
Trường hợp này cần coi lại toàn bộ nhà ở đất ở! Khả năng âm khí nặng!1 like
-
1 like
-
yeah, giữa 1 rừng hoa thì có hoa thơm hoa thúi lẫn lộn...1 like
-
1 like
-
vâng ! Rin tuổi bính dần và sinh vào Xuân nên tiền vận khá là lận đận , nhất là về khổ về tâm ! khoảng 32 tuổi sẽ bắt đầu thấy thuận lợi và nhiều cơ hội , nhưng phải khéo làm ăn , tính toán thì mới mong hậu vận trở thành "đại gia" :lol: hihi ... vài lời chia sẽ . chúc Rin vui nhé - Và xin anh chị em dành tí thời gian gieo giúp mình 1 quẻ xem tháng 10AL này . Mình có làm ăn tốt không nhé ? và có dư không nhé :D (quan trọng là cái vụ dư này hihi ) Chúc tất cả anh chị em an lạc ! uhm ! vậy là cũng có cái đúng và cái xém đúng :D hihi !... chúc NDK vui và làm việc tốt nhé1 like
-
Sinh con thứ 2 năm Tân mão 2011 tốt! sinh mùa xuân hoặc mùa đông là tốt nhất! Sinh con Tân Mão hoặc Giáp Ngọ. Tân Mão, Nhâm Thìn hoặc Quý TỴ đều được. Ất mùi mạng mẹ khắc mạng con, xấu! Mẹ mạng Hỏa theo Luận Tuổi Lạc Việt, mạgn Thủy là theo sách Tàu! Năm Quý Tỵ 2013! Sinh Nhâm Thìn tứ mộ nhưng con với mẹ không hợp thì sao mà Đại Cát được. Nên sinh năm Tâm Mão để hóa giải xung mạng cha và mẹ! Sinh Bính Thân 2016 hoặc Đinh Dậu 2017!!!1 like
-
Thí dụ trường hợp ta là một người Phật giáo và phải chăm lo cho một người hấp hối theo một tôn giáo khác, Thiên chúa chẳng hạn. Vậy phải làm thế nào ? Đối với Phật giáo thì niệm hồng danh Đức Phật sẽ mang lại lợi ích, bất cứ ai được nghe tiếng niệm Phật sẽ tiếp nhận được điều lành. Vậy có nên làm như thế đối với người hấp hối theo Thiên Chúa giáo hay không ? Đây cũng lại đòi hỏi ta phải suy nghĩ cẩn thận và hành động khéo léo, phải suy nghĩ cẩn thận xem như thế có tạo ra nguy cơ làm cho tình thế trở thành tệ hại hơn hay không ? Nếu như ta nghĩ rằng niệm hồng danh Đức Phật là điều tốt thì cũng không bắt buộc phải niệm to tiếng, chỉ cần khe khẽ niệm bên tai người hấp hối hoặc chỉ cần giữ sự yên lặng cũng đủ. Không bắt buộc phải hét thật to vào tai người sắp ra đi nhất là nhắc nhở đến những gì thuộc Phật giáo điều đó có thể làm cho người hấp hối không thích. Khi còn phân vân vì không hiểu được tính khí người sắp ra đi và không thể quyết định được phải xử trí ra sao thì tốt hơn là không nên làm. Đối với chúng ta khi nghe niệm hồng danh của Đức Phật cũng cảm thấy an bình ngay tức khắc, tuy nhiên nếu việc ấy làm phật ý hay bất mãn cho người hấp hối thì nhất định là không nên. Đến đây thì cũng nên đề cập đến trường hợp một người Phật giáo lo cho một nguời Phật giáo. Trong trường hợp này thì phải làm gì ? Thật ra tất cả đều tùy thuộc vào người hấp hối. Nếu đấy là một người đã chuẩn bị cho mình từ trước thì ta chẳng cần phải giúp đỡ. Nếu biết họ hội đủ khả năng thì cứ để cho họ tự thiền định một mình khi ra đi. Tuy nhiên cũng có thể gặp trường hợp một người tu tập chưa được tinh thông thì trong trường hợp này phải giúp đỡ thêm cho họ. Trước hết phải tìm hiểu xem trước đây họ tu tập theo các phương pháp nào. Nếu biết được vị Thần linh hộ mệnh và các phương pháp tu tập của họ thì nên nhắc lại cho họ nghe để theo đó mà họ tự thiền định trong khi quá trình của cái chết đang tiếp diễn. Nếu biết được đúng vị Phật nào hộ mệnh cho họ và các kỹ thuật tu tập trước đây của họ thì tốt nhất, hãy nhắc đến vị Phật ấy và kỹ thuật ấy. Dù bất cứ trong trường hợp nào thì cũng nên nhớ là cố gắng giúp người hấp hối tạo ra cho họ một tâm thức lợi ích đúng vào lúc trước khi lìa đời. Thể dạng tâm thức ấy có thể là một thể dạng tràn đầy sự tin tưởng, tình thương yêu, lòng từ bi, sự bao dung, hay bất cứ một phẩm tính nào khác. Trong khi ra đi thì thể dạng tâm thức đó phải hiện lên và xâm chiếm tâm thức họ. Vậy sự giúp đỡ sẽ hữu hiệu nhất vào thời điểm nào trong quá trình của cái chết ? Theo Phật giáo thì sự sống tiếp tục kéo dài cho đến khi nào cơ sở vật chất còn đủ sức chống đỡ cho tâm thức. Tất cả mọi sinh linh đều được cấu tạo bằng một số yếu tố vật chất và tâm thần kết hợp với nhau trong giây phút thụ thai. Sau đó thì sự sống sẽ kéo dài cho đến khi nào sự kết hợp đó còn tiếp tục tồn tại. Quá trình của cái chết là sự tan rã của nó. Vào đúng lúc quá trình của cái chết bắt đầu thì các thành phần tạo ra một cá thể sẽ phân tán. Các thành phần đó gồm có đất (vật liệu cứng), nước, khí và lửa (hơi nóng, sinh khí) và thêm vào đó thành phần tri thức. Thật ra thì đấy chỉ là các thuật ngữ sử dụng nhằm mục đích mô tả hiện tượng tan biến thuộc quá trình của cái chết mà thôi. Các thành phần ấy mất dần khả năng chống đỡ cho tri thức tức là tâm thần của một cá thể con người, đến một lúc nào đó thì thân xác hoàn toàn không còn chống đỡ cho tâm thức được nữa và đấy là giây phút đánh dấu cái chết. Theo kết quả phân giải của Phật giáo thì thành phần bị mất khả năng trước nhất trong số các thành phần (ngũ uẩn) tạo ra một cá thể là thân xác tức là cấu hợp hình tướng. Sự suy thoái của hình tướng kéo theo sự suy thoái thị giác. Trong khi đó khả năng thính giác vẫn còn duy trì khá tốt. Vì thế trong giai đoạn đầu của quá trình của cái chết người hấp hối vẫn tiếp tục nghe và hiểu được người khác nói. Một trong các dấu hiệu thật đặc biệt xảy ra vào giai đoạn một trên đây - tức là giai đoạn tan biến của cấu hợp hình tướng - là dấu hiệu cho thấy người hấp hối có cảm giác như bị lún sâu xuống đất, tương tợ như bị té từ trên cao và họ phải nhờ người chung quanh nâng đầu mình để đặt lên gối : nên để ý đây là dấu hiệu tiêu biểu nhất trong giai đoạn tan biến đầu tiên. Vì thị giác trở nên suy yếu nhưng thính giác lại còn tốt nên đây là lúc phải sử dụng lời nói để khuyên nhủ người hấp hối. Khi bắt đầu giai đoạn tan rã thứ hai đánh dấu sự tan biến của giác cảm thì thính giác sẽ suy thoái theo và người hấp hối càng lúc càng nghe không rõ, vì thế vào giai đoạn này không còn khuyên nhủ hay trấn an người hấp hối được nữa. Do đó nếu muốn giảng giải gì thêm cho họ về giáo lý hoặc nhắc lại những điều tốt đẹp mà họ đã làm, các phương pháp tu tập của họ trước đây, hay chỉ đơn giản gợi lại cho họ những tư duy tràn đầy yêu thương, từ bi và rộng lương, thì phải thực hiện sớm hơn tức là trong giai đoạn tan biến đầu tiên. Trong suốt cuộc sống luôn luôn lúc nào cũng có các tiếng ồn ào dai dẳng vang lên trong tâm trí nhưng thường thì ta lại không nghe được hay ý thức được mặc dù các tiếng ồn ào đó lúc nào cũng thường trực. Vào giai đoạn tan biến thứ hai, khả năng thính giác suy yếu dần cho đến một lúc mà ngay cả tiếng ồn ào trong nội tâm cũng im bặt. Tuy nhiên lúc đó tâm thức vẫn tiếp tục hoạt động dưới các thể dạng thô thiển thường nhật của nó (tức là sự suy nghĩ) trong một số giai đoạn thuộc quá trình diễn biến của cái chết, vì thế dù cho không còn nghe được gì cả nhưng người hấp hối vẫn còn suy nghĩ được. Thể dạng tâm thức của họ trong các giai đoạn đó có thể là tích cực, tiêu cực hay trung hòa. Tuy nhiên khi các thành phần cấu hợp khác tuần tự theo nhau mất dần khả năng chuyển tải sự sống thì đến một lúc nào đó các thể dạng tâm thần thô thiển sẽ ngưng hoạt động và tan biến hết, tuy nhiên người chết vẫn chưa phải là chết hẳn. Trong giai đoạn này thể dạng tâm thức thô thiển sẽ tan biến hết và chỉ còn lại phần tâm thức tinh tế. Tâm thức tinh tế sẽ hiển hiện dưới bản thể tự nhiên của nó tức thể dạng trung hòa và người chết đương nhiên cũng rơi vào thể dạng trung hòa đó. Kể từ lúc này thì không còn giúp đỡ gì được cho họ bằng các lời khuyên nhủ nữa. Vào thời điểm mô tả trên đây thì cái chết thực sự (đúng nghĩa của nó) sẽ xảy ra, và theo quan điểm Phật giáo thì tiếp theo sau đó là một thể dạng gọi là thể dạng trung gian. Trong trường hợp một người hấp hối chết trong tình trạng thiếu tốt đẹp có nghĩa là đang bị dày vò bởi tác động của một tâm thức tiêu cực thì trong thể dạng này có đúng là không còn cách gì giúp đỡ cho người chết nữa ? Phật giáo cho rằng vẫn có thể giúp đỡ trong giai đoạn trung gian trên đây. Người ta vẫn có thể làm cho thể dạng tâm thức cuối cùng của người chết khi họ còn trong tình trạng ý thức trước đây chuyển hướng được. Đấy là cách hồi hướng công đức của mình. Tất cả mọi hành động mà ta thực hiện được từ trước nếu mang ra để hồi hướng đều sẽ mang lại hiệu quả, chỉ cần là các hành động đó được thực thi trong chiều hướng lợi ích. Chẳng hạn như ta từng giúp đỡ những người ốm đau, già yếu, trẻ em trong cảnh khốn cùng, hoặc chia sẻ với thú vật miếng ăn ; hoặc tham gia vào một số nghi lễ nào đó hay chỉ vỏn vẹn tuân thủ đạo đức ; hoặc góp phần xây bệnh viện, đường xá, cầu cống, v.v..., một cách vắn tắt thì đấy là tất cả các hành động có tính cách lợi ích chung hoặc hướng vào một số người nào đó. Ta đem tất cả những gì xứng đáng từ các hành động lợi ích ấy hồi hướng cho người quá cố để nhờ đó mà họ có thể chuyển sự tái sinh của họ theo một chiều hướng thuận lợi hơn. Đấy là cách giúp cho người vừa mất, cách này sẽ mang lại nhiều hiệu quả hơn nữa khi được chính những người thân thuộc đứng ra thực thi, chẳng hạn như cha mẹ, người hôn phối, con cái hay bạn bè của người chết. Tốt nhất là trước đây họ đã từng sống chung với người quá vãng. Sau đây là trường hợp mà người qua đời trong một thể dạng tâm thức thật tiêu cực và thể dạng trung gian đang hướng họ vào một sự tái sinh vô cùng bất lợi. Nếu muốn giúp họ tức có nghĩa là muốn làm được một cái gì đó lợi ích để hồi hướng cho họ thì sẽ có hai cách. Cách thứ nhất là giúp họ tự tạo ra một thể dạng tâm thức lợi ích cho họ. Theo Phật giáo thì trong giai đoạn trung gian nếu người quá vãng chưa tìm ra ngay các điều kiện thuận lợi để tái sinh thì cứ bảy ngày lại chết thêm một lần nữa, cho đến khi nào tìm được các điều kiện phù hợp cho sự tái sinh của mình, cứ tiếp tục tất cả bảy lần như thế. Nói một cách khác, trong lúc một chúng sinh chưa gặp được các điều kiện tái sinh thích nghi với xu hướng của mình và ngay trong lúc đó nếu ta làm được một điều gì tốt cho họ và điều đó phải có khả năng tạo ra một tác động thật mạnh thì ta cũng có thể chuyển thể dạng tâm thức của họ sang một hướng tái sinh tốt hơn. Vì thế sau khi chết được bảy ngày hay mười bốn ngày... chẳng hạn, thì vào đúng các thời điểm nhất định đó thể dạng tâm thức của họ có thể chuyển đổi để trở thành tích cực hơn. Tóm lại ta có thể làm được những gì để giúp cho những người đang trong giai đoạn trung gian ? Ấy là cầu nguyện, phát lộ ước vọng tốt đẹp hướng vào họ. Ước vọng tốt nhất là cầu mong cho họ sẽ tái sinh làm người. Tuy nhiên không phải chỉ tái sinh làm người là đủ mà phải tái sinh trong những điều kiện thuận lợi, tức được hạnh phúc để sau này còn giúp ích cho thật nhiều người khác. Trong mỗi gia đình của chúng ta hôm nay cũng có thể có nhiều người thân ra đi từ lâu. Nhiều năm tháng dài chia cách họ với chúng ta, sự chia cách lâu dài đó có phải đã làm cho chúng ta bó tay và không còn làm gì được để giúp đỡ cho họ nữa hay không ? Phật giáo cho biết là chúng ta vẫn còn có thể giúp đỡ cho họ, kể cả sau những năm tháng dài chia cách. Nhất định là trong khoảng thời gian trên đây họ có thể đã tái sinh trở lại. Tuy rằng chúng ta không thể biết được kiếp sống mới của họ đã hay sẽ chấm dứt vào lúc nào, nhưng chúng ta vẫn cứ cố gắng giúp đỡ họ giống như chúng ta đang ra sức giúp đỡ những người đang hấp hối bên cạnh chúng ta hôm nay. Chúng ta cứ tưởng tượng ra những người thân đang trong giai đoạn trung gian để tự nguyện hồi hướng những hành động tích cực của mình cho họ, nhất là nên hồi hướng cho cha mẹ chúng ta. Không sớm thì muộn vào một ngày nào đó những người thân của chúng ta cũng sẽ phải đối đầu với một cái chết mới, và những gì mà chúng ta hồi hướng cho họ sẽ giúp cho họ hướng vào những sự tái sinh tốt đẹp hơn. Dagpo Rimpoché (Hoang Phong chuyển ngữ)1 like
-
1 like
-
TÁCH TRÀ Nan-In, một thiền sư Nhật vào thời Minh - Trị (1868- 1912), tiếp một vị giáo sư đại học đến tham vấn về Thiền. Nan-In đãi trà. Ngài chế một tách đầy và vẫn tiếp tục rót. Vị giáo sư nhìn tách nước tràn cho đến khi không nhịn được, bèn lên tiếng: "Nó đã đầy tràn rồi, không thêm được nữa đâu!" "Thì cũng như chiếc tách này" Nan-In thong thả nói, "Ông đã mang đầy tư kiến và thành kiến. Làm sao tôi có thể chỉ cho ông về Thiền nếu ông không cạn tách của ông?" (101 CÂU CHUYỆN THIỀN - Sưu tầm)1 like
-
Hòn Ðá Ném Ði:
phuong2t liked a post in a topic by Thiên Sứ
Những chiếc khăn tắm... Năm ấy anh đã lấy cô gái xinh đẹp, kiêu ngạo đó làm vợ. Cô vợ hỏi anh: “Anh định yêu em như thế nào?”. Thực ra trong lòng cô nghĩ rằng anh sẽ trả lời mình là: “Anh sẽ yêu em đến lúc chết”. Đây là câu mà cô thích nghe nhất. Nhưng anh đã không nói như vậy, anh chỉ nói: “Anh thường dùng một đôi khăn tắm, một chiếc to và một chiếc nhỏ. Anh hay dùng khăn to để rửa mặt còn khăn nhỏ thì để lau chân. Bây giờ lấy em rồi thì anh sẽ nhường cho em dùng khăn to và khăn nhỏ để anh dùng. Em sẽ mãi mãi dùng cái to còn anh sẽ mãi mãi dùng cái nhỏ có được không?”. Cô cười ngặt nghẽo và coi đó như là lời hứa của tình yêu vậy! Nhưng vì mới lấy chồng nên cô cảm thấy đó là những lời nói tình cảm ngọt ngào. Sau đó đúng là anh luôn dùng chiếc khăn nhỏ bé còn đưa cho cô những chiếc khăn to mềm mại, mới mẻ. Còn nữa, những lúc nhà nấu món cá thì cô luôn ăn khúc giữa còn anh thì luôn ăn khúc đầu và khúc đuôi. Anh nói rằng anh thích ăn như vậy. Khi đi bên nhau anh luôn đi bên ngoài, còn cô luôn đi bên tay phải của anh. Cô không hề biết rằng đó là những cử chỉ yêu thương nhất anh dành cho cô. Thời gian trôi qua, lâu dần tình cảm của cô đã bị tê liệt nên cảm thấy những cử chỉ ấy của anh chỉ là tính cách của anh mà thôi. 5 năm trôi qua, cô đã quen với sự yêu thương, sủng ái của anh. Lâu dần thì cô lại thấy chán những điều ấy. Người đàn ông nhỏ nhặt ấy có ý nghĩa gì cơ chứ? Cô bỗng thấy anh sao mà chậm chạp, đờ đẫn đến vậy. Anh chẳng biết lãng mạn là gì, không biết đến phong nhã tài hoa... Vì vậy, cô đã có nhân tình. So với nhân tình của cô thì anh còn thiếu sự nhiệt tình, nóng hổi và hoang dã. Anh thiếu mất sự hư hỏng đầy hấp dẫn đối với phụ nữ. Cũng vì vậy mà cô đã quyết định rời xa anh. Đi du lịch cùng người tình thì cô bỗng thấy so với anh thì người tình của cô sao mà ích kỷ đến thế. Khi ăn cá, anh ta luôn thò đũa gắp lấy khúc giữa, thoạt đầu cô cứ tưởng anh ta gắp cho mình ai ngờ anh ta lại gắp vào bát của anh ta rồi thưởng thức một cách ngon lành. Anh ta chẳng thèm để ý, hỏi han cô một lời. Khi đi leo núi, anh ta cứ leo một mạch chẳng để ý gì đến cô, lại còn than thở cô leo chậm nữa chứ. Anh ta cũng chẳng buồn đeo ba lô giùm cô. Cô nhớ những lúc leo núi cùng chồng thì anh luôn vác cho cô tất cả mọi thứ và còn luôn leo đằng sau để ngắm lưng cô. Anh thường nói với cô rằng: “Lưng em rất đẹp!”. Anh ta mang theo 2 chiếc khăn tắm, một chiếc mới và một chiếc cũ. Khi đi tắm anh ta dứt khoát cầm chiếc khăn mới còn chiếc khăn cũ thì để lại cho cô. Cô ngồi thừ người và chẳng hiểu tại sao nước mắt cứ chảy dài. 5 năm qua sao mà cô ích kỷ đến như vậy. Tại sao hồi đó cô nghĩ rằng đó là những việc anh ấy phải làm. Hoá ra những gì mà cô cho là cúi đầu và nhường nhịn ấy là tình yêu. Kết thúc chuyến đi du lịch cùng người tình trước dự kiến, cô xách túi về đến cửa nhà thì anh đang đứng đợi ở đó. Cô đề nghị ly hôn và không ngờ là anh đã thu xếp gọn gàng đồ đạc của cô. Trong chiếc túi xách đó có rất nhiều chiếc khăn tắm to, đó là những chiếc khăn tắm màu hồng, màu trắng, màu vàng đẹp đẽ. Anh nói rằng, em đã dùng quen khăn tắm to rồi nên em cứ mang hết đi. Cô cầm một chiếc khăn tắm to lên ôm vào mặt... Lát sau cô ngẩng đầu lên nói: “Sau này chúng ta cùng dùng khăn tắm to anh nhé?”.1 like -
Thưa chú Thiên Sứ và các bác, các anh chi em trên diễn đàn, Lâu rồi, hôm nay Haiphuong mới có dịp lên diễn đàn. Bây giờ đã là tháng 11, vậy là Haiphuong đã lập topic này để nhờ sự giúp đỡ của bác Thiên Sứ và mọi người đã hơn 6 tháng rồi. Hôm nay vào lại topic thấy các bác, các anh chị em vẫn quan tâm tới Haiphuong như vậy, thực sự Haiphuong rất xúc động. Thực sự Haiphuong không biết nói gì để cảm ơn tấm lòng của mọi người đối với vợ chồng Haiphuong. Một tháng nay, chồng Haiphuong đang có dấu hiệu tiến triển tốt hơn. Anh ấy đã có thể nhận ra người thân và bạn bè rồi. Anh ấy cũng ăn bằng miệng được nhiều hơn, đã nghe và hiểu được một số câu đơn giản. Tuy nhiên không hiểu sao khoảng 3 ngày trở lại đây, chồng Haiphuong lại có dấu hiệu không tỉnh táo như tuần trước. Haiphuong mong những dấu hiệu xấu này chỉ là tạm thời. Vừa nãy, Haiphuong có đọc đâu đó trên diễn đàn bài viết "Đức năng thắng số", Haiphuong cũng mong rằng số mệnh của vợ chồng Haiphuong sẽ bớt lận đận hơn. Kính thưa chú Thiên Sứ, Hết tháng 12, đầu tháng 1 dương lịch, cháu phải trả nhà cho chủ nhà. Vì một số lý do mà chủ nhà không thể cho vợ chồng cháu thuê lâu hơn được. Gia đình cháu định đưa anh Hải về quê một thời gian. Vậy cháu và gia đình kính nhờ chú xem giúp ngày giờ để đưa chồng cháu về. Cháu và gia đình cảm ơn chú rất nhiều! Khoảng hơn nửa tháng nữa Haiphuong sẽ phải bắt đầu đi làm lại, Haiphuong cũng không thể nghỉ lâu hơn để ngày đêm ở bên cạnh chăm sóc chồng Haiphuong được nữa. Chặng đường khó khăn mà vợ chồng Haiphuong phải đi tiếp chắc sẽ còn dài lắm. Trên chặng đường này, nhờ tấm lòng của chú Thiên Sứ cùng các bác, các anh chi em _ những người mà Haiphuong chưa từng gặp mặt (trừ chú Thiên Sứ ra) mà Haiphuong cảm thấy đỡ đau khổ, đỡ cô đơn hơn. Định mệnh đã lấy đi của vợ chồng Haiphuong quá nhiều nhưng nhờ có mọi người trên diễn đàn mà định mệnh đã không lấy đi được của Haiphuong niềm tin và hy vọng. Haiphuong xin được cảm ơn tấm lòng của tất cả mọi người! Lần sau lên diễn đàn Haiphuong mong có thể báo tin tốt lành hơn đến mọi người!1 like
-
Hình như mọi người vẫn luôn bàn luận về một việc nào đó mà không đi sâu vào thực chất vấn đề: đó là cái chết của ông bố chính là nghiệp báo vậy do đứa con phạm tội quá nặng hay sao? Thân mến1 like
-
THĂNG LONG - ĐỊA LINH NHÂN KIỆT Tiếp theo BÀI THAM LUẬN CỦA NGUYỄN VŨ TUÂN ANH TRONG BUỔI GẶP MẶT. ==================================== HÀ NỘI XƯA VÀ NAY THEO GÓC NHÌN CỦA PHONG THỦY. Nguyễn Vũ Tuấn Anh. Giám đốc Trung tâm nghiên cứu Lý học Đông phương. Kính thưa ban tổ chức. Kính thưa các vị khách quý. Trước hết tôi xin bày tỏ long cảm ơn với ban tổ chức đã tạo điều kiện để tôi có dịp trình bày với quí vị có mặt nơi đây về nhận xét của tôi với những vấn đề có tính thời sự đang được đặt ra với Hanoi trong tương lai với cái nhìn của khoa phong thủy theo sự hiểu biết của tôi. Kính thưa quí vị. Tôi nghĩ, chúng ta có thể nói rằng ngay khi xác định dời đô về vùng hữu ngạn sông Hồng , lập nên kinh đô Thăng Long thì Đức vua Lý Thái tổ đã nói đến địa thế Hanoi theo cái nhìn của khoa Phong thủy. Chiếu dời đô viết: Xưa nhà Thương đến đời Bàn Canh năm lần dời đô, nhà Chu đến đời Thành Vương ba lần dời đô, há phải các vua thời Tam Đại ấy theo ý riêng tự tiện dời đô. Làm như thế cốt để mưu nghiệp lớn, chọn ở chỗ giữa, làm kế cho con cháu muôn vạn đời, trên kính mệnh trời, dưới theo ý dân, nếu có chỗ tiện thì dời đổi, cho nên vận nước lâu dài, phong tục giàu thịnh. Thế mà hai nhà Đinh, Lê lại theo ý riêng, coi thường mệnh trời, không noi theo việc cũ Thương Chu, cứ chịu yên đóng đô nơi đây, đến nỗi thế đại không dài, vận số ngắn ngủi, trăm họ tổn hao, muôn vật không hợp. Trẫm rất đau đớn, không thể không dời. Huống chi thành Đại La, đô cũ của Cao Vương, ở giữa khu vực trời đất, được thế rồng chầu hổ phục, chính giữa nam bắc đông tây, tiện nghi núi sông sau trước. Vùng này mặt đất rộng mà bằng phẳng, thế đất cao mà sáng sủa, dân cư không khổ thấp trũng tối tăm, muôn vật hết sức tươi tốt phồn thịnh. Xem khắp nước Việt đó là nơi thắng địa, thực là chỗ tụ hội quan yếu của bốn phương, đúng là nơi thượng đô kinh sư mãi muôn đời. Trẫm muốn nhân địa lợi ấy mà định nơi ở, các khanh nghĩ thế nào? Qua nội dung của Chiếu Dời Đô thì có thể nhận thấy ngay rằng: Cái nhìn của khoa phong thủy về thế đất Hanoi chính là một trong những nguyên nhân quan yếu của sự dời đô và thành lập kinh đô Thăng Long. Sự đồng thuận của quân dân Đại Việt dưới thời Lý Thái Tổ đã chứng tỏ rằng những tri thức về phong thủy đã rất phổ biến trong văn hóa Việt Nam từ hàng ngàn năm trước. Hình minh họa dưới đây trên bản đồ Bắc Việt Nam cho chúng ta thấy rõ tính chất của “Rồng chầu , hổ phục” hay còn có cách diễn đạt khác là “Núi chầu sông tụ”: Hình ảnh này, tất cả các phong thủy gia đều biết. Nếu xét về đại cục thì khí mạch của vùng núi này bắt nguồn từ dãy núi Hy Mã Lạp sơn ở cao nguyên Tây Tạng, còn gọi là Tổ long. Và đây là Kim Long, con rồng trắng. Sở dĩ tôi nhận xét như vậy vì theo dãy núi Hi Mã Lạp sơn nằm ở phía Tây đồng bằng Nam Dương tử. Phương Tây thuộc Kim, nên xác định là rồng trắng. Ở vịnh Bắc bộ của chúng ta còn có đảo Bạch Long Vĩ – Đuôi rồng trắng – chứng tỏ điều này. Nhưng tôi cũng xác định rằng: Mặc dù nguyên khí xuất phát từ địa mạch tổ long ở Tây Tạng, nhưng cấu trúc phần núi sông tạo nên linh khí của đất Thăng Long hoàn toàn độc lập khí mạch của địa mạch Tổ Long này. Có thể ví Khí mạch sông núi Việt Nam như một con rồng con và có một sự tương tác một cách độc lập với môi trường thiên nhiên nơi đây. Thế núi của vùng miền Bắc Việt Nam hoàn toàn không liền mạch với khí mạch của dãy Hi mã lạp sơn. Vịnh Bái Tử Long với truyền thuyết về một con rồng con bay đi đã gợi cảm hứng cho tôi về cách nhìn này. Núi sông bờ cõi đã chia. Phong tục Bắc Nam cũng khác. Như cũng nhắc nhở điều này. TỔNG QUAN VỀ VỊ TRÍ HANOI TRONG ĐỊA THẾ ĐỒNG BẮNG BẮC BỘ Nếu ta xét một cách tổng quan toàn bộ vùng Bắc bộ Việt Nam theo cái nhìn của khoa phong thủy thì có thể xác định rằng: Chính đồng bằng Bắc Bộ là nơi tụ khí của cà Bắc Bộ Việt Nam. Cổ thư viết: “Ở nơi cao thì chỗ trũng thấp chính là nơi tụ khí”. Xét những dải núi non trùng điệp bao quanh đồng bằng Bắc Bộ thì vùng đồng bằng Bắc Bộ chính là nơi tụ khí của long mạch núi sông đất Việt Sông Hồng – tức sông Cả - là con sông lớn nhất chảy qua đồng bằng Bắc bộ. Nếu như dòng sông chảy xuôi và thẳng ra biển thì có lẽ chúng ta – với cái nhìn của khoa phong thủy – sẽ khó có thể định được nơi tụ khí để tạo ra kinh đô ngàn năm tuổi đầy tự hào của người Việt. Nhưng thiên nhiên như khéo tạo ra những giá trị của nó để đem lại phồn vinh cho con người. Đúng vị trí của Hanoi – Thăng Long xưa, sông Cả gấp khúc hơi xuối về Nam. Khí đã tụ lại nơi đây. Đây chính là chỗ lắng đọng của khí đất trời hội tụ. Có thể diễn tả điều này qua hình tượng của một câu trong bài hát “Người Hanoi” – “Đây! Lắng hồn núi sông ngàn năm”. Cổ thư đã nói: “Khí tụ thì thành hình”. Tất nhiên, khi khí đã bắt đầu tụ nơi đây thì cuộc sống cũng bắt đầu nơi đây. Khí càng mạnh mẽ thì cuộc sống càng hưng vượng. Và nơi đây đã hình thành nên kinh đô Thăng Long của Đại Việt XÉT KHÍ MẠCH HANOI. Cổ thư viết: “Khí theo nước mà đi” . Khí mạch Hanoi theo cái nhìn của tôi theo hướng Tây Bắc Đông Nam. Lý do là dòng sông Hồng chảy theo hướng này. Đây là hướng Phúc Đức trạch theo cái nhìn từ Phong Thủy Lạc Việt với quan điểm đổi chỗ Khôn về vị trí Đông Nam và Tốn về vị trí Tây Nam. Càn Tây Bắc phối Khôn là Phúc Đức trạch. Như vậy, minh đường của Hanoi chính là toàn bộ vùng đồng bằng Bắc Bộ và cả biển Đông của Việt Nam nhìn theo hướng này. Tọa sơn chính là dãy Hoàng Liên Sơn với đinh cao nhất là Phăng si phăng. Dãy Ba Vì là Bạch Hổ và sông Hồng chính là Thanh Long của Hanoi. Đây chính là thế sơn tọa nhô cao, minh đường rộng rãi sáng sủa với sự tụ thủy của cả biến Đông bao la. Thanh Long – tức sông Hồng Hà, uốn khúc mềm mại và hùng vĩ, Bạch hổ vững chắc , mạnh mẽ và hiên ngang. Đây chính là điều mà chiếu dời đô của Đức Lý Thái tổ nói tới: trạch thiên địa khu vực chi trung; đắc long bàn hổ cứ chi thế. Chính Nam Bắc Đông Tây chi vị; tiện giang sơn hướng bối chi nghi. Kỳ địa quảng nhi thản bình, quyết thổ cao nhi sảng khải. Bản dịch là: ở giữa khu vực trời đất, được thế rồng chầu hổ phục, chính giữa nam bắc đông tây, tiện nghi núi sông sau trước. Vùng này mặt đất rộng mà bằng phẳng, thế đất cao mà sáng sủa, Vào thế kỷ thứ VIII AC, Cao Biền - một danh sư phong thủy xây thành Đại La ở nơi đây với mục đích làm thủ phủ của chế độ cai tri Hán tộc. Vào thời điểm này, hình tuy đã hiện, nhưng khí lực chưa đủ. Xét về Âm khí do dãy núi Ba Vì là Bạch Hổ và dãy Hoàng Liên Sơn đưa lại thời gian này khá mạnh mẽ, thể hiện ở chỗ rừng núi hoang sơ vẫn bao phủ khắp nơi, ngòi đầm chi chít. Vùng Đại La cũng vậy. Đây là nguyên nhân Cao Biền phải dùng biện pháp trấn yểm để tụ khí. Nhưng độ số chưa đủ, nên đã thất bại trong sự nghiệp của chính ông ta. Trong văn hóa dân gian Việt còn lưu truyền câu thành ngữ “Lẩy bẩy như Cao Biền dậy non” chính là để nói đến điều này. Nhưng thành tựu của ông ta là đã xây dựng được Thành Đại La, nơi tập trung dân cư đông nhất vùng đồng bằng Bắc bộ với tư cách là thủ phủ của chế độ cai trị của Hán tộc trong thời Bắc thuộc. Chính những hoạt động của con người trải nhiều thế kỷ đã mạng lại sinh khí cho vùng đất này, để 200 năm sau, sự phát triển đầy đủ về khí lực dẫn đến hình thành một kinh đô muôn đời của đất Việt. Từ đó đến nay trải 1000 năm đã trôi qua. Vật đổi sao dời, hình thế cũng có nhiều đổi thay. Dương khí khu vực Hanoi ngày càng mạnh mẽ, sinh khí tụ ngày càng nhiều, khiến nhu cầu quy hoạch lại và phát triển Hanoi nảy sinh. Chúng ta thấy ngay rằng: Vào năm 1954, khi giải phóng thủ đô, dân số Hanoi chỉ có khoảng 20 0. 000 người. Sự phát triển sau đó lên đến 2 triệu vào khoảng cuối những năm 60. Bây giờ dân số gần gấp bốn chưa tính người vãng lai. Sư tương tác của hàng triệu người như vậy theo cái nhìn của khoa Phong Thủy thì sẽ tạo ra Dương khí rất mạnh. Càng về sau, Dương khí ngày càng vượng, cộng hưởng với sự phát triển của xã hội, nên Dương khí lan tỏa ra các vùng xung quanh (thể hiện bằng các mũi tên màu đỏ). Cùng với sự phát triển của xã hội, khi những cây cầu xuất hiện, sự tương tác giữa hai bờ càng trở nên mạnh hơn. Một phần Dương khí được chuyển sang phía bờ tả sông Hồng, do sự tương tác trong sinh hoạt của cộng đồng dân cư, khiến Dương khí vùng bờ tả cũng vượng lên. Dương khí càng có điều kiện lan tỏa hơn sang khu vực bờ tả sông Hồng (thể hiện bằng các mũi tên màu cam). Cân bằng Âm Dương - theo quan niệm của Lý học Đông phương ứng dụng trong khoa Phong thủy - là yếu tố quyết định quan trọng đến sự phát triển của xã hội. Khi vùng trung tâm (thể hiên bằng vòng tròn đỏ) Dương khí quá vượng, Âm khí suy thoái. Theo cái nhìn Lý học thì “Dương thịnh, Âm suy tắc bế”. Trên cơ sở này, chúng ta thấy xuất hiện các hiện tượng kẹt xe, suy kiệt nguồn nước, ô nhiễm môi trường……vv….gây tác động tiêu cực lên cuộc sống. Bởi vậy, sự phát triển và nhu cầu quy hoạch lại Thủ Đô là điều tất yếu. Tuy nhiên, theo quan điểm của Lý học Đông phương, một sự phát triển hài hòa, quen gọi là cân bằng Âm Dương, phù hợp với tư nhiên và làm nền tảng vững chắc cho xu hướng phát triển trong tương lai là điều cần phải suy xét. Trên cơ sở lấy Âm nhô cao thì phía Tây Bắc, Tây Nam nên đặt trọng tâm phát triển các cơ sở sản xuất, kinh tế. Vì sự phát triển kinh tế thuộc phạm trù Âm trong Lý học Đông Phương. Các cơ quan chính phủ theo tôi nên duy trì ở vùng Hanoi cũ, nơi Dương khí cực vượng. Bởi vì theo Lý học “Dương trước , Âm sau”; “Âm thuận tùng Dương” thì các cơ quan chính phủ cần đặt ở nơi Dương vượng và không cần thiết phải di chuyển. Mà chỉ cần quy hoạch lại khu vực Hanoi cũ, như là một khu vực hành chính , văn hóa làm chủ đạo. Bất đắc dĩ thì có thể mở rộng thêm ở vùng Quốc Oai. Khu Mỹ Đình không phải nơi đắc địa theo cái nhìn của khoa Phong Thủy. Nến nếu cơ quan chính phủ đặt ở đây thì tôi e rằng sẽ không phát huy được tác dụng quyền lực. Cũng trên cơ sở này, tôi cho rằng việc xây dựng trục đường lộ Thăng Long là một sai lầm ít nhất theo cái nhìn của khoa phong thủy. Trên báo mạng chính thống, đã có nhà khoa học phân tích thấy rằng con đường theo trục Đông Tây sẽ bị ánh sáng mặt trời chiếu thẳng gây lóa mắt và rất dễ gây tai nạn. Khoa Phong thủy cho rằng đây chính là trục Tuyệt Mạng. Vì Tây và Đông là hai điểm đối đầu thuộc Đông Tây trạch. Còn những ý kiến khác từ cái nhìn của khoa phong thủy về tướng địa, hình lý khí - đã được nhiều phong thủy gia góp ý rất xác đáng: Nên bỏ quy hoạch trục Đại lộ Đông Tây. Hoặc tìm một giải pháp khác có thể thay thế. Các khu vực phia Nam, Đông Nam nên phát triển quy hoạch các cơ quan nghiên cứu, kinh tế và văn hóa. Kính thưa quí vị. Trên đây là những ý kiến của chúng tôi lạm bàn về Phong Thủy liên quan đến quy hoạch Hanoi, như là một tham vọng đóng góp về một khia cạnh của một cái nhìn riêng vào Hanoi trong tương lai. Ngõ hầu góp phần them nhiều chiều ý kiến cho các nhà qui hoạch tham khảo và có quyết định cuối cùng, để cuộc sống và thủ đô Hanoi ngày một phát triên tốt đẹp. Xin cảm ơn sự quan tâm của quý vị. Nguyễn Vũ Tuấn Anh1 like
-
Tôi đi tìm thầy phong thủy Bài 1: Trong thế giới các thầy Sách phong thủy đang được bày bán nhiều tại vỉa hè và các quầy sách. Xem phong thủy đang trở thành một thói quen, một "nghi lễ hành chánh" đối với nhiều tư gia, công sở, các văn phòng, địa điểm làm ăn... Tìm tới các thầy phong thủy, mới biết đó là thứ nghề rất "hot" hiện nay. Không khó để tìm thầy phong thủy nếu có chút ít quan hệ và nếu "tin". Bỏ qua một số thầy làng nhàng (giới trong nghề gọi là "thầy bùa"), tôi tìm tới những bậc "cao thủ" trong làng phong thủy thành phố, những người được trọng vọng, có kiến thức, có năng lực đã được kiểm nghiệm qua nhiều lần "Trợ duyên" Ng. "đại gia" có chân mạng và hình tướng đều thuộc hành Kim (biểu tượng hành Kim là hình tròn). Ng. sinh năm Nhâm Dần, thuộc mạng Kim Bạch Kim. Con trai đứng chữ Nhâm thường là có tài. Hên cho Ng. nữa là hình tướng của anh cũng rất... tròn trịa, người thấp đậm, tướng đi bệ vệ. Hình tướng này bổ sung rất tốt cho chân mạng của Ng. Là dân làm ăn nên có vẻ Ng. rất tin phong thủy. Nếu tinh ý, ai đến đều có thể thấy rằng, từ tư gia cho đến công ty của Ng. đều xây cất theo hình vuông. Không hẳn bởi Ng. nhiều tiền hơn người nên mới mua được mảnh đất vuông vức, rộng rãi. Ng. tin rằng, mình sống và làm việc trong môi trường hình vuông (biểu tượng của hành Thổ) sẽ rất tốt cho anh. Bởi theo thuyết ngũ hành tương sinh tương khắc, Thổ sẽ dưỡng cho Kim. Ng. sẽ làm ăn rất hên, cuộc sống sẽ rất an bình thịnh vượng nếu ở trong những ngôi nhà hình vuông như thế. Nói vậy không có nghĩa là Ng. mê tín dị đoan. Anh yêu môn khoa học phong thủy và tìm mọi cách để ứng dụng chúng vào cuộc sống. Ngoài công việc ra thì cuộc sống của Ng. cũng dân dã như ai. Ng. cũng chơi xổ số, cũng đầu tư "đánh bạc" vô chứng khoán OTC và thua, rồi cay cú, rồi tự nghiệm ra mình không hợp với những trò may rủi. Giờ thì Ng. coi đó là một trải nghiệm thú vị. Tóm lại, Ng. là người làm ăn rất chịu chơi và làm ăn phát đạt. Có được điều này, ngoài năng lực thật sự ra, Ng. tin rằng mình đã vận dụng và được phong thủy "yểm trợ" rất tốt. Theo cách nói trong giới thầy phong thủy, Ng. đã được các thầy "trợ duyên". "Em cứ gặp đi. Thật ra anh suy nghĩ rất lâu mới giới thiệu cho em anh này. Ngoài kiến thức phong thủy ra, anh này còn là con người có khả năng đặc biệt" - Ng. giới thiệu cho tôi thầy Th., sau khi đã có một quãng thời gian suy nghĩ tương đối dài. Có thể anh sợ mất "mối". Hoặc có thể anh sợ phải chia sẻ sự hên của mình cho tôi. Hoặc có thể Ng. ái ngại cho tôi khi nhắc tới khoản thù lao phải trả cho ông thầy này, nó tính bằng tiền triệu, vài ba triệu cho một lần xem "tùy tâm" gia chủ. "Anh Th. không đi một mình đâu, anh ấy thường đi với ba bốn người". Đó là lần đầu tiên trong đời tôi được tiếp xúc với một trường phái phong thủy mới: dùng khí để xem phong thủy. Sau này, tôi mới biết thầy Th. là một nhà khí công học. Th. yêu và tin môn khoa học phong thủy. Nhưng cách nghĩ, cách làm của anh tương đối khác so với nhiều thầy tôi từng gặp. "Phong là gió. Thủy là nước. Phong thủy là sự kết hợp hài hòa giữa gió và nước, để con người tồn tại trong đó một cách khoa học, khỏe mạnh, vui vẻ"- Th. nói và giải thích tiếp: "Nếu nói phong thủy có thể giải quyết mọi chuyện thì tôi không tin. Với tôi, những cách nghĩ, những công thức, những chiêm nghiệm xa xưa... chỉ là cơ sở cho mình kiểm nghiệm. Chúng có thể đúng trong thời điểm đó, nhưng giờ liệu còn đúng không? Nếu áp dụng chúng một cách cứng nhắc vào từng trường hợp cụ thể thì liệu có thể đem đến một sự hài hòa hay không?". Muôn mặt thầy Thầy Th. cho rằng, hầu hết những thầy phong thủy bây giờ đều có kiến thức khá vững vàng, căn bản. Họ đọc sách nhiều; từ Bát Trạch, Minh Cảnh, Tả Ao, Kinh Dịch... đủ cả. Kết hợp với một số kiến thức về âm dương, ngũ hành, những thầy thuộc trường phái này thường dựa vào sự "thuộc bài" và những kinh nghiệm xa xưa để đi xem, rất bài bản, từ hướng nhà, phương vị, mệnh gia chủ... Tuy nhiên, cách xem này rất cứng nhắc, gặp những trường hợp khó, "công thức" không áp dụng được thì xem bậy xem bạ, hoặc phải nhờ những thầy cao tay hơn tới "trấn" giùm. Lần xem đó, nhóm của thầy Th. có bốn người. Họ đều ngửa lòng bàn tay, rồi vừa đi vừa chao nhẹ bàn tay trong không gian để đo khí. Đo từ lối đi, cổng vô nhà, phòng bếp, nơi đặt tủ thờ, phòng ngủ... Từ đó, họ xác định ra đâu là khí tốt, đâu là khí xấu; khí, gió, ánh sáng vô nhà có được quân bình hay không... Dựa vào đó, mới đặt đồ vật vào các hướng sao cho phù hợp. Tôi chợt nhớ tới lần tiếp cận một lớp học cảm xạ để thực hành phong thủy. Lớp học này do một ông thầy trong thành phố mở ra theo nhu cầu của học viên. Cho nên nó được bố trí di động khắp 24 quận huyện ở TP, rồi di tản sang Đồng Nai, Biên Hòa... Ở đâu có đông học viên, nhiều nhu cầu về học cảm xạ ứng dụng phong thủy thì thầy mở lớp, thu phí. Thành phần học viên thì đa dạng: những người yêu khoa học cảm xạ, những kiến trúc sư, những nhà kinh doanh địa ốc, và đặc biệt đông đảo là những tín đồ phong thủy, coi phong thủy là nghề hái ra tiền, học để làm thầy, đi xem cho thiên hạ. Một lần khác, anh bạn tôi thỉnh được thầy C. ở Q.11 về xem cho ngôi nhà của mình. Thầy này ở nhà bốc thuốc, nuôi chim, rảnh ra là đọc những sách phong thủy xưa rồi ứng dụng, đi xem cho bạn bè, người quen. Mọi người rỉ tai nhau, thầy mới có khách hàng, đi xem lấy tiền, mỗi lần năm chục, một trăm, vài ba trăm tùy vào tấm lòng gia chủ. Thầy C. kể: "Thầy giờ cũng nhiều dạng, nhưng đa số là "thầy bùa", xem không có kiến thức, không có cơ sở...". Thầy C. đi đâu cũng có thước đo, la bàn, sổ tay âm dương bỏ túi, vừa xem vừa dẫn giải với những lý lẽ dễ hiểu. Thầy C. kể ra một trường hợp cụ thể liên quan đến phong thủy. Người dân ở quận Thủ Đức hẳn chưa quên trận cháy kinh hoàng phát ra từ kho hàng của một hãng bông gòn. Do sơ suất trong công tác phòng ngừa, bảo vệ, ngọn lửa đã phát ra từ cửa chính, nhanh chóng lan vô trong kho, thiêu rụi gần hết thành phẩm bên trong trước khi được dập tắt. Làm về nghề bông sợi, chủ hãng này đã toan tính trong đầu về những rủi ro từ cháy, nổ nên đã vời thầy phong thủy trước khi đặt hướng kho. Nhưng rủi thay, hướng kho hàng này không được tốt, bởi nó nằm ngay hướng chính Nam, thuộc về cung Ly Hỏa. Sách phong thủy từng dạy, kho hàng đặt hướng cửa này trước sau cũng cháy nổ, hỏa hoạn. Chủ hãng bông chỉ tin điều này khi mời thầy phong thủy khác về, đặt lại hướng cửa sang hướng Đông Bắc. Từ đó, không thấy hỏa hoạn thêm lần nào, công việc làm ăn thuận lợi hơn. Tất nhiên, không chỉ nhờ thầy phong thủy. Chủ hãng cũng xem xét, thiết kế lại hệ thống phòng cháy chữa cháy trong kho. Đặc biệt đã "tin" thầy hơn khi không bố trí nhiều vật dụng thuộc về tre, gỗ trong xưởng nữa. Bởi theo thầy, Mộc sinh Hỏa (gỗ cháy ra lửa), rất dễ sinh hỏa hoạn. Có thể kiểm nghiệm điều này từ thực tế chứ không hẳn là theo lý thuyết ngũ hành tương sinh tương khắc... Bài 2: Phong thủy thực hành, khoa học hay mê tín? Căn phòng đỏ rực từ màu sơn tường, bộ sô-pha, những bức tranh... thế mà chủ nhà vẫn không gặp may, nhất là khi… đánh bạc. Tìm tới thầy phong thủy, thầy nói chủ nhà thuộc mệnh Thủy, chỉ hợp với sắc xanh nước biển, tím, đen… chứ không thể hợp với màu đỏ, màu của lửa, màu của Hỏa. Phong thủy cải thiện môi trường sống Đồng thời, ông thầy còn khuyên rằng, phong thủy không thể giải quyết được mọi chuyện cho con người. Thói đam mê cờ bạc của chủ nhà sẽ khiến hắn tán gia bại sản mà không ông thầy nào cứu được. Một thời gian sau, người ta thấy hắn thay đổi. Con Dylan "thần tài" màu đỏ được dân chơi một thời rên rỉ là "nằm trên vũng máu" đã được thay bằng một con Dylan bạc (sắc bạc thuộc mệnh Kim, Kim sinh Thủy). Hắn bỏ đánh bạc, không phải do tin thầy mà bởi còn tiền đâu nữa mà đánh! Hắn cũng nghiệm ra không thể sống mãi theo kiểu này được, và bắt đầu tu tỉnh làm ăn. Câu chuyện "phong thủy thực hành" này của anh bạn tôi có thể sẽ làm cho mọi người suy gẫm. Nhiều trường phái phong thủy nổi tiếng cho rằng, phong thủy không thể giải quyết được mọi chuyện nhưng phần nào đã giúp con người cải thiện môi trường sống một cách tích cực hơn. Chẳng hạn, sách Phong thủy ứng dụng trong thương mại của học giả Đoàn Văn Thông xuất bản tại Mỹ có chương Làm thế nào để buôn bán làm ăn phát vượng theo phong thủy?. Trong đó, có đoạn nhà phong thủy nổi tiếng Hồng Kông Feng - Shui tự hào rằng Hồng Kông có lưng dựa vào núi, có mặt nhìn ra biển, là vùng đất tuyệt đẹp cho việc làm ăn. Thương gia Hồng Kông, thậm chí thương gia các nước đến Hồng Kông đều rất tin và vận dụng phong thủy trong cuộc sống, coi việc xem phong thủy như một thủ tục hành chánh không thể bỏ sót mỗi khi mở văn phòng, công ty. Nhìn vô thị trường sách tại TP.HCM giờ thấy rõ một điều: Sách phong thủy đang là mặt hàng bán chạy! Nhìn biện dẫn theo lối "phong thủy" thì thấy TP đang phát triển mạnh: Người dân mua và xây được nhiều nhà mới. Nhiều công ty, văn phòng mới mở ra. Kinh tế phát triển. Ai cũng muốn làm ăn phát đạt. Thế là họ mua sách về đọc. Phong thủy "chỉnh" chợ, giảm căng thẳng Lần đó, thầy X. được nhờ đi xem và chỉnh sửa lại hướng cho một ngôi chợ ở vùng ven đô. Từ lúc mở ra, xung quanh và bên trong ngôi chợ đã gặp nhiều vấn đề không hay như tai nạn, không khí oi bức... Để đối phó với những chuyện này, ban quản lý chợ rất mất thời gian, tâm trí bức bối... Cho đến sáng nọ, có ông khách lạ đi ngang cổng chợ, nhìn lên nóc ngôi chợ lắc đầu. Ông hỏi là trước khi xây chợ có xem xét gì không? Đại diện ban quản lý nói "không". Ông khách bỏ đi. Tuy không nói gì nhưng ban quản lý hiểu rằng ông khách muốn nói đến vấn đề phong thủy của ngôi chợ. Qua một người quen của ban quản lý, thầy X. được mời đến... Dạo một vòng quanh ngôi chợ, thầy "đo" được rằng dòng khí luân chuyển trong chợ không được tốt, từ đó xuất hiện nhiều ối khí. Đồng thời, cách bố trí đường đi lối lại trong chợ, cách phân chia bài trí từng khu vực bán hàng không hợp lý. Cụ thể, nóc ngôi chợ được cất theo hình kim tự tháp, chắn gió, khí vô không ra, gây ngột ngạt. Thầy X. đề nghị làm giảm độ nhọn của nóc chợ bằng cách nâng hai mái lên khoảng 5 độ, sao cho hợp lại thành nóc mái ở khoảng 65 độ. Làm vậy, sẽ tạo được sự quân bình trong đối lưu không khí ra - vô, hai mái nghiêng theo độ đó cũng dễ hứng được thanh khí. Xét về lý thuyết thì việc nâng mái ngôi chợ bám rất sát với những số đo theo sách phong thủy mà Lỗ Ban đã từng viết (Lỗ Ban là người "sản sinh" những công thức về kích cỡ cửa nhà, mái nhà...). Xem xét tiếp, thầy X. thấy rằng cách bố trí các quầy thực phẩm chuyên dụng tại chợ rất không hợp lý. Thầy đề nghị bố trí lại các khu hàng, mỗi khu theo một hướng, đồng thời, trong chợ phải tạo ra một bãi để xe riêng chứ không thể để khách tự đi xe vô chợ, gây sự đình trệ về khí, hàng hóa con người không được lưu thông. Cụ thể, thầy X. đặt lại khu bán hàng trái cây nằm ở hướng Bắc ngôi chợ. Chợ mở buổi sáng, nên khu vực bán hàng rong sẽ nằm hướng Đông, ánh sáng nhiều, đồng thời khu vực bán thịt sẽ chuyển sang hướng Tây để tránh nắng rọi, không gây sự ôi thiu. Cổng chính ngôi chợ sẽ được chuyển sang hướng chính Nam để đón lấy sự hài hòa. Trước các lý lẽ của thầy, ban quản lý ngôi chợ nọ thấy có lý và đã làm theo. Thậm chí, có một dạo ở khu công nghiệp nọ bỗng rộ lên chuyện đình công. Từ công ty này, đình công lan sang công ty khác. Từ phân khu này, đình công lan sang phân khu khác. Cả tháng trời, đình công mới lắng xuống sau nhiều nỗ lực đàm phán giữa giới công nhân và chủ doanh nghiệp. Lúc bấy giờ, vấn đề "phong thủy" cũng được một số người có trách nhiệm ở đây đưa ra bàn bạc. Rồi cũng có một ông thầy phong thủy tiếng tăm được mời về nhưng lời khuyên của thầy thì bình thường đến mức dường như tất cả mọi người đều biết, rằng để chấm dứt đình công, giới chủ doanh nghiệp nên quan tâm hơn tới những tâm tư, khó khăn trong cuộc sống của công nhân; đồng thời nên xây dựng thêm những khu vui chơi, nhiều cây xanh trong công viên hơn để công nhân tiện giải trí sau những giờ làm việc mệt mỏi. "Phong thủy" - trong trường hợp này - đã góp phần giảm căng thẳng trong môi trường làm việc... Phóng sự của Thiếu Gia1 like
-
Môn khoa học huyền bí Tây phương gọi là Thần Số (Numerology) dựa theo nhân sinh quan của Thần Tam Giác (Divine Triangle). Nhờ Thần Số mà người ta đoán được nhân cách, tính tình, công việc, năng khiếu, tình duyên v.v... của một đời người. Môn khoa học huyền bí đã phát xuất 600 năm trước Thiên Chúa giáng sinh và do nhà toán học Pythagorax lập ra. Pythagorax dùng phương trình C2-A2-B2 của hình tam giác (pythagorean theorem) để giải đoán định mệnh nên các nhà siêu hình học Hy Lạp cho là "God geometrizes." Môn siêu hình học này gồm có tất cả 9 số. Hãy dựa vào bảng sau để tính ra con số định mệnh của bạn: Số 1 tượng trưng cho các chữ của mẫu tự: A, J, S Số 2 tượng trưng cho các chữ của mẫu tự: B, K, T Số 3 tượng trưng cho các chữ của mẫu tự: C, L, U Số 4 tượng trưng cho các chữ của mẫu tự: D, M, V Số 5 tượng trưng cho các chữ của mẫu tự: E, N, W Số 6 tượng trưng cho các chữ của mẫu tự: F, O, X Số 7 tượng trưng cho các chữ của mẫu tự: G, P, Y Số 8 tượng trưng cho các chữ của mẫu tự: H, Q, Z Số 9 tượng trưng cho các chữ của mẫu tự: I, R Ví dụ: tên Lê Thị Mỹ = 3+5+2+8+9+4+7 = 38 = 11 = 2 Con số định mệnh của Lê Thị Mỹ là số 2. Bấm vào mỗi số để đọc phần giải thích. Số 1 Tượng trưng cho sự hùng mạnh, sự độc lập, sự lãnh đạo. Lập trường vững chắc, ít thay đổi. Số 1 còn tiêu biểu cho sự thông minh, sáng tạo, một ý chí sắc bén, cứng, mạnh, tượng trưng cho nguyên lý căn bản của đời sống. Số 1 tương đương với viên Phán Quan (The Magiaan) ở bài bói Tarot. Số 1 đồng hóa với Thái Dương Tinh, nguồn gốc của mọi năng lượng. George Washington, Karl Marx, và Napoleon Bonaparte thuộc loại người mang số 1. Tính Tình & Nhân Cách Ưa thám sát, mạo hiểm, khám phá, tìm tòi và sáng chế. Cứng đầu, ý chí mạnh mẽ, tự quyết, tự lập, tự hào. Có óc tổ chức, lãnh đạo. Rất khó bị thuyết phục, khó sửa đổi những lầm lỗi, và chỉ huy độc đoán. Bản tính rộng rãi, đại lượng, nhưng vì nhiều tham vọng nên dễ trở thành ích kỷ, tàn nhẫn, bất chấp. Làm việc đúng đường hướng thì kết quả rất tốt vì nhiều nhiệt huyết và cương quyết. Nhưng nếu sai lạc thì rất thảm hại. Con người xuất chúng, tinh thần rất cao. Thường nổi bật và gây ấn tượng tốt đẹp ngay lúc đầu. Có tài thuyết phục người chung quanh. Thích hoạt động, bận rộn và xê dịch đó đây. Tế nhị và dễ dàng xúc cảm. Được nhiều người mến phục mặc dầu hơi thiếu xã giao. Có nhiều bạn bè và sẵn sàng giúp đỡ họ mà không ngần ngại điều gì. Đối với kẻ thù, người số 1 không bao giờ tha thứ hoặc quên đi dễ dàng một lỗi lầm nhỏ nào. Do đó có thể trở thành rất tàn nhẫn. Rất nặng về tình cảm và rất dễ đau khổ. Thường che giấu cảm nghĩ thầm kín, ít cho mọi người biết tâm trạng mình dù là bạn bè, thân quyến. Công Việc, Năng Khiếu & Tiền Bạc Dễ thành công trong công việc điều khiển và quản trị hơn là trong địa hạt nghệ thuật. Dễ thành công nếu là giám đốc sản xuất, kỹ thuật hơn là tài tử. Làm chủ báo thích hợp hơn là ký giả. Thành công trong các ngành khoa học, nhất là về khảo cứu, sáng chế, và phát minh. Với óc chỉ huy, tính cương quyết và nhiều tham vọng nên dễ đạt được kết quả trong việc làm. Làm việc có lương tâm nhưng ít thành công. Nếu làm công cho người khác rất dễ có sự va chạm với chủ nhân vì lúc nào cũng nghĩ là mình phải.Dễ bị người khác ghét và có kẻ thù vì cứng rắn, muốn làm nhanh, làm mạnh. Nếu là chủ nhân dễ gây hứng thú vì cá tánh đặc biệt, nhiều sáng kiến và chỉ dẫn hoặc huấn luyện rất hay. Về tiền bạc, người số 1 dễ giàu mà cũng dễ bị đói rách. Dễ kiếm tiền mà cũng dễ mất tiền. Dễ mắc công nợ vì dám chi tiêu vào bất cứ việc nào cho là hợp lý. Dám đầu tư vào các công việc liều lĩnh: "được ăn cả ngã về không." Người mang số 1 cần phải học tính cẩn thận. Rất dễ phiêu lưu trong vấn đề tiền bạc có thể đưa tới sự phá sản. Những người làm công hoàn toàn vì tiền thôi thì không nên chọn người chủ mang số 1. Tình Duyên Khi chọn bạn, luôn luôn chọn người mà họ chi phối được. Họ càng gần gũi người nào bao nhiêu thì họ càng có khuynh hướng muốn chỉ huy bấy nhiêu. Rất thụ cảm với tình yêu nhưng cũng lại dễ tiêu tan. Muốn chiếm độc quyền tình cảm và rất cả ghen! Vì bản tính chinh phục nên thích hợp với người có bản tính hiền diệu của số 2 hoặc số 6. Sau đó là các số 3 và 4. Có thể sung sướng với số 5 hay 7. Kết hợp với người số 1 khác hoặc số 8 hay 9 có thể gây bất hòa, sóng gió cho cả đôi bên. Số 2 Số 2 tượng trưng cho sự hòa nhã, ngọt ngào, sẵn sàng giúp đỡ và xã giao khéo léo. Liên hệ với mặt trăng. Tương đương với High Priestess, ái nữ Thổ Tinh, một thiếu nữ đang ngồi tiêu biểu cho quyền năng thiêng liêng, huyền bí và mọi sự bí mật trong cuộc đời đều chỉ khám phá bằng sự thông minh của trí óc và mọi sự hiểu biết đều có sự hổ trợ của ý chí cương quyết. Cựu ngoại trưởng Henry Kissinger và Jules Verne thuộc loại người số 2. Tính Tình & Nhân Cách Rất tế nhị trong việc giao thiệp, biết xét đoán những người khác. Cộng tác ngoan ngoãn với người khác hơn là lãnh đạo họ. Thích sự quen thuộc thân mật yên ổn hơn là muốn ra sao thì ra, hơn là cái gì mới lạ quá. Thường trầm lặng, dè dặt, cân nhắc kỹ lưỡng trước khi hành động. Thích sự hòa thuận cộng tác. Không ưa cãi cọ, xích mích. Vì vậy không thể tin tưởng hoàn toàn vào sự thành công của họ. Dễ thất vọng, chán nản, lo nghĩ nếu gặp những chuyện không vui. Nếu xử dụng đúng chỗ, tính lịch thiệp sẽ đem lại nhiều kết quả không ngờ. Nếu không dùng đúng chỗ có thể xảy ra chuyện bất hòa. Dễ bị sự chi phối bởi tình cảm hơn là lý trí. Lãng mạn. Dễ xúc cảm. Hòa nhã. Tuy có vẻ thản nhiên trầm lặng bên ngoài, thật ra có nhiều khi "cười bên ngoài mặt, khóc thầm bên trong." Khi vui thì thật là vui, khi buồn thật buồn. Rất dễ gây tình bạn, ít đòi hỏi ở người khác, nhưng lại không phải là người ưa sống tập thể. Không thích là trung tâm vũ trụ, không thích làm mọi người chú ý. Thích là khán giả hơn là làm diễn viên. Chịu khó làm việc hăng hái, vì vậy dễ đem lại thành công cho các việc tổ chức. Ít khi mất bình tĩnh. Khi đau khổ hay giận dữ thường có tính thâm trầm, ngậm đắng nuốt cay hơn là bộc phát. Ưa hòa bình, thích phục sức trang điểm và sống nhiều về tình cảm. Công Việc, Năng Khiếu & Tiền Bạc Có óc sáng kiến và tưởng tượng nhưng có khả năng nhiều trong công việc người thừa hành hơn là cấp chỉ huy, cộng tác hơn là tranh chấp. Chẳng hạn làm diễn viên giỏi hơn làm đạo diễn, chơi nhạc hay hơn soạn nhạc. Dễ thành công trong những việc đòi hỏi sự tế nhị như giao dịch, nhất là các nghề về tâm lý học, xã hội học, cố vấn, phụ tá, thư ký vì dễ đem lại tình cảm cho những kẻ bị bối rối, đau khổ, bịnh tật. Các ngành thích hợp khác là dạy học, nghiên cứu y khoa, kế toán. Là nhân viên cộng tác chân thành, đắc lực, tín cẩn, và có lương tâm. Ít gặp sự may mắn trên đường công danh. Ít đòi hỏi, cam phận thủ thường, thiếu tinh thần tranh đấu. Nếu là chủ nhân, rất dễ chịu, ít ra lệnh, ít thúc đẩy thuộc hạ nên không có kết quả mỹ mãn. Tiêu tiền rất hợp lý và chắc chắn. Ít phung phí trừ trường hợp đối với người yêu. Ghét nợ nần, thường dành dụm từng đồng. Kinh doanh những việc chắc ăn như bắp nhưng ít lời. Không dám liều lĩnh, không có đầu óc đầu cơ. Vì mềm yếu, dễ bị bạn bè lợi dụng, vay mượn, ngược lại rất ngại ngùng khi vay mượn người khác. Tình Duyên Là bạn đời lý tưởng và nhiều khía cạnh, chan chứa tình thương yêu và sẵn sàng với người yêu. Người vợ số 2 thường tìm đủ mọi cách để đem lại hạnh phúc cho chồng, dù phải hy sinh nhiều, giúp đỡ chồng rất nhiều. Người chồng số 2 rất hòa nhã, dễ thương, ít đòi hỏi hoặc độc đoán, lại còn có thể bị các bà chi phối vì quá nể nang. Cần phải lưu ý đừng để khuynh hướng lãng mạn chi phối tính tốt bản nhiên vì họ mềm yếu về tình yêu. Cần phải nhận thức là: thực tế cũng quan trọng như lãng mạn. Kết bạn trăm năm được với các số khác. Tuy nhiên muốn có hạnh phúc lâu dài nên kết hợp với các số 2, 4, hoặc 6. Tuy bị chi phối, người số 2 vẫn thấy rất thích hợp với người số 1 và 8. Có thể gặp sự quý mến ở người số 3 và 5. Kết hợp với người số 7 và 9 chỉ đem lại nhiều ưu phiền và chịu đựng. Số 3 Tượng trưng cho tình cảm, tài năng đại chúng. Số 3 tiên đoán sự thành công trong các ngành khoa học, kỹ thuật nếu biết dung hòa sự hoạt động với khả năng tinh thần. Số 3 liên hệ với sao Mộc Tinh (Jupiter). Các nhà bói toán Hy Lạp cho đó là một số hoàn toàn. Số 3 tương đương với Hoàng Hậu (The Empress) ở bài bói Tarot. Tổng Thống Mỹ Bejamin Franklin and Jonh Wayne đều thuộc loại người mang số 3. Tính Tình & Nhân Cách Có nhiều khả năng thiên phú và ham thích học hỏi. Lạc quan, dễ say mê, tháo vát và thông minh. Thích sống tập đoàn, yêu đời và làm cho người chung quanh vui theo. Thường công nhận sự rũi ro và cho đó là tự nhiên, không thể tránh được. Không than thân trách phận. Có tài ứng biến, thích hoạt động nhưng ít cương quyết, dễ bị người khác chi phối và cũng dễ gây ảnh hưởng sang người khác. Có khuynh hướng ích kỷ, thích sống theo lối sống riêng của mình, dễ dãi đối với bản thân. Rất chú trọng tới đời sống vật chất và tiền bạc, do đó muốn thành công để thụ hưởng chứ không phải quyền hành. Thích thức ăn ngon, quần áo đẹp, xe hơi, nhà lầu. Xã giao giỏi và đại chúng, thích quen biết, đi nơi này, nơi khác và tiêu khiển về ăn uống. Nói chuyện hay, dễ làm quen với hoàn cảnh mới, làm cho mọi việc thoải mái trừ phi giận dữ bất thường. Thường có nhiều bạn bè nhưng ít thân vì ưa thích thay đổi và nhìn sự vật một cách dễ dãi. Vui tính, dễ kích thích và làm hứng khởi người khác. Ít chán nản, bi quan, ít quấy rầy người chung quanh. Công Việc, Năng Khiếu & Tiền Bạc Có óc sáng tạo và tưởng tượng rất mạnh, thêm với nhiều tham vọng, do đó dễ thành công. Nếu được xử dụng đúng khả năng và tìm cách phát triển sẽ đạt được kết quả thật cao xa và thật nhanh chóng. Các nghề thích hợp thuộc địa hạt văn nghệ như viết văn, nhiếp ảnh, trang hoàng, hội họa, giải trí và các nghề cần tài xã giao. Ít kiên nhẫn với các nghề bác sĩ, luật sư, kế toán, kỹ sư. Dễ chán nản với công việc cố định và đều đặn. Nếu làm công, thường xuất sắc, được các bạn đồng sự mến chuộng, có nhiều sáng kiến nhưng không kiên nhẫn. Nếu làm chủ thường tạo nên không khí vui vẻ, thích thú, sẵn sàng đón nhận ý kiến của mọi người và luôn luôn khuyến khích, tưởng thưởng nhân viên. Dễ tiêu hoang phí cho mình, cho gia đình và cho người cộng tác. Không thích tiết kiệm mà thích sắm sửa. Rộng rãi về tiền bạc và quà bánh đối với mọi người. Quan niệm kiếm ra tiền là để tiêu pha cho sướng. Tóm lại, đó là người kiếm tiền cũng dễ dàng và tiêu pha cũng dễ dàng. Tiền bạc như chiêm bao, sáng vào tối ra là thường. Tình Duyên Tình duyên sâu xa, vững bền sau khi đã suy nghĩ kỹ lưỡng. Khi chưa kết hôn, thường là người đa tình, hào hoa và thích phiêu lưu tình cảm do đó có thể bị tai tiếng. Không muốn làm đau khổ kẻ khác, nhưng vô tình lại coi thường tình yêu. Khi lập gia đình rồi, là người rất trung thành, thích cảnh ấm cúng, săn sóc, chiều chuộng gia đình hết mực. Tuy nhiên không vì thế mà rời bỏ các đam mê riêng tư. Số 4 Tượng trưng cho công bình, trách nhiệm và bình yên. Liên hệ với sao Saturne (tử vi gọi là sao La Hầu). Số 4 tương đương với The Emperor (Hoàng Đế) của bài Tarot, tiêu biểu cho uy quyền tối thượng, nhưng chỉ trong một đại hạn nào đó. Tính Tình & Nhân Cách Làm việc nhiều, bền bỉ, tín cẩn, nhưng không phải là người sáng chế hay phát minh. Là cột trụ của kỹ nghệ và xã hội, tổ chức và kiến thiết giỏi. Làm việc với suy nghĩ chín chắn, cẩn thận chính xác. Nhiều khi đi sâu vào cả chi tiết vì vậy mà bị lạc khỏi mục tiêu chính. Lương tâm chức nghiệp nếu được dùng đúng chỗ sẽ đem đến kết quả tốt, nếu dùng sai sẽ bị phí thì giờ và mất năng xuất rất nhiều. Khuynh hướng bảo thủ, ưa chống đối các việc cải cách. Thường tìm hiểu do dự rất lâu rồi mới bắt tay vào việc. Tiền bạc rất quan trọng đối với họ vì lý do muốn đời sống được vững chắc hơn là hưởng lạc thú. Vì phải làm việc nhiều nên dễ nghi ngờ những sự thành công dễ dàng và phải đổi chủ trương: "thích thú trước việc làm." Hành động chín chắn nhưng lại phản ứng nhanh với các hành động bất bình đẳng. Và thường là người đòi hỏi các tổ chức và lãnh đạo các cuộc chống đối có trật tự và áp bức bất công. Thường trầm lặng, có điều độ, mực thước và ít biểu lộ. Ít có tính hài hước, không mấy tháo vác. Bản tính trung thành, tin cậy. Là những người bạn thật tốt và lâu dài. Hướng nội hơn là hướng ngoại. Có khuynh hướng trả thù hơn là tha thứ. Kém tế nhị, kém ăn nói. Thật thà. Nghĩ sao nói vậy. Không có tính chỉ huy nhưng rất cứng đầu, khó mà lay chuyển được ý định của họ. Công Việc, Năng Khiếu & Tiền Bạc Rất thích hợp cho các việc cần có sự tập trung và chú ý từng chi tiết. Các nghề thích ứng: kỹ sư, kiến trúc sư, thầu khoán, kế toán, thu ngân, quản thủ thư viện, hóa học, dược sĩ, toán học, luật gia hoặc thẩm phán xuất sắc. Có thể thành công trong các việc khảo cứu khoa học. Phần lớn thiếu óc sáng kiến và tưởng tượng nên không thích hợp với các nghề thương mãi, quảng cáo hoặc tuyên truyền. Là nhân viên rất có tinh thần trách nhiệm, có thể hợp với các công việc buồn tẻ, đều đặn và không chán. Rất tin cẩn, thật thà và ham làm nên thường là nhân viên đắc lực. Nếu làm chủ thì kém điệu nghệ vì thường hay đòi hỏi người làm cũng phải thích thú công việc như mình. Không biết tha thứ cả những lỗi nhỏ. Cẩn thận về tiền bạc. Biết để dành phòng khi mưa nắng trở trời. Mua bán rất chặt chẽ, không hoang phí. Thường mua đồ cũ hơn là đồ mới. Ít người thích cờ bạc hay đầu tư liều lĩnh. Họ chỉ dám làm các việc có kết quả chắn chắc và kiếm được đồng nào thì giữ chắc đồng đó. Tình Duyên Không tương tư một cách dễ dàng. Rất cẩn thận, thực tế, tiến bước trên đường tình một cách chậm chạp và chắc chắn. Rất hiếm người có tình yêu sét đánh, phần đông thường tìm hiểu lâu dài, từ một năm trở lên rồi mới quyết định, sau một năm nữa mới tới hôn nhân. Là một người lý tưởng cho những ai muốn kiếm một người tin cậy, làm việc nhiều và cương quyết. Thường dè dặt, ít bị chi phối bởi tình cảm nên có hạnh phúc với những người cùng chung mục tiêu. Cần tình yêu nếu không rất dễ bị cô quạnh, khổ sở nhưng lại ít dám tỏ tình. Rất thích hợp với các số 4, 7, và 9, là những người đồng quan niệm và rất nghiêm nghị. Kết hôn với 2 và 6 thường đem lại nhiều hạnh phúc nếu 2 bớt lãng mạn và 6 bớt lý tưởng. Có thể kết hợp với 1 và 8 nếu các số này bớt tính hợm hĩnh và óc chỉ huy. Không thích hợp với 3 và 5 vì đó là dầu và lửa. Số 5 Số 5 tượng trưng cho một trực giác thiên bẩm (true intuition), tượng trưng uy quyền thiêng liêng, sự NHANH TRÍ, hoạt động theo cảm hứng, phiêu lưu, gan dạ, sự kết hợp của tinh thần và vật chất. Số 5 tượng trưng với thần đại tư giáo La Mã (The Hierophant). Liên hệ với sao Mercury. Abraham Lincoln và Adolph Hitler thuộc loại người mang số 5. Tính Tình & Nhân Cách Sáng trí, hành động mau lẹ. Đặc biệt hơn cả, họ rất quý trọng tự do cá nhân và luôn luôn vận dụng tinh thần, đã thúc đẩy họ không ngừng hoạt động. Phần đông, họ sẵn sàng hy sinh quyền hành, địa vị cho sự họat động và phiêu lưu. Khi xuống tinh thần, họ thường trở nên dễ tức giận, cáu kỉnh và buồn bã. Thường làm việc một cách trì hoãn. Soạn thảo chương trình, kế hoạch và cuộc sống hàng ngày, không lo tới ngày mai, mặc cho giòng đời lôi cuốn, muốn ra sao thì ra. Có nhiều nghị lực và hứng khởi, và tuy thay đổi tính tình mau chóng, nhưng có sức chịu đựng. Rất ít có việc nào làm chán nản lâu dài. Bản tính lạc quan giúp cho họ mau lấy lại tinh thần. Thích thay đổi mới lạ bất cứ một việc gì. Không bận tâm cho lắm về vấn đề tình yêu hay tiền tài. Họ tận hưởng những gì mà tiền bạc có thể mang đến, nhưng luôn luôn ham phiêu lưu hơn cả. Người số 5 rất cương quyết và nhiều nghị lực, ý chí. Ít khi phải ngập ngừng, đắn đo trước một vấn đề nào. Thường cảm nghĩ cũng như hành động đều là tùy hứng. Rất nóng nảy, bộp chộp. Tuy nhiên, cũng có rất nhiều duyên dáng niềm nỡ và vồn vã. Thích các buổi họp, thích cười đùa, ca hát và chuyện phiếm. Dễ đem cái vui đến cho người chung quanh, làm người khác quên nỗi ưu phiền. Bị chi phối rất nhiều bởi tinh thần, có óc sáng kiến và thích đem ra áp dụng. Thường được người quen biết mến chuộng, nhưng đối với người biết rõ họ hơn thì lại giảm bớt sự mến chuộng vì cái tính quá bất thường của họ. Nhất là khi tức giận thì không thể kềm chế được. Công Việc, Năng Khiếu & Tiền Bạc Thường có bốn đặc tính đem lại thành công: thông minh, tài ba, nghị lực, và cá nhân tính. Nhưng đối với họ, thành công không phải là đạt được quyền hành hay tiền bạc mà là tận hưởng đời sống luôn luôn có các cuộc gặp gỡ và chinh phục mới. Không thích sự buồn tẻ với bất cứ giá nào. Vì vậy họ cần phải chọn nghề cẩn thận để khỏi phí phạm các đức tính sẵn có (mà còn phải khéo và không được an bằng). Nếu chọn lựa đúng nghề, họ có thể leo lên tột đỉnh. Chẳng hạn như: viết báo, sáng tác, hội họa, nhiếp ảnh, luật gia, thể thao gia, phi công v.v... Thích hợp được với các nghề: quảng cáo, tuyên truyền hay cần giao tế. Muốn thành công, cần phải có sự HỨNG THÚ. Rất bấp bênh về tiền bạc. Có thể thành triệu phú hay trắng tay trong một đêm. Rất rộng rãi về tiền bạc. Ít dành dụm. Nên để cho người khác quản trị họ trong vấn đề tiền bạc. Ít lo lắng về tương lai và những khi trở trời. Tình Duyên Dễ quyến rủ người khác và luôn luôn là kẻ hấp dẫn đối với kẻ khác phái. Thường có bản chất về tình cảm và tình dục rất mạnh. Hết sức lãng mạn. Yêu cuồng sống vội. Viết thư tình một cách say mê. Đi đến tính ước một cách bất tử. Kết hôn với họ, bạn có thể đi đến thiên đường hoặc đến địa ngục, ít khi là lưng chừng ở giữa. Thích hợp với họ, phải là người cũng ưa tự do, bay nhảy, hoạt động tùy hứng, hoặc là người khác hẳn, không cần thay đổi gì đến đời sống của họ cả. Người thích hợp hơn cả là người mang số 5. Hôn nhân có thể có rất nhiều sóng gió. Nhưng đối với họ, trật tự và bình yên không quan hệ lắm, chỉ cần có thích thú và tình dục thỏa mãn. Có thể hạnh phúc với người mang số 2, 3, và 6 miễn là cũng dám phiêu lưu trong vấn đề tài chánh. Cũng thế và trung bình với 1 và 8 (chỉ cần bớt độc đoán và chỉ huy). Số 6 Số 6 tượng trưng cho sự hòa hợp thẩm mỹ, ổn định quân bình, nhịp nhàng, hy sinh. Số 6 có ý nghĩa quyến rủ, nhịp nhàng cân nhắc, chọn lọc và tự do. Số 6 tương đương với thần ái tình (The Lover) ở bài bói Tarot. Liên hệ với sao Venus. Tính Tình & Nhân Cách Cứng cõi, mạnh mẽ, tin cậy, cao thượng, tế nhị, và rung động sâu xa trước cái đẹp. Bản tính nhân ái và rất chú trọng tới hạnh phúc của kẻ khác. Tuy có thể hoạt động tích cực ngoài đời nhưng trọng tâm đời sống là gia đình. Hy sinh cho gia đình đến dễ thành chiều chuộng quá mức. Rất có lương tâm và ưa sự chính xác, mẫu mực. Thường hay đảm đang luôn các việc của kẻ khác. Thường quá đi sâu vào chi tiếc cho nên hay bị lo lắng và không an tâm. Tính điều hòa, mềm mỏng, nhẹ nhàng, nhu mì, trầm lặng và duyên dáng dễ tạo nên cảm tình với người chung quanh. Bởi tính yêu mến thiên nhiên, rất dễ kết bạn và giữ được tình bạn lâu dài. Được mọi người ưa mến. Rất ít ghét ai trừ phi người nào đe dọa tới hạnh phúc của họ. Khi đó họ có thể thành một con hổ dữ. Thích những cái gì xinh xắn, đẹp đẽ. Nhà ở của họ thường phản ảnh sự yêu mỹ thuật. Thường thích hội họa, âm nhạc, điêu khắc. Là chủ nhà hoặc chiêu đãi viên rất được cảm mến. Thích giải trí, xã giao, hội họp, tiệc tùng và tổ chức rất khéo léo. Thường khuynh hướng về lý tưởng, nặng về tình cảm. Không ích kỷ, sẵn sàng giúp đỡ bạn bè, không cần phải đợi nhờ vã. Nếu đặt sự rộng lượng vào đúng hoàn cảnh thì tránh được việc bị lạm dụng. Cần phải biết từ chối. Biết trả lời KHÔNG trong những trường hợp bị đòi hỏi quá đáng. Công Việc, Năng Khiếu, & Tiền Bạc Có óc sáng tạo, rất dễ thành công trong các địa hạt nghệ thuật như: viết văn, hội họa, điêu khắc nếu không dồn hết tâm trí vào gia đình. Không bị lôi cuốn bởi tham vọng. Họ rất thích thành công nhưng không phải chỉ vì quyền hành. Thường dễ thành công nếu được sự thúc đẩy và giúp đỡ, khuyến khích của người thân. Bản tính nhân ái khiến họ đạt được nhiều kết quả quan trọng trong các nghề như: hội họp, hoạt động xã hội, bác sĩ, y sĩ, công cuộc từ thiện, săn sóc nhi đồng. Vì tin cậy được nên có khả năng trong các công việc như: thủ quỹ, thủ kho, kế toán v.v... Là nhân viên, họ có thể coi như hoàn toàn và thật thà, trung thành, chú ý tới chi tiết, thích tự hào khi đã chu toàn công việc. Là chủ nhân, họ cũng tốt vì biết chú trọng tới đời sống của nhân viên. Tuy nhiên, cần phải biết nghiêm ngặt, đừng để tình cảm lấn át công việc nhiều quá. Cũng không nên có cảm tưởng là họ chẳng thể nào hoàn toàn hoặc làm nên trò trống gì. Về tiền bạc, họ thích yên ổn và vượt cao hơn mọi người. Vì vậy, ít khi họ kiếm được một tài sản khổng lồ. Tuy nhiên, họ chi tiêu hợp lý, ít mắc nợ hay phung phí tiền bạc. Tuy rộng lượng về các thứ khác, nhưng ít khi rộng rãi về tiền bạc, kể cả đối với người trong gia đình. Không ham làm giàu bằng các cuộc thử thời cơ, may rủi. Tóm lại, là người rất cẩn thận và chặt chẽ về tiền bạc. Tình Duyên Quan niệm về tình yêu không viễn vông và lãng mạn. Đối với họ, tình yêu có mục đích rõ ràng là gắn liền với hôn nhân. Cho nên, trong việc giao thiệp với bạn khác phái, luôn luôn có ý nghĩ xây dựng lâu bền... Khi kết hôn, chỉ còn biết có gia đình, hầu như thế giới bên ngoài không còn gì khác để hướng tới nữa. Rất dễ cảm xúc và chan chứa tình thương. Đối với họ, yêu cũng cần như thở vậy. Sự thương cảm này có thể vượt quá mức và làm họ đau khổ. Kết hôn thích hợp nhất với người mang số 6 và 2, có thể hài lòng với 3 và 5. Giữa số 6 và 4 thường có sự xung đột, xích mích. Tuy nhiên, hai bên có thể tìm hiểu nhau, để đi đến sự hòa thuận. Xa cách và tương phản nhất với số 6 là số 1 và 8. Không thích hợp với số 7 trừ phi một trong hai thay đổi hẳn tính tình. Số 7 Số 7 tượng trưng cho khuynh hướng tinh thần và trí tuệ, cá tính riêng biệt, tư tưởng thâm trầm, và ảnh hưởng đến các môn khoa học kỹ thuật, triết lý, tôn giáo và siêu hình học. Số này tiêu biểu cho sức mạnh cường tráng và khả năng tiến thủ vượt bực về tinh thần và tâm linh, cao cả thiêng liêng. Số 7 liên hệ với sao Uranus (tử vi gọi là sao Thổ Tú), tương đương với thần Đại Trùng Tinh (The Chariot). Voltaire, Horace và Shakespeare đều thuộc loại người số 7. Tính Tình & Nhân Cách Tư tưởng thâm trầm và có vẻ phân tích. Nhiều ý kiến cá nhân, rất tự lập, ít nghĩ ngơi về tâm trí và thể xác. Rất chú trọng và tò mò về thời thế. Thích du lịch, nhất là đến những nơi xa xôi, hẻo lánh. Thích sự kín đáo, cô quạnh. Thường là kẻ sống với nội tâm, ít biểu lộ ra ngoài. Ham hiểu biết. Rất có khiếu về nghệ thuật thẩm mỹ và dễ xúc cảm với cái đẹp. Thường bất đồng ý kiến của đa số. Quan niệm của họ thường có tính cách triết lý và trực giác. Ít khi a dua hay bắt chước thời trang. Tự lập luận, tự quyết, không chịu theo ý kiến của người khác. Thích hoàn toàn, có tinh thần tự chí, tự phê bình rất nghiêm khắc. Tự đòi hỏi mình những tiêu chuẩn có khi quá cao với khả năng. Thường thì tính tình khó hiểu, và họ cũng khó tìm hiểu được người khác. Cô độc, dè dặt, bẽn lẽn, rất khó kết bạn. Tuy nhiên, khi đã là bạn rồi, họ trở thành người bạn rất tốt, trung thành, khoan dung. Vì tính thâm trầm, nên họ không thích hợp được với các cuộc hội hopï, tiệc tùng, liên hoan dạ vũ... Tìm thấy sự thích thú thoải mái trong các cuộc họp mặt nhỏ. Nói chuyện hay, biết nghe chuyện nhưng không thích các chuyện phiếm hay tán gẫu. Vì dè dặt, giữ gìn thận trọng nên thường bị người xung quanh hiểu lầm là có tính khinh người. Không thích la lối, nổi giận, nhưng tranh đấu mãnh liệt cho niềm tin tưởng của mình, tranh đấu một cách bền bỉ, thụ động nhưng bướng bỉnh. Rất tín ngưỡng và sống nhiều về tinh thần. Thích nghiên cứu về tôn giáo và thường trở nên người thâm trầm, sâu sắc và bí ẩn. Công Việc, Năng Khiếu & Tiền Bạc Thích hợp nhất với các công việc hay nghề nghiệp ít bị kiểm soát bởi người khác. Dễ thành công trong các lãnh vực nghệ thuật, viết văn, điêu khắc, hội họa v.v... Giáo dục, khoa học, hoặc tôn giáo cũng thích nghi với khả năng. Nhờ vào kiên nhẫn và kiến thức sẵn có, họ có thể gặt hái được nhiều kết quả tốt đẹp khi bắt tay vào việc. Thích biển cả, du lịch và có nhiều khả năng trong ngành hàng hải. Ít thích thú trong các việc thương mãi hay các việc cần đến sự giao dịch. Là nhân viên, họ rất tận tâm, chăm chỉ, ghét sự kiểm soát và bó buộc quá nhiều. Là chủ nhân, họ không đạt được nhiều thành công vì họ không thích ra lệnh, muốn cho nhân viên dưới quyền tự sáng kiến. Ít quan niệm về tiền bạc và mãnh lực của nó. Thấy tiền bạc là cần thiết nhưng không mơ ước nhà lầu, xe hơi. Thỉnh thoảng họ cũng dám tiêu xài phung phí nhưng thường thì có tính tiết kiệm hơn. Không thích các vấn đề hay sự việc có liên quan đến tiền bạc. Có tiền họ cũng để cho người khác quản trị dùm. Tình Duyên Dễ kết hôn trong nhiều trường hợp và thường rất sớm, nếu không thì rất muộn bởi vì càng lớn tuổi họ càng dè dặt. Sống xa cách với thế giới bên ngoài và khó biểu lộ cảm xúc. Rất tử tế nhưng không hẳn là dễ thương, dễ cảm bởi vì họ chú trọng nhiều về tinh thần và ít lệ thuộc chặt chẽ vào việc khác. Thí dụ, người chồng có thể nhớ vợ khi xa cách nhưng vẫn làm việc hăng hái, có kết quả tốt như lúc bình thường vậy. Hôn nhân hạnh phúc có thể tìm gặp với người mang số 9, 1 hay 7 vì giống nhau về tinh thần và nhân cách. Các số 6 và 2 ít thích hợp hơn cả, bởi lẽ hai số này rất dễ bị khổ sở bởi tính tình của số 7. Đối với các số 3 và 5, họ có thể tạo được hạnh phúc nhưng sẽ có những sóng gió bất thường. Có thể hài lòng với số 1 và 8 có tính chinh phục nhưng thường thiếu sự rung cảm sâu xa. Số 8 Số 8 tượng trưng cho quyền lực, thành công, chiến tranh, và tàn phá, có ý nghĩa lúc nào cũng phải tôn trọng công lý và đề phòng những tai nạn nguy hiểm và sự suy sụp, tàn phá. Số 8 liên hệ với sao Mars (tử vi gọi là sao Hỏa Tinh), và tương đương với The Strength của bài Tarot (thần Hùng Cường). Cựu Đại Tướng Hoa Kỳ William Westmoreland và cựu Đại Tướng Douglas MacArthur đều thuộc loại người số 8. Tính Tình & Nhân Cách Người mang số 8 có khả năng thiên phú về tập trung tư tưởng và chú ý, tự rèn luyện vào khuôn khổ kỷ luật. Có nhiều cá tính và ý chí sắt đá, là những người có quyết tâm khai sơn phá thạch. Ít khi làm việc gì mà không để hết nhiệt tâm. Rất nhiệt thành, cực đoan, và cuồng thị. Rất ghét những gì tầm thường, hoặc là thành công rực rỡ, hoặc là cam tâm thất bại ê chề. Tự rèn luyện khắc nghiệt và có khuynh hướng lôi cuốn người khác đi theo con đường của mình. Đôi khi thích hoạt động vì quyền hành nhưng thường tin rằng những người chung quanh cũng cuồng nhiệt phục vụ cho một lý tưởng như mình. Nhiều khi tỏ vẻ lạnh lùng, nhưng là người rất tốt bụng. Nếu có vẻ xa cách là bởi họ không biết cách hoặc khó biểu lộ cảm xúc. Thường có vẻ cô độc, thích được kết bạn với những người khác nhưng không đi đến chỗ thân mật được. Nhiều nghị lực và hoạt động. Thích theo đuổi những mục đích có cả tinh thần lẫn vật chất. Không chịu được sự thất bại và khi đã dấn thân vào việc gì dầu là việc tiêu khiển hay làm thiệt, cũng mong hòa hoặc thắng. Trong lần gặp gỡ đầu tiên, nhiều người sẽ bị quyến rũ ngay bởi sức mạnh nhân cách của họ, như bị thôi miên vậy. Tuy nhiên, càng tiếp xúc với số 8 nhiều và càng lâu, sự mến phục này càng giảm đi và số 8 bị mất dần đi số người ái mộ. Khi muốn, họ tự tạo cho mình sự nổi bật và duyên dáng. Nhưng họ rất ít muốn làm như vậy, trừ những lúc họ cảm thấy thật sự cần cho họ. Vì ham muốn đạt được mục tiêu, đôi khi họ trở nên cứng rắn, khắc nghiệt với những người mà họ không có cảm tình. Là người bạn rất trung thực và tin cẩn, thường sẵn sàng đứng lên bênh vực và che chở cho những người thân của họ. Với kẻ thù, họ trở nên đáng sợ vì họ rất khó quên những xích mích, dù nhỏ nhặt. Và khi đã bùng nổ tranh chấp hay hiềm khích, họ sẽ chiến đấu đến cùng. Công Việc, Năng Khiếu & Tiền Bạc Thường thành công rực rỡ trong các chức vụ quan trọng. Nhất là các địa vị hữu quyền vì ngoài khả năng tập trung, chú ý, tự ghép mình vào khuôn khổ kỷ luật, họ còn là người làm việc có kế sách chặt chẽ, có sáng kiến, và biết áp dụng những tư tưởng mới lạ. Khi tận lực cho công việc, họ có thể đạt đến tột đỉnh của thành công. Tuy nhiên, vì có tài năng và muốn lãnh đạo họ cần phải thận trọng lựa chọn đường lối bởi lẽ nếu đi nhầm đường, họ là những phần tử đe dọa cho xã hội. Là nhân viên họ rất tận tâm trong mọi công việc, luôn tỏ ra nhanh chóng và hữu hiệu. Tuy nhiên, các bạn đồng nghiệp rất dễ hiểu lầm là họ muốn chơi trội hay nhảy vọt qua một cách vội vàng. Trong công việc cũng như giao tế, họ cần phải lịch thiệp, khôn khéo hơn, và ít đòi hỏi hơn. Là chủ nhân, họ rất hăng hái hoạt động, và muốn tất cả nhân viên cũng hăng hái như họ vậy, hay cũng thận trọng và làm việc vất vả như họ. Họ rất có khả năng trong lãnh vực tài chánh, có thể nói họ nhúng tay vào việc gì là việc đó hái ra tiền. Cương quyết có óc thực tế, biết đánh giá đồng tiền tiêu pha một cách hợp lý, xứng đáng, không chặt chẽ về vấn đề tiền bạc nhưng cũng không phung phí tiêu pha liều lĩnh. Kinh doanh nhiều thắng lợi. Rộng rãi với gia đình, bạn bè nếu cho rằng đó là người biết kiếm tiền, biết xử dụng đồng tiền. Tình Duyên Rất thay đổi, từ chỗ yêu tha thiết đến hoàn toàn dửng dưng. Điều này có thể chứng tỏ tình yêu nồng nàn, say đắm, nhưng có khi lại rất xa cách, lạnh nhạt. Trong tình yêu, rất ít người số 8 tìm được hạnh phúc trong sự trung dung. Tình yêu với họ hoặc là đầy ngọt ngào hoặc là nhiều cay đắng. Tuy hôn nhân của họ có thể trải qua nhiều cay đắng nhưng không bao giờ buồn tẻ. Họ là những người hoạt động, dễ làm nẩy nỡ những sự hào hứng mới, vì vậy mà họ (nhất là nam giới) rất quyến rũ đối với người khác phái. Trong khi họ có thể mất nhiều bạn thân, họ lại được rất nhiều mến chuộng trong cương vị tình nhân hay vợ chồng. Nếu các số 2 và 6 thông cảm được bản tính của họ, hôn nhân sẽ đạt nhiều hạnh phúc. Họ cũng thường được hài lòng khi kết hôn với số 4 và 7 hay 9 tuy đôi khi thiếu sự nồng nàn. Nhiều khi sự kết hợp của họ đối với số 3 và 5 cũng đem lại nhiều hạnh phúc nếu cả hai người cùng biết tương nhượng lẫn nhau. Họ không thể hòa hợp được với số 8 hay 1 vì những con số này có bản tính háo thắng, dễ va chạm trong cuộc sống hàng ngày. Số 9 Số 9 thể hiện tình thương vô bờ bến đối với nhân loại. Có ý nghĩa là phải sống khổ hạnh mới tìm ra chân lý và khuyên chúng ta: "sự im lặng là vàng bạc, lời nói phải cẩn thận, phải suy nghĩ chín chắn trước khi phát ngôn." Số 9 liên hệ với sao Neptune, tương đương với The Hermit (Thần Tu Khổ Hạnh) của bài Tarot. Đức Khổng Phu Tử và Thủ Tướng Ấn Độ Thánh Gandhi thuộc loại người số 9. Tính Tình & Nhân Cách Rất thụ cảm và tế nhị. Cảm thông với những nhu cầu đòi hỏi của người chung quanh và sẵn sàng giúp họ thỏa mãn một cách nồng nhiệt. Các nạn nhân của bạo lực và áp bức, những người bị bạc đãi, hất hủi, bệnh tật, già yếu, không may mắn... đều gây cảm xúc cho họ như là những người thân thuộc vậy. Khi theo đuổi một nguyên do chính đáng, họ say đắm đến độ quên lãng cả gia đình. Tính lại, họ là con người rất nhân ái và lý tưởng. Bị chi phối bởi trực giác và tình cảm nhiều hơn là lý luận và trí thức. Mặc dù rất thụ cảm, họ rất dè dặt, thường rút lui vào địa hạt triết lý, tâm linh với hy vọng tìm ra được giải quyết thỏa đáng cho những vấn đề về những đau khổ của loài người. Ít khi bị quyến rũ bởi tiền bạc hay quyền hành, trừ phi đó là những phương tiện cứu giúp người. Có tính chịu đựng bền bỉ, can đảm và cương quyết nhưng lại ít dùng tính đó để suy cho mình. Mục đích của họ là tình yêu rộng lớn, lòng đại lượng và sự thông cảm. Được nhiều người mến chuộng cũng như bị nhiều người ghen ghét bởi vì họ kết bạn dễ dàng nhưng thường không giữ được bạn bởi tính tình nông nổi bồng bột. Không ưa cãi cọ về những chuyện vụn vặt nhưng lại rất chú trọng đến các vấn đề quan trọng và dễ gay gắt, giận dữ với những người không đồng quan điểm. Thường thì dè dặt, tự quyết, tự lập, và ẩn tránh nhiều hơn. Về một vài khía cạnh khác, họ là một cá nhân rất mau mắn và hay thay đổi. Hôm nay thì buồn bã ủ ê, nhưng hôm sau sẽ vui nhộn hứng khởi. Tuần này hăng hái sôi nổi. Tuần sau đã dửng dưng lạnh nhạt. Tuy nhiên có một điểm cố định dù tính tình và hoàn cảnh có thay đổi, mục tiêu duy nhất là tự do và tình yêu thương đồng loại. Công Việc, Năng Khiếu & Tiền Bạc Thích hợp hơn cả với những công việc và nghề nghiệp đòi hỏi sự giúp đỡ người khác nếu biết hòa đồng tính tình, họ sẽ là những nhà lãnh đạo tôn giáo, các bác sĩ, y tá, trợ tá, cán sự xã hội và kể cả thợ thuyền rất khéo léo tài ba. Tuy dè dặt, nhưng cũng có nhiều người thích xuất hiện trước quần chúng và có thể thành công như nhà hùng biện, thuyết pháp, chính trị gia, giảng viên, hay giáo sư triết học. Tuy có trí thông minh và tài lãnh đạo rất cần thiết cho việc kinh tài họ lại thường không thấy hạnh phúc. Làm việc chỉ vì tiền hay vì danh tiếng không làm cho họ thỏa mãn. Nên tránh các nghề như tài chánh, kinh toán, quảng cáo. Luật học rất thích ứng với họ nếu họ được phép bênh vực thẳng thắn cho chính nghĩa. Là nhân viên, tánh tình thất thường, họ chỉ đạt được kết quả tốt nếu biết để hết nhiệt tâm vào việc làm cũng như sự tin tưởng. Rất dễ để tình cảm xen vào công việc. Là chủ nhân, họ rất điệu vợi, thiệt thà và rộng lượng. Về tiền bạc, họ thường không thành thạo trong vấn đề quản trị. Có người kiếm được nhiều tiền và giàu có thường là do may mắn nhiều hơn. Đại lượng, sẵn sàng giúp đỡ gia đình và bạn bè, có khi cả những người rất xa lạ nữa. Không hiếm những người số 9 bị nợ nần nhiều. Tuy thích tiền bạc, nhưng lại không nô lệ cho đồng tiền. Đối với họ, đồng tiền kiếm ra được chỉ để tạo tiện nghi cho đời sống vật chất, chứ không phải dùng để tạo thế lực hay dùng để đẻ ra đồng tiền khác. Tình Duyên Là người bạn đường rất tín cẩn và chung tình. Hôn nhân đối với họ rất thiêng liêng. Rất ít than phiền về bạn trăm năm của mình với người khác dù là bạn bè thân thuộc, và ngược lại, rất là khổ sở nếu người yêu của mình phân trần chuyện gia đình với người ngoài. Họ đáng kính trọng nhưng chưa phải là người bạn lý tưởng. Cũng giống như một số đông các bác sĩ, họ giành hầu hết thì giờ và năng lực cho những người khác, nhiều khi quên lãng gia đình. Đời sống tình cảm khô khan. Họ bị hăng say về công việc, họ quên cả những ngày nghĩ lễ quan trọng như sinh nhật hay ngày Tết, Noel. Tuy tình cảm khô khan nhưng nhiều khi họ cần sự yêu đương. Họ thích hợp với số 4, 7 hay 9 vì đồng tính tình và mục tiêu giống nhau. Đôi khi số 9 kết hợp với số 2 cũng sung sướng. Với sự chịu đựng và cố gắng của cả hai bên, số 9 có thể kết hợp với số 3, 6 hay 8. Phải thận trọng khi muốn kết hợp với số 1 hay số 5 vì tính tình trái ngược.1 like
-
Chào các ACE, ACE vui lòng dành ít phút đọc bài này trước khi gửi thắc mắc, do thời gian qua có quá nhiều người thắc mắc câu hỏi lặp đi lặp lại. Để tham gia gửi bài được trên diễn đàn bạn cần phải qua các bước sau: 1. Đăng ký thành viên. 2. Xác nhận email. 3. Sau khi xác nhận email thành công bạn phải chờ Quản trị viên xét duyệt một lần nữa. Nếu chưa qua 3 bước trên thì bạn vẫn chưa thể sử dụng chức năng của diễn đàn. Ngoài ra đối với mục thuộc khu vực TRAO ĐỔI HỌC THUẬT các bạn phải đăng ký và được xét duyệt thì mới vào được. Bấm vào đầy để đăng ký Thân!1 like
-
TÍCH THIÊN TỦY (người dịch vnn1269) . . . . . . . . Chương 4 . Tri mệnh . . . . . . Tân mão - Đinh dậu - ngày Canh ngọ - Bính tí ". . . .Thiên can canh tân bính đinh,CHÍNH PHỐI hỏa luyện thu kim;địa chi tí ngọ mão dậu,cư ở bốn cung khảm ly chấn đoài.Cả bốn chi đều ở tứ chính,KHÍ QUẢN TÁM PHƯƠNG,. . . . . mão dậu tức chấn đoài chủ nhân nghĩa hơn người;Tí ngọ tức khảm ly là khí đứng đầu trong trời đất.VỚI LẠI KHẢM LY ĐẮC NHẬT NGUYỆT CHI CHÍNH THỂ,VÔ TIÊU VÔ DIỆT , MỘT TƯƠI NHUẬN MỘT ẤM ÁP.TỌA TẠI ĐOAN MÔN,THỦY HỎA KÍ TẾ.CHO NÊN TÁM PHƯƠNG QUI PHỤC,BỐN BIỂN CÙNG VỀ ,THIÊN HẠ THÁI BÌNH THỊNH THẾ VẬY ."“. Nay luận sâu thêm một chút câu : “...CHO NÊN TÁM PHƯƠNG QUI PHỤC,BỐN BIỂN CÙNG VỀ....” xem sao. Trụ năm Tân Mão thiên khắc địa xung với trụ tháng Đinh Dậu, trụ ngày Canh Ngọ thiên khắc địa xung với trụ giờ Bính Tý đều gần nhau cho nên lực của chúng là mạnh nhất mà 4 can là Canh, Tân (Kim) vượng được Bính, Đinh (Hỏa) đủ vượng tôi đã thành Kiếm Thần còn 4 chi là Tý, Ngọ, Mão và Dậu là chủ về Bốn phương, Tám hướng (là mặt đất mà con người và xã hội đang tồn tại trong đó). 2 cặp thiên khắc địa xung gần cho biết cả 4 can và 4 chi này luôn luôn trong trạng thái động (không giống như một trụ trong tứ trụ thiên khắc với đại vận thì chỉ có 10 năm đó động còn với lưu niên thì chỉ có năm đó động), vì vậy ông ta luôn luôn thâu tóm được thiên hạ trong tay bằng cây kiếm thần này.1 like
-
Bàn về Tứ Trụ của vua Càn Long Thongphanthiet đã viết: “Tân mão đinh dậu canh ngọ bính tí Kính thưa các Bác tôi đã nhiều lần đọc bài luận giải tứ trụ vua Càn Long dưới hình thức là ví dụ mẫu cho trường hợp cách cục đặc biệt , nhưng tôi vẫn chưa hiểu vì lời giải đậm chất Hàn lâm ,cao siêu khiến tôi mỗi lần chỉ cần nhìn qua là đã cảm giác khó chịu ,ấm ức . Là kẻ hậu học tôi kính mong các Bác cao nhân luận giải tứ trụ này theo từ ngữ "bình dân" ,và nếu được có thể chuyển nó qua cách cục phổ thông mà luận càng hay . Trân trọng kính chào . TÍCH THIÊN TỦY (người dịch vnn1269) . . . . . . . . Chương 4 . Tri mệnh . . . . . . tân mão đinh dậu canh ngọ bính tí ". . . .Thiên can canh tân bính đinh,CHÍNH PHỐI hỏa luyện thu kim;địa chi tí ngọ mão dậu,cư ở bốn cung khảm ly chấn đoài.Cả bốn chi đều ở tứ chính,KHÍ QUẢN TÁM PHƯƠNG,. . . . . mão dậu tức chấn đoài chủ nhân nghĩa hơn người;Tí ngọ tức khảm ly là khí đứng đầu trong trời đất.VỚI LẠI KHẢM LY ĐẮC NHẬT NGUYỆT CHI CHÍNH THỂ,VÔ TIÊU VÔ DIỆT , MỘT TƯƠI NHUẬN MỘT ẤM ÁP.TỌA TẠI ĐOAN MÔN,THỦY HỎA KÍ TẾ.CHO NÊN TÁM PHƯƠNG QUI PHỤC,BỐN BIỂN CÙNG VỀ ,THIÊN HẠ THÁI BÌNH THỊNH THẾ VẬY ."“. Tuem đã viết: “Kính gửi bác thongphanthiet Theo cách em hiểu thì ngữ nghĩa của đoạn văn đó như sau . Thiên can Canh Tân Bính Đinh chính phối hỏa luyện Thu kim : tức Bốn can Canh Tân Bính Đinh đóng bốn cung Tứ chính tí ngọ mão dậu ,nên gọi là CHÍNH PHỐI ,nhật nguyên Canh kim vượng nên nhờ Hỏa tôi luyện (hỏa luyện Kim thu). Theo Kinh Dịch thì Bát quái gồm tám cung :Càn Khôn Ly Chấn Khảm Đoài Cấn Tốn trong đó Tí cư Khảm,Ngọ cư Ly,Mão cư Chấn,Dậu cư Đoài.Cả Bốn chi đều ở tứ chính,Khí-Quản-Tám-Phương (vì sao khí quản tám phương ,em ko hiểu ? ).Mão (chấn) thuộc Mộc chủ Nhân,Dậu(đoài)thuộc Kim chủ Nghĩa . Tí Ngọ tức Khảm Ly là khí đứng đầu trong Trời Đất : theo Kinh Dịch vũ trụ từ Khảm Ly (thủy hỏa)mới sinh ra các chất khí khác . Những câu còn lại có lẽ chỉ là những là những lời tán dương tung hô công đức Thiên tử của các quan Thái Bốc ,mà ta thường thấy trong các triều đại phong kiến . Lời giải thích của em có đúng ko ạ ? Kính thưa các Bác . Tân mão đinh dậu canh ngọ bính tí Đã biết đây là tứ trụ vua Càn Long thì cứ theo đó mà đoán xem ra rất dễ (vì đã biết những điều muốn biết) . Tứ trụ này Quan Sát hỗn tạp, tả hữu lưỡng thấu .Nhật nguyên đứng giữa, quần thần (quân tử-tiểu nhân : Lưu Dung - Hòa Thân) chầu hai bên . Xa xa trụ năm Tân mão : Tân hỉ thần đắc lộc lệnh tháng,Mão Chính khí đắc Chính Tài là thừa hưởng ( Ất hợp Canh ) cả sự nghiệp mênh mang của ông cha (Khang Hy,Ung Chính) để lại .Đó cũng là Quyền Ấn thực thụ có bảo chứng giá trị gấp trăm lần Quan Ấn tàng trong chi ngày Ngọ của Đương số vốn vừa đủ để phòng ngừa Quan Sát làm hỗn phạm thượng (nếu lỡ găp tuế vận khích động ) .Bố cục như thế thật oai nghiêm chính đính . Cái lý thú của Mệnh này là ,dù quan sát hỗn tạp cặp kè sát nách ông vẫn ung dung như ko, khi thì đùa với quân tử (Quan) ,khi thì bỡn với tiểu nhân (Sát) . Nếu là Mệnh quan triều đình (nói chi đến thảo dân) thì đừng hòng . Có phải vì ông biết mệnh ông Sát đã bị chế ngự ,hay là vì Quan Ấn tàng Ngọ rất đắc cách ,lại đóng đúng dưới ngai vàng nơi ông tọa ? . Kính gửi bác thongphanthiet cách luận trên có vẻ dân dã đúng như ý bác không ? Dù sao đi nữa cũng lấy vui làm chính . Xin lỗi các Bác , phàm những tứ trụ của một người mà mình đã biết trước thì rất dễ đoán,dễ luận (vì đâu có sợ sai) ,Em cũng nằm trong trường hợp đó .Mong các Bác lượng thứ . Kính .“ Vulong đã viết: “Tứ trụ vua Càn Long : Tân Mão – Đinh Dậu – ngày Canh Ngọ - Bính Tý Càng suy ngẫm tôi càng cảm thấy những lời bình luận của người xưa quả thực là chính xác và sâu sắc, thể hiện một trình độ cao siêu. Tứ Trụ này thuộc loại cách cục đặc biệt hiểu theo nghĩa tuyệt vời, là một trong các cách cục đẹp nhất của môn Tử Bình. Nói chung tuem đã giải thích rất sát với nghĩa của bài luận về vua Càn Long này nên tôi chỉ nói lại nghĩa của lời bình này theo đúng điều mà thongphanthiet yêu cầu. 1 - Mệnh này Thân vượng mà Quan cũng vượng nên tài phải nhược là hợp lý để Quan không thể thắng được Thân. 2 – Thân có 3 can chi (kể cả can ngày) còn nắm lệnh, nó đủ súc thắng Quan Sát cũng có 3 can chi nhưng không nắm lệnh, vì vậy dụng thần vẫn có thể lấy Quan (đại diện cho Quan liêm khiết, chính trực…) Đinh ở trụ tháng, thì dĩ nhiên là quan to mà là Quan quân tử rồi. 3 - Mặc dù Tài Mão đóng ở trụ năm là của cải của ông cha nhược nhưng có Tý Thủy được lệnh không bị thương tổn hóa Kim vượng sinh cho nên nguồn của cải dồi dào. 4 - Tứ trụ này không còn là Quan Sát hỗn tạp bởi vì Sát Bính tử tuyệt ở lệnh tháng mà bị Tý được lệnh không bị thương tổn (vì mặc dù Tý thiên khắc địa xung gần với Ngọ trụ ngày nhưng Bính vượng còn Ngọ tử tuyệt) khắc trực tiếp (cùng trụ). Do vậy Sát đã biến thành Quan giúp vua (từ tiểu nhân thành quân tử). 5 – Quan (Đinh) và Ấn (Kỷ tàng trong Ngọ) tương sinh còn có Kình Dương (Dậu) thì không gì là không quý hiển. 6 - Trụ năm Tân Mão thiên khắc địa xung với trụ tháng Đinh Dậu, trụ ngày Canh Ngọ thiên khắc địa xung với trụ giờ Bính Tý đều gần nhau (lực rất mạnh) mà Tý Ngọ Mão Dậu là chủ về bốn phương tám hướng cho nên ông ta luôn luôn thâu tóm được thiên hạ. 7 – Thân (Canh Kim) vượng được Hỏa (Đinh) đủ mạnh tôi sẽ trở thành vũ khí (kiếm) để cai trị thiên hạ, nó còn đại diện cho người quân tử có nghĩa khí. Tất cả các thông tin này đã trở thành sự thực bởi vì các can chi ở đây đứng đúng vị trị đẹp nhất có thể có của môn Tử Bình như : - Đinh là Quan (quân tử) được lệnh đóng đúng trụ tháng chế ngự gần và trực tiếp Nhật can (Canh) và tỷ kiếp (Tân và Dậu) để cho Thân không quá vượng mục đích bảo vệ Tài (Mão Mộc). Đinh coi như không bị thương tổn bởi vì nó chỉ bị Tý khắc cách 2 ngôi. - Tý được lệnh chế ngự Sát Bính (tiểu nhân) trực tiếp và Ngọ gần, mục đích bảo vệ Thân (tức làm Quan Sát không quá vượng để thắng Thân). Tý không bị thương tổn bởi vì không có Thổ, còn Ngọ gần nhưng ở tử tuyệt. (Giả dụ chỉ cần Tý vượng chế ngự Quan là Bính thì mọi điều sẽ khác ngay).“1 like
-
Mua tượng hay tranh ngựa nào cũng được, nhưng phải biết để ở đâu, mục đích gì, tại sao phải để, đó mới là vấn đề chứ kevin. Thiên Đồng1 like
-
Nơi đan xen của thần bí Một số bệnh kỳ lạ mà người mắc cho là do "nơi ở có ma" đã được các nhà khoa học giải thích như sau: thực ra có thể là do tại một số mảnh đất, nơi con người đang ở có dòng địa điện sinh ra bức xạ điện từ và hiện tượng rối loạn địa từ cục bộ gây nên. Các nhà khoa học cũng đã chứng minh rằng, hầu như mọi nơi trên mặt đất đều có dòng địa điện xuyên qua chằng chịt giống như mạng nhện, chỉ khác là mức độ nhiều ít, mạnh yếu khác nhau. Những nơi có dòng địa điện giao thoa thành một luồng tác dụng lực mạnh mẽ thì sẽ gây nguy hại cho cơ thể rõ rệt, vì bức xạ điện từ, hay còn gọi là địa bức xạ do chúng sinh ra có thể khiến con người sống ở nơi ấy bị các tình trạng như: tinh thần luôn hoảng hốt, sợ hãi, nôn nóng bất an, nhiều lúc đau đầu, chóng mặt, nhức mắt. Một ví dụ điển hình về hiện tượng này là tại một khu vực giữa đường quốc lộ ngoại ô thủ đô Vacsava của Ba Lan, được gọi là "Tam giác trăm mộ địa". Tai nạn xe cộ xảy ra ở đây nhiều đến mức khó tin, đặc biệt thường xảy ra trong những ngày trời nắng đẹp không mây, tầm nhìn tốt. Không những thế, tai nạn gây ra đều do tài xế có nhiều năm kinh nghiệm và tay nghề cao. Ngành quản lý quốc lộ Ba Lan đã mời các chuyên gia đến "hội chẩn". Họ đã phát hiện tại khu vực này luôn có dòng địa điện giao thoa ngang dọc và đan xen dày đặc, đồng thời còn thường xuất hiện sự rối loạn địa từ cục bộ, hình thành một luồng lực tác dụng mạnh, gây ảnh hưởng đến hành vi, trạng thái tinh thần của người lái xe. Các nhà khoa học đã dùng thiết bị đo được cường độ bức xạ của dòng điện đan xen tồn tại ở khu vực này. Ngành y sinh học cũng thừa nhận, hiện nay trên thế giới có một số căn nhà khi người vào ở dễ bị ung thư và người ta gọi đó là "căn nhà ung thư". Các nhà sinh hóa địa chất cũng chứng minh rằng "căn nhà ung thư" thường ở vào chính nơi đan xen của dòng địa điện, sinh ra địa điện từ. Họ còn cho biết, không ít động vật như chó, ngựa... có thể phát hiện ra địa điểm có dòng địa điện thần bí này, từ việc chúng không thể ngủ được ở đây. Một số loài khác như mèo, ong, rắn... thì lại chỉ ngơ ngác như muốn đi tìm cái gì đó mà không thấy. Nguyên nhân của hiện tượng này vẫn chưa được lý giải rõ ràng. Tuy hiện tượng đan xen của dòng điện cho đến nay vẫn chưa có phương pháp giải trừ, nhưng với kiến thức khoa học, con người cũng không chịu bó tay. Chẳng hạn, một phụ nữ Trung Quốc nhận được tiêu chuẩn chuyển đến nơi ở mới tiện nghi hơn. Nhưng tại đây gia đình bà gặp nhiều phiền phức, bất ổn trong cuộc sống và sinh hoạt. Với kiến thức đọc ở đâu đó về hiện tượng dòng địa điện giao thoa, bà đã chuyển vị trí giường ngủ và đổi đầu giường nằm... Sau một thời gian, gia đình bà thoát khỏi rắc rối do sự quấy nhiễu của lực địa từ thần bí. Theo kể lại, ở Tây Âu thời cổ đại, các vua quan khi xác định địa điểm để kiến tạo một thành phố mới nào đó, đầu tiên họ thả một con dê đến nơi đó sinh sống trước ít nhất một năm, sau đó đem giết mổ. Nếu phát hiện trong gan nó có biểu hiện bệnh tật thì sẽ bỏ địa điểm này và tìm chỗ khác. Đây có thể chính là phương pháp nguyên thủy của người cổ xưa "hướng lành tránh dữ" để tránh những nơi có dòng địa điện đan xen làm phiền phức cuộc sống con người. Một số nghiên cứu hiện nay đã chứng minh, sự xuất hiện "nơi ở ma quỷ" hay "căn nhà ung thư" còn có nguyên nhân trực tiếp khác, đó là ở dưới lòng đất, nơi con người cư trú có khí radon (Rn) vượt quá mức bình thường. Radon là khí không màu, không mùi, có tính phóng xạ (các nhà khoa học đã gọi chất khí này bằng cái tên rất kêu "bàn tay ma quỷ"), trực tiếp uy hiếp sức khỏe con người. Một số nghiên cứu khác đã chứng minh, radon có thể trực tiếp thông qua đường hô hấp tích tụ trong phổi, phá hoại tế bào phổi và dẫn đến ung thư. Theo Cục Bảo vệ môi trường Mỹ (EPA), ở Mỹ mỗi năm có khoảng 5.000-10.000 người chết vì ung thư phổi do khí radon gây nên. Theo lấy mẫu xác định trong 14.000 căn nhà, 21% số căn nhà có hàm lượng khí radon cao hơn quy định ở mức độ nhiều ít khác nhau; về vấn đề này, các ngành có liên quan đến bảo hộ môi trường Mỹ đang nghiên cứu tìm cách đối phó. Một số nghiên cứu khác cũng đã chứng minh, một số căn nhà được gọi là "nơi ở ma quỷ" vì nằm trong khu vực thổ nhưỡng có các nguyên tố kim loại nặng, độc (như kali, thủy ngân) với hàm lượng cao, làm ô nhiễm nguồn nước và gây nên bệnh tật. Các nguyên tố kim loại nặng độc này tích tụ trong thổ nhưỡng, thường là do ở khu vực lân cận tồn tại mạch khoáng của các kim loại nặng, hoặc ở gần đó có nhà máy liên quan đến sản xuất chế biến các nguyên tố này. Thung lũng Silicon, bang California là trung tâm công nghệ cao nổi tiếng của Mỹ. Trong thung lũng có một công trình kiến trúc được mệnh danh là tòa nhà "có ma quỷ ở" lâu đời nhất trong lịch sử nước Mỹ. Đó là "tòa nhà thần bí Winchester", do bà Rola Winchester (1839-1911) xây dựng nên. Tòa nhà vừa xây xong thì chồng và con của Winchester lần lượt qua đời. Cũng từ đó, Rola Winchester tuy còn trẻ nhưng lại trở thành người phụ nữ có nhiều hành vi kỳ quái, những ý đồ hoang tưởng, chỉ muốn hưởng thụ và rất sợ chết. Một nhà thần học sau khi đi thăm xung quanh tòa biệt thự đã nói: "Tôi cảm nhận ở đây hình như có lực tác dụng siêu tự nhiên". Nhiều người sống xung quanh biệt thự cho biết, ban đêm đã nhìn thấy trong tòa nhà có những ngọn lửa nhấp nháy. Người sống ở trong khu nhà thì nói, ban đêm thường nghe thấy những tiếng bước chân kỳ lạ. Điều kỳ quặc là thỉnh thoảng hầu hết các bóng điện trong tòa nhà đều nổ tung cùng thời điểm. Có nhiều khi cả tuần lễ, trong các phòng bếp của tòa nhà, người ta không thể nấu xúp và làm chín thức ăn được vì nước không thể đun sôi. Sau khi chủ nhân tòa biệt thự qua đời, không ai dám ở đó nữa và chính quyền địa phương trưng dụng biến thành bảo tàng. Người phương Đông xưa tin rằng trái đất có những kênh dẫn khí thiên nhiên giống như kinh mạch trong cơ thể người và gọi đó là "địa mạch". Dòng khí trong các địa mạch tỏa bức xạ ra môi trường. Bức xạ này có thể tốt hoặc xấu cho sinh vật, kể cả con người sống trong môi trường đó. Lý thuyết từng bị xem là huyền bí này đã được các nhà khoa học chứng minh là đúng qua những công trình nghiên cứu nghiêm túc. Có nhiều cách để xác định nơi nào có địa khí nguy hại. Cách cổ xưa nhất là "tìm mạch" được sử dụng ở châu Âu từ mấy nghìn năm nay. Một cách khác là dùng những dụng cụ khoa học đo lường mức độ rối loạn trong từ trường trái đất tính bằng nano Teslas. Giáo sư Deter Kugler, giảng dạy địa sinh học ở Heilbrunn, Đức, kể lại nhiều trường hợp giúp hóa giải tác dụng tiêu cực của địa khí. Có một bà nhờ ông xem nơi ở và không cho biết gì thêm. Giáo sư Deter khám phá ra giường của cháu trai bà nằm trên vùng tác động cao, đầu giường hướng thẳng về giao điểm của hai mạch nước trùng với một giao điểm địa khí Benker. Dựa vào kiến thức về các kiểu địa mạch, ông bảo nếu bà cứ để đứa cháu ngủ tại điểm này, nó có thể tự tử. Lúc đó, bà mới kêu lên cho biết cha của nó, cũng từng nằm ngủ nơi này, và đã treo cổ tự vẫn. Giường được chuyển qua vị trí tốt, đứa trẻ thấy thư thái hơn và không còn những hành vi bốc đồng. Một lần khác giáo sư Deter được mời đến giúp một phụ nữ, người mà cứ 7 giờ tối là lên cơn đau đầu chữa mãi không khỏi. Nhiều thầy phong thủy đã dùng đến những dụng cụ đo môi trường khác nhau để mong khám phá những "phạm vi thông thường" như lực tác động của địa khí hoặc trường điện từ, nhưng không ai tìm ra nguyên nhân của cơn đau đầu để giải quyết. Sau khi xem xét cẩn thận mọi góc độ của ngôi nhà và được biết bà chủ có thói quen ngồi độc sách báo hoặc xem tivi vào 6h30 tối, giáo sư Deter mở cửa bước vào căn phòng nhỏ phía sau cái ghế bà ngồi hằng ngày và thấy một cái giá cắm nến bằng sứ mà bà mang từ Tây Ban Nha về. Ông lấy dụng cụ ra đo và phát hiện có phóng xạ trong chất sứ của giá đèn. Bà chủ đem giá đèn ra chỗ khác và từ đó hết đau đầu. Năm 1960, chuyên gia nghiên cứu địa mạch Benker tìm ra hệ thống địa khí gồm những kênh rộng 80 đến 100 cm và cách nhau 10 đến 12 mét. Một kênh Benker gồm 3 phần: phần bên này có phóng xạ tiêu cực, phần bên kia có phóng xạ tích cực và phần giữa có thể có phóng xạ tiêu cực hoặc tích cực. Nếu một ngôi nhà xây trên "giao điểm khí" tích cực, người cư ngụ sẽ có cơ may khỏe mạnh. Trái lại, những giao điểm khí tiêu cực làm suy yếu người ở trên đó. Nhà vật lý W.O. Schumann đưa ra lý thuyết từ trường trái đất rung động cùng tần số như sóng alpha của não người (7,83 Hz hoặc chu kỳ mỗi giây), và lý thuyết này được Văn phòng tiêu chuẩn quốc gia Mỹ công nhận là đúng vào năm 1962. Có lẽ trong quá trình tiến hóa, các sóng não của con người rung động theo tần số nền tự nhiên của trái đất. Do đó, nếu tần số từ trường thay đổi, sức khỏe của con người sẽ bị ảnh hưởng. "Sóng Schumann" rất có ý nghĩa ở mức tế bào trong việc điều hành các hệ thống sinh học của chúng ta. Những biến lệch trong từ trường sẽ gây rối loạn cho việc liên lạc giữa các tế bào và làm suy yếu các hệ thống trong cơ thể. Nếu chịu tác động lâu dài của lực địa khí tiêu cực, con người có thể các chứng bệnh như: viêm sưng, tê cứng, loạn nhịp tim, hệ miễn nhiễm suy yếu, bức xúc tâm thần, sút giảm sinh lực, mệt mỏi, hiếu động, bực bội, dễ gây gổ, đau đầu, mất ngủ, ngủ chập chờn, ác mộng... Nữ bác sĩ Ulrike Banis ở Stuttgart (Đức) nghiên cứu thấy lực địa khí tiêu cực làm trẻ con đái dầm và rơi khỏi giường khi ngủ. Bà còn cho rằng có thể lực này dính líu đến hội chứng đột tử ở trẻ. Bác sĩ Bannis chuyên trị ung thư hơn 10 năm nay và nhận thấy 100% bệnh nhân của mình đều bị ảnh hưởng của lực địa khí tiêu cực. Vì vậy, điều đầu tiên bà khuyên bệnh nhân là dời chỗ ngủ qua địa điểm an toàn, sau đó mới chỉ dẫn cách chữa. Trước đây đã có những nghiên cứu về mối liên hệ giữa bệnh ung thư và lực địa khí tiêu cực. Vào thập niên 1920, làng Vilsburgh ở miền nam nước Đức có số người chết vì ung thư tăng cao bất thường. Năm 1929, Giáo sư Freiherr von Pohl lập bản đồ các mạch nước ngầm và các kênh Benker trong ngôi làng nhỏ này và những vùng có các địa mạch chạy ngang qua nhà ở. Sau khi xem hồ sơ của bệnh viện địa phương, ông nhận thấy có tất cả 54 người chết vì ung thư nằm ngủ trên những địa điểm được đánh dấu là vùng nguy hiểm. Ông còn "tìm mạch" cho làng Grafenau có số bệnh nhân ung thư ít hơn (16 người chết) và cũng thấy kết quả tương tự. Năm 1972, giáo sư Jacob Stangle xác nhận kết quả nghiên cứu của giáo sư Pohl là chính xác. Vào thập niên 1970, bà Kathe Bachler tiến hành một chương trình nghiên cứu rộng ở Áo. Bà tìm mạch cho 3.000 căn hộ ở 14 vùng nông thôn và phỏng vấn khoảng 11.000 người. Một biểu mẫu 500 bệnh nhân ung thư cho thấy bệnh nhân nào cũng bị ảnh hưởng bởi lực địa khí tiêu cực. Nhiều nhà y học khác cũng tham gia nghiên cứu mối liên hệ giữa địa khí và ung thư. Tất cả đều kết luận gần 95% trường hợp ung thư có lực địa khí tiêu cực tác động. Đương nhiên cũng có những người nằm trên kênh tiêu cực không bị bệnh ung thư và có những bệnh nhân ung thư không bị ảnh hưởng của lực tiêu cực. Theo y học cổ truyền phương Đông, khí môi trường thiên nhiên là một loại khí hỗn hợp cả tiêu cực lẫn tích cực là có âm lẫn dương. Âm có tính nới giãn, khuyếch tán, làm lạnh; dương có tính thu gom, kết tụ, làm nóng. Tùy lúc tùy nơi, khí này có phần âm trội hơn thì gọi là "khí âm", nếu dương trội hơn thì gọi là "khí dương". Xét chung, hai loại khí âm dương không tốt không xấu đối với sức khỏe chúng ta, nhưng có thể trở thành xấu hoặc tốt do cách ăn ở của con người sống trong môi trường khí đó. Thí dụ ở nước ta, khí miền Nam là dương, nếu ăn nhiều muối (thực phẩm thịnh dương) tất sẽ sinh bệnh, trái lại khí miền Bắc âm hơn, nếu ăn nhiều trái cây (thực phẩm thịnh âm) thì sức khỏe sẽ có vấn đề. Giáo sư Ohsawa, nhà y học dưỡng sinh đề xướng phương pháp thực dưỡng Macrobiotics, đã nghiên cứu thấy những người ăn thực phẩm được nuôi trồng trong thiên nhiên ở nơi mình sống với tỷ lệ âm dương quân bình và sinh hoạt điều độ đều có sức khỏe tốt, và ít bị ảnh hưởng của những biến động trong khí môi trường (chuyển mùa, thời tiết thay đổi thất thường....). Trong khi những người có cơ thể rối loạn "mất quân bình âm dương" rất dễ phát bệnh khi lọt vào môi trường khí không thích hợp. Thí dụ ung thư là bệnh thịnh âm, phát triển âm thầm trong cơ thể một thời gian dài rồi mới lộ ra triệu chứng; nhưng những người mang mầm ung thư nếu thường xuyên tiếp xúc với môi trường khí âm - lực địa khí tiêu cực - thì bệnh sẽ bộc phát sớm và nặng. Vì vậy, theo giáo sư Ohsawa, muốn chữa bệnh ung thư và những bệnh khác, ngoài việc thay đổi môi trường sống, bệnh nhân còn phải điều chỉnh cách ăn uống cho cơ thể được quân bình âm dương. Nguồn Khoa học và đời sống. Qua những đánh giá, đúc kết trên chúng ta thấy 1 điều liên hệ chặt chẽ trong bộ môn Phong thủy và Địa Nhân Sinh là không thể tách rời, nó khăng khít gắn liền như răng với môi. Chúng ta cần đánh giá nghiêm túc yếu tố môi trường, đó là nền tảng vững chắc, nền móng của môn Phong Thủy Hiện đại.1 like
-
Trung Tam có một công tác viên dịch tiêng Anh. Tôi có thể nhờ được. Nhưng tôi xem rất nhiều sách nói về khí. Bản thân cháu tôi - gọi bằng Cậu - Tiến sĩ Y khoa hiện là Trưởng Khoa Đông Y của một bệnh viện lớn thành phố, và anh rể tôi là cha của anh này là chủ nhiệm khoa Đông Y Đại học Cần Thơ, cũng cung cấp cho tôi khá nhiều sách liên quan đến Khí trong Đông y và trao đổi quan niệm Khí với tôi. Tổng hợp lại: Tôi có thể xác định rằng do không có một khái niệm căn bản về bản chất của Khí trong các cổ thư chữ Hán, mà chỉ có những miêu tả hoạt động cụ thể của Khí trong từng phương pháp ứng dụng. Trong khi "khí" là một dạng tồn tại của vật chất mà khoa học hiện đại chưa nhận thức được (các nhà khoa học Pháp đã nghiên cứu từ năm 60, mà họ mới chỉ thừa nhận ở mức tối thiểu: Có sự hiện hữu của các đường Kinh Mạch là tuyến vận động của Khí trong cơ thể con người). Bởi vậy, tôi chưa tin - vì chưa xem - ai đó có thể viết được cuốn sách hoàn chỉnh về khí. Bài viết của Nguyễn Kim - người đã xem - xác định điều này. Nhưng "khí" là một công trình nghiên cứu nội bộ của Trung Tâm và chỉ phổ biến và ứng dụng nội bộ trong Phong Thủy Lạc Việt. Những học viên giỏi có bằng cấp và nghiên cứu sâu về Lý Học Đông phương thừa nhận rằng: Một trong những tính ưu việt của Phong Thủy Lạc Việt chính là khái niệm về bản chất của Khí. Bài viết của Hà Hùng là một luận văn không bắt buộc để tìm hiểu sự vận động của khí trong khóa đào tạo - và là một luận văn xuất sắc nhất theo nhận xét của tôi - chứ không phải nói về bản chất của Khí. Nhưng vì tính khó hiểu của nó nên không bị copi đưa lên trang web khác như của Phạm Cương. Trong lớp Phong Thủy Lạc Việt có qui định không được tiết lộ bài học. Chính vì hiểu rõ bản chất của Khí, nên tôi mới xác quyết rằng: Cuộc thử nghiêm LHC sẽ thất bại. Đây không phải là một quẻ bói, mà là dựa trên hiểu biết của tôi về những vấn đề liên quan giữa khoa học hiện đại và Lý học Đông phương. Trên thực tế nó đã hỏng vì thất thoát toàn bộ khí heli, sau khi dự báo của tôi công bố 11 ngày. Nghe nói tháng 6 này người Mỹ sẽ thí nghiệm trên máy của họ. Hãy chờ kết quả. Nếu họ thật sự không hiểu vì sao họ thất bại và quan tâm đến dự báo của tôi thì đến gặp tôi.1 like
-
Sử thuyết họ HÙNG PHẦN 2 - Sử thuyết. Phân kỳ lịch sử của sử thuyết họ HÙNG: A- Thần thoại Trung- Hoa B- 18 Hùng triều C- Lịch sử họ Hùng- cổ và trung đại D- Phụ chương . A 1. Thần thoại Trung Hoa . Khi cứ suy tưởng mãi về quá khứ, đến một điểm nào đó con người bươc phải dừng lại, điểm dừng này sẽ trùng theo trình độ khoa học và trí tưởng tượng của con người. Ngày nay với khoa học tiên tiến, quá khứ hình thành loài người được đẩy ra tới 4 hay 5 triệu năm trước đây. Thần thoại Trung Hoa thể hiện vai trò to lớn của con ngưòi sánh ngang thiên địa qua chuyện ông Bàn Cổ. 1. Thời Bản Cả – Tựu Nhân: (4,5 triệu – 500.000 trước CN) Sách vở ghi là ông Bàn Cổ, nhưng Trong Hoa ngữ chử Bản Cổ chẳng có một ý nghĩa nào … không lẽ hiểu thủy tổ của Trung Hoa là ‘Cái bàn cũ’? Bản Cổ là ký âm sai của chữ Bản Cả trong tiếng Việt, về mặt ngữ nghĩa Bản Cả tương đương với ‘Hương Cả’ trong ngôn ngữ hiện nay. Bản là đơn vị hành chánh cơ sở có gốc từ Khmer: Phum, sóc. Sóc biến âm Hoa – Việt là ‘Sách’, ‘Xá’, ‘Xã’, Phum biến thành buôn, ban ở các dân tộc thuộc ngữ hệ Khmer trên cao nguyên Việt Nam. Qua miền Thượng du Bắc Việt thì biến thành bản. Bản làng là từ ghép ta hay gặp. Bản nghĩa thông thường là ‘gốc’. Bản theo hành chánh là đơn vị cơ sở. ‘Cả’ từ Việt là thứ nhất, đứng đầu, “Bản Cả” dịch với ý nghĩa lịch sử là : “Thủy tổ của cộng đồng” . Người Á Đông quan niệm rằng người tức là: Đầu đội trời chân đạp đất; hoàn toàn trùng khớp với chữ “homo erectus” của khoa học hiện đại tức người đứng thẳng, hay người đi bằng đôi chân, nếu ta đem định nghĩa theo khoa học áp dụng vào thủy tổ Bản Cả thì Bản Cả mới xuất hiện trên trái đất khoảng 4 hay 5 triệu năm; nhưng trong thần thoại thì thủy tổ con người xuất hiện cùng lúc với trời đất, vũ trụ. Ông Bản Cả xuất hiện từ “Thái hoang khi trời đất còn là một khối hỗn mang, trong đó chưa có âm thanh và ánh sáng, ông lấy cái rìu bổ vào khối hỗn mang đó, lúc lưỡi rìu chạm vào khối hỗn mang chính là vụ nổ “Big bang” thế là chất nhẹ , trong bay lên thành trời; chất đục, nặng chìm (lắng) xuống thành đất … (trong thần thoại đã thấp thoáng bóng khoa học), và vũ trụ được hình thành, ông Bản Cả chính là thủy tổ loài người.” Ta thấy Sáng thế ký Trung Hoa đã vận dụng ý niệm cơ bản của Dịch Lý trong việc tạo lập vũ trụ. Vũ trụ quan chứa trong Dịch Lý là: trời đất cùng một thể gọi là khí, sau đó khí nhẹ, trong bay lên thành Hà (trời cao), chất đục nặng trầm xuống thành Lục (đất dày). Ngay từ khởi nguyên, Dịch Lý đã gắn liền với lịch sử Trung Hoa và lịch sử Việt Nam ; hiện nay chính các học gỉa Trung quốc cũng thừa nhận tích Bàn Cổ sáng thế bắt nguồn từ truyện Bàn Hồ của các dân tộc ớ phía nam trường giang ;nói như thế chẳng khác nào đã thừa nhận dịch lý không ra đời ở cái nôi Hoàng hà của Hán tộc . Thời điểm này chỉ là lúc vượn người nhảy vọt thành người vượn, tức là người nguyên thủy, dần dần họ hoàn chỉnh hệ thống tín hiệu âm thanh tức tiếng nói và trung khu thần kinh Tiếng nói trong não bộ con người,con người đã tiến từ con người riêng rẽ hay cá thể thành con người của cộng đồng tức là hình thành xã hội nguyên thủy. Đây là bước tiến vô cùng lớn lao vì thông qua ngôn ngữ, tri thức cá nhân biến thành tri thức cộng đồng do sự truyền đạt lẫn cho nhau, khối tri thức của mỗi người lớn nhanh lên gấp ngàn lần, não bộ cũng phát triển để thích ứng, do đó tăng từ 1.000 cm3 lên 1.300 cm3, tức thể tích não của con người cận đại ‘homo sapien’. Thời kỳ này cũng được đánh dấu bằng việc con người biết chế tác và sử dụng công cụ đá đẽo, nhưng phải đợi đến khi con người có một thành tựu tuyệt vời không loài động vật nào có được đó là việc biết dùng lửa thì con người mới chính thức mới vượt qua thời “nguyên thủy”. Đó cũng chính là lúc mà Dịch gọi là: ‘Thái Cực sinh Lưỡng Nghi’, vật chất có hình thể có thể cầm nắm được là Dương; vật chất trừu tượng và không nắm bắt được gọi là Âm, lúc đó con người mới trở thành sáng suốt hay homo sapien, người cận đại. Con người hội đủ những đặc trưng trên vào khoảng cách đây 500.000 năm và trở nên con người sáng suốt. Thần thoại Trung Hoa gọi là Tựu nhân tức đạt ‘danh hiệu’ người đúng nghĩa ; còn toại nhân nghĩa là “khoan cây lấy lửa” như ghi trong sách vở không đáng để đánh dấu một giai đoạn trên bước đường trở thành người đúng nghĩa. Ý nghĩa dịch lý của thời kỳ này là con người hình thành khái niệm về bản chất của thế giới mình đang sống; chung qui cấu tạo chỉ bởi 2 chất : chắc và óp, chất chắc thì đục và nặng, chất óp thì nhẹ và trong,vật lý hiện đại gọi là vật chất và năng lượng. 2. Thời Vũ Võng – Đế họ Sào (500.000 – 20.000 trước CN) Thời Homo sapien phương Đông tiếp thời Bản Cả – Tựu nhân khoảng nữa triệu năm trước và kéo dài đến 20.000 năm, thời gian này khảo cổ học gọi là thời chuyển tiếp từ đá cũ sang đá giữa. Nguyên văn cổ thư ghi là thời dũ võng, võng là cái lưới, ngư võng là cái lưới cá. Người Việt dùng chữ ‘võng’ để chỉ vật dụng đan bằng dây, mắt lớn dùng để nằm vì hình dáng giống như cái lưới nhưng công dụng thì khác. ‘Dũ Võng’ chẳng có nghĩa gì cả, nhưng khi ta ký âm lại: Dũ → Vũ (Vũ = Vua) loài người tiến lên một bước trên đường đến văn minh, cộng đồng người từ cách sống bầy đàn chuyển sang xã hội. Bước sang xã hội loài người thì một từ mới xuất hiện, vua, Vua Võng là vị vua đầu tiên đánh dấu bước tiến con người biết chế tạo công cụ, thời đồ đá cũ chỉ có thể gọi là chế tác … vì sự gia công rất ít, bản thân vật thể đã là một công cụ, sự chế tác chỉ tăng thêm chức năng khi sử dụng, còn sang thời Vũ Võng đã là chế tạo vì bản thân tự nhiên không sinh ra thứ đó để làm công cụ cho loài người, với sự thông minh của đầu óc, đứng trước một nhu cầu và với vật liệu có sẵn trong thiên nhiên, với đôi tay khéo léo con người đã biến thứ vô dụng thành hữu dụng, đây là khả năng chỉ có nơi có người, khi chế tạo võng để bắt thú, lưới cá làm thức ăn cho mình dần dần các ý niệm, sợi ngang, sợi dọc (kinh và vỹ), khoảng trống, khoảng liền, sự nối kết bằng nút thắt, những ấn tượng ban đầu đó chính là sự khởi đầu của các dấu hiệu, nền tảng của tư duy khoa học sẽ dần hình thành về sau. Qua giai đoạn này, con người đã bước hẳn sang là con người xã hội; nếp sống và nếp nghĩ, tâm tư – tình cảm, sự suy tưởng đều mang dấu ấn của cộng đồng, đời sống hàng ngày trở thành sinh hoạt xã hội, mà mỗi cá nhân không thể tách biệt được, như thế ngoài môi trường tự nhiên từ nay con người có một môi trường khác đó là xã hội, cuộc sống không chỉ là sự tương tác giữa cá thể và tự nhiên mà có thêm tương tác mới: tương tác con người và môi trường xã hội; tương tác là tác động hai chiều trong đó bản thân con người chịu sự “uốn nắn” của xã hội và ngược lại chính xã hội cũng chịu sự cải tạo của con người, cứ như thế mà tiệm tiến từng bước một. Tương tác giữa người – tự nhiên cũng tác động đến tương tác người – xã hội và ngược lại – kết quả tổng hợp của 2 mối quan hệ là sự tiến bộ. Đấy là cơ chế vận hành: Tam Tài: Thiên – Nhân – Địa trong Dịch Lý. Tiếp theo bước tiến thời Vũ Võng đến nấc thang: Đế họ Sào. Sách sử Trung Hoa ghi là: Đế họ Sào và giải thích: Sào là cái tổ chim … con người bắt chước chim làm tổ trên cây để cư trú tránh bị thú dữ làm hại, Hữu Sào là đễ chỉ giai đoạn con người có Tổ, hữu sào là có tổ; trên đường tới văn minh của con người không thấy có đề cập đến thời làm tổ ở trên cây, đó chỉ là sự tưởng tượng để cố lý giải nghĩa đen theo mặt chữ đã được ghi trong cổ thư Trung Hoa. Có cách “giải” khác hợp với lịch sử hơn nhiều: - Hữu là ký âm sai của chữ ‘họ’ trong tiếng Việt. - sào là cây sào, 1 đoạn cây bằng tre (từ thuần Việt) Chữ ‘hữu’ = ‘họ’ chỉ thị tộc. Sào là cái cây gậy bằng tre mà các nhà thiên văn học, tiền bối người Việt dựng nên đo bóng nắng xác định thời khắc trong một ngày. Đúng y như hình khắc trên trống đồng. Dựa theo bóng nắng đổ con người xác định phương Đông và Tây tức phân chia không gian, và so với các vạch (khắc) được vạch sẵn trên mặt đất mà phân chia thời gian. Ý nghĩa dịch lý Thời Họ Sào là thời con người hình thành khái niệm về vũ trụ- Thời gian và Không gian, đánh dấu việc con người bắt đầu biết “tư duy trừu tượng” với chữ Thời vì thời gian đâu có hình tích gì, cứ hết ngày lại đêm, sáng trưa chiều tối rồi lại sáng trưa chiều tối… ý niệm về sự tuần hoàn của vũ trụ và ý niệm chu kỳ được nảy sinh: sau này là nền tảng của Dịch Lý. So sánh vị trí của mặt trời và mặt đất con người tổng hợp thành 4 ban và 4 bên. - ban sáng, ban trưa, ban chiều, và ban đêm. - bên mọc (mục), bên trên, bên chiều (chiêu) và bên dưới. Động từ mọc được chữ Nho ký âm thành ‘mục’, bên mục, Hành Mộc, tiếng Việt biến thành bên mặt còn gọi là bên phải. Chữ chiều viết thành chiêu – siêu, còn có nghĩa là bên trái, Hoa ngữ chiêu là nghỉ ngơi, ngủ nghỉ. Khi ta để tay mặt hướng về hướng Mọc (mặt trời), tay chiêu về hướng Siêu thì mắt ta nhìn về hương Nom, nom chữ Nho ký âm thành Nam. Từ xa xưa với Hà Thư (Đồ), tổ tiên người Việt đã chỉ rõ không gian 3 chiều và thời gian 1 chiều, cùng kết hợp để trở thành vũ trụ, đó là thế giới quan không khác gì với thế giới quan ngày nay theo thuyết tương đối. Chữ ‘thời khắc’ nghĩa là ‘vạch thời gian’ về nghĩa có sự cộng hưởng với cảnh đo bóng nắng được khắc trên trống đồng. Ban ngày 5 vạch gọi là 5 mồng hay mùng; tưởng tượng ra 5 vạch cho ban đêm gọi là 5 canh. 5 + 5 = 10 gọi là Thập Can hay theo từ Việt là “chục con”, con đây là con số hay con chữ, chính 10 con số là những chữ đầu tiên trong “kho chữ” của loài người sau này. Hà Thư cũng cho ta biết: ngày xưa người Việt dùng cơ số 5 chứ không phải cơ số 10 như ngày này. 4 số sinh: 1, 2, 3, 4, và một số mẹ là số 5; tạo ra (5+1) = 6; (5+2) = 7; … Hiện nay người Khmer vẫn dùng cơ số 5 này. Tóm tắt: Cổ thư Trung Hoa gọi là Vũ Võng, Hữu Sào chỉ thời con người tiến từ người nguyên thủy thành người sáng suốt thời khoa học gọi là “homo sapien”, theo niên đại khảo cổ học là giai đoạn kết thúc thời đồ đá cũ bước sang thời đồ đá giữa, cách nay khoảng 20.000 năm, khảo cổ học Việt Nam gọi là thời văn hoá Sơn Vi lấy tên một địa điểm khảo cổ ở tỉnh Phú Thọ, phiá Bắc Việt Nam. Vũ Võng, Họ Sào cung cấp cho chúng ta những thông tin rất quí giá trong việc xác định địa bàn cư trú lúc loài còn sơ khai, đó chắc chắn là vùng nhiệt đới vì cái võng lưới ban đầu chỉ có thể được đan bằng những sợi dây leo, và dây leo là sản vật của rừng nhiệt đới. Cây sào cũng là sản phẩm miền nhiệt đới, nơi có những cây tre cao tới 10 – 15m, và cây tre rất thân thiết với người Việt, người Việt có thể tạo ra mọi vật dụng hàng ngày bằng tre, từ nhà ở, thay thế cho cái nồi để nấu cơm, ghế, bàn, cho đến cái thúng, cái rổ và cây bút ban đầu chác cũng làm bằng tre vót nhọn đầu, cũng có thể chẻ tre làm lạt buộc, nối kết các vật lại với nhau, chắc chắn phương tiện thủy vận đầu tiên là bè, mảng kết bằng tre, vì cấu tạo bản thân cây tre lớn đã là cái phao tự nhiên, chỉ dân tộc thân thiết với cây tre như thế mới có thể phát sinh ra “sách thẻ tre” hay trúc thư. Tre lớn trong tự nhiên chỉ mọc ở vùng nhiệt đới, càng lên phía bắc tre càng nhỏ lại vượt qua Tứ Xuyên, Dương Tử tre chỉ to bằng cẳng tay, xa hơn về hướng bắc (hiện nay) tre chỉ bằng cỡ ngón tay người Hoa gọi là trúc. Sau này người ta đã thành công trong việc di thực tre lên phía Bắc nhưng cũng không thể có loại tre lớn được. Việc dựng cây sào đo bóng nắng để phân chia thời gian và định phương hướng vẫn còn lưu dấu trong tục dựng cây nêu ngày tết của người Việt, khoa dân tộc học đã cho thấy những điều này không hề có trong phong tục cư dân vùng Hoàng Hà – tức Hãn tộc. A 2 - thần thoại - nước họ HÙNG Nhân chủng học xác định người họ Hùng thuộc chủng Monggoloit nhánh phương nam. - Tiểu chủng Mongoloit Sống ở Bắc Trung Hoa, Mông Cổ, Siberia, và Eskimo. Riêng Triều Tiên và Nhật Bản ít nhiều đã hỗn chủng với những chủng tộc khác. - Tiểu chủng Mongoloit phương Nam quần tụ ở bờ Nam Dương Tử và ĐôngNamÁ.. gồm có 2 nhánh: + Nam Á + Nam Đảo: hay Indonesien Người Việt mang đặc trưng của cả 2 nhóm Nam Á và Nam Đảo, ở bất cứ nơi nào trên đất nước đều có mặt cả 2 nhóm trên. Sự kết hợp lâu đời và nhuần nhuyễn tới độ khó có thể phân biệt, Ngay trong một gia đình cũng có thể có mặt cả 2 loại hình Nam Á, và Nam Đảo, chuyện anh da trắng tóc thẳng (đặc điểm Nam Á), em da ngăm tóc quăn (đặc điểm Nam Đảo) là chuyện không hiếm ở Việt Nam. Nhóm Mongoloit Trung Hoa (tạm gọi như thế) sống dọc theo Hoàng Hà, từ Tây sang Đông từ khoảng thời gian cách đây từ 8.000 đến 6.000 năm, họ để lại các di tích khảo cổ học gọi là văn hoá gốm đỏ, gốm đen và sau cùng là gốm xám được phát hiện ở Hà Nam. Cách đây khoảng 6.000 năm. Phía Nam Trường Giang là nơi sinh sống của 2 nhánh thuộc tiểu chủng Nam Á và Nam Đảo, nhánh Nam Đảo đã để lại dấu ấn văn hoá dọc duyên hải Hoa Nam, nổi tiếng nhất là văn hoá khảo cổ Hà Mẫu Độ ở Phúc Kiến – Chiết Giang. Khảo cổ học đã tìm được nhiều hiện vật còn tồn trong lòng đất của 5 nền văn hoá cổ lớn ở Đông Dương và vùng liền kề mang dấu ấn niên đại từ khoảng trước 10.000 năm đến 7.000 năm trước Công Nguyên. 1. Văn hoá khảo cổ Soi Nhụ – Cái Bèo là tiền thân văn hoá Hạ Long. 2. Văn hoá Hòa Bình, nổi tiếng khắp thế giới và được các nhà khảo cổ coi như tiêu biểu cho toàn vùng Đông Nam Á. 3. Văn hóa Bắc Sơn và vùng núi phía Bắc Việt Nam, nền văn hóa này đã để lại 2 mốc của lịch sử tiến hóa của toàn vùng: đó là cái rìu bằng đá mài đầu tiên, và những mảnh gốm đầu tiên. 4. Văn hóa cổ tiêu biểu cho Miền Trung và Nam Việt bước đầu đã có những khám phá quan trọng, các nhà khảo cổ đang tiếp tục đào bới tìm kiếm, kết quả ban đầu tuy chưa nhiều lắm nhưng cũng đủ để khẳng định một nền văn hóa cổ. 5. Nền văn hóa Trung và hạ Mekong hay sông Cửu Long: chủ yếu ở vùng Đông Bắc Thái Lan và trung-nam Lào Vượt qua Sơn Vi lùi về quá khứ đến tận thời đồ đá cũ ở Việt Nam có các di chỉ Núi Đọ nổi tiếng và linh thiêng. Khi ấy con người ở chế độ thị tộc mẫu hệ, loại hình xã hội đầu của con người khi vừa bỏ qua loại hình bầy đàn và xa hơn nữa cũng có những vết tích của con người… chứng tỏ con người đã có mặt ở vùng đất này từ thời Thái cổ và liên tục phát triển cho đến tận hôm nay. Từ những câu truyện truyền miệng sau này được ghi lại ở Việt Nam và Trung Hoa, ta có thể tổng hợp để viết truyền thuyết lịch sử tức là loại hình nửa truyện nửa sử, nửa thực nửa hư . Chuyện thần tiên và con người quấn chặt vào nhau nhưng nếu khéo gở ta có thể thu lượm được những thông tin tương đối chính xác, gọi là tương đối vì dù khoa học tiên tiến đi chăng nữa thì cũng phải chấp nhận 1 sai số thời gian, chỉ đến thời Lịch Sử thì sai số này mới bằng không. Truyền thuyết lịch sử Việt Nam chủ yếu dựa trên 2 tác phẩm “Lĩnh Nam Chích Quái” và Việt Điện U Linh” được biên soạn từ thế kỷ 13 và 15 không nhắc tới thần thoại, vì vua xa nhất được biết đến là Thần Nông, mãi tới năm 2003 Nguyễn Hồng Sinh mới công bố trong cuốn “Kinh Dịch Huyền Diệu và Ứng Nghiệm” 2 vì vua trước Thần Nông: đó là Đế Hòa thường gọi Hy Thúc hay Hy Hòa, vua của Lịch pháp … đáng chú ý là tổ bà tên là NỮ HOÀNG ANH. Kế tiếp là Phục Hy hay Bào Hy có tên Việt là Vua Cả – tổ của Hư không giáo, và tác giả cho Hư không giáo chính là Dịch Lý. Đối chiếu với truyền thuyết Trung Hoa có sự trùng khớp – trước Viêm Đế Thần Nông là Bào Hy hay Phục Hy tổ của Dịch Lý. Thuyết Quái ghi: “Ngày xưa họ Bào Hy ngẩng lên xem tượng trời, cúi xuống xem nét đất, quan điểu thú chi văn, gần thì thấy chính mình… để tác dịch” chữ Vua Cả đích thị là từ dịch của Thái cao (Chữ Nho) . Trước Bào Hy là Đế Hòa hay Hy Hòa, Đế Hy Hòa làm lịch đã được ca dao Việt Nam xác nhận: “Ai về nhắn họ Hy Hòa Nhuận đêm sao chẳng nhuận vài trống canh” Sự than thở của đôi trái gái mới cưới tiếc đêm qua mau quá… 2 câu này rõ ràng nói Hy Hòa là tổ của Lịch pháp. Ở phần mới công bố này ta có được thông tin vô cùng quí giá: Tổ bà là Nữ Hoàng Anh trùng tên với 2 bà vợ công chúa con Đế Nghiêu gả cho Đế Thuấn là Nga Hoàng và Nữ Anh … cũng trùng hợp với thông tin Vua Nghiêu lệnh cho Hy Thúc … Trạch Nam Giao … từ mắt xích này ta lần ra một chuỗi sự kiện tiếp nối: Bào Hy – Thần Nông – cách 2 đời – Hoàng đế-Đế Nghiêu – Đế Thuấn – Đại Vũ. Nguyễn Hồng Sinh dựa vào tư liệu dân gian có chút lầm lẫn, Đế Hòa tức Hy Hòa không thể có trước Thần Nông và Bào Hy được, Qua 2 thông tin trên ta có thể khẳng định: Hy Hòa hay Hy Thúc chính là Đế Thuấn hay Ngu Thuấn là vị vua đã truyền ngôi cho ông Vũ, và đất Nam Giao nơi Hy Thúc đến theo lệnh vua Nghiêu chính là đất Quảng tây thuộc Lĩnh nam sau này. Nam giao là một địa danh được viết theo cấu trúc Việt văn nghĩa là vùng đất ở phía nam Giao chỉ vì thời Nghiêu Thuấn cách nay khoảng 6000 năm thì Trung hoa cổ ở tận Sơn tây không thể nào với tới đất Giao chỉ để có một Giao chỉ ở phương nam (nếu hiểu Nam giao theo cấu trúc Hán văn). Đã có Nam giao tất phải có Giao chỉ vậy Giao chỉ ở đâu ? Thực ra Giao chỉ là từ chuyển ngữ từ Việt sang Hán , nguyên gốc là Giữa hay vùng đất ở giữa thiên hạ khi dịch sang hán ngữ buộc phải tạo từ bằng cách ghép 2 chữ :giao nghĩa là giao cắt,gặp gỡ và chỉ là ký âm từ chỗ của tiếng Việt, trọn nghĩa từ ghép này là : nơi hay chỗ bốn phương giao hội vậy đã rõ Giao chỉ là 1 địa danh nên từ nay xin chấm dứt lối giải thích vớ vẩn ....2 ngón chân cai bè ra nên khi đứng chạm nhau ....,Giao chỉ hay đất Giữa là quốc thổ của người Việt từ ngàn xưa tương đương với vùng bắc –trung và bắc Việt ngày nay, người Hoa còn 1 cách gọi khác :đất Việt là đất YUÊ thực ra Yuê chỉ là thổ âm của từ Giữa mà thôi có điều lạ không hiểu tại sao Việt nho lại đọc chữ Yuê thành Việt như hiện nay phải chăng đây là 1 kiểu đi tắt...nhấn mạnh Giao là Việt và Việt cũng là Giao-Giữa.... Sử thuyết họ Hùng đặt chương thần thọai lên đầu vì đấy là thời ông Bành tổ xa xưa lắm , chuyện hoàn tòan do tưởng tượng nên ‘phi’ không và thời gian , vậy bạn đọc đừng bao giờ đặt câu hỏi ...ở đâu,lúc nào ...sẽ không có câu trả lời về nơi sinh trú của ông bàn cổ cho đến đế Hữu sào vì chỉ là thần thoại ..., huyền sử Việt không có phần này nhưng thực kỳ lạ nếu xét danh hiệu các vua thái cổ của thần thoại Trung hoa theo nghĩa trong Hoa ngữ thì chẳng có gì liên quan tới lịch sử thâm chí ngớ ngẩn ... không lẽ thuỷ tổ Bàn cổ của Trung hoa là ... cái bàn cũ ?...đế Hữu Sào là vị vua phát minh ra cách làm nhà trên ngọn cây như loài chim...?nhưng khi biên tập lại lấy Việt ngữ làm gốc như đã trình bày thì đúng là những dòng sử sâu thăm thẳm tương đương sách sáng thế ký của phương tây. Tiếp nối thần thọai là phần dã sử, dã sử được viết dựa trên truyền thuyết lịch sử tức đã có 1 phần sự thật làm nòng cốt từ đó mới hư cấu thành truyện, thêm vào những nhân vật những địa danh những tình tiết khiến câu truyện trở nên mạch lạc hấp dẫn và có ý nghĩa. Đặc biệt truyền thuyết lịch sử Việt ở thời giáp công nguyên đã được xử dựng như một phương thức đặc thù truyền lưu lịch sử đích thực cho hậu thế, đấy là những bức thông điệp nhắn gửi cho con cháu về những bất thường của lịch sử dân tộc được ngụy trang dưới lớp vỏ bọc là những chuyện hoang đường trâu ma rắn thần..., nay nếu chúng ta khéo chắt lọc sẽ thấy được những lời nhắn nhủ đó, chắc chắn là những điều vô cùng quan trọng vì nếu không thì tiền nhân chúng ta đâu phải khổ công để truyền đời như vậy, đời cha học thuộc lòng rồi kể cho đời con ... cứ như thế truyền đến ngàn năm...mong mỏi rằng sẽ có ngày dân tộc qua cơn bĩ cực con cháu sẽ giải mã được những thông điệp của quá khứ tìm lại được nguồn gốc đích thực của dòng giống mình. Trước khi đi vào phần dã sử cần thiết phải minh định ý nghĩa 1 số từ. Ở trên ta đã biết :Lãnh thổ của Hữu Hùng quốc là đất GIỮA còn dân tộc ? , theo truyền thuyết họ Hồng bàng thì Kinh dương vương đặt tên nước là “xích qủy” nghĩa là nước... quỷ đỏ ?,thực ra đó chỉ là sản phẩm của ...tam sao thất bản mà thôi, chữ quẻ đã biến thành chữ quỷ nên mất hết ý nghĩa, ‘xích quẻ’ hay ‘xích quái’ nghĩa là quẻ màu đỏ tức quẻ Ly trong bát quái của dịch lý , ly là biến âm của lửa tượng trưng cho mặt trời, ánh sáng hay sự văn minh, ý nghĩa này được kiện chứng ngay trong từ họ HỒNG bàng chính xác là ‘Hồng bang’ , chữ hồng trong Việt ngữ ngoài sự đồng nghĩa với đỏ còn có nghĩa là ngọn lửa đuốc ;cả 2 nghĩa đều có gốc từ quẻ LY. Đặc biệt người xưa đã dành hẳn 1 truyền thuyết để chỉ bảo chúng ta về điều này đó là sự tích trầu cau, 2 anh em tức 2 vạch liền biến thành cây cau ở trên và hòn đá vôi ở dưới, còn 1 nữ là vạch đứt ở giữa làm cây trầu không ..., đó chính là hình tượng qủe LY, khi phối hợp cả 3 thì tạo thành chất nước màu đỏ....trong tiếng Việt từ nước ngoài nghĩa là 1 loại vật chất còn có nghĩa là quốc gia, qủe LY và màu ĐỎ...ở đây là lần nhấn mạnh thứ 3 cốt chỉ nói một điều : chúng ta là 1 quốc gia Văn minh hay quốc gia của những người văn minh., chính 2 thành tố : chính giữa và ngọn lửa đã tạo nên từ TRUNG –HOA sau này, chính xác là TRUNG_HOẢ, trung là dịch từ giữa ,còn hoả là lửa. Đất là trung tâm của thiên hạ, và con người là người văn minh , Dân tộc ta là ánh đuốc soi đường cho thiên hạ, đấy là những gì tiền nhân nhắn bảo chúng ta về qúa khứ dòng họ Hùng. Trung hoa chỉ trở thành 1 quốc hiệu từ cuộc cách mạng Tân hợi 1911 khi ông Tôn dật Tiên tuyên bố lập nước ‘Trung hoa dân quốc’, trước đó trung hoa là từ dịch của Giữa và Lửa dùng để chỉ nước do vua trực tiếp cai trị tức nơi cầm đầu cả thiên hạ, ‘Trung hoa’ ở đây là vế đối của ‘chư hầu’ để tạo thành thiên hạ vì vậy với mỗi triều đại ta lại có 1 trung hoa khác, trung hoa nhà Chu không phải là trung hoa thời nhà Thương.v.v., ở Việt nam các vua nhà Trần cũng có khi xưng mình là Trung hoa (Việt nam sử lược- Trần trọng Kim) nên khi ta dùng các từ như trung hoa xưa hay cổ sử Trung hoa... là hoàn toàn do thói quen và không chính xác vì thời xưa làm gì có nước Trung hoa và dân tộc Trung Hoa. Ta đi vào phần dã sử của nước họ Hùng dưới ánh sáng Dịch Lý. Người họ Hùng lập quốc chính thức vào đời Hùng vương thứ 5 , triều HÙNG VŨ tức vua HÙNG , người Hoa đã tạo ra từ kép VŨ_VƯƠNG để chuyển ngữ từ VUA cuả Việt ngữ ; Vũ là mượn âm vương để chỉ ý . Đã là người thì phải có tổ có tiên nên Hùng sử có 4 triều đại tiền lập quốc tượng trưng cho cả quãng thời gian từ khi thành người đến ngày trọng đại ấy. Trên vùng đất ngày nay là đông dương cách nay 20.000 cho đến khoảng 6.000 năm là nơi sinh trú của 2 đại tộc : -Đại tộc Khương sống ở Vùng trung và hạ lưu sông mêkông hay Mễ cương. Khương là biến âm của khăng nghĩa là không đổi, đặc tính của phương tây theo dịch học, Khương→Cương.→cứng. Khăng →cang→cứng. - Đại tộc Mi sinh trú dọc theo ven biển trung - bắc Việt nam và vùng biển liền kề . Mi là biến âm của Mơi-mai ; sớm mai là lúc mặt trời mọc ở phương Đông. Phương đông còn gọi là bên mục-hành mộc người Hoa độc là mô; tất cả chỉ là biến âm cùa từ gốc là mọc trong Việt ngữ đồng nghĩa với lên hay thăng Đại tộc Khương phân hoá thành tộc Khương tây và Khương nam tức Cửu lê và Tam miêu sau này . Đại tộc Mi cũng chia thành Mi đông và Mi bắc (bắc của dịch lý tức hướng xích đạo) tức họ Thần long hay Động đình và họ Cơ của Hoàng đế sau này . Bốn tộc người thời xa xưa này được dã sử Việt coi như tổ phụ thuộc 4 phương trời về sau hợp nhất để thành dòng họ Hùng tức tổ tiên người Việt . Có thể nói tất cả người Đông nam Á ngày nay ;tùy theo sự đậm lạt của 4 dòng huyết thống kể trên mà hình thành các sắc tộc với Hình sắc bên ngoài có thể hơi khác nhau nhưng trong huyết quản thì chỉ là 1 giòng giống chung , Câu: thống nhất trong đa dạng dùng mô tả cư dân Đông nam á là hoàn toàn chính xác .1 like
-
G - Dịch lý và thời lập quốc họ HÙNG. Dịch học là ánh sáng của người họ HÙNG nên không có gì nằm ngoài nó,lịch sử cũng vậy, người họ Hùng đã kiến taọ lịch sử của mình trên cơ sở HÀ THƯ và NGŨ HÀNH, ta nhìn lại Hà thư và những vận dụng của ngũ hành: 1 - Thời tiền lập quốc. Tóm lược những thông tin rút ra được từ sách Lã thị xuân thu của Lã bất vi: -Phương số 3-8 Hà thư là :Thái cao –Bào hy vua của phương đông ứng với màu xanh hành mộc - Phương số 2-7 Hà thư là : Viêm đế- thần nông vua của phương viêm nhiệt ứng với màu đỏ hành hoả. - Phương số 4-9 Hà thư là : Thái hạo vua của phương tây ứng với màu trắng hành thổ. - Phương số 1-6 Hà thư là :xuyên húc vua của phương u huyền ứng với màu đen hành thủy. Ta thấy ngay cổ nhân Trung hoa đã kiến lập lịch sử buổi ban đầu của dân tộc mình theo HÀ THƯ. Ở đây 2 phương đông và tây đã rõ ràng chỉ cần minh định 2 phương bắc và nam; theo Lã thị xuân thu phương viêm nhiệt là phương nam là sai ; viêm nhiệt là nóng bức, bức =bắc qúa rõ, liên quan tới nóng và lửa ta còn nhiều từ khác như : hỏa viêm thượng nghĩa là lửa thì bốc lên ; ta lưu ý từ viêm và bốc, nhẹ như bấc; số 2 trong hà thư đọc là nhị chính là biến âm của nhẹ từ Việt như vậy ta thấy từ bắc nằm trong cụm từ bắc-bức- bấc-bốc là những biến âm dùng diễn tả những gì liên quan tới ngọn lửa. Vùng trời này được gọi là Viêm thiên trong cửu thiên và trên thực địa thì không thể có sự chỉ định nào khác ngoài vùng nhiệt đới hay cận xích đới, ngược với viêm thiên là huyền thiên hay phương nam,phương màu đen tiếng Việt còn gọi là Mun, người Tàu ký âm thành Man và chính người Tàu củng đã xác định đấy là phương nam qua từ kép NAM MAN tức nam mun. Một chứng lý nữa : trong vương chế Trung hoa vua luôn luôn quay mặt về hướng nam nếu là buổi thiết triều thì để nghe lời của hiền thần còn noí chung là để lắng nghe nguyện vọng của dân chúng; như vậy khi vua nhìn về hướng nam thì bản thân vua phải ở hướng bắc, quần thần và dân chúng chầu về hướng bắc, ở Trung hoa xưa vua được xem như mặt trời vậy, nên chầu vua tức chầu mặt trời tức là quay mặt về hướng xích đạo tóm lại hướng mặt trời là hướng Bắc. Tới đây đã đủ bằng chứng để kết luận : phương bắc và nam đã bị lật ngược đây là việc làm có chủ đích , có hệ thống vì không phải chỉ có phương nam bắc mà toàn bộ những thông tin cơ bản của dịch lý đều bị đảo lộn như âm dương, vạch đứt -vạch liền, các phương vị của Hà Lạc và bát quái, ngũ hành cũng cùng chung số phận; nói chung CÀN KHÔN đã bị người Hán phá nát, những điều này dần dần khi đi sâu tìm hiểu địch học họ HÙNG chúng ta sẽ nhận ra. Các cặp số của Hà thư cho ta 4 phương và trung tâm hay trung nguyên. 4 phương tượng trưng cho 4 thị tộc hay bộ lạc thời tiền lập quốc và trung nguyên là nơi hoà hợp –thống nhất các thị tộc thành dân tộc, thời gian này là thời lưỡng tính, khởi đầu là liên minh thị tộc và kết thúc là hình thành quốc gia. Quốc hiệu đầu tiên của dòng giống HÙNG là Quốc gia họ HÙNG hay HỮU HÙNG QUỐC, chữ hữu ở đây là ký âm chữ họ , quốc hiệu này biểu thị rất rõ thời lưỡng tính trên vì mang trong bản thân cả hữu lẫn quốc . - căp số ( 3-8 ) Trong hà thư chỉ phương đông phương mặt trời mọc hay mùa xuân; ý chỉ buổi bình minh của dân tộc. Truyền thuyết lập quốc người Việt gọi vị tổ phụ phương đông là ĐỘNG ĐÌNH QUÂN vua vùng Động đình hồ. Mới đây các nhà nghiên cứu Việt nam đã sưu tập được trong truyền thuyết dân gian tên 4 vì vua đầu của họ HÙNG là : VUA CẢ- THÁI CAO, THÁI VIÊM ( ĐẾ VIÊM) , THÁI KHANG VÀ THÁI TIẾT;THÁI CAO chỉ là tên chữ nho của VUA CẢ mà thôi, ta thấy đế hiệu này trùng khớp với THÁI CAO- BÀO HY của cổ sử Trung hoa, theo 1 trật tự hợp lý thì THÁI CAO chỉ là tên khác của ĐỘNG ĐÌNH QUÂN cả 2 đều mang tính biểu thị cho phương đông; chính xác phải gọi là phương động là tính chất của can BÍNH- BẤN tượng số (8) trong thập can, còn Thái cao hay Vua cả chỉ sự khởi đầu của các vua hay buổi bình minh của dân tộc.phương đông củng là phương của màu xanh và tình thương.sách Lã thị xuân thu chép vua dựa vào mộc đức mà cai trị, số ứng là số 8 là số chỉ phương đông trong Hà thư, động vật tiêu biểu là loài có vảy tức loài rồng –rắn , kỷ cuả ngài gọi là mạnh xuân kỷ. Động đình hồ ở đâu ? phần lớn những nhà nghiên cứu sử đều bị mê hoặc bởi đầm Vân mộng ở Hồ nam và xác định đấy là Động đình hồ của cổ thư, trong sách cổ của Trung hoa nói nhiều đến Chấn trạch hay Lôi trạch cả 2 đều có nghĩa là cái hồ ở phương đông ta thấy đầm Vân mộng không đủ các yếu tố theo chỉ định của ngôn ngữ vì nó nằm ở khoảng giữa đất Trung hoa..Đình hồ nghĩa là cái hồ lớn có thể hiểu là biển nên động đình hồ phải dịch sang Việt ngữ là Biển đông mới đúng, Động đình quân là vua vùng biển đông, căn cứ vào năng lực con người vào thời đại ấy thì biển đông chỉ có thể gom vào vùng vịnh bắc bộ ngày nay là hợp lý, truyền thuyết Việt nam nói Linh lang một vì vua được thờ rất nhiều đã hoá tức chết ở hồ Tây và hồn suôi về Động đình hồ ,điều này kiện chứng thêm cho sự ấn định trên. - cặp số ( 2-7 ) Số( 2-7) chỉ phương nóng bức hay hướng xích đạo là nơi cai quản của THÁI VIÊM ;tổ phụ phương lửa hay quẻ LY.sách Lã thị xuân thu và các tư liệu lịch sử Việt nam đều gọi là VIÊM ĐẾ đây là sự khập khễnh đáng tiếc , khi đã xác định là 1 tổ phụ thời tiền lập quốc phải gọi là THÁI VIÊM mới chuẩn xác và nhất quán;truyền thuyết lich sử Việt coi Thái viêm Thần nông là tổ cao nhất của mình; Đế MINH chắu 3 đời của Viêm đế Thần nông....dã sử Việt đả mở đầu như thế..., còn theo Lã thị xuân thu: Viêm đế cai trị bằng hoả đức, thần bảo hộ là hỏa thần Chúc dung, số tương ứng trong Hà thưlà số 7 hướng xích đạo cũng là màu đỏ, động vật tiêu biểu là loài lông vũ tức loài chim và nhiều sách cổ của Trung Hoa chỉ định rõ là chim khổng tước tức chim công. Thực tế ta hiểu thị tộc của Viêm đế có địa bàn sinh sống là vùng nóng nhất trong 4 thị tộc thời tiền lập quốc tức gần xích đạo nhất.Trung hoa xưa vẫn gọi miền trung Việt nam là miền bắc hộ ý nói vì đã vượt qúa xích đạo nên cửa mở về hướng bắc để đ̣ón ańh mặt trời. - cặp số (4-9) Phương tây trước đây không được nói tới trong truyền thuyết lập quốc nhưng nay đã được bổ sung là THÁI KHANG hay tổ phụ phương tây, từ khang thực ra là khăng hay khăng khăng nghĩa là không thay đổi, khăng =cang=cương=cứng là tính chất của phương tây theo dịch học: số 4 là cứng, số 9 là đinh hay tịnh, Lã thị xuân thu viết động vật tiêu biểu là loài lông mao ý nói loài sư tử , đây là cái sai rất điển hình của những người cố ý cạo sửa cổ thư vì sư tử là loài thú xa lạ với cả Đông nam á và Trung hoa, bạn có nghe nói đến sư tử á châu bao giờ chưa ?..Động vật tiêu biểu của phương tây phải là con voi vì can số 9 chỉ phương tây theo Hà thư là can: định, tịnh..;.bản thân chữ tịnh đã là con voi rồi vậy mà Có người cố ý nhập nhèm sửa đổi vì phía bắc sông Hòang hà từ cổ chí kim làm gì có voi nên họ thay bằng con sư tử , cả sư và tử đều xuất phát từ âm tsi số 4 mà thôi, số 4 việt ngữ là bốn, biến âm thành bóng ,sáng bóng hay bóng láng dịch sang Hoa ngữ là HẠO hay CHIÊU nên phương tây còn gọi là phương Chiêu, tổ phụ phương này là THIẾU HẠO. Ở trên ta đã biết khương hay cương có nghĩa là cứng rắn không thay đổi, đấy là đặc tính của phương tây cổ thư trung hoa cũng nói đến sông KHANG hay KHƯƠNG như cái nôi của người cổ, từ Khương ký âm thành Cương cho phép ta liên kết với sông MỄ CƯƠNG tức sông MÊCÔNG ngày nay. _ Cặp số ( 1-6) Việt ngữ gọi tháng 1 là tháng giêng, hoa ngữ ký âm thành giang đồng nghĩa với con sông thường được dịch thành xuyên, số 1 cũng là đơn biến âm của đen trùng khớp với huyền thiên trong cửu thiên cũng là mun màu đen tiếng Việt để tạo thành nam mun hay man, vị vua của phương này truyền thuyết dân gian Việt gọi là THÁI TIẾT, thực ra là TIẾP mới đúng, tiếp là tiếp giáp chỗ giao nhau của cũ và mới trước và sau là sự bắt đ̣ầu hay trước tiên theo nghĩa chữ giáp là đứng đầu là thứ nhất nên Thái tiết còn có tên là tiên đế, lĩnh nam trích quái gọi là bà VŨ TIÊN,ta thếy tất cả đều xoay quanh con số 1,Vũ tiên thực ra chỉ có nghĩa là vua vùng số 1 tức phương nam, vì vua của phương 1-6 này cổ sử Trung hoa gọi là XUYÊN HÚC, xuyên là con sông như ta đã biết ở trên còn Húc chỉ là ký âm sai của từ hắc nghĩa cũng là màu ̣đen.sông đen chuyển ngữ thành Xuyên húc hay Hắc Tóm lại : thời tiền lập quốc người xưa đã dựa trên Hà thư để hư cấu thành 4 vị tổ phụ của 4 phương trời, mượn danh các vua nhưng thực ra để chỉ 4 thị tộc mà sau này đã tham gia vào việc cấu thành dân tộc họ HÙNG. 2 - Thời lập quốc. Theo Cổ sử Trung hoa thì Hoàng đế và Viêm đế là hậu duệ của Thái Viêm Thần nông , đây chỉ là sự thể hiện sử tính của những con số thuộc Viêm phương theo Hà thư : 7=2+5 , số 7 chỉ Thái Viêm , số 2 là Viêm đế và số 5 là Hoàng đế hay Hùng Vũ – đế Minh HIỀN VƯƠNG vua của thị tộc CẢ nghĩa là tộc đứng đầu cổ sử Trung hoa chép thành HIÊN VIÊN của tộc CƠ đánh bại XUY VƯU vua của thị tộc CỬU LÊ ; đoạn sử này xuất phát từ cặp số 4-9 chỉ phương tây của Hà thư, xuy là âm số 4 còn cửu là số 9.Sau đó ở trận Trác Lộc Hiền vương đánh bại VIÊM ĐẾ thủ lãnh thị tộc phương ‘nóng’ thống nhất 3 tḥị tộc thành một dân tộc, dân tộc HÙNG, lập nước họ HÙNG và lên ngôi HÙNG VŨ tức VUA HÙNG , vũ chỉ là ký âm hán tự chữ vua của việt ngữ, lãnh thổ của nước họ HÙNG là đất GIỮA chuyển âm Hán ngữ thành YUÊ còn được dịch thành GIAO CHỈ, chỉ là chỗ, nơi chốn ý nói nơi giao nhau của 2 đường nam –bắc, đông tây, chữ giữa ký âm YUÊ không hiểu sao Việt nho đọc thành VIỆT. Vua Hùng dạo chơi phương nam gặp và kết hôn với con gái bà Vũ tiên hay tiên đế sinh ra LỘC TỤC, Lộc là biến âm của lục là số 6 và công thức đả ấn định trong hà thư để sinh ra Lục tộc hay Lạc tộc ; Hiên viên hay Hiền vương tên tộc là NGU chính xác là NGŨ số 5 ở trung tâm của Hà thư, lấy con bà Vũ tiên là số 1, sinh ra Lộc tục được chỉ bởi số 6;ta có: 5+1=6, sau vua HÙNG truyền ngôi cho con cả lập nên triều đế NGHI ở phương Bắc và Lộc tục được phong là vương phương Nam lấy hiệu là KINH DƯƠNG VƯƠNG, Kinh biến âm của cóng nghĩa là lạnh cũng là một tên khác của quẻ Khảm chỉ NƯỚC trong cặp đối Lửa-Nước hay phương Bắc và phương nam,nóng và lạnh còn dương chỉ là biến âm của Giêng tức số 1 của Hà thư.Giòng con cháu đế NGHI gọi là người LA tượng trưng bởi qủe LY là lửa , qủe của Viêm phương. Cổ sử Trung hoa không ‘thích’ con đường hôn nhân mà nhất định phải đánh , phải có chiến tranh và chiến thắng mới oai ...nên viết HOÀNG ĐẾ tức HÙNG VŨ đánh bại HOAN ĐÂU con của vua XUYÊN HÚC ở ĐAN THỦY, đan là biến âm của đen, Đan thủy hay HẮC THỦY cũng là con ‘sông đen’ mà thôi, HẮC THỦY là tên của sông ĐÀ xưa. HOAN ĐÂU là tổ của người MIÊU hay Hữu Miêu tức họ Miêu, chữ Miêu chỉ là ký âm sai của chữ MUN mà thôi, người Mun nghĩa là người phương nam. Tất cả người tộc Miêu đều nhận mình là người MUN. Thực tế thì chẳng có hôn nhân cũng chẳng có đánh nhau đấy chỉ là một lối ám chỉ ,diễn tả việc phát triển dân tộc HÙNG về phương nam ,ở đấy cộng sinh và hoà huyết với1 tộc người mới là người MUN kết qủa là tạo thành giòng tộc HÙNG phương nam gọi là người KINH hay CÓNG tên khác của quẻ Khảm chỉ phương nước ngược với phương lửa. LA và KINH là anh em cùng cha khác mẹ , cả 2 là con HÙNG VŨ tức vua HÙNG và đất giữa hay YUÊ cũng có Yuê-bắc và Yuê- nam, ngày nay kim chỉ nam còn được gọi là LA-KINH tức cây kim 2 đầu, 1 đầu Bắc và1 đầu Nam nhưng chỉ là 1 cây kim mà thôi . Người KINH mọi người đều biết là người VIỆT hiện nay còn người LA ? Câu ca dao sau sẽ dẫn dắt chúng ta ̣đến 1 bất ngờ to lớn: Ai ơi chớ lấy KẺ LA. Cái dưa thì khú cái cà thì thâm. Gạt bỏ ý tứ trong lối chơi chữ ‘dưa khú- cà thâm’ đi ta có được 1 thông tin quan trọng và qúy giá đó là KẺ LA, kẻ nghĩa là người , kẻ La là người La tên người Việt gọi người CHĂM hay CHÀM; thì ra La và Kinh là chỉ người Việt và người Chàm hiện nay..., người Chàm là dòng đế NGHI con cả của vua HÙNG, thật là một bất ngờ to lớn khi biết La là quẻ Ly ;Kinh là quẻ Cóng hay khảm tức quẻ lửa và quẻ nước biểu thị sự phân cực của một thể thống nhất theo luật lưỡng nghi của dịch học. Người Chàm chỉ là một phần của người La , người La hiện nay có mặt ở nhiều nơi trong vùng đông nam á và trung quốc, Lào và Thái có người LÀO hay LÃO QUA, Trung quốc có người DI LÃO hay CAĐAI và người LÊ, các từ Ly-la- lê-lão-lô..v.v chỉ là những biến âm của 1 từ gốc là LỬA, chữ Di là tàn tích của chữ NHÌ là thứ hai . DI_LÃO có 1 từ kép Đối xứng là KINH_LẠC, qủe Cóng đối với qủe Ly hay Kinh đối với Lão; Lạc biến âm của lục số 6 đối với Di biến âm của nhị số 2, 6 và 2 là 2 số đối phân cực Bắc –Nam của Hà thư. Người KINH- LẠC; ngoài người Kinh ở đất Việt hiện nay còn có dòng Bách-lộc và người Hẹ hay Hacka và người mang họ MẠC ở đất Trung quốc vì Chữ LẠC còn đọc là ḤẠC và MẠC-MẠCH, có điều lạ lùng là không hiểu sao người Tàu lại gọi người Cao ly là Mạch, có 1 sự lẫn lộn nào đó của lịch sử hay không ?. Khi hình thành nên tộc Kinh-Lạc dòng máu người họ HÙNG đã là sự hòa huyết của 3 thị tộc gốc: người dòng CẢ của phương bắc, người CỬU_LÊ của phương tây, người MUN hay MIÊU của phương nước hay nam xưa tức phương bắc ngày nay. Truyền thuyết Việt nói : KINH DƯƠNG VƯƠNG kết hôn cùng LONG _NỮ con ĐỘNG ĐÌNH QUÂN; thế là người họ Hùng đã đi hết đoạn đường mà tạo hóa sắp đặt để hòa thêm dòng máu thứ 4 vào huyết thống của mình dòng máu của LONG tộc ở phương ĐÔNG, diễn biến này được Truyền thuyết lịch sử Trung hoa viết :Vua ĐẠI VŨ lấy vợ là ĐỒ SƠN THỊ, Đồ sơn thị là người con gái ở ĐỒ_SƠN ; phải chăng là bãi biển Đồ sơn ở Hải phòng bắc Việt hiện nay ? cổ thư trung hoa có nói đến việc họ KINH XUYÊN và ĐỘNG ĐÌNH đời đời là thông gia... Cổ sử cũng cho biết khởi thủy đất trung hoa chỉ có châu ĐÀO-ĐƯỜNG hay ĐÀO- DƯƠNG, thông qua các dịch tượng ta hiểu Đào đường hay dương cũng chỉ có nghĩa là bắc - nam hay lửa và nước mà thôi, cổ sử Việt có nói đ̣ến đất Việt thường đấy chính là nói về đất Đường trên, Đường là phát âm hán việt chữ thoòng hay thường mà thôi.Con dân vua HÙNG có người LA người KINH, đất có đất Đào đất Đường hay Việt thường, căn cứ vào thư tịch cổ ta còn thấy vua cũng có 2 dòng, đế KHAI-MINH và đế MINH-KHIẾT, ông KHIẾT là tổ của người Trung hoa vùng Trường giang ta có thể suy ra đế Minh Khiết hay MINH + KHIẾT là vua gốc dòng KINH- LẠC do sự hòa huyết của đế MINH và dòng VŨ TIÊN phương nam gọi tên khác là ông KHIẾT như truyền thuyết đã nói ở trên. Khi vua HÙNG truyền ngôi cho đế NGHI ở phương bắc tức đất Đào thì quốc hiệu là nước ‘ĐÀO’ dịch sang Hoa ngữ là HỒNG BANG ký âm sai thành HỒNG BÀNG, đấy là quốc hiệu đã được mọi người VIÊT NAM mặc nhiên công nhận. Những dòng tóm lược về thời khai quốc trên đã cho thấy có sự trùng hợp hầu như hoàn toàn giữa 2 dòng sử VIỆT và HOA , sự việc này thực kỳ bí buộc ta phải đi sâu thêm để khám phá. Do lẫn lộn không phân biệt giữa Thái viêm Thần nông tổ 3 đời của đế Minh và Viêm đế một thủ lãnh bộ tộc cùng thời với đế Minh hay Hiên viên- Hiền vương đã khiến cổ sử Việt mắc sai lầm cơ bản mang tính quyết định . Vì lầm lẫn Viêm đế là thủy tổ của dòng Việt mà ...Hoàng đế Hiên Viên đã đánh bại Viêm đế...nên các sử gia người Việt đã coi Hiên Viên là kẻ xâm lăng và hủy diệt nước của người Việt . Hoàng đế Hiên Viên đã đánh bại Xuy vưu và Viêm đế thống nhất 3 bô tộc để lập nên nước họ HÙNG thời thái cổ . Chính sự thực lịch sử này khiến Trong dòng con dân của Viêm đế còn truyền tụng cho đến tận ngày nay truyền tích xâm lăng –diệt quốc của Hoàng đế Hiên Viên . Giới sử học Việt đà mắc sai lầm căn bản khi coi Hoàng đế Hiên viên là tổ của Hán tộc ....Hiên Viên chỉ là ký âm hán tự của Hiền vương – Hùng vũ là thủ lãnh của một trong ba bộ tộc đã kết hợp để làm nên họ HÙNG thủy tổ của người VIỆT ngày nay.1 like
-
B - Cổ sử Trung Hoa và những dấu? Sai lầm lớn nhất của các sử gia Hán tộc là kết cấu lịch sử dân tộc – quốc gia mình một cách máy móc thiếu biện chứng, bỏ quên yếu tố thời gian. Lãnh thổ Trung Hoa tới điểm “hạn” khoảng 1200 năm trước công nguyên, tức là mốc thời gian mà lãnh thổ không thể trương nở tự do được vì nó tiến đến một đường biên với các dân tộc, quốc gia khác, từ điểm này sự xê dịch biên giới luôn là kế quả của một cuộc chiến, với Trung Hoa từ mốc lịch sử này các cuộc chiến tranh thôn tính lẫn nhau giữa Hán tộc và lân bang đều được ghi vào sách sử. Ta thử làm một con tính đơn giản, dân số Trung Hoa đời Tần khoảng 20 triệu người, 2000 năm sau là 1.200 triệu người tức tăng 60 lần, lấy tỉ lệ này ước tính dân số nhà Hạ trước Tần 2.000 năm, vương triều đầu tiên trong Tam Đại của Trung Hoa, thì dân số Trung hoa liệu được bao nhiêu người; với số dân như vậy dàn trải trên diện tích gần bằng diện tích Trung Hoa ngày nay là điều không thể có. Lý do rất đơn giản là điều kiện vật chất kỹ thuật không cho phép, với phương tiện lưu thông chính là đôi chân thì không thể có một nhà nước mà lãnh thổ rộng tới vài triệu ki-lô mét vuông bao gồm 9 châu: Duyện, Ký, Thanh, Từ, Dự, Kinh, Dương, Lương, U như đã ấn định trên bản đồ Trung Hoa cổ; các sử gia Hán tộc đều thành thực tin rằng lãnh thổ Trung Hoa to lớn như thế vì cổ sử Trung Hoa từ thời vua Chuyên Húc (2513 –n 2345 trước CN), đời vua Nghiêu (2357 trước CN) thậm chí cả đến đời Thần Nông, một vì vua của truyền thuyêt xa xôi lắm, lãnh thổ Trung Hoa đã tiếp giáp với Giao Chỉ hay Giao Châu, cũng có sách chép là Nam Giao tức lãnh thổ Việt Nam ngày nay. Sử gia Hán tộc đã sai lầm khi tạo nên một lịch sử không có sự phát triển, quốc gia cũng chỉ là một cơ thể sống, có sinh ra, có lớn lên rồi tới điểm dừng hay hạn. Cũng như con người sinh ra chỉ khoảng 2 – 3 kg lớn lên tới độ 23 – 25 tuổi là điểm dừng thì nặng khoảng 50 – 60 kg, còn “Hán Quốc” mới khai sinh đã to bằng tuổi 20 – 25, đã có 9 châu mênh mông thiên địa …. đúng là thần nhân trong thần thoại…. Như vậy làm sao ta có thể lý giải một việc rất nhất quán trong cổ sử Trung Hoa. Liên tiếp từ thời Thần Nông tới Chuyên Húc và sau là vua Nghiêu …, kinh Thư, Thiên Nghiêu Điển viết: “vua Nghiêu mệnh hy thúc trạch Nam Giao…” Nam Giao, Giao Chỉ là một địa danh, một vùng đất đã có từ thời Thái cổ trong lịch sử Trung Hoa và liên tục cho đến đời Tống; vua Tống vẫn phong cho vua Đại Việt là: “Giao Chỉ Quận Vương” trước khi nâng cấp lên “An Nam Quốc Vương”, sự việc đó chỉ cách nay một ngàn năm và được ghi chép rõ ràng trong sách sử. Tìm lời giải đáp cho câu hỏi hóc búa nhưng kỳ thú này dẫn dắt đến một sử thuyết, và khi sử thuyết này được minh chứng sẽ làm đảo lộn toàn bộ lịch sử Trung Hoa, Việt Nam và Đông Nam Á. Chính sử Trung Hoa đều cho rằng thủy tổ dân tộc mình là Bào Hy, Thần Nông. Thần Nông là kết cấu ngôn ngữ Việt, nếu theo Hán ngữ phải viết là Nông Thần; đây không phải là trường hợp duy nhất vì ta gặp nhiều trường hợp như thế trong Ngũ Kinh, như: Đế Ất, Hậu Tắc,… Hậu Nghệ, V.v… Vậy các vua này là vua Việt hay vua Hán? Thêm vào đó các địa danh của Trung Hoa đầy dẫy ngôn ngữ Việt, như: Hồ Nam, Hồ Bắc, Sơn Đông, Sơn Tây, … Hán tự dùng ‘sơn hà’ là ‘núi’ và ‘sông’ để chỉ lãnh thổ quốc gia, như sông phương bắc, sông phương nam, núi phương tây, núi phương đông, … vậy theo Hán ngữ phải ghi là Bắc Hà, Nam Hà, Đông Sơn, Tây Sơn …, còn Hà Bắc, Hà Nam, Sơn Đông, Sơn Tây là kết cấu theo Việt ngữ? Xuất phát từ dịch học với 2 quẻ Đoài –hồ cấn – núi tượng trưng cho cái nền đất chở đỡ con người nền địa lý Trung hoa lấy sơn - hà , người Việt gọi là núi-sông để chỉ lãnh thổ quốc gia , hà là trục dọc bắc-nam nên có đất Hà bắc - Hà nam , sơn là trục ngang đông tây nên có đất Sơn đông -Sơn tây , cả Việt và Hoa đều nằm trong nền văn hóa dịch học nên đều có các tỉnh Hà bắc , Hà nam và Sơn tây ...theo ý nghĩa này , Ngặt một nỗi ...cấu trúc Hà bắc-sơn tây V.v..là cấu trúc tiếng Việt , người Tàu hiện có giải thích khác đi : Hà nam Hà bắc là 2 vùng ̣̣̣đất nằm ở bắc và nam Hoàng hà , Sơn đông Sơn tây là đất phía đông và tây của Hằng sơn như vậy ....đúng là cấu trúc Hán ngữ...., nhưng nếu đã đọc kinh thư và kinh thi ta sẽ thấy : đất phía bắc và nam Hoàng hà người Trung hoa sẽ gọi là Hoàng bắc và Hoàng nam chứ không dùng Hà bắc -Hà nam , gọi đích danh sông Hoàng để xác định vị trí chứ không dùng chữ ‘hà’ chung chung , tương tự ta có đất Hằng đông -Hằng tây chứ không có sơn đông -sơn tây , vì chỉ với chữ sơn không thì biết là sơn nào? Trung hoa có tới 5 ngọn núi thiêng còn núi không thiêng thì cả đống ...hỏi làm sao định vị ? tóm lại cũng giống như cách diễn giải .... Thần nông là người nông dân làm ruộng giỏi như thần .... đây chỉ là lối giải thích chữa cháy cho 1 sự việc không hiểu nổi mà thôi . Chỉ với hình ảnh 2 tỉnh Hà và 2 tỉnh Sơn đan chéo nhau trong 1 hình vuông ta thấy ngay việc định danh các tỉnh trên là xuất phát từ nền tảng văn hóa chứ không phải là dựa vào địa hình . Lịch sử về văn minh Trung Hoa cũng có một số điểm mà ta không hiểu nỗi. “Thời nhà Hạ (2200 trước CN) người dân đã biết ‘tát nước vào ruộng’…” rõ ràng câu này chỉ sự canh tác lúa nước; nước là điều kiện đầu tiên trong: “nước, phân, cần, giống” mà nền khoa học nông nghiệp Việt Nam đã tổng kết từ xa xưa; nước quan trọng đến nỗi “việc dẫn thủy nhập điền” được coi như một thành tựu khoa học, phản ánh trình độ văn minh của một dân tộc. Sự việc này khó hiểu ở chỗ: lãnh thổ nhà Hạ ở vùng Hoàng Hà (theo chính sử Trung Hoa) đâu có trồng được lúa nước … cây được trồng chính ở miền Bắc Trung Hoa là kê và lúa mì. Các chứng cứ về khảo cổ học và các ngành khoa học khác như nông học, thổ nhưỡng đã xác định như vậy. Ngày nay qua các di chỉ trong lòng đất, ngành khảo cổ học đã xác định được nơi sinh tụ thời cổ xưa của Hán tộc là bờ sông Hoàng Hà. Hán tộc là tộc người xây dựng được nền văn minh rất sớm, họ đã bước vào thời gọi là văn hóa gốm đỏ cách đây khoảng 8.000 năm, địa bàn của họ dịch chuyển từ tây sang đông dọc theo sông Hoàng Hà với các nền văn hoá gốm đỏ, gốm đen, rồi gốm xám. Vùng đất từ Thiểm Tây tới Hà Nam ngày nay. Vào đời Thương lãnh thổ Trung Hoa là vùng đất nằm ởgiữa 4 tỉnh: Hà Nam – Hà Bắc – Sơn Đông – Sơn Tây. Qua đời Chu thì chuyển về vùng Sơn Tây ngày nay, theo đó ta có thể xác định Hán Quốc cổ là quốc gia lục địa chưa tiến đến bờ biển; nhưng sử Trung Hoa lại ghi: “Từ đời Thương dân Trung Hoa đã biết dùng vỏ sò làm tiền để trao đổi hàng hóa…”, nên trong Hán tự đã cấu thành bộ ‘bối’ nghĩa là ‘vỏ sò’, ‘vỏ hến’ để tạo nên các từ liên quan đến việc giao thương, buôn bán … nhưng dân sinh sống sâu trong lục địa thì lấy vỏ hến, vỏ sò ở đâu ra? Sử Trung Hoa cũng ghi là vào đời Thương đã biết dùng voi trong chiến trận …, nhưng lãnh thổ nhà Thương ở vùng sông Hoàng Hà thì làm gì có voi, voi Á Châu chỉ sống ở miền xích đạo và nhiệt đới, … không lẽ sử Trung Hoa sai lầm lớn đến thế? Hai loại “vật liệu” nền tảng của văn hóa Trung Hoa là mai rùa và tre đều không phải là sản vật tự nhiên của miền Bắc Hoàng Hà. Người ta đã đào được ở An Dương thuộc phần Bắc Hoàng Hà thuộc tỉnh Hà Nam, hàng vạn mai rùa và xương thú có khắc “Hoa tự” cổ và coi đây là căn cứ để xác định trung tâm văn minh Trung Hoa … nhưng ở miền Bắc Hoàng Hà không hề có loại rùa lớn đó sinh sống, khoa học đã chỉ rõ như thế; loại rùa có mai lớn để khắc chữ chỉ sinh sống ở sông Dương Tử hay Trường Giang. Lại nữa, Dịch Lý vào đời nhà Thương được gọi là Qui Tàng Dịch là sách dịch được khắc trên mai rùa (qui = rùa; tàng = chứa). ta có thể giải thích hợp lý sự việc trên là nhà Thương trước khi chuyển về lưu vực Hoàng Hà đã có thời gian sinh tụ ở lưu vực Dương Tử hay Trường Giang và chính là ở đấy đã phát minh ra “kỹ thuật” khắc chữ trên mai rùa; sau này dù di chuyển đến địa điểm mới vẫn về chốn cũ đem mai rùa đi để sử dụng. Tương tự, tre có hàng trăm loại khác nhau; nhưng tre lớn, bản đủ rộng làm thành các thẻ để viết chữ và kết thành sách chỉ có ở vùng xích đạo và nhiệt đới, ngay cả ở Tứ Xuyên nằm trong vùng bình đới, cũng chỉ có loại tre lớn nhất gọi là tre đực hay tầm vông; thì nhà Chu ở Sơn Tây làm gì có tre lớn để làm sách, viết chữ? Đối chiếu sinh cảnh thực sự cộng thêm nghiên cứu qua ghi chép trong Kinh Thư, Kinh Thi, và Kinh Dịch ta thấy không thể xaỊ̃y ra được. Thí dụ: Đại Tượng Truyện của Quẻ Dự trong Kinh Dịch chép: “Sấm nổ trên đất, Tiên Vương dĩ tác nhạc, Sùng Đức ân tiến chi Thượng Đế dĩ phối tổ khảo…” Quẻ Dự là Quẻ Chấn chồng trên Quẻ Khôn trong quẻ gọi là Địa; Quẻ Chấn là sấm, sấm nổ trên đất là chỉ dẫn Chấn trên Khôn, nhưng cũng giúp ta hình dung cảnh đánh trống đồng. Trống đồng còn gọi là trống sấm, Quẻ Lôi, khi đánh úp trên mặt đất là Địa, âm thanh trống đồng là nhạc tế lễ, ở đây nói rõ là tế Thượng đế và sùng kính tổ tiên. Một quẻ nữa là Quẻ Tiệm nói đến ‘vũ nghi”, một nghi thức mà người tham gia lễ hội hóa trang bằng lông chim, một cảnh được khắc hoạ rõ nét trên trống đồng. Dựa trên chính sử thì chắc chắn nhà Chu chưa hề biết đến trống đồng, vì trống đồng loai I Heger chỉ tìm thấy ở Việt Nam và 2 tỉnh Vân Nam – Quảng Châu của Trung Hoa, cách Sơn Tây xa lắm. Hiện nay cách nhà nghiên cứu Trung Hoa đã phải công nhận trống đồng là vật phẩm văn hoá phi Hán, vậy tại sao hơn 2.000 năm Kinh Dịch đã biết về trống đồng, chỉ dẫn cho ta về mục đích sử dụng trống đồng (tế Thượng đế)? Cũng như đề cập đến tục hoá trang được khắc trên trống đồng? Dù vua Càn Long nhà Thanh đã tốn không biết bao nhiêu tiền để mua sách và bản đồ, mất bao công sức để tịch thu sách và bản đồ trong thiên hạ và hơn 300 quan “bác sĩ” cạo sửa suốt 10 năm trời, sửa không nỗi thì đốt cho phi tang tích, nhưng vẫn bị lọt sổ: Sách Ngự phê Thông giám Tập Lãm và Thiếu vi Thông giám, quyển Chu Ngoại Kỷ có đoạn chép (Lê Văn Siêu dịch – Việt Nam Văn Minh Sử) như sau: “Cách 1.000 năm, đến năm Tân Mão là năm thứ 6 đời vua Thành Vương nhà Chu, phía nam Giao Chỉ có người ‘Việt Thường’ sang Trung Hoa dâng bạch trĩ, qua 2, 3 lần thông ngôn nói rằng ‘đường xá xa xôi, non sông cách trở sợ rằng một lần thông sứ không hiểu tiếng nhau cho nên phải qua 3 lần thông ngôn để sang chầu’. Chu Công đáp lời: ‘Đức trạch không khắp tới nơi, người quân tử không nhận lễ sơ kiến, chính lịch không khắp tới nơi, người quân tử không nhận người ấy xưng thần.’ Người thông ngôn nói: ‘Tôi vâng mệnh những ông già (bô lão) nước tôi bảo: ‘Trời không gió dữ, mưa dầm, bể không sóng nổi đã 3 năm, hẳn là Trung Hoa có thánh nhân, sao không sang chầu.’ Chu Công đem dâng cho vua nhà Chu, để dâng lên thần linh của tiên vương, rồi đem dâng Cung điều. Đến khi sứ giả về, quên mất đường, Chu Công cho 5 cỗ biền xa, bốn mặt có diềm che đều làm cách thức chỉ nam, sứ giả đi xe ấy từ đường bể (sau này) là nước Phù Nam ở cõi đất Cao Miên, thời xưa là Lâm Ấp, đầy năm trời mới về đến nước (Việt Thường)”. Sách Thiếu Vi Thống Giám, chú giải: “Việt Thường là ‘Nam phương quốc danh, tại Giao Chỉ nam’”, có thể dịch là “tên nước nam phương, (một nước) ở phiá nam Giao Chỉ” Trong đoạn trích dẫn trên có nhiều điều phải bàn như tên nước, phương hướng nhưng điểm chính yếu thứ nhất ta cần xem xét: nhà Chu ở đâu mà sứ lại xuống thuyền về nước ở biển (sau này là) Phù Nam, Cao Miên? Rõ ràng là nhà Chu không thể ở Sơn Tây cách xa biển Phù Nam ít nhất 3.000 km. Thứ hai ta xét: nước Việt Thường không thể ở gần Cao Miên mà ở rất xa vì đi thuyền một năm mới tới. (Sách sử hiện nay cho là miền Trung Việt Nam trước đây là Việt Thường). Tới đây ta lại phải thêm một câu hỏi: Việt Thường là nước nào và ở đâu? Thêm một vấn đề nữa: Sử Trung Hoa viết về nhà Tần như sau: Nhà Tần chọn cho mình đức Thủy là đức đã thắng nhà Chu đức Hoả, màu đỏ, và nhà Tần chọn cho mình màu đen, từ ngựa tới cờ quạt đều màu đen. - Số 6: cái gì cũng số 6, trục xe 6 tấc, xe vua do 6 ngựa kéo. Tháng chọn là tháng 10, bắt đầu mùa đông, ở đây rõ ràng sử gia Trung Hoa đã vận dụng Dịch Lý vào sử, ta hãy xem: Nếu nhà Tần chọn Hành Thủy, màu đen, số 6, mà ở Thiểm Tây, Tứ Xuyên, nhà Chu không thể ở nơi nào khác ngoài Vân Nam – Quí Châu – Quảng Tây (xin xem bản đồ) tức là ở phía nam Tứ Xuyên, Thiểm Tây vì sử ghi rõ nhà Chu: đức Hoả, màu đỏ (Thực ra thì nhà Chu không phải đức Hoả và màu đỏ; sử học Trung Hoa đã cố gán ép các nguyên lý của Dịch học vào lịch sử đời Tần để phục vụ cho mục đích của họ, về mục đích của họ sẽ có phần xem xét ở phần sau; còn về nhà Chu thì đích thực ở phương Tây nên thuộc hành Kim, màu trắng). Bản đồ Trung Hoa thời Xuân Thu Chiến Quốc chắc chắn không phải do người Trung Hoa lập, lý do đơn giản trong bản đồ thời này ngoài: Vị Thủy, Hoài Thủy, Kỳ Thủy, V.v…(tức là Sông Vị, Sông Hoài, Sông Kỳ, V.v…) lại còn có cả: Hà Thủy và Giang Thủy … 2 con sông chính của Trung Hoa. Hà và Giang là gì? Không lẽ người Trung Hoa không biết điều rất ư là đơn giản đó mà còn thêm chử Thủy vào; chỉ có người không phải là người Trung Hoa tưởng là tên riêng nên mới thêm chữ Thủy vào để chỉ con sông, hay do bởi không phải là tiếng mẹ đẻ của mình nên họ mới sơ xuất do quán tính và cẩu thả khi định danh nên mới có tên 2 con sông kỳ khôi là: “Sông …… Sông” (Giang = sông và Hà = sông). Còn một thực tế khó giải thích nữa: Sông Dương Tử hay Trường Giang được coi là mốc phân ranh Bắc – Nam của Trung Hoa, theo chính sử thì trước thời Xuân Thu Chiến Quốc Trung Hoa chưa biết đến miền Nam, khảo cổ học đã xác định dân miền Hoa Bắc thuộc về chủng Mongoloit, còn Hoa Nam thuộc ngành Mongoloit phương Nam, cứ theo lịch sử thì từ Bào Hy, Thần Nông, Hoàng Đế, Hạ Vũ, Thành Thang … tất cả là người Mongoloit cùng chủng với Mãn, Mông, Kim, Liêu V.v… Như thế sẽ có một hệ quả là: những người mang đặc điểm nhân chủng nam Mongoloit không phải là người Trung Hoa? hay, họ bị diệt quốc và bị đồng hoá thành người Trung Hoa? Điều này thật khó nói vì chính họ lại là dân “đa số” ở Trung Hoa hiện nay, và đối với người Trung Hoa huyết thống là điều cực kỳ quan trọng, không có chuyện họ gọi người khác giống là tổ tiên được; ở đây cũng không thể có sự lầm lẫn, sự thực này không thể lý giải cách nào khác hơn là lịch sử Trung Hoa hiện nay là sai. Đọc sử Trung Hoa ta thấy còn nhiều bất hợp lý: Sau khi thống nhất Trung Hoa và lên ngôi, Tần Thủy Hoàng phái đại tướng Mông Điềm đem 30 vạn quân vượt Hoàng Hà chiếm vùng Hà Sáo lập thành 44 huyện; Hà Sáo là phương bắc của Hoàng Hà, theo chính sử là đất của 2 nước Yên và Triệu, mà Yên và Triệu đã bị Tần diệt quốc có nghĩa là đất của Tần; thì Hung Nô đi lối nào mà vào tận Hà Nam. Thời Chiến Quốc không có một dòng sử nào nói đến việc Hung Nô đánh và chiếm được nước Yên nước Triệu , một chi tiết nhỏ nữa trong sử ký của Tư Mã Thiên là tướng Mông Điềm sau khi chiếm được Hà Sáo đã cấm dân ở đấy thờ ….. (1 chữ đã bị xóa), dù chữ bị xóa là chữ “Phật” hay là gì đi nữa thì cũng nói đến một điều: dân ở Hà Sáo có tôn giáo khác với dân Trung Hoa nên Mông Điềm cấm; như thế họ không thể là dân nước Yên hay nước Triệu được, hay nói khác đi họ là ngoại nhân, hay là vùng bắc Hoàng Hà mà Tư Mã Thiên gọi là Hà Sáo đó không phải là đất của Yên, Triệu; suy rộng ra là trước thời Chiến Quốc, bắc Hoàng Hà không thuộc về Trung Hoa. Sử ký của Tư Mã Thiên còn ghi một việc nữa khiến người đọc không hiểu được: “Tần Thủy Hoàng sai làm một con đường từ ‘Cửu Nguyên’ chạy suốt đến ‘Vân Dương’ … sau đó sai đắp đá ở đất ‘Cử ’ thuộc Đông Hải làm cửa phía đông của Tần. Kinh đô của Tần ở tận Thiểm Tây bên bờ sông Vị gần với sa mạc tây bắc Trung Hoa, thì lấy biển ở đâu ra mà đắp đá làm cửa biển phía đông? Liên quan đến lãnh thổ Việt Nam sử ký cũng có một đoạn không thể hiểu nỗi: Lãnh thổ của Tần khi thống nhất Lục Quốc thì phía Nam đã đến miền “Bắc Hộ”… tức là miền nhà có cửa quay về hướng Bắc ý nói đã vượt qua xích đạo quá về phương Nam nên nhà mở cửa quay về hướng Bắc để đón ánh mặt trời. Các nhà nghiên cứu đều đồng nhận: miền “Bắc Hộ” là miền Trung Việt Nam ngày nay; như thế Việt Nam đã nằm trong lãnh thổ của Tần, vậy sao còn phái tới 50 vạn quân … đánh chiếm và lập thành 3 quận: Nam Hải, Quế Lâm, và Tượng Quận? Qua rất nhiều sự việc trên đã đến lúc ta mượn kết luận của những nhà nghiên cứu khoa học lịch sử và khảo cổ học Trung Hoa đưa ra một hướng nhìn mới rất táo bạo về đất nước và dân tộc Trung Hoa. Những hình khắc cảnh lễ hội, sinh hoạt trên trống đồng hoàn toàn đồng nhất với những gì mô tả trong Cửu Ca, có nghĩa là dân tộc có cảnh lễ hội được khắc trên trống đồng và được mô tả trong Cửu Ca là 1, nếu Cửu Ca, Sở Từ của dân “trống đồng” thì đương nhiên Kinh Thi và Ngũ Kinh cũng của dân “trống đồng”. Và cũng chính những nhà khoa học Trung Hoa này đã xác định: “Trống đồng là vật phẩm văn hoá phi Hoa (Hán) và là sản phẩm của những dân tộc ít người ở cực nam Trung Hoa”, đó là các dân tộc Tày, Thái, Liêu, hay Di Lão và vài dân khác… như vậy là đã thừa nhận chính những dân tộc ít người này mới là chủ nhân của Kinh Thi, mà đã là chủ nhân của Kinh Thi thì dĩ nhiên cũng là chủ nhân của Ngũ Kinh đồng nghĩa là chủ nhân của toàn bộ văn minh cổ của Trung Hoa. Chúng ta ai cũng biết Việt Nam là 1 trong 3 trung tâm của nền văn minh trống đồng, thậm chí có thể là trung tâm lớn nhất nữa. kết luận như vậy có quá vội vã không? Không đâu, cách đây vài chục năm học giả Henre Maspréso khi nghiên cứu về sinh hoạt lễ hội và phong tục tập quán của người Thái ở Việt Nam phải thốt lên: chắc chắn tổ tiên người Thái và người Trung Hoa cổ là một. Chỉ tiếc là nhận định của ông không được quan tâm và đào sâu thêm. Trước năm 1975, có một người dũng cảm lội ngược dòng đó là Linh mục Giáo sư Lương Kim Định, bằng kiến thức uyên bác và trực giác vô cùng bén nhạy ông đã dày công nghiên cứu và xuất bản cả một tủ sách về văn minh và nguồn gốc người Việt Nam… nhưng cũng chỉ là tiếng kêu trong hoang mạc… Thực may mắn trong 10 năm gần đây ngày càng nhiều người can đảm làm việc “đội đá vá trời” đó là Nguyễn Hồng Sinh với “Kinh Dịch Phục Hy huyền diệu và ứng nghiệm” xuất bản năm 2003, là Nguyễn Vũ Tuấn Anh với “Tìm về cội nguồn Kinh Dịch” xuất bản năm 2002, là Nguyễn Thiếu Dũng, là Trương Thái Du với hàng loạt bài viết ngắn …,ở ngoài nước cũng có nhiều nhà nghiên cứu đang chú ý tới vấn đề này Tất cả nhằm tìm ra nguồn gốc đích thực của người Việt Nam và văn minh Việt Nam, dù còn nhiều nhận định, kiến giải khác nhau, nhiều chứng lý chưa đủ trọng lượng, kết luận chưa hiển nhiên, chưa đủ sức thuyết phục, nhưng ít nhất công sức của các vị trên cũng đã có kết quả, tạo nên sự khởi động để nhiều người vào cuộc, số người tham gia việc “đội đá vá trời” ngày càng tăng, cứ như thế tăng lên mãi thì chắc chắn có ngày “vá được trời”.1 like